Ánh Sáng Á Châu

Kính mời các bạn cùng tham gia sáng tác và sưu tầm kệ thi ca Phật giáo.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Phát đồ đâu đó vừa yên,
Các quan nhìn rõ nghe liền hết trơn.
Trở vào tâu lệnh Thiên nhan,
Hoàng nam tưởng đã phàn nàn chẳng ai.
Bỗng đâu bước tới bên ngai,
Da Du con lão Xu Rai Phật đà(7)
Thấy nàng, chàng ngẩn người ra,
Hai bên bốn mắt nhìn qua rõ ràng;
Ngọc đeo chàng lấy tặng nàng,
Ngó nhau cũng đủ tỏ tường tình thâm.
Vua nghe vui vẻ phán rằng:
"Mồi ngon kiếm được, hãy tầm cách xoay,
Chim ưng duỗi cánh trên mây,
Lấy mồi ta nhử xuống đây mắc hàm.
Sai quan qua đó hội đàm,
Hỏi cô gái ấy, cưới đem vào đền".
CHÚ THÍCH:

(7) Soubra-Bouddha.
oOo

Nhưng trong họ Thích tục truyền:
Cưới người sang trọng phải nên tranh tài;
Con vua thì cũng như ai,
Thắng người tranh cuộc, duyên hài mới xong.
Cha cô gái đẹp bảo cùng:
Các ông hoàng tử cũng đồng mến yêu,
Quý ngài về tấu giữa triều,
Cung, thương, kỵ mã đủ điều thì vâng;
Nếu chàng sức có trổi hơn,
Thắng người đoạt cuộc, lão mầng gả ngay.
Nhưng e chàng chẳng tài hay,
Vì không từng thoát khỏi bầy cấm cung".
Vua nghe, rất đỗi sầu lòng,
Vì lo Thái tử thất trong diễn tràng.
Tài tình gẫm lại nhiều trang,
Đề Bà bắn giỏi tiếng vang trong thành,
Ác Xu Na(8) cỡi ngựa lanh,
Nan Đà(9) thí võ có danh chúng tường.
Cười thầm, tâu với Phụ vương:
"Những môn thao lược con thường học qua;
Nay xin cha kíp truyền ra,
Môn nào ai giỏi thì con đấu cùng.
Khó gì cái cuộc kiếm cung,
Con không để mất tình chung đâu mà".
Lịnh truyền bảy bữa chẳng xa,
Đông cung Tất Đạt đứng ra sánh bày.
Ai mà thắng cuộc đấu nầy,
Da Du mỹ nữ sẽ vầy căn duyên.

oOo
CHÚ THÍCH:

(8) Arjouna.
(9) Nanda.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đến ngày nhứt định như trên,
Vương tôn công tử bốn bên tựu về;
Những người thị tứ thôn quê,
Cùng nhau hội lại vì mê cuộc nầy.
Mỹ nhơn cũng có đến đây,
Bà con cha mẹ bao vây bên mình;
Làm như đám cưới linh đình,
Trống kèn chập trổi rang rình rất xuê,
Cộ xe kết tuội treo huê,
Có thêm màn trướng, nệm kề dưới lưng.
Mấy con bò có bông chưng,
Màu vàng tô điểm trên sừng ửng ra.
Đề Bà cũng gốc hoàng gia,
Đứng ra xin cưới con nhà trâm anh;
Nan Đà vương tử tài danh,
Ác Xu Na cũng ra tranh vợ hiền.
Kế là Thái tử bước lên,
Cỡi con Càn Trắc(10) hí rền đám đông.
Cuộc nầy ngựa chửa từng trông,
Đến nay thấy lạ nên vùng hí lên.
Đông cung Ngài cũng ngạc nhiên,
Trông qua dân chúng sống bên hoàng thành.
Tuy là họ chẳng như mình,
Uống, ăn, mặc, ở, chẳng vinh sang bằng;
Nhưng mà vốn một tâm càn,
Khoái vui, sầu não cũng hằng trải qua.
Da Du, vừa mới thấy ra,
Nụ cười ửng nở mặt hoa đức Thầy.
Tay gò cương lụa thẳng ngay,
Chân liền bước xuống, miệng rày hô lên:
"Ai người tài trí bực trên,
Mới là đáng đoạt ngọc liền quý ưa.
Ta đây có đáng hay chưa,
Hãy ra mà thử cho vừa lòng đi".
Nan Đà bày cuộc bắn thi,
Trống đồng đem để cách thì sáu gưa(11);
Ác Xu Na sức cũng vừa,
Đề Bà xin để tám gưa thẳng lằn.
Hoàng nam Tất Đạt bảo rằng:
Trống ta hãy để xa bằng mười gưa.
Thật là xa lắc chẳng vừa,
Trông như đồng điếu(12) hồi xưa thường dùng.
Bấy giờ ai nấy giương cung,
Nan Đà bắn lủng trống đồng đã treo,
Ác Xu Na bắn lủng theo,
Đề Bà bắn tới có chiều chính hơn:
Mọi nguời ai cũng khen rân,
Da Du thục nữ có phần ngại lo.
Ngồi che tay áo co ro,
Sợ e Thái tử để cho trật ngoài.
Cung vàng(13) Ngài nắm thảnh thơi,
Dây cung hẳn thật gân loài thú se;
Ai người sức mạnh chúng ghê,
Mới là giương nổi kéo xê nửa phần.
Đạt Đa có ý cười thầm,
Thẳng tay kéo hết chẳng cần sức chi.
Hai đầu giáp lại tức thì,
Cây cung lúc ấy gãy đi chỗ cầm.
Phán rằng: "Đồ bỏ ai ham,
Cung nào đáng nữa, khá đem đến hầu".
Có người hiểu việc liền tâu,
"Trong đền thờ phượng, tớ âu nhớ tường:
Cung vua Sư Tử Hiện Vương(14),
Đời xưa còn đó chờ trang đặc kỳ".
Ngài rằng: "Đi lấy lại đây,
Cung thần mới xứng vào tay ta cầm".
Quân khiêng cung ấy lại gần,
Sườn làm bằng thép, cẩn gân bằng vàng;
Hai đầu cuốn lại bằng ngang,
Cũng như sừng quới bò mang trên đầu.
Đạt Đa thử sức cung sau,
Để trên đầu gối kéo đâu hai lần.
Bấy giờ bảo mấy hoàng thân:
"Các em kéo thử xem chừng ra sao?"
Mấy ông kéo chẳng được nào,
Thôi đành để xuống mà giao đức Thầy.
Ngài liền đón lấy vào tay,
Nghiêng mình giương nỏ, kéo dây mạnh vào.
Nghe ra có tiếng thanh tao,
Ngồi nhà kẻ tật hỏi: nào tiếng chi?
Người nhà đáp lại một khi:
"Tiếng cung đền Thánh kêu đi khắp cùng.
Hôm nay Hoàng tử giương cung,
Và Ngài sắp bắn trống đồng để xa".
Cây tên Thái tử rút ra,
Tra vào, kéo thẳng, tay đà buông đi,
Mũi tên nhọn lướt đường mây,
Bắn vào lủng trống để thì tót xa;
Sức còn nên lại lướt qua,
Bay trên đồng ruộng ngó ra mịt mù.

oOo
CHÚ THÍCH:

(10) Ngựa Càn (Kiền) Trắc (Kantaka) .
(11) Phía trước đã có nói rằng một người chạy đặng bốn chục hơi thở thì bằng một gưa, hay là nói cho rõ hơn, một gưa là 1.300 thước chơn ăng lê (1.300 pieds anglais).
(12) Hồi xưa dùng đồng điếu bằng miểng sò, miểng ốc.
(13) Cung sơn vàng và đỏ.
(14) Sư Tử Hiện Vương (Sinhahânou).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đề Bà bày cuộc gươm đua,
Cội cây sáu ngón chém đùa đứt trơn.
Ác Xu Na sức trổi hơn,
Lựa cây bảy ngón, gươm trân chặt liền.
Nan Đà kiếm thuật chúng kiêng,
Cây dày chín ngón, người bèn chém ngay.
Đến phiên Thái tử ra tay,
Có hai cây lớn mọc bày theo nhau,
Lưỡi gươm nương sức nhiệm mầu,
Phụp vào một cái, lìa đầu hai cây;
Gươm Ngài chém thật rất ngay,
Hai cây đều đứt, đứng y như thường.
Nan Đà vội vã lời buông:
Lưỡi gươm chẳng phủn, tìm đường trở lui.
Mỹ nhơn lo sợ bồi hồi,
Xem hai cây nọ nhánh chồi còn nguyên.
Thần phong làm gió nổi lên,
Hai tàn cây mịch ngã trên mặt đồi.

oOo

Quân đem ngựa giỏi tới rồi,
Chạy quanh đồng cỏ ba hồi thật mau;
Nhưng con CànTrắc dẫn đầu,
Lướt ăn hạng nhứt, bỏ sau xa vời.
Ngựa Ngài sức chạy rất tài,
Trong mồm nước dãi chảy nhoài đường đi,
Nước vừa thấm đất một khi,
Hai mươi lằn giáo nó thì chạy xong.
NannĐà nói giữa đám đông:
"Cỡi con Càn Trắc ta không thua mà,
Bây giờ ngựa chứng đem ra,
Xem ai cỡi giỏi mới là đáng hơn."
Mã phu được lệnh đem dâng,
Ngựa ô đen hắc như cơn tối trời;
Ba dây lòi tói cột ngoai,
Mắt xem dữ tợn, mũi ngời nở bung;
Bộ đồ bắt kế đã không,
Móng chơn bằng sắt chưa dùng đóng mang;
Là vì ngựa hãy còn hoang,
Chưa ai lên cỡi tập đường bước thông.
Ba vì thế tử lên xong,
Bị con ngựa chứng vẫy vùng té ngay;
Áo quần bụi bặm dính đầy,
Lại thêm hổ thẹn tài nầy thô sơ.
Ác Xu Na sức có thừa,
Được ngồi trên ngựa, tay quơ mở xiềng;
Hai chơn thúc lấy hai bên,
Cái hàm thiết ngựa, người bèn siết vô.
Một phen sợ sệt, điên rồ,
Cánh đồng ngựa hoảng chạy phô một vòng.
Thình lình trở mặt sau hông,
Miệng nhăn răng dữ, chơn vùng đá lên;
Làm cho chàng té một bên,
Và toan lướt tới đạp trên thân hình.
Nhờ đoàn giữ ngựa mắt lanh,
Mau chân chạy tới tách rành ra cho.
Mọi người khi ấy nói to:
"Ngựa yêu, Hoàng tử hãy lo chớ gần,
Ruột gan tợ bão tưng bừng,
Máu me như thể lửa phừng đỏ au".
Đạt Đa Thái tử yêu cầu:
"Dây xiềng bỏ hết, mặc dầu ta đương".
Nắm nơi gáy ngựa nhẹ nhàng,
Buông lời nhỏ nhắn dịu dàng dễ nghe;
Bàn tay bên mặt lấy che,
Đắp trên mắt ngựa, vuốt ve mặt dài;
Kéo lần từ cổ tới vai,
Lòn qua hông ngựa, tay Ngài măn mo.
Lạ lùng ai cũng nhận cho,
Thấy con ngựa dữ co ro hiền lành.
Chẳng còn cứng cổ tinh ranh,
Đứng êm dường thể biết rành kỉnh vâng.
Để cho Thái tử lên lưng,
Chơn lần bước tới, ý tuân theo Ngài.
Xem ra, công chúng ghê ai?
Hô rằng: "Tất Đạt cao tài hết trơn,
Thôi đừng tranh nữa còn hơn.
Có ai qua nổi người Nhơn trong Đền".
Mấy vì tranh đấu hô lên:
"Thật Ngài đệ nhứt, đứng trên bọn nầy".
Cha cô mỹ nữ nói ngay:
"Lòng ta cũng muốn chàng nay thắng người;
Chúng ta đã mến chàng rồi,
Bây giờ thêm phục, hết hồi nghi nan.
Lạ cho kẻ ở điện đàn,
Miệt mài trong cuộc truy hoan đã nhiều;
Thế mà cung kiếm cao siêu,
Hơn người vượt bể, lên đèo, xuống hang.
Nay chàng thắng cuộc vẻ vang,
Hãy đem bạn ngọc mỹ nương về đền".
Dứt lời, Công chúa đứng lên,
Vòng hoa lài tốt cầm bên tay mình,
Lướt qua khỏi đám chung quanh,
Khăn vàng sọc sặm phủ xinh trán đầu(15).
Tướng nàng trân trọng làu làu,
Đi qua trước mặt vương hầu chư công.
Đến nơi giáp mặt Đông cung,
Xem Ngài rất đẹp, đứng cùng ngựa ô,
Ngựa thần đưa thẳng cổ to,
Để cho Ngài vịn đặng chờ mỹ nương.
Cúi chào Hoàng tử thiện lương,
Mặt nàng sáng rỡ có đường khoái vui,
Vòng hoa nàng tặng Ngài đeo,
Nghiêng đầu ngực bạn, bùi ngùi yêu thương.
Hai chơn quì xuống gọn gàng,
Thưa rằng: "Tiện thiếp vì chàng xin theo".
Mọi người ai nấy mừng reo,
Trông ra đôi bạn mỹ miều xứng thay!
Cùng nhau tay lại cầm tay,
Càng thuần vẻ ngọc càng say tấm tình.
Bước đi nàng vấn khăn xinh,
Khăn vàng sọc sặm bên mình thường mang.

oOo
CHÚ THÍCH:

(15) Cái khăn choàng màu vàng xen lẫn màu đen sạm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chừng Ngài thành Phật mở đàng,
Trong khi truyền Giáo, chúng thường hỏi thưa,
Hỏi qua nghĩa cũ tình xưa,
Tại sao nàng vấng khăn tua đen vàng,
Và đi dáng điệu oai cường,
Xem trong công chúng như dường chẳng ai?
Thế Tôn phán dạy mấy lời:
"Việc này ta rõ, người đời khó thông;
Tử sanh còn mắc trong vòng,
Việc xưa tình cũ thảy đồng tái sanh.
Những đời từ trước khó rành,
Vẫn còn hiện lại cho mình cũng y.
Ta đây nhớ việc thuở kia,
Hằng sa năm trước, có khi bao đời!
Bây giờ ngôi Phật viễn khơi,
Ngày xưa làm cọp ở nơi rừng già,
Ngày ngày ẩn dưới hố xa,
Nằm trong bụi cỏ đợi mà hươu nai;
Chúng đi ăn cỏ hôm mai,
Đến gần sẽ nạp mạng đời chớ lo!
Có khi dưới ánh sao mờ,
Ta đi kiếm thịt ăn cho đỡ lòng,
Lơ thơ đường suối nẻo cong,
Người không chừa bỏ, thú hòng ngại đâu!
Trong khi ta ở rừng sâu,
Hoặc nơi lầy rậm, đế lau mọc đầy,
Ta cùng chúng bạn họp bầy,
Bỗng con cọp cái làm gây mối thù.
Cọp nầy tốt đẹp đứng đầu,
Vàng đen xen lẫn hai màu nơi thân;
Cũng như khăn của mỹ nhân,
Vì ta nàng đội trong sân võ đài.
Trong rừng lũ cọp tranh tài,
Nanh qua vuốt lại chẳng ai nhịn nhường.
Dưới hoa, cọp cái nhìn tường,
Trông ta cùng bạn máu hường tuông trôi.
Sau cùng, ta thắng được rồi,
Nàng bèn đi đến, tỏ hồi vui ưng;
Bước ngang mấy vị vua rừng,
Nàng không đoái chúng vừa chừng thua ta.
Hông ta đương lúc thở ra,
Lưỡi nàng liếm lấy chừng là vuốt ve.
Tướng nàng lúc ấy oai ghê,
Song song đôi lứa đề huề rừng sâu.
Bánh xe Sanh tử lần lâu,
Thấp cao đều chuyển, đâu đâu cũng vần".

oOo

Bên người chịu gả mỹ nhân,
Chọn ngày tháng tốt châu trần kết duyên.
Gối bằng vàng thiệt kê lên,
Trải ra khảm quí lót trên mà ngồi:
Dây bông giăng sẵn đó rồi,
Tơ hồng nối lấy hai người bên tay;
Bánh ngon cắt bẻ ra ngay,
Cơm ăn dầu xức cũng bầy hết ra.
Sữa tươi son đỏ trộn pha,
Thả rơm hai cọng là đà trôi xê:
Song song hai cọng giao kề,
Ấy là điềm tốt tình kia tới già.
Có người đem bếp lửa ra,
Vợ chồng bảy bước lướt qua ba vòng(16);
Kế là bố thí bần cùng,
Sư tăng, chùa miễu cũng đồng cúng dâng.
Các sư cầu phước cầu phần,
Kệ kinh, thần chú đọc rân trong ngoài.
Áo xiêm đôi bạn hòa hai,
Buộc ràng nhau lại, sống đời có nhau.
Cha cô mỹ nữ liền tâu:
"Con tôi rày đã về hầu Ngài đây;
Sắn bìm nương tựa bóng cây,
Xin người quân tử khá hay rộng tình!"
Trống kèn chập trổi liên thinh,
Họ hàng đưa gái về dinh nhà chồng,
Từ đây phu phụ họp đồng,
Càng lâu càng thắm càng nồng tấm yêu.
CHÚ THÍCH:

(16) Phong tục Ấn Độ của phái Bà La Môn thì làm lễ đi vòng theo ngọn lửa ba lần.
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ái tình thắt buộc vẫn nhiều,
Nhưng vua chưa chắc, còn điều hồ nghi.
Cất nên ngục thất tinh vi,
Kiểu nhà khéo lạ cảnh chi chẳng bằng,
Để cho Thái tử ở ăn,
Hưởng đời thư thả vui hằng hơn ai.
Giữa nơi cảnh đất cất đài,
Có hòa núi biếc mọc ngay lên trời.
Dưới chơn núi, có dòng khơi(17),
Từ non Hy Mã(18) là nơi phát nguồn,
Chảy lần như vậy mãi luôn,
Sau cùng đổ cả mà tuôn sông Hằng(19).
Phía Nam cây lớn chặn ngang,
Tách riêng biệt thự bởi tàng nhánh cao.
Cảnh đền êm ái thanh tao,
Chẳng nghe thấy tiếng xôn xao thị thiền.
Lâu lâu, một ngọn gió xiên,
Bạt vào nghe tiếng dưới miền chợ xa.
Trên phía Bắc, núi Hy Mã(20),
Dốc cao chớn chở thấy mà phát ghê;
Phân ra hàng ngũ chỉnh tề,
Trên thì tuyết phủ chẳng hề rã tan,
Núi cao lên chí mây ngàn,
Xem ra to lớn, đủ giàn oai nghi.
Đảnh thì nhiều cái khác đi,
Nhọn, tròn, bằng phẳng, trơn lì cũng nên.
Nhiều hòn xanh biếc nhô lên,
Có hòn nhọn lểu như kim đồng hồ.
Hố sâu thăm thẳm đường vô,
Có nhiều vực hiểm dốc phô ra ngoài.
Thấy vầy, trí nghĩ vượt khơi,
Tưởng điều cao thượng, xa vời đâu đâu,
Dường như bay bổng tít mù,
Ta cùng Tiên Thánh gặp nhau luận đàm.
Dưới miền tuyết phủ hằng năm,
Ấy toàn rừng rậm tối tăm mịt mờ;
Xen vào những thác nên thơ,
Nước tuôn sáng rỡ, mây lờ đờ trôi.
Phía dưới nữa, mấy cảnh đồi,
Bá, tùng, cổ thọ mọc thôi dẫy đầy,
Trĩ kêu, beo rống vang vầy,
Chiên rừng bé hé, ó bầy la rân.
Dưới thấp nữa, cảnh đồng gần,
Xem ra như khảm trải chân bàn thờ.
Đồi cao, rừng rậm, non mờ,
Xa trông như thể bàn thờ Thánh linh.
Những nhà mỹ thuật tài tình,
Chọn nơi cao ráo cất đình nguy nga;
Hai bên xây tháp mấy tòa,
Với nhiều phòng ốc cột hoa rỡ ràng.
Mấy cây đà lớn bắt ngang,
Thảy đều chạm trổ những tích nước nhà:
Tích nàng mỹ nữ Ra Đa(21),
Cùng ông hiền thánh Rích Na(22) yêu vì;
Lại còn mấy chuyện ly kỳ,
Si Ta(23) trinh nữ thọ nguy giữa rừng,
Hung thần ép buộc phải ưng,
Chồng nàng đến kịp liệu chừng cứu ra.
Tích cô gái đẹp Rô Ba(24),
Cũng là chuyện ngộ trên đà có ghi,
Giữa nhà, cửa lớn oai nghi,
Khắc hình Voi thánh(25), thần nầy rất linh:
Tục người Ấn Độ kinh thành,
Hình Voi biểu hiện thông minh, phú cường.
Lần theo mấy nẻo trong vườn,
Đi qua sân rộng đến giàn cửa trong;
Cửa bằng cẩm thạch gân hồng,
Thanh ngang, tấm ngạch cũng đồng đá xinh.
Đàn hương nhiều cửa rất tinh,
Với nhiều khuôn chạm họa hình tốt tươi,
Bước qua ngạch cửa dạo chơi,
Phía trong, phòng thất lắm nơi trang hoàng;
Thang lầu nhiều cái đẹp sang,
Hành lang mấy dãy có tường có song.
Vách thì họa khéo vô cùng,
Cột nhà xây dựng dính chùm với nhau.
Có làm hồ chứa nước sâu,
Hoa sen đua nở làu làu tốt xinh;
Pha lê nhiều chậu trắng tinh,
Chứa đoàn cá lội, vàng, xanh, đỏ, hồng.
Ngoài vườn ánh sáng tươi trong,
Xem ra bầy lộc đương cùng nhau ăn.
Một đoàn chim chóc lăng xăng,
Khoe nhiều màu sắc trong lằn dừa xanh.
Dài theo mấy kẹt vách thành,
Chim câu làm ổ sống sanh mãn đời.
Ở trong sân gạch sáng ngời,
Bầy công qua lại, đuôi phơi tốt lành.
Cò ngà lông lá trắng tinh,
Với chim mèo đậu đưa mình trở vô.
Két xanh cổ tợ son tô,
Bay theo ăn trái tựa hồ chín cây;
Mấy con rắn mối nhác thay,
Cũng đeo rào sắt phơi ngay bóng trời;
Ít con sóc nhỏ quen hơi,
Vào tay mổ hột của người đưa ra;
Cảnh nhà hẳn thật an hòa,
Kìa con rắn hổ dưới hoa ngủ ngày;
Rắn nầy cho chủ điềm may,
Nằm khoanh hơ nắng chói rày ấm lưng.
Con dê chạy giỡn tưng bừng,
Đây bầy khỉ đột nháy trừng quạ kia.
Thảy đều bác ái đề huề,
Kẻ hầu người hạ sớm khuya chí bền,
Bao giờ có lệnh bề trên,
Tức thì kẻ dưới chạy lên ứng chào,
Mặt mày ai nấy thanh tao,
Nói lời dịu ngọt, việc nào cũng lanh;
Mọi người vui vẻ làm lành,
Tuân lời chỉ bảo, thích tình thi ân,
Cuộc đời phỉ chí muôn phần,
Cũng như dòng nước bên gần có hoa;
Hẳn là một cảnh trào ca,
Da Du rày đã làm bà hoàng phi.

oOo
CHÚ THÍCH:

(17) Sông Rohini.
(18) Himalaya.
(19) Sông Hằng Hà (Gange).
(20) Himalaya.
(21) Ra Đa (Radha).
(22) Rích Na (Krishna). Ra Đa là tình nhơn của Rích Na. Ông nầy là một vị Thánh sống rất có danh tiếng ở Ấn Độ. Người ta có làm nhiều thi ca về tình sử của ông.
(23) Si Ta (Sita): vợ của Ra Ma, nàng là cốt chuyện thần tiên Ra Ma Da Na (Ramayana).
(24) Rô Ba (Draupadi): Mỹ nữ, cốt chuyện Ma Ha Ba Ra Ta (Ma ha Bharata).
(25) Voi Thánh, tiếng Phạn: Ga Nết Ha (Ganesha) là một vị Thiên thần, mình người đầu voi, hình vẽ ngồi thòng vòi xuống nghiêng nghiêng.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Có trăm phòng thất tinh vi,
Lại còn một chỗ ẩn đi xa vòng;
Chốn nầy khéo léo vô song,
Những điều bày trí thích lòng hưởng qua.
Một sân rộng rãi tách ra,
Bốn bề vách phủ, cách xa cõi ngoài,
Giữa là hồ nước trong ngời,
Làm bằng cẩm thạch trắng tươi sáng lòa.
Dựa bờ, thang bực, miệng hồ,
Thảy đều cẩn đá bông hoa tốt màu,
Chốn nầy mát mẻ hơn đâu,
Ở chơi cũng sướng, giải sầu cũng xuê.
Tỷ như trong buổi mùa hè,
Mà đi trên tuyết có bề thích ưa,
Ánh trời chiếu xuống buổi trưa,
Lòn qua cánh cửa, thấu vừa tới trong,
Chẳng còn nóng nảy, nực nồng,
Dịu dàng, mát mịn như lồng ánh mai,
Êm đềm tình ái thanh mai,
Ban trưa lại giống sớm mai và chiều.
Phía trong cửa, chốn mỹ miều,
Phòng loan lộng lẫy, khác chiều thế gian;
Ánh đèn dịu chiếu trướng màn,
Thắp bằng dầu tốt, thơm tràn chỗ dư.
Cửa hông bằng ốc xà cừ,
Màn treo có kết sao như giăng hàng;
Mùng tơ, trướng phủ bằng vàng,
Để cho ngọc nữ riêng nàng bước qua.
Trong phòng khó nhận cho ra,
Ban ngày hay tối cũng là như nhau,
Mịn màng ánh sáng một màu,
Trưa, chiều cũng thấy như đầu buổi nay.
Gió lòn mát mẻ đêm ngày,
Lúc nào cũng có tiếng hay địch đờn.
Kẻ hầu dâng các món hơn,
Bánh làm có tuyết trên sườn Hy ma;
Trái cây còn đọng sương sa,
Mứt thì đủ thứ ăn qua ngọt ngào;
Nước dừa mới bẻ đưa vào,
Chén ngà đựng lấy dồi dào vẻ tươi;
Một đoàn vũ nữ vui cười,
Múa men, hầu rượu, vóc người như mai.
Lại thêm bọn nhạc trổ tài,
Chực hầu dưới trướng ngày dài lẫn đêm.
Chờ Ngài tỉnh giấc mộng êm,
Tức thì xướng họa cho thêm vui lòng;
Dưới hoa, nhạc trổi lung tung,
Hòa cùng tiếng hát mặn nồng tình yêu.
Mấy cô vũ nữ mỹ miều,
Ôm nhau nhảy múa có chiều gợi duyên,
Dưới chân lục lạc khua lên,
Hai tay dịu nhiễu rập bên tiếng cầm.
Trong phòng nồng nực hương trầm,
Với mùi chiêm bặc (26)] âm thầm xông ra.
Dường như Thái tử ngà ngà,
Tựa đầu tay bạn(27) ngủ qua một thời;
Đạt Đa hưởng đủ sự đời,
Ở trong đền ấy quên ngoài chúng sanh!

oOo
CHÚ THÍCH:

(26) Chiêm bặc (Champak): một thứ hoa Sứ hương thơm rất quý.
(27) Ngủ trên tay vợ.
Đức vua truyền dạy rành rành:
Trong cung Thái tử khéo trình lời phân;
Chẳng ai được phép than thân,
Chết, già, đau ốm chẳng cần nói ra.
Cô nào hình sắc phôi pha,
Hai chân mệt mỏi nhảy ca chẳng đồng,
Tức thì xa lánh cấm cung,
Để cho Thái tử khỏi trông mà buồn.
Có quan hầu cận coi luôn,
Chẳng cho ai nói đến tuồng thế gian:
Choán đầy sầu, khổ, khóc, than,
Sợ, lo, đau đớn, với giàn hỏa thiêu.
Ca nhi vũ nữ kém chiều,
Tóc xen màu bạc, phạm điều lịch thanh.
Hoa khô, lá rụng xa cành,
Có người hái quét, chẳng đành để lâu.
Bao nhiêu những cảnh u sầu,
Các quan phải liệu mà hầu tránh ra.
Vua rằng: "Thái tử Đạt Đa,
Trong khi niên thiếu cách xa khổ đời,
Khỏi điều trước mắt bên tai,
Khỏi điều suy nghĩ, trí thời được êm;
Rồi ra cõi Đạo chẳng tìm,
Lên ngôi trị nước càng thêm vững lòng;
Một mình oai thế anh hùng,
Các nơi xếp giáp phục tùng sức cao".

oOo

Đông cung ngự cảnh thanh tao,
Nhưng mà đâu có khác nào ngục trung,
Ái tình buộc giữ chim lồng,
Mấy điều thỏa dục như song nhốt Ngài.
Đức vua xây vách thành dài,
Ngoài thì cửa sắt phải gài hai bên;
Cả trăm người mới dở lên,
Trong khi mở đóng tiếng rền thấu xa.
Vua còn làm cửa thêm ra,
Có hai cái nữa mới là chắc tay.
Vậy nên muốn thoát đền nầy,
Phải qua ba bận cửa dày, song to,
Cắt người đứng giữ siêng lo,
Vua truyền: "Chẳng được mở cho kẻ nào,
Dầu là Thái tử trong trào,
Nếu người trái lịnh thì ta chém đầu".

oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHẦN THỨ BA

Thế Tôn yên trụ đền lầu,
Ăn chơi vui thỏa, bạn bầu bao quanh,
Nào dè sự khổ chúng sanh,
Buồn, lo, sầu tủi, già đành chết mon?
Kê đầu trên ngực bạn loan,
Da Du quạt mát, giữ tròn thảo ngay.
Bỗng Ngài nửa tỉnh nửa say,
Ngồi lên, hô lớn: "Cõi này! cõi Ta!
Ta nghe! Ta biết! Ta ra!"
Làm cho nàng sợ, hỏi là việc chi?
Bấy giờ Ngài luống xót bi,
Nhãn quang từ ái chiếu đi xa vời;
Mặt như tiên ở cõi Trời,
Trông chàng, nàng sợ, bời bời tấc son,
Thấy nàng hoảng hốt, nỉ non,
Ngài cười an ủi bạn loan tỉnh lòng.
Và Ngài truyền lịnh nơi cung,
Đem đờn ra gảy nội trong ít bài.
Một cây đờn gáo dây dài,
Để nơi ngạch cửa, lai rai gió lồng.

oOo

Cũng là một sự lạ lùng,
Gió lòn lại trổi tơ đồng nhặt khoan.
Nhạc âm nghe rõ cả đoàn,
Một mình Thái Tử nghe toàn tiếng linh;
Thần tiên mách bảo đinh ninh,
Hòa cùng dây bạc ca thinh như vầy:
"Chúng tôi là tiếng gió bay,
Bay đi kiếm sự an bày trong tâm,
Nhưng mà hết tháng qua năm,
Cái bề an lạc chẳng tầm đâu ra.
Đời người như gió thoảng qua,
Thở than, khóc lóc, phá dài đấu tranh.
Chúng tôi đâu có biết rành:
Tại sao có sự sống sanh của người?
Cội nguồn của cuộc sống đời,
Sống trên dương thế khắp nơi chi vầy?
Dầu Ngài hay chúng tôi đây,
Chẳng qua hình ảnh cõi nầy vốn Không.
Vui chi cái cuộc não nùng,
Khổ sầu đưa tới trong lòng mãi đi?
Vui chi mà hưởng cuộc nầy,
Năm năm, tháng tháng, ngày ngày như nhau.
Ái tình ví được bền lâu,
Thì đành vui hưởng về sau cho dài.
Một cơn gió thoảng: cuộc đời,
Cũng như tiếng lạ lai rai dây đờn,
Chúng tôi trải khắp cảnh trần,
Rày đây mai đó lần lần bay đi.
Hôm nay nương mấy đường dây,
Chúng tôi than thở cho khuây tấm lòng;
Bản vui khó nổi hát thông,
Vì đi lắm chỗ thấy ròng khổ đau,
Biết bao con mắt khóc sầu,
Với bàn tay siết chán câu chẳng bền!
Chúng tôi rầu rĩ ca lên,
Nhưng mà trong dạ chẳng quên cười thầm:
Người đời ai cũng lạc lầm,
Mê theo cuộc sống chẳng tầm thấy xa;
Chẳng qua bóng dáng đó mà,
Hiện rồi lại mất, lộ và rã tan,
Nhưng Ngài chẳng phải kẻ thường,
Sanh ra cứu thế, đắc đường chúng sanh,
Thời giờ sắp tới bên mình,
Thế trần đương đợi đức Linh cứu nàn;
Mắt mù, họ bước chẳng an,
Lanh quanh trong chốn trần gian khổ sầu.
Xin Ngài đứng dậy cho mau,
Tỉnh đi chớ có nghĩ lâu làm gì!
Chúng tôi tiếng gió bay đi,
Xin Ngài cất bước, chơn ghi dấu đàng,
Đi mà tầm cảnh Lạc bang,
Đi ra, dứt bỏ tình thương lại nhà;
Từ nay thương khắp gần xa,
Chúng sanh thương hết mới là từ bi;
Xót người đau khổ lâm li,
Xin Ngài dứt bỏ ngôi vì một phen;
Đi ra cứu kẻ thấp hèn,
Độ người sa lệ, giải phiền, thoát thân.
Chúng tôi than thở trên đờn,
Vì Ngài chưa hiểu thế nhơn việc đời.
Tiếng nương dây bạc reo chơi,
Nực cười cho kẻ theo nơi bóng hình,
Chúng tôi cười kẻ si tình,
Bóng mà tưởng thiệt, giam mình vào trong".

oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Một hôm ở chốn đền rồng,
Cầm tay bà vợ thong dong buổi chiều;
Một cô cung nữ mỹ miều,
Tay đờn miệng hát ít nhiều bản xưa,
Hát chầu một tích tình tơ,
Chuyện con ngựa lạ, xa lơ muôn trùng;
Nơi người da trắng ở đông,
Chiều về trời lặn trong vùng biển khơi.
Đông cung than thở mấy lời:
Si Tra(1) khêu gợi cái bài gió đưa.
Nàng thuật tích, ta thích ưa,
Nhưng ta nhớ chuyện gió thưa trên đờn.
Da-Du! Bạn hãy trã ơn,
Lấy ra hạt ngọc mà ban cho người;
Ờ nầy bạn tốt nàng ơi!
Có chăng một cõi xa vời mênh mông?
Nơi nào có bóng trời hồng,
Buổi chiều xen lặn vào vùng biển xanh?
Người xa có giống tánh mình?
Nơi xa lắm kẻ khổ tình hay chăng?
Biết bao kẻ khổ vô ngần,
Nhưng ta đâu rõ mà phăng vớt dùm!
Lắm khi mặt nhựt lộ dòm,
Ánh ngời sáng chói, đỏ lòm phương Đông;
Tự ta hỏi lấy, ngại ngùng,
Ai người trước nhứt đứng trông mà chào?
Lắm khi sum họp má đào,
Đương cơn vầng nhựt lặn vào cõi Tây;
Lòng ta lại muốn đi ngay,
Vì ta ưng thấy mặt mày dân kia.
Chúng ta đâu có riêng chia,
Người xa muôn dặm, há lòng lìa yêu ?
Lúc nầy, ta luống buồn hiu,
Môi nồng, tình ái chẳng xiêu tấc sầu.
Si-Tra biết lắm xứ mầu,
Ngựa nàng thuật đó, ở đâu mà tầm?
Ngựa hay, dây khấu ta cầm,
Ôi! đành gác lại cung thâm điện rồng;
Ấp thành, làng mạc ruổi giong,
Rồi ta sẽ biết trần hồng bao xa,
Hoặc tra cánh thứu(2) vào ta,
Ta liền bay tới Hy Mã núi Thần;
Vượt trên cảnh tuyết mấy lần,
Mặc tình nhìn xuống bang lân, nước ngoài.
Sao ta không biết xem coi?
Sao không chịu khó tìm tòi mà trông?
Nay ta xin hỏi cho thông,
Những chi hiện có ngoài vòng cửa cao?"
CHÚ THÍCH:

(1) Tchitra, tên cô cung nữ vừa hát.
(2) Thứu: chim ó (vautour).
oOo

Tiếp theo, có kẻ tâu chào:
"Bạch Ngài điện hạ! Xiết bao cảnh tình:
Hoàng thành, chợ búa, chùa đình,
Vườn hoa, đồng ruộng, rạch kinh, đại hà,
Rừng sâu, núi lớn bao la,
Kế là Đại quốc Tần Bà(3) Đế vương;
Lại nhiều đồng rộng khó lường,
Với bao dân chúng kể hàng triệu lên!"
Đạt Đa đáp: "Vậy thì nên!
Bảo chàng Xa Nặc đứng bên xe hầu;
Mai nầy, vầng nhựt ngay đầu.
Ngoài thành du ngoạn, mặc dầu xem qua",
Có người chạy báo vua cha:
"Đông cung có dặn long xa sẵn bày;
Đón Người giờ ngọ mai đây,
Đặng Người viếng cảnh nọ nầy ngoại ô".
Thánh vương nghe tấu liền cho,
Sai người truyền bá dặn dò thế ni:
"Đô thành trang bị uy nghi,
Đừng cho thấy những cảnh chi gợi phiền;
Mù, què, bệnh tật triền miên,
Ghẻ cùi, già cả chớ nên ra ngoài."
Mé đường quét dọn một ngoai,
Nước trong đem tưới lộ nhai khắp cùng;
Ở nơi ngạch cửa giao thông,
Mấy bà rắc rải bột hồng mạt hương;
Lá hoa kết tụi treo giương,
Tuôn Si(4) cành quý phô trương ngõ nhà;
Vách tường sơn lại phết qua,
Trên cây cờ phất, cột thờ điểm tô.
Ở nơi đại lộ tứ cù,
Nhựt thần(5) tượng Thánh ngự vô bàn thờ.
Hoàng thành chỉnh bị bấy giờ,
Dường như đô thị huyền cơ nhiệm mầu.
Trên đường, chiêng trống trổi mau,
Nhơn viên cáo thị truyền tâu như vầy:
"Quí vì công chúng nghe đây,
Nhà vua phán dạy hiện bày nghiêm trang :
Mù, què, bệnh, tật, ghẻ sang,
Cùng người già cả, chớ mang ra ngoài,
Đừng đem thiêu đốt xác hài,
Hãy chờ chiều tối, bi ai tống hành.
Đó là Thánh chỉ dạy rành,
Su Đà Na(6) Chúa ở thành chúng ta".

oOo
CHÚ THÍCH:

(3) Tần Bà Sa La (Bimbasâra): Vị vua lớn nhứt ở Ấn-Độ hồi đời Phật.
(4) Toulsi: giống cây thơm có tánh cách thiêng liêng. Mỗi gia đình Ấn Độ quí trọng cây ấy một cách đặc biệt; Khi người Ấn Độ phát thệ trước tòa họ phải ăn một lá toulsi do một thầy Bà la môn trao ra .
(5) Nhựt thần (Souryadéva): Thần mặt trời.
(6) Su Đà Na (Souddhôdana) dịch nghĩa: Tịnh Phạn, cha của Thái tử Tất Đạt Đa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Cảnh tình đẹp đẽ rườm rà,
Khắp thành La Vệ(7) nhà nhà dọn chưng,
Đông cung ngự đến vừa chừng,
Xe loan rực rỡ sau lưng đôi bò.
Bạch ngưu thạnh tráng, cổ to,
Bướu mang ách chạm, sơn tô đẹp màu.
Chúng dân khánh hạnh chen nhau,
Hoan hô vang dậy, ca âu tưng bừng.
Đạt Đa trông thấy cũng mừng,
Dân trung, áo đẹp, chí hừng cười rân.
Ngài rằng: "Thế giới đẹp, hân;
Trai thì hòa, gái cần, nết na.
Ta đây có giúp chi mà,
Họ nay được vậy, ấy là nhờ đâu?
Ta yêu dân chúng như nhau,
Họ nào có biết tình sâu lòng nầy?"
Một chàng Thích tử đâu đây,
Ném hoa mà tặng đức Thầy ngự du.
Ngài liền truyền lịnh mã phu:
"Hãy mời trẻ ấy mặc dầu lên xe!"
"Nước ta tình cảnh cũng xuê,
Làm vua cai trị có bề thích ưa!
Dân đây thỏa dạ chẳng vừa,
Vì ta đến họ như trưa hôm nầy.
Nhà nhà nếu được vui vầy,
Khiến cho đô thị đủ đầy hân hoan,
Thì ta hạnh phúc châu toàn,
Ích chi vật khác mà toan có nhiều;
Nầy Xa Nặc! cứ thuận chiều,
Dẫy xe qua khỏi bấy nhiêu cửa nhà;
Đặng ta thấy hết gần xa,
Cảnh đời tươi thắm nay ta mới tường".
Giá loan trực chỉ trên đường,
Đó đây dân chúng chạy bương áp vào.
Trước xe, vài kẻ đón chào,
Vòng hoa cầm lấy, thảy trao đôi bò;
Hông bò trơn mịn, vuốt mò,
Có người bánh ngọt quả to hiến mời.
Ai ai đều cũng tỏ lời:
"Chúc nguyền Điện hạ sống đời muôn xuân".
Chiếu vua đã được kính tuân,
Người người hoà duyệt, cảnh hân hoan chào.
CHÚ THÍCH:

(7) La Vệ tức Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastou), kinh đô vua Tịnh Phạn.
(8) Mặt trời là tượng trưng đức Đế Thiên Đế Thích (Indra).
oOo

Bỗng đâu một kẻ lạc vào,
Khốn cùng, rách rưới, hỗn hào, lọ lem;
Từ nơi hang lỗ ẩn êm,
Lướt ra giữa lộ chẳng thèm kể ai.
Già khù, má tóp, xuội vai,
Da nhăn, đen đúa, sát ngoài xương khô.
Lưng còm mang nặng xuân thu,
Đôi vành mắt đỏ, lù lù ghèn xanh.
Miệng móm sọm, hàm trống quanh,
Rút co vì bại, vì kinh đám người,
Gậy cùng, tay ốm chống bơi,
Hai chơn lảo đảo như người quá say.
Tay kia bóp lấy sườn gầy,
Phát ra hơi thở lẫn lây khổ buồn;
Than rằng: "Cô bác khá thương,
Tớ xin bố thí, chết đường nay mai!"
Tay sè, cổ lại ho dai,
Mắt nheo lia lịa, miệng nài thi ân.
Quân hầu kéo xển, quở rân:
"Đông cung ngự tới, lão lần tránh xa".
Trên xe, Thái tử dứt nà:
"Khoan! Khoan! Xa Nặc! đó là người chi?
Cúp lưng, tiều tụy, dị kỳ,
Trong đời có những kẻ vầy hay chăng?
Tại sao ngươi thốt la rằng:
Tớ xin bố thí, chết bằng nay mai?
Hình thù ốm yếu, xương lòi,
Chính người chẳng được cơm xơi chớ gì?
Kẻ nầy khốn khổ lắm thay!"
Viên quan hộ giá trình bày lược qua:
"Tâu Điện hạ! Đó người già,
Tuổi dư tám chục, lưng đà uốn cong;
Xưa người mình khoẻ, mắt trong,
Bây giờ lão mại, cạn dòng nhựa thân.
Tráng cường, nghị lực, trí căn,
Hao mòn, lụn bại, lần lần dứt thôi.
Đèn kia dầu mỡ cạn rồi,
Mảnh tim nát ngướu, ánh bồi hồi băng.
Đó là kết quả tuổi hằng,
Tại sao Điện hạ nằng nằng chú tâm?"
Đông cung tiếp đó hỏi thăm:
"Già nầy là một, hay trăm triệu người?"
"Bạch Ngài! Xa Nặc đáp lời,
Những ai cao tuổi, chịu nơi khổ Già."
Nhưng mà Thái tử hỏi qua:
"Nếu ta trường thọ, cũng là vậy sao?
Da Du, thể nữ tại trào,
Tám mươi há cũng má đào lợt phai?"
"Bạch Ngài! Như vậy chẳng sai"..
Ngài truyền:" Xa Nặc! hãy dời trở lui;
Quay về cung điện thế thôi,
Đã trông tận mắt, việc ôi không ngờ!"

oOo

Đường về nghĩ cảnh Già lờ,
Ngự vào cung cấm, dật dờ buồn thiu.
Đến khi cơm dọn buổi chiều,
Trái ngon bánh ngọt dẫu nhiều chẳng xơi.
Mấy cô vũ nữ đền đài,
Tranh khoe sắc thắm, nhưng Ngài chẳng trông.
Da Du thấy sự lạ lùng,
Quì bên chân bạn, rỉ cùng Trượng phu:
"Tại sao Điện hạ ưu sầu,
Chẳng vui với thiếp như hầu các hôm?"
Ngài rằng: "Ta luống bồn chồn,
Vui vầy há dễ hưởng luôn được nào?
Đến chừng kỷ trưởng niên cao,
Hai ta rồi sẽ hư hao, yếu, còm.
Vai kề, má dựa, tay ôm,
Thời gian phá hoại, mùi thơm lụn tàn.
Đó như cơn tối chập chờn,
Xóa bôi ánh sáng trên ngàn cheo veo;
Màn đen buông xuống lưng đèo,
Lần lần bao phủ, nhìn theo thấy gì?
Phát minh việc ấy hôm nay,
Lòng ta lo sợ, tính ngay phương nào?
Tình yêu bảo vệ làm sao,
Cho thời gian khỏi đưa vào lão nguy? "
Trọn đêm Ngài mảng nghĩ suy,
Chẳng an giấc điệp, chẳng khuây nỗi sầu.

oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đêm nay vua tại điện lầu,
Nằm mơ thấy những điềm đâu bàng hoàng:
Một cây cờ lớn đặt ngang,
Mặt trời ở giữa, thế hàng Đế Thiên(8);
Bỗng đâu gió mạnh thổi lên,
Xé tan cờ quý, xô miền bụi dơ.
Một đoàn Tiên Thánh hờ cơ,
Bay ngang đáp xuống, lượm cờ lắm lem;
Thuận tay, cờ ấy được đem,
Cửa Đông thành quách dựng kèm để yên.
Điềm hai, vua lại thấy liền:
Mười con voi lớn, mép bên có ngà;
Nặng nề chơn bước, dội xa,
Từ phương Nam đến, trải qua dặm dài.
Ngồi trên voi trước, thảnh thơi,
Đạt Đa Thái Tử, lắm người theo sau.
Điềm ba, một chiếc xe mầu,
Ánh quang chói lói, chạy mau trên đường.
Bốn con tuấn mã trước cương,
Phun ra khói trắng, bọt đường lửa than.
Trên xe Thái tử ngồi an;
Kế là điềm bốn, long nhan thấy vầy:
Một bánh xe, tự nó quây,
Tum bằng vàng thiệt, căm đầy bửu châu;
Trên vành, chữ lạ thành câu,
Bánh xe quay mãi, lửa mầu phóng ra;
Lại thêm có tiếng nhạc ca,
Từ trong Luân bảo ngâm nga tiêu thiều.
Điềm năm trống lớn là điều,
Nửa đường thành phố, nửa chiều núi non;
Tay cầm dùi sắt nện luôn.
Hoàng nam đánh trống, bon bon tiếp liền,
Dường như sấm sét chuyển rền,
Không gian tràn ngập, thấu lên tận trời.
Sáu là điềm Tháp cao vời,
Vượt trên đô thị, nóc thời mây bao;
Đạt-Đa đứng đảnh Tháp cao,
Rải ra bốn hướng trân hào bửu châu;
Ngọc như mưa giội trên đầu,
Mọi người chạy đến, giành nhau báu nầy.
Cái điềm thứ bảy là đây:
Lòng vua lo sợ, nghe đầy tiếng than;
Sáu người khóc kể kêu van,
Nghiến răng, bụm mặt, chứa chan mạch sầu.
CHÚ THÍCH:

(8) Mặt trời là tượng trưng đức Đế Thiên Đế Thích (Indra).
oOo

Bảy điềm vua thấy trước sau,
Những thầy bói giỏi giải mầu chẳng xong.
Vua bèn tỏ nỗi hận lòng:
"Nhà ta có nạn, chẳng ông nào rành!
Thánh Tiên cho thấy mộng linh,
Nhưng không ai biết biện trình tương lai".
Kinh thành ưu lự cảm hoài,
Vì vua thấy mộng chẳng ai biết bàn.
Một ông tu sĩ ẩn nhàn,
Áo choàng da thú, miệng loan trước đền:
"Đưa ta vào tới Bệ tiền,
Mộng vua, ta biết giải liền kiết hung".
Bảy điềm lạ vừa nghe xong,
Đạo nhơn ứng tiếng, khiêm cung, kính nhường:
"Chào mừng gia quyến Đại vương,
Phước lành sáng rỡ, nhựt quang chẳng bì!
Bảy điềm vua sợ trước đây,
Tức là triệu chứng việc hay sắp vời.
Điềm đầu cờ hiệu vua Trời,
Giương ra rồi bị tơi bời vất tung;
Đó là đạo cũ cáo chung,
Một nền Đạo mới vẫy vùng hiện ra;
Thánh Tiên gẫm cũng như ta,
Thay ngôi đổi vị hẳn là luật xưa;
Kiếp kỳ sánh tợ ngày giờ,
Lâu rồi cũng hết, tiếp hờ kiếp sau.
Mười con voi lớn theo nhau,
Bước đi rúng động địa cầu: điềm hai,
Nghĩa là Mười món Trí tài,
Của Ngài Thái tử bỏ đời vương gia;
Trí Ngài chấn động sơn hà,
Ngài đem Chơn lý bủa ra khắp cùng.
Bốn con tuấn mã hơi nồng,
Kéo xe sáng chói thẳng xông lên đường;
Đó là bốn lý oai cường,
Đưa Ngài Thái tử tới phương ánh ngời.
Bánh xe quay chuyển chẳng ngơi,
Tum vàng ở giữa, vành ngoài chữ linh;
Đó là Luân bảo Pháp lành,
Hoàng nam sẽ chuyển, chúng sanh thỏa nhìn.
Trống to, dùi sắt nện lên,
Đạt-Đa đứng đánh, tiếng rền khắp nơi;
Điềm này là biểu hiệu Lời
Ngài đem truyền bá cho đời hiểu thông.
Một ngôi Tháp vượt chín từng,
Nghĩa là kinh Phật lướt xông tít mù;
Từ trên Tháp, rải bửu châu,
Đó là Pháp thí phàm phu, thiên, thần.
Sáu người thê thảm khóc rân,
Tay thì bụm mặt, than thân phận mình;
Đó là điềm bảy chứng minh,
Sáu thầy ngoại đạo hẳn đành chịu thua;
Lý minh, lẽ vững giúp vua,
Hoàng nam bác bẻ thuyết thô Sáu Thầy.
Tâu Thánh Chúa! Hãy mầng đi!
Vua giàu đệ nhất chẳng bì Đông cung.
Mặc dầu người đắp nâu sòng,
Còn hơn áo mịn vàng ròng phô trương.
Ấy là mộng điệp Đại vương!
Bảy ngày đêm nữa, việc đương hiện bày".
Dứt lời, đạo sĩ kiếu đi,
Tám lần cúi xá, lại quỳ ba phen.
Vua sai sứ giả đi liền,
Kiếm tìm ông Đạo, của tiền thưởng công.
Trở về tâu trước đền rồng:
"Chúng tôi theo lão vào trong Nguyệt từ(9),
Chim mèo xám đậu bàn thờ,
Chúng tôi vào đó từ từ nó bay".
Thiên thần âu cũng có khi,
Hiện thân chim chóc như vầy biết đâu!
Vua cho rằng lạ, ưu sầu,
Ngài bèn xuống lệnh: siêng hầu Đông cung;
Bày thêm nhiều cuộc vui nồng,
Buộc tâm Hoàng tử ở vùng điện xinh.
Lại tăng binh giữ cửa thành,
Nhưng ai ngăn nổi sức linh số phần?
Bấy giờ Hoàng tử muốn cần,
Nhìn xem cuộc sống nhơn dân, thế tình;
Cảnh nầy rất đẹp, rất xinh,
Nếu không chạm phải tình hình Thời gian.
Trình vua Tinh Phạn lời van:
"Xin Cha cho Trẻ viếng an kinh thành;
Kỳ rồi Cha khiến dân lành,
Dẹp người khổ não, chỉ dành cảnh vui.
Nhưng con đã hiểu rõ rồi,
Đó là chẳng phải khúc nôi cuộc đời.
Nay con muốn biết mọi nơi,
Chúng dân, đường xá, sanh nhai, nghiệp nghề.
Phụ vương cho Trẻ trọn bề,
Cải trang ra khỏi vườn huê du nhàn.
Cho con thong thả hoàn toàn,
Mai nầy thầy tớ liệu toan lên đường".
Giữa triều vua phán rõ ràng:
"Kỳ nhì du ngoạn ắt chàng sửa sai?
Tự do Hoàng tử dạo chơi,
Để chàng thăm viếng mọi nơi thỏa tình.
Các quan rồi sẽ phúc trình,
Lòng Chàng biến chuyển, trở thành ra sao
CHÚ THÍCH:

(9) Nguyệt từ: Đền thờ Thần Mặt trăng (Tchandra, La lune).
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Bữa sau, giờ ngọ khai mào,
Hoàng nam, Xa Nặc tiêu dao ra đền,
Ấn vua nhìn thấy ở trên,
Quân canh vội mở chốt then cửa ngoài.
Khách thương một vị thảnh thơi,
Một thầy thơ ký gót hài theo sau:
Đạt Đa, Xa Nặc, kẻ hầu,
Hai người cải dạng, ai đâu mà dè?
Trên đường thẳng tới đề huề,
Xen cùng bá tánh chợ quê đủ mùi.
Thị thành cảnh vật buồn vui,
Thầy trò thấy đủ lần hồi như đây:
Đường đi xinh lịch giải bày,
Kẻ qua, người lại, rù rì, xôn xao.
Những người buôn bán ngồi vào,
Đậu, mè, gia vị sắp bao quanh mình,
Khách mua khi đã thuận tình,
Lần trong dãy thắt xuất trình đồng ngân.
Nữa là tính thiệt đo hơn,
Bên thì nói thách, bên lần giảm đi.
Tiếng la eo óc chốn ni,
Khiến người nép tránh cho đây qua lề.
Bánh xe bằng đá nặng nề,
Bò to chậm bước, đồ kê gập ghềnh.
Những người khiêng kiệu co quanh,
Vừa đi vừa hát ân tình, ca dao.
Những phu đội vác bôn đào,
Cổ to, lưng rộng, dạt dào mồ hôi.
Mấy trang nội trợ lui cui,
Ôm ghè từ giếng mà lui về nhà.
Nhiều cô thiếu phụ nữa là,
Bồng con dưới nách hết ra lại vào.
Hàng bánh mứt, ruồi xôn xao,
Kìa người thợ dệt rạt rào đưa thoi.
Cối xay nghiến bạt, bột lòi,
Chó đi thơ thẩn kiếm moi đồ thừa.
Thợ làm binh khí sớm trưa,
Tạo nên áo giáp phòng ngừa chiến tranh.
Thợ rèn đốt lửa ngọn xanh,
Nướng cây cuốc sắt, trui thanh giáo dài.
Trong trường, giáo thọ giảng bài,
Trẻ con họ Thích hợp lời ca ngâm,
Ngồi vòng bán nguyệt, nghiêm thâm,
Học qua lịch sử cả trăm Thánh Thần.
Mấy người thợ nhuộm áo quần,
Đem phơi ngoài nắng đủ ngần trắng xanh.
Quân nhân đương lúc bộ hành,
Thuẫn, gươm khua động cạch canh đó mà.
Những người chăn giữ lạc đà,
Ngồi trên cổ bướu, lại qua vóc mình.
Bà la môn nết hạnh lành,
Sát Lỵ, Phệ Xá với ngành Thủ La;
Bốn hàng ấy ở nước nhà,
Tu hành, trị quốc, thương gia, ruộng vườn.
Ở đây, quần chúng chen bươn,
Nhìn nhà dụ dẫn phô trương độc xà;
Người nầy nói chuyện vui pha,
Cườm tay để rắn quấn ba bảy vòng;
Kèn bầu, người thổi dài dòng,
Khiến con rắn dữ vẫy vùng múa men.
Đàng kia, một đám trống kèn,
Tàn tơ, ngựa đẹp, dân hiền vu qui,
Trước thần, hoa quả sẵn bày,
Nàng nầy cầu tự hoặc vì viễn phu.
Xa xa, dãy tiệm đồng thau,
Thợ đem đập nắn đèn dầu, nồi niêu,
Thầy trò Hoàng tử dắt dìu,
Dưới tường chùa miễu dài theo cửa đền;
Cuối thành quách, có rạch bên,
Hai người qua đó, bước lên nhịp cầu.

oOo

Bên đường bỗng có tiếng sầu:
"Quí ngài tế độ, đỡ đầu tôi lên;
Ôi thôi! cứu vớt một phen,
Không thì tôi chết ở trên vệ đường!"
Ấy người Bệnh dịch thảm thương,
Rẩy run, lăn lộn, bụi vương áo quần;
Trên mình nổi mụt đỏ rần,
Mồ hôi khắp trán, miệng lần rút co;
Đương cơn nguy kịch đáng lo,
Mắt thì lơ láo, hẹn hò giờ đi!
Cỏ bên lộ, cố bám ghì,
Gượng mà chỗi dậy, rồi thì té ngay;
Tứ chi run rẩy ghê thay,
Miệng đành kêu thốt: "Ai hay cứu dùm!".
Đạt Đa chạy tới, lum khum,
Đỡ người bạc phận, mắt trùm tình yêu.
Đầu người ấp gối nâng niu(10),
Bóp xoa êm dịu, thấy chiều tỉnh tươi.
Hỏi thăm: "Có bớt chăng người?
Bệnh chi mang lấy mà ngươi té nhào?
"Nầy Xa Nặc! bởi lẽ nào,
Người kia hồi hộp, kêu gào, rên la?
Tại sao va muốn nói ra,
Lưỡi đơ miệng cứng, thật là thảm thương?"
Viên ngự giả đáp tỏ tường :
"Tâu Ngài! kẻ ấy đã vương Bệnh rồi.
Bất hòa, tứ đại rối nùi,
Máu me như thể nước sôi, lửa nồng.
Trái tim xưa nhảy đều đồng,
Bây giờ lúc chậm, lúc vùng đập lia,
Gân như dây ná đứt lìa,
Nhượng chân, thận, cổ hết bề cử đương.
Sắc duyên, vui vẻ, tráng cường,
Bây giờ tản mác xa đường còn chi!
Lúc nầy cơn bệnh phát nguy,
Kìa người mó máy như truy bệnh tình.
Đỏ lòm, cặp mắt liếc quanh,
Nghiến răng, nghẹt thở như mình ngộp hơi.
Người kia muốn chết rồi đời,
Đương khi hành bệnh, thác thời sao xong!
Bệnh còn sát hại gân trong,
Tứ chi hết cảm, bệnh hòng thoát ly,
Rồi tầm chốn khác hành vi;
Nhưng Ngài đừng có ôm chi người nầy,
Bệnh tình có thể nhiễm lây,
E Ngài chẳng khỏi vướng dây lan truyền".
Đông cung tiếp tục vỗ khuyên,
Nhưng Ngài cũng hỏi cơ duyên cho tường:
"Há còn nhiều bệnh đáng thương?
Ta đây có thể cũng vương chớ gì?"
Chàng Xa Nặc đáp tức thì:
"Mọi người đều phải chứng nầy hoặc kia:
Tên ghim, dao búa chém lìa,
Yếu đau, ghẻ lác, đằm đìa phong đơn;
Có người nóng lạnh từng cơn.
Hoặc đau kiết lỵ, vân vân mọi đường."
Đông cung mới hỏi rõ ràng:
"Đương khi bệnh đến, mình thường thấy chăng?"
Chàng Xa Nặc ứng đáp rằng:
"Bệnh như rắn ẩn, buông phăng cắn mình;
Lại như cọp dữ đang rình,
Từ trong bụi rậm thình lình phóng ra;
Bệnh như lằn chớp trên xa,
Đánh người bên nọ, dung tha bên nầy".
"- Người đời há sợ hằng ngày?"
"- Tâu lên Điện hạ! như vầy chớ sao?"
"- Thế thì không kẻ tự hào:
Đêm nay ngon giấc, thức vào ngày mai?"
"- Bạch Ngài! thật vậy chẳng sai,
Không ai dám chắc tương lai của mình".
"- Biết bao đau đớn chực rình,
Thân hư, tâm khổ, rồi sinh cái Già!"
"- Nếu mình sống được lâu xa".
"- Ví bằng thiếu sức lướt qua bệnh trầm,
Hoặc người chẳng muốn cự cầm,
Kẻ mong kết thúc cái mầm khổ đau;
Hay người chỉ biết rên sầu,
Cũng như kẻ bệnh kê đầu tay ta;
Hay người tuổi đã quá già,
Đương tình cảnh ấy, dứt ra thế nào?"
"Bạch Ngài! đành chết chớ sao!"
"- Thế là cái Chết bước vào phải không?"
"- Bạch Ngài! chết đến đau cùng,
Bất kỳ giờ khắc, xứ vùng đâu đâu.
Kẻ nầy còn tới bạc đầu,
Phần đông thống khổ, yếu đau, gầy mòn;
Nhưng rồi ai cũng chẳng còn,
Kìa xem cái Chết đương lòn bước qua!"
CHÚ THÍCH:

(10) Thái tử ôm đầu người bệnh kê lên đầu gối của Ngài.
oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ánh Sáng Á Châu

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đạt Đa Hoàng tử trông ra:
Đoàn người chậm bước, lệ sa đằm đìa;
Hướng theo phía rạch xa kia,
Một người dẫn lộ lắc lia lọ sành,
Than hồng chứa đựng đầy bình;
Phía sau nhiều kẻ gia đình lần theo,
Mọi đồ tang phục mang đeo,
Áo quần xào xể, hò reo nằn nì:
"Ra Ma! Ngài hãy chứng tri,
Cầu Ra Ma đủ từ bi độ đời"
Sau cùng, đến cái quan tài;
Tre đan ở giữa, cán ngoài bốn cây;
Nằm trên là một cái thây,
Chân đưa phía trước, ốm gầy, cứng đơ:
Miệng hủng xuống, mắt chẳng đưa,
Hông sâu, nhăn nhó, bụi dơ đỏ vàng.
Vừa khi tới ngã tư đàng,
Phu khiêng quay cáng, đầu sang phía tiền;
"Ra Ma", hô lớn liền liền,
Chúng đưa thi thể đến miền bờ sông.
Giàn thiêu cất sẵn chờ trông,
Tử thi đặt đó, chất chồng củi lên.
Xót người nằm đó ngủ quên,
Dầu cơn lạnh lẽo, cũng yên giấc hoè!
Nơi trống trải, gió bốn bề,
Thân hình để lộ chẳng che áo quần.
Bốn bên, lửa bắt lần lần,
Ngọn bò lên liếm bốn phần giàn thiêu.
Bỗng nhiên lửa túa mạnh chiều,
Chụp thây mà cắn, ngọn phèo phèo phun.
Thịt da nứt lắt lẻo tung;
Khói xông dầy đặc, sau cùng mỏng manh.
Tro tàn tạ, đỏ rồi xanh,
Xương thừa vài mảnh rắc quanh bên đàn.
Đông cung tỏ vẻ phàn nàn:
"Đây là kết cuộc nhơn gian chớ gì?"
Chàng Xa Nặc đáp lời ni:
"Ấy là cảnh tượng chung qui người đời.
Trên giàn một kẻ nằm dài,
Qua cơn hỏa táng, sót vài miếng xương;
Mấy con quạ đói kêu vang,
Chẳng thèm mổ gặm, tầm đường bay đi.
Nhưng mà người ấy trước đây,
Uống, ăn, cười, giỡn, vui say ái tình,
Ở đời, yêu cuộc sống sinh,
Rồi thì ai biết tình hình xảy ra?
Một cơn giông tố rừng già,
Trên đường trật bước, ao sa thấm bùn;
Hoặc rắn cắn, hoặc dao vung,
Cảm hàn, xương cá, ngói tung nhằm đầu.
Cuộc đời nhơn đó giảm thâu,
Người ta phải chết, còn đâu tiếc hồi!
Uống, ăn, vui, khổ, dứt rồi,
Môi hôn chẳng cảm, lửa bồi chẳng đau.
Mũi không ngửi biết nữa đâu,
Mặc dầu thịt khét, mặc dầu hương hoa,
Miệng không biết vị nữa là,
Tai không nghe tiếng, mắt lòa hết trông.
Thân bằng cố hữu khóc ròng,
Mau thiêu xác ấy, kẻo mòng giòi bu!
Số phần nhục thể vậy ru!
Xấu hèn cũng chết, sang giàu cũng queo!
Cứ như Kinh điển mà theo,
Tử sanh luân chuyển, biết gieo chốn nào?
Rồi còn trở lại làm sao ?
Còn cơn tử khổ, còn vào hỏa thiêu!
Nhơn gian luẩn quẩn bấy nhiêu,
Cái vòng như vậy là điều tử sanh".

oOo

Đạt Đa ngước mặt trời xanh,
Mắt Ngài chiếu giọt lệ lành Thần Tiên.
Kế Ngài nhìn xuống đất liền,
Đượm nồng đức tánh Từ Hiền Xót Bi.
Nhìn trời nhìn đất liền khi,
Dường như Ngài muốn nối vầy dưới trên.
Uy nghi Ngài mới đứng lên,
Dáng người bác ái, sức bền tự tin.
Hô rằng: "Trần lụy ta nhìn,
Lưới sanh tử khổ bủa ghì chẳng tha.
Hoàn cầu mang bệnh trầm kha,
Lạc là giả dối, phước là trêu ngươi.
Lao đao cực nhọc kiếp người,
Vui chưa tròn hưởng, Khổ vùi tấm thân.
Trẻ thấy đó, lão lại gần,
Người yêu vật mến vội phân tách mình.
Sống rồi thì chết rã hình,
Kế là tiếp tục sanh thành đôi nơi,
Bánh xe luân chuyển chẳng ngơi,
Trong vòng Sanh Tử người đời mãi lâm:
Ham chi vui sướng lạc lầm,
Để rồi thọ khổ thân tâm đủ đường .
Ta đây cũng đã bị lường,
Nhìn đời tốt đẹp cũng dường lạch sông;
Dưới ánh nắng, nước xuôi dòng,
Lờ đờ mãi mãi như không vội vàng.
Sông đời nước chảy ngang tàng,
Vội tuôn vườn ruộng, nhập hàng biển dơ!
Bức màn án mắt thuở giờ,
Nay đà bị xé, rách trơ rã rời.
Ta từng theo hạnh người đời,
Nguyện cầu Tiên Thánh các Ngài chẳng nghe!
Hẳn là có sự chở che,
Ai ai cũng muốn nhờ về Sức Linh!
Biết đâu các đấng như mình,
Cũng đều cầu nguyện, nhờ bênh vực giùm!
Thánh Thần sức yếu chẳng trùm,
Không phương cứu kẻ lum khum khẩn cầu!
Ta không nỡ để khóc sầu,
Nếu ta đủ sức đỡ đầu đắc chơn!
Phạm Thiên tạo hóa thế gian,
Tại sao bỏ chúng lâm nàn thế ni?
Vì Ngài có đủ quyền uy,
Bỏ đời chẳng cứu, tốt gì mà khoe?
Nếu Ngài thế lực kém bề,
Xưng danh Thiên Chủ khó nghe lắm mà!
Nầy Xa Nặc! trở về nhà,
Mắt ta xem đủ, nữa là thế thôi!"

oOo

Vua nghe thuật rõ khúc nôi,
Truyền ba tốp lính canh ngoài cửa cung;
Không ai ra khỏi, vào trong,
Ngày đêm đều vậy, cho xong hạn kỳ;
Vì vua nằm mộng trước đây,
Giữ cho qua khỏi số ngày thì êm.

oOo


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách