Kinh Trung bộ giảng giải

Bộ sưu tập chú giải, giảng giải 152 bài Kinh Trung bộ, của nhiều tác giả mục đích giúp người học dể dàng trong việc tiếp cận nghiên cứu và học hỏi kinh Trung bộ. BTV

Giới thiệu Trung Bộ Kinh

Hòa thượng Thích Minh Châu

 

1. Lời Nói Ðầu
(trong bản in lần thứ nhất năm 1973)

Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.

Sau khi dịch xong Kinh Trường Bộ (Digha Nikàya), Vu Lan 2516 (23-8-1972), tôi dịch tiếp Kinh Trung Bộ. Tôi dựa theo nguyên bản Pàli của Hội Pàli Text Society để phiên dịch và dùng ba bản dịch làm tài liệu. Tài liệu thứ nhất là những ghi chú bằng tiếng Anh và chữ Hán, tôi đã tự mình ghi vào bản Pàli, từng chữ, từng hàng, từng trang một, khi tôi theo học bản Pàli này, từ năm 1952 đến năm 1955 tại Hội Dharmaduta Vidhyalaya ở Colombo, Tích Lan, do Ngài Pannananda diễn giảng. Bản tài liệu thứ hai là bản dịch "The Middle Length Sayings" của Cô L. B. Horner, hội Pàli Text Society, một công trình dịch thuật rất chu toàn; và bản thứ ba là bản dịch ra tiếng Nhật của bộ Nam truyền Ðại Tạng Kinh. Thỉnh thoảng tôi tham khảo các bản kinh Hán Tạng tương đương nếu thấy cần thiết.

Vấn đề tìm được Hán tự tương đương với chữ Pàli, thật là một vấn đề nan giải. Như biết Pancak Khandha là năm uẩn, Rùpa là Sắc, Vedanà là Thọ, Sannà là Tưởng, Sankhàrà là Hành và Vinnàna là Thức, thời dịch vừa gọn, vừa nhanh. Nhưng nếu gặp những danh từ chưa có chữ Hán tương đương là cả một vấn đề thật khó khăn và nan giải.

Các bài Kinh chữ Hán tương đương trong bộ Trung A Hàm không giúp đỡ được nhiều. Ngài Sanghadeva (Tăng Già Ðề Bà) dịch Trung A Hàm vào năm 398 sau kỷ nguyên, nên nhiều danh từ Ngài dùng không được các dịch giả về sau như Ngài Huyền Trang chấp nhận. Như Vedana, Ngài Sanghadeva dịch là Giác, về sau dịch là Thọ; Savitakka, Savicara, Ngài dịch là Hữu giác, Hữu quán, về sau dịch là Hữu tầm, Hữu tứ; Phassa Ngài dịch là Cánh Lạc, về sau dịch là Xúc. Cho nên, bản Hán tạng nhiều khi tối nghĩa và dễ phát sinh hiểu lầm, nếu chúng ta không có bản Pàli tương đương.

Chúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Ðộ, Trung Hoa hay Việt Nam. Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà thấy chớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của người có mắt (Cakkhumato), không phải Ðạo của người nhắm mắt; Ðạo của người thấy, của người biết (Passato Jànato), không phải là Ðạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato). Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng nghiệm.

Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ. Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.

Tỷ kheo Thích Minh Châu
Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973


2. Lời Giới Thiệu
(trong bản in năm 1986)

Chúng tôi cho in lần thứ hai Kinh Trung Bộ Tập I, II, và III, với những mục đích chính như sau :

Chúng tôi in Kinh Trung Bộ từ năm 1973 đến năm 1975, được phiên dịch trong khoảng 1970 đến 1975 nên bản dịch có nhiều thiếu sót. Trước hết một số danh từ như Adassan trước dịch là "không hiểu rõ", nay dịch lại là "không được thấy"; Sanjànàti trước dịch là "chấp nhận", nay dịch là "tưởng tri"; Parijànàti trước dịch là "hiểu rõ", nay dịch là "liễu tri"; Abhijànàti, trước dịch là "biết rõ", nay dịch lại là "thắng tri"; Pajànàti, trước dịch là "hiểu rõ", nay dịch lại là "tuệ tri".

Một danh từ nữa cũng hay dùng sai, có thể gây hiểu lầm như chữ Kàmaguna, Hán dịch là "Dục công đức", mà công đức thường có nghĩa tốt lành, trong khi nghĩa chữ "guna" là làm "tăng trưởng lòng dục". Nên chúng tôi dịch là "Dục tăng trưởng". Danh từ dịch sai khá nhiều, nên bản in lần này dịch lại cho đúng hơn. Một sự cố gắng nữa của chúng tôi là Việt hóa một số danh từ để gần với bản sắc dân tộc hơn. Như trước dịch Trung Bộ Kinh, nay sửa lại Kinh Trung Bộ. Trước dịch kinh "Nhứt thiết lậu hoặc", nay sửa lại kinh "Tất cả lậu hoặc". Trước dịch kinh "Bố dụ" nay đổi lại kinh "Ví dụ tấm vải". Trước dịch là "Ngưu giác lâm tiểu kinh" nay dịch lại "Tiểu kinh Rừng sừng bò".

Còn đối với danh từ Pàli về tên người, tên địa danh, chúng tôi chưa tìm ra được một công thức thích hợp, nên nay chúng tôi thả lỏng vấn đề này. Ví dụ, chữ Sàvatthi, chữ Hán là Xá-vệ, dịch âm phải là Xa-vát-thi, chúng tôi chưa theo lối dịch âm được, vì cách đọc chữ Pàli có nhiều điểm giống như tiếng Việt, nên nhiều khi chúng tôi giữ tiếng Pàli. Chữ Sàriputta, theo Hán dịch là Xá-lợi-phất, theo dịch âm phải là Xa-ri-pút-ta, nhưng chúng tôi vẫn giữ Sàriputta. Còn theo Hán dịch thời quá xa với nguyên bản Pàli hay Sanskrit, chỉ ai quen với chữ Hán thời đọc và hiểu được. Ðây chưa nói đến một số danh từ thuật ngữ chuyên môn, nhất là dùng để diễn tả tiến trình đưa đến chứng quả Niết bàn, hoặc không tìm được, hoặc chưa tìm được danh từ thuật ngữ chuyên môn bên Hán tạng, thành thử một số thuật ngữ chỉ được sử dụng tạm thời, chờ đợi sự gạn lọc của thời gian hay sự bổ khuyết của chư học giả mười phương, mới có khả năng giải quyết vấn đề nan giải này.

Gần chúng ta hơn, Kinh Trung Bộ này đã nằm trong chương trình học của Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, và Tăng Ni Sinh cần có Kinh sách để học hỏi nghiên cứu, cho nên cho in lại Kinh Trung Bộ là đáp ứng nhu cầu cấp bách này. Ngoài ra Kinh Trung Bộ đang được nhiều nhà học giả, nhiều Phật tử nghiên cứu và tìm hiểu, vì chúng ta có thể nói Kinh Trung Bộ không những là cốt lõi trong Kinh Tạng Pàli mà còn diễn đạt rất súc tích và đầy đủ những định nghĩa căn bản các danh từ đạo Phật và còn diễn đạt rất phong phú và đa dạng những pháp môn tu tập đưa đến Niết bàn. Chưa học Kinh Trung Bộ là chưa nắm được tinh hoa của Ðạo Phật nguyên thủy. Chưa nghiên cứu Kinh Trung Bộ rất có thể rơi vào những lệch lạc định nghĩa các danh từ chuyên môn trong đạo Phật mà Ðức Phật đã dày công định nghĩa, mỗi khi Ngài thuyết giảng giáo lý của Ngài.

Chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt là Kinh Trung Bộ đặt nặng về phần Chánh Tri Kiến và các phương pháp tu hành, nhất là những tiến trình tu chứng đi từ Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến. Còn Kinh Trường Bộ đặt nặng phần lịch sử, có tánh cách đối ngoại đối với Bà La Môn, du sĩ ngoại đạo, Kỳ na giáo... Tăng Chi Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo pháp số từ số 1 đến số 11. Tương Ưng Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý theo đề tài. Còn đọc Kinh Trung Bộ chúng ta đi sâu vào phần giáo lý và phần hành trì, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt đến những quả vị tối cao.

Công trình phiên dịch của tôi, một mặt đáp ứng sở nguyện xuất dương tu học của tôi, một mặt xây dựng những tài liệu nghiên cứu đạo Phật cho các Học giả và Phật tử Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên trong trách nhiệm hiện tại của tôi, sự phiên dịch đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều dụng công kiên trì và liên tục, nhưng chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng những Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp Lạc này ẩn chứa trong từng chữ từng câu, tiềm tàng trong từng câu văn giọng nói, và chính Pháp Lạc đã nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịch này.

Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ "Tiểu Thừa" để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch.

Có người than kinh Pàli quá dài và có nhiều đoạn trùng điệp. Khi dịch Kinh, bao giờ tôi cũng phải kính trọng nguyên bản, và vì vậy chúng tôi không có thể tự ý lược bỏ những đoạn trùng điệp, dầu rằng nguyên bản Pàli chúng tôi phiên dịch cũng đã lược bỏ khá nhiều. Ðiều chúng ta nên nhớ là phần lớn Kinh điển được kiết tập trong các Ðại hội Kiết tập và đều do chư Tăng tụng đọc lại những đoạn các vị ấy đã ghi nhớ, và lẽ dĩ nhiên khi tụng đọc không bao giờ có chuyện lược bỏ. Lại nữa đức Phật trong khi đi truyền giáo, mỗi Kinh đều được giảng trọn vẹn trong mỗi hoàn cảnh đặc biệt và chư Tăng ghi nhớ lại không bao giờ dám lược bỏ các đoạn đã được nghe. Do đó, có nhiều đoạn trùng điệp, khó lòng lược bỏ cho được. Dầu thế nào, các đoạn trùng điệp vẫn có sự tác dụng cho người đọc, vì không gì tốt đẹp hơn là được nhắc đi nhắc lại nhiều lần những giáo lý quan trọng và những pháp tu căn bản.

Chúng tôi nay chỉ chú trọng phiên dịch, và mong dịch cho được chu toàn và đầy đủ, để làm tài liệu nghiên cứu và tu học cho các Phật tử và Học giả, chưa có một nhận xét, phê bình, so sánh đối chiếu gì. Mỗi bộ Kinh được dịch xong là những nguồn tài liệu văn hóa hết sức phong phú và quý giá cho các Học giả và các Phật tử, và hiện tại sự cố gắng duy nhất của chúng tôi là cung cấp những tài liệu văn hóa ấy.

Cho nên, với 5 bộ Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tăng Chi, Kinh Tương Ưng, Kinh Tiểu Bộ, chúng tôi nghĩ là giới thiệu được những tài liệu khá chính xác và đầy đủ để các nhà Học giả, Tăng Ni Phật tử, Sinh viên đi sâu được vào những Giáo lý và Giáo pháp căn bản, thật sự là nguyên thủy của Ðạo Phật.

Sài Gòn, ngày 8 tháng 11 năm 1986
Tỷ kheo Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh

 

 

Tổng luận Kinh Trung Bộ I Kinh số 1-50

LTS: Đáp ứng nhu cầu nghiên cứu Phật học của đông đảo độc giả, đặc biệt là đối với kinh tạng Nam truyền (Nikàya), kể từ số này, chuyên mục Phật học NSGN trân trọng giới thiệu các bài viết của Hòa thượng Tiến sĩ Thích Chơn Thiện về kinh Trung Bộ I. Sau phần Tổng luận, tác giả sẽ đi vào các bản kinh quan trọng của Trung Bộ qua 3 phần: giải thích thuật ngữ, tóm lược nội dung và lời bình. Hy vọng đây sẽ là những gợi ý hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu và vận dụng lời dạy của Đức Phật vào thực tiễn để xây dựng đời sống hạnh phúc, giải thoát ngay trong hiện tại. -- Nguyệt san Giác Ngộ

Tìm hiểu Kinh Trung Bộ I
50 bài kinh đầu

Hòa thượng Thích Chơn Thiện

TỔNG LUẬN
(Trung Bộ kinh I)

I. Tổng quát

Trung Bộ kinh I, Đại tạng kinh Việt Nam, ấn hành năm 1992, gồm có 50 kinh, chia làm năm phần. Theo nguyên bản Pàli và bản dịch tiếng Anh, Pàli Text Society, London,1987 thì có để tên gọi của từng phần:

- phần đầu gọi là Cương yếu của các pháp Căn bản;
phần hai gọi là Tiếng rống sư tử;
- phần ba không để tên gọi, chúng tôi tự để tên là Các ảnh dụ;
phần bốn và năm gọi là Phẩm song đôi.

Trong mỗi phần, nói đúng hơn phần các kinh không phân biệt phần, bản dịch của Đại tạng kinh Việt Nam có để tên một số kinh gọi là Đại kinh và Tiểu kinh. Để tránh sự nhầm lẫn ý nghĩa chữ Đại, Tiểu liên hệ đến nội dung của pháp hành, người biên soạn tập sách này sử dụng từ kinh dài (thay cho Đại kinh) và kinh ngắn (thay cho Tiểu kinh) chỉ số trang, số từ nhiều hay ít hơn của hai kinh cùng nhan đề ấy.

Bản dịch của Pàli Text Society, 1987, bàn đến khá nhiều điểm về hình thức thứ tự của "Kinh" và "Phần" trong lời tựa của dịch giả. Ở đây người biên soạn sẽ chỉ nhấn mạnh đến phần giới thiệu nội dung kinh, ghi các điểm giáo lý và pháp hành quan trọng mà người đọc cần để tâm, và có để thêm lời bàn. Ở đây, trong ý nghĩa tựa đề "Tìm hiểu Trung Bộ Kinh I", mỗi kinh chỉ giới thiệu ba phần:

Phần giải thích từ ngữ: giúp người đọc nắm được nghĩa của các từ ngữ, thuật ngữ Phật học, có chú thích thêm tiếng Pàli (nguyên bản) và Anh ngữ (dịch bản); phần Việt ngữ là phần giới thiệu của người biên soạn.

Phần nội dung bản kinh: chỉ giới thiệu các nét giáo lý pháp hành cương yếu để người đọc dễ tiếp thu; với những lời dạy của Thế Tôn mà ngưòi biên soạn thấy rằng hành giả cần đọc kỹ để phát triển "tư huệ" và "tu huệ", thì ghi lại nguyên văn của dịch bản Việt ngữ có đối chiếu với nguyên bản Pàli và dịch bản Anh ngữ.

Phần bàn thêm: người biên soạn nhấn mạnh và diễn dịch các điểm giáo lý và pháp hành cần bàn rộng, cần tập trung sự chú ý, với chủ tâm là nêu lên một số gợi ý cho người đọc.

Trên tất cả, người biên soạn thiển nghĩ rằng mỗi người đọc, mỗi người hành sau khi đọc các dịch bản và chú thích của các dịch bản, nên tự mình đọc lại nguyên bản từng dòng kinh (Pàli, Anh và Việt văn) để tự mình trực nhận nghĩa kinh và tự mình phát triển "tư huệ".

II. Các nét giáo lý đặc thù của Trung Bộ kinh I

1Phần cương yếu của các pháp căn bản (hay cương yếu về căn bản của các pháp): gồm từ kinh 1 đến kinh 10.

Khi nói "Cương yếu của các pháp căn bản" là nói căn bản của các bản kinh (Suttam) và căn bản của pháp môn tu. Khi nói "Cương yếu về căn bản của các pháp" là nói về nhận thức sự thật của các pháp (các hiện hữu). Cả hai ý nghĩa trên đều được bao hàm trong nguyên ngữ Pàli: Mùlapariyàvagga (bản dịch tiếng Anh đề: The Division of the Synopsis of Fundamentals).

1.1 Kinh số l, "Căn bản của mọi Pháp" (Mùlapariyàsuttam). Mở đầu kinh số 1, Đức Thế Tôn dạy:

Pàli: "Sabbadhammalàpariỳayam vo bhikkhave desessàmi,..."
Anh ngữ: "I will teach you, monks, the synopsis of the fundamentals of all things..."

Dịch giả Anh ngữ dịch từ dhamma là things (sự vật, các hiện hữu) và ghi chú thích cuối trang kinh rằng: từ dhamma có nhiều nghĩa: các nhân duyên; đối tượng của ý (pháp trần); các cảnh giới của tâm; và các hiện hữu.

Theo văn mạch và nội dung của bản kinh, Đức Thế Tôn đề cập đến các cấp độ hiểu biết, nhận thức của con người về đất, nước, gió, lửa; về các cõi Trời Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới; về sở văn, sở kiến, sở tư niệm, sở tri và về Niết bàn. Như thế là Ngài đề cập đến cấp độ nhận thức của con người về mọi hiện hữu, vạn hữu. Đó là các cấp độ hiểu biểt của người phàm tục (tưởng tri, thức tri và tư duy) của các bậc Hữu học (Thắng tri) và của các bậc Thánh Vô lậu (Thắng tri và Liễu tri).

Qua bản kinh, các đại, các cảnh giới, tự ngã sở dĩ hiện hữu là do tư duy hữu ngã, tư duy ngã tưởng (tưởng tri, thức tri và tư duy) của con người dựng nên. Nếu các hiện hữu được con người nhìn trực tiếp trong đại định, trong trạng thái tâm thức vắng mặt tầm, tứ, vắng mặt các tư duy ngã tưởng, thì bấy giờ con người sẽ trực tiếp thấy rõ sự thật duyên khởi của chúng. Cái thấy biết này gọi là Thắng tri, không xem các hiện hữu là ta, của ta, hay có mặt trong ta, hoặc ta có mặt trong các hiện hữu. Khi mà tâm người nhìn định tĩnh, nhất tâm, sạch hết các tham, sân, si, cấu uế, thì sẽ liễu tri các hiện hữu, thấy sự vật như thật.

Bản kinh đã nêu ra hai vấn đề cơ bản nhất của tâm thức và của cuộc đời: thấy sự thật như thật và Chân hạnh phúc (đoạn tận khổ). Bản kinh cũng đã mở ra nhận thức rằng không gian, thời gian và những gì thuộc không gian, thời gian chỉ là sự hiện hữu của các duyên; chúng không có thật; do cảm nghiệp sinh, hay do các tập quán nhìn, nghe, tư duy, cảm thọ của chúng sinh mà xuất hiện như thế này, như thế khác. Hạnh phúc hay khổ đau, minh hay vô minh cũng thế. Từ điểm cơ bản, suối nguồn này, kinh Phật mở ra đạo lộ giải thoát của Giới, Định, Tuệ, của đời sống phạm hạnh, mở ra 152 kinh Trung Bộ và nhiều kinh khác của năm Nikàya.

1.2: Kinh số 2, "Tất Cả Lậu Hoặc"' (Sabbàsavasuttam). Nếu bản kinh số 1 là nét cương yếu nhất của nhận thức "Con đường", thì bản kinh số 2 là nét cương yếu nhất về nội dung thực hiện "Con đường" Linh hồn của công phu thực hiện "Con đường" là "Như lý tác ý", tác ý đúng sự thật của các pháp; tác ý để tiêu diệt các lậu hoặc Biện pháp, chiến thuật thực hiện thì có bảy, như đã được trình bày. Từ đây, các công phu, pháp môn tu tập được triển khai thành nội dung của các kinh tiếp nối, đi vào các chi tiết, đi vào tùng bước công phu, từng giai đoạn thực hiện.

1.3: Kinh số 3 thì quyết định hướng đi "Thừa tự Pháp".

1.4: Kinh số 4 thì bàn đến hành trang cho nếp sống "viễn ly", độc cư thiền tịnh.

1.5: Kinh số 5 thì thực hiện công phu tẩy sạch cấu uế của tâm với trí tuệ chuẩn bị tốt cho các bước đi tiếp theo: thành tựu Định học và Tuệ học.

1.6: Kinh số 6, Ước nguyện, thì nêu rõ các thành tựu tu tập mà hành giả phải tự mình chứng đạt.

1.7: Kinh số 7, tương tự kinh số 5, đặc biệt giới thiệu việc thực hiện "Tứ vô lượng tâm"...

1.8: Kinh số 8, kinh Đoạn Giảm, thì hành giả khởi tâm tác ý đến tâm thanh tịnh để thay thế các tâm cấu uế; tác ý khởi tâm đến mười thiện nghiệp để ngăn cản đối trị mười ác nghiệp; tác ý khởi tâm đến mười Thánh đạo để loại trừ các tâm thuộc tà đạo... Đây là sự nuôi dưỡng tâm giác tỉnh, trí tuệ. Sự tinh cần giữ tâm hướng thượng, đi ra khỏi các vọng tâm ấy là sự nuôi lớn định lực .

l..9: Kinh số 9, Chánh Tri Kiến, thì phát triển tâm tương tự kinh 8, an trú trí tuệ thấy rõ các pháp bất thiện và gốc của bất thiện, thấy rõ các pháp thiện và gốc của pháp thiện khởi lên trong tâm cho đến khi đoạn sạch ý nghĩ: "Tôi là". Tương tự, đối với "bốn thức ăn", đối với "Tứ Thánh đế" và "Thập nhị nhân duyên". Bấy giờ hành giả thực sự có Chánh tri kiến, có lòng tin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp. Đây là công phu Thiền quán.

1.10: Tất cả các pháp hành từ kinh số 3 đến kinh số 9, và nói chung các công phu thực hiện "Con đường" (Giới, Định, Tuệ), đều được nhiếp vào công phu thực hành "Tứ Niệm Xứ" kinh số 10.

Khi tương đối thành tựu niệm lực và định lực (Tứ Sắc định), hành giả có thể hành Thiền quán để cắt đứt Kiết sử, có thể hành "Tứ vô lượng tâm" để đoạn trừ hết các lậu hoặc, có thể thực hành "Ngũ Căn", "Ngũ lực" hay "Thất Giác chi" để thành tựu Tam minh, chứng đắc Niết bàn.

Nói tóm, chỉ hai kinh đầu, hoặc chỉ mười kinh đầu của Trung Bộ kinh I đã vạch rõ toàn bộ "Con đường" dẫn đến giải thoát lậu hoặc, vượt qua bộc lưu sinh tử.

2. Phần tiếng rống sư tử: (từ kinh 11 đến kinh 20)

Do vì "Con đường" trên cần được giới thiệu cho người đời, những người đang chơi vơi giữa biển dục vọng, giữa nhiều vọng kiến, điên đảo kiến, giữa biển hý luận, ngờ vực, nên giáo lý Phật giáo cần mở ra nhiều pháp thoại, đối thoại để giới thiệu Thắng pháp. Từ kinh 11 đến kinh 20 gọi là tiếng rống sư tử: tiếng nói của Chánh pháp làm chấn động các thế tục tâm như tiếng rống sư tử làm khiếp hãi các thú rừng.

2.l: Kinh 11, Tiểu sư tử hống, giới thiệu trí tuệ của các đệ tử Đức Thế Tôn vượt lên mọi tri kiến ở đời, vượt qua Hữu Kiến và Phi hữu Kiến; giới thiệu thành tựu Tứ quả Sa môn của đệ tử Thế Tôn mà các ngoại đạo không thể thành tựu.

2.2: Kinh 12, Đại sư tử hống, thì giới thiệu trí tuệ toàn giác và các pháp thượng nhân của Thế Tôn là vô lượng: đó là Thập Như Lai lực, Tứ vô sở úy, Lục thông viên mãn.v.v...

2.3: Kinh 13, Đại kinh Khổ Uẩn, thì trình bày sự hiểu biết đặc thù của Phật giáo về các dục, các sắc, các cảm thọ. Sự hiểu biết này hoàn toàn khác biệt với các tôn giáo, triết thuyết khác.

2.4: Kinh 14, Tiểu kinh Khổ Uẩn, thì giới thiệu điều kiện để tẩy sạch dục tâm, các cấu uế của tâm, khác hẳn các chủ trương sai lạc của ngoại đạo ...

2.5: Kinh 15, tương tự kinh 14, nhắc nhở các vị Tỷ kheo quán sát, theo dõi tâm, nhanh chóng tẩy sạch các cấu uế để sớm có nhân duyên đi xa hơn vào giải thoát.

2.6: Công phu tẩy sạch cấu uế tâm lại được giới thiệu qua một thể cách khác ở kinh 16, Tâm Hoang Vu, đó là việc xóa sạch các tâm hoang vu, tâm triền phược mà các Phật tử mới vào đạo và các ngoại đạo đang vướng mắc. Kinh 16 giới thiệu thêm một bước đi mới, theo sau bước tẩy sạch tâm cấu uế, là thực hiện "Tứ thần túc", hay "Tứ như ý túc": dục định, tinh tấn định, tâm định và tư duy định để đạt đến điểm vô thượng an ổn.

2.7: Kinh 17, Khu Rừng, thì chỉ bày cách chọn trú xứ và người thân cận nào thuận cho công phu tu tập giải thoát; đơn giản nhưng thiết thực.

2.8: Kinh 18, Mật hoàn, tiếp tục giới thiệu nội dung của "Con đường" nêu trên cho một học giả ngoại đạo, rất gọn nhẹ: "Không tham ái đối với hữu và phi hữu"Công phu thực hiện cụ thể cũng rất là đơn giản: "theo dõi sáu căn, dập tắt ngay các tham ái, vọng tưởng khởi lên từ sáu căn"Giản dị, nhưng đó là một tiếng rống sư tử khác!

2.9: Kinh 19, kinh Song Tầm, Thế Tôn nói lên kinh nghiệm của Ngài về công phu loại bỏ các tư duy về dục, sân và hại, và hướng tư duy về ly dục, vô sân, vô hại. Kinh nghiệm tâm lý có giá trị, rất giá trị, ở đây là: "Khi tâm quan sát nhiều về vấn đề gì thì tâm sanh khuynh hướng về vấn đề ấy".

2.10: Kinh 20, An Trú Tầm, tiếp tục phát triển kinh nghiệm tâm lý trên, giới thiệu cách an trú tâm vào đối tượng để thực sự tiêu diệt dục tầm, sân tầm và hại tầm để nội tâm được định tĩnh. Đây là một kinh nghiệm rất cần thiết cho đời vốn bị vướng mắc vào vô số phiền não do các dục tầm, sân tầm, hại tầm ấy tạo ra. Làm chủ các tầm tâm sở là làm chủ tư duy. Làm chủ tư duy là bước đi cơ bản làm chủ đời sống của chính mình.

Mỗi kinh trong 10 kinh vừa đề cập đều đến với đời như một tiếng rống sư tử gây kinh hãi các tiếng nói dục vọng, chấp thủ kiến ở đời.

3. Phần các kinh ảnh dụ: từ kinh 21 đến kinh 30

Chuyển tải nhận thức về "Con đường" và các phương cách "thực hiện con đường" cho nhiều căn cơ khác nhau, cá nhân và tập thể, là một quá trình giáo dục vận dụng tâm lý và kỹ thuật giáo dụcĐối với đoàn thể Tăng già với nếp sống khất thực, sống chốn núi rừng, với nhiều cá nhân đến từ nhiều giai tầng xã hội khác nhau, hưởng thụ các nếp giáo dục khác nhau, công việc hướng dẫn tu hành trở nên không đơn giản. Thế Tôn đã phải chế ra Giới bổn, các Học pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật giảng dạy truyền đạt.

Bên cạnh đó, sự hiện diện và phát triển của lục phái ngoại đạo, các ác ma thường tạo ra nhiều chướng ngại tu tập mà mỗi Tỷ kheo cần phải nhiếp phục. Sự thành lập đoàn Tỷ kheo ni cũng là một vấn đề khác nữa. Do đó, sau 20 bản kinh hầu như rất đầy đủ vừa được đề cập Đức Thế Tôn đã mở ra rất nhiều pháp thoại giáo hóa trong suốt 45 năm trú thế sau ngày thành đạo.

Mười kinh đối với các ảnh dụ tiếp theo là một điển hình. Ngài đã sử dụng ảnh dụ để giúp thính chúng dễ hiểu, dễ nhớ và dạy pháp qua nhiều ngôn từ, thi thiết khác nhau để soi sáng nhận thức về Pháp và về công việc thực hành Pháp.

3.1: Kinh 21, Ví dụ cái cưa, giúp các Tỷ kheo nhớ để nhắc nhở mình nhiếp phục các tâm cấu uế, phát triển từ tâm và tuệ tâm.

3.2: Kinh 22, Ví dụ con rắn, thì nhắc nhở Tỷ kheo cẩn trọng hiểu rõ Pháp, và vai trò của Pháp. Ngộ nhận về Pháp sẽ chuốc lấy hậu quả như bắt rắn ở thân, đuôi của nó, sẽ bị rắn cắn đến mất mạng, hay đau khổ gần như mất mạng.

3.3: Kinh 23, nhắc lại mục tiêu đoạn trừ lậu hoặc của nếp sống phạm hạnh.

3.4: Kinh 24, Trạm xe, tôn giả Xá Lợi Phất lập lại mục tiêu xuất gia là để đắc "Vô thủ trước Niết bàn", mà không phải là các thành tựu của Giới, Định và Tuệ (chưa toàn giác), qua ví dụ bảy trạm xe như là các thành tựu: Giới thanh tịnh, Tâm thanh tịnh, Kiến thanh tịnh, Đoạn nghi thanh tịnh, Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, Đạo tri kiến thanh tịnh, Tri kiến thanh tịnh-tương tự phẩm kinh Hóa thành dụ, kinh Diệu Pháp Liên Hoa .

3.5: Kinh 25, Bẫy mồi, thì cảnh báo các Tỷ kheo về các ma chướng ở đời và ở nội tâm, giác tỉnh bám chặt mục tiêu giải thoát, đi suốt lộ trình thiền định cho đến định cuối cùng: Diệt thọ tưởng địnhTỷ kheo cần nghiêm túc tiêu diệt tham ái cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.

3.6: Kinh 26, Thánh cầu, thì giới thiệu con đường giải thoát mà Thế Tôn vượt qua ở hiện thể, để các Tỷ kheo học tập. Ánh sáng từ sự thật Duyên khởi sẽ chiếu rọi lộ trình đoạn diệt ái, tịnh chỉ các hành, hướng thẳng đến Niết bàn.

3.7: Kinh 27, kinh ngắn Dấu chân voi, thì giới thiệu về sự việc Bà la môn học giả, bác học tán thán Thế Tôn như là bậc đạo sư vô tỉ đương thời. Sự tán thán chưa thật sự chân thật nếu chỉ dựa vào danh tiếng, vào sự cung kính tôn trọng của những người thời danh đối với Thế Tôn, hay dựa vào giáo huấn đơn thuần của Thế Tôn. Chỉ khi nhìn thấy thành tựu giải thoát hết thảy lậu hoặc, chứng đắc Tam minh của các đệ tử của Thế Tôn thì lời tán thán "Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng khéo hành trì" mới là chân thật giá trị.

3.8: Kinh 28, kinh dài Dấu chân voi, thì giới thiệu Tứ Thánh đế là pháp nhiếp tất cả thiện

pháp. Qua đó, Tứ Thánh đế thực sự là giáo lý nền tảng của Phật giáo: Tứ đế là Duyên khởi, là Ngũ thủ uẩn và Duyên khởi, "Ngũ thủ uẩn" bao hàm đầy đủ ý nghĩa Tứ Thánh đế.

3.9: Kinh 29, kinh dài Thí dụ lõi cây, ghi lại trường hợp tu tập thối thất của Tôn giả Đề Bà Đạt Đa dẫn đến sự "phá hòa hợp Tăng", chia rẽ đoàn thể Tăng già. Nhân sự việc này, Thế Tôn nhắc nhở các Tỷ kheo không nên tự mãn trước các thành tựu Giới, Định và các tri kiến, mà phải nhất hướng tiến đến Bất động tâm giải thoát. Bất động tâm giải thoát là mục tiêu mà không phải là các danh vọng, tôn kính, lợi dưỡng.

3.10: Kinh 30, kinh ngắn Ví dụ lõi cây, ghi lại thái độ chỉ bày sự thật Chánh đẳng giác của Thế Tôn cho một Bà la môn học giả về sự kiện các giáo chủ ngoại đạo đều tự tuyên bố mình là Chánh đẳng giác: ai có thể tự mình chứng ngộ và giới thiệu con đường đi đến chứng ngộ mục tiêu phạm hạnh, Bất động tâm giải thoát, thì vị ấy có thể tuyên bố mình là Chánh đẳng giác.

Các ảnh dụ trong các kinh vừa giới thiệu đã giữ một vai trò quan trọng trong kỹ thuật khai ngộ và đánh thức tâm thức thính chúng, quan trọng đến mức ảnh dụ được dùng đặt tên bản kinh.

4. Phần các kinh song đôi (từ kinh 31 đến kinh 50)

Gọi là kinh song đôi vì có từng hai kinh kế tiếp có cùng tên (một kinh dài, một kinh ngắn): hoặc là tên của địa điểm giảng kinh, hoặc là tên của một nhân vật hỏi đạo, hoặc là tên của ví dụ trong kinh, hoặc tên tiêu đề của bản kinh, có xen kẽ vào sáu kinh riêng lẻ.

Hai mươi kinh song đôi chứa đựng các nội dung khác nhau;

4.1: Kinh 31 và 32, Sừng bò, giới thiệu các thành tựu phạm hạnh của các đệ tử thời danh : Tôn giả Anuruddha, Nandiya, Kimbila (kinh ngắn); tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Revata (Li Bà Đa) và A Nan...

4.2: Kinh 33 và 34, Chăn bò. Giới thiệu vai trò đạo sư của Thế Tôn dẫn dắt chúng đệ tử vượt qua bộc lưu, ác ma ...

4.3: Kinh 35 và 36, Saccaka, Thế Tôn hàng phục Ni-kiền-tử Saccaka, một luận sư ngoại đạo thời danh và rất kiêu ngạo. Các lập luận mánh khóe, xảo quyệt quanh co của Saccaka về chấp thủ tự ngã tan vỡ trước nhận thức như thật của Thế Tôn, như quả trứng chọi vào đá cứng; các lập luận của Saccaka về tu thân và tu tâm thì tối tăm, quờ quạng như người đi giữa đêm tối: đây là các mẩu đối thoại điển hình giữa Thế Tôn và ngoại đạo, giữa chân như và hý luận...

4.4: Kinh 37, Đoạn tận ái, Thế Tôn giảng tóm tắt cho Thiên chủ Sakka đang say đắm hưởng thụ Thiên lạc. Kinh 38, kinh dài Đoạn tận ái giảng cho Tỷ kheo Sati và chúng Tỷ kheo nhân sự kiện Tỷ kheo Sati hiểu sai về lời dạy của Thế Tôn về Thức, cho rằng Thức là luân chuyển nhưng bất biến ... với các tà kiến ấy, Sati không thể phát triển được trí tuệ, không thể đoạn trừ ái, thủ.

4.5: Kinh 39, kinh dài Xóm ngựa, minh định các pháp tác thành Sa môn. Tàm, quý; ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh; ăn uống tiết độ; chú tâm cảnh giác; chánh niệm tỉnh giác; sống viễn ly; thành tựu "Hiện tại lạc trú", chứng đắc "Tam minh".

- Kinh 40, kinh ngắn Xóm ngựa, thì minh định công phu giải thoát là chuyển hóa tâm thức do chính tâm mình thực hiện, chứ không phải do các hình thức khổ hạnh, do các nghi lễ, các chú thuật.

4.6: Kinh 41, Sàleyyaka, chỉ rõ sự thật của thân, khẩu, ý nghiệp quyết định cảnh giới đầu thai: nghiệp ác thì dẫn dắt chúng sinh, con người về ác thú, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục; nghiệp thiện thì dẫn dắt con người về thiện thú, cõi Người, Thiên giới và theo ước nguyện mà chuyển sinh.

- Kinh 42, Veranjaka, giới thiệu cùng nội dung như kinh 41 cho Bà la môn Veranjaka.

4.7: Kinh 43, kinh dài Phương quảng, là mẩu chuyện đàm đạo, trao đổi kinh nghiệm giải thoát giữa hai đại Tôn giả Mahàkotthika và Sàriputta: đặc biệt nhất là bàn về Diệt thọ tưởng định, Vô lượng tâm giải thoát, Vô sở hữu tâm giải thoát, Không tâm giải thoát và Vô tướng tâm giải thoát...

- Kinh 44, kinh ngắn Phương quảng, thì thuật cuộc đàm đạo giữa một vị A na hàm, cư sĩ Visàka và Tỷ kheo ni (A la hán). Sự cách biệt về kinh nghiệm giải thoát hiện rõ khi đề cập đến Diệt thọ tưởng định và Niết bàn...

4.8: Kinh 45 và 46, Pháp hành, giới thiệu bốn loại pháp hành, nhìn ở khía cạnh cảm thọ, hiện tại khổ đưa đến tuơng lai khổ, tuơng lai lạc; hiện tại lạc đưa đến tuơng lai lạc, tương lai khổ...

4.9: Kinh 47 Tư sát, quan sát để tự mình biết được sự thật về Chánh đẳng giác của Như Lai và xác định lòng tin đối với Ngài. Từ lòng tin Phật dẫn đến lòng tin pháp: các lời dạy của Như LaiTừ lòng tin pháp dẫn đến quyết tâm thực hiện pháp. Từ quyết tâm thực hiện pháp dẫn đến kết quả dập tắt các nguyên nhân gây ra khổ đau. Đây là trọng điểm duy nhất mà mọi bản kinh Phật đều hàm ý hướng vềCác kinh Trung Bộ đều có cùng quan điểm ấy.

4.l0: Kinh 48, Kosambì, thì nhằm xây dựng một nếp sống tránh xa các cạnh tranh, đấu tranh, xung đột, thực hiện "sáu pháp hòa kính" để mọi tu sĩ đều sống chung trong một môi trường thuận lợi cho sự nghiệp giải thoát khổ, cho công phu thực hành phạm hạnh, cho công phu thành tựu bảy loại tri kiến để đi vào Thánh lưu, bất thối chuyển đối với Niết bàn, Bất động tâm giải thoát.

4.11: Kinh 49, Phạm Thiên cầu thỉnh, thì đề cập đến sự quan tâm của Thế Tôn về Phật sự giáo hóa chư Thiên ở cõi Trời Đại Phạm. Giữa môi trường sống đẹp đẽ, thanh thoát và hầu như vắng mặt vô thường, sinh diệt, Phạm Thiên Baka liền rơi ngay vào chấp thủ kiến: chấp Thường hay chấp Hũu. Thế Tôn đã thị hiện đại thần thông trước Baka và Thiên chúng ở Đại Phạm thiên để thức tỉnh họ đi ra khỏi sự tham trước Hữu, nhổ lên gốc rễ của Hữu...

4.12: Kinh 50, Hàng ma, Tôn giả Mục Kiền Liên hàng phục ác ma, giúp ác ma khỏi địa ngục nước sôi như ác ma Dusi (tiền thân của Ngài). Kinh 50 còn để lại cho đời một niềm tin lớn: dù bị rơi vào địa ngục nước sôi một vạn năm, ác ma Dusi đã có nhân dưyên để trở thành Đại Tôn giả Mục Kiền Liên, vị đại đệ tử thứ hai của Thế Tôn Gotama, thì dù có chịu vạn khổ đau ở đời này, con người vẫn còn đang còn nhiều cơ hội giải thoát mở ra trước mắt mà Thế Tôn, Tăng già và Chánh pháp để lại. Cơ hội giải thoát của một Phật tử, một Tỷ kheo lại càng lớn hơn: đừng để đánh mất đi các cơ duyên giải thoát ấy: Gần Chánh pháp là gần cơ duyên ấy vậy.

5. Phần giáo lý hiếm được đề cập ở các kinh khác đã được đề cập ở Trung Bộ I

Đó là phần giới thiệu tu tập "Tứ vô lượng tâm": chỉ có ba kinh trong 50 kinh của Trung Bộ I có đề cập trực tiếp tới Tứ vô lượng tâm: (kinh số 7 Ví dụ tấm vải), kinh 40 (kinh ngắn Xóm ngựa) và kinh 50 (kinh Hàng ma). Đại từ, đại bi, đại hỷ và đại xả hiện ra như một vùng khí hậu bốn mùa mát mẻ của tâm thức giải thoát, ở đó đại tuệ được nuôi dưỡng và phát triển hoàn mãn. Tứ vô lượng tâm được Đức Thế Tôn giảng dạy như là Thiền quán được tu tập trên cơ sở thành tựu của Tứ Thiền Sắc định, hay trên cơ sở thành tựu Hiện tại lạc trú (từ sơ thiền đến Tứ thiền Sắc giới tâm).

Đây là điểm giáo lý mà các nhà nghiên cứu Phật học cần để tâm nghiên cứu nhiều hơn và giới thiệu rộng rãi hơn cho đời.

6. Nhận định tổng quát

Có thể nói rằng chỉ trong mười kinh đầu tiên của Trung Bộ I, con đường nhận thức và tu tập của Phật giáo đã được giới thiệu đầy đủ. Các pháp tu ấy và chánh kiến ấy trên thực tế được Thế Tôn và các đại tôn giả giảng dạy trong suốt 45 năm dưới nhiều hình thức trình bày, ngôn ngữ, thí dụ khác nhau. Tất cả vẫn là sự vận hành của Năm uẩn, Mười hai nhân duyên, tẩy sạch tâm cấu uế sống viễn ly, hiện tại lạc trú, tịch tịnh trú, biến mãn Tứ vô lượng tâm khắp mười phương để đắc Tam minh, Lục thông, hay Bất động tâm giải thoát, hoặc Vô thủ trước Niết bàn. Giản dị hơn là nội dung: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Tri kiến giái thoát.

Vô lượng ngôn từ giảng dạy và vô lượng pháp môn tu đều được bao hàm trong chừng ấy. Không thể khác, bởi vì muôn thuở con người và cả mọi chúng sinh vẫn chỉ bị ràng buộc bởi các ác tâm, hại tâm, bất thiện tâm, bởi "Ngũ cái, bởi tham đắm các cảm thọ, bởi tham ái Hữu hay Phi Hữu".

Do vì mọi người vẫn lặp đi lặp lại các khổ đau sinh khởi bởi tham lam, sân hận, si mê, nên "con đường" đối trị khổ đau được lặp lại, lặp lại mãi.

Do vì không gian, thời gian, các hiện hữu, con người và chúng sinh không thật sự có hình tướng như chúng đang là nên những câu hỏi là trả lời về chúng đều rơi vào hoang vu, hý luận. Cái gọi là chúng chỉ là vô minh, một sự hiện diện của vô lượng bi thảm, tối tăm mà sự dập tắt chúng chỉ có "Con đường". Vì thế mà Tam tạng Kinh-Luật-Luận của các bộ phái Phật giáo đều chỉ giới thiệu "Con đường". Đi là phần còn lại của những ai đang cảm nhận khổ đau.

Trước sự hiện diện của tướng trạng bất định, bất định như chưa từng hiện hữu, thì có máy móc tinh vi nào làm được công việc tìm hiểu, cân, đo, đong, đếm...?

Các hiện hữu không phải là các cá thể và chẳng bao giờ là cá thể, mà là một tràng vô tận nhân duyên, điều mà Đức Thế Tôn đã khám phá qua Duyên khởi, từ đó Ngài thành đấng Chánh đẳng giác và chuyển vận bánh xe Pháp, xây dựng vương quốc trí tuệ, vương quốc của đoạn tận Thức, đoạn tận Ái, đoạn tận Thủ, đoạn tận Hữu, đoạn tận Vô minh.

Chừng nào còn khổ đau, con người còn cần kiên nhẫn lắng nghe từng bài kinh Phật để thấy rõ "Con đường" và thực hiện "Con đường". Đây là tiếng nói siêu triết lý, siêu tôn giáo và siêu xã hội mà nhân loại đang cần./.

-ooOoo-

(Nguyệt san Giác Ngộ, số 66 &67, tháng 10 & 11-2001)

 

 

Tổng luận Kinh Trung Bộ II Kinh số 50-100

Tìm hiểu Kinh Trung Bộ II
Kinh số 51-100

Hòa thượng Thích Chơn Thiện

TỔNG LUẬN 
(Trung Bộ kinh II)
(Từ Kinh 51 đến Kinh 100)

 

I. Giới Thiệu Tổng quát

Trung bộ kinh II có năm phần, mỗi phần có 10 kinh, đó là:

1. Phần liên hệ các gia chủ (cư sĩ): từ kinh 51 đến kinh 60.
2. Phần liên hệ các vị Tỷ kheo: từ kinh 61 đến kinh 70.
3. Phần liên hệ các du sĩ: từ kinh 71 đến kinh 80.
4. Phần liên hệ các vua chúa, hoàng thân: từ kinh 81 đến kinh 90.
5. Phần liên hệ các Ba-la-môn: từ kinh 91 đến kinh 100.

1. Về các gia chủ

Trong phần gia chủ, như đã được phân tích giới thiệu ở từng kinh, bao gồm các nội dung:

- Các gia chủ tán thán trí tuệ giải thoát của Thế Tôn, tán thán Chánh pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết giảng dẫn đến đoạn tận khổ đau và tán thán Tăng già đời sống phạm hạnh thanh tịnh, khéo hành trì các lời dạy giải thoát các nghiệp của Thế Tôn.

- Giới thiệu con đường Phạm hạnh.

- Giới thiệu con đường Hữu học.

- Giới thiệu các pháp đoạn trừ các tục sự, các ác tâm, bất thiện tâm, tẩy sạch tâm cấu uế để chứng đắc "Hiện tại lạc trú" và "Tịch tịnh trú".

- Giới thiệu bốn hạng người ở đời, các loại thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp trong đó hạng người hướng dẫn đời mình theo phạm hạnh của Phật là tối thắng.

- Giới thiệu các cảm thọ, các hình thái của các loại cảm thọ, trong đó giải thoát lạc là tối thắng.

- Giới thiệu các sai lệch của các khổ hạnh của ngoại đạo, các tà kiến và tà hạnh sẽ dẫn đến khổ xứ.

- Giới thiệu các cõi Trời, giới thiệu Bố thí, Trì giới, sự nguy hiểm của các dục và lợi ích của sự xuất ly các dục lạc. Cao hơn hết và sau rốt là giới thiệu Tứ Thánh đế, Phạm hạnh.

2. Về các Tỷ kheo

- Giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, không đưa đến hại mình, hại người.

- Thực hiện nghiêm túc đời sống phạm hạnh.

- Thực hiện nếp sống độc cư, viễn ly.

- Tẩy sạch các tâm cấu uế, chứng đắc "Hiện tại lạc trú","Tịch tịnh trú", "Diệt thọ tưởng định", đắc Tam minh.

- Tuệ tri năm uẩn: "Cái nầy không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta".

- Tuệ tri khổ, vô thường, không, vô ngã của các hiện hữu.

- Tinh thần trách nhiệm giáo hóa các người mới đến với con đường phạm hạnh.

- Các quả vị, thành tựu mà một Tỷ kheo cần chứng đắc: Câu phần giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến đáo (Kiến đạo), Tín giải thoát, Tùy Pháp hành và Tùy Tín hành.

3.Về các du sĩ

Các du sĩ ngoại đạo, những người rời khỏi đời sống gia đình lên đường tìm kiếm chân lý, chân giải thoát nhưng còn phân vân mờ mịt, hay đang kẹt vào các chấp thủ kiến, thường đến yết kiến Thế Tôn để trao đổi, để tranh luận, hoặc để lắng nghe. Tựu trung trong 10 kinh kiết tập về liên hệ giữa Thế Tôn và các du sĩ ngoại đạo đề cập đến các vấn đề sau đây:

- Thế Tôn bác bỏ 10 câu hỏi siêu hình, cho rằng đó là các tà kiến, kiến hoang vu, kiến trù lâm, kiến kiết phược, kiến tranh chấp sẽ dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não.

- Thế Tôn bác bỏ chủ trương phân biệt bốn giai cấp của xã hội Ấn đương thời, phân tích cho các du sĩ thấy rõ chủ trương đó không có cơ sở thực chứng, là trống rỗng, là sai lệch với thực tại như thật, sai hẳn với thực tế.

- Phá bỏ các quan điểm chấp thường, chấp đoạn.

- Phá bỏ các chủ trương ngụy biện luận, vô nghiệp, thuyết bảy yếu tố bất biến, thuyết luân hồi tịnh hóa, thuyết bốn sự hộ trì v.v...

- Đồng thời Thế Tôn giới thiệu rõ và đầy đủ con đường Phạm hạnh dẫn đến đoạn tận khổ, dẫn đến Tam minh, Lục thông, chứng đắc lạc giải thoát.

- Bác bỏ các thuyết hưởng thụ các dục lạc; phân tích rõ về các lạc thọ, các lạc và lạc giải thoát: chỉ có lạc giải thoát ly lậu hoặc, thoát ly chấp thủ, thoát ly tham trước là tối thắng.

- Giới thiệu đủ Đạo đế: 37 phẩm trợ đạo; Thiền chỉ và Thiền quán.

4. Về các vua chúa và hoàng thân

Các vua chúa đương thời cũng thường đến yết kiến Thế Tôn để hỏi đạo, để cúng dường như các vua Bimbissàra (Tần-bà-xa-la) vua Pasenadi (Ba-tư-nặc). Trong 10 kinh của phần liên hệ các vua chúa và hoàng thân nầy, có các vấn đề sau đây được đề cập đến:

- Một kinh nói về tiền nhân của Thế Tôn Gotama dưới thời Thế Tôn Kassapa liên hệ đến vua Kiki xứ Kàsi: nói đến sự hộ trì Tăng già của cư sĩ nghèo khó, sự hộ trì Tăng già của vua Kiki...

- Hoàng thân Ratthapàla là người giàu có, danh tiếng, con một, có nhiều vợ trẻ đã xuất gia và đắc A-la-hán.

- Tiền thân của Thế Tôn Gotama là vua Makhàdeva đã trị vì theo Chánh pháp.

- Vua Madhùra đã được Thế Tôn phân tích rõ về ý nghĩa bình đẳng bốn giai cấp xã hội.

- Thái tử Bodhi đã được dạy rõ không phải lạc được chứng đắc do khổ ...

- Vua Pasenadi, vị vua đã vấn đạo khắp lục sư ngoại đạo và đã tán thán Thế Tôn, Chánh pháp và Tăng già rất mực trang nghiêm.

- Vua Pasenadi đối với Angulimàla, một tướng cướp lừng danh đã được Thế Tôn cảm hoá và đã xuất gia, đắc quả A-la-hán.

5. Về các Bà-la-môn

Các Bà-la-môn đến yết kiến Thế Tôn thì có rất nhiều, trong đó có rất nhiều vị là giáo chủ, Trưởng các Hội chúng, là các vị rất thời danh, thông rõ ba tập Vệ đà, thuận thế luận và đại nhân tướng; cũng có nhiều thanh, thiếu niên Bà-la- Môn thông thái thông rõ ba tập Vệ đà, thuận thế luận và đại nhân tướng. Họ đến để trao đổi, tranh luận với Thế Tôn.

Hầu hết họ quy hướng Thế Tôn, trở thành cư sĩ trọn đời. Có Bà-la-môn Brahmàyu rất nổi danh đã rất mực tôn kính Thế Tôn và đã đắc A-na-hàm trước khi mệnh chung. Có Ba-la-môn Sela với Hội chúng hơn hai trăm người đã xuất gia và đã đắc A-la-hán. Có Bà-la-môn Cankì rất thời danh cũng tỏ lòng rất kính ngưỡng Thế Tôn.

II. Nhận định

1. Năm mươi kinh Trung Bộ II kiết tập có năm hàng đối tượng nghe Pháp: Gia chủ; Tỷ kheo; vua chúa, hoàng tộc; các du sĩ ngoại đạo; và các Bà-la-môn. Trên thực tế, có rất nhiều đối tượng nghe Pháp đủ mọi thành phần xã hội, tuổi tác và giới tính. Tùy vào lợi ích giải thoát của từng đối tượng mà Thế Tôn dạy Pháp thích ứng.

Vốn con đường giải thoát là dành cho mọi người, không phân biệt trình độ học vấn, trí thức, giai tầng xả hội, giới tính v.v. và vốn mọi căn cơ đều có thể đoạn tận khổ đau không biệt xuất gia hay tại gia, nên tất cả các thời pháp đều chuyên chở nội dung cắt đứt tất cả nhân tố gây ra khổ đau qua nhiều bước đi thực hiện phạm hạnh.

Với hàng gia chủ, Thế Tôn cũng giới thiệu đầy đủ con đường Phạm hạnh, nhưng tùy theo đối tượng nầy, đối tượng khác, và tùy theo vấn đề mà một số gia chủ nêu ra mà Thế Tôn nhấn mạnh bước đi nầy, bước đi khác: nơi thì nhấn mạnh bước đi làm thanh tịnh thân, khẩu, ý nghiệp; nơi thì nhấn mạnh cảm thọ lạc, nơi thì giới thiệu các cõi Trời Dục giới hay Phạm Thiên; nơi thì giới thiệu giới hạn pháp môn Tứ vô lượng tâm, hay chỉ giới thiệu Bố thí, hoặc Giới uẩn, hay chỉ rõ sự nguy hiểm của các dục lạc để chế ngự tham tâm, v.v...

Với hàng Tỷ kheo, thì Thế Tôn giới thiệu đầy đủ phạm hạnh, nhưng nhấn mạnh đến nếp sống độc cư, viễn ly; nhấn mạnh đến nếp sống xuất gia, khất thực, sống thực hiện "sáu pháp hòa kính"; có đối tượng Thế Tôn dạy đầy đủ "hiện tại lạc trú", "tịch tịnh trú" và Diệt thọ tưởng để vào Tam minh; có đối tượng thì từ "hiện tại lạc trú" để vào Tam minh;  có đối tượng thì từ "hiện tại lạc trú" hành Tứ vô lượng tâm để vào Tam minh; có đối tượng thì dạy "Như lý tác ý" hay thuần Thiền quán để thành tựu "Thất Giác Chi" v.v... nhưng tất cả đều tập trung vào sự thành tựu Giới, Định, Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Tùy theo nhân duyên nói pháp mà Thế Tôn giới thiệu "Con đường" và các quả chứng cần thành tựu, cùng phương thức hành trì...

Với các du sĩ ngoại đạo, thì hẳn nhiên luôn luôn khởi đầu từ các thắc mắc, quan niệm giải thoát sai lệch của họ để chuyển vào Chánh đạo. Thế nên, các thời pháp có chuyên chở nội dung đối thoại với các hệ tư tưởng, chuyên chở thái độ mang nội dung "triết lý" (hiền triết) như là sự phân tích cho thấy rõ cái trống không của các vấn đề siêu hình, cái trống không của chủ trương phân biệt giai cấp, cái chơ vơ thiếu cơ sở của các chủ thuyết v.v... Từ đó, Thế Tôn mới giới thiệu con đường giải thoát tham ái, chấp thủ, vô minh, khổ đau mà Thế Tôn đã trải qua, đã thân chứng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Với các vua chúa hoàng thân thường quá bận rộn công việc triều chính xã hội..., các thời pháp thường không dài, không lâu, chỉ tập trung vào một số vấn đề ngắn gọn như giải đáp các thắc mắc của họ về các chủ trương của các tôn giáo, triết học đương thời; như về công đức hộ trì Chánh pháp của họ; như về việc trị quốc theo chánh pháp v.v... Nhưng qua đó con đường phạm hạnh cũng xuất hiện đầy đủ, có thể dẫn đến các quả thánh Hữu học, hay A-la-hán (như trường hợp hoàng thân Ratthapàla) ...

Với các Bà-la-môn là các nhà thông thái Vệ-đà, các Hội chủ, Giáo chủ danh tiếng, các thời pháp xẩy ra với nội dung cũng na-ná với các thời pháp của các du sĩ ngoại đạo. Tại đây, sự nhiếp nhục các Bà-la-môn ấy của Thế Tôn đã gây nên một ảnh hưởng rất lớn khiến quần chúng hướng về quy ngưỡng Thế Tôn ngày càng đông đảo, phát triển nhanh chóng. Các Bà-la-môn thường rất khó có thể đối thoại với Thế Tôn, bậc đã chứng ngộ, chứng đạt sự thật hoàn toàn, giữa khi họ chỉ có vốn liếng của tư duy, của lòng tin thiếu cơ sở, của kinh nghiệm tâm thức rất giới hạn.

Tất cả 50 kinh nói trên là những bài học rất quý cho xã hội đương thời, và cho cả nhiều thời đại về sau cho đến ngày nay và mai sau, trên đường tìm kiếm chân lý và chân hạnh phúc.

Ở đây đòi hỏi nhà nghiên cứu Phật học không phải giỏi về ngôn ngữ, từ ngữ mà là sự thể nghiệm tâm lý.

Giá trị các kinh chỉ có thể khai mở khi nào các nhà nghiên cứu thấy rõ mối nguy hiểm, hiểm họa của dục vọng (ham muốn các thứ dục lạc trần thế), của tư duy đầy ắp ngã tưởng; chỉ khi nào họ tẩy sạch các tâm cấu uế; chỉ khi nào họ nhiệt tình khát vọng "hiện tại lạc trú", "tịch tịnh trú" và trí tuệ nhìn rõ sự thật của thế giới vô sở hữu, vô hộ, vô chủ nầy.

Giá trị của giáo lý Phật giáo là giá trị thực hiện "Con đường", là giá trị loại trừ khổ đau trong hiện tại.

2. Qua 50 kinh đề cập ở trước, ta thấy rằng Bà-la-môn giáo và Lục Sư ngoại đạo đã từng phát triển mạnh gây một ảnh hưởng rất lớn ở miền Bắc Ấn. Nếu xem các ảnh hưởng ấy là những gì nền tảng của văn hoá Ấn đương thời thì sự xuất hiện của Thế Tôn, Phật Giáo, như là một nhân tố làm lung lay nền tảng ấy, mà có nhà nghiên cứu gọi là làm đảo ngược truyền thống của dân Ấn (muốn ám chỉ làm đảo ngược truyền thống phân biệt giai cấp). Thực tế, tiếng nói của Phật giáo như là tiếng rống sư tử dưới chân Hi-mã làm bừng sáng dậy nền văn hóa của các tiểu quốc ở Bắc Ấn. Âm vang của tiếng rống trí tuệ cao vời ấy đã lan khắp thế giới cho đến nay, đang là niềm hy vọng của những giấc mơ tốt đẹp nhất của trái đất, và đang chờ đợi sự tham vấn của các nhà văn hóa lớn như các cuộc tham vấn của các Bà-la-môn thời danh đến với đức Phật.

3. Mười kinh liên hệ đến vua chúa, hoàng thân, - ngoài các mối liên hệ tốt đẹp giữa các vua, hoàng tộc và Tăng già trong các kinh khác, trong đó có một kinh thuật mối liên hệ giữa Thế Tôn Kassapa và vua Kiki trong quá khứ, nói lên sự liên hệ và hộ trì tốt đẹp của chính quyền dành cho Giáo hội của Thế Tôn. Đây là mối liên hệ có tính biểu mẫu và truyền thống tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc truyền bá, phát triển Phật giáo.

4. Hai mươi kinh liên hệ các du sĩ ngoại đạo và các Bà-la-môn là một nội dung phong phú của tài liệu nghiên cứu sự khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo, triết thuyết phi Phật giáo, đồng thời nói lên nét giáo lý đặc thù của Phật giáo: con đường tự thực nghiệm thực tại như thật của mỗi cá nhân trong hiện tại: không có một sự thưởng phạt, hay một sự can thiệp nào từ bên ngoài; con đường chuyển đổi tâm lý từ dục đến vô dục; từ chấp thủ ngã đến vô thủ trước, từ cấu uế đến thanh tịnh, từ khổ đến lạc và giải thoát, trí tuệ giải thoát. Tất cả ở trong tầm nỗ lực và nắm bắt của con người.

5. Về các bước đi giải thoát dành cho cư sĩ và tu sĩ trong 20 kinh còn lại đã được xác định rõ ràng:

5.1. Tẩy sạch cấu uế tâm.

5.2. Từ bỏ dục lạc để đi vào lạc của "hiện tại lạc trú" của bốn Sắc định.

5.3- Từ đệ tứ Sắc định dẫn tâm vào Tam minh.

- Từ đệ tứ Sắc định đi vào Tứ vô lượng tâm để vào Tam minh.
- Từ đệ tứ Sắc định đi vào "Tịch tịnh trú" và "Diệt thọ tưởng định" để đắc liền Tam minh.
- Từ sơ thiền Sắc định cho đến tam thiền Vô sắc, hành Tứ vô lượng tâm để đoạn tận lậu hoặc.
- Từ sơ thiền Sắc định đến tam thiền Vô sắc, hành "Thiền quán" về ba hay bốn pháp ấn để cắt đứt các kiết sử.
- Có thể hành "như lý tác ý" từ bước đầu tẩy sạch tâm cấu uế để dần dần thành tựu Thất giác chi, đoạn tận khổ.

Đó là công phu chuyển đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý từ cấu sang tịnh, đại tịnh. Đó là lộ trình đoạn trừ các ngăn che tâm thức khỏi sự thật của vạn hữu, dành cho mỗi người thực hiện, mà không nói về, bàn về hay nghĩ về.

Tất cả trên đây là nội dung để mỗi cá nhân tự mình trầm tư và quyết định bước đi giải thoát...

Tổng luận Kinh Trung Bộ III Kinh số 101-152

TỔNG LUẬN 
Trung Bộ Kinh III
(Từ Kinh 101 đến Kinh 152)

Tìm hiểu Kinh Trung Bộ III
Kinh số 101-152

Hòa thượng Thích Chơn Thiện

 

I. Tổng quát

Trung Bộ Kinh III gồm có 52 kinh, trong đó có 23 kinh Thế Tôn giảng tại tịnh xá Cấp Cô Độc, ở Thắng Lâm, thành Xá Vệ (Sàvatthì); chín kinh giảng ở tịnh xá Trúc Lâm (Ràjagaha); bốn kinh giảng tại Lộc Mẫu Giảng Đường (Sàvatthì); bốn kinh giảng tại các nơi dân chúng Thích Ca (Sakka); một kinh giảng ở Trùng Các Giảng Đường (Vesalì); một kinh giảng tại Kusinara (địa phương Thế Tôn nhập Niết Bàn); số còn lại giảng tại các nơi khác nhau khác.

Năm mươi hai kinh được phân ra năm phần:

1. Phần một (từ kinh 101 đến kinh 110): Phần Thị Trấn Các Sakka.
2. Phần hai (từ kinh 111 đến kinh 120): Phần Bất Đoạn
3. Phần ba (từ kinh 121 đến kinh 130): Phần Không Tánh
4. Phần bốn (từ kinh 131 đến kinh 142): Phần Phân Tích
5. Phần năm (từ kinh 143 đến kinh 152): Phần Lục Xứ

II. Đặc tính của năm phần trên

1. Phần một ( từ kinh 101 đến kinh 110): Nhiều kinh đối thoại với các Bà-la-môn ngoại đạo, chỉ rõ các tà kiến của ngoại đạo.

2. Phần hai: Phần Bất Đoạn

- Kinh 120: đặc biệt nói đến sự toại ý chọn cảnh giới thác sanh ...
- Kinh 111:đặc biệt Thế Tôn giới thiệu về Thánh Giải thoát của tôn giả Sàriputta...
- Kinh 112: đặc biệt Thế Tôn dạy cách tìm hiểu sự thật về tuyên bố chứng đắc A-la-hán của một Tỷ Kheo...
- Kinh 113: đặc biệt nhấn mạnh giá trị giải thoát tâm và tuệ, mà không phải là giá trị xã hội, dòng họ xuất thân, tiếng tăm, địa vị (chân nhân và phi chân nhân)
- Kinh 114: Thế Tôn dạy các điểm nên và không nên hành trì...
- Kinh 115: Rất đặc biệt giới thiệu về sự vắng mặt sợ hãi, thất vọng và hoạn nạn ở người hiền trí...
- Kinh 116: Tối đặc biệt: Thế Tôn đề cập đến 500 Bích Chi Phật (Paccekabuddha)...
- Kinh 117: Giới thiệu rất đặc biệt về Thập Chánh Đạo (hay Thánh Chánh Định...) với hai dòng:

* Thập thánh đạo hữu lậu ...
* Thập thánh đạo vô lậu ...

- Kinh 118: Tại đây "Nhập Tức Xuất Tức Niệm" (hay Niệm xứ) được giới thiệu rất chi tiết, đầy đủ và rất nền tảng của công phu thành tựu Đạo đế...
- Kinh 119: Giới thiệu rất đặc biệt, đặc biệt hơn nhiều kinh khác, về cảm nhận của hành giả về hỷ, lạc qua bốn sắc định ...

3. Phần ba: Phần Không Tánh

Phần nầy có nhiều giáo lý tuyệt đặc biệt:

- Kinh 121 và kinh 122: Giới thiệu an trú Không tánh (emptiness) như là Phạm trú, Thánh trú, Đại nhân trú và Phật trú, rất hệt với tư tưởng Tánh Không của Phật Giáo Phát Triển...
- Kinh 123: Đặc biệt giới thiệu các pháp hi hữu của Thế Tôn...
- Kinh 124, 125, 126: Liên hệ Phật Giáo và giáo lý ngoại đạo (đối chiếu)...

4. Phần bốn: Phần Phân Tích

Toàn 10 kinh nói lên đặc tính "Phân tích" (vibanga) của giáo lý Phật giáo nói chung, và của 10 kinh thuộc phần nầy nói riêng...

- Kinh 131, 132, 133, 134: giới thiệu pháp tu thiền quán rất ngắn gọn, rất đặc biệt như là bản kinh Nhật tụng cần thiết nhất của một tu sĩ Phật Giáo...
- Kinh 135, 136: đặc biệt giới thiệu giáo lý về Nghiệp (Kamma)...
- Kinh 137: Bản kinh nầy rất đặt biệt phân tích về hai dòng cảm thọ của người tu: một dòng thế gian, dòng kia là dòng xuất ly. Bản kinh cũng nói lên sự khác biệt giữa Lạc và Lạc Thọ...
- Kinh 138: Rất ngắn nhưng giới thiệu đủ một lộ trình đoạn tận khổ...
- Kinh 139: Đặc biệt giới thiệu thái độ và ý nghĩa "chỉ thuyết pháp mà không tán thán hay chỉ trích" của một Tỷ kheo...
- Kinh 140: Giới thiệu thái độ sống và nói pháp tuyệt vời giản dị của Thế Tôn...
- Kinh 141: Đây là một trong rất ít kinh mà nhà nghiên cứu Phật học thấy rằng: Sinh tiền Thế Tôn đã xác nhận tôn giả Xá-Lợi-Phất và Mục Kiền Liên có khả năng thay thế Thế Tôn để chuyển vận Bánh xe Pháp và hướng dẫn Tăng già...
- Kinh 142: Nói về pháp cúng dường, và công đức cúng dường cá thể và tập thể...

5. Phần năm: Phần Lục Xứ

Phần nầy rất đặc biệt và rất cần thiết cho công phu thiền quán hằng ngày, và công phu hộ trì các căn, rất trí tuệ và rất thiết thực... Đây là nội dung hành trì dành cho các căn cơ trí tuệ...

III. Tổng luận

1. Với 20 kinh đầu của Trung Bộ Kinh I là đã đầy đủ cho một Tỷ kheo có nhận thức rõ về sự thật của cuộc đời, con người, hạnh phúc và khổ đau, nhận thức rõ về các hành động của thân, khẩu, ý dẫn đến hại mình, hại người, hại cả hai, hay lợi mình, lợi người, lợi cả hai, dẫn đến khổ đau hay hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Riêng Trung Bộ Kinh III, cũng lập lại nội dung của 20 bản kinh đầu ấy, nhưng được Thế Tôn giảng dạy với ngôn ngữ khác biệt và bằng phương cách khác biệt. Điểm đặc biệt về giáo lý của Trung Bộ Kinh 3 nổi bật một số điểm tiêu biểu như được trình bày trong phần tiếp theo dưới đây.

2. Điểm giáo lý nổi bật tiêu biểu trong Trung Bộ III:

2.1. Có một số kinh trình bày dưới dạng thức "tổng thuyết" và "biệt thuyết"; phần biệt thuyết do các tôn giả đại đệ tử của Thế Tôn triển khai. Đây có thể được xem là điểm bàn rộng mở đầu cho các bộ luận về sau.

2.2. Trung Bộ III có nhiều kinh nhấn mạnh đến an trú "Không tánh" như là Phạm trú, Thánh trú, Phật trú mà quá khứ, hiện tại và vị lai đều thế.

2.3. Phần Lục xứ, Thập Nhị xứ, Thập bát giới, Ngũ uẩn; Ngũ đại, Lục đại, 18 Thọ v.v... được nhiều kinh Trung Bộ III đề cập rất phong phú, đa dạng, minh bạch giúp cho người đọc thấy rõ sự phát triển văn huệ của tự thân, tâm lắng, nghiệp tiêu (ít, nhiều) ngay tại thời xem kinh; và giúp người đọc thấy rõ ràng công phu giải thoát, mà nếu muốn, đang ở trong tầm với của mình.

2.4. Địa bàn tu tập, qua Trung Bộ III, tự hiện rõ nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc và 18 thọ: giác tỉnh từ các xúc, các thọ là điểm khởi động của giải thoát mà mỗi người có thể cảm nhận ngay trong hiện tại.

2.5. Trung bộ III cũng đề cập rất rõ các nét cương yếu về giáo lý về Nghiệp (Kamma) như đã được đề cập điển hình ở kinh "phân biệt nhỏ" và "phân biệt lớn" về Nghiệp. Tại đây, hai kinh nầy, có thể là tiếng nói đại diện cho Trung Bộ Kinh (toàn tập) cắt nghĩa về sự sai biệt giữa những cá nhân trong loài người.

Cận tử nghiệp, mà yếu tố chánh kiến và chánh tín có mặt trước lúc mệnh chung quyết định cảnh giới thác sinh, thay đổi lộ trình chuyển kiếp, là một điểm giáo lý đặc biệt trí tuệ!

2.6. Định nghĩa về "Chánh tư duy" trong Trung Bộ III (vô dục, vô sân và vô hại tư duy) là một định nghĩa đặc biệt gợi ý cho các nhà nghiên cứu Phật học thấy rằng (có thể phát biểu như thế) "lý thuyết Bất Bạo Động" (ahimsa) của Thánh Gandhi (Ấn Độ) bắt nguồn, hay chịu ảnh hưởng rất lớn từ giáo lý Phật Giáo.

2.7. Thái độ "thuyết pháp" mà không tán thán, không chỉ trích trong kinh 139, Trung Bộ III, hiện rõ sắc thái giáo dục, văn hoá của Phật Giáo rất đặc thù.

2.8. Tại Trung Bộ III, các giáo lý ngoại đạo, lục sư ngoại đạo, được đề cập một số nét giáo lý khá rõ giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu, đối chiếu tôn giáo học.

2.9. Qua Trung Bộ III, kinh cho thấy mối giao dịch, quan hệ giữa giáo hội của Thế Tôn và các giáo hội Bà-la-môn ngoại đạo: cả hai bên đều có chủ động trao đổi. Dù có nhiều nhà ngoại đạo đầy kiêu ngạo, đầy thù nghịch đến với Thế Tôn, nhưng Thế Tôn vẫn giữ nghiêm thái độ rất trí tuệ, hiểu biết, ôn hòa biểu hiện rõ châm ngôn của Phật Giáo là: "Chỉ có đời tranh chấp với Phật Giáo, mà không có sự việc Phật Giáo tranh chấp với đời".

2.10. Cũng có rất nhiều giáo chủ ngoại đạo, Bà-la-môn tiếng tăm lừng lẫy tán thán quy ngưỡng Thế Tôn: một số trở thành đệ tử tại gia của Ngài, một số xuất gia đắc Thánh Quả.

2.11. Nhiều vua chúa, hoàng thân, vương tử, đại thần,..., cũng đến Giáo chúng học đạo và đã được Thế Tôn làm sáng tỏ chủ trương của Thế Tôn là bình đẳng giai cấp: giá trị mỗi người là ở thái độ sống, hành động thiện hay ác, chánh hay tà, vị tha hay vị kỷ, mà không ở màu da, chủng tộc, dòng họ hay tiếng tăm ở đời...

2.12. Trung Bộ Kinh cũng soi sáng, rất tỏ, ý nghĩa "Trung đạo tu tập" của Phật Giáo là Bát Thánh Đạo tránh xa hai thái cực hưởng thụ dục lạc và khắc kỷ, khổ hạnh, ép xác; và ý nghĩa "Trung đạo nhận thức" là "Duyên khởi", tránh xa chấp thường chấp đoạn.

Tất cả các điểm ghi trên chỉ là một số điểm xuyết, bạn đọc cần tự mình đọc kỹ từng dòng kinh mới đón nhận được giải thoát, hỷ lạc cho tự thân.

1. Kinh Căn Bổn Pháp Môn

 MN.1 Kinh pháp môn căn bản.jpg

MN.1 Kinh Căn Bổn Pháp Môn
(Mūlapariyāya Sutta)

Tỳ kheo Bửu Hiền
Chùa Pháp Bảo, Mỹ Tho, Tiền Giang

Trung Bộ Kinh là bộ Kinh thứ hai trong tuyển tập năm bộ Kinh thuộc Tạng Kinh (Sutta Pitaka), trong Tam Tạng Kinh điển Nam Phạn Pali. Sở dĩ được gọi là Trung Bộ vì các bài Kinh trong tuyển tập nầy có hình thức ngắn hơn các Kinh trong bộ Kinh đầu, Trường Bộ Kinh, và tương đối dài hơn so với các bài Kinh trong hai tuyển tập tiếp theo là Tương Ưng Bộ Kinh và Tăng Chi Bộ Kinh.

Trung Bộ Kinh gồm có cả thảy 152 bài Kinh. Tuyển tập được chia ra làm 3 phần (pannāsa - Sets of Fifty). Hai phần đầu, mỗi phần gồm 50 bài Kinh, phần cuối có 52 bài. Trong mỗi phần lại chia ra làm 5 nhóm (vagga), mỗi nhóm gồm khoảng 10 bài Kinh. Tự thân nội dung của mỗi bài Kinh là một thể hoàn chỉnh, thế nên Chư Phật tử có thể đọc các bài kinh một cách chọn lọc. Tuy nhiên, một sự hiểu biết tổng thể sẽ giúp cho người đọc nắm bắt được nội dung sâu xa của tuyển tập. Tựa đề của bài Kinh đôi khi cũng nêu lên được chủ đề chính của bài, thí dụ như bài Kinh đầu tiên có tựa đề là Kinh Căn Bản Pháp Môn.

Có thể nói Trung Bộ Kinh là một tuyển tập bao gồm một trong số những bài Kinh quan trọng vào bậc nhất. Chủ đề của Trung Bộ Kinh rất phong phú, đa dạng, đề cập đến những nét tinh hoa của giáo lý Phật Đà. Thông qua tuyển tập nầy, chúng ta sẽ thấy được nhân cách sáng ngời của Đức Phật, sự khéo léo trong việc diễn đạt và trình bày Chân Lý, lòng từ và trí tuệ siêu việt của Bậc Đạo Sư. Một số bài thuyết giảng của các vị Đại đệ tử, như Đại Đức Xá Lợi Phất, Đại Đức Ananda, Đại Đức Maha Kaccana... cũng được sưu tập trong bộ Kinh nầy.

Điểm khó mà người đọc lần đầu tiếp cận với bộ Kinh gặp phải là có quá nhiều từ ngữ Phật học chuyên môn và những đoạn Kinh lập đi lập lại (repetition). Nhưng một khi vượt qua được rào cản nầy thì như theo lời của Ngài Hoà Thượng Thích Minh Châu, dịch giả của năm bộ Nikāya, Chư Phật tử sẽ an hưởng được hương vị Chánh Pháp tuyệt diệu. Thành tâm kính chúc đến Quý vị:

Thể nhập Kinh Tạng
Trí huệ như hải
Chứng ngộ Pháp mầu
Tiếp độ chúng sanh

Tỳ kheo Bửu Hiền
Chùa Pháp Bảo, Mỹ Tho, Tiền Giang
tháng 01-2003

-ooOoo-

Bài Kinh số 1

Kinh Căn Bổn Pháp Môn
(Mūlapariyāya Sutta)

Đây là một trong những bài Kinh khó hiểu nhất trong Kinh điển Pali. Chúng tôi soạn bài viết nầy một phần lớn nhờ vào bản dịch của Ngài Hoà Thượng Thích Minh Châu và bản tiếng Anh, ấn bản mới của Bhikkhu Ñānamoli và Bhikkhu Bodhi. Theo bản chú giải Trung Bộ Kinh, Papañcasudāni, Đức Phật thuyết giảng bài Kinh nầy cho 500 vị Tỳ Khưu trước đây là các vị Bà la môn thông thuộc Kinh điển Vệ Đà. Thế nên, Kinh Căn Bổn Pháp Môn là sự so sánh hai quan điểm giáo lý thông qua 24 tiêu đề từ Tứ Đại cho đến Niết Bàn. Mục đích chính của Đức Phật là để phá bỏ tính ngã mạn phát sanh lên trong tâm của Chư vị do sự uyên bác và tinh thông Phật Pháp.

Ở phần mở đầu của bài Kinh, Đức Phật nói Ngài sẽ thuyết giảng về Nhất Thiết Căn Bổn Pháp Môn, Sabbadhammamūlapariyāya, The Root of All Things. Bản phụ chú giải của Trung Bộ Kinh, Mūlapannāsa-Tīkā, giải thích chữ "Tất cả": "All" (Sabba) nơi đây được dùng với ý nghĩa giới hạn là một cá thể: all of personality (sakkāyasabba). Có nghĩa là tất cả mọi pháp (dhamma), bao hàm trong Năm Thủ Uẩn. Những trạng thái siêu thế như Đạo, Quả và Niết Bàn không thuộc vào nội hàm của chữ Tất cả ở đây. Nhất Thiết Căn Bổn nghĩa là điều kiện đặc biệt duy trì sự liên tục của tiến trình luân hồi. Mūlapannāsa-Tīkā giải thích thêm cụm từ: "Kẻ ấy không hiểu rõ" để chỉ cho tâm trí của hạng phàm nhân bị ô nhiễm bởi ba pháp: tham lam, tà kiến và ngã mạn.

Toàn bộ bài Kinh là sự phân tích tiến trình nhận thức của bốn hạng người: phàm phu chưa nghe pháp, bậc hữu học, bậc A la hán và Đức Như Lai. Kẻ vô văn phàm phu là người thường nhân không học hỏi và không thành đạt Pháp của các bậc Thánh. Họ bị ảnh hưởng bởi nhiều phiền não và tà kiến.

I. Kẻ vô văn phàm phu (assutavā puthujjana - an untaught ordinary person)

Kẻ vô văn phàm phu tưởng tri (perceive) địa đại là địa đại (pathavim pathavito sañjānāti). Theo văn cảnh, câu Kinh "tưởng tri đất là đất" ở đây có nghĩa là lối nhận thức sai lầm về vật thể. Bản chú giải giải thích kẻ phàm phu chấp chặt vào quy ước "Đây là đất", rồi áp đặt quy ước đó lên vật thể, tưởng tri vật thể qua cái tưởng sai lầm, điên đảo - "perversion of perception" (saññāvipallāsa). Thuật ngữ nầy nghĩa là quan niệm cái vô thường là thường, đau khổ là lạc, vô ngã là hữu ngã, và đẹp đẽ thay vì là bất tịnh.

Tiến trình nhận thức nơi đây bị lệch lạc hoàn toàn bởi ảnh hưởng nặng nề của những khuynh hướng tạp nhiễm (papañca), chủ yếu đó là tham (tanhā), mạn (māna) và tà kiến (ditthi). Tiến trình nầy khởi đầu được sắp xếp theo bốn phân loại theo ngôn ngữ học:

a) Đối cách: nó nghĩ đến địa đại
b) Định sở cách: nó nghĩ đến tự ngã ở trong địa đại. Điều nầy dẫn đến mạn
c) Xuất xứ cách: nó nghĩ tự ngã tách biệt với địa đại, dẫn đến kiến
d) Sở thuộc cách: nó nghĩ địa đại là của ta, dẫn đến tham.

Và cuối cùng: nó hoan hỷ trong địa đại, rõ ràng là bị ảnh hưởng bởi tham ái. Đây chính là sự nguy hiểm trong nhận thức của kẻ phàm nhân vì như Đức Phật đã dạy tham ái chính là nguồn cội của sự đau khổ. Tiến trình nhận thức hoàn toàn bị sai lầm do sự xuất hiện của cái Ta hay Tự ngã, "ego"(atta). Cái Ta hay Tự ngã nầy là hình ảnh được xây dựng trên trí tưởng tượng của chủ thể nhận thức trong mối liên hệ giữa nó và khách thể là đối tượng, là cái được nhận thức. Trong bài Kinh nầy, đối tượng bao gồm 24 tiêu đề như sau:

1. Pathavi (Earth): Địa đại, đất, nguyên tố của sự lan rộng. Các thể vật chất ở thể rắn đều là biểu hiện của địa đại. Có hai loại địa đại, địa đại ở trong thân và ngoài thân. Ở trong thân như: tóc, lông, móng, răng, da, ... Ở ngoài thân như: mẩu bánh, viên phấn, hòn đá, ...

2. Āpo (Water): Thuỷ đại, nước, nguyên tố của sự kết hợp. Thuỷ đại là dạng vật chất ở thể lỏng, cũng có hai loại là thuỷ đại ở nội thân và ở ngoại thân.

3. Tejo (Fire): Hoả đại, lửa, nguyên tố của sự bảo quản. Đây chính là yếu tố nhiệt độ của vật chất.

4. Vāyo (Air): Phong đại, gió, nguyên tố của sự chuyển động. Bốn nguyên tố trên hoà quyện lẫn với nhau và tạo nền tảng cho vật chất, chúng được biết đến với tên gọi là sắc tứ đại.

5. Bhūta (Beings): Chúng sanh, để chỉ cho những chúng sanh ở dưới cõi trời Tứ Đại Thiên Vương.

6. Deva (gods): Chư Thiên, các vị Chư Thiên ở 6 cõi trời Dục giới: Tứ Đại Thiên Vương, Đao Lợi, Dạ Ma, Đâu Suất, Hoá Lạc Thiên, Tha Hoá Tự Tại.

7. Pajāpati (Pajāpati): Sanh Chủ, chỉ cho Ma Vương, vị Vua ở cõi trời Tha Hoá Tự Tại.

8. Brahmā (Brahmā): Phạm Thiên, các vị Phạm Thiên ở cõi trời Sơ Thiền Sắc Giới.

9. Ābhassara (the gods of Streaming Radiance): Quang Âm Thiên, các vị Phạm Thiên ở cõi trời Nhị Thiền Sắc Giới.

10. Subhakinna (the gods of Refulgent Glory): Biến Tịnh Thiên, các vị Phạm Thiên ở cõi trời Tam Thiền Sắc Giới.

11. Vehapphala (the gods of Great Fruit): Quảng Quả Thiên, các vị Phạm Thiên ở cõi trời Tứ Thiền Sắc Giới.

12. Abhibhū (Overlord): Thắng Giả, các chúng sanh ở cõi trời Vô Tưởng. Vô Tưỏng là trú xứ của các chúng sanh chỉ có hình thể vật chất mà không có 4 yếu tố tinh thần: thọ, tưởng, hành và thức.

13. Ākāsānañcāyatana (the base of infinite space): Không Vô Biên Xứ.

14. Viññānañcāyatana (the base of infinite consciousness): Thức Vô Biên Xứ.

15. Ākiñcaññāyatana (the base of nothingness): Vô Sở Hữu Xứ.

16. Nevasaññānāsaññāyatana (the base of neither-perception-nor-non-perception): Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Đây là 4 cõi trời Vô Sắc Giới. Ngược lại với cõi trời Vô Tưởng, các chúng sanh ở cõi trời Vô Sắc chỉ có tâm (4 yếu tố tinh thần) mà lại không có hình thể vật chất.

17. Dittha (the seen): Sở kiến, những gì được thấy.

18. Suta (the heard): Sở văn, những gì được nghe.

19. Muta (the sensed): Sở tư niệm, những gì được ngửi, nếm, xúc chạm.

20. Viññāta (the cognized): Sở tri, những gì được tư duy. Bốn tiêu đề trên là đối tượng của tri giác (perception).

21. Ekatta (Unity): Đồng nhất, đặc tính của vị hành giả đắc thiền, tâm định an trú vào một đề mục nhất định.

22. Nānatta (Diversity): Sai biệt, chỉ cho vị hành giả không đắc thiền, tâm không an trú vào đề mục

23. Sabba (All) Tất cả, đây là tất cả các pháp liên quan đến một cá thể, gồm 6 căn và 6 cảnh: mắt và cảnh sắc, tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và các vị, thân và xúc chạm, ý và các pháp (đối tượng của tư duy).

24. Nibbāna (Nibbāna): Niết Bàn, ở đây được kể cho năm loại Niết Bàn, gồm trong 62 tà kiến được kể trong bài Kinh Phạm Võng (Trường Bộ Kinh). Đó là sự hưởng thụ ngũ dục và chứng đắc 4 tầng thiền.

Trên đây là 24 tiêu đề mà Đức Phật trình bày trong đoạn mở đầu bài Kinh. Kẻ vô văn phàm phu nhận thức 23 tiêu đề còn lại y như phần địa đại. Đây chính là một repetition. Bản chú giải giải thích rõ thêm một người được xem là hiểu rõ địa đại khi người ấy hiểu địa đại theo ba phương thức:

a. ñātapariññā: (the full understanding of the known), sự hiểu biết rõ. Hiểu biết địa đại về đặc điểm, chức năng, sự thể hiện và nguyên nhân gần của chúng.

b. tīranapariññā: (the full understanding by scrutinization), hiểu biết do quan sát thấu đáo. Hiểu biết địa đại qua ba tướng trạng phổ biến là vô thường, khổ não và vô ngã.

c. pahānapariññā: (the full understanding of abandonment), hiểu biết do đoạn trừ. Hiểu biết do đoạn trừ tham ái đối với địa đại nhờ vào đạo quả tối cao (A la hán).

Kẻ vô văn phàm phu không có sự hiểu biết nầy nên Đức Phật kết luận kẻ ấy không hiểu rõ địa đại cùng các tiêu đề còn lại (apariññātam - he has not fully understood it) .

II. Bậc Thánh hữu học (Sekha - The disciple in higher training)

Bậc Thánh nhân hữu học là các bậc đã đắc ba tầng Thánh đầu là Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Các vị ấy còn phải tiến tu thêm để thành đạt mục tiêu cuối cùng là đạo quả A La Hán. Thế nên, đoạn kinh mô tả các bậc Thánh ấy: "Vị Tỳ Kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống mong mỏi (patthayamāno - is still aspiring) sự vô thượng an tịnh khỏi các triền ách (anuttaram yogakkhemam - the supreme security from bondage)". Sự mong mỏi có hai loại: mong mỏi, khát khao theo ái dục (tanhāpatthanā) và mong mỏi, thành đạt điều ước nguyện (chandapatthanā). Ở nơi đây là sự mong mỏi, thành tựu điều thiện (wholesome). Câu văn Vị Tỳ Kheo hữu học đang sống mong mỏi nghĩa là vị Thánh nhân ấy mong muốn thoát ly khỏi các triền ách. Có 4 loại triền ách (yoga):

1- kāmāyoga (sensual desire): dục ái triền ách
2- bhavayoga (desire for existence): hữu triền ách
3- ditthiyoga (wrong views): kiến triền ách
4- avijjāyoga (ignorance): vô minh triền ách

Không giống như kẻ vô văn phàm phu tưởng tri địa đại một cách sai lầm, bậc Thánh nhân thắng tri địa đại (abhijānāti - directly known), biết rõ với trí tuệ đặc biệt. Theo bản chú giải, vị ấy biết địa đại theo đúng với thực tướng của nó, đó là vô thường, khổ não và vô ngã. Bản phụ chú giải lại giải thích thêm. "Với trí tuệ đặc biệt" nghĩa là sự hiểu biết quan sát thấu đáo dựa trên sự hiểu biết rõ, cùng với một phần của sự hiểu biết do đoạn trừ (ba phương thức hiểu biết được đề cập ở trên). Sở dĩ được gọi là "một phần" vì bậc Thánh nhân hữu học chỉ mới đoạn trừ phiền não từng phần. Như bậc Thánh nhân Tu Đà Hườn chỉ mới diệt trừ được tà kiến (thân kiến), các Ngài vẫn còn chi phối bởi tham ái và ngã mạn.

Nhờ thắng tri địa đại (các pháp khác cũng được hiểu tương tự) nên bậc Thánh nhân hữu học không rơi vào tiến trình nhận thức sai lầm của kẻ vô văn phàm phu. Và Ngài có thể hiểu được địa đại (pariññeyyam - he may fully understand it). Sự hiểu biết của bậc Thánh giả hơn hẳn kẻ phàm phu, tuy nhiên nó chưa đạt đến độ viên mãn như của bậc A La Hán, bậc Thánh nhân Vô học.

III. Bậc Thánh A La Hán (Araham - the Arahant)

Đoạn kinh mô tả: "Có vị Tỳ kheo là bậc A La Hán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát". Nơi đây, Quý vị Phật tử gặp một thể loại repetition trong Trung Bộ Kinh, mô tả phẩm hạnh của bậc Thánh cao quý nhất trong Phật Giáo.

Bản chú giải giải thích chi tiết đoạn Kinh trên như sau:

Bậc A La Hán (araham - one who is remote from the defilements): là bậc đã đoạn trừ, xa lìa tất cả các pháp ô nhiễm, các pháp có khuynh hướng dẫn đến sự tái sanh.

Các lậu hoặc đã tận (khīnāsavo - with taints destroyed): có 4 loại lậu hoặc đó là dục, hữu, tà kiến và vô minh lậu. Bậc Thánh A la hán đã diệt trừ hoàn toàn các pháp nầy, nên Ngài được gọi là bậc Thánh nhân Vô Lậu.

Phạm hạnh đã thành (vusitavā - lived the holy life): vị ấy đã sống dưới sự hướng dẫn của các bậc Thầy, an trú trong Thánh đạo và 10 Pháp của các bậc Thánh (xin xem chương 10 pháp thuộc bài Kinh Sangīti Sutta, Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh).

Những việc nên làm đã làm (katakaranīyo - done what had to be done): không như các bậc Thánh nhân Hữu học còn phải tinh tấn tu tập, bậc Thánh A La Hán đã thành đạt lý tưởng của đời sống Phạm hạnh. Các Ngài không còn làm thêm gì nữa để đoạn tận khổ đau, thế nên Chư vị được gọi là Bậc Thánh nhân Vô học. Nơi đây, bản phụ chú giải lại giải thích thêm một chi tiết: Bậc Thánh giả đã hoàn tất 4 phận sự đối với Tứ Thánh Đế, đó là, Khổ đế đã được nhận thức, Tập đế đã được diệt trừ, Diệt đế đã được chứng đắc và Đạo đế đã được tu tập.

Đã đặt gánh nặng xuống (ohitabhāro - laid down the burden): có 3 gánh nặng là gánh nặng của ngũ uẩn, gánh nặng của phiền não và gánh nặng của pháp hành (abhisankhāra - kamma formations).

Đã thành đạt lý tưởng (anuppattasadattho - reached the true goal): đó là đạo quả A La Hán (Arahatship).

Đã tận trừ hữu kiết sử (parikkhīnabhavasamyojano - destroyed the fetters of being): có 10 kiết sử, đó là, thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, ái dục, sân hận, ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật và vô minh. Được gọi là kiết sử vì đây chính là 10 sợi dây trói buộc chúng sanh vào vòng luân hồi hay là những sợi dây nối liền đời sống nầy với đời sống kế tiếp.

Chánh trí giải thoát (sammadaññā vimutto - emancipated through final knowledge): Chánh trí nghĩa là bậc A La Hán với trí tuệ hoàn hảo thấy rõ như thật các pháp Uẩn, Xứ, Giới, Đế hay giác ngộ được "Các pháp hành là vô thường", v.v..

Giải thoát có hai loại: tâm giải thoát (cittassa vimutti), tâm của bậc Thánh giả giải thoát khỏi tất cả mọi ô nhiễm; và Niết Bàn (nibbānam adhimuttattā).

Bậc Thánh A La Hán đã thấu suốt các tiêu đề trên. Sự hiểu biết của các Ngài đạt đến độ viên mãn, tuệ tri (pariññā - full understanding) - (Xem quyển "Tóm Tắt và Chú Giải Trung Bộ Kinh, quyển I, Thích Nữ Trí Hải). Chư vị không còn tưởng tri một cách sai lầm và cũng không hoan hỷ trong các pháp. Các Ngài đã hiểu biết rõ các pháp (pariññātam - he has fully understood it). Điều đáng lưu ý là thắng tri (abhiññā) là giới vức chung của các bậc Thánh nhân, còn tuệ tri (pariññā) là sự hiểu biết đặc thù của bậc A La Hán, bởi vì đây là trí tuệ phát sanh do sự diệt trừ tất cả mọi phiền não.

Đoạn repetition tiếp theo giải thích nguyên nhân vì sao bậc Thánh A La Hán luôn nhận thức đúng đắn các pháp. Do hai lý do: thứ nhất là vì các Ngài tuệ tri các pháp, thứ nhì là do các Ngài đã đoạn tận ba căn bản bất thiện từ gốc rễ của chúng.

Đoạn Kinh giải thích: Vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ (khayā rāgassa vītarāgattā - he is free from lust through the destruction of lust);

Vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ (khayā dosassa vītadosattā - he is free from hate through the destruction of hate);

Vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ (khayā mohassa vītamohattā - he is free from delusion through the destruction of delusion).

Bản chú giải giải thích đoạn Kinh nầy như sau:

a. không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ: sau khi thấy rõ nguy hiểm của tham dục, vị ấy an trú trong đề mục khổ não và đạt được giải thoát nhờ pháp Vô Nguyện giải thoát (appanihitavimokkha - the deliverance of the wishless)

b. không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ: sau khi thấy rõ nguy hiểm của sân hận, vị ấy an trú trong đề mục vô thường và đạt được giải thoát nhờ pháp Vô Tướng giải thoát (animittavimokkha - the deliverance of signless)

c. không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ: sau khi thấy rõ nguy hiểm của si mê, vị ấy an trú trong đề mục vô ngã và đạt được giải thoát nhờ pháp Không Tánh giải thoát (suññatāvimokkha - the deliverance of emptiness).

Các lối giải thích khác là:

a. bậc Thánh giả đoạn trừ được tham dục do nhờ hiểu biết rõ về Hoại Khổ (viparināmadukkha); đoạn trừ sân hận nhờ hiểu biết Khổ Khổ (dukkha dukkha); đoạn trừ si mê nhờ hiểu biết Hành Khổ (sankhāradukkha).

b. bậc Thánh giả đoạn trừ được ba căn bản bất thiện do sự hiểu biết tương ứng về cảnh khả ái (itthārammana - a desirable object); cảnh không khả ái (anitthārammana - an undesirable object) và cảnh trung bình (majjhattārammana - a neutral object).

c. bậc Thánh giả đoạn trừ được ba căn bản bất thiện do sự diệt tận những khuynh hướng bất thiện ngủ ngầm đối với cảm thọ lạc, cảm thọ khổ và cảm thọ không khổ không lạc.

IV. Đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác

Đức Phật thường dùng danh từ "Tathāgata" để tự xưng hô. Tathāgata có nhiều ý nghĩa. Một trong những ý nghĩa đó là "Bậc đã đến và đi như thế". (Xem thêm chương tám pháp trong Tăng Chi Bộ Kinh). A La Hán là bậc xứng đáng được cúng dường. Bậc Chánh Đẳng là bậc tự mình giác ngộ Chân Lý một cách hoàn hảo (Về hai hồng danh sau xin xem thêm quyển Thanh Tịnh Đạo, phần Niệm Phật, Thích Nữ Trí Hải dịch).

Đức Phật tự mô tả tiến trình nhận thức của Ngài đối với thế giới xung quanh. Đối với tất cả các pháp, Đức Phật hiểu biết một cách toàn diện và triệt để, liễu tri (pariññātantam - fully understood to the end). Ngài hiểu biết các pháp xuyên suốt, thấu đáo, không giới hạn, không còn dư sót.

Tuy rằng không có sự khác biệt giữa Đức Phật và các vị Đại Đệ tử (bậc Thánh nhân Vô học) trong việc đoạn trừ phiền não do bốn Thánh đạo, nhưng trí tuệ của Chư vị lại rất khác xa nhau. Các vị đệ tử thành đạt Niết Bàn nhờ vào pháp quán sát (insight - comprehension) chỉ một trong bốn nguyên tố (tứ đại), còn trong giới vức trí tuệ của Chư Phật thì không có một phần tử nhỏ nhặt nào trong thành tố lại không được thấy, thẩm tra, quan sát hay nhận biết.

Ở đoạn cuối của bài Kinh, Đức Phật trình bày Chân Lý: "Hỷ lạc là căn bản của đau khổ, từ hữu sanh khởi, và già và chết đến với loài hữu tình." Bản chú giải giải thích đoạn Kinh nầy như sau: Hỷ lạc (nandī - delight) là sự tham ái đời sống trước, vốn dĩ đem lại sự đau khổ (dukkha - suffering) cho ngũ uẩn trong đời sống hiện tại. Hữu tình (bhūta - beings) là biểu hiện của kiếp sống hiện tại (hữu, kammabhava), kiếp sống tạo nên sanh, già và chết trong tương lai. Nơi đây hỷ lạc thuộc về quá khứ; sanh, già và chết thuộc về tương lai; khổ và hữu thuộc về hiện tại. Câu Kinh ở đoạn kết chính là sự diễn bày Giáo Lý Thập Nhị Nhân Duyên (paiiccasamuppāda - dependent origination).

Theo một trình tự hợp lý, sau khi biết rõ được cội rễ của đau khổ là hỷ lạc, là tham ái, sau khi liễu tri được Thập Nhị Nhân Duyên, Đức Phật đã diệt trừ tất cả tham ái, từ bỏ mọi tham ái đối với tất cả các pháp. Sau cùng Đức Phật đã "chơn chánh giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác".

Mặc dầu Đức Phật đã thuyết giảng bài Pháp chi tiết đến như vậy, cả 500 vị Tỳ Kheo đều không hiểu và không hoan hỷ với lời dạy của Ngài. Nhưng chư vị đã bớt đi tâm lý tự mãn, trở nên khiêm tốn hơn. Về sau Đức Phật thuyết giảng tiếp bài Kinh Gotamaka, được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh, và tế độ chư vị thành đạt đạo quả A La Hán cùng với Tuệ Phân Tích.

Khi tiếp xúc với ngoại cảnh, thế giới bên ngoài, phần đông trong chúng ta đều hình thành nếp suy nghĩ liên quan đến "cái tôi" và "cái của tôi". Đó là một ảo tưởng (illusion), một quan kiến sai lầm, là căn nguyên của bao điều phiền não. Mục đích chính của bài Kinh Nhất Thiết Căn Bổn Pháp Môn là giúp cho giới Phật tử có được sự hiểu biết và nhận thức chân chánh, đúng với Chánh Pháp. Thành tâm kính chúc đến Chư Phật tử hưởng được nhiều pháp vị từ bài Kinh đầu tiên của tuyển tập Trung Bộ Kinh nầy.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

1. Kinh Căn Bổn Pháp Môn Thích Chơn Thiện

Kinh Căn bản của tất cả Pháp
Mùlapariỳaya sutta - Discourse On The Synopsis Of Fundamentals

Hòa thượng Thích Chơn Thiện

 

I. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

- Rừng Subhaga: Rừng hạnh phúc. Đây là một vùng rừng Tala thiên nhiên ở xứ Ukkattha.

- Mùla (theo ngữ cảnh trong kinh): Có nghĩa là gốc, căn bản.

- Pariyàya: Cương yếu, đề cương .

- Sabbadhammà. Tất cả pháp. Ở đây, pháp có nghĩa là hiện hữu (a thing ), sự vật, cảnh giới của Tam hữu (Tibhava). Từ đây có thể hiểu pháp là pháp môn mà Đức Phật dạy, bởi các pháp môn đều hướng về sự thật của vạn hữu .

- Bậc Thánh: Ariya: Saint: Chỉ chư Phật, các bậc A la hán (đệ tử Đức Phật) và các vị Bích chi Phật.

- Bậc chân nhân: Sappurisa, Paccekabuddha: True man: Chỉ các vị Bích chi Phật.

- Không tu tập pháp của các bậc Thánh, không thuần thục pháp của các bậc Thánh: Không khéo tu tập Giới, Định, Tuệ.

- Tưởng tri. Sannàjànàti: Recognizes: nhận thức.

- Liễu tri: Parijànàti: Thoroughly understands: Hiểu biết hoàn toàn, trọn vẹn về một sự vật; hiểu biết như thật sự vật. Chỉ có các bậc A la hán, Bích chi và A la hán Chánh đẳng giác mới liễu tri sự vật.

- Thắng tri: Abhijànàti: Intuitively Knows: Trực giác hiểu biết trực tiếp sự vật; thấy biết trong đại định (từ đệ Tứ sắc định đến Tứ không định). Các bậc Thánh hữu học và vô học luôn thắng tri các sự vật

- Dục hỷ: Ham thích (rejoices).

- Phạm thiên: Cõi Sơ thiền Sắc giới .

- Quang âm thiên: Cõi Nhị thiền Sắc giới.

- Biến Tịnh thiên: Cõi Tam thiền Sắc giới.

- Quảng Quả thiên: Cõi Tứ thiền Sắc giới.

- Không vô biên xứ: Cõi Sơ thiền Vô sắc giới .

- Thức vô biên xứ: Cõi Nhị thiền Vô sắc giới.

- Vô sở hũu xứ: Cõi Tam thiền Vô sắc giới.

- Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Cõi Tứ thiền Vô sắc giới

- Niết bàn: Nibbàna: Ái diệt, Thủ diệt, Thức diệt, Vô minh diệt, Khổ diệt...

- Sở kiến: Những sự vật được thấy, được biết đến.

- Sở tri: Những sự vật được nhận thức, được hiểu.

- Sở văn: Những sự vật được nghe.

- Sở tư niệm: Những sự vật được cảm thọ, cảm nhận.

- Đồng nhất (indentity): Tính bất biến, không biến đổi.

- Dị biệt (difference): Tính đổi khác, biến đổi của sự vật.

- Lậu hoặc: Kilesa: àsava: canker: difilement: Chỉ tham, sân, si là các lậu hoặc căn bản phát sinh ra các lậu hoặc khác.

- Thánh hữu học: Chỉ các Thánh Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm.

- Thánh vô học: Chỉ các A la hán, đệ tử Đức phật.

- Mười kiết sử: 5 hạ phần và 5 thượng phần kiết sử.

a) 5 hạ phần: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục và sân.
b) 5 thưọng phần: hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh.

II. NỘI DUNG BẢN KINH SỐ 1

Gồm các nét giáo lý chính:

1. Các đối tượng được tưởng trithắng tri và liễu tri bao gồm:

- Địa, thủy, hỏa, phong đại: 4 yếu tố vật chẩt hình thành con người vật lý và thế giới vật lý.

- Sở kiến, sở văn, sở tri, sở tư niệm: Thế giới vật lý và thế giới mà tâm lý con người đón nhận qua thấy nghe, hiểu, tư niệm, cảm thọ (hàm ẩn chủ thể của thấy nghe ..., là con người).

- Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới của các Thái dương hệ.

- Niết bàn (vô vi pháp).

2. Các cấp độ nhận thức của con người

a) Cấp độ tưởng tri: đây là cẩp độ nhận thức hữu ngã, nhìn thấy các hiện hữu đều có tự ngã (self). Cấp độ này là sản phẩm của tư duy hữu ngã, và các cảm thọ được đón nhận qua các giác quan hạn chế.

b) Cấp độ thắng tri: là cấp độ thấy biết trực tiếp các sự vật qua đại định (từ đệ tứ Sắc định đến Tứ Không định) và qua trí tuệ, mà không qua quá trình đối đãi của tư duy. Đây là cấp độ nhận thức hiện hành ở tâm của các Thánh hữu học và Thánh vô học, Bích chi Phật và Chánh đẳng Chánh giác.

Với các Thánh hữu học thì có thể liễu tri mà chưa thật liễu tri. Với hàng Thánh vô học, Bích Chi và Toàn Giác mới thực liễu tri.

Sự thật như thật của các hiện hữu là sự thật của Niết bàn, là Niết bàn.

c) Cấp độ liễu tri:

- Ở đại định, các Thánh hữu học hành thiền quán vô ngã, vô thường thì có thể cắt đứt 10 kiết sử, đoạn tận các lậu hoặc, thấy rõ được sự thật như thật của các hiện hữu (hữu vi và vô vi).

- Với các Thánh vô học, do đoạn tận tham mà liễu tri các pháp; tương tự, do đoạn tận sân, đoạn tận si mà liễu tri các pháp.

- Chư Phật thì đã liễu tri vạn pháp do vì thấy rõ "dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu mà sinh khởi lên, và già chết đến với hữu tình", đã "diệt trừ hoàn toàn các ái, hoàn toàn ly tham, hoàn toàn xả ly" nên đã "chân chánh giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

3. Có hai điểm giáo lý cơ bản được đề cập

a) Nếu con người nhận thức các hiện hữu đều có tự ngã thường hằng (self), thì sẽ không bao giờ có thể thấy sự vật như thật qua thắng tri và liễu tri. Với người này tưởng tri, thức tri và tư duy sẽ làm dấy lên sự phân biệt đối đãi phát khởi tham tâm, sân tâm và si tâm vốn là căn gốc của phiền não, sinh tử, khổ đau.

b) Nếu con người thấy rõ sự vật như thật, đó là sự thật Duyên khởi Vô ngã qua thắng tri và liễu tri hoặc thấy rõ "dục hỷ là căn bản của khồ đau..." thì sẽ xả ly, đoạn trừ hoàn toàn tham ái, sẽ chân chánh giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

* * *

Tại đây bản kinh số 1 mở ra hai dòng vận hành của tâm lý:

- Dòng tâm lý của tham, sân, si, ác tâm, bất thiện tâm dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não, dẫn đến tàn hại cá nhân và tập thể .

- Dòng tâm lý của vô tham, vô sân, vô si, bất hại dẫn đến thấy rõ như thật các pháp, hoàn toàn ly dục, giải thoát, giác ngộ, Niết bàn.

Hai dòng tâm lý đó là nội dung mà các bản kinh kế tiếp sẽ nhiều lần đề cập./.

(trích Nguyệt san Giác Ngộ, số 68, 11-2001)

 

2. Kinh tất cả lậu hoặc

Kinh Tất Cả Lậu Hoặc
(Sabbàsava Sutta)

Hòa thượng Thích Chơn Thiện

 

I. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ:

- Jetavana : Thắng lâm hay Kỳ-đà-lâm. Ở Ấn độ ngày trước có hai loại rừng:

Rừng do con người trồng, gây dựng. Jetavana thuộc loại rừng này.
Rừng tự nhiên, hoang dã.

- Anathapindika (Cấp Cô Độc): Tên người cư sĩ, đệ tử của Đức Gotama, đã dâng cúng khu vườn và tịnh xá Jetavana.

- Như lý tác ý: Yoniso ca manasikàram = Wise attention: Khởi niệm rằng nhận thức hữu ngã sẽ làm dấy khởi tham, sân, si dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não, đi vào sinh tử; nhận thức vô ngã, duyên khởi sẽ làm dấy khởi vô tham, vô sân, vô si, dẫn đến thắng tri, liễu tri các pháp, chơn chánh giác ngộ Chánh đẳng Chánh giác. Tác ý hữu ngã gọi là "Phi như lý tác ý".

- Tri kiến đoạn trừ: Là Chánh tri kiến thấy rõ thân ngũ uẩn, và thế giới là vô thường, vô ngã. Thấy biết này sẽ dập tắt cái thấy hữu ngã làm dấy lên 36 tư duy liên hệ tự ngã (self) như: "Ta có mặt trong thời quá khứ..., chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này chỗ kia, chính tự ngã của ta là thường hằng, sẽ vĩnh viễn tồn tại".

Chánh tri kiến này sẽ dập tắt các tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến kiết phược, kiến hý luận, kiến tranh chấp. Chánh tri kiến này sẽ giúp hành giả biết những gì cần tác ý, những gì không nên tác ý, đi đến thấy rõ sự thật của "Tứ Thánh đế". Tại đây chánh tri kiến có công năng cắt đứt 3 kiết sử đầu: thân kiến, nghi và giới cấm thủ, đắc pháp nhãn. Đây là ý nghĩa "tri kiến đoạn trừ".

- Phòng hộ đoạn trừ: Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì tâm tham hoặc tâm sân, tâm si khởi lên biểu hiện ra hành động của thân, khẩu, ý bất thiện. Các hành động này sẽ làm phát sinh các lậu hoặc dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu và nuôi dưỡng các lậu hoặc phiền não. Do đó hành giả cần có sự cảnh giác, an trú chánh kiến, tỉnh giác gìn giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đây chỉ là công phu giữ gìn, phòng hộ thuộc Giới học, chưa đi vào công phu dẹp trừ lậu hoặc. Sự phòng hộ các căn sẽ chế ngự được các tâm lý gây nên tàn hại, nhiệt não gọi là "phòng hộ đoạn trừ".

- Thọ dụng đoạn trừ: Thọ dụng là sử dụng các phương tiện sống để hỗ trợ công phu giải thoát, thực hành phạm hạnh. Đó là sự sử dụng y phục, thức ăn, sàng tọa, chỗ ở, xem chúng chỉ là phương tiện mà không sử dụng để hưởng thụ, giải trí, thích thú hay để làm đẹp. Cũng cần thận trọng tránh xa những nơi đem lại nguy hiểm, hay nghi ngờ về phạm hạnh - vùng quân sự, lầu xanh, vật quý, góa phụ v.v... Đây là ý nghĩa "thọ dụng đoạn trừ" các tàn hại, nhiệt não có thể khởi sinh, thuộc công phu hộ trì giới bổn.

- Kham nhẫn đoạn trừ: Xã hội vốn đầy dẫy các bất công, bất như ý, tranh chấp, bạo hành..., mà người tu phải giáp mặt: các hiểu lầm, vu khống, mạ lỵ, các rắn rít, ruồi muỗi... Với các đối tượng này, người tu cần kham nhẫn để tránh các phiền não gây trở ngại công phu giải thoát. Đây là ý nghĩa "kham nhẫn đoạn trừ" thuộc công phu hộ trì giới.

- Tránh né đoạn trừ: Có những thứ ở đời đem lại nguy hiểm, phiền não mà không thể đối trị bằng tri kiến, phòng hộ, thọ dụng, hay kham nhẫn, mà phải bằng sự lánh mặt, tránh né như đối với voi dữ, ngựa, trâu, bò dữ, điên, rắn độc, hố sâu, vực thẳm đầm lầy, người điên, say, hung bạo; những nơi nguy hại, gây tai tiếng v.v... Với các đối tượng này thì phương thức đối trị tốt nhất là "tránh né". Đây là ý nghĩa "tránh né đoạn trừ" thuộc phạm trù hộ trì công phu trì giới.

- Trừ diệt đoạn trừ: Tại đây không dừng lại ở công việc ngăn ngừa, mà là công việc tiễu trừ, theo dõi tâm để đoạn trừ, dập tắt các tâm dục, sân, trạo cử, hôn trầm, nghi và các bất thiện tâm khởi lên từ chúng. Đây là công phu thực hành Tứ niệm xứ để đoạn trừ "ngũ cái", chế ngự dục giới tâm, làm sinh khởi các đại hành tâm - tâm sắc giới, cho đến tâm đệ tứ Sắc định. Đây là ý nghĩa "trừ diệt đoạn trừ" chuẩn bị đi vào các "đại hành tâm" để hành thiền quán Duyên khởi - Vô ngã, Vô thường hay Tứ vô lượng tâm.

- Tu tập đoạn trừ: Tu tập được đề cập trong bản kinh số 2 là tu tập Thất giác chi (tham khảo thêm Tương Ưng Bộ kinh V). Sau khi hành "trừ diệt đoạn trừ", đoạn trừ được "ngũ cái" và các ác, bất thiện tâm thì niệm lực được củng cố. Từ đây, hành giả thực hành "như lý tác ý" liên tục thì lần lượt Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả giác chi thành tựu viên mãn. Công phu này là thuần thiền quán phát triển mạnh tâm lý tham, tâm từ bỏ sẽ cắt đứt các kiết sử (10 kiết sử) và lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu) đoạn tận khổ đau.

- Tà kiến: Micchàdtthi hoặc ditthigatam: wrong view: Nhận thức sai lầm cho rằng các hiện hữu có tự ngã thường hằng.

- Kiến trù lâm: Ditthigaharam (Holding wrong views): Tích lũy nặng nề các tà kiến.

-Kiến hoang vu: Ditthithikantàram (the wilds of wrong views): Tà kiến nặng, tối tăm như các cánh rừng hoang dã.

- Kiến hý luận: Ditthivisùkam (wriggling of wrong views): Chỉ các nhận thức quanh co, vô bổ.

- Kiến tranh chấp: Ditthivipphanditam (scuffling of wrong views): Các tà kiến dẫn đến tranh chấp, đấu tranh, chiến tranh.

- Kiến kiết phược: Ditthisamyojanam (fetters of wrong views): Chỉ các tà kiến trói buộc tâm thức giải thoát .

II. NỘI DUNG GIÁO LÝ CỦA KINH

1. Nếu bản kinh số 1 giới thiệu các phiền não, lậu hoặc khởi lên là do nhận thức hữu ngã, do không thắng tri, không liễu tri các hiện hữu, thì bản kinh số 2 giới thiệu các phương cách để nhiếp phục, loại trừ các phiền não lậu hoặc ấy.

2. Các phiền não lậu hoặc dấy khởi do hai động cơ chính:

a) Do tham, sân và si tâm tác động
b) Do ngoại cảnh tác động

Do đó, các phương cách nhiếp phục cũng bao gồm hai nhóm:

- Nhóm đoạn trừ phiền não khởi lên từ tâm: gồm có "tri kiến đoạn trừ", "tu tập đoạn trừ" (thuộc Tuệ) và "trừ diệt đoạn trừ" (thuộc Định).

- Nhóm ngăn ngừa phiền não khởi lên do ngoại cảnh tác động: gồm "phòng hộ đoạn trừ", "thọ dụng đoạn trừ", "kham nhẫn đoạn trừ" và "tránh né đoạn trừ".

Con đường giải thoát khỏi nhất thiết lậu hoặc vẫn là con đường truyền thống của Giới học, Định học và Tuệ học mà Đức Thế Tôn trình bày qua nhiều thể cách khế cơ khác nhau suốt 45 năm giáo hóa.

III . BÀN THÊM

1. Kinh số 1, Trung Bộ, đề cập đến khổ đau và các nhân duyên dẫn đến khổ đau. Kinh số 2 thì đề cập con đường chế ngự và dập tắt khổ đau. Cơ bản của con đường ấy là Giới, Định, Tuệ biểu hiện qua bảy phương cách thực hiện. Hai bản kinh rất cơ bản này đặt nền tảng trên hai điểm giáo lý trọng tâm: sự thật của khổ, và sự thật về con đường diệt khổ dẫn đến trí tuệ toàn giác thấy như thật các hiện hữu và chân hạnh phúc.

Hai bản kinh đều nhấn mạnh vai trò của Thắng tri, Liễu tri và công phu "Như lý tác ý" làm nổi bật sắc thái trí tuệ của giáo lý Phật giáo: bước đi đầu tiên và bước đi cuối cùng là bước đi trí tuệ. Công phu giải thoát không một khắc rời khỏi Thiền quán về sự thật Duyên khởi hiển lộ sự thật vô ngã, vô thường và khổ đau của mọi chúng sinh, dập tắt mọi ngã niệm...

Về sau, Bát nhã tông và Duy thức tông tiếp tục giới thiệu công phu Thiền quán ấy. Đây là nét giáo lý rất truyền thống của hầu hết các bộ phái Phật giáo, do vì: dập tắt các ngã tưởng là dập tắt tà kiến, vô minh; dập tắt vô minh là dập tắt Ái, dập tắt khổ đau.

2. Phần giáo lý "lậu hoặc do tri kiến đoạn trừ" nêu rõ 36 tác ý về hữu ngã (cái Tôi) làm dấy khởi dục ái, hữu ái và vô hữu ái dẫn đến sinh tử và khổ não; nhận thức sự thật vô ngã sẽ dập tắt 36 ngã tưởng ấy.

Ba mươi sáu tác ý tà kiến trên là nội dung của "Tập đế", và "tri kiến đoạn trừ" là nội dung của "Diệt đế"; con đường thực hiện "tri kiến đoạn trừ" cho đến thời điểm khổ diệt là nội dung của "Đạo đế".

3. Bản kinh số 2 đã xoáy mạnh vào điểm nhiếp phục các ngã niệm, nhiếp phục chấp thủ, tương tự Phật giáo Phát triển. Nối kết với sự thật Duyên khởi mà Đức Thế Tôn giác ngộ dưới cội bồ đề, chi phần Ái, Thủ luôn luôn cùng có mặt, nhưng tùy duyên mà khi thì Thế Tôn phân tích Thủ, khi thì phân tích Ái, khi thì phân tích Thức. Duy thức thì triển khai chi phần Thức; Bát nhã thì triển khai chi phần Thủ; các kinh Nikàya, A Hàm (Tứ đế) thì nhấn mạnh chi Ái; giáo lý nhân quả thì tập chú đi vào Hành. Như thế rõ là kinh số 1 và kinh số 2 thực sự giới thiệu phần giáo lý rất nền tảng và rất truyền thống của hầu hết các bộ phái Phật giáo, từ đó có thể triển khai ra vô cùng.

4. Về vấn đề sắc thái Thiền định của kinh số 2

Định học, hay 37 phẩm trợ đạo thuộc Đạo đế, được bản kinh giới thiệu qua hai nét tinh yếu của "Trừ diệt đoạn trừ" và "Tu tập đoạn trừ "như sau:

a) "Như lý giác sát" (wisely reflective): dập tắt ngay các dục niệm, sân niệm, hại niệm, các ác niệm, bất thiện niệm khởi lên trong tâm: đây là công phu theo dõi tâm của "Tứ niệm xứ" để đoạn trừ "Ngũ cái". Nói khác đi, công phu niệm xứ này được thực hành để vào đệ nhất Sắc định, có thể vào thẳng đến đệ tứ Sắc định làm nền tảng tốt cho công phu thực hành "Thất giác chi".

b) Tu tập "Thất giác chi": Tiếp tục công phu "Như lý giác sát" là công phu "Như lý tác ý" để lần lượt xả ly Ái, Thủ, thành tựu Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Hỷ, Khinh an, Định và Xả giác chi. Tại đây hành giả sẽ tận trừ dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.

Trong hai công phu tu tập vừa nêu trên vốn đã hàm ẩn công phu Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực và Bát Thánh đạo. Giới, Định và Tuệ.

Đây là sắc thái rất đặc thù của thiền định Phật giáo, nổi bật nét Thiền quán (Vipassana) mà các bản kinh tiếp theo sẽ triển khai từng phần.

-ooOoo-

(Nguyệt san Giác Ngộ, số 69, tháng 12-2001)

3. Kinh thừa tự Pháp

Kinh Thừa Tự Pháp
(Dhammadàyàda Sutta) dhammad

Hòa thượng Thích Minh Châu

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, vườn ông Anàthpindika, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và thuyết giảng:

"Này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật". Ta có lòng thương tưởng các Thầy và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy là những người thừa tự tài vật của Ta, không là những người thừa tự pháp, thời không những các Thầy trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự pháp".

Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy là những người thừa tự pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các Thầy trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự pháp, không phải là những người thừa tự tài vật".

Do vậy, "Này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật".

Đức Phật kể câu chuyện:

- Có hai vị Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn, sau khi Ngài dùng cơm đã xong, một vị Tỷ-kheo nghĩ: "Này Thế Tôn ăn đã xong và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn đáng lẽ được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh hay bỏ trong chỗ nước không có chúng sinh". Nhưng Thế Tôn có dạy "Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật". Sau khi suy nghĩ, vị ấy không ăn đồ ăn này, trải qua ngày đêm ấy, đói lả và kiệt sức.

Vị Tỷ-kheo thứ hai nghĩ: "Nay Thế Tôn ăn xong và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh hay bỏ trong chỗ nước không có chúng sinh. Vậy ta hãy ăn loại đồ ăn này trừ bỏ đói lả và kiệt sức". Do vậy, vị ấy ăn loại đồ ăn ấy.

Đức Phật dạy: "Này các Tỷ-kheo, dù cho Tỷ-kheo này sau khi ăn loại đồ ăn để trừ bỏ đói và kiệt sức, nhưng đối với Ta, vị Tỷ-kheo đầu tiên đáng được nể hơn, đáng được tán thán hơn. Vì sao? Vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỷ-kheo ấy trong một thời gian lâu ngày ít dục, biết đủ, kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật".

Thế Tôn thuyết giảng xong và đi vào tinh xá.

Lúc ấy, Tôn giả Sàriputta liền gọi Tỷ-kheo và nói vị: "Này các Hiền giả, như thế nào là vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử không tùy học viễn ly? Và như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly?" Các Tỷ-kheo mong được Tôn giả Sàriputta thuyết giảng, Tôn giả thuyết giảng như sau:

- Ở đây vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử không tùy học viễn ly nghĩa là những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy không được các đệ tử từ bỏ. Vì những pháp ấy không được các đệ tử từ bỏ, các vị ấy sống trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đoạ lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.

Này chư Hiền, có ba trường hợp đáng bị quở trách:

1) Vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử không tùy học viễn ly.
2) Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy các vị ấy không từ bỏ.
3) Các vị ấy sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đoạ lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.

Đó là ba trường hợp đáng bị quở trách bởi Thượng toạ Tỷ-kheo, Trung toạ Tỷ-kheo và tân học Tỷ-kheo.

- Và như thế nào vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly? Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, các vị ấy không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, không dẫn đầu về đoạ lạc, không bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.

Này các chư Hiền, có ba trường hợp đáng được tán thán:

1) Vị Đạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly.
2) Những pháp nào vị Đạo sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy các vị từ bỏ.
3) Các vị ấy không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, không dẫn đầu về đoạ lạc, không bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.

Đó là ba trường hợp đáng được tán thán đối với các bậc Thượng toạ, Trung tọa và tân học Tỷ-kheo.

Ở đây, này chư Hiền, tham là ác pháp, sân cũng là ác pháp, có một con đường Trung đạo diệt trừ tham sân, khiến tịnh nhãn sanh, trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng tri, giác ngộ, Niết-bàn. Con đường Trung đạo ấy tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.