VƯỜN NAI

Kính mời các bạn cùng tham gia sáng tác và sưu tầm kệ thi ca Phật giáo.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Quyển sách này đã được đăng trên các trang diễn đàn Phật pháp:
  • - "thanhnienphattu.net" của Trí Minh tức Minh Béo;
    - "capcodoc.net" của thầy Định Tuệ vào các năm 2005...
Bây giờ các trang đó không còn hoạt động nữa, tôi có lưu lại bài viết trong dĩa CD. Nay tình cờ lục lại trong tủ sách Phật Học gia đình, thấy còn dĩa CD, nên phát tâm đăng lại thân tặng các đạo hữu trên diễn đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam...

Kính.


-------------------------------------
vuonnai.jpg
vuonnai.jpg (103.09 KiB) Đã xem 1894 lần
VƯỜN NAI
Huyền Linh biên soạn
1999 - Phật lịch: 2542
(Sách quay Roneo, đóng thành tập)

Phần I
LỜI ĐẦU SÁCH
Vườn Nai - Lộc Uyển - một thánh tích. Nơi đây là điểm đầu tiên trên con đường hoằng pháp lợi sinh của đức Phật Thích Ca, vị đạo sư Trời Người.

Từ đây mở lối đạo vàng. Pháp bảo xuất hiện nơi vườn Nai đầu tiên trên hành tinh địa cầu.

Cũng tại nơi đây Tăng bảo có mặt trước nhất trên cõi hồng trần, làm sáng lên sức sống nhân loại.

Và chính ở nơi đây - Vườn Nai này, xuất hiện đầy đủ ba ngôi quí báu nhất trần gian giữa cánh rừng rậm hoang vu, đầy bóng tối vô minh, giữa biển đời nhiều nước mắt đau khổ. Ba ngôi báu - Tam bảo - ấy là: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Là:
  • - Phật đà Thích Ca.
    - Pháp mầu Tứ Đế.
    - Tăng già: năm vị Kiều Trần Như.
Từ đây ba ngôi báu này là nơi nương tựa an lành cho chúng sanh người, trời hữu duyên.

Ba ngôi báu này như ba vị tinh đẩu Thái Âm sáng rực trong đêm đen, soi tỏ rừng đêm dẫn lối kẻ lạc đường ra khỏi.

Cho đến bây giờ, vườn Nai, rừng Nai vẫn còn và còn nhiều "nai vàng" ngơ ngác, nai hoàng y, nai cà sa bạc màu, không thiếu những con còn tơ đang dớn dác không biết lối đi, không biết lương thực để làm no, không biết đường mòn suối ngọt hiền lành để uống trừ khát.

May thay, trong vườn Nai vẫn còn chất liệu pháp mầu, còn con đường Tứ Đế, còn suối nguồn diệu thâm, còn có thể giúp cho những con nai vàng non trẻ được no lòng đỡ khát, thôi đi vẻ ngơ ngác khát thèm.

Mong rằng với pháp mầu Diệu đế có thể làm no lòng hết khát, sớm phát triển hình hài, sớm tung tăng dáng vẻ nai vàng cà sa hực ánh triêu dương.

Mong rằng con nai vàng không còn ngơ ngác nữa, vì bên mình còn gia bảo cha ông, còn địa đồ, còn la bàn, còn phương tiện sống.

Pháp Tứ Đế là "kho báu" của cha ông dòng họ Thích.

Mong rằng người có duyên gặp được pháp mầu sớm khai chánh trí, sớm thoát cảnh điêu linh, sớm về bên cõi Phật.
    • Trân trọng
      Nam Mô Phật
      Huyền Nhạn - Linh Sơn


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • GIỚI THIỆU

    PHÁP TỨ ĐẾ
Pháp Tứ Đế được nói đầu tiên kể từ sau khi đức Phật thành đạo.

Đức Phật đã giữ lời giao ước với năm người bạn đồng tu dạo trước, khi chia tay rằng: "Ai thành đạo trước thì tìm nhau mà độ cho nhau".

Năm người bạn ấy đang tu tại vườn Nai, là nhóm năm anh em ông Kiều Trần Như. Đức Phật tìm đến và vì họ mà nói pháp này.

Pháp Tứ Đế là pháp gồm có bốn điều chắc thật. Bốn điều này nói lên sự thật. Đây là bốn chân lý:
  • - Khổ đế.
    - Tập đế.
    - Diệt đế.
    - Đạo đế.
1. Khổ đế: Nói lên các hình thức khổ là sự thật, là đúng đắn, chắc thật, là chân lý. Sinh, lão, bệnh, tử v.v...

2. Tập đế: Nói lên nguyên nhân gây khổ. Đây là mười nhân dúng đắn, chắc thật, là chân lý. (Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến).

3. Diệt đế: Nói lên cái chỗ sau khi các tập nhân đã được diệt trừ. Đây là cảnh giới tịch diệt, cảnh giới đúng đắn, chắc thật. Ấy là cảnh giới Niết bàn, là chân lý.

4. Đạo đế: Nói về con đường. Đường lối để diệt trừ cảnh khổ, là phương pháp tu để diệt tập nhân trừ khổ. Đường lối phương pháp tu này đúng đắn, chắc thật, là chân lý.

Tứ Đế là một pháp tu thật hay, có khả năng trừ khổ để được an vui thực sự, nên là pháp lý mầu diệu. Vì vậy còn được gợi là Tứ Diệu Đế.

Và do pháp Tứ Đế mà các vị tu theo đã trở nên bậc thánh. Các bậc thánh đã đi từ con đường này, từ pháp này nên cũng được gọi là Tứ Thánh Đế.

Pháp Tứ Đế là một phương pháp diệt khổ để được vui, có đủ: pháp lý, pháp tu, pháp hành (phương pháp dụng công).
Riêng về lối trình bày pháp môn thật là sáng tỏ, có thứ mục rõ ràng, khiến cho bất cứ ai nếu chịu nhìn vào sẽ thấy được đường lối đi vào, việc làm chỗ đến ra sao. Là pháp đầy đủ nhân quả (quả khổ có nhân để khổ, quả vui có nhân để vui). Thật là một pháp môn sáng sủa. Có phương pháp đàng hoàng nên dễ thực hiện áp dụng để tu, và có hiệu năng thật bảo đảm. Giống như một bài toán có đủ số hạng thì cộng trừ hay nhân chia đúng rồi sẽ có đáp số chắc chắn, có nghiệm số rõ ràng.

Với hình thức trình bày như trên, nên dù có trải qua hơn hai ngàn năm mà vẫn bảo đảm vị trí trong mặt văn học. Nó là một bản văn có thể là cổ nhất của nhân loại mà không bị lỗi thời lạc hậu. Mgày hôm nay, nhìn vào bản văn mà ngỡ rằng mới được viết vào thời đại này (dù rằng thời Phật chưa viết thành chữ).

Thấy rõ được chỗ hay diệu như vậy, hòa thượng Thích Thiện Hoa đã có lời như sau:
  • "Bố cục kỳ diệu của Tứ Đế.

    Tứ Diệu Đế đã được đức Phật sắp dặt theo một thứ tự khôn khéo, hợp lý hợp tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây mỗi khi nói đến Tứ Diệu Đế, ngoài cái lý sâu xa, nhận xét xác đáng, còn tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của toàn bộ pháp môn này

    Trước tiên đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy cải thảm cảnh hiện tại của cõi đời. Cái thảm cảnh bi đát này nằm ngay trước mặt ta, bên tai ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể thấy nghe ngửi nếm, rờ được chứ không phải sự thật xa lạ ở đâu đâu. Đã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai không có ốm, ai không già, ai không chết v.v...?

    Và những trạng thái ấy đều mang theo tánh chất khổ cả. Đã có thân tất phải khổ. Đó là một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai không nhận thấy, nếu có chút ít nhận xét.

    Khi chỉ cho mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy. Ngài đã từ hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề sâu, đã đưa từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lý luận của ngài đã đặt căn bản lên thực tại, lên những điều có thể chứng nghiệm được chứ không phải xa lạ, viễn vong, mơ hồ. Đến giai đoạn thứ ba, đức Phật trình bày ra cho chúng ta thấy cái vui thú của sự hết khổ. Gian đoạn này tương phản với giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn trên khổ sở như thế nào thì giai đoạn này lại vui thú như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà ngài trình bày cho chúng ta thấy ở đây cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong. Vì nếu đã có khổ thì tất nhiên phải có cái trái lại với cái khổ, là cái vui. Và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào thì mới hăng hái tìm cách thoát khổ và khao khát hướng đến cái vui mà đức Phật đã giới thiệu.

    Đến giai đoạn thứ tư là giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp hành sau. Đó là một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước khi bảo người ta đi thì phải cho người ta biết rõ là đi đâu đã chứ. Phải nêu mục đích sẽ đến như thế nào, rồi để người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. Nếu người ta nhận thấy mục đích ấy cao quí đẹp đẽ, khi ấy người ta mới hăng hái, nỗ lực không quản khó nhọc để thực hiện cho được mục đích ấy
    ". (Trích Phật Học Phổ Thông, quyển thứ nhất, trang 396-398)
Để rõ hơn bằng phương pháp Tứ Đế giải quyết khổ đem vui cho con người, được thí dụ như một người ghiền á phiện, sì ke. Để "cai" bệnh ghiền (trừ ghiền, bỏ hút, bỏ chích, bỏ thầu), một y sĩ điều trị hướng dẫn bệnh nhân:

Bước 1: Ông hãy nhìn xem vẻ tiều tụy, sự khốn khổ của bệnh ghiền hành hạ (Đây là một sự thật không chối cãi được - Khổ đế).

Bước 2: Nguyên nhân của tình trạng khổ sở vật vã này là do á phiện, sì ke, hoặc chích hoặc thầu (nuốt) (Đây là một sự thật, cái nhân do này không chối cãi được - Tập Đế).

Bước 3: Y sĩ đem cái hình chụp khi chưa ghiền, cái hình đẹp trai phương phi, đỉnh đạt. Một hình ảnh rất đẹp của bệnh nhân khi chưa ghiền. Y sĩ bảo: "Ông đẹp đẽ thanh lịch là vậy, nếu sau khi hết được bệnh ghiền ông sẽ trở lại đẹp đẽ thanh lịch như thế".

Qua hình ảnh cũ, bệnh nhân thấy được hình ảnh mai kia của mình sẽ đẹp đẽ thanh lịch như vậy, thấy rõ ràng nên có lòng tin và chịu hướng về hình ảnh đẹp đó mà chữa trị.

Y sĩ treo hình ảnh đó trên tường, trước mặt bệnh nhân để bệnh nhân hướng đến hình ảnh sau khi lành mạnh sẽ được tốt đẹp như vậy. (Đây là một sự thật, cái nhân ghiền á phiện, sì ke trừ được thì sẽ có hình vóc tốt đẹp như vậy là sự thật - Diệt Đế).

Bước 4: Khi bệnh nhân đã chịu trị, y sĩ nói rõ về các phương thuốc cùng phương cách trị liệu, điều dưỡng v.v... để trị hết chứng bệnh ghiền, không còn hình ảnh tiều tụy khốn khổ nữa mà được lành mạnh tốt đẹp an vui (Phương thuốc, phương cách điều trị để hết bệnh ghiền khổ được lành mạnh an vui là một sự thật không phải là luống dối. Chịu dùng thuốc, biết cách dùng thì nhứt định sẽ có kết quả tốt, như ý - Đạo Đế).

Trong khi cai nghiện, người nào khi thấy lại được hình ảnh cũ của mình, rồi sau đó nhớ luôn hình ảnh đó trong đầu thì việc cai nghiện mau thành công. Vì rằng người ấy cứ mãi lo giữ bóng ảnh tốt đẹp trong đầu, nên không mấy khi nhớ đến việc lên cơn ghiền hay nhớ đến á phiền, sì ke. Những sinh hoạt hút chích v.v... sớm mờ nhạt trong đầu, nên cơn ghiền cũng được thưa dần, nhẹ đi và sẽ sớm khỏi.

Người nào hay quên hình ảnh tốt đẹp của mình khi đã nhìn thấy thì việc cai nghiện chậm hơn. Vì rằng người này thỉnh thoảng mới nhớ hình ảnh tốt đẹp của mình thôi, nên rộng thời giờ nhớ đến sinh hoạt chích hút cũ, và cơn ghiền dễ ập đến khiến sinh nhiều vật vã.

Người nào quên tuốt luôn hình ảnh tốt đẹp của mình khi đã nhìn thấy thoáng qua một lần, hay không thấy, thì việc cai nghiện thật khó thành công, có khi đi đến tử vong. Vì rằng người này chỉ phớt qua một lần hình bóng tốt đẹp của mình rồi thôi, quên hẳn luôn, thế nên trong đầu chỉ còn có bóng hình sinh hoạt nghiện ngập kia mà thôi. Hình ảnh chích, hút, thầu, cảm giác đê mê v.v... diễn ra quá rõ nên cơn ghiền lại nổi lên, lại phát tác, lại bị vật vã khốn khổ từng chặp, từng chặp.

Tạm nêu lên ba trường hợp như vậy ở người cai á phiện, sì ke; để thấy rõ kết quả mau chậm khác nhau. Ba trường hợp này có thể làm thí dụ cho việc cai "ái sinh tử khổ" cho người tu theo pháp môn giải khổ trên. Theo đây có thể thấy được kết quả tốt hay xấu, chậm hay mau của quả vị Niết bàn.

Nếu người nghe nói, hay được đức Phật (hoặc một bậc thiện tri thức) nói cho, chỉ cho về cảnh giới Niết bàn, chỉ cho cái chỗ vắng lặng không bóng hình đau khổ, mà gọi là an vui trong lòng, người ấy nghe thấy nhận ra được rồi theo đó mà khởi tu. Những người tu này cũng có ba trường hợp:
  • Trường hợp 1:
Nếu người nhận ra cõi Niết bàn, rõ ràng là chỗ không bóng hình đau khổ, không một niệm bất an. "Hay ra" được sự thật này không phải ở Phật mà ở "ngay trong ta", thế rồi bằng sự thật này mà sống, sống khắn khít. Tức bằng "Diệt đế" mà hành "Đạo đế" không lơi.

Sống tu như vậy tuy rằng chưa sống trọn cảnh Niết bàn, nhưng có mang tính chất Niết bàn trong khi tu. Thế nên tu như vậy thật là nhanh. Chóng xa lìa bệnh khổ, chóng chứng Niết bàn (như trường hợp 1 của người cai á phiện).
  • Trường hợp 2:
Nếu người nhận ra cõi Niết bàn, thoáng thấy là chỗ không bóng hình khổ đau, không một niệm bất an. "Biết ra" được sự thật này là ở Phật nói, thoáng qua ở trong ta một chút. Thế rồi bằng sự thật này mà sống. Tức bằng hiểu "Diệt đế" mà hành "Đạo đế". Sự hành trì không được liên tục, không sống được bằng tính Niết bàn, nên tu như vậy không được nhanh, những bệnh khổ, phiền não còn đeo đẳng nhiều nên việc chứng Niết bàn còn lâu (như trường hợp 2 của người cai á phiện).
  • Trường hợp 3:
Nếu người hiểu cảnh giới Niết bàn qua lời Phật nói, qua văn tự, chỉ "hiểu ra" được sự thật này qua sự chỉ bày ở nơi Phật thôi, không nhận ra gì ở nơi mình. Người này theo đây mà sống. Tức người này sẽ từ "Đạo đế" mà hành để được "Diệt đế". Vì hành đạo không mang được chút nào tính Niết bàn, nên bệnh khổ, phiền não còn đầy dẫy. Thế nên công phu thật nhiều mà kết quả chẳng được bao nhiêu. Kết quả này rất chậm. Việc chứng Niết bàn thật xa xôi (như trường hợp 3 của người cai ghiền).

Lưu ý: Đừng bao giờ hiểu Niết bàn như một mục tiêu cụ thể, có một điểm thật sự và cần phải đi đến. Đừng hiểu Niết bàn như Saigon, còn người hành đạo ở các tỉnh, nhắm Saigon mà đi để đến được Saigon. Đừng! Đừng bao giờ hiểu Niết bàn như vậy! Thật sai lầm và không khéo sẽ nguy tai.

Theo Tứ Đế thì hãy hiểu Niết bàn là một tâm không mười tập nhân. Một tâm không khổ đế.

Pháp Tứ Đế, một pháp tu rất cơ bản trong nhà Phật. Tất cả trình độ, căn cơ đều có thể áp dụng được. Tùy theo sự thể nhận, sự tinh cần, sự khéo hành trì mà có kết quả mau chậm, thấp cao khác nhau. Dù thế nào thì cũng có lợi ích.

Với pháp Tứ Đế, về pháp tu thì có pháp Tứ Niệm Xứ. Đây là bốn pháp tu chính, là bốn pháp quán niệm:
  • 1. Quán thân bất tịnh.
    2. Quán thọ thị khổ.
    3. Quán tâm vô thường.
    4. Quán pháp vô ngã.
Bốn pháp quán này phải luôn ghi lòng nhớ lấy, tức "Niệm" luôn bốn chỗ. Vì đây là bốn phép nhằm đối trị, nhằm hóa giải bốn cái chấp lớn của con người, của một chúng sanh. Chính bốn cái chấp này đã khiến con người sanh Tập đế, sanh Khổ đế mà có khổ đau. Bốn cái chấp lớn này là:
  • - Chấp thân: Chấp thân mình là thật, là ta.

    - Chấp cảm thọ: Chấp cảm giác nơi thân là thật. Sống nhằm phục vụ cho các cảm giác, để có sự khoái cảm, luôn muốn có sự thọ nhận từ ngoài vào để phục vụ cho các giác quan, phục vụ cho sở thích tham muốn.

    - Chấp tâm: Chấp cái tâm trong thân, cái tâm hay suy nghĩ tính toán hơn thiệt, ta người. Chấp tâm này chính là ta (tâm ý) nên cho ta là nhất trên đời, tức có bản ngã và bản ngã này là trường tồn, lất bất diệt, là trên hết.

    - Chấp pháp (pháp: muôn sự muôn vật): Chấp muôn sự muôn vật, từ trong lòng đến ngoài cảnh, thứ nào cũng đều có chủ tể (ngã), cũng là thật hết. Trong lòng: ý nghĩ tôi là thật, dòng tư tưởng tôi là thật, và ngũ uẩn tôi là thật, có bản ngã là chủ. Ngoại cảnh có chủ tể là thật, đất vườn có chủ tể là thật, đến vàng, bạc, ngọc có chủ tể là thật v.v... cho đến đất nước, núi non cũng đều cho là có chủ tể, đều cho là thât. Và cho đến những sinh hoạt, những tổ chức trong cuộc sống cũng đều chấp như vậy. Chấp cho các pháp có tư tưởng, đều là thật có.
Bốn chấp này nếu nói gọn lại thì còn có ba, tức:
    • a. Chấp thân.
      b. Chấp tâm.
      c. Chấp cảnh.
    Đây là ba thứ chấp lớn nặng trùm tất cả các thứ chấp trên đời. Từ ba chấp này mà có đủ các thứ chấp khác trong cuộc sống để tạo thành sự đau khổ triền miên, trôi lăn trong lục đạo luân hồi.
Phá giải được các món chấp này tức giải trừ được ngã và ngã sở. Cái "mình" và cái "của mình" đã không còn trong lòng nữa thì đau khổ do đâu mà có được. Thế là đau khổ hết. Hết khổ thì được an vui. Sự an vui này bặt vui dứt khổ theo thế tình, là niềm an vui vĩnh hằng. Niềm an vui vượt khỏi vòng luân hồi này được gọi là cõi Niết bàn.

Thế nên phép quán Tứ Niệm Xứ là "chủ lực" để phá giải vòng dây tập nhân, hầu giải thoát khổ. Tứ Niệm Xứ vì vậy như bốn vị đại tướng tiền phương tài giỏi trong mặt trận "Tổng tiến công" đánh đuổi mười đạo quân xâm lược để dành lại chủ quyền cho dân tộc, đem lại thanh bình cho xứ sở quê hương.

Giá trị của Tứ Niệm Xứ là vậy, nên trong Đạo đế, Tứ Niệm Xứ được xếp đứng vị trí hàng đầu, là nhóm số một trong tất cả nhớm.

Nếu Tứ Niệm Xứ đã là đại tướng thì sáu nhóm kia là sáu tiểu tướng.

Có đại tướng tài giỏi mà thiếu tiểu tướng hay cũng không được. Nên để trợ lực cho Tứ Niệm Xứ phải có sáu nhóm kia phụ vào. Có đủ bảy nhóm cùng hợp sức thì việc thành công chắc chắn không sai, nên gọi là Đạo đế. Sáu nhóm kia là:
  • - Tứ chánh cần.
    - Tứ như ý túc.
    - Ngũ căn.
    - Ngũ lực.
    - Thất giác chi.
    - Bát chánh đạo.
[/list] Như vậy sáu đoàn hùng binh của Tổ quốc dàn trận cùng đạo binh xâm lược. Xem như sáu chọi mười, vậy là quá chênh lệch với đối phương, chỉ nhích hơn phân nửa lực lượng đối phương mà thôi (6/10).

Tuy vậy sáu đạo hùng binh này là "thần binh". Với số ba mươi bảy thiên biến vạn hóa, trận địa sẽ trùng trùng quân số. Bằng phát huy đến vô cùng, lực lượng hùng hậu vô biên, trận thế biển ảo phi thường, sức công kích như vũ bão, mạnh bạo như sấm sét... Thế nên dù đối phương có mười đạo quân thiện chiến lợi hại, mưu mô xảo quyệt, tàn bạo gì gì chăng nữa rồi cũng phải đào tẩu hay xếp giáp quy hàng dưới chân bốn đại tướng Quán Niệm.

Thắng đối phương là một điều vinh quang tối thượng. Nhưng cuộc chiến không dễ dàng, rất nhiều khó khăn, lắm nhiêu khê. Vì đối phương là quân xâm lăng đã từng ngự trị trên lãnh thổ, trên Tổ quốc ta, đã từng đặt ách thống trị nên chúng rất rành địa hình, địa vật cùng nhân vật v.v... Vì thế chúng rất ma mảnh, rất gian manh, rất tích cực chiến đấu. Trong mười đạo binh: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, thì ba đạo: tham, sân, si là độc hại nguy hiểm, khó khăn nhất. Chúng cũng biến hóa vô cùng, năng lực cũng phi thường, sự tác hại không kể xiết.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • THAM - SÂN - SI
Tham - Sân - Si là ba món dẫn đầu trong mười đạo binh, thì đây cũng là từ chấp thân, chấp tâm, chấp cảnh sắc mà có ra.

Có tham, sân, si, có chấp thân, tâm, cảnh sắc nên có ra bảy món sau: mạn, nghi, thân kiến, biên kiến kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến. Như vậy có thể nói bảy món sau này là dạng khác của tham, sân, si mà thôi.

Mặc khác ở dạng hiện tướng, khi đã là con người thì được bắt đầu từ tham, rồi sân và si. Nhưng thực ra để gọi là tham (vì si muội) không biết đúng sự thật, giả không biết, thiệt không hay, lầm (si) giả thiệt mới sanh tham. Thường thì tất cả những cái đó đều là giả mà không biết, tức là "si". Vì không biết cho là thiệt nên mới bám vào, chấp dính, tức là "tham". Chấp bám vào mà không được (vì nó là giả và không phải của mình) nên sanh bực bội, nóng giận v.v.., thì gọi là sân. Và hễ sân thì lửa nóng giận làm cho mất khôn ngoan (giận mất khôn) tức là si. Rồi si lại mê mờ không biết giả thiệt lại tham, lại sân v.v.. Cứ vậy mà tham, sân, si.

Như thế Si là đầu mối của vòng quay. Nên khi tu pháp quán tức đối trị thẳng ngay si là yếu điểm. Mũi dùi là tại đây - tại Si (Quán là trở về với thế làm chủ, phát huy trí để diệt si). Nhưng tham, sân, si hay si, tham, sân rất là phức tạp. Với tham, sân, si của một con người bình thường trong cuộc sống rất dễ nhận ra, ai cũng có thể biết được. Biết được thì có thể trừ được. Đây có thể xem tham, sân, si ở từng một.

1. Tham, sân, si ở từng một được tiêu biểu qua ngũ dục (thô): tài, sắc, danh, thực, thùy (tài sản, người nam, người nữ, tiếng tăm, danh vị, ăn uống, ngủ nghỉ). Rõ ràng tham, sân, si theo đây không khó nhận diện, nên không khó trừ lắm.

2. Tham, sân, si ở từng hai, có thể tiêu biểu qua ngũ dục (tế): sắc, thinh, hương, vị, xúc.
  • - Sắc: Những gì đối với mắt như: người, thú, đồ vật, cảnh...
    - Thinh: Những gì đối với lỗ tai như tiếng đục, trong, ồn, yên, dở, hay...
    - Hương: Những gì đối với lỗ mũi như mùi thơm, thúi, dễ chịu, khó chịu...
    - Vị: Những gì đối với lưỡi, miệng như các thức ăn mềm, cứng, chua, cay, ngọt, lạt, mặn, chát...
    - Xúc: Những gì đối với da thịt như cảm giác êm ái, trơn láng, mát, nóng, mềm, cứng, thích thú, ghê tởm...
Tham, sân, si tầng hai này sâu hơn, khó nhận hơn, nên cũng rất khó trừ.

Như người xuất gia (Tỳ kheo) đã bỏ năm dục thô cùng tham, sân, si ở đời không khó lắm nên mới có thể xuất gia và bỏ chúng ở lại nhà được. Nhưng với năm món dục tế cùng tham, sân, si theo nó không phải dễ nhận, dễ bỏ lại nhà, mà vào xuất gia nó cũng chạy theo vào tịnh xá, ăn ngủ, sinh hoạt cùng mình. Tham, sân, si về sắc, thanh, hương, vị, vị, xúc quả là khó phát hiện, cũng khó trừ.

3. Tham, sân, si ở từng ba, có thể hiểu qua về hai thứ: chủ thể và đối tượng.

Chủ thể là mình, đối tượng là cái gì đó đối lại với mình như là con người, con vật, đồ vật, cảnh vật, sự kiện, hoàn cảnh, một vấn đề v.v...

Khi mình và đối tượng gặp nhau thì sẽ sanh ra những vấn đề, sự kiện. Khi vấn đề, sự kiện sinh ra, cảm giác sau đó là ưa hay ghét, chịu hay không, vui hay buồn... Nó sẽ có một trong hai của cặp đối đãi. Và rồi tham, sân, si sẽ theo đó mà sanh ra, Chẳng những sanh ra ngay đó, mà còn có sự lưu trữ sau ấy.

Như vậy, việc hình thành tham, sân, si này được diễn ra trọn vẹn bằng bốn thứ:
  • - Chủ thể.
    - Đối tượng.
    - Vấn đề, sự kiện.
    - Cảm giác lưu trữ.
Để phát hiện ra tham, sân, si trong tình trạng này rất khó. Nếu không có tỉnh giác cao độ thì thật khó nhận ra. Nhất là khi sống hay bằng lòng tham thì sẽ bị cuốn vào vòng này không còn biết là gì. Chỉ còn với mình và tham, sân, si mà thôi. Tham, sân, si ở đây trá hình trá dạng biến hóa khôn lường, rất là phức tạp dễ gây lẫn lộn trong pháp quán. Ác thay, cuộc sống chung chung dù là xuất gia đi nữa cũng chưa thoát khỏi dòng sinh hoạt này. Vẫn còn trong đối đãi, trong điều kiện sống có hai. Còn sống bằng đời sống "có hai" thì rất khó mà tránh khỏi tham sân, si. Vì "có hai" tức đã thấy không đúng, là si rồi, nên tham, sân sanh ra thôi. (Một hư không mà thấy có này có kia là thấy sai - sai vì có hai).

Tuy là đang tu quán niệm vẫn xảy ra tình trạng này. Nếu không khéo biết sẽ bị lẫn lộn giữa tham, sân, si và trí huệ công phu. Nếu có sự lẫn lộn giữa tham, sân, si và trí huệ thì kết quả không có giá trị, như chiếc nhẫn không phải bằng vàng ròng mà lộn đồng thau.

Nếu đang khi tu, khi công phu mà ở tình trạng này (có bốn thứ), thì hãy trông chừng ắt có tham, sân, si.

Bước đầu sẽ có đủ cả bốn thứ, có rõ rệt, có đủ bốn thì có đủ tham, sân, si. Nếu công phu đúng, chuyên nhất thì sẽ nhạt từ từ, sẽ giảm dần cho đến mất mục bốn rồi mất mục ba.

Mục hai còn thầm thầm, nhưng rồi cũng phải lặn luôn. Mục hai lặn mất, còn mục một.

Nhưng hai đã lặn thì một cũng thôi. Như đứng trên bờ sông trông cá, mà cá lặn thì còn trông ai?

Chỉ còn nước xanh, trời xanh, rặng cây xanh, người như tan biến. Người bây giờ tan vào nước, trời vào cây.

Một cũng thôi thì... đất trời lồng lộng. "Ngã - pháp" tiêu vong còn lại gì? "Còn lại gì", không biết. Nhưng có điều ngay đó không có bóng dáng tham, sân, si (Đây là cơ hội để ngộ - ngộ rồi thì sẽ bằng trí ngộ mà tu).

Nếu ngay đó mà cho rằng ta đã chứng Thánh, ta đã thật an vui, thật vô cùng khoái lạc... thì đó vẫn là còn bốn thứ và bị gọi là "sở trí ngu". Vì chấp vào cảnh sở tri, đây là sở tri chướng là sự chướng ngại. Dù là ngay đây không còn tham, sân, si theo thế tục, nhưng vẫn là si, vẫn là tham, sân. Có điều si, tham, sân này thật là vi tế, nó rất gần với trí huệ. Tuy là vi tế khó thấy nhưng không phải là "việc nhỏ". Đây là "việc lớn" của người tu đó, là điều tối kỵ. Vì nếu không khéo vượt thì sẽ có sự lệch hướng, nguy hiểm. Cả công trình xem như vô giá trị, còn có thể trở thành ngoại đạo, trở thành thiên ma là khác.

Và nếu lệch thật sự rồi, thì sẽ lần hồi phục hồi tham, sân, si y như thế tục, nhưng bằng bình phong Phật pháp vậy thôi.

Nói như trên để thấy tham, sân, si ba chữ đơn giản là vậy, nhưng thực ra không đơn giản chút nào. Và để thấy việc bố trí trong pháp Tứ Đế thật chu đáo, thật hay. Ở chỗ sáu nhóm như sáu tên tiểu tướng yểm trợ bốn đại tướng. Sự bố trí này quả thật tuyệt diệu. Nhờ vào sáu nhóm sau mà tạo năng lực, phát huy tối đa, ngăn phòng duyên ngoài, ngừa điều bất trắc, trục trặc bên trong. Người hành đạo biết khai thác sáu nhóm này đúng mức sẽ thấy sự thành công tốt đẹp. Con đường tận diệt tham, sân, si và các món khác sẽ không còn là việc khó khăn cho lắm.

Sáu nhóm này ngoài chức năng bảo vệ yểm trợ tạo năng lực cho Tứ Niệm Xứ, chúng còn có khả năng phát huy nhiều mặt khác trong cuộc sống hành đạo, cũng như trong cuộc sống đời thường. (Những pháp này không lỗi thời dù nay là cuối thế kỷ hai mươi, sắp qua hai mươi mốt).

Pháp Tứ Niệm Xứ lại giống như bốn thứ thuốc hay có khả năng diệt trừ mười loại vi trùng độc hại trong cơ thể con người.

Có bốn loại thuốc hay nhưng phải biết cách uống, biết cách điều tri, điều dưỡng nữa thì mới có kết quả tốt là diệt được loại vi trùng độc hại kia để trừ bệnh khổ.

Cách uống, cách điều trị, điều dưỡng đó chính là sáu nhóm đứng sau Tứ Niệm Xứ. Đây là điều rất cần thiết. Vì rằng thuốc hay mà không biết cách dùng sẽ không tác dụng, và có khi lại sanh ra nguy hiểm đến tính mạng. Biết uống thuốc mà không biết điều dưỡng cũng là điều không hay, bệnh lâu hết, trùng lâu diệt. Có khi nó lại còn phục hồi và còn quật ngược người nữa, có khi đưa đến tử vong.

Thế nên phương cách điều trị, điều dưỡng phải được đặt ra và phải có sự hiểu biết đúng đắn, cùng thực hiện chính xác, không thể xem nhẹ thông qua được.

Đức Phật là một vị thầy thuốc giỏi có lương tâm, nên khi trị bệnh khổ cho người thật chu đáo. Ngài vừa cho thuốc trị lại kèm theo phương cách điều trị, điều dưỡng thật rõ ràng, thật tỉ mỉ, thật giá trị.

Sáu nhóm trợ lực cho Tứ Niệm Xứ hiểu thấu đáo sẽ thấy cần thiết, rất hay cho người thực hành pháp.

Với sáu nhóm này hãy hiểu một cách tập trung là nhằm hướng về Tứ Niệm Xứ để phát huy tiềm năng phép quán chứ đừng hiểu theo chức năng lẻ tẻ, dù có thấy hay nhưng làm giảm bớt huy lực. Như sáu đạo quân, đạo nào cũng hay, nhưng chỉ đứng một mình một trận tuyến thì sẽ bị yếu cho cả cuộc "Tổng tiến công".

Cũng vậy trong sáu nhóm, như tách riêng nhóm "Bát chánh đạo phần" làm một pháp môn thì sẽ thấy yếu ngay. Trong khi đó "tám chánh" giữ vai trò yểm trợ tối đa bằng tám đúng: thấy đúng, suy nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, siêng đúng, nhớ nghĩ đúng, định đúng.

"Đúng" (chánh) ở đây là đúng gì? Không phải chỉ đúng đạo lý, đúng chung chung, cũng không phải là đúng Tứ đế. (Đúng Tứ đế là sai. Vì nó đang nằm trong Tứ đế, thì sao lại đúng Tứ Đế? Khi nào nó nằm ngoài Tứ đế mới nói vậy được). "Đúng" ở đây phải xác định rõ ràng là đúng Tứ Niệm Xứ.

Nghĩa là khi đã hành trì pháp Tứ Niệm Xứ thì từ con mắt (chánh kiến), bộ não (chánh tư duy), cái miệng (chánh ngữ), sự sinh hoạt (chánh nghiệp), cái mạng sống (chánh mạng), sự tiến tới (chánh tinh tấn), sự nhớ nghĩ (chánh niệm), sự kiên định (chánh định). Tất cả từ đầu tới chân, từ ngoài vào trong, từ sinh hoạt, từ ý chí, từ hành động... nhất nhất đều một bề đúng như pháp (Tứ Niệm Xứ).

Đây là tám điều đúng làm sáng tỏ cụ thể cho điều thứ ba của nhóm Tứ Như Ý Túc. Tức là điều nhất tâm như ý túc. Điều này có nghĩa là khi công phu để được thành công như ý thì phải một lòng một dạ, phải hết mình hết sức mà dồn vào sự công phu.

Đã nhận được pháp tu chân chánh, lại công phu được như vầy thì đường tu bảo đảm đi đến đích, đến thành tựu viên mãn.

Vậy nên cả Đạo đế được gọi chung là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Phải ba mươi bảy không thể thiếu. Hành trì đủ ba mươi bảy món này là làm nên đạo cả.

Từ đây thấy rõ uy lực Đạo đế thật là mãnh liệt. Nó có khả năng đánh bật gốc rỗ cây cổ thụ Tập nhân không phải chỉ mười rễ thôi, mà bao nhiêu rễ cũng bật được, dầu nó có "thâm căn cố đế" lâu đời lâu kiếp bao nhiêu đi cũng vậy. Khi gốc rễ bật rồi thì cành lá khổ đau sẽ bị khô héo. Mười tập nhận sạch rồi thì khổ quả biến bay.

Ba mươi bảy món Đạo đế hưng dậy làm nhân dựng lên quả cội Bồ đề, thành chánh đẳng chánh giác, chứng nhập Niết bàn, an vui vĩnh hằng.

Đây là lối mòn của bậc Thánh. Người tu theo đạo Phật không có lối nào khác, phải đi theo lối này thôi.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chỉ là lối diệt sạch Tập nhân mới có thể chứng Niết bàn.

"Diệt Tập nhân" là một nguyên tắc không thể thiếu của người tu Phật. "Tập nhân" phải không thì người ấy mới thành đạo. Vì Tập nhân chính là nghiệp nhân, nghiệp có sạch thì đạo mới thành.

Dù bằng lối nào, đường nào, pháp tu nào, pháp tiệm, pháp đốn, pháp đại thừa, tối thượng thừa gì đi nữa cũng không thể khác được. Tập nhân nếu chưa không thì đạo hãy còn xa lắm.

Dù có pháp tu không cần diệt từng món tham, sân, si một, rõ tánh tham, sân, si. Từ tánh mà tu thì cũng không phải tham, sân, si, không tập nhân. Không thể nói tham, sân, si còn nguyên mà gọi là thành đạo được.

Có thể tham, sân, si còn trên hình thức. Nhưng si tập dứt khoát phải là không. Còn si thì không bao giờ có trí huệ được. Nếu gọi là trí thì đó là "trí cuồng" thôi.

Tham, sân, si còn vì có thể dùng làm phương tiện để hóa độ. Mà có khởi phương tiện tức phải có trí huệ. Nên tham, sân, si chỉ là một sự đóng tuồng, diễn trò của một người chân tu đắc đạo hành Bồ tát hạnh. Chúng nó chỉ là giả tạo, tạm mượn để diễn xuất thôi.

Thật ra tánh tham, sân, si tức là tánh giải thoát. Nên khi bằng thấy tánh tham, sân, si mà tu thì ngay khi tu đã không tham, sân, si rồi. Hay là vô hiệu hóa tham, sân, si.

Nếu thấy được tánh Tập nhân mà tu thì tuyệt diệu. Ba mươi bảy phẩm nếu đem ứng dụng thì diệu lực phi thường, nó liền thành phép thần thông. Vung tay một cái mười tập nhân tan biến vào hư không, hổng còn dấu vết tăm hơi gì.

Đó là chỗ nếu nhận ra tánh Niết bàn ở Diệt đế mà khởi tu thì được năng lực thù thắng như vậy. Được vậy thì "Một nhảy vào đất Như Lai".

Mới hay pháp Tứ Đế chính là Tứ Diệu Đế và mới rõ thật là Tứ Thánh Đế.

Mặt khác, theo trên để rõ rằng nếu bằng một pháp tu nào đó mà hay diệt được tham, sân, si,trừ được Tập nhân thì pháp tu đó, việc tu đó, kết quả đó cũng đều tốt cả. Sạch Tập nhân thì hết khổ đau, được an vui, được Niết bàn đó là tốt rồi. Vì vậy vấn đề pháp môn, tông phái, hệ phái và "thừa" không phải đặt ra, không phải phân biệt, so sánh, hay dở, thấp cao làm gì. Cho đến dù là người ngoại đạo mà tu hành được như vậy cũng là tốt cho họ và cũng tốt cho đời. Tu được vậy là tốt.

Pháp Tứ Đế là hay diệu, tuyệt vời, thù thắng, cần yếu, chắc thật, là chân lý như vậy, nhưng khi đã thực hành xong, viên mãn, chứng Niết bàn rồi, thì pháp Tứ Đế tự tiêu. Bốn đế tự mất. Khổ đến không còn, thì Tập đế không, Diệt đế không, Đạo đế cũng không.

Gọi là trong "cõi Niết bàn", cõi ấy vắng lặng tuyệt đối, không một vật, không một pháp, cho dù pháp Diệt đế đi nữa cũng không pháp này.

Việc ấy cũng dễ hiểu thôi, giống như người có bệnh thì phải chẩn đoán tìm nguyên nhân này nọ, hướng dẫn trị liệu, điều dưỡng, dùng thuốc men, dự báo tương lai khi hết bệnh nọ kia, nhưng khi hết bệnh rồi, lành mạnh thực sự rồi, thì hỏi còn dùng những thứ trong thời gian trị bệnh không? Ai cũng biết là không. Và như vậy để biết thêm: Có "không" Tứ Đế mới thật sự có Niết bàn.

Pháp chỉ là phương tiện thôi. Như đi qua sông cái cần có ghe tàu. Đến bờ rồi thì bỏ ghe tàu. Hay đi trên đường bộ cần có xe, đến nơi xuống bỏ xe. Đi hàng không cũng vậy, đến phi trường điểm tới thì xuống bỏ máy bay. Và như để cất một cái nhà cao tầng thì phải có giàn trò, nhà xong rồi thì phá giàn. Hoặc dùng viết viết thơ, thơ xong thì cất viết v.v... Pháp chỉ có giá trị chừng đó, dù nó có quí báu đắc giá thì cũng chừng đó.

Pháp Tứ Đế được dùng để giải quyết nghiệp (nghiệp báo và nghiệp nhân). Nghiệp như kẻ địch tối nguy hiểm. Tứ Đế như vũ khí lợi hại, là thứ thần kiếm, thần đao, thần tiễn, thần đạn phóng ra giết được kẻ địch rồi thì các thứ vũ khí lợi hại kia cũng thôi. Nghiệp bị diệt sạch rồi thì pháp thôi, pháp tự tan.

Bao nhiêu pháp hay pháp báu cũng đồng như vậy. Diệt nghiệp, diệt khổ, có được Niết bàn là đạt yêu cầu. Niết bàn tự đầy đủ tất cả, nó trùm khắp như bầu trời nên không còn cần chi nữa. Trong đó không có Tứ Đế v.v...

Niết bàn để rõ hơn, đó là một cõi tâm vắng lặng tuyệt đối, thênh thang trùm khắp, không sanh, không diệt. Như như bất động. Đó chính là tâm bản thể của mỗi chúng sanh. Tâm cội nguồn này nay được phục hồi nguyên dạng như xưa, không tỳ vết, không phiền não, không khổ đau. Dù rằng tâm này đã có lúc nằm trong địa ngục, có lúc nằm trên thiên đàng, lòng vòng trong sáu cõi luân hồi, do bởi nghiệp phát sinh mà nên. Nay vọng nghiệp đã được trừ rồi thì vẫn sạch sẽ, tốt đẹp, an lành như xưa. Giống như gương sạch bụi rồi thì trong sáng như thuở nào, giống như người té xuống bùn sình được tắm rửa rồi thì tốt đẹp trắng trẻo như trước. Và giống như người bịnh khi lành mạnh rồi thì phương phi, đẹp đẽ xinh như trước. Bao nhiêu thí dụ như vậy để thấy rõ cõi Niết bàn chỉ là vậy. Cũng qua các thí dụ trên để thấy thêm:
  • - Gương sạch bụi vẫn y nguyên dạng, không thay đổi, không thêm bớt gì.
    - Người sau khi tắm sạch, cũng vẫn y nguyên dạng trước không thay đổi, không thêm bớt một cái đầu, hai cái đầu gì.
    - Người bịnh sau khi mạnh, vẫn y nguyên dạng như lúc không bịnh, không thêm bớt một cái lỗ mũi, chân tay chi.
Niết bàn là như vậy. Như gương sạch bụi rồi, như người hết dính bùn sình dơ, như người hết bịnh được lành mạnh.

Nhưng có điều đời sống Niết bàn có hoạt dụng tốt hơn nhiều, mà được gọi là thần thông sinh.

Như gương sáng sạch thì soi rọi tỏ rõ.

Như người tắm sạch thì thơm tho, tươi tắn, đẹp đẽ thanh lịch hơn.

Như người hết bịnh rồi thì có sức mạnh hơn, yêu đời hơn.

Trên đường tu để được Niết bàn phải diệt sạch bốn duyên xấu ác:
  • 1. Chấp thân.
    2. Chấp thọ.
    3. Chấp tâm.
    4. Chấp pháp.
- Diệt chấp thân, không còn chấp sai lầm cái không là Ta mà lấy làm Ta (đây là bất tịnh). Trừ được bất tịnh, được chơn tịnh.

- Diệt chấp tâm, không còn chấp sống bằng tâm sanh diệt vô thường nữa. Trừ chấp tâm được chơn thường.

- Diệt chấp pháp, không còn cho các pháp là ngã nữa, thấy rõ pháp là vô ngã. Trừ chấp pháp đươc chơn ngã.

Như vậy khi sạch bốn duyên xấu ác được bốn điều tốt lành. Chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh.

Thường, lạc, ngã, tịnh, bốn món này thực sự là chơn, là bốn đặc tính tiêu biểu của Niết bàn và được gọi là tứ đức của Niết bàn.

Nói về đức Niết bàn, tức là điều tốt của cõi Niết bàn là vì muốn sáng tỏ cho nhau mà nói. Đây là người ngoại cuộc nói chứ không phải "đương sự", người đang chứng Niết bàn nói. "Đương sự" ngay lúc thân chứng có một trăm cái miệng cũng không nói lên được điều nào, huống nữa là bốn. Tức là ngôi thứ nhất nói cho ngôi thứ hai nghe về việc của ngôi thứ ba (đương sự, người đang chứng Niết bàn).

Giống như ông C đang ngủ thật ngon, ông A thấy vậy nói cùng ông B rằng: Ông C có giấc ngủ thật là ngon. Chứ nếu ông C tự nói: tôi đang ngủ ngon ghê! Thì... ông đã mất giấc rồi, ông thức, mất tiêu giấc ngủ ngon rồi!

Cuộc sống Niết bàn như là một cuộc sống trong giấc ngủ ngon lành không mộng mị.

Như vậy có phải sống Niết bàn thì không làm gì hết trong cuộc sống nhân quần?

- Không phải vậy! Mà, như mình đang ngậm kẹo, có người hỏi kẹo ngon ra sao? Mình phải trả lời làm sao? Dù mình đang thực sự nếm vị ngon, biết rõ một trăm phần trăm, nhưng phải trả lời thế nào đây? - Ngậm nó mà cười trừ! Vì khi hả họng nói, kẹo sẽ bị văng ra. Hoặc nói được thì chỉ nói là nó ngọt, nó thơm sao đó. Nhưng dầu có nói đi nữa, có thực sự nói được đến cái "ngon" không?

Đây là nói đến chỗ "khó nói", "khó bàn" vậy thôi, chứ cái miệng chúng ta cũng đang hoạt động mà. Và tay chân cũng đang ra dấu làm hiệu này nọ. Đâu phải là chết cứng. Vì vậy sự sinh hoạt trong cuộc sống không có bị đóng đinh. Trái lại sinh hoạt bằng đời sống Niết bàn lại tốt hơn, lành mạnh hơn, lợi ích cho người hơn nhiều. Như đức Phật vậy.

Pháp Tứ Đế từ hình thức đến nội dung đều được trình bày sáng sủa, rất khoa học.

Nhất là nội dung thật rõ ràng, thật giá trị, người tìm tu có thể theo đây mà hành trì sẽ không là việc ngoài tầm tay, là việc trong tầm tay thôi.

Đây giống như là đã lập thành công thức rồi. Người tu cứ theo công thức đó mà áp dụng. Những nhân tố trong pháp Tứ Đế không thứ nào mà người muốn tu lại không có, chỉ cần moi từ mình ra rồi sắp vào công thức thì kết quả sẽ dần dần được thấy ra.

Thời nay dù được gọi là "đời mạt pháp", nhưng pháp Tứ Đế hãy còn và còn hợp thời đại nữa, đủ thấy giá trị pháp là bất diệt. Đây cũng là sự tốt lành cho con người muốn tu theo Phật ở thời đại hôm nay.

Mong rằng người có duyên gặp gỡ pháp Tứ Đế hãy phát tâm tốt lành để thực hiện pháp tốt lành hầu được nhân lành, quả tốt ở hôm nay và ngày mai.

Dốc một lòng thành kính, con cầu nguyện Tam Bảo tồn tại lâu dài ở cõi đời, làm lọng dù che mát cho những ai đang bị nóng bức bởi lửa nghiệp đốt thiêu muốn nương tựa.
    • Nam Mô Phật.
      Cõi Ta Bà, Phật lịch 2542


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LỜI NHẮN NHỦ
(Kinh Đại Bát Niết Bàn - Kinh Trường Bộ 1 (Pali) - Đại Tạng Việt Nam Ap1)

Cuối đời giáo hóa, trước lúc đức Phật nhập Niết bàn, ngài đã có nhiều lời dặn dò nhắn nhủ đến các hàng đệ tử. Những lời dặn đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Quan trọng nhất là nhắc về Tứ Thánh Đế.

Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh Đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm. Ta và các ngươi

Và chính vì không thấy như thật bốn Thánh Đế nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự thật này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi khổ căn được đoạn trừ sẽ không còn một đời sống khác nữa.


Ngài nhắc nhở chi tiết hơn trước khi nhắm mắt lìa đời, xa các đệ tử:

- Chính vì Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Thần Túc (Bốn như ý túc), Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ Đề Phần, Tám Thánh Đạo Phần. Này các Tỳ kheo, chính những pháp này do ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người.

Đức Phật còn cặn kẻ hơn:

- Thế nào là Tỳ kheo an trú chánh niệm?

- Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo đối với thân, quán thân tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời

Đối với các cảm thọ, quán thọ tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời

Đối với tâm, quán tâm tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời

- Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là chánh niệm
.

(Theo đây chánh niệm tức luôn quán "Tứ Niệm Xứ").

- Thế nào là tỉnh giác?

- Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui, tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui, tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác khi mang áo Tăng già lê, mang bát, mang y, tỉnh giác khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nếm, tỉnh giác khi đi đại tiện, tiểu tiện, tỉnh giác khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng.

Này các Tỳ kheo, như vậy Tỳ kheo sống tỉnh giác. Tỳ kheo phải sống an trú chánh niệm tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các ngươi.


Đức Phật lại còn cẩn thận hơn e rằng sau khi ngài mất, các hàng đệ tử sau dễ bị lầm lạc vì người. Ngài lại dạy hãy nương tựa chánh pháp và tự mình là ngọn đèn sáng soi bước chân cho chính mình. Ngài dạy:

- Này A Nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này A Nan, thế nào là vị Tỳ kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác.

- Này A Nan, ở đời, vị Tỳ kheo đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ..., đối với tâm..., đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này A Nan, như vậy Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

- Này A Nan, những ai sau khi ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một gì khác, những vị ấy, này A Nan là những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.


Đức Phật còn khai mở chỉ dạy lần sau cuối cuộc đời hoằng hóa. Ngài thật là một đấng cha lành hơn bất cứ đấng cha lành nào khác. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, đây là lời ta nhắn nhủ các ngươi: "Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn để giải thoát".

Lời nhắn nhủ của đức Phật trước khi lìa đời đã gói gọn, rất gọn, nhưng cũng rất hàm xúc. Bao nhiêu lời dạy này của đức Phật khiến một người chân chánh hành đạo, hành cả đời có khi không hết.

Theo lời kinh đức Phật đã dạy chánh pháp chính là Tứ Niệm Xứ. Vậy mới thấy tầm quan trọng của pháp Tứ Niệm Xứ đến bậc nào.

Rõ, Tứ Đế là pháp tối quan trọng và Tứ Niệm Xứ là nhân tố chính khiến pháp Tứ Đế quan trọng là vậy.

Thế nên có thể nói, hành Tứ Đế có nghĩa là hành Tứ Niệm Xứ. Vì thực ra trong Tứ Đế, pháp để diệt trừ tập nhân tham, sân, si... chỉ có pháp Tứ Niệm Xứ mà thôi. Rõ là sáu nhóm kia chỉ là trợ lực, phụ gia để thành tựu nhanh, tốt đẹp hơn trên đường công phu.

Để rõ thêm, khi dạy về chánh niệm, đức Phật đã cho thấy rõ, đó là phải luôn luôn nhớ quán Bốn Niệm Xứ. Vậy chánh niệm tức là luôn niệm Tứ Niệm Xứ. Phải có sự làm chủ cao độ trong sinh hoạt đời thường, đó là tỉnh giác. Tỉnh giác gắn liền với chánh niệm. Có chánh niệm thì có tỉnh giác. Có tỉnh giác thì có chánh niệm. Đây phải được xem là yếu chỉ của pháp, của công phu quán niệm.

Bằng yếu chỉ pháp môn mà hành trì thì mới mong phá tan được tập nhân, diệt được các chấp về thân, tâm ý, cảnh sắc vốn là những ràng buộc con người từ vô thủy đến nay. Thân, tâm ý, cảnh sắc đã phá thì những phiề não do nghiệp tập tạo nên không còn nữa, như thế khổ được diệt sạch.

Lời sau cùng của đấng Thế Tôn nhằm giải trừ đau khổ lần cuối cùng cho con người, cho chúng sanh. Mở đầu ngài cũng bằng pháp Tứ Đế mà khai thị, kết thúc ngài cũng bằng pháp Tứ Đế mà dặn dò. Khoảng giữa đời, ngài giảng dạy cũng không ngoài pháp Tứ Đế. Cả đời ngài là cả đời Tứ Đế, là cả đời chánh pháp.

Chánh pháp này phải chẳng nhằm giải khổ cho con người và đưa đến chỗ an vui, đến cõi Niết bàn? Đời ngài chừng đó.

Và chánh pháp phải chăng là rốt cùng Niết bàn? Niết bàn ở đâu? Phải chẳng ở ngay nơi tâm người, tâm chúng sanh? Ở ngay tâm này. Nhưng là một tâm mầu diệu. Tâm an vui hoàn toàn không bóng dáng tham, sân, si. Lại là một tâm đầy năng lực, hoạt dụng phi thường, một tâm sáng suốt và yêu thương nhuần thắm tất cả trời người, tất cả chúng sanh. Đây là một tâm đầy đủ đại trí huệ và đại từ bi, là diệu tâm.

Như vậy chánh pháp là Niết bàn, là cõi diệu tâm mầu mhiệm. Chánh pháp là con mắt sáng nhất thế gian. Đức Phật nay đã viên tịch, đã chết, nhưng con mắt chánh pháp vẫn tồn tại. Mắt chánh pháp vẫn còn ở thế gian, ở trong lòng người giác ngộ Phật đạo. Ấy là một kho pháp vô tận, lợi lạc mình người biết bao cùng. Chính là: "Chánh pháp nhãn tạng".

Chánh pháp nhãn tạng là kho báu, nhưng là một kho báu vô hình vô dạng, thật tướng chính là vô tướng. Ấy là: Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng".

Tám chữ "chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm" này hết sức quan trọng với một hành giả, với người chân chánh hành Phật đạo.

Giải quyết được tám chữ này là giải quyết được khổ sanh tử, xứng đáng là người như đức Phật đã dạy: "Tự mình là ngọn đèn cho chính mình...". Người này đã thắp sáng được ngọn đèn chính mình từ nơi chánh pháp. Và người này có thể phương tiện làm bật sáng ngọn đèn ở người khác, khiến người khác cũng tự thắp sáng ngọn đèn của chính mình. Thế là có việc "Đèn truyền đèn", ấy là "truyền đăng tục diệm" (nối lửa truyền đèn) mãi mãi làm ngời sáng pháp Phật ở thế gian, khiến Tam Bảo được trường tồn, làm lợi ích cho chúng sanh.

Đây là ngọn lửa "Tâm pháp". Ngọn lửa này vì vậy có thể hình dung như ngọn lửa ở Thế vận hội Olympic làm sáng rực sức sống của nhân loại.

Ngọn đèn chánh pháp thường còn, sáng mãi soi lòng khắp cả chúng sanh.
    • Nam Mô Phật


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Phần II
PHÁP TỨ ĐẾ

LỜI MỞ
Pháp Tứ Đế là pháp căn bản, nền tảng trong đạo Phật. Đây phải được xem là một nguyên tắc học đạo và hành đạo.

Đạo Phật là một đạo bằng phương pháp mà diệt khổ. Thì đây là một phương pháp cụ thể.

Thế nên muốn bằng một pháp diệt khổ nào cũng phải dựa vào nguyên tắc bốn bước này, không thể ngoài được. Ngoài sẽ không thành.

Tứ Đế, đây là phương pháp bốn bước không thể thiếu được ở bất cứ người tu nào tu đúng chánh pháp. Ví Tứ Đế là chánh pháp.

Tứ Đế là con đường mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi, đã chứng nghiệm. Do đây mà ngài thành Phật, thành vị thầy trời người, thành vị cha lành của chúng sanh.
THAY LỜI TỰA
  • Pháp Phật đơn sơ giá trị cao,
    Thậm thâm mầu nhiệm biết chừng nào.
    Bao nhiêu tinh túy trong một chữ,
    "Xả" bỏ hết điều chấp thuở nao.

    Đức Phật hay! Đức Phật hay sao!
    Dám "xả" bao điều thiên hạ đeo.
    Từ thân, tâm, cảnh, ngài xả hết,
    Không nhân, không ngã, trí huệ cao.

    • Huyền Linh
NGHĨA BỐN ĐẾ CỦA PHÁP TỨ ĐẾ
THEO KINH HOA NGHIÊM

(Trích kinh Hoa Nghiêm, tập 2, VII)
Phẩm Tứ Thánh Đế Thứ Tám.
1. KHỔ ĐẾ:

Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát bảo chư Bồ Tát rằng:

- Chư Phật tử! Khổ Thánh Đế trong cõi Ta bà này hoặc gọi là tội, là bức ngặt, là biến di, là phan duyên, là nhóm, là đâm, là căn tựa, là hư dối, là chỗ nhọt ghẻ, là kẻ ngu si.

Chư Phật tử! Về Khổ Thánh Đế, trong thế giới Mật Huấn gọi là doanh cầu căn, là bất xuất ly, là hệ phược bổn, là làm điều không nên làm, là khắp tranh đấu, là phân tích đều vô lực, là chỗ để dựa, là cực khổ, là tháo động, là hình trạng vật.

Chư Phật tử! Về Khổ Thánh Đế ở thế giới Tối Thắng hoặc gọi là khủng bố, là phần đoạn, là khả yểm ố, là phải thừa sự, là biến dị, là chiếu dẫn oan, là hay khi đoạt, là có cộng sự, là vong phân biệt, là có thế lực.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là hối hận, là tự đãi, là triển chuyển, là trụ thành, là nhất vị, là phi pháp, là cư trạch, là vọng trước, là thấy hư vọng, là không có số.

Chư Phật tử! Ở Phong Dật thế giới, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là chỗ ái nhiễm, là gốc hiểm hại, là phần biển hữu lậu, là chứa nhóm lên, là gốc sai biệt, là tăng trưởng, là sanh diệt, là chướng ngại, là cây dao gươm, là số làm thành.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về Khổ Thánh Đế hoặc gọi là hay cướp giật, là bạn chẳng lành, là nhiều khủng bố, là những hí luận, là địa ngục tánh, là những thật nghĩa, là gánh tham dục, là gốc sâu nặng, là tùy tâm chuyển, là căn bổn trống rỗng.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là trọng đảm, là chẳng bền, là như giặc, là lão tử, là ái sở thành, là lưu chuyển, là mệt nhọc, là tướng trạng ác, là sanh trưởng, là dao bén.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là hiển lạc dục, là chỗ hệ phược, là tà hành, là tùy thọ, là vô tâm sĩ, là tham dục căn, là hằng hà lưu, là thường phá hoại, là tánh khói lửa, là nhiều ưu não.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỷ, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là lưu chuyển, là xuất sanh, là thất lợi, là nhiễm trước, là trọng đảm, là sai biệt, là nòi hiểm, là tập hội, là ác xá trạch, là khổ não tánh.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về Khổ Thánh Đế, hoặc gọi là bại hoại tướng, là như phôi khí, là ngã sở thành, là chư thú nhân, là sát lưu chuyển, là chúng ác môn, là tánh khổ, là khả khí xả, là vô vị, là lại khứ.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về khổ Thánh Đế, hoặc gọi là dấu lỗi, là thế gian, là sở y, là ngạo mạn, là tánh nhiễm trước, là dòng chảy mau, là chẳng được vui được, là che dấu, là mau diệt, là khó điều.

2. TẬP ĐẾ:

Chư Phật tử! Khổ Tập Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là trói buộc, là diệt hoại, là ái trước, là vọng niệm, là xu nhập, là quyết định, là lưỡi, là hý luận, là tùy hành, là gốc điên đảo.

Chư Phật tử! Khổ Tập Thánh Đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là thuận sanh tử, là nhiễm trước, là đốt cháy, là lưu chuyển, là gốc bại hoại, là mối hữu lậu, là ác hạnh, là ái trước, là nguồn bịnh, là phân số.

Chư Phật tử! Về Khổ Tập Thánh Đế ở thế giới Tối Thắng hoặc gọi là bại hoại, là si căn, là đại oan, là dao bén, là dứt mùi vị, là cừu thù, là chẳng phải vật của mình, là ác đạo dẫn, là thêm đen tối, là hư lợi lành.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là vật không thật, là chỉ có lời nói, là chẳng trong trắng, là sanh địa, là chấp thủ, là bỉ tiện, là tăng trưởng, là gánh nặng, là hay sanh, là thô rắn.

Chư Phật tử! Ở Phong Dật thế giới, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là đáng ghét, là danh tự, là vô tận, là phân số, là chẳng đáng ưa, là hay chụp cắn, là vật thô bỉ, là ái trước, là khí cụ, là dao động.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về Khổ Tập Thánh Đế hoặc gọi là tham trước, là ác thành biện, là quá ác, là tất tật, là hay chấp thủ, là tưởng, là có quả, là vô khả thuyết, là vô khả thủ, là lưu chuyển.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là bại hoại, là hỗn trược, là thối thất, là vô lực, là tán thất, là oai vị, là bất hòa hợp, là sở tác, là thủ, là ý dục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là quảng địa, là năng xu, là viễn huệ, là lưu nạn, là khủng bố, là phóng dật, là nhiếp thủ, là trước xá, là trạch chủ, là liên phược.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỷ, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là địa, là phương tiện, là phi thời, là phi thật pháp, là vô đế, là nhiếp thủ, là ly giới, là phiền não pháp, là hiếp liệt kiến, là cấu tụ.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là hành, là phẩn độc, là hòa hiệp, là thọ chi, là ngã tâm, là tạp độc, là hư xưng, là oai vị, là nhiệt não, là kinh hãi.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là cần chế phục, là tâm xu, là năng phước, là tùy niệm khởi, là đến hân biên, là công hòa hiệp, là phân biệt, là môn, là phiêu động, là ẩn che.

3. DIỆT ĐẾ:

Chư Phật tử! Khổ Diệt Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là vô tránh, là ly trần, là tịch mịch, là vô tướng, là vô một, là thế chơn thật, là trụ tự tánh.

Chư Phật tử! Khổ Diệt Thánh Đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là đệ nhất nghĩa, là xuất ly, là tán thán, là an ổn, là thiện xu nhập, là điều phục, là nhất phần, là vô tội, là ly tham, là quyết định.

Chư Phật tử! Về Khổ Diệt Thánh Đế ở thế giới Tối Thắng hoặc gọi là đại nghĩa, là nhiêu ích, là nghĩa trung nghĩa, là vô lượng, là chỗ phải thấy, là ly phân biệt, là tối thượng điều phục, là thường bình đẳng, là khả đồng trụ, là vô vi.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về Khổ Diệt Thánh Đế, hoặc gọi là vô đẳng đẳng, là khắp trừ sạch, là ly cấu, là tối thắng căn, là xưng tội, là không tư đãi, là diệt hoặc, là tối thượng, là tất cánh, là phá noãn.

Chư Phật tử! Ở Phong Dật thế giới, về Khổ Diệt Thánh Đế, hoặc gọi là dứt tương tục, là khai hiển, là vô văn tự, là vô sở tu, là vô sở kiến, là vô sở tác, là tịch diệt, là đốt sạch, là xả trọng đảm, là đã trừ hoại.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về Khổ Diệt Thánh Đế hoặc gọi là bất thối chuyển, là ly ngôn thuyết, là vô tướng trạng, là khả hân lạc, là kiên cố, là thượng diệu, là ly si, là diệt tận, là viễn ác, là xuất ly.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về Khổ Diệt Thánh Đế, hoặc gọi là xuất ngục, là chân thật, là ly nạn, là phúc hộ, là ly ác, là tùy thuận, là căn bổn, là xả nhân, là vô vi, là không tương tục.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về Khổ Diệt Thánh Đế, hoặc gọi là sung mãn, là bất tri, là vô ngã, là tự tánh, là phân biệt tận, là an lạc trụ, là vô hạn lượng, là đoạn luân chuyển, là tuyệt hành xứ, là bất nhị.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỷ, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là phá y chỉ, là bất phóng dật, là chân thật, là bình đẳng, là thiện tịnh, là vô bịnh, là vô khúc, là vô tướng, là tự tại, là vô sanh.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là vô tích tập, là bất khả đắc, là diệu dược, là bất khả hoại, là vô trước, là vô lượng, là quảng đại, là giác phần là ly nhiễm, là vô chướng ngại.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về Khổ Tập Thánh Đế, hoặc gọi là vô y xứ, là bất khả thủ, là chuyển hườn, là ly tránh, là triều, là đại, là thiện tịnh, là vô tận, là quảng bác, là vô đẳng giác.

4. ĐẠO ĐẾ:

Chư Phật tử! Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, cõi Ta Bà này, hoặc gọi là nhứt thừa, là xu tịch, là đạo dẫn, là cứu cánh vô phân biệt, là bình đẳng, là xả đảm, là vô sở xu, là tùy thánh ý, là tiên nhân hành, là thập tạng.

Chư Phật tử! Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là mãnh tướng, là thượng hạnh, là siêu xuất, là hữu phương tiện, là bình đẳng nhân, là ly biện, là liễu ngộ, là nhiếp thủ, là tối thắng nhân, là quán phương.

Chư Phật tử! Về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế ở thế giới Tối Thắng hoặc gọi là hay đốt cháy, tối thượng phẩm, là quyết định, là vô năng phá, là thâm phương tiện, là xuất ly, là bất hạ liệt, là thông đạt, là giải thoát tánh, là năng độ thoát.

Chư Phật tử! Ở thế giới Ly Cấu, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là vật kiên cố, là phương tiện phần, là giải thoát bổn, là bổn tánh thật, là chẳng thể chê mắng, là rất thanh tịnh, là mé hữu lậu, là toàn nhận gởi, là tâm rốt ráo, là tịnh phân biệt.

Chư Phật tử! Ở Phong Dật thế giới, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là hạnh tịch diệt, là hạnh xuất ly, là siêng tu chứng, là đi an ổn, là vô lượng thọ, là khéo rõ biết, là cứu cánh, là khéo tu tập, là đến bờ kia, là vô năng thắng.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiếp Thủ, về Khổ Đạo Thánh Đế hoặc gọi là ly ngôn, là vô tránh, là giác đạo, là thiện hồi hướng, là đại thiện xảo, là sai biệt phương tiện, là như hư không, là tịch tịnh hạnh, là thắng trí, là năng liễu nghĩa.

Chư Phật tử! Ở thế giới Nhiêu Ích, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là đạt vô sở hữu, là nhất thiết ấn, là tam muội tạng, là đắc quang minh, là bất thối pháp, là năng tận hữu, là quảng đại lộ, là năng điều phục, là hữu an ổn, là gốc bất lưu chuyển.

Chư Phật tử! Ở thế giới Tiển Thiểu, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là đại quang minh, là diễn thuyết hải, là quảng trạch nghĩa, là hòa hiệp pháp, là ly trước, là đoạn tương tục, là quảng đại lộ, là bình đẳng nhân, là tịnh phương tiện, là tối thắng kiến.

Chư Phật tử! Ở thế giới Hoan Hỷ, về Khổ Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là nhập thắng giới, là đoạn tập, là siêu đẳng loại, là quảng đại tánh, là phân biệt tận, là thần lực đạo, là chúng phương tiện, là chánh niệm hạnh, là thường tịch lộ, là nhiếp giải thoát.

Chư Phật tử! Ở Quan Thược thế giới, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là an ổn hạnh, là ly dục, là cứu cánh thật, là nhập nghĩa, là tánh cứu cánh, là tịch hiện, là nhiếp niệm, là thu giải thoát, là cứu tế, là thắng hạnh.

Chư Phật tử! Ở Chấn Âm thế giới, về Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, hoặc gọi là quan sát, là năng tối địch, là liễu tri ấn, là năng nhập tánh, là năng địch đối, là vô hạn nghĩa, là năng nhập trí, là hòa hiệp đạo, là hằng bất động, là thù thắng nghĩa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • VƯỜN NAI
PHÁP TỨ DIỆU ĐẾ
  • Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
    Sau khi thành đạo ngài đi cứu đời.
    Khởi đầu ngài đến vườn Nai,
    Tìm năm người bạn cùng ngài tu xưa.
    Kiều Trần Như kính cẩn thưa,
    Cần cầu học pháp chơn thừa giải mê.
    Phật đà hoan hỷ vào đề,
    Ấy pháp Tứ Đế nói về bốn chơn.
    Khổ, Tập, Diệt Đạo quả nhơn,
    Tập nhơn, Khổ quả mỏi mòn tử sanh.
    Luân hồi sáu nẻo linh đinh,
    Đạo nhân, Diệt quả được sinh Niết Bàn.
    Hết khổ hết kiếp lầm than,
    Mới hay Tứ Đế pháp này diệu thay.
    Tứ Diệu Đế pháp là thầy,
    Các thánh đệ tử từ đây tu thành.
    Tứ Thánh Đế ấy pháp lành,
    Là người con Phật nên hành theo đây.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

I. KHỔ ĐẾ chắc thật không sai,
Sanh, già, bệnh, chết bốn này ai không?
Đã sanh trong chốn bụi hồng,
Vua, quan, sĩ thứ đâu không khổ nầy.
Khổ sanh tử - khổ voi dày,
Khổ như bốn ngựa phân thây bốn đường.
Lại như bốn núi bốn phương.
Dồn người ép ngặt khôn lường đớn đau.
  • - Thương nhau lại phải xa nhau,
    "Ái biệt ly khổ", khổ sầu nào hơn!
    Yêu đương chất ngất cao sơn,
    Tình trường máu lệ, tình thương lệ trào.

    - "Oán tắng hội khổ", khổ sao!
    Không ưa lại gặp, ghét nhau lại tìm.
    Gặp nhau tức ứa gan tim,
    Hổng muốn lại gặp, phát điên, phát khùng.

    - Bao nhiều cầu ước khôn cùng,
    Công danh, sự nghiệp, đỉnh chung lắm đường.
    Nào hay thế sự vô thường,
    "Cầu bất đắc khổ", khổ dường dao đâm.

    - "Ngũ ấm xí thạnh khổ" thâm,
    Khổ này khổ cả thân tâm nóng bừng.
    Sắc, thọ, tưởng, hành, thức hừng,
    Bốc thành lửa nóng cháy phừng ấm thân.
    Khổ vì thân, khổ vì tâm,
    Đây là thứ khổ nhất trần đó ai!
Hãy mau thức ngộ khổ này,
Để nương lời Phật mà thay đổi mình.
"Đổi mình" sạch bóng vô minh,
Dứt niềm đau khổ, được sinh an lành.

II. TẬP ĐẾ, nhân tu rõ rành,
Mười nhân chắc thật luôn hành hạ ta.
Hại ta khổ chốn Ta bà,
Luân lưu sáu cõi, trôi qua ba đường.
Đường sanh hoạt lắm tai ương,
  • 1. Tham lam dính mắc là đường đấu tranh.
    2. Sân giận nóng nảy, giựt giành,
    3. Si mê, ngu muội, không rành giả chân.
    Giựt giành tranh đấu thiệt hơn,
    Tham, sân, si độc ba nhân dẫn đầu.
    Tham là gốc để khổ sầu,
    Tham tài, tham sắc, tham giàu, tham danh.
    Tham ăn, tham ngủ ngon lành,
    Vì tham năm món nên đành khổ thân.
    Tham cảnh sắc, đắm thinh âm,
    Dính hương, dính vị, xúc trần đeo mang.
    Nặng quằn dính mắc đa đoan,
    Trong tâm dính niệm, ngoài tâm dính trần.
    Dính vọng tình chấp tự thân,
    Thân, tâm, trần cảnh tham lam buộc ràng.
    Lòng tham đưa đến phủ phàng,
    Nắm không thể được, mộng vàng ô hô!
    Tham sanh từ cõi mê đồ,
    Chấp nê theo vọng, vọng vô cội nguồn.
    Vọng hư ảo như hát tuồng,
    Nhác trông như thật nhưng tường thì không
    Vọng không, tham cũng là hông,
    Bao nhiêu bám chấp chớ trông mong vào.

    4. Mạn, ngã mạn cống cao,
    "Ta" đây là nhất không sao ai bằng.
    "Tăng thượng mạn" tự đắc rằng,
    Ta đà "chứng thánh" hông thằng nào hơn.
    Ngã to như Tu di sơn,
    Làm tàng, làm phách, Ta hơn đất trời.
    Do đây cuộc sống rã rời,
    Người hiền không gặp, bị trời xéo chơi.

    5. Nghi ngờ Phật pháp, người đời,
    Lòng luôn chao đảo thốt lời chẳng tin.
    Chẳng tin pháp, chẳng tin mình,
    Lao chao điên đảo, chông chinh lờ mờ.

    6. Với thân kiến, thấy lững lờ,
    Thân là bất tịnh, khù khờ chấp ta.
    Thân này tứ đại làm va,
    Thế mà không biết lầm ra là "mình".
    Ô hô! Chẳng rõ sự tình,
    Thế nên phải khổ vì mình mà thôi.

    7. Biên kiến cũng bởi cái tôi,
    Tốt là hơn hết nên coi một chiều.
    Chỉ nhìn một phía, một điều,
    Thấy một bên, biết một chiều không hơn.
    Sai lầm không đúng lẽ chơn,
    Thế nên sai trật làm nhơn khổ hoài.

    8. Kiến thủ là thứ chấp sai,
    Ỷ mình là nhất không ai bằng mình.
    Chấp chặt ý kiến đinh ninh,
    Không biết ý nọ là sinh diệt mà.
    Nó đâu có thiệt đâu là,
    Ôm gìn cái "chẳng phải là" nên đau.

    9. Giới cấm thủ nghĩa như sau,
    Giữ giới cố chấp không đâu cũng gìn.
    Giữ giới chỉ với lòng tin,
    Không cần suy xét theo tình lý chi.
    Giới hại mình, người ích gì,
    Vậy mà cũng giữ, cũng hy sinh nhiều.
    Làm cho phận phải liu điu,

    10. Tà kiến thấy quấy, lắm điều hiểu sai.
    Thật là tai hại nguy thay,
    Sự thật là vậy mà hay thấy lầm.
    Thấy lầm nên phải khổ tâm,
    Xa lìa chân lý lỗi lầm vô biên.
Cứ thế mà khổ triền miên,
Gây người đau đớn, đảo điên vì mình.
Đời này kiếp nọ điêu linh,
Nhọc nhằn sinh tử lênh đênh biển đời.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. DIỆT ĐẾ chắc thật tuyệt vời,
Mười nhân gây khổ diệt rồi là xong.
Cảnh giới tịch diệt lặng trong,
Vô minh, trần cấu đều không chốn này.
Không mình, người, không kia đây
Một vầng tròn sáng đong đầy lặng trong.
Không là Phật, chỉ là Không,
Chân không rỡ rỡ, mênh mông đất trời.
Không một pháp, khó nên lời,
Luân hồi sanh tử, sự đời càng không.
Thênh thênh biển giác lòng trong,
Hết hồi phiền não, qua dòng sông mê.
Tự do trên lối đi về,
Tiêu dao tự tại Bồ đề quê hương.
An vui tịch diệt miên trường,
Là chơn lạc cảnh, chơn thường tự tâm.
Chơn ngã, chơn tịnh thậm thâm,
Ấy là cõi tịnh Niết bàn diệu tâm.

IV. ĐẠO ĐẾ phương pháp thâm trầm,
Chắc thật dúng đắn tu tâm diệu kỳ.
Với bảy nhóm phá sầu bi,
Là ba mươi bảy món thi trổ tài.
Ba mươi bảy trợ đạo này,
Phá tan mười món Tập dầy thâm căn.

Diệt Tập nhân bát Niết bàn,
1. Là Tứ Niệm Xứ đầu đàn tiến công.
Phật đà ngài đã khai thông,
Các Tỳ kheo hãy sống trong pháp này.
Con đường độc nhất như vầy,
Đưa đến thanh tịnh là thầy chúng sanh.
Chánh trí phát, khỏi linh đinh,
Niết bàn thành tựu đời mình thong dong.
Tứ Niệm Xứ hãy rõ thông.
Ấy là bốn quán lóng trong tâm mình.
  • - Quán thân bất tịnh thần tình,
    Phá chấp thân mình có thiệt cái Ta.

    - Quán tâm vô thường rõ ra,
    Tâm là hư vọng không ta, vô thường.

    - Quán thọ thị khổ tỏ tường,
    Cảm giác không thật, không nương chốn nào.

    - Quán pháp vô ngã thấu vào,
    Các pháp không chủ, làm sao hại mình.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

a. Quán Thân để sạch vọng tình,
Quán là xem xét kỹ hình hài ta.

- Trước hết ngồi thế kiết già,
Chủ yếu hơi thở vào ra cho đều.
Thở vô ra chớ ít nhiều,
Thở ra biết thở ra, điều thở vô.
Thở vô biết rõ, không thô,
Chỉ nương hơi thở không lo tính gì.
Bao nhiêu việc ở trên đời,
Chớ có nương gá, xa rời lững quên.

- Nằm, ngồi, cúi xuống, đứng lên,
Hãy biết từng việc không nên hồ đồ.
Mỗi sinh hoạt nhỏ hay to,
Ăn cơm, mặc áo, duỗi co trong ngày.
Tất cả tỏ rõ biết ngay,
An trú chánh niệm giác hay tỉnh liền.

- Quán "bất tịnh" thân trước tiên,
Đầu, mình, răng, tóc, mặt tiền, mặt sau.
Hông, mặt, trái, nách, háng, khu,
Thấy rõ nhơ nhớp, thối bu bám mình.
Lại xem xét cả thân hình,
Bên trong gan, ruột, bụng phình xẹp sao.
Thấy khắp cho đến tế bào,
Đầu, óc, tim, não, phổi, phèo máu me.
Nước tiểu, nước dãi chín khe,
Trong ngoài nhơ nhớp dù che lụa là.

- Tấm thân như thể cái nhà,
Tánh thật của nó chỉ là diệt sinh.
Dòng sinh diệt diễn phiêu linh,
Trong ngoài không thật vọng tình chấp nê.
Ấy là cái chỗ si mê,
Tạo bao thứ khổ đi về vô minh.
Nếu chưa thấy rõ huyễn hình,
Cần nên quán tiếp thân mình của ai?

- Của tứ đại chẳng thể sai,
Của đất, gió, lửa, nước, nhồi mà ra.
Đất là chất cứng xương da,
Cùng lông, cùng tóc, cùng là thịt răng.
Nước là chất lỏng máu mang,
Lửa là chất nóng nhiệt năng trong người.
Gió ấy chất khí, làn hơi,
Bốn chất như vậy sanh đời ta đây.
Thế nên nuôi nó như vầy,
Đói ăn cơm nước cho đầy bụng y.
Cơm là đất, nước khác gì,
Ngộp liền cho thở hít thì ôxy.
Lạnh run sưởi lửa tức thì,
Bốn đại nuôi nấng cũng vì "thân" thôi.
Vậy thân tứ đại đúng rồi,
Nó của tứ đại có chi là mình.
Nên khi hết kiếp phù sinh,
Thở khì một cái, khí đình, gió ngưng.
Ô hô! Trống điểm thần dừng,
Thân là như vậy thôi đừng đeo mang.

- Hãy theo thân xác táng an,
Nơi ngoài đồng nội, trên ngàn tha ma.
Ngày đầu, ngày kế sình ra,
Trải qua chín lớp thây ma rã rời.
Còn chăng? - Chỉ xương trắng phơi.
Cái chi là thật, cái gì là ta.
Cái Ta là thây ma à?!
Thế nên để biết cái Ta đâu là.
Thân ta nào phải của Ta,
Là của tứ đại, đâu là của ta.
Vậy nên phải sớm ngộ ra,
Thân ta chẳng phải của Ta đâu mà!
Nếu lấy cái "chẳng là ta",
Làm ta, làm của ta là si tâm.
Ấy là bất tịnh mê lầm,
Vậy nên bất tịnh nơi thân nghĩa là:
Thân nhơ nhớp chỉ túi da,
Thân là hư giả, cái Ta không thành.
Thân của tứ đại đành rành,
Mà không hay biết, ôm dành của ta.
Quán thân một dạ thiết tha,
Nhất tâm tỉnh giác nhận ra tỏ tường.
Quyết lòng cắt đứt tơ vương,
Đừng cho dính líu chẳng nương vọng tình.
Thấy đúng sự thật chính mình,
Là có chánh trí hết sinh buộc ràng.
Tấm thân dù quí hơn vàng,
Biết rồi hết quí, không màng nữa đâu.
Nên không còn phải lo âu,
Nay còn, mai chết biển dâu chuyện thường.
Một lòng luyện đạo tinh tường,
Sống đời chơn tịnh lên đường độ sanh.

b. Quán Thọ rõ cảm giác mình,
Nhất tâm tỉnh giác dốc lòng quán sâu.
Lo thân, vì thân từ đâu?

- Ấy nhằm phục vụ nhu cầu giác quan.
Thân người ngầm phục năm căn,
Chính là năm Thọ uẩn nằm bấy lâu.
Do đây mưa gió dãi dầu,
Người người đủ cách tìm cầu hiến dâng.
Lúc cảm thọ thấy lâng lâng,
Lòng quên bao nỗi khổ tràn óc tim.
Có khi mắt mũi lim dim,
Để mà tận hưởng hết niềm đê mê.
Đến khi quỷ sứ lôi về,
Thì ôi! Đã muộn muôn bề dỡ dang.
Kẻ trí rõ nguy không đang,
Ra công tu quán dứt ngang thọ này.
Quán Thọ là khổ sâu dầy,
Thọ như mồi cá béo đầy mùi hương.
Thọ như thuốc độc bọc đường,
Vướng vào phải Thọ hết phương vẫy vùng.
Nếu ai là đấng anh hùng,
Hãy mau huân quán tiêu dung Thọ này.
Canh phòng cẩn mật từ rày,
Theo Phật dạy, nhớ hãy bày trận mau.
Rải tâm đón ngỏ trước sau,
Chú nào lấp ló nắm đầu loại ngay.
Mắt, mũi, miệng, lưỡi, thân, tai,
Thọ nào dáo dác là đay lên đầu.
Chớ để cho nó diễn lâu,
Ở vào thế chủ đâu đâu cũng mình.
Với Thọ lạc biết lạc sinh,
Nếu là Thọ khổ hãy minh xét liền.
"Thọ khổ sinh, Thọ khổ sinh",
Không Thọ lạc, Thọ khổ mình biết không.
Hổng Thọ lạc, Thọ khổ hông,
Dõi theo cảm giác khắp trong thân này.
Ở căn tự diễn, tự bày,
Hay do duyên cảnh bên ngoài mà nên.
Hoặc ở trong vọng dấy lên,
Thảy đều biết rõ họ tên Thọ gì?
Không lững quên, không ỷ y,
Rõ ràng mồn một từng ly từng hồi.
Như cầm một ngọn đèn soi,
Luôn luôn bật sáng trông coi soát rà.
Thọ là vật chất sinh ra,
Hay Thọ chẳng vật chất là không không.
Phải biết rõ ràng có hông,
Biết rồi hiểu rõ là không tánh rồi.
Thọ chỉ là giả có thôi,
Gốc nguồn chỉ tại tâm thời mà ra.
Tâm sanh, Thọ chính là ma,
Tâm diệt, Thọ hết làm cha, làm trời.
Cảm giác làm chủ được rồi,
Không theo thọ cảm hưởng đời chánh chơn.
Chánh trí, chánh niệm là hơn,
Theo dòng trí huệ làm nhơn thoát trần.
Sống đời chơn lạc an thần,
Vui niềm thanh tịnh dưỡng chơn an nhàn.

c. Quán Tâm xét rõ tâm phan, (duyên)
Lằng nhằng dính mắc tâm lan khắp lòng.
Tâm là điên đảo khôn lường,
Khổ sinh, biển khổ, khổ dường xé thân.
Quán Tâm đối trị khổ tâm,
Nhác trong một dãy liên hoàn mà thôi.
Bằng quan sát ấy có tôi,
Tách dành làm chủ tôi soi tôi hoài.
Cái Tâm giờ đã phân hai,
Có tâm soi, tâm bị soi rõ rành.
Phá tâm như phá tường thành.
Tâm soi giữ chặt luôn dành thượng phong.
Nhắm một chỗ cố soi thông,
Được thông một lỗ dễ trông, dễ nhìn.
Từ đây soi phá rộng thinh,
Phan duyên tâm ấy dễ nhìn, dễ trông.
Thì ra nhiều niệm thành dòng,
Niệm như viên gạch ở trong bờ tường.
Gỡ lần gạch niệm cho thường,
Niệm nào dấy khởi tỏ tường chiếu soi.
Thấy rõ tâm niệm loi nhoi,
Chúng là sinh diệt, diệt rồi lại sinh.
Bao nhiêu sinh diệt hại mình,
Thất điên bát đảo duyên sinh ấy mà.
Cái dòng tâm niệm la đà,
Ấy vô thường pháp, một nhà nhân duyên.
Vô thường nên chẳng đứng yên,
Quán Tâm nên rõ căn nguyên như vầy.
Vô thường xao xuyến chuyển lay,
Bất an nên khổ, mạnh tay đập liền.
Đập liền cho hết đảo điên,
Lầm than nghiệp chướng tiền khiên sạch làu.
Hãy minh chiếu rọi mau mau,
Đâu là tâm vọng, tâm nào phá ta?
Tỉnh soi, giác biết chiếu va,
Tâm tham đó hả? - hãy ra đi nào.
Tâm sân đứng đó hay sao?
Cút đi cho khuất nay tao không dùng.
Tâm si thủng thỉnh thung dung,
Đi đi! Đi khuất mắt đừng lỳ nha!
Đắc thắng ta cười ha ha,
"Vui à, vui à!" Hay ra tức thì.
"Buồn à, buồn à!" Tỉnh đi,
"Không vui, không buồn". Biết y rõ ràng.
"Loạn biết loạn", "an biết an",
Có "ràng buộc", rõ ràng đang "buộc ràng".
Có chi hay nấy đường hoàng,
Là tâm giải thoát giác càng gấp hơn.
Giải thoát, giải thoát sạch trơn,
Không Tâm gì cả, không sơn màu nào.
Như vậy tâm mới sạch làu,
Tâm sạch, lòng trắng phau phau nỏn nà.
Ấy là đúng pháp Phật đà,
Lại thêm huân quán tâm ta ba vòng,
Vòng ngoài, vòng giữa, vòng trong,
Ba nơi không mắc, ba vòng không vương.
Ba thời cũng chẳng chỗ nương,
Điều là tâm vọng huyễn trường chớ vương.
Hãy thôi chớ khá luyến thương,
Vô thường tánh ấy chơn thường đó thôi.
Thấu rõ chánh lý này rồi,
Giữ quyền làm chủ "thật Tôi" sẵn bày.
Niệm sạch rồi, tâm thật bày,
"Vô sinh vô diệt" tâm này là ta.
Từ đây chánh trí bật ra,
Chánh niệm luôn giữ thì ta hết sầu.
Ưu bi, khổ não đau đầu,
Từ đây thôi hết dãi dầu gió mưa.
Sống đời hạnh phúc Phật thừa,
Chơn thường trải khắp nhặt thưa vĩnh hằng.

d. Quán Pháp cẩn thận, nhớ rằng,
Để thấy vô ngã, hết xằng chấp duyên.
Hầu trừ cái bệnh đảo điên,
Pháp có chủ tể là Tiên là Thần.
Hay là thiệt có, thiệt chân,
Là có tự tướng, tự thân còn hoài.
Có cố định không tàn phai,
Là những thứ chấp rất sai, rất lầm.
Nên chi thống khổ thân tâm,
Giờ đây tu tập hành thâm quán này.
Pháp là muôn thứ giữa đời,
Từ người đến vật, cả trời pháp thôi.
Pháp to nhất ấy bầu trời,
Pháp nhỏ như lỗ kim, li ti trùng.
Pháp to, pháp nhỏ không cùng
Lại có pháp tánh, pháp dùng để tu.
Pháp hữu vi, pháp vô vi,
Trùng trùng muôn thứ, pháp thì vô biên.
Vạn pháp sinh từ nhân duyên,
Nhiều nhân kết hợp quyện nên vật hình.
Vật nào cũng bởi duyên sinh,
Từ không thành có, có hình thái ra.
Duyên sinh nên lại tiêu ma,
Bốn tướng Thành, Trụ, Hoại và Không không.
Sanh, Trụ, Dị, Diệt chung đồng,
Bốn tướng như vậy là không thiệt rồi.
Vật không thiệt, chủ tể ai?
Ai là chủ vật? Chủ này là ai?
Thế nên nói chủ là sai,
Cái nhà là pháp, vậy ai chủ nhà?
Thợ chăng? Chủ hộ? - Ai là?
Chủ nhà, thợ chỉ dựng nhà mà thôi.
Không cây lá..., thợ giỏi gì?
Thế nên chủ, thợ vậy thì hai nhân.
Nhân duyên sanh tạo là chân,
Cái nhà không chủ, tự thân "không" rồi.
Nên nhà nào phải của tôi,
Khi duyên sinh nữa, nhà ôi! tan tành!
Thành, Trụ, Hoại, Không đành rành,
Cớ sao chấp pháp tham dành "của tôi".
Pháp không chủ, không thật rồi,
Ấy không tự tướng, giả thôi thiệt gì?
Vậy pháp chẳng cố định chi,
Có rồi mất đó thiên di đổi dời.
Hãy nên quán Pháp trên đời,
Đều là như vậy khắp trời đâu hơn.
Lý này đúng đắn thiệt chơn,
"Quán pháp vô ngã" hết trơn đau buồn.

- Quán Pháp quán sát luôn luôn,
Quán pháp tận nguồn ấy phải từ tâm.
Quán Tâm, pháp quán tinh thâm,
Triệt hạ chủ tể, trọng tâm quán này.
Căn - Trần tỏ rõ phân bày,
Ngũ uẩn các phái phải hay thấu tường.
Không một pháp có thể vương,
Pháp là không thực chớ nương vịn vào.
Bất cứ một pháp tâm nào,
Cũng sinh từ niệm, cũng trào từ tâm.
Khác nào mây nổi trời râm,
Mờ đi trong sáng, làm thâm bầu trời.
Pháp Tâm nếu chấp vậy thời,
Tánh trong tỏ sáng mất rồi còn đâu.
Tâm u tối (vô minh) phải khổ sầu,
Biết vậy buổi đầu sớm phá pháp tâm.

- Sắc pháp trần, Tâm pháp căn,
Căn rõ căn, trần rõ trần hai không.
Biết rõ căn không chủ trần hông,
Cả hai không chủ ai hòng dính ai.
Không chủ ai người bắt tay,
Chỉ như không (0) cộng không (0) thảy là không (0),
Không thành toán số "dê rô" (zero),
Đấy là giải thoát Nam mô Phật đà.
Thực hành pháp cho được là,
Phải quán năm uẩn thấy va cho tường.
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức vương,
Quyện chặt thành ấm thân thường quậy ta.
Cột ta thật khó thoát ra,
Sắc là thân xác, thịt da, đầu mình.
Thọ cảm giác của thân hình,
Các nơi mũi, lưỡi, mắt nhìn, tai, da.
Tưởng là nghĩ ngợi, vọng ra,
Hành lan man chuyển như là phim xoay.
Thức phân biệt có kia đây,
Gây nên bao việc thị phi khổ đời.
Đã biết năm uẩn thế rồi,
Giờ xem Chủ uẩn phải "tôi" không nào.
Sắc là bốn đại họp vào,
Không phải tôi rồi, Thọ cao bay thôi.
Tưởng hư vọng, chẳng phải tôi,
Hành vô thường, tôi vốn vậy hay sao?
Thức có từ bốn nương vào,
Nên thức chẳng thật, tôi nào là y.
Năm uẩn tôi không là chi,
Cũng chẳng năm chủ, vậy thì chủ ai?
Một trong năm món nào đây?
Là sắc, là thọ, tưởng hay thức, hành?
Món nào "chủ tể" vòng thành,
Tấm thân năm uẩn duyên sanh nên mình.
Nhân duyên sinh khởi chúng sinh,
Sinh ra dường có, thật tình thì không.
Tánh duyên khởi ấy tánh không.
Nên chi năm uẩn là hông chủ nào.
Uẩn không chủ tể nương vào,
Thế nên uẩn rã, uẩn nào nấy đi.
Uẩn tan, thân hoại hết si,
Pháp uẩn vô ngã sầu bi hổng còn.
Tham, sân theo đó tan mòn,
Mạn, nghi..., các thứ thành không cả rồi.
Tập nhân diệt sạch còn chi,
Các pháp khác nữa còn gì hay chăng?
Hết! Hết! Chẳng còn lăng nhăng,
Tâm lăng xăng bặt, niệm lằng nhằng không.
Còn gì! Còn gì! Còn không,
Còn lòng trống vắng, tánh Không hiện tiền.
Tánh không trải khắp tam thiên,
Nhập hòa pháp giới ấy Thiền định sư.
Giờ đây tâm cảnh nhất như,
Chánh trí, chánh niệm, hư minh hiện tiền.
Đắc thành chánh giác, bậc hiền,
Hết khổ, hết não, ưu phiền sầu bi.
Ấy là chơn ngã vô vi,
Thân tâm tự tại bước đi giữa đời.
Tiêu dao khắp đất cùng trời,
Tùy duyên hóa độ giúp người hết mê.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • Đường đi trên lối trở về,
    Quê hương giác ngộ Bồ đề phải chuyên.
    Phải có phương pháp trợ duyên,
    Tu mù luyện quán không nên, không thành.
    Phật đà đã dạy rõ rành,
    Ngài nói các pháp để dành cho ta.
    Pháp có "pháp môn" đó mà,
    Và là "phương pháp" dạy ta thực hành.
    Tứ Niệm Xứ pháp tốt lành,
    Nhưng phải biết hành mới sớm thành công.
    Không biết cách khó làm xong,
    Như con dao tốt mà không biết xài.
    Thật uổng phí lại đứt tay,
    Nếu như biết cách thì hay vô cùng.
    Việc này đức Phật dạy chung,
    Pháp Tứ Niệm Xứ hành chừng bảy năm.
    Hoặc bảy ngày nếu khéo chăm,
    Vậy nên phải biết "khéo" nằm ở đâu?
    Khéo ở biết cách "huân tu",
    Pháp hành thật tốt công phu phát liền.
    Việc này phải biết trước tiên,
    Ấy là sáu nhóm đứng kiền sau đây.
    Tứ Chánh Cần rất hay,
    Tứ Như Ý Túc pháp này thậm thâm.
    Ngũ Căn, Ngũ Lực hùng tâm,
    Bật lên Thất Giác Chi thần diệu hơn.
    Bát Chánh Đạo phần chí chơn,
    Tứ Niệm Xứ thuốc cao đơn đại tài,
    Nhưng phải biết cách thức xài,
    Cách thức là sáu anh tài này đây.
    Sáu anh tài nhớ níu tay,
    Đừng cho gián cách mất hay việc mình.
    Việc mình là việc tử sinh,
    "Thuốc", "Cách" hai việc tận tình triển khai.
    Dù cho trăm đắng nghìn cay,
    Nhớ giữ cho vững chí này mới nên.
    "Cách" là phương pháp nêu trên,
    Phải bám cho chắc đừng quên món nào.
2. Tứ Chánh Cần nhớ dùng vào,
Ấy là bốn việc siêng cao cấp mà.
  • a. Siêng năng ngừa ác cho ta,
    Ác chưa sanh chớ sanh ra hại mình.
    b. Siêng năng diệt ác đã sinh,
    Ác có rồi phải nhiệt tình diệt đi.
    c. Siêng sanh điều lành một khi,
    d.- Điều lành đã phát vậy thì phát thêm.

    - Ác là trạo cử, thùy miên,
    Hôn trầm, tán loạn niệm quên tu trì.
    Hay là vô ký không ghi,
    Các thứ xấu ấy bỏ đi tức thì.
    Chưa sanh chớ để sanh chi,
    Ra công nhớ lấy được thì tiến lên.

    - Lành không các thứ nêu trên,
    Lòng thích phấn chấn như lên thiên đàng.
    Vui tỉnh giác luôn rõ ràng,
    Sáng suốt hàng phục muôn ngàn tâm ma.
    Dạng nào cũng phải nhận ra,
    Định an - huệ phát cũng là lành sanh.
    Lành sanh chớ khá dừng sanh,
    Sanh đến khi thành ông Phật mới thôi.
    Chưa thành Phật hãy chưa rồi,
    Con đường đến Phật xa xôi không cùng.
    Hãy nhớ như thái không trung,
    Không có bờ mé, không chung cực nào.
    Lành sanh, sanh mãi không nao,
    Duyên ác cần tránh mau mau xa rời.
    Nên giới cần giữ không lơi,
    Tự mình phong tỏa không dời đổi chi.
    Các ác chớ làm chớ ghi,
    Các thiện làm hết không gì không nên.
    Ác, thiện phân rành chớ quên
    Lầm ác và thiện là duyên ác rồi.
    Nên thận trọng khéo xét soi,
    Giữ ý trắng sạch mà coi rọi nhìn.
    Biết thiện ác rất phân minh,
    Nhưng không chấp thiện, thù tình ác gì.
    Giữ tâm bình đẳng thị phi,
    Nhân quần đối xử tâm thì chẳng hai.
3. Tứ Như Ý Túc hay thay,
Bốn điều để được như y ý mình.
  • a. Dục, tha thiết muốn đinh ninh,
    Rất mong thực hiện pháp mình chọn tu.
    Muốn quyết liệt, muốn công phu,
    Đây là yếu tố hàng đầu việc tu.

    b. Tinh Tấn, siêng năng công phu,
    Yếu tố cần thiết để tu nhanh thành.
    Bao nhiêu ma oán bao quanh,
    Khởi được tinh tấn tan tành ma binh.

    c. Nhất tâm một dạ bình sinh,
    Quyết lòng thực hiện pháp mình đang tu,
    Mặc cho mưa nắng dãi dầu,
    Một lòng đã thệ không đầu hàng ma.

    d. Quán công phu đến tối đa,
    Phát huy Niệm Xứ tuôn ra đến cùng.
    Tỉnh giác quán chiếu tập trung,
    Soi phá đối tượng tiêu dung vọng tình.
4. Ngũ Căn, nền tảng tâm linh.
  • a. Tín, niềm tin vững chắc tin tâm mình.
    Tín pháp môn, tín huệ sinh,
    Tín sâu nhân quả, nhân minh quả thành.
    Tín nghiệp ác chuyển nghiệp lành,
    Tín tu sạch nghiệp được sanh Bồ đề.

    b. Tấn, tiến tới chẳng lui về,
    Một lòng luyện đạo không hề lãng xao.
    Dù cho có chướng ngại nào,
    Vẫn không lui bước tiến vào phá tan.

    c. Niệm, ghi nhớ pháp tâm an,
    Chuyên trì niệm Phật, Pháp, Tăng niệm lành.
    Niệm trí huệ phá mê sanh,
    Niệm Tứ Niệm Xứ diệt nhanh vọng tình.

    d. Định, lòng không lay động sinh,
    Pháp tu giữ vững lòng mình kiên trinh.
    Non mòn biển cạn mặc tình,
    Lòng này đã định, niệm sinh đầu còn.

    e. Huệ, sáng tỏ pháp vẹn tròn,
    Rõ Tứ Niệm Xứ không còn ngờ nghi.
    Huệ sanh soi rõ lối đi,
    Đi lên bến giác xa rời vô minh.
5. Ngũ Lực, năm sức mạnh sinh,
Ấy là nền tảng Căn hình thành đây.
Năm căn như thể tay này,
Năm lực như sức mạnh tay khác gì.
  • a. Tín lực, sức tin diệu kỳ,
    Củng cố ý chỉ gan lỳ tử sinh.

    b. Tấn lực, mạnh tiến hết mình,
    Đạp bằng chướng ngại quyết tình tiến lên,

    c. Niệm lực nhớ mãi không quên,
    Pháp lành lòng khắc ghi tên tạc hình.

    d. Định lực, sức kiên định sinh,
    Không mê, không loạn nhiệt tình không lay.

    e. Huệ lực, bật sáng mạnh thay,
    Pháp tu đã tỏ trí rày mạnh sinh.
6. Thất Giác Chi pháp thần tình,
Gồm có bảy bước điển hình sau đây.
Trạch, Tấn, Hỷ, Khinh an này,
Niệm, Định, Xả y vầy công phu.
Theo thứ tự thực hiện tu,
  • a. Trạch pháp, chọn lựa pháp từ tách phân.
    Pháp nào hiệp lý, hiệp chân,
    Cũng vừa trình độ căn cơ của mình.
    Là Tứ Niệm Xứ hợp tình.

    b. Tinh tấn, tiến tới chuyên tinh thực hành.
    Ra công nhân phải thiện lành,
    Phấn chấn tinh thần ắt sẽ thành công.
    Siêng năng nhưng phải rõ thông,

    c. Hỷ, vui tươi tắn lòng không muộn phiền.
    Tỉnh tuồng sảng khoái hành thiền,
    Công phu phải nhớ lòng chuyên vui này.
    Hỷ là nhân để quả dầy,

    d. Khinh an, yên nhẹ như mây vương trời.
    Nhẹ nhàng thư thả thảnh thơi,
    Ra công quán xét pháp thời phải êm.
    Khinh an nhân quả phụ thêm,
    Tinh tấn phải khéo như trên mới thành.
    Là phải có Hỷ - Khinh an,
    Đây là nhân để thành toàn pháp tu.
    An vui thành quả công phu,
    Hãy nên nhớ lấy cách tu như vầy.

    e. Niệm, tưởng nhớ pháp tu này,
    Niệm Tứ Niệm Xứ quán dầy, quán sâu.
    Giờ đây chính thức bắt đầu,
    Công phu huân quán càng lâu càng thuần.
    Nhớ rằng luôn giữ Hỷ - An,
    Niệm chuyên liên tục Niết bàn không xao.

    f. Định, an tường bất động dao,
    Công phu thành tựu lao xao không còn.
    Tập nhân đã bị dũa mòn,
    Pháp quán vuông tròn, quán đối đều không.
    Ngã, pháp cũng lại tiêu vong,
    Giờ đây trống vắng lòng trong sạch rồi.

    g. Xả, buông bỏ, xả chấp thôi,
    Dù là đắc thắng thành rồi cũng buông.
    Hãy buông thành quả nhớ luôn
    Pháp "vô sở đắc" mới tròn công phu.
    Xả niệm thanh tịnh chân tu,
    Không xả, bám trụ là ngu chướng mà.
    Sở tri ngu ấy chính ma,
    Các sở tri chướng oan gia phá nhà.
    Chúng đều là phá hại ta,
    Ngủ quên trong chiến thắng là nguy tai!!!
    Xả thoát nhân quả không sai,
    Hãy mà cố xả, xả thì mới nên.
    Hạnh xã là hạnh chớ quên,
    Xả căn, trần, thức, xả lên Niết bàn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: VƯỜN NAI

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

7. Bát chánh đạo phần an bang,
Là đường tám đúng dẫn đàng Thánh Tăng.
Tám đúng, tám chánh cao đăng,
Ấy: Kiến, Tư, Ngữ, Nghiệp thăng hoa là.
Mạng, Tinh, Niệm, Định một nhà,
  • a. Chánh Kiến, thấy đúng Phật đà dạy khuyên.
    Đúng chân lý, đúng nhân duyên,
    Đúng pháp chính chắn căn nguyên rõ ràng.
    Sự thật sao, thấy y chang,
    Thấy đúng "Niệm Xứ" rỡ rang pháp vàng.
    Hiểu như thật chẳng mơ màng,
    Đúng nhân, đúng quả, rõ ràng Tập nhân.
    Thấy Tứ Đế chắc thật chân,
    Là pháp giải khổ cứu nhân loại này.

    b. Chánh Tư Duy, suy nghĩ hay,
    Nghĩ chánh, suy đúng không sai lẽ huyền.
    Nghĩ suy đúng lý nhân duyên,
    Đúng pháp vô thường, đúng thiền niệm như.
    Là Tứ Niệm Xứ - Chánh tư,
    Suy cho thông suốt bấy chừ ra công.
    Phải suy tận lý tận dòng,
    Xét xem gốc gác nhân trong, nhân ngoài.
    Tận tường chân lý không hai,
    Các nghiệp như huyễn mộng dài thế thôi.
    Suy cho cuối đất cùng trời,
    Tìm xem mộng huyễn ai người đặt ra?
    Dựa theo pháp của Phật đà,
    Ra công suy niệm chánh tà huân tu.
    Tà bỏ, chánh giữ chọn tu,
    Cái nào phải bỏ, công phu cái nào.
    Đâu đó sáng tỏ làu làu,
    Suy cùng nghĩ cạn, xới đào vô minh.
    Chánh tư duy để tỏ mình,
    Rõ pháp chân minh, tỏ sáng đạo mầu.
    Tư duy đến chỗ cao sâu,
    Là bặt suy nghĩ còn đâu duỗi tìm.
    Vô tư rõ biết lặng hay,
    Tư duy như vậy ấy "Chánh Tư Duy".

    c. Chánh ngữ, nói đúng bất hư,
    Không luống, không dối, không dư, không thừa.
    Chính xác không lệch, không thừa,
    Không lời ác độc, chia lìa cách ngăn.
    Lời nghiêm chỉnh chẳng lăng nhăng,
    Nói trăng, nói cuội lằng nhằng đảo điên.
    Nói chánh trực chẳng quàng xiên,
    Cũng chẳng nói dài liên miên trách dèm.
    Chẳng thị phi, chẳng bớt thêm,
    Vượt ngoài nhân ngã một niềm chuyên tu.
    Nói Tứ Niệm Xứ công phu,
    Nói về chánh đạo, chớ phù phiếm chi.
    Nói dẫn dắt chỉ đường đi,
    Để người vơi khổ sầu bi vui lòng.
    Nói bằng tâm niệm sạch trong,
    Hòa ái, hiểu biết, cảm thông chân tình.

    d. Chánh nghiệp, làm đúng việc mình,
    Là người hành đạo chớ chinh pháp lành.
    Không sát hại thảy chúng sanh,
    Không trộm, không cướp, làm thành cho nhau.
    Không tà hạnh, chẳng lao chao,
    Không vọng dối láo, nhớ trao sửa mình.
    Làm lành lánh dữ thiệt tình,
    Chăm lo đạo nghiệp, lo gìn nghiệp tu.
    Làm đúng, chỉ biết công phu,
    Chăm huân, chăm quán phù trì pháp môn.
    Tứ Niệm Xứ phải trông nom,
    Lo làm cho được, sớm hôm miệt mài.
    Chớ làm bậy bạ thày lay,
    Tào lao vớ vẩn không ai mượn làm.
    Chỉ làm việc quét lòng tham,
    Quét sân si nghiệp, trừ ham sắc tài.
    Quét tập nhân, diệt bi ai,
    Chăm lo việc Phật, việc đời gác qua.
    Việc trí huệ ấy nghiệp nhà,
    Phải lo vun quén mới là nghiệp chân.

    e. Chánh mạng, sống đúng chánh chơn,
    Trí huệ là mạng chính hơn mạng người.
    Huệ mạng đời sống cao vời,
    Phải biết mà sống cho đời lên hương.
    Hương trí huệ hương chơn thường,
    Sinh mạng trí huệ chẳng vương thói đời.
    Đời sống cao, sống tuyệt vời,
    Theo gương chư Phật sống đời thiện lương.
    Bỏ đi sự sống tầm thường,
    Chấp thân, chấp xác sống đường tục gia.
    Đời người có thật đâu là,
    Mạng người "bị thịt" nên xa lánh dần.
    Sống đời vật chất phàm trần,
    Thấp hèn thô tục chẳng cần điểm trang.
    Trang nghiêm huệ mạng làm sang,
    Đời sống tốt đẹp đem mang giúp đời.
    Hãy sống chánh mạng muôn nơi,
    Đẹp đời tốt đạo, trải phơi đạo vàng.
    Sống chánh mạng thật rõ ràng,
    Ấy hành Tứ niệm Xứ hằng sát na.
    Vậy là đúng ý Phật đà,

    f. Chánh tinh tấn, siêng đúng là siêng chơn,
    Siêng thực hiện pháp tu hơn,
    Siêng hành Phật đạo tạo nhân Niết bàn.
    Siêng tu Niệm Xứ pháp vàng,
    Luôn luôn hành thiện chẳng màng lợi danh.
    Phá ấm, giới, nhập tan tành,
    Siêng năng đập phá lũy thành Tập nhơn.
    Giải trừ tập nghiệp tham sân,
    Tiêu tan phiền não, diệt màn vô minh.
    Siêng lo xây dựng công bình,
    Không hai tâm nữa, không mình kia đây.
    Xóa đi biên giới tao mầy,
    Siêng hành đẳng quán giữa này và kia.
    Siêng dậy sớm, siêng thức khuya,
    Chăn tâm, giữ niệm chẳng lìa giác tâm.
    Siêng chánh quán, siêng hành thâm,
    Siêng làm Phật sự, siêng tầm pháp sâu.
    Siêng phát triển trí hạnh mầu,
    Siêng lo Tam bảo được lâu được dài.
    Siêng và siêng mãi, siêng hoài,
    Độ thoát mình người không nài gian lao.

    g. Chánh niệm, nhớ nghĩ đúng vào,
    Pháp tu quán niệm, pháp nào cũng chuyên.
    Bốn Niệm Xứ một lòng nguyền,
    Tâm luôn nhớ giữ hằng duyên nương vào.
    Nhớ, nhớ! Dù có ra sao,
    Niệm nào niệm nấy chẳng nao, chẳng sờn.
    Luôn luôn khắc niệm pháp môn,
    Làm hằng chăm chỉ, tâm khôn nghĩ gì.
    Dù ngồi, dù đứng, dù đi,
    Nói năng, động tịnh nhớ ghi hổng rời.
    Tiến tới nhất niệm không lơi,
    Chỉ tâm này! Chỉ tâm ni, rặc ròng.
    Toàn không niệm khác sạch lòng,
    Nhất tâm chánh niệm quyết xong việc mình.
    Tập trung quán niệm tận tình,
    Một lúc nào đó tâm mình sạch duyên,
    Trong ngoài thôi hết đảo điên,
    Lặng trong bặt nghiệp, pháp thiền thành công.
    Ấy là chánh niệm tâm không,
    Tập nhân lặng hết lòng hông muộn phiền.
    Khổ đau thôi hết kiền kiền,

    h. Chánh định, không loạn nhất như,
    Một lòng không loạn quyết từ đây tu.
    Không thay không đổi công phu,
    Ra công bám trụ pháp tu không rời.
    Không hướng khác, chỉ một thôi,
    Lập trường xác định đời tôi nguyện gìn.
    Tứ Niệm Xứ đã xác tin,
    Thề không lay chuyển nguyện xin thọ trì.
    Giữ chặt chăm hẩm bất ly,
    Ôm pháp mà ngủ, ôm ghì luôn luôn.
    Một lòng không loạn không buông,
    Nhất tâm chánh định luôn luôn phò trì.
    Định sanh huệ chiếu phá si,
    Tham, sân đâu nữa luôn thi triển hoài.
    Huệ soi, định lặng hay thay,
    Định an, huệ tỏ chẳng phai trong lòng.
    Định - tuệ qua lại tâm trong,
    Công phu này phát tưởng mong chi còn.
    Bao vọng tưởng được dũa mòn,
    Pháp môn định tuệ vuôn tròn tâm không.
    Mộng tưởng, điên đảo đều hông,
    Vô minh sạch bóng lòng trong sáng ngời.
    Đến đây không uổng một đời,
    Ra công thiền định tuyệt vời Như Lai.
    Tám chánh con đường không hai,
    Gom vào Niệm Xứ triển khai pháp hành.
    Có vậy pháp mới thật lành,
    Trọng tâm Niệm Xứ chóng thành quả chơn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.19 khách