Ánh Sáng Á Châu

Kính mời các bạn cùng tham gia sáng tác và sưu tầm kệ thi ca Phật giáo.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Canh tư vừa mới bước vào,
Phật tường khổ não mạng nào cũng mang.
Ác tà với khổ dựa nương,
Làm cho đình trệ bước đường chánh chơn.
Tỷ như khói với bợn nhờn,
Làm cho nghẹt lửa trong cơn luyện vàng.
Trước là Khổ đế(29) hiện tuờng,
Khổ là cái bóng, đời thường mang đeo,
Mình đi cái Khổ đi theo,
Khổ mà lìa được, mạng teo dứt liền.
Có nhiều trạng thái Khổ phiền:
Mới sanh, khôn lớn, tật nguyền, già nua.
Yêu thương với lại oán thù,
Vui chơi cực nhọc, được thua, giựt giành,
Không ai khỏi bị khổ hành,
Nều mình chẳng có Đạo lành đón ngăn.
Hết vui thì khổ lằn nhằn,
Bề ngoài sung sướng, tâm căn khổ sầu.
Vô minh, lẽ ấy hiểu sâu,
Tức là xa lánh mưu mô gạt mình;
Chẳng còn yêu thích đời sanh,
Mà người có thể tự mình thoát ly.
Mắt bền chiếu thấy như vầy:
Vô minh(30) duyên trước, Hành(31) nầy tới sau;
Thức(32) rồi Danh Sắc(33) nối nhau,
Kế là Lục Nhập(34), Xúc(35) câu, Thọ(36) tình.
Giận, mừng, vui, não, ghét, ganh.
Kế là cái Ái(37) phát sanh, mong cầu:
Thanh nhàn, phước lạc, sang, giàu,
Danh cao, nghiệp cả, gồm thâu nước nhà,
Thiếp thê, tình ái mặn mà,
Món ngon, vật lạ, tố sa, đền đài,
Dòng quí phái, há nhường ai,
Đấu tranh mau dễ hoặc dài thời gian.
Thánh hiền cắt Ái dây oan,
Chẳng tầm, chẳng hại, chẳng toan tranh giành;
Dằn lòng trả nợ tiền sanh,
Dứt trừ phiền não, Nghiệp(38) mình sạch trong;
Bấy giờ người chẳng cần mong,
Cuộc đời sẽ tới ở trong Tiên, Người;
Hoặc là tạo một đời tươi,
Khổ sầu vi tế lần hồi tiêu tan.
Con Đường đi đã vẹn toàn,
Chẳng còn bị gạt bởi đoàn ảo hư;
Ngũ ấm(39)há dối nữa ư?
Các dây trói buộc(40), cắt trừ đã xong,
Chẳng còn luẩn quẩn trong Vòng,
Một phen tỉnh giác, toại lòng, hết mê.
Lớn hơn đại đế ngôi xuê,
Các Trời há dễ sánh bề phước an;
Dứt rồi kiếp sống lầm than,
Được Đời sống mới: Niết bàn viễn miên,
Cảnh nầy khoái lạc hơn Tiên,
Lìa xa khổ não, ưu phiền, đổi thay.
CHÚ THÍCH:

(29) Khổ đế: Chơn lý của sự Khổ: Phạn: Doukha-Sarya. Tất cả là Bốn đế (Tứ đế, Tứ diệu đế): Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
(30) Vô minh: Phạn: Avidya; Pháp: Ignorance, Illusion.
(31) Hành: Phạn: Sankhâra, Samskàrà; Pháp: Impression, Penchant pervers; Sự chuyển động trong tâm, sự toan tính nơi lòng.
(32) Thức: Phạn: Vijnànà; Pháp: Conscience; Sự biết.
(33) Danh sắc: Phạn: Nâma-Rupa; Pháp: Nom et Forme; Tức là thân tâm, ngũ uẩn: gồm Thọ, Tưởng, Hành, Thức, kêu là Danh; Sắc tướng, hình chất, kêu là Sắc.
(34) Lục nhập: Phạn: Sadâyatana; Pháp: Six sens; Sáu căn trong nhập với Sáu trần ngoài.
(35) Xúc: Phạn: Sparca; Pháp: Contact; Sự đụng chạm.
(36) Thọ: Phạn: Védana; Pháp: Sensation, Vie des sens; Thọ cảm thường tình của các căn.
(37) Ái: Phạn: Trisnà; Pháp: Désir; Ham muốn, ưa thích. Từ Vô-minh tới Ái là tám nhân duyên đầu trong Thập nhị nhơn duyên; Còn bốn nhơn duyên nữa là: Thủ, Hữu, Sanh, Tử, Lão Bệnh.
(38) Nghiệp: Phạn: Karma. Tư tưởng và hành động từ các đời trước đến đời nầy hiệp thành một Sức, có thiện, có ác, hoặc toàn thiện.
(39) Ngũ ấm, ngũ uẩn: Phạn: Skandas; Pháp: Cinq agrégats; Năm món ( Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) hiệp lại mà che khuất chơn lý, tự thể, làm cho chúng sanh luân hồi.
(40) Dây trói buộc: Phạn: Oupâdânas; Pháp: Liens.
oOo

Rạng đông bỗng hiện ra ngay,
Chiến công của Phật tô bày hiển vang.
Kìa chòm lửa rực Đông Phương.
Phủng qua những bức nhung trường tối đen.
Sao mai mờ mịt lặn chen,
Những lằn ánh tỏ túa xen nhiều vùng.
Núi non mờ ám xa trông,
Là nơi chào đón vầng hồng trước tiên.
Trăm hoa còn hãy ngủ yên,
Dưới lằn gió ấm, mắt hiền hé ra.
Quang minh lẹ bước đến ta,
Lướt theo ngọn cỏ là đà dưới sương;
Đêm rồi hạt lệ thảm thương,
Sáng nay, sương hóa kim cương chói ngời.
Ánh vui tỏa khắp đất đai,
Vàng ròng viền ở phía ngoài mây đen.
Tàu dừa như tụi tòn ten,
Cúi mình niềm nở đón khen ánh vàng;
Ánh soi khoảng trống rừng hoang,
Soi dòng sông rộng xem dường bửu châu;
Chiếu sang nai lộc bụi sâu,
Bảo rằng: Trời đã bắt đầu ban mai.
Ở trong tổ ấm trên khơi,
Chim còn gục mỏ dưới hai cánh mình,
Hào quang phớt mặt, nhủ rành:
"Các con! Hãy ngắm cảnh xinh ban ngày".
Muôn chim khởi sự trình bày,
Bản ca điệu hát đó đây chào mừng:
Tiếng nầy như sáo xa chừng,
Tiếng kia như trổi vang lừng quốc ca;
Tiếng như đờn ngọt phớt qua,
Tiếng như chát chúa, tiếng la vang rền;
Có con rủ rỉ êm đềm,
Có con như tỏ nổi niềm ái ân.

oOo

Đêm rồi Phật thắng Ma quân,
Sáng nay cảnh vật hỷ hân trong ngoài.
Nhứt là ở giữa nhơn loài,
Hiện ra khí hậu hòa hài, thanh cao,
Kẻ hung bạo cất con dao,
Những tay trộm cướp bỏ bao ngọc vàng;
Kẻ buôn bạc đếm đàng hoàng,
Ác thì hóa thiện, thiện đương trọn lành.
Các vua chiến đấu tạm đình,
Kẻ mang bệnh hoạn cất mình cười reo;
Mạng chung hơi thở cheo leo,
Hở môi cười nụ, tuân theo số phần.
Bình minh đem lại vẻ hân,
Cảnh vui dường ấy do căn lạ thường.
Da Du(41) ngồi ở bên giường,
Nét vui bỗng hiện trên gương mặt sầu,
Dường như bà cảm lẽ sâu:
Hết cơn bỉ cực, bắt đầu thới lai.
An vui khắp cả mọi nơi,
Thần linh mừng rỡ tỏ lời xướng ca.
Chư thiên ở cõi cao xa,
Hô rằng: "Công việc hẳn là xong xuôi!"
Thầy tu, dân chúng nối đuôi,
Cho là đại sự mà vui vẻ nhìn.
Từ nơi rừng bụi, lầy sình,
Tấm lòng Bác Ái mặc tình phát huy.
Hươu rằn ăn cỏ chẳng nghi,
Gần bên cọp mẹ, con bầy bú đeo;
Đoàn heo lại với đoàn cheo,
Cùng nhau uống nước quanh theo bờ hồ.
Thỏ nương gọp đá ra vô,
Chim ưng đứng đó mỏ đùa dưới lông.
Rắn nằm hơ dưới ánh nồng,
Da ngời như ngọc, móc không ló ngoài.
Diều ngơ cho cưởng vãng lai,
Cò xanh mơ mộng, cá chơi gần mình.
Chim sâu đậu nghỉ trên cành,
Để cho doàn bướm mặc tình trở xây.
Tinh thần đức Phật cảm lây,
Loài người thú vật, chim bay bốn bề.
Ngài còn ngồi cội Bồ đề,
Thắng rồi giặc Quỷ, phước về Nhơn gian.
Quang minh của Phật lan tràn,
Sánh cùng mặt nhựt, cả ngàn lần hơn.

oOo

Thế Tôn đứng dậy, hân hân,
Xướng lên tiếng Kệ, xa gần nghe qua:
"Ta đà ở khắp từng nhà,
Mảng tìm gia chủ cất tòa ngục giam;
Đấu tranh cực mãi phải cam,
Nay ta biết được người làm nhà đây.
Người ôi! thôi chớ đắp xây,
Vách tường chứa đựng những bầy khổ đau;
Từ nay, chớ dựng nóc lầu,
Đừng đâm đà nữa, vì đâu còn nhà!
Cột rường gãy hết rồi mà!
Vô minh huyễn hoặc tạo ra môn đình!
Nay ta đến chỗ cao vinh,
Mục tiêu Giải thoát đã tranh đoạt rồi(42)".
CHÚ THÍCH:

(41) Da Du (Yasôdhara): Vợ cũ của đức Thích Ca.
(42) Bài kệ trên đây mà tôi đã dịch nghĩa rộng, do theo chữ Pháp. Kinh chữ Hán gọi là "Tứ cú thành Đạo". Vừa khi thành La hán hoặc thành Phật, mỗi vị đều có đọc bài Kệ nầy:
  • Chư lậu dĩ tận,
    Mọi sự phiền não đã hết,
    Phạm hạnh dĩ lập;
    Đức hạnh thanh tịnh đã lập;
    Sở tác dĩ biện,
    Việc làm của mình đã xong,
    Bất thọ hậu hữu.
    Chẳng còn chịu thân sau nữa.
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ BẢY

Một vùng đồng cỏ xanh rì,
Ven Cô Há Ná(1), sông nầy chảy nhanh.
Từ Ba La Nại đại thành,
Theo chiều Đông Bắc lộ trình ngưu xa.
Năm ngày mới tới đó mà,
Dưới là vườn tược, trên là Tuyết sơn(2).
Triền non nghiêng xuống lần lần,
Bóng cây mát mẻ, hương phưng phức cùng.
Hiện nay ở tại trong vùng,
Nơi không khí thánh còn lồng tịnh hương!
Gió chiều man mác, dịu dàng,
Phớt trên bụi rậm, các hàng đá xưa.
Ấy tòa kiến trúc còn thừa,
Rễ xen kẽ hở, nhành đưa lá vào;
Một màn xanh mịt phủ bao,
Rong rêu, cỏ dại, lá xao chập chồng.
Rắn dài ra khỏi vách phòng,
Nằm trên cẩm thạch, mở vòng, tháo thân,
Một con rắn mối lẹ chơn,
Chạy trên nền đá láng trơn đền rồng.
Dưới ngôi đổ vỡ tứ tung,
Kìa con chồn xám nằm trông yên lành.
Núi sông, gió mát, đồng xanh,
Vẫn không thay đổi, tình hình như xưa.
Ngoài ra, mọi vật tiêu mờ,
Ca Tỳ La Vệ(3) hiện giờ phế hoang!
Còn đâu là cánh đồi vàng,
Cùng ngôi Phật giảng với hàng bà con?
Trong Kinh, sự tích hãy còn,
Ngự lâm có suối, đường mòn, hồ sen;
Hoa đình, biệt thự lần xen,
Ở nơi vườn ấy, Phật quen thuyết truyền.
Chúng dân cung kính lặng yên,
Nghe lời khuyến thiện cho miền Á châu.
Chúng sanh vô số ứng hầu,
Một hôm chứng cuộc thuyết mầu bao la.
Phật ngồi bên mặt vua cha,
Triều thần, Thích chủng, Đề Bà, A Nan.
Đủ đầy thân thích, bá quan,
Đều quanh theo Phật, ngồi an nối liền.
Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên,
Hai vị đệ tử đại hiền đứng sau.
Dựa theo gối Phật, đứng hầu,
La Hầu La trẻ ngước đầu ngó cha.
Ngồi bên chơn Phật có bà
Da Du nay đã thoát ra não phiền,
Thấy rằng tình ái thiêng liêng
Há cần xác thịt không miên trường gì!
Sanh, Già, Bệnh, Chết từ đây,
Đạt Đa, công chúa viễn ly dễ dàng.
Bà cầm tay Phật nhẹ nhàng,
Áo bà phủ vạt y vàng Như Lai,
Cảnh tình hòa lạc, thanh bai,
Chúng sanh ba cõi chờ Ngài diễn phân.
Bài hay, khó tả cho cân,
Xuất từ Kim khẩu, dạy răn mọi loài.
Tôi là soạn giả hậu lai,
Có lòng mộ Phật trọn đời từ bi;
Thuật biên Thánh truyện ly kỳ,
Phải nương cổ điển là vì trí sơ.
Thời gian làm chữ lu mờ,
Người nay khó đạt nghĩa xưa diệu mầu.
Bài văn Phật giảng rộng sâu,
Tôi đây cũng biết, mặc dầu qua loa.
Dự nghe quanh chốn pháp tòa,
Dương là phần ít, âm là phần đông:
Vô biên, vô số các ông
Ở miền Thiên thượng thảy đồng xuống đây;
Chư linh kẻ thác xum vầy,
Các hồn địa ngục cũng quy tựu về.
Trời chiều nán lại chẳng xê,
Ánh hồng chiếu rạng non tê êm đềm;
Dường như chỗ sủng là đêm,
Ánh vàng chểm chệ ở trên non tòng.
Đương khi sáng, tối chập chồng,
Bóng như thiên nữ vẻ trông hữu tình;
Mây luồn như tóc cuốn xanh,
Sao giăng tợ ngọc viền quanh mão vàng;
Trăng như chiếc mão vinh sang,
Tối là tấm áo nàng mang theo mình;
Hơi nàng thở, tức gió thanh
Phớt phơ trên những đồng xanh tít mù.
Trong khi Phật thuyết pháp mầu,
Kẻ rừng, người ruộng, sang giàu, hèn đê,
Những người ngoại quốc tựu tề
Nghe Ngài nói tiếng của quê hương mình.
Trẻ, già cùng các chúng sanh,
Cảm lòng từ ái, hoan nghinh đức Thầy.
Mặc dầu bò, chạy, lội, bay,
Khỉ, hùm, nai, gấu, sói hay ó diều,
Chim câu, khổng tước mỹ miều,
Rắn, dơi, cóc, cá cũng đều lắng nghe;
Thâu bác ái, phát Bồ đề,
Rồi đây siêu thoát khỏi bề súc sanh.
Trước vua, trong pháp hội lành,
Thế Tôn giảng thuyết đành rành dưới đây:
CHÚ THÍCH:

(1) Cô Há Ná (Kohâna).
(2) Tuyết sơn, dịch nghĩa chữ Hy Mã Lạp Nhã (Himalaya).
(3) Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastou): Kinh đô xứ vua Tịnh Phạn, Thái tử Thích Ca sanh trưởng ở đó, lập gia đình ở đó, nửa đêm bỏ thành mà xuất gia. Sau khi thành Đạo, Ngài trở về thành ấy mà giáo hóa vua cha , vợ cũ, quan dân.
oOo

Án A Di Đà Dà(4) nầy;
Chớ dùng lời nói trình bày vô biên;
Đừng dùng tư tưởng tiếp liên
Toan dò Vô tận là miền thậm thâm!
Đành rằng kẻ hỏi thì lầm,
Người nào giải đáp cũng lầm lạc ngay.
Vậy nên nín lặng là hay,
Kinh rằng Nguyên thủy chỉ đầy U minh;
Bấy giờ vạn vật chưa sinh,
Phạm-Thiên nhập định một mình trong đêm.
Chớ nên nghĩ tưởng Phạm Thiên
Cùng là nguyên thủy mà thêm rối lòng.
Trí phàm mắt thịt khó thông,
Lần hồi màn tối sẽ bùng vẹt ra.
Theo đường, tinh tú lại qua
Mà không gạn hỏi gần xa thế nào.
Có sanh, có tử chớ sao,
Sướng rồi lại khổ, nhơn vào quả ra;
Thời gian, giòng nước đời ta,
Chậm, mau, lên, xuống, lại, qua chẳng ngừng;
Bắt từ nguồn ngọn xa chừng,
Chảy lần tới biển mới ưng dứt nguồn.
Thái dương rút nước biển luôn,
Biến thành mây nhuyễn bay luồn, chuyển mưa;
Non cao, nước xuống tuôn bờ,
Cứ đi đi mãi, chẳng giờ nghỉ ngơi.
Như vầy đủ hiểu cuộc đời,
Các cơn phát hiện, Đất, Trời, Thế gian,
Mọi điều biến dị nguy an,
Bánh xe luân chuyển tuần hoàn mạnh ghê;
Đấu tranh, Sức lực theo về,
Không ai cản nổi hoặc xê nghịch vòng(5).
Thôi đừng cầu nguyện uổng công,
U minh chẳng có sáng trong tí gì.
Hỏi chi thanh tĩnh vô vi,
Vẫn là yên lặng có chi ứng lời!
Cũng đừng khổ hạnh mòn hơi,
Trí thêm mòn thảm, mà đời phế vong!
Anh em, các chị đừng mong,
Thần không tư vị mà hòng cúng dâng;
Chớ đem huyết nhục lễ mừng,
Trái tươi, bánh ngọt cũng đừng dọn mâm.
Đạo Giải thoát, tự mình tầm,
Mình xây ngục tối, mình cầm quyền to.
Chư linh oai thế khó dò,
Loài người, mọi chúng quanh co Sáu đường.
Thảy do Hạnh Nghiệp tạo thường,
Hoặc đem phước lạc hoặc vương nạn sầu.
Việc rồi đưa tới việc sau,
Dữ theo với dữ, lành câu sự lành,
Chư vị các cảnh Thiên đình,
Hiện nay hưởng quả tu hành đã qua;
Quỷ yêu chốn thấp phải sa,
Vốn xưa bày chuyện phá gia, hại đời.
Không chi tồn tại chẳng dời,
Phước dày cũng hết, tội khơi cũng mòn.
Tôi đòi thân phận héo hon,
Nhờ công thiện đức, làm con Đế hoàng.
Đến như vua chúa cao sang,
Do cơn lầm lỗi, lang thang cõi trần!
Mạng ngươi, Đế Thích khó hơn,
Nhưng ngươi có thể mang thân dế, trùng.
Muôn đời lên tới mức cùng,
Muôn đời mới xuống đến vùng thấp nê.
Xa luân còn mãi đi về,
Con người chẳng nghĩ, chẳng hề dừng chân.
Kẻ lên có thể tuột lần,
Kẻ nào sa xuống lại cần trèo lên!
CHÚ THÍCH:

(4) Án A Di Đà Dà (Om Amitaya): câu chơn ngôn có sức linh thủ hộ người niệm.
(5) Bánh xe luân chuyển ấy do sự Đấu tranh và Sức lực thúc đẩy nó quay mãi mà không ai ngăn cản nổi, không ai làm xê dịch nổi.
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chân tâm cứ vẫn quay bền,
Nều ngươi dính mãi trong niền Bánh xe!
Ắt lòng Đức Phật phải se,
Tâm hồn vạn vật chỉnh e khổ sầu!
Nhưng ngươi chẳng dính mãi đâu!
Tâm hồn vạn vật ôn nhu, dịu dàng;
Tấm lòng Đức Phật nhẹ nhàng,
Chí cao há dễ nhịn nhường khổ nguy!
Việc tươi đẹp ắt phát huy,
Sau cùng đến mức tinh vi, hoàn toàn.
Bây giờ ngôi Phật ngự an,
Ta từng khóc kể, lầm than bao lần!
Nay ta vui sướng, cười rân,
Vì ta tự tại mười phân vẹn mười!
Anh em thảm khổ hổ ngươi,
Tại mình tất cả, trách người sao đang.
Không ai đốc xúi, cản ngang,
Khiến mình sống thác, đeo mang trong Vòng;
Lăn qua lộn lại lòng dòng,
Khóc than, sầu não, bại vong, tán lìa;
Vậy ta chỉ bảo cho nghe:
Thấp hơn Địa ngục, trên lề Thượng thiên,
Xa hơn tinh tú các miền,
Vượt ra cảnh giới Phạm Thiên hẳn rồi,
Ấy Năng lực thánh một ngôi,
Khởi từ vô thủy đến hồi vô chung;
Thường hằng như cõi hư không,
Chắc như Sự thật, theo cùng Thiện, Minh,
Tuân hành luật lệ của mình,
Tường vi nhờ Nó mà sanh hoa hồng;
Cánh sen nhờ Nó đơm bông,
Mùa xuân do Nó dệt xong áo dài.
Điểm to những áng mây trời,
Khiến lông khổng tước chói ngời như châu.
Các sao là những đài lầu,
Gió, mưa, ánh sáng ứng hầu, kính vâng.
Làm cho tâm ám sáng bừng,
Từ nơi quả trứng, trĩ rừng nở ra.
Sức nầy động tác mãi mà,
Chuyển lòng Giận, Hại, hóa ra dịu, hiền;
Giữ gìn những trứng chim quyên,
Bảo tồn mật ngọt trong viền ổ ong.
Chim câu trắng, con kiến hồng
Ở theo Luật ấy, hiểu thông cũng rành.
Phụng hoàng vỗ cánh mây xanh,
Đem mồi về ổ, tuân hành Sức kia.
Làm cho sói mẹ quay về,
Khiến người cô thế được bề ái thân.
Không chán thối, chẳng tần ngần,
Yêu thương tất cả đồng phần như nhau:
Nó căn sữa mẹ đầy bầu,
Lại còn đem nọc vào đầu răng đen.
Trong trời rộng rãi vô biên,
Địa cầu, tinh tú luân phiên điều hoà;
Sức kia tàng trữ dưới xa
Bạc, vàng, mã não, mọi tòa bửu châu.
Thường thường định đặt cơ mầu,
Nương chơn tùng bá, ẩn đầu rừng xanh;
Dưỡng nuôi thảo mộc dị hình,
Phát minh hoa, lá, ngọn ngành nhỏ to.
Giết rồi, cứu sống lại cho,
Chẳng qua thực hiện đắn đo Mạng trời.
Tử và Khổ tựa thoi dài,
Ái, Sinh là những chỉ gai dệt vào.
Sức kia chẳng ngán chút nào,
Làm rồi lại phá, sửa sao cho thuần.
Bàn tay khéo léo quây quần,
Món đồ tạo tác lần lần tinh vi.
Đó là trước mắt thường khi,
Việc người chẳng thấy còn hay hơn nhiều.
Tâm tình, trí thức đủ điều,
Nghĩ suy chủng tộc, hướng chiều quốc gia,
Thảy tùy Pháp lý bao la,
Tuy là chẳng hiện, nhưng mà đỡ nâng;
Chẳng ai nghe tiếng nói năng,
Nhưng còn phát mạnh hơn vầng bão to.
Từ Bi là lộc ấm no,
Bạo tàn từng khiến thảm lo mọi người.
Sức linh, ai dám chê cười?
Tuân hành được việc, nghịch lười bại vong.
Thưởng ban người thiện ẩn công,
Phạt răn kẻ ác giấu tung tích mình.
Thấy cùng khắp, xét tình hình,
Phước trao chánh trực, nạn dành tà tây.
Chẳng thù hận, chẳng nới tay,
Đo lường đúng mực, không hay lạc lầm.
Pháp nầy chẳng hạn bao lăm,
Mai này Nó xử, hoặc cầm về sau.
Kẻ mưu sát ắt đứt đầu,
Quan tòa bất chánh bị thâu quyền hành,
Dối người, tội hại lấy mình,
Tham lam mất của, giựt giành mất ăn.
Đó là Lẽ Pháp[(6) công bằng,
Không ai trốn tránh hoặc ngăn được nào.
Tâm là Từ ái dồi dào,
Quả là An lạc, mức cao: Trọn Lành.
CHÚ THÍCH:

(6) Pháp, Đạt ma (Dharma).
oOo

Trong Kinh có dạy đành rành:
Đời nay là quả của mình từ xưa:
Lỗi quá khứ, khổ hiện giờ,
Trước mình làm phải, nay nhờ phước đeo.
Người ta gặt cái đã gieo,
Hãy xem vườn ấy, mè theo với mè.
Lúa trồng, gặt lúa há e?
U minh, Tịch tĩnh hiểu nghe lẽ nầy.
Mạng người sẵn định như đây,
Xưa gieo mè, lúa, trổ nay lúa, mè;
Đời xưa trồng cỏ độc nè,
Đời nay gặt độc, nặng đè xót đau ;
Nếu người tỉnh ngộ, siêng mau,
Nhổ loài cỏ độc, trồng sâu giống lành,
Rồi đây ruộng tốt, mùa xinh,
Mình và bá tánh mặc tình hưởng vui.
Nếu ai biết cội khổ nguy,
Bền gan nhận lấy cho rồi khổ xưa.
Thi hành Chơn lý, lòng Từ,
Không sanh tệ hại, dối lừa, tham riêng;
Chịu kham khổ, rất dịu hiền,
Lấy ơn trả oán, chẳng phiền kẻ ngu.
Lần hồi hòa nhã, ôn nhu,
Công bình, thanh khiết, tâm tu chơn thành.
Nhổ lên rễ Dục quấn quanh,
Làm cho hết tríu cuộc sanh sống nầy.
Làm xong những việc như vầy,
Mạng chung, Đời mới ắt xây móng nền.
Nợ nần cũ đã xóa tên,
Chỉ còn Thiện mới, vững bền, tốt tươi.
Chẳng cần mạng số làm người,
Xử xong nghiệp thế, ra ngoài trần gian.
Chẳng còn khổ cực, gian nan,
Tội tình hết vướng, đắc An trọn bề.
Niết-Bàn, người được nhập về.
Thường hằng, bất diệt, ngoài lễ tồn vong.
Án Ma Ni Bát Di Hồng(7)!
Giọt sương tản mác vào lòng Biển khơi.

oOo

Đó là lẽ Nghiệp(8) cao vời,
Lỗi lầm, Phiền não phải rời khỏi tâm;
Đời tàn lụn, dầu chẳng châm,
Hết Sanh thì Nghiệp hết tầm hiện ra.
Chớ nên kể đến cái Ta:
Ta nay, Ta đã, Ta là về sau.
Lại đừng nghĩ nhớ tới câu:
"Ta lìa thân khác mà đầu thân ni,
Cũng như lữ khách đó đây,
Đổi thay chỗ trọ trong khi viễn hành".
Bao nhiêu đời trước hợp thành,
Xây đời hiện tại, đời sanh sau nầy;
Tạo thân thể, cảnh nhà đây,
Như tằm kéo kén, ngày ngày ở trong;
Sắm thêm vật phẩm, tùy dùng,
Như trong trứng rắn, phụ tùng răng, lưng;
Lại như hạt giống sậy rừng,
Sa vào đất, đá rồi bừng mọc cây.
Thân tâm đáo lại chốn nầy,
Thọ nhiều hạnh phúc hoặc hay khổ nàn.
Ác tà khí thác chẳng an,
Những phần ô trược mê man, dật dờ,
Phiêu lưu gió, bụi, bợn nhơ,
Sớm thì chịu lạnh, đến trưa chịu nồng.
Người hiền gặp lúc mạng chung,
Gió lành thổi mát, Đời trông huy hoàng.
Như sông chảy giữa đồng hoang,
Ẩn đây, hiện đó lại càng đẹp xinh.
Vậy nên công đức đắc thành
Tạo ra thời đại hòa bình, an cư.
Nhưng cần phải có lòng Từ
Giữa người trong xứ cũng như nước ngoài.
Có chi trở ngại hỡi ai?
Ấy là ám độn gạt đời: Vô minh.
Con người lạc nẻo đã đành,
Ngỡ là cảnh giả là hình chánh chơn;
Chạy theo bóng dáng chẳng sờn,
Được rồi, ham nữa, sanh hờn, khổ, đau.
Đường "Trung đạo", nếu muốn cầu,
Quyết mau tiến tới để thâu Niết bàn,
Hãy nghe ta giảng từng ban,
Bốn nền Diệu đế vẹn toàn dưới đây:
CHÚ THÍCH:

(7) Âm theo Phạn: Om Mani Padmé, Om!
(8) Nghiệp; Phạn: Karma; Nghiệp hợp bởi hai phần: Nhơn (Nghiệp nhơn) và Quả (Nghiệp quả) thiện hoặc ác.
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đế đầu tức thị Khổ đây,
Chớ nên mê lụy, đắm say cuộc đời.
Chỉ là thống thiết hỡi ơi,
Não nề, tồn tại, hòa hài tách xa.
Khổ thay khi mới sanh ra,
Khổ vì thất vọng, thạnh là khổ luôn;
Âm suy khổ, bệnh khổ buồn,
Già nua cũng khổ, chết tuôn khổ sầu.
Trọn đời khổ, có gì đâu?
Thế nhơn thường lại tham cầu ái ân;
Má đào, môi thắm, vóc trơn,
Có ngày cháy khét, chịu phần hỏa thiêu,
Chiến công rực rỡ bao nhiêu,
Vua tài, tướng mạnh cũng đều bỏ thây.
Thế gian cảnh đẹp phô bày,
Chúng sanh tranh sống lại quày giết nhau.
Trời như ngọc tốt một bầu,
Nhân dân đói khát, vái cầu chẳng mưa.
Hỏi người bệnh tật dây dưa,
Hỏi người chống gậy, răng thưa, mù lòa:
Sống đời thú vị chăng a?
Đáp rằng: Khen trẻ tu oa chào đời!

oOo

Tập là Diệu đế thứ hai,
Nhơn duyên khổ não chẳng ngoài ái tâm(9).
Căn, trần hai thứ đụng nhằm,
Nháng ra thành lửa mê lầm, tríu, tham.
Chẳng qua ảnh dối, mộng xàm,
Các người đeo riết, chẳng làm sao buông;
Giữa là bản ngã vọng cuồng,
Chung quanh cảnh giới như tuồng huyễn vu.
Các người như kẻ đui mù,
Chẳng nhìn ánh sáng nhiệm mầu, rất cao;
Các người tai điếc hay sao,
Chẳng nghe tiếng gió ngọt ngào trên khơi?
Miệng câm nên chẳng đáp lời
Cùng trang chơn thật bỏ đời phỉnh ngoa.
Vậy nên giành giựt, tham tà,
Làm cho mặt đất can qua diễn bày.
Bị lầm, bao kẻ nuốt cay,
Mắt sa giọt lệ, tâm đầy xót đau.
Vậy sanh phiền não, oán thù,
Ghét ganh, tật đố, giận nhau cả đời.
Năm nầy hung bạo máu rơi,
Năm kia giết hại, phơi thây đầy đồng.
Chỗ nào có lúa dòng dòng,
Tức xen cỏ dại, rễ bông hại người.
Giống lành cam phận hổ ngươi,
Thiếu phân, thiếu đất, tốt tươi được nào?
Tâm lạc nẻo, độc uống vào,
Nghiệp sanh ra nữa, khát khao lại nhiều,
Căn(10) nương cảnh(11) ngoại mà đeo,
Làm cho Bản ngã mãi theo vọng lầm.
CHÚ THÍCH:

(9) Ái, tức Ái dục; Phạn: Trishna.
(10) Trong là sáu căn;
(11) Ngoài là sáu cảnh (sáu trần).
oOo

Đế ba, Diệt khổ thân tâm,
Thắng lòng Tự ái, tình thâm với đời;
Rễ phiền não, bứng rã rời,
Giữ không chấn động ở nơi lòng mình.
Tình yêu chuyển biến tốt xinh,
Con người tự chủ, cao vinh hơn thần;
Trở nên phú túc vô ngần,
Nhờ ơn bố thí, tu thân, khuyên lành;
Những công của ấy theo mình,
Sống thì giữ lấy, thác đành đem theo.
Bấy giờ khổ não ắt tiêu,
Tử, sanh phải dứt, đèn treo hết dầu!
Nợ xưa trút sạch làu làu,
Sổ nầy trắng trẻo, người thâu Phước lành.

oOo

Thứ tư, Đạo đế giải rành,
Con đường bằng phẳng, thinh thinh hầu kề.
Mọi người có thể theo về,
Noi đường Bát Chánh đắc bề Lạc, An.
Xưa nay, tu sĩ muôn ngàn,
Đã từng tới đỉnh đầy tràn tuyết, mây.
Triều non chỗ dịu, chỗ gay,
Ai lên thì ắt có ngày tới nơi.
Bấy giờ trên đỉnh tót vời,
Trông xa thấy một cảnh trời khác xưa.
Những người dõng lực có thừa,
Lướt đường thẳng, tắt lại vừa cheo leo.
Những ai yếu sức cũng trèo.
Nghỉ chân nhiều chặng và theo đường dài.
Đó là Bát Chánh Đạo khai,
Đưa về an tĩnh, dốc, lài khác nhau;
Đầu non tuyết phủ trắng phau,
Yếu thì đến chậm, dạn mau tới miền.

oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Noi theo Chánh Kiến đầu tiên,
Pháp(12) lành nên giữ, Nghiệp(13) hiền khá tuân;
Do Nhơn Quả(14) tạo hiện thân,
Hãy lo kiềm chế sáu phần giác quan.
Chánh Tư duy, biết xét bàn,
Thương người xót vật, lo toan hiền lành,
Chẳng tham, chẳng giận, chẳng ganh.
Dường như gió mát, đời mình nhẹ trôi.
Thứ ba là Chánh Ngữ rồi,
Giữ mồm như lính đứng ngồi Ngọ môn;
Nói lời thành thật, ôn tồn,
Cũng như chầu bực quý tôn vua hiền .
Bốn là Chánh Nghiệp tiếp liền,
Lỗi lầm giảm bớt, phước điền cao thâm;
Việc làm phát lộ từ tâm,
Như trong hạt chuỗi thấy ngầm sợi dây.
Lại còn bốn nẻo vinh thay,
Muốn noi thì phải rảnh tay việc trần.
Chánh Mạng với Chánh Tinh cần(15),
Chánh Niệm, Chánh Định đủ phần tám ban,
Ớ hồn yếu cánh chớ toan
Bay lên mặt nhựt muôn ngàn cao xa!
Ở đây, không khí dịu hòa,
Vật dùng quen thuộc vốn là không nguy.
Riêng nhà dõng lực khó bì,
Tự mình có thể vượt đi xa đường.
Thương con mến vợ đạo thường,
Đó là việc tốt chẳng phường hại chi.
Bạn bè có lại có đi,
Lâu lâu giải trí vậy thì cũng nên.
Của tiền giúp kẻ khóc rên,
Ở ăn hiền hậu, hưởng bền phước ân.
Lo lo, sợ sợ, ngại ngần,
Tuy là sái quấy, tinh thần vẫn quen.
Nếu cần, hãy rán bòn chen,
Leo thang từng nấc, tập rèn nết na.
Tháng ngày tiến hóa dần dà,
Trước nương hữu tướng, kế qua vô hình.
Hạ, Trung rồi tới Thượng hành,
Tùy theo căn tánh của mình mà lên,
Như vầy, dễ đạt mức trên,
Tội mòn, tình giảm, nhập đền Thế tôn.
CHÚ THÍCH:

(12) Pháp (Dharma).
(13) Nghiệp (Karma).
(14) Cái nghiệp (Karma) hợp lại bởi hai phần: Nhơn tức nghiệp nhơn, Quả, tức Nghiệp Quả.
(15) Chánh Tinh cần, tức Chánh Tinh tấn.
oOo

Sơ Quả(16) đắc, Tứ đế ôn,
Tu hành Bát Chánh, Pháp môn Niết bàn.
Kế thâu Nhị Quả(17), tâm an,
Không nghi Chánh pháp, dị đoan dẹp trừ;
Chẳng mê sách vở, ni sư,
Còn sanh một thuở, nhập ư Niết bàn.
Quả Ba(18) cao trổi khó bàu,
Tinh thần oai mãnh lại hoàn tịnh thanh;
Từ tâm yêu khắp chúng sanh,
Luân hồi tái thế hẳn bành cáo chung,
Quả Tư, La hán viên dung,
Của hàng Thánh giả Lục thông, Phật Đà.
Lần hồi Bốn Quả trải qua,
Cuối cùng hành giả lìa xa Mười Lầm :
Kiến thân, thủ giới, nghi tâm,
Giận hờn, ái luyến, tình thâm dục trần,
Ngưỡng mong cõi Sắc cao hơn,
Hoặc Tham vô sắc, kiêu lờn, rối ren,
Vô minh lầm lạc từng quen,
Sau cùng dứt được, dự chen Niết bàn,
Nương minh đảnh tuyết Thái san,
Ngó lên vô tận một màn xanh xanh.
Thần tiên thấp, muốn như mình,
Tang thương Tam giới chẳng chinh tấc lòng.
Tử sanh, mình hết vướng vòng,
Nghiệp không tạo tác nhà phòng làm chi.
Chẳng cầu, nhưng có đủ đầy,
Tiêu tan Bản ngã, hòa vầy Hư không.
Niết bàn chẳng phải là Không,
Cũng không phải có, khó mong hiểu tường;
Đó là nguồn sáng khôn lường,
Phước linh vượt khỏi thế thường, thời gian.
Hãy vào Cửa đạo vui an,
Càng nhiều sân hận, càng lan khổ hình.
Ốm đau gây bởi dục tình,
Giác quan là bọn gạt mình vậy thôi.
Hãy vào Cửa đạo cho rồi,
Tình yêu, sở thích bỏ trôi chả cần.
Hãy vào Cửa đạo vững chân,
Suối lành, nước tịnh thoả phần khát khao.
Muôn hoa trường thọ ngạt ngào,
Nở dài theo lộ, đón chào khách tu.
Canh tàn khắc lụn như ru,
Gởi thân vào Đạo, xuân thu thanh-nhàn!
Pháp hơn vàng ngọc thế gian,
Diệu hơn mật ngọt, vượt ngàn cuộc vui.
CHÚ THÍCH:

(16) Sơ Quả: Phạn: Tu Đà Hoàn (Sotapatti).
(17) Nhị Quả: Quả thứ nhì; Phạn: Tư Đà Hàm (Sakadagami).
(18) Quả thứ ba, Phạn: A Na Hàm (Anâgâmi).
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Tu hành muốn chẳng thối lui,
Hãy nghe Năm giới đầu đuôi cho rành:
Lòng thương chẳng giết mạng sanh,
Vật đương tiến hóa thì mình đỡ nâng.
Khi cho, khi nhận tùy ưng,
Của tiền phi nghĩa thì đừng đoạt thâu.
Không láo xược, chẳng phao vu,
Do lòng trong sạch nói câu chơn thành.
Giữ gìn thân tỉnh, tâm minh,
Rượu nồng chớ uống, đồ tanh chớ cầm.
Tránh điều hoa nguyệt tà dâm,
Ra vào nghiêm chỉnh, ngồi nằm đoan trang.

oOo

Phật bèn giảng dạy Luân thường:
Mẹ cha, con cái, lân bàng, anh em.
Những ai còn bị buộc kèm,
Thê thằng tử phược lèm nhèm chẳng ra;
Những ai chưa lướt cao xa,
Hãy làm phước thiện, hiền hòa, tu thân;
Trên đường Bát chánh dò lần,
Sống cho trong sạch, nghĩa, nhân, khiêm, nhường;
Chúng sanh lên xuống Sáu đường,
Mình thương tất cả như thương lấy mình.
Việc chi tồi tệ hiện hình,
Đó là kết quả tội tình buổi xưa;
Việc chi tốt đẹp chúng ưa,
Do nhơn thiện phước ban sơ tạo thành.
Nhờ công thứ tự tu hành,
Thoát ly bản ngã, đức lành độ tha.
Chuyển sanh, hưởng phước thêm ra,
Dự hàng Bất thối chẳng xa Bồ đề.
Phật bèn thuật chuyện tu tề:
Thế Tôn lúc trước ngự về Trúc lâm,
Nước Ma Kiệt, chốn phúc âm,
Kinh đô Vương Xá, trung tâm Đạo mình;
Một hôm, nhằm lúc bình minh,
Dạo chơi gặp một thư sinh con nhà.
Thi Ca La Việt tên là,
Bà la Môn chủng, nết na tu hành.
Gội đầu, rửa mặt, kỳ mình,
Bước ra khỏi nước, kính thành Sáu phương:
Đông, Tây, Nam, Bắc hướng thường,
Phương Trên, Phương Dưới cũng đương lạy quỳ,
Phật rằng: "Lễ bái việc chi?"
Bạch Ngài: "Tiên tổ dạy thì phải vâng;
Ánh trời buổi sáng vừa hừng,
Trước khi làm lụng, lạy mừng dưới, trên;
Cùng là lễ kính bốn bên,
Cầu xa tai ách, phước bền gia trung".
Thế Tôn gạn đục lòng trong:
"Thôi đừng rảy gạo khắp cùng sáu phương.
Hãy đem tư tưởng hiền lương
Với hành động thiện, khéo lường phổ xa:
Đông phương là mẹ với cha,
Hào quang từ đó phát ra thế trần.
Nam phương thầy dạy ân cần,
Mình theo học tập hưởng phần phước son.
Tây phương là vợ với con,
Gia đình êm thấm, cơm ngon buổi chiều.
Bắc phương là bạn mến yêu,
Đồng bào, đồng loại dắt dìu với nhau.
Hạ phương tức kẻ tớ hầu,
Mình nên đùm bọc, bảo câu ngọt ngào.
Thượng phương, biểu hiện hùng hào,
Thánh hiền, đạo đức, tiên cao, linh thần.
Sáu phương kính, phận sự cần,
Thi hành được vậy, phước gần họa xa(19)".
CHÚ THÍCH:

(19) Nghiệp, Phạn: Karma.
oOo

Đó là khuyên kẻ tại gia(20);
Với hàng Tăng chúng, Phật đà thuyết cao.
Dạy cho Thập giới(21) thanh tao,
Tam môn(22), Tam trí(23), khiến vào Lục thông(24),
Lục Ba la mật(25) gắng công,
Dạy luôn Bát Định(26) thoát vòng lao luy.
Trước là dạy phép Tam Quy(27)
Sống nơi tịnh thất, an di, thanh bần.
Cơm rau, nước mát là cần,
Tam y, bình bát đủ phần nghiêm trang.
Tăng già giáo hội vinh vang,
Tiếp truyền độ thế, áo vàng cà sa.

oOo

Trọn đêm Phật ngự Pháp tòa,
Chẳng ai buồn ngủ, nghe và thích ưa.
Thế Tôn thuyết diễn mãn giờ,
Đức vua lễ bái, rồi thưa mấy lời:
"Từ bi nhờ lượng của Ngài,
Nhận tôi đệ tử vào nơi Hội lành".
Da Du công chúa kính trình:
"Xin truyền Pháp Bảo con mình Hầu La(28)".
Ba người(29) nhập Đạo Phật đà,
Pháp môn giải thoát cho nhà tĩnh tu.
Đến đây xin phép ngừng câu,
Tôi người ngưỡng mộ đức mầu Thích Ca,
Ngài thương tất cả chúng ta,
Tiếc tôi biết ít, nói ra kém bề.

oOo

Kể từ thành Đạo Bồ đề,
Bốn mươi chín tuế chợ quê giảng truyền,
Thuyết bằng ngôn ngữ các miền,
Chỉ cho mọi lối dứt phiền, đắc an,
Ánh minh Ấn Độ rọi lan,
Á châu rồi lại khắp tràn Năm châu.
Gió lành bủa cả hoàn cầu,
Sức linh Phước huệ đổi sầu hóa vui.
Trong Kinh có chép đủ hồi,
Thị thành, tinh xá, Phật lui tới thường;
Các vua ghi tích cúng dường,
Khắc trên hòn đá, nẻo đường, động thanh,
Đến khi sự nghiệp hoàn thành,
Như lai nhập diệt, pháp lành còn soi.
Đạo nầy, vô số người noi,
Niết Bàn mục đích, nhắm coi mà về.
Phật Đà oai đức cao xuê,
Dung tha đệ tử vụng về câu văn!
Trí phàm khôn độ thánh căn,
Lời thơ yếu ớt khó phăng Lòng Từ!
Phật là đèn sáng, Đạo sư,
Qui y với Phật, dứt trừ tối tăm.
Pháp Ngài, Đạo lý thậm thâm,
Qui y với Pháp là nhằm lẽ hay.
Tăng là trong sạch hằng ngày,
Qui y Tăng chúng đức dày giúp nên.
Sương ngời trên cánh hoa sen,
Trông vào vầng nhựt lộ lên, chiếu cùng.
Án Ma Ni Bát Di hồng!
Bình minh lố thấy, vầng hồng sáng trưng.
Giọt sương như ngọc chiếu bừng,
Tản vào Biển rộng, lâng lâng, vô cùng.

Dịch xong năm 1961
Đoàn Trung Còn
CHÚ THÍCH:

(20) Đoạn trên đây trích ở Thi Ca La Việt Kinh; Kinh nầy tôi có dịch, xuất bản chung với quyển Na Tiên Tỳ Kheo kinh.
(21) Thập Giới (Phạn: Dasa-sila): Mười Giới cấm.
  1. Chẳng giết mạng sống.
  2. Chẳng trộm cắp.
  3. Chẳng dâm dục.
  4. Chẳng nói bậy.
  5. Chẳng uống rượu
  6. Chẳng sửa tóc đẹp, hương tốt thoa mình
  7. Chẳng đóng vai trò múa hát, cũng chẳng tới xem nghe
  8. Chẳng được ngồi trên giường lớn cao rộng
  9. Chẳng được ăn quá ngọ
  10. Chẳng được chứa tiền bạc, vàng, đồ quí.
(22) Tam môn, tức Tam giải thoát môn: Không, Vô tướng, Vô tác (Vô nguyện).
(23) Tam trí: Thinh văn Trí, Duyên giác Trí, Phật Trí.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.2 khách