Bồ Tát và La Hán

Truyện sưu tầm và sáng tác - truyện của ngày ấy, mỗi cuộc đời là một trường thiên tiểu thuyết. Kính mời các bạn hãy ghi lại những cảm nghĩ, dòng tư tưởng của mình.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MA QUỶ GẶP MỤC LIÊN
Trong Tệ Ma Thí Mục Liên Kinh ghi: Trước kia, tại một nơi cực kỳ hẻo lánh ở ngoại ô Xá Vệ thành có một con quỷ. Con quỷ này giỏi biến hóa, thường làm điều mờ ám, hại không ít người.

Từng có một thương nhân ở xa đến, hàng ngày vẫn đi ra ngoài để bán hàng, thêm vào đó vốn không biết nơi này có một con quỷ, cho nên vẫn đi thơ thẩn.

Đi được một lúc, hắn cảm thấy đói, vì thế hắn định nghỉ một lúc, ăn một ít lương khô rồi vào thành thuê phòng trọ. Hắn đi đến dưới một gốc cây, đặt gánh hàng xuống, lấy lương khô ra từ từ ăn. Hắn vừa ăn lương khô, vừa nhắm mắt lại tính toán xem, sau khi bán được số hàng này sẽ được bao nhiêu lời lãi.

Lúc này, con quỷ ấy đột nhiên xuất hiện, đầu tiên nó ngửi thấy mùi thơm từ trong gánh hàng tỏa ra, con quỷ doán đây có lẽ là hương liệu mà người ta thường nói. Con quỷ nhân lúc tên thương nhân này không chú ý, bèn biến thành một làn khói trắng, theo số lương khô mà tên này nuốt vào, chui thẳng vào bụng. Hắn không một chút cảm giác.

Hắn ăn no nê, lại nhấc lấy gánh gàng, đứng dậy đi về phía Xá Vệ thành. Lúc này ánh trăng cũng đã lên đến đỉnh núi.

Hắn đi không bao lâu, trong bụng lại kêu đói, trong lòng cảm thấy rất lạ, vừa mới ăn bao nhiêu là lương khô, sao giờ bụng lại kêu đói? Sau khi đi được mấy bước, bụng càng kêu kịch liệt, thậm chí bắt đầu đau lên. Hắn cảm thấy trong bụng như có gì động đậy, tiếp theo đó bụng lại càng đau hơn. Hắn thực sự chịu không nổi nữa rồi, bèn vứt gánh hàng xuống, lăn nhào trên mặt đất, miệng kêu la không ngừng. Khi hắn đã lăn cách xa gánh hàng, con quỷ nhân cơ hội này hóa thành một làn khói trắng từ trong miệng bay ra, sau đó nhấc lấy gánh hàng, chạy vụt mất. Kết quả tên thương nhân này không những bị con quỷ hành hạ đau đớn, mà còn mất đi rất nhiều hương liệu.

Chính vì con quỷ thường xuyên làm điều bậy bạ, cho nên rất ít người dám đến nơi này, nơi này cũng càng thê lương đáng sợ.

Một ngày nọ, Mục Liên có việc phải đi đến một ngôi chùa cách xa Xá Vệ thành ba mươi dặm ở ngoại thành, chập tối quay về đúng lúc đi qua nơi này. Mục Liên vừa đi đến đấy, ngay lập tức cảm thấy một luồng khí lạnh, bốn bề đều là rừng sâu rậm rạp, nhất là trong dám tạp cỏ có một vài cây tạp cũng mang một làn khí lạnh tanh.

Màn đêm dần buông xuống.

Mục Liên vội vã đi về phía trước, ngài phải về đến chùa của ngài. Kỳ thực, con quỷ ấy từ sớm đã đợi ngài ở đàng xa kia. Đợi đến khi Mục Liên đến gần, con quỷ từ phía sau gốc cây hiện ra, hóa thành một làn khói trắng, từ mũi của Mục Liên chui vào bụng của ngài. Vì Mục Liên cứ đi, nên không chú ý đến.

Mục Liên đang đi, đột nhiên cảm thấy bụng kêu lên và âm thanh càng lúc càng lớn, cuối cùng kêu như sấm sét bủa gào. Mục Liên cảm thấy rất kỳ lạ, vì buổi chiều mình đã ăn không ít cơm chay. Ngài dừng chân lại, ngồi xếp bằng trong bụi cỏ bên đường, sau khi loại bỏ tất cả những tạp niệm, mới phát hiện, thì ra có một con quỷ đang phá phách trong bụng mình!

Thế là Mục Liên nói to với con quỷ rằng:

- Con quỷ kia, ngươi còn không mau ra đây, ngươi vốn không thể hại được ta, thì cũng đừng đến quấy nhiễu đệ tử của Phật Tổ chứ, nếu không thì ta sẽ dùng phép đánh ngươi xuống địa ngục tầng thứ tám!

Sau khi con quỷ nghe thấy, những tưởng Mục Liên chỉ hù dọa nó thôi, thế là chui loạn xạ trong bụng của Mục Liên. Nhưng Mục Liên tuyệt không cảm thấy đau, bụng chỉ kêu mà thôi.

Mục Liên thấy con quỷ vẫn không chịu ra, lại nói với nó:

- Con quỷ kia, ngươi mau ra đây, đừng làm xằng với ta, ta là Mục Liên đệ tử của Phật Tổ đây.

Con quỷ nghe thấy lời này bỗng chốt giật mình hoảng sợ, nó biết Mục Liên là một người thần thông nhất trong số đệ tử của đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Thế là nó biến thành một làn khói trắng, lại chui ra từ miệng của Mục Liên, sau đó quỳ xuống đất thỉnh cầu Mục Liên khoan dung nó.

Mục Liên tha thứ cho con quỷ, song cảnh cáo nó từ nay không được quấy nhiễu người đi đường. Con quỷ đồng ý rồi chạy mất. Từ đó, nó cũng không dám tác oai tác quái, người đi đường ở nơi này dần dần đông lên.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NGÀN VẠN KHỔ ẢI ĐỂ CẦU KỆ PHẬT
Có một Bồ tát, tên gọi là Thiện Tín. Khi ngài xuất thế, thế gian vẫn chưa có Phật pháp, nhưng ngài khổ tìm chánh pháp và tìm được đạo giải thoát.

Một hôm, đột nhiên trên không trung vang lên giọng nói như sấm truyền:

- Thiện Tín Bồ tát nghe ta dặn, từ nơi này đi về phía Đông sáu mươi vạn dặm, có một quốc vương tên gọi là Thiện Trú, quốc gia của ngài từ xưa kia có đức Phật Tổ Như Lai giáng sinh, nghi thức đức Phật một dạo rầm rộ, ảnh hưởng sâu rộng đến nhân dân. Nhưng, hiện nay đã khác, Phật pháp suy yếu dần, khắp nơi không còn một ngôi chùa, nhân dân chỉ muốn có kết quả lợi lộc nhanh chóng, đã từ lâu không tín ngưỡng Phật pháp. Ở đấy có một cô gái, rất nghèo khổ, diện mạo ty tiện thô tục, xấu xí. Nhưng cô ta biết nói nửa câu Phật kệ, hiện nay cô ta muốn truyển thụ cho người, ngài đi lấy nửa câu kệ ấy đi.

Nói rồi trên không trung trở nên yên tĩnh.

Thiện Tín Bồ tát không ngần ngại, lập tức lên đường đi phương Đông xa xôi. Sự nghèo khổ khiến cho ngài đau ốm, nhưng ngài vẫn lẵng lặng tiến về phía trước. Để Phật giáo được phục hưng thịnh vượng, dù có khổ nạn gì thì cũng không nãn lòng, nguy hiểm nào cũng không làm cho ngài lùi nửa bước. Ngài đi suốt đêm suốt ngày, cho dù đôi chân bị sưng tấy, nứt nẻ, chảy máu đi nữa.

Sắc trời ảm đạm dần, mặt trời ngả về Tây, màn đêm bao trùm mặt đất, vây lấy Thiện Tín Bồ tát. Đột nhiên từ phía trước truyền lại một âm thanh kêu cứu thê thảm, lòng ngài bỗng chốc quặn thắt. Bồ tát linh cảm có tai họa sắp đến, nên rảo bước nhanh về phía trước. Vừa đi về phía trước được nửa dặm, ngài ngẩn người.

Ở ngay trước mặt ngài là bãi lầy trông không thấy bờ, không biết rộng bao nhiêu dặm. Chỉ thấy bùn lầy nối đến chân trời, đen kịt như những đám mây đen trên trời, khiến lòng người hốt hoảng kinh sợ. Tiếng kêu cứu vừa rồi thê thảm vô cùng, chắc chắn là người nào đó vừa bị lún, Thiện Tín Bồ tát dựng tóc gáy, toàn thân run rẩy. Lúc này, một con quạ bay ngang đầu, chắc chắn là mệt mỏi, bèn dừng lại nghỉ trên bãi bùn, nào ngờ vừa đáp xuống liền bị lún sâu, phút chốc mất tăm mất tích. Lại có một đám cỏ khô bị gió đêm cuốn bay lên không trung, bay phất phơ cuối cùng rơi xuống bãi bùn lầy cũng lập tức biến mất. Bãi lầy không bờ bến này, trong đêm tối như miệng của một con thú vô lượng, đang chầu chực nuốt chửng Thiện Tín Bồ tát.

Thiện Tín Bồ tát ở nơi này, cảm thấy mình đang vượt qua kiếp nạn, nhưng gian nan mệt nhọc ngày đêm xem như mắt trắng, không khỏi tang thương cực điểm. Quay về thì không được, mình không được Phật kệ, sao có thể làm cho Phật pháp quang đại chứ? Thiện Tín cúi đầu, trông thấy mảnh áo rách nát và vết thương be bét máu ở chân của mình, một nỗi đau nhói lòng chạy khắp thân thể. Thiện Tín nhịn không nổi than rằng:

- Hôm nay mình chết ở trong bãi lầy này thôi! Thưa đức Thế Tôn, con chết vì ngài, cũng rất mãn nguyện!

Nghĩ rồi, Thiện Tín Bồ tát cả gan đi về bãi lầy phía trước. Khi chân bước xuống bùn lầy, trong đầu ngài luôn có ý nghĩ rằng mình sắp phải chết.

Nhưng nào ngờ được sự việc xảy ra, ngài không những không chết, mà dưới chân còn hiện ra một con đường bằng phẳng ngay ngắn sáng rạng. Con dường thẳng tắp đến phía Đông của bờ bên kia, thông đến tận chân trời.

Trong lòng Thiện Tín Bồ tát cả mừng, bỗng chốc quên đi tất cả mọi phiền não đau khổ. Trên con đường thẳng tắp sáng rạng ấy, càng đi càng hưng phấn, chớp mắt đã đến đất nước của Thiện Trụ vương.

Nước của Thiện Trụ vương bao phủ một vùng hoang vắng, men theo con đường người đông như kiến, đang bận rộn buôn bán, nhưng không có đến một người tín ngưỡng Phật pháp, cũng không thấy lấy một ngôi chùa hoặc đền thần. Thiện Tín Bồ tát như về đến nước mình, không có Phật pháp, tất cả đều hỗn độn khôn cùng.

Khi tiến vào thành đô của Thiện Trụ, Tiện Tín Bồ tát đã bi thương cực độ, vì khắp nước đã luân lạc vô đạo như thế này. Ngài nghĩ càng đau lòng, không khỏi khóc to.

Khóc rồi, ngài bèn đi tìm cô gái xấu xí. Cô gái xấu xí ấy sống ở trong một ngôi nhà lá. Bốn bề thông thoáng sáng sủa, rách nát khôn cùng. Vừa gặp Thiện Tín, cô gái xấu xí ấy ngẩng đầu hỏi rằng: "Người khách phương xa, ngài tìm tôi làm gì?"

"Tôi vốn đến đây để bái người làm thầy", Thiện Tín Bồ tát chăm chú nhìn cô gái một cách nghi ngờ, cung kính quỳ xuống trước mặt cô gái. Trong lòng nghĩ, cô gái xấu xí như thế này có thể nói kệ ngữ, thật là siêu việt khác người.

"Ngài theo tôi học gì chứ?", cô gái xấu xí ấy hỏi.

"Đệ tử đến đây học tri thức của sư phụ". Thiện Tín vẫn cung kính đáp.

"Ta chẳng có học vấn gì, chỉ biết nửa cậu Phật kệ".

Thiện Tín Bồ tát vừa nghe thấy, vui mừng nói: "Con từ ngoài sáu mươi vạn dăm đến đây để tìm sư phụ, trên đường trải qua bao nhiêu là gian nan, chính là để học nửa câu kệ này, mong muốn hưng chấn đại pháp Phật gia".

"Vậy thì được, ngài đến đây ngồi xuống đi".

Thiện Tín không dám chậm trễ, vộ vàng đến ngồi, chuyên tâm đợi cô gái đọc nửa câu Phật kệ.

Cô gái niệm tụng:
  • Tất cả chuyện ác chớ nên làm,
    Nửa điều thiện đức tất thành tâm".
Thiện Tín Bồ tát vừa nghe xong, cảm giác thanh thản, thoải mái lan khắp người, trong lòng tự nhiên thông suốt, tập trung suy nghĩ ý nghĩa kệ ngữ, nhẩm đọc tinh thông, ghi khắc trong lòng.

"Nhờ kỹ rồi chứ", cô gái hỏi.

"Không những nhớ kỹ, mà còn lý giải tinh thông", Thiện Tín trả lời.

Cô gái không nói lời nào nữa, Thiện Tín cáo từ ra về.

Thiện Tín từ đó có được thần thông, nhanh chóng quay trở về nước mình, đi khắp nơi tuyên truyền câu kệ ấy, lại tích công đức, đạt được công phu vững chắc tin dùng vĩnh viễn không mất.

Từ đó, tất cả ma quỷ, yêu quái đều thuận theo ý nghĩa câu kệ mà quy hóa, nhân dân quy y Phật pháp trở lại, quốc gia được thần phù trợ, gió thuận mưa hòa, tai họa được giải trừ, vạn sự hưng thịnh.

Thiện Tín Bồ tát than: "Trước đây khi tôi không biết câu kệ này, thấy mình như ở vào giữa vòng sinh tử, nhưng hôm nay có được câu kệ, vì chúng nhân giải ý nghĩa kinh pháp, làm việc thiện, càng tin tưởng Phật pháp vô biên, chiếu rọi vạn vật".

Sự tích của Thiện Tín Bồ tát từ đấy lưu truyền đến nay, công đức của ngài cũng khắc ghi sâu sắc trong lòng mọi người.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NHẤT THIẾT THẾ GIAN HIỆN
CỰ TUYỆT TÌNH YÊU CỦA SƯ MẪU NÊN CHUỐC HỌA
Trong Ương Quật Ma La Kinh ghi: Xá Vệ thành là một thành ấp rộng lớn, ruộng đất mênh mông, cây cối tươi tốt, mỗi mùa xuân hoa thơm ngào ngạt, mọi người trong thành đều lần lượt ra ngoài vui chơi, du ngoạn. Đến khi mùa màng chín rộ, mọi người lại kẻ đứng người khom, hăng say làm việc, thật là một khung cảnh yên bình!

Ngày ấy, có một thôn gọi là Tát Na. Tát Na ở không xa miền Bắc Xá Vệ thành. Mọi người thường vào thành để mua vật dụng, cuộc sống trong thôn cũng thoải mái, đầy đủ.

Nhưng, ở trong thôn Tát Na giàu có, lại có một gia đình Bà la môn nghèo khổ, Người này chỉ có một cô gái trẻ tên là Bạt Đà La. Chồng cô này chết sớm, để lại một đứa con trai, tên gọi là Nhất Thiết Thế Gian Hiện. Mẹ góa con côi nương tựa nhau mà sống, tình cảnh không nói cũng biết.

Khi Nhất Thiết Thế Giạn Hiện được mười hai tuổi, tướng mạo xuất chúng, dáng vẻ đàng hoàng, người cao ráo, rất thu hút mọi người. Thêm vào đó lại thông minh lanh lợi, lời nói thì lương thiện tốt đẹp, đáng gọi là đệ nhất trong thôn.

Ở một thôn khác là Ba La Kha Tư có một tiên sinh Bà la môn tên là Ma Ni Bạt Đà La, ông tài cao học rộng, tinh thông Tứ Tỳ La kinh điển.

Nhất Thiết Thế Gian Hiện muốn đi học, bèn bái Ma Ni Bạt Đà La làm thầy. Người xưa thường nói: Thầy hay sẽ có trò giỏi. Từ khi Nhất Thiêt Thế Gian Hiện đến học, học đức tiến triển, đối với thầy khiêm cũng kính thuận, một lòng cúng ường Tứ Tỳ La kinh, nhưng gì không hiểu là hỏi. Thầy cũng tận tình giảng dạy thật tỉ mỉ, sâu sắc. Trò thì cố gắng nỗ lực học tập tất cả những điều thầy đã dạy. Cho nên về mọi mặt đều trong sáng, kết quả mỹ nãn. Nói chung giữa thầy và trò đều kinh yêu và quan tâm lo lắng lẫn nhau.

Một ngày nọ, thầy phụng lời mời của quốc vương vào cung. Ở nhà chỉ còn lại sư mẫu và Nhất Thiết Thế Gian Hiện. Sư mẫu trẻ nầy có nhan sắc mỹ miều, biểu hiện rất đoan trang, nhưng trong lòng thì ngược lại, không thuần lương chính phái. Từ ngày mà Nhất Thiết Thế Gian Hiện đến nhà thầy học đạo, cô ta đã đem lòng tưởng nhớ yêu thương.

Hiện giờ cơ hội cũng đã đến.

Nhất Thiết Thế Gian Hiện đang niệm thầm kinh văn, dáng vẻ rất chuyên tâm, nhưng trong lòng sư mẫu trẻ lại đầy dục vọng, bổ vào người chàng, chụp lấy y phục của chàng xé rách.

Lúc này, Nhất Thiết Thế Gian Hiện giật mình, trố mắt ngẫn người, may mà đầu óc chàng thông minh, phản ứng linh hoạt, lập tức nghiêm sắc mặt lại nói:

- Người hiện giờ là sư mẫu của tôi, cũng giống như mẹ tôi ở nhà, sao lại có thể làm nên chuyện phi pháp như thế này chứ?

Nói rồi bèn giũ bỏ đôi tay ngọc ngà của sư mẫu, sau đó chỉnh đốn lại y phục, tránh ở một góc phòng không dám ngẩng đầu lên.

Sư mẫu khóc lóc khẩn cầu:

- Thế Gian Hiện, tội nghiệp một sư mẫu như ta đây, chỉ lần này, được không?

Nhất Thiết Thế Gian Hiện ở trong góc, trốn không thể trốn, càng run lập cập.

Sư mẫu vừa khóc vừa quấn lấy: "Thế Gian Hiện, nào, nào, đừng sợ", ánh mắt si tình của sư mẫu cứ dán lấy chàng.

"Không! Người là sư mẫu của tôi, hiểu không?" trông thấy tình cảnh mình như vậy, chàng không biết làm sao, bèn hét to lên.

Sư mẫu kinh sợ trừng đôi mắt lên, trong ánh mắt dâm đãng ấy lại tăng thêm mấy phần sát ý, đôi tay sờ vào ngực của Nhất Thiết Thế Gian Giện.

"Thế Gian Hiện! Chàng rốt cuộc có chịu không?, tiếng khóc của sư mẫu đã tắt lịm lâu rồi, chỉ còn lại giọng nói cay độc.

"Không! Tôi chỉ là đệ tử của thầy, không phải là tình nhân của bà", Nhất Thiết Thế Gian Hiện đột nhiên trấn tĩnh lại, thể hiện sự kiên quyết của mình.

Sư mẫu la to lên một tiếng" Cha chả", sự dâm độc trong người của bà ta nhanh chóng lộ ra, đôi mắt mỹ lệ thất vọng, biểu lộ sự phẩn hận, đáng sợ như rắn độc đỏ rực, nói: "Nhất Thiết Thế Gian Hiện, ta muốn cho ngươi chết! Nhưng sẽ chết trong tay của thầy ngươi".

Nói vừa dứt lời, sư mẫu bèn lột hết y phục trên người xuống, cào lấy bầu vú và thân thể mình, để lại từng vết, từng vết máu, rồi tìm lấy một sợi dây thừng, quấn quanh cổ mình đôi ba vòng, sau đó thắt gút dây lại, ném đầu kia của sợi dây lên cột trên trần nhà, đứng trên mặt đất vừa kêu khóc, vừa dùng đôi tay cào cấu loạn xạ trên người, hằn lên những vết máu thâm tím...

Nhất Thiết Thế Gian Hiện không biết phải làm thế nào, chàng cũng không biết phải ăn nói làm sao với thầy, chỉ thấy sư mẫu nhắm nghiền đôi mắt, trong miệng rên rỉ...

Lúc sau, thầy mở cửa bước vào, thấy cảnh tượng hãi hùng giật mình, ngay lập tức rút dao chém đứt sợi dây thừng, vội hỏi: "Phu nhân sao thế này? Phu nhân xảy ra chuyện gì?"

"Oa..." một tiếng, đôi mắt sư mẫu chợt mở ra, miệng nói vu oan: "Nhất Thiết Thế Gian Hiện, Nhất Thiết Thế Gian Hiện..."

"Hắn thế nào?" sư phụ ngẩng đầu nhìn Nhất Thiết Thế Gian Hiện.

Nhất Thiết Thế Gian Hiện rối rắm nói không ra lời.

"Hắn cưởng hiếp, cưỡng hiếp thiếp! Bạt Đà Luân, thân thể của thiếp..." Tiên sinh cúi đầu, nổi giận căm phẩn:

"Thế Gian Hiện, ngươi thật đáng chết! Đáng chết!"

"Xin hãy nghe con nói, thưa thầy, thưa thầy, con không có!"

"Không có gì, đừng giả bộ nữa!", thầy vội vàng dìu sư mẫu vào phòng: "Ngươi muốn chết sao!"

Một lúc sau, thầy giận dữ xông ra. Nhất Thiết Thế Gian Hiện run rẩy, quỳ xuống nói: "Thưa thầy, oan uổng cho con quá! Con không có làm, thật đấy, sư mẫu đổ oan cho con!"

Thầy từng bước tiến lại gần, con dao bén trong tay sáng lấp lánh.

"Thưa thầy, con không có bất cứ sự thất lễ đến thầy, vả lại thầy muốn giết con cũng là không thể được", Thế Gian Hiện sáng suốt trong bức bách.

"Sao ngươi lại muốn như thế? Ta không giết ngươi thì giết ai đây?"

"Thầy bình tĩnh nghĩ lại, con là loại học trò vô sĩ như thế sao?"

"Ngươi là loại học trò tốt gì chứ? Đế Sa Lợi cũng sợ ngươi!"

Nói xong lời này, con dao trong tay thầy đột nhiên rơi xuống đất, lưỡi dao cũng cong quắp lại.

Thì ra, đây cũng có một sự tích. Hai mươi năm trước, khi Nhất Thiết Thế Gian Hiện ra đời, tất cả đao kiếm trong tay võ sĩ Sát Lợi đều tự động rơi xuống đất, các lưỡi đao kiếm sắc nhọn đều cong quắp cả. Cả giai cấp võ sĩ Sát Lợi đều kinh sợ muôn vàn, tìm hiểu mới biết là do Nhất Thiết Thế Gian Hiện ra đời gây nên, cho nên mọi người trong nước đều biết rằng chàng có sức lực thần đức vĩ đại bẩm sinh.

Vì vậy, Ma Ni Đa La đành phải bỏ đi ý định giết Nhất Thiết Thế Gian Hiện, nhưng không cam lòng, cuối cùng nghĩ ra một kế độc, bèn nói: "Ngươi đã là một ác nhân, tự làm bại hoại tấm thân cao quý và sự trang nghiêm của mình, cho nên không còn là một Bà la môn chân chính nữa. Theo tội của ngươi, nên đi ra ngoài giết chết một ngàn người, mới có thể gột rửa được tội của mình".

Vốn kinh trọng thầy, Nhất Thiết Thế Gian Hiện ngoan ngoãn, cũng hiểu được thầy đang ép mình làm chuyện ác, vì vậy nghiêm túc trả lời: "Thế thì làm thế nào được? Thưa thầy, đi giết một ngàn nhân mạng không phải là điều con muốn làm", lòng chàng đau đớn khôn cùng.

"Ngươi không còn là đệ tử của ta nữa, mà là một ác nhân tội lỗi chồng chất. Nói như thế, ngươi không chịu làm một Bà la môn cao thượng rồi".

"Không, con đương nhiên là muốn làm Bà la môn".

"Vậy ngươi nên làm thế nào?" thầy ép thúc không tha.

"Thưa thầy, vậy thì được, con đi giết một ngàn người về theo lời dạy của người".

Sư phụ thấy đệ tử đã động sát tâm, trong lòng bỗng vui phơi phới nghĩ: "Tên tiểu tử ngươi làm một đại ác nhân, bây giờ không giết chết ngươi, đợi ngươi nói lời này, làm việc này thì chính là thập ác không tha, chỉ còn con đường chết. Đến lúc đó để ngươi ngoan ngoãn chịu chết".

Nghĩ đến đấy, trong lòng sư phụ không khỏi đắc ý vô cùng, bèn nói:

"Nhất Thiết Thế Gian Hiện, mỗi một người mà ngươi giết đều phải chặt lấy một đầu ngón tay, giết chết một ngàn người phải là một ngàn đầu ngón tay, còn phải xâu các ngón tay thành một cái mũ đội về, mới có thể rửa sạch tội ác, trở lại làm thân Bà la môn. Hiểu chưa?"

"Dạ rõ", Nhất Thiết Thế Gian Hiện lúc này đành phải làm theo lời thầy dặn, chàng sợ nếu không làm theo thì sẽ không được trở thành Bà la môn.

"Ngươi nhất thiết phải nhớ rõ, một ngàn ngón tay phải không giống nhau, không thể thiếu lấy một ngón, biết không?"

"Dạ biết".

"Ngươi tiêu rồi, lấy nhân duyên này đặt tên là Ương Quật Ma La thôi".

"Thưa vâng, tạ tiên sinh chỉ giáo".

"Đi giết người đi, ta đợi ngươi quay về, lúc ấy ngươi là một Bà la môn thuần khiết cao thượng". Nói rồi, tiên sinh đi vào phòng trong tìm vui.

Nhất Thiết Thế Gian Hiện đang phấn khởi đã không còn là một Nhất Thiết Thế Gian Hiện thuần lương cung kính, mà là một Ương Quật Ma La sát khí đằng đằng trong lòng. Ương Quật Ma La đứng dậy, đi thẳng ra ngoài cửa lên đường giết người.

Sự trụy lạc của đạo làm thầy đã đẩy học trò thành một kiếp người như thế! Một Nhất Thiết Thế Gian Hiện tốt lành như thế đã bị biến thành một con quỷ giết người, mà không chút cảm giác ghê sợ, tưởng rằng mình đang làm chuyện cao thượng nhất trên thế giới.

Lại nói đến Nhất Thiết Thế Gian Hiện, ồ không! Ương Quật Ma La đến con đường lớn ở ngoài thôn, gặp người nào là vung đao chém loạn, sau đó thung dung nhàn hạ cắt lấy một ngón tay của người bị giết chết, miệng đắc ý rằng: "Một, hai... bảy, tám... mười ba..., ồ, lần này thật quá đã... trước mặt lại đến..."

Ương Quật Ma La chém loạn xạ một trận, không cầm biết là nam hay lã nữ, giả hay trẻ, làm quan hay thương nhân, là nông dân hay học sĩ, niệm kinh bái Phật... hễ gặp là giết. Phút chốc máu đã chảy thành sông, thây chất như núi. Túi của Ương Quật Ma La cũng nhanh chóng đầy ắp lên. Con số đếm trong đầu cũng tăng lên đến "chín trăm chín mươi chín". Cuối cùng chàng thở phào một hơi, ngồi ở bên đường đợi một tên xui xẻo nào đó làm nên con số cuối cùng.

Thật không ngờ, mẹ của Nhất Thiết Thế Gian Hiện Bạt Đà La hôm ấy nhớ con trai, sợ nó đói khát, bèn cố sức làm bốn món ăn ngon, đích thân mang đến.

Ương Quật Ma La trông thấy Bạt Đà La mang một gói cơm thơm phức từ xa đi tới, dần dần cũng chỉ còn cách có mười trượng.

"Đến thật đúng lúc, còn có thể ăn một bữa", Ương Quật Ma La đứng dậy, cầm thanh đao máu me be bét, hét lên: "Ồ, mẹ ta tuổi già sức yếu, ngày tháng sống cũng mệt nhọc, chi bằng mình tiễn mẹ về trời hưởng phúc cho xong"...

Ương Quật Ma La liếc lưỡi đao ở đùi cho sạch máu, khiến cho nó sáng lấp lánh. Quả phụ Bạt Đà La chỉ thấy trước mắt một tia sáng chói, nhìn kỹ lại, bất chợt vui mừng: "Thế Gian Hiện, con trai ngoan của ta..."

Bà vốn không biết tử thần đang đến gần, đương nhiên bà càng không biết ngôi sao Phật cao chiếu cũng sắp rơi xuống. Trên người bà sức lực sinh tử mở ra một lượng khá mạnh.

Ở nơi ngoài thành cách nước Xa Vệ mười trượng, có một gốc cây A Du. Lúc này, đức Phật đem trí tuệ của mình biến nó thành hình dáng của quân vương, đi về phía Ương Quật Ma La với ánh mắt đỏ rực giết chóc.

Ương Quật Ma La đang muốn vung đao chém mẹ, vừa thấy quân vương đi lại, bèn thay đổi chủ ý chạy lại quân vương, trong lòng nghĩ: "Hay là mình giết tên này đi".

Nghĩ đến đấy, bèn vung đao chém về phía trước, quân vương hiện trở lại thành đức Phật, tránh thanh đao sang một bên. Ương Quật Ma La thấy vậy liền niệm kệ rằng:
  • Đừng tránh, đừng tránh quốc vương của tôi
    Nghĩ đến là thái tử trắng tinh tinh
    Tôi là Bà la môn Ương Quật Ma La
    Hôm nay sẽ cắt ngón tay người.
Đức Phật cũng đáp lại một bài kệ:
  • Đừng tránh, đừng tránh Ương Quật Ma La
    Ngươi trước hơn hết nên giữ tịnh giới
    Ta là Phật chính đẳng chính giác
    Tạm thời mượn dùng tuệ kiếm của ngươi.
Mẫu thân của Ương Quật Ma La thấy thanh kiếm của con trai đã bị đức Phật thu hồi, mới chợt tỉnh như từ trong mộng, hiểu rõ mình suýt chút nữa chết về tay con trai. Lại thấy đức Phật thuyết pháp khổ ải luân lý cho con trai, mới chú ý thấy trong tay con trai mình đang cầm một cái túi máu be bét, toàn thân đều là vết máu. Khi bà thấy con trai kinh ngạc trố hai đôi mắt to, tỉnh ngộ, không khỏi rơi lệ, bật khóc thành tiếng.

Cuối cùng, đức Phật đã giáng phục Nhất Thiết Thế Gian Hiện và thu nhận làm nghỉa tử, đích thân giáo huấn Phật pháp.

Nhất Thiết Thế Gian Hiện khó khăn lắm mới hiểu ra là mình thực sự phạm tội tày trời, giác ngộ được mình đã bị thấy Ma Ni Bạt Đà La gạt như thế nào, từ đó thực sự rời bỏ tử lộ, bắt đầu cuộc sống mới của mình.

Mẫu thân của chàng tạ ơn cứu khổ cứu nạn của đức Phật, tuôn dòng lệ chân thành, vì vậy niệm tụng Phật kệ nói lên tâm tình của mình:
  • Kho báu đã mất nay tìm được
    Mắt hư tăm tối nay rửa sáng
    Than ôi lòng con ta mê loạn
    Thường lấy máu người vấy lên thân
    Gươm bén sát sinh luôn cầm lấy
    Giết người vô số thây thành đống
    Ngày nay con trẻ cũng theo về
    Giờ lão khấu đầu kính Đẳng Chánh Giác
    Bao người gặp mắng khó nghe thấy
    Con lão thế này đều trách ta.
Từ đó cho thấy, lòng dạ của quả phụ Bạt Đà La sáng ngời như đức Phật, có kể gì thời gian. Thật là một tấm gương mẫu thân trong thiên hạ.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TẤM LÒNG DƯỢC VƯƠNG PHẬT
Trong thế giới rộng lớn này có ngàn vạn tiểu thế giới, kiếp nạn khổ hạnh như thế nào cũng đều có, tự không cần phải nói.

Hằng hà sa kiếp trong quá khứ có một vị Phật, pháp hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Thế giới hằng hà sa số có một quốc gia không có phụ nữ. Hỉ Kiến Bồ tát một lòng cầu Phật ở quốc gia này, cúng dường Pháp Hoa kinh.

Hỉ Kiến Bồ tát chuyên nhất tinh tiến với Phật pháp, tu hành đến nay đã đầy hai vạn năm, khổ kiếp đã trải qua là vô số, cuối cùng đắc hiện Nhất thiếp sắc thân tam muội. Thế là ngài muốn thấm nhuần vạn vật, soi rọi thế gian để tất cả mọi người đều đến cũng Phật.

Một ngày nọ, Hỉ Kiến Bồ tát thấy núi cao, sông suối ở hằng hà sa thế giới khô nứt, không có sự sống, trong lòng nghĩ lúc này nên là lúc Phật pháp cứu nạn, bèn dùng công lực làm một trận mưa to. Sau cơn mưa nước sông dâng tràn, mọi người thích thú vô cùng. Một bầu trời khoáng đảng, mây trắng trôi lững lờ, ai cũng hớn hở ra ngoài để thưởng thức cảnh sắc tươi đẹp trước mắt.

Đột nhiên, những đám mây trắng trên bầu trời rớt xuống, mọi người cảm thấy rất lạ, đều nhặt lên xem mới biết không phải là mây, mà là một đóa hoa Mạn đà la đọng sương. Họ càng cảm thấy lạ, chẳng lẽ đức Phật ở trên trời dời vườn hoa về chỗ chúng ta? Khung cảnh thiên hoa rơi rụng khiến mọi người quên đi tình cảnh của mình, vui đùa hân hoan cũng cảnh vật.

Mọi người tranh nhau nhặt lấy hoa tươi Mạn đà la, mang về nhà để trang trí cho căn phòng của mình, các thiếu nữ vừa nhặt hoa vừa dắt hoa lên tóc, cài lên áo. Đột nhiên có người lại chỉ lên không trung hét to rằng: "Mọi người mau lại đây xem! Trên trời lại rơi xuống thứ gì kìa?"

Mọi người ngẩng đầu nhìn lên không trung. Chỉ thấy một vật sáng lấp lánh, dang rơi phất phơ xuống.

Một cô gái cả người cài đầy hoa Mạn đà la vội vã níu lấy tay cha mẹ, nói nột cách thật lòng: "Nếu lại là hoa rụng xuống, con thật sự không còn chỗ để cài rồi".

"Con gái ngoan, lần này không phải là hoa, nó không chừng là trang sức trên đầu bằng kim ngân để cho con cài đấy". Mẹ cô vội nói, trong lòng thật sự hy vọng rơi xuống những trang sức cài đầu.

"Không phải trang sức đầu, xem hai người háo hức đến thế nào kìa", cha của cô gái rốt cuộc cũng trông ra, đó là một cây đàn hương tinh tế. Ngay lập tức ông đưa tay bắt lấy, quả nhiên không sai.

Mọi người ngay lập tức đưa tay ra để đón lấy cây đàn hương tử trên trời rơi xuống, mới biết được là Phật tâm đại phát, bố thí cho chúng dân.

"Tạ Phật Tổ nhân từ, ban cho chúng con hoa tươi và đàn hương".

Mọi người xúc động reo lên: "Đức Phật, người đã cứu vớt chúng con".

"Không cần đa tạ, không cần đa tạ, đấy là một chút tâm ý cho mọi người". Mọi người ngẩng đầu về hướng phát ra âm thanh, chỉ thấy Hỉ Kiến Bồ tát đứng ở trên triền núi, vẩy tay với mọi người.

Qua lần bố thí này, lòng Hỉ Kiến Bồ tát càng muốn thành Phật. Vào một buổi hoàng hôn, ngài ngài bèn khoác thiên y lên người, lại tẩm lên người một ít nước hoa, châm lửa tự thiêu. Ngay lúc ấy, cả cả một góc trời bị ngọn lửa bừng bừng chiếu rọi sáng rực, ngọn lửa này không những chiếu sáng cả bầu trời, còn chiếu sáng tất cả Bát Thập Nhất Hằng Hà Sa thế giới. Mọi người đều cảm thấy ánh sáng của ngài chiếu rọi đến khắp nhân gian.

Hỉ Kiến Bồ tát tu hành hai vạn năm, toàn bộ lòng nhiệt huyết đối với Phật pháp đã tự thiêu mình, thân hỏa đã đốt đến một ngàn hai trăm năm sau mới lụn. Trong khoảng một ngàn hai trăm năm ấy, vô số người đều được hưởng ánh sáng, càng thêm tín ngưỡng Phật pháp.

Vật đổi sao dời, Hỉ Kiến Bồ tát ngày xưa vì công đức vô lượng nên chuyển thế đầu thai vào Tịnh Đức vương gia ở một nước, còn ngày ngày xướng thuyết kệ kinh cho phụ thân mình.

Một ngày kia, Hỉ Kiến Bồ tát nói với cha: "Phụ vương, nhi thần đầu thai đến đây, không một ngày nào không hưởng vinh hoa phú quí mà phụ vương ban cho và ân tình của từ mẫu. Bây giờ con muốn nói cho phụ thân sự tình của nhi thần".

"Con trai, con không phải là muốn rời bỏ nhà ta chứ?"

"Thưa phải, phụ vương, điều mà con muốn nói cho người cũng chính là nguyên nhân mà con muốn rời khỏi nhà". Nói rồi, Hỉ Kiến Bồ tát niệm một câu kệ:
  • Tiền thân tại đây khổ tu hành
    Đã đắc nhất thiết sắc thân muội
    Cần mẫn chưa muốn đại trường tiến
    Tự thiêu sáng rọi ngàn năm tuổi.
Quốc vương nghe xong, phút chốc kinh ngạc muôn vàn, bèn đi đến trước mặt Hỉ Kiến Bồ tát nhìn thật kỹ ngài, nào ngờ con trai mình lại là Bồ tát đã lâu đại phóng minh quang đạt ngàn năm. Bất chợt ngài than lên một cách tiếc nuối rằng: "Con trai, rốt cuộc tại sao con lại muốn rời khỏi gia đình chứ?"

"Phụ vương, con vốn là Bồ tát kiếp trước công thành đầu thai, con nên quay về chốn cũ để tiếp tục cúng dường Phật Tổ. Vả lại Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật mà con tôn ngưỡng hiện vẫn còn khỏe mạnh, cho nên con tất phải đến chốn cũ để gặp ngài ấy. Hẹn ngày gặp lại, phụ vương, con mãi mãi không quên ơn dưỡng dục của người". Nói rồi, Hỉ Kiến Bồ tát bước ra khỏi cửa, tọa trên thất bảo đài, bay đến thế giới hư không.

Trong nháy mắt, Hỉ Kiến Bồ tát đã đến chỗ của Nhật Nguyện Tịnh Minh Đức Phật, chắp tay ca người đức Phật:
  • Dung nhan nhật nguyệt thật diệu kỳ
    Quang minh cao rọi thập vạn phương
    Tiền kiếp ta đây từng cúng dường
    Nay đích thân đến hỏi han ngài.
Nghe xong lời tán tụng của Hỉ Kiến Bồ tát, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật mỉm cười, vội vàng chào Hỉ Kiến Bồ tát, vài nói: "Tốt, tốt, ngài đến thật đúng lúc, ta rất vui. Hỉ Kiến Bồ tát, ta muốn nhờ ngài một việc lớn".

"Việc lớn gì, thưa Phật Tổ", Hỉ Kiến Bồ tát ngồi xếp bằng trước Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, lắng tay nghe.

"Hỉ Kiến Bồ tát, hành động của ngài ở hằng hà sa kiếp, làm ta rất cảm động. Thời khắc diệt tận của ta cũng đã đến, tối hôm nay ta chuẩn bị nhập Nhiết Bàn. Cho nên ta thác lại cho ngài Phật pháp, mang xá lợi cốt của ta đến nhân gian, rộng rãi sắp xếp cúng dường đến các chùa Phật. Càng nhiều càng tốt, nhất định phải để Phật pháp lan rộng khắp nhân gian". Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bèn đem chuyện hậu sự sau khi nhập Niết Bàn giao lại cho Hỉ Kiến Bồ tát.

"Xin Phật Tổ yên tâm, con nhất dịnh sẽ thực hiện di nguyện của ngài", Hỉ Kiến chắp tay, miệng đáp đồng ý.

Ngay đêm hôm đó, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật nhập Niết Bàn.

Sáng sớm hôm sau, Hỉ Kiến Bồ tát dùng đàn hương chất lên di thể Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật châm lửa thiêu, ngọn lửa phát chốc bao trùm lấy di thể.

Đợi khi di thể đã được thiêu rụi, Hỉ Kiến Bồ tát thu thập xá lợi cốt của Phật Tổ, lần lượt cho vào tám vạn bốn ngàn bảo bình, mang chúng đến khắp nơi để cúng dường. Không chỉ như thế, ngài còn dựng tám vạn bốn ngàn ngôi Phật tháp ở nơi Phật Tổ nhập Niết bàn, để biểu thị lòng trung thành chấp trước của mình đối với Phật Tổ.

Tám vạn bốn ngàn ngôi Phật tháp sắp xếp ngay ngắn ở trên vùng đất của hằng hà sa thế giới, cao ngút tầng mây, mưa gió không lay, những người cầu Phật trong thiên hạ đều đến đây cúng dường Phật kinh.

Trông thấy từng đoàn người đông đúc đến tìm cầu công đức Phật, cúng dường kinh Phật, pháp Phật, Hỉ Kiến Bồ tát rất xúc động. Những điều này đều là công đức của ông ấy, nhưng trong lòng mình, ngài lại cảm thấy vẫn chưa đủ, nên một lần nữa tự thiêu mình để nói lên quyết tâm tìm cầu Phật, theo Phật, thành Phật.

Nói rồi, Hỉ Kiến Bồ tát đi đến trước Phật tháp, vung đao chém cánh tay trái của mình, lại để cho người khác chặt đứt cánh tay phải của mình, đặt trước tháp rồi tẩm nước hoa lên người tự thiêu. Đôi cánh tay của ngài ấy đã thành ra Bách Phúc Trang Nghiêm Công, hỏa quang chiếu đến nửa không trung, rất lâu mới lụn.

Lần tự thiêu này đến bảy vạn hai ngàn năm, là tạo hóa vô số đời cầu Phật, khiến cho nhiều người phát tâm Bồ đề. Nhiều người vì vậy mà đắc công đức Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội. Các trời, người, Bồ tát thấy Hỉ Kiến Bồ tát không có đôi cánh tay, đều rất cảm động. Vì bảy vạn hai ngàn năm, mà ngài ấy vẫn chưa thành Phật, cả ngày buồn rầu, cho nên các trời, người, Bồ tát hợp lại thanh minh với thiên hạ chúng nhân:

"Nhân dân dưới trần gian chứng kiến, Hỉ Kiến Bồ tát vì thành Phật, mà đã hai lần tự thiêu. Qua muôn vàn gian khổ đem xá lợi cốt của ngài Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật đưa đi khắp muôn phương, tu sửa và kiến thiết tám vạn bốn ngàn ngôi tháp hùng vĩ, khiến cho nhiều người cầu Phật có nơi để thành tâm cúng dường đức Phật. Hỉ Kiến Bồ tát là đại sư của chúng ta, giáo hóa chúng ta công đức thành Phật, nhưng Hỉ Kiến đại sư vẫn chưa mãn nguyện với những điều này, một lòng khổ hạnh thực hiện một mục tiêu mà một đại sư nên có, đó là trở thành Phật".

Hỉ Kiến Bồ tát cũng bị kích động đến nỗi thề trước trời, người, Bồ tát: "Phật chủ, ngài chí cao vô thượng, con vì ngài vứt bỏ đôi tay trăm phước trang nghiêm của mình đả bảy vạn hai ngàn năm rồi. Con nhất định có thể thành Phật. Nếu lời này thực sự không nghi ngờ gì, xin cho đôi tay trở lại cho con".

Một lúc sau, tam thiên thế giới hiện sáu loại chấn động, trên trời rơi xuống muôn ngàn bảo thạnh hoa. Từng chùm hoa, mang đến tấm lòng yêu mến bác đại của Phật Tổ.

Hỉ Kiến Bồ tát trong cảnh hoa rơi, cảm thấy toàn thân ấm lênh, cúi đầu, đã thấy đôi tay trước đây: "Ta đã thành Phật! Cảm tạ Phật Tổ, cảm tạ các vị trời, người và Bồ tát, ta thành Phật rồi, giờ ta đi đến chỗ Phật Tổ".

Hỉ Kiến Bồ tát cảm động cáo từ Bồ tát và trời người, lên thiên đường tạ ân.

Từ đó Phật pháp càng truyền càng rộng. Phật Tổ nói với Tú Vương Hoa Bồ tát: "Hỉ Kiến Bồ tát chính là Dược Vương Phật hiện nay, các người nên có lòng cầu vô thượng Bồ đề đạo, nào sợ thiêu lấy một ngón tay mình hoặc một ngón chân đến cúng dường Phật tháp, điều đó hơn cả việc dùng trân châu, ngọc bảo, vợ con, quốc thổ, núi sông đến cúng dường Phật".
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm "Dược Vương Bồ Tát" nói rằng :
Bồ Tát "Nhất Thiết Chúng sinh Hỷ Kiến", bây giờ là Dược Vương Bồ Tát, ở thế giới Phương Đông của Dược Sư Phật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

QUỐC VƯƠNG BỐ THÍ ĐÔI MẮT CHO NGƯỜI MÙ
Trong Di Lặc Sở Vấn Bổn Nguyện Kinh ghi: Hiền giả A Nan theo Phật Tổ đã nhiều năm, không biết từ trong ngôn truyền thân giáo của Phật được bao nhiêu lời dạy có ích.

Mà trí tuệ của đức Phật thì hình như là vĩnh viễn như thế, là suối nguồn vô tận, ngày đêm không ngừng ban bố cho chúng sanh và môn đồ.

Lúc ấy, đức Phật quay người lại, nói: "A Nan, A Nan..."

"Dạ, con ở đây, Phật Tổ có gì căn dặn", A Nan vội vã đáp, kỳ thực lòng ngài đã biết rõ, mỗi khi đức Phật dùng giọng điệu này gọi mình, tám, chín phân mười là tìm ngài để nói chuyện.

"A Nan, ta kể cho con nghe một câu chuyện". Quả nhiên, đúng như A Nan suy nghĩ.

Ngày xưa, lúc ấy có một quốc vương, rất khôi ngô tuấn tú, tên là Nhật Nguyệt Minh. Nói chung, Nhật Nguyệt Minh vương đoan chính, dung mạo đàng hoàng, uy phong lẫm liệt, nhất là đôi mắt sáng của ngài như có thần, chuyển tình đạt ý sắc như ánh chớp.

Một ngày kia, Nhật Nguyệt Minh vương đi ra ngoài cũng du ngoạn. Có một người mù hành khất bên đường, nghe nói có quốc vương đến, không khỏi đau buồn.

Tại sao quốc vương lại tôn quý vinh hoa như thế, an nhàn hưởng lạc, mà ta lại một mình chịu cùng khổ, lại không trông thấy ánh sáng nữa?

Người mù phẫn hận, thế là oán trời, trách đất, lớn tiếng trách Nhật Nguyệt Minh vương.

Nghe thấy tiếng người mù trách cứ, mọi người đều nổi giận rằng: "Này, tên mù kia! Tại sao ngươi dám bêu riếu quốc vương anh minh!"

Người mù bèn nín thinh, nhưng lại không cam tâm, đành nói thầm rằng: "Ông ta thật là anh minh, tại sao ta lại là ăn mày, còn mù mắt, sống tháng ngày khổ cực chứ?"

Cận vệ đang chuẩn bị la hét người mù mạo phạm, thì Nhật Nguyệt Minh vương đến nói với người mù rằng: "Này người tội nghiệp, ngươi chịu đại nạn như thế, chính là sỉ nhục người làm quốc vương ta đây, ngươi hãy cùng ta đến cung, bảo đầu bếp trung cung chuẩn bị thức ăn ngon cho ngươi".

Nge xong lời này của Nhật Nguyệt Minh vương, mọi người không ai không cảm kích đức nhân của ông, tất cả đều cúi đầu chí kính. Một lúc sau, tiếng "Tạ ơn mưa móc của quốc vương" vang cả khắp thành đô.

Đến vương cung, Nhật Nguyệt Minh vương ngay lập tức mời ngự y chữa trị cho người mù và nói: "Thế nào? Có cách nào chữa trị đôi mắt của ông ta không? Ngự y?"

"Dạ thưa, tôn vương của tôi! Đôi mắt của ông ta đã như thế này, xem ra không thuốc nào chữa trị được nữa rồi". Ngự y khẻ nói vào tai của Nhật Nguyệt Minh vương.

Nhật Nguyệt Minh vương tỏ vẻ đau buồn, ông dặn dò ngự y, phải nghĩ mọi cách để chữa trị.

"Quốc vương, xin người hãy nghe tôi nói một câu, mắt của tôi thực là có thể chữa trị được", người mù sợ Nhật Nguyệt Minh vương bỏ mặc hắn, bèn nói.

Nhật Nguyệt Minh vương vội vàng an ủi hắn: "Ngươi yên tâm, ta đã để ngự y nghĩ cách điều trị đôi mắt cho ngươi".

"Quốc vương, mắt của tôi điều trị rất đơn giãn, ngay lập tức sẽ khỏi".

"Cách gì?" quốc vương kinh ngạc, giương tròn đôi mắt to, sáng lóng lánh hỏi lại.

Người mù do dự một hồi, cuối cùng nói một cách khẩn thiết: "Chỉ cần ngài chịu bố thí đôi mắt của ngài cho tôi, tôi sẽ trông thấy được ánh sáng".

"Được thôi", Nhật Nguyệt Minh vương vừa nói xong, ngay lập tức móc hai mắt ra một cách không nghi ngại, cầm trên đôi tay, trong lòng phơi phới.

Văn võ bá quan thấy Nhật Nguyệt Minh vương anh tuấn mất đi đôi mắt, nhất thời kinh sợ ngẩn người,cùng nhau trách rằng: "Quốc vương, sao ngài có thể làm như thế được?"

"Vì đem lại ánh sáng cho người mù, ta tuyệt không hối hận", Nhật Nguyệt Minh vương từ bi nói một cách kiên định.

Ngay lúc đó, đôi mắt của người mù quả nhiên mở ra, trong thấy Nhật Nguyệt Minh vương vì hạnh phúc của hắn mà phải hy sinh đôi mắt của mình, sừng sửng uy nghi đứng ngay trước mắt, đôi tay còn cầm lấy đôi mắt... Bỗng chốc, đôi mắt của người mù vừa mở tuôn ra dòng lệ...

A Nan nghe đến nhập thần, thấy đức Phật đã ngưng nói, liền hỏi: "Và sau đó..."

Phật Tổ cười, nói: "Sau đó, Nhật Nguyệt Minh vương vì công đức ấy mà đắc đạo thành Phật.

"Vậy nhất định là người phải không, thưa Phật Tổ".

"Con đoán đúng rồi".

Câu chuyện mà đức Phật kể cho A Nan nghe đã hết, nhưng hình ảnh sáng ngời của Nhật Nguyệt Minh vương để lại trong lòng A Nan thì mãi không phai mờ.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BỐN BÀ LA MÔN NGHE KỆ ĐẮC ĐẠO
Ngày xưa, cón bốn vị Bà la môn, vì chuyên tâm tu đạo, nên họ đều có được một ít thần thông. Bốn vị Bà la môn này đều có thể đi trên không trung. Như thế, họ muốn đi đến đâu, đều có thể tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực.

Bốn người họ thường cùng nhau thảo luận sự tuyệt diệu của thần thông, hễ nói đến vấn đề này, là mọi người đều có thái độ hưng phấn khó tả.

Một ngày nọ, bốn vị Bà la môn này ngồi lại với nhau, họ ngồi trên không trung để nói chuyện: "Người trên thế gian không có bản lĩnh gì lớn cũng không có quan hệ gì, chỉ cần thường xuyên bố thí thức ăn cho đệ tử của Phật môn, thì có thể cả đời hưởng hạnh phúc. Nếu có ai nghe được Phật pháp, vậy thì có thể vào được cửa giải thoát".

Một Bà la môn khác nghe những lời này, vội vã hỏi rằng: "Nhiều người chúng ta nếu được nghe Phật pháp, thì sẽ như thế nào chứ?"

"Còn có thể như thế nào được nữa, chỉ cần chúng ta nghe được Phật pháp, cũng sẽ tự nhiên vào cửa giải thoát", một vị Bà la môn khác trả lời.

"Giải thoát đau khổ của thế gian còn được, nếu cả những vui thú cũng giải thoát, vậy thì còn ý nghĩa gì nữa".

"Đúng vậy. Chỉ cần cầu đạo, chuyện tốt gì cũng không làm được, vậy thì quá vô vị".

"Ta thấy, chúng ta cũng đừng nên đi hỏi Phật pháp làm gì".

"Nói có lý, ta rất tán đồng".

"Như thế này bay qua bay lại không phải rất thú vị rồi sao? Nhưng nguyện vĩnh viễn như thế này, thì cũng phải cầu".

"Thật là cao kiến".

Bốn vị Bà la môn này, vừa bay, vừa bàn luận rộn rã, tất cả đều tâm đầy ý hợp, nói rất ăn ý.

Tuy họ không chịu nghe Phật pháp, nhưng trong lòng vẫn rất tôn kính đối với đức Phật. Một lần nọ, mỗi người cầm lấy một bình Thạch Mật thơm ngon, chuẩn bị dâng lên đức Phật. Họ đứng bên ngoài nơi Phật ngự, e ngại, nếu bốn người cùng vào, đức Phật trông thấy họ đến thật đông đủ, sẽ thuyết pháp. Thế là, bốn vị Bà la môn bàn bạc lại, cuối cùng quyết định, từng người, từng người một đi vào.

Bà la môn thứ nhất cầm bốn bình Thạch Mật dâng lên đức Phật. Phật Tổ liền thuyết pháp cho ông ta:
  • "Sở hành phi thường..."
Ông ta vừa nghe thấy đức Phật thuyết pháp, vội dùng tay bịt kín đôi tai. Lúc này, Bà la môn thứ hai bước vào dâng Thạch Mật, nghe thấy đức Phật nói:
  • "... hưng suy của Phật pháp..."
Người đó nghe thấy biết là đức Phật đang thuyết pháp, cũng vội vàng bịt kín đôi tai không nghe. Sau đó, người thứ ba bước vào dâng Thạch Mật, nghe đức Phật nói:
  • "... sinh là tử..."
Ông ta cũng biết là đức Phật đang thuyết pháp, bèn học theo hai người trước che kín hai tai mình không nghe.

Bà la môn cuối cùng ôn tồn dâng lên cho Phật Thạch Mật, chỉ nghe thấy đức Phật nói:
  • "... cái sự diệt này là vui..."
Ông ta nghĩ ngay là đức Phật đang thuyết pháp, bèn che kín tai lại.

Bốn người đều che kín tai lại chạy ra ngoài, hỏi han nhau mọi người đã nghe được gì.

"Tôi vừa nghe được 'sở hành phi thường' bèn che kín tai lại rồi", Bà la môn bước vào đầu tiên nói.

Bốn người đều nói một lượt, kết quả là mỗi người đều nghe được một câu, hợp thành một bài kệ Phật:
  • Sở hành phi thường
    Gọi là sự hưng suy của Phật pháp
    Sinh là tử
    Sự diệt này là vui.
Bốn người này đều hiểu được lời kệ Phật này, bèn bất đắc dĩ khai thông. Họ vì thế mà đều đắc quả A la hán.

Bốn người đều hối hận vì cách nghĩ trước đây của mình, họ lại quay lại hối lỗi về sự bất kính đối với đức Phật.

Bốn người cùng về đến trước mặt đức Phật đảnh lễ, sau đó thưa với đức Như Lai rằng: "Vì chúng tôi đã phát nguyện cầu Phật đạo, cho nên đến đây để nghe giảng pháp, nguyện xuống tóc làm Sa môn"

Đức Phật nói: "Thiện tai! Tỳ kheo, các người mau tu phạm hạnh đi".

Lời của đức Như Lai vừa dứt, tóc của bốn Bà la môn đều rụng sạch. Y phục trên người họ phút chốc biến thành cà sa đỏ.

Bốn Bà la môn triệt để cắt đứt duyên trần, trở thành bốn La hán.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MỘT TẤM CHĂN LÔNG
Theo Hiền Ngu Kinh ghi: Ở nước Xá Vệ có một bà lão, tuổi quá năm mươi, đột nhiên mang thai, sinh ra một đứa con, chuyện kỳ lạ này nhanh chóng lan truyền đi khắp nơi. Đối với hai vợ chồng già mà nói, tuổi già mà có được đứa con gái, cũng là phúc tinh cao chiếu! Hai ông bà thật quá đỗi vui mừng, cùng nhau thành tâm khấu đầu, thắp hương lạy tạ trời đất.

Lại xem đứa con gái vừa mới sinh, vừa lọt lòng me, toàn thân bao bọc một lớp nỉ trắng mềm mại, rất kỳ quái. Hai vợ chồng vội vàng đi xem bói. Thấy bói nói là: "Đại Cát", hai chồng già lúc này mới yên tâm. Họ đặt tên cho con gái là Thúc Ly, nghĩa là thuần khiết.

Thời gian trôi đi, Thúc Ly lớn đần, lớp lông nỉ bọc bên ngoài cơ thể cô cũng dài thêm ra. Từ trước đến này chưa ai từng gặp lớp nỉ trắng, cũng như là lớp da trên người cô như vậy đặc biệt nó chưa từng được lột xuống bao giờ. Thúc ly càng lớn càng đẹp, dung mạo như hoa, như ngọc, đẹp không thể tả nổi, nhân phẩm băng thanh ngọc khiết khiến cho người ta kính nể. Một cô gái tuyệt đẹp như thế e không tìm được người thứ hai. Khi tới tuổi thành gia thất, người ở trong vòng mấy mươi dặm đều mối mai đến gạn hỏi.

Hai vợ chồng già vui vẻ vô cùng,vội vã đi hỏi cô gái cưng. Nào ngờ Thúc Ly trịnh trọng nói với cha mẹ: "Con không chịu, cha mẹ đừng vì hôn sự của con mà phiền lòng".

Hai vợ chồng nghe thế hốt hoảng, bất tỉnh cả buổi mới cử động lai, run rẩy hỏi: "Ôi! Sao lại nghĩ ra chuyện này thế" Chuyện này không phải là chuyện đùa với cha mẹ chứ? Đừng có nói bừa, dọa chúng ta!"

"Cha mẹ ở trên, con gái sao dám nói đùa chứ? Chủ ý của con đã định, cha mẹ đừng nên khuyên giải nữa".

Hai vợ chồng già ngơ ngác, không biết làm gì, đành chấp nhận. Do họ quá yêu thương đứa con độc nhất này, nên không nỡ làm đau lòng cô.

Hai ông bà cuối cùng chịu không nổi bi thương, nói nhỏ nhẹ với con gái: "Vậy thì cứ theo ý con đi, Thúc Ly, gỡ lấy tấm nỉ trắng trên người con xuống, mẹ sẽ may cho năm bộ đồ, mùa đông giữ ấm, mùa hè mát mẻ, cũng có cái để thay đổi", lời bà mẹ đầy ấp lòng từ bi và khoan dung.

"Mẹ không cần phải nhọc công, tấm nỉ lông trên người của con mùa đông giữ ấm, mùa hè tránh nắng, là đã đủ lắm rồi. Cha mẹ có thể để cho con xuất gia làm ni cô, con gái cảm kích vô cùng, kiếp sau con nhất định sẽ báo đáp đại ân, đại đức của cha mẹ, Kính xin cha mẹ hãy bảo trọng, sống lâu trăm tuổi".

Và thế là, Thúc Ly xuống tóc làm ni cô, khổ tu đạo pháp. Nàng thành khẩn tu hành, không bao lâu đắc quả La hán.

A Nan hiếu kỳ hỏi đức Phật: "Thúc Ly tu được công đức gì, sau khi sanh ra đã có lớp lông nỉ trên người rồi". Đức Phật bèn nói rõ ngọn ngành, nguồn cơn của sự tình.

Từ xa xưa, có một vị quốc vương rất tôn kính Phật đạo, thiết lập nhiều danh mục cúng dường Phật cho thần dân của ông ta. Trong thần dân có một người phụ nữ, tên gọi là Đàn Nhị Ca, nhà cô ta rất nghèo khổ, nghèo đến nỗi hai vợ chồng phải dùng chung một tấm nỉ che thân. Nếu chồng ra ngoài làm việc, thì khoác nó lên người, còn người vợ phải ngồi ở nhà, vì không có quần áo che thân; nếu người vợ ra ngoài, thì người chồng đương nhiên phải trần trùng trục, không bước chân ra khỏi cửa.

Hôm ấy, có một Tỳ kheo chuyên dụng công giáo hóa người đời đi qua cửa nhà Đàn Nhị Ca. Bỗng nhiên thấy một phụ nữ ngồi ôm gối co ro dưới hiên, bộ dạng rất kỳ quái, bèn đứng lại xem thử. Sau khi ông nghe người phụ nữ kể về gia cảnh của mình, rất muốn giúp cô ấy, thế là thành tâm khuyên rằng:

"Mọi người trên thế gian, để tồn tại thật không dễ, nếu có thể tin Phật, càng khó hơn! Nàng nên đi nghe đức Phật thuyết pháp giảng đạo, vì đức Phật mà bố thí".

Đàn Nhị Ca vào nhà thành khẩn khuyên chồng, người chồng cười một cách thê thảm, hai tay đỡ Đàn Nhị Ca dậy, không biết làm thế nào, trả lời rằng: "Nhà ta nghèo đến nước này, cho dù có lòng bố thí, e rằng chẳng có thứ gì để bố thí nữa?"

"Ý của thiếp là muốn mang tấm nỉ này..."

Không đợi vợ nói hết lời, người chồng vội vã ngắt lời vợ, nói to rằng: "Người vợ tốt của ta ơi, nàng quên rồi sao? Chúng ta chỉ dùng chung tấm nỉ này để che thân thôi! Mỗi ngày ra vào, làm ruộng, nhặt củi đều dựa vào nó để sống thôi! Hôm nay nàng muốn đem nó để bố thí, vậy chúng ta đành ngồi chờ chết sao?"

Nhìn thấy chồng nóng giận, với bộ dạng tuyệt vọng đau khổ, trong lòng của Đàn Nhị Ca rất day dứt, điều này cũng khó tránh! Nhưng Đàn Nhị Ca không vì thế mà bỏ đi ý nguyện của mình, lại tiếp tục khuyên giải:

"Con người sống trên thế gian đều phải chết, không bố thí, cuối cùng cũng sẽ chết. Nếu bố thí, sau khi chết còn có thể hy vọng được báo ứng ở kiếp lai sinh, nếu không bố thí, sau khi chết sẽ chịu nhiều đau khổ hơn bây giờ, chịu tội càng lớn. Vậy, chàng nói chúng ta nên chọn cái chết như thế nào đây chứ?"

Người chồng nghe xong, chuyển buồn thành vui. Hai người vội vã đem mảnh nỉ ấy gấp lại. Đàn Nhị Ca đem tấm nỉ dâng cho Tỳ kheo, nói: "Xin ngài hãy thay tôi dâng cho đức Phật, thay tôi báo lại danh tánh".

Ban đầu, Tỳ kheo ấy cố chấp không nhận, vì rất muốn để cho cô ấy tự mình đi bái đức Phật, giáp mặt bố thí, để Phật niệm kinh phát nguyện cho cả nhà nàng. Nhưng sau đó, ngài xem thấy Đàn Nhị Ca trên người không có một mảnh vải, thực sự không thể nào giáp mặt được, thêm vào đó nàng nhiều lần cầu khẩn, Tỳ kheo đành chịu nhận tấm nỉ, ngay lập tức đưa đến nơi Phật Tổ. Phật Tổ Như Lai tận tay đón lầy tấm nỉ không tầm thường này.

Thời Phùng quốc vương triệu tập đại hội vương thần, đức Như Lai đi đến. Các đại thần trông thấy trên tay đức Như Lai cầm một tấm nỉ đen, rách nát, dơ dáy bùn đất, mùi hôi khó ngửi, đều bịt mũi che mặt, trong lòng nghĩ:

"Đức Như Lai sao có thể mang thứ bẩn thỉu hôi hám thế này đến đại điện vương cung cơ chứ? Thật khiếm nhã!" ai ai cũng đều tỏ vẻ bực bội.

Trong lòng đức Như Lai hiểu rõ những gì họ nghĩ, nhưng ngài bỏ qua sự cười khinh chỉ trích của họ, chỉ vào tấm nỉ trong tay nói to: "Trong tấm nỉ mà ta đón nhận, không có gì sạch sẽ, và quý trọng hơn nó".

Tiếp theo, ngài đem lai lịch của tấm nỉ nói rõ cho quốc vương, vương hậu và các đại thần nghe.

Cả điện kinh ngạc, nghiêm túc lại, mọi người cảm thấy xấu hổ đối với hành động và suy nghĩ của mình lúc này. Vương hậu ngay lúc đó, cởi tấm áo đính đầy trân châu bảo ngọc khoác trên người xuống, quốc vương cũng vui vẻ cởi tấm áo lông trên người xuống, ra lệnh cho hầu cận, nhanh chóng mang những thứ này đến tặng cho vợ chồng Đàn Nhị Ca.

A Nan nghe đến đấy, bỗng nhiên tỉnh ngộ: "Ồ! Vậy cô gái nghèo khổ ấy tất phải là Thúc Ly ngày nay rồi. Có thành tâm ban đầu, mới có sự báo đáp của ngày sau".
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NGUYỆT QUANG PHU NHÂN
Theo Bạt Đà La Tỳ Kheo Ni Kinh ghi: Trong thành Vương Đài ở nước Magadha nổi tiếng, có một cụ già gia cảnh bàn hàn, nhưng ngược lại là một người kỳ quái, cố chấp mà lại rất thẳng thắng. Ông không tín ngưỡng Phật pháp, mà nghe tin lời của Lục vị Tổ sư ngoại đạo, trong một vùng đất tối, tạo riêng một cái hang lửa, có mưu đồ hãm hại Phật Tổ. Ông ta có một đứa con trai, tên là Nguyệt Quang đồng tử. Nguyệt Quang đồng tử nhiều lần can gián cha, đừng đem lòng hại Phật. Vì đối đầu, đấu pháp và tranh thắng với đức Phật sẽ không có kết quả tốt. Nhưng người cha vẫn không thay đổi ý định, cuối cùng bày mưu gạt đức Phật đến nhà, sau đó dẫn đến bên hang lửa. Đợi đến lúc hạ thủ, hang lửa ấy đột nhiên biến thành một vùng đất mát mẻ. Lúc này ông già mới tâm phục, khẩu phục, hối hận tự trách, từ lúc đó cũng quy y cửa Phật

Lại nói đến Nguyệt Quang đồng tử, từ sau khi phụ thân cải đạo tin Phật pháp, cũng đại chấn thanh danh. Phật Tổ nói chàng thiên tư thông minh, sáng suốt, là một người có thiện căn đại đức, tương lai tất có thể đại uy, có thể phục chúng.

Trong nhà Nguyệt Quang đồng tử có một tỳ nữ, cũng có thân thế không tầm thường. Tiền thân của cô cũng là một công tử của một phú gia giàu có. Một hôm, chàng tay cầm một cái lọng bảo thạch lung linh trước mắt, đứng ở ngoài cửa, muốn lấy sự huyền diệu này để khiến mọi người khen ngượi và ngưỡng mộ, để thỏa lòng hư vinh của mình.

Hắn dương dương tự đắc, đang muốn huênh hoang người đời, ngay lúc đó có một cô gái đi ngang qua. Nàng đoan trang, tú lệ, nhu nhã vô cùng hấp dẫn. Tất cả những cặp mắt trên đường đều đổ dồn vào cô gái có phong thái mỹ lệ này, ai cũng dăm đăm ngóng theo... đâu có ai chú ý đến, nơi này còn có một thiếu gia tay cầm dù lọng nữa.

Công tử bất bình nghĩ: "Trong tay mình cầm một món bảo vật quý giá, mà chẳng ai ngó lấy, còn cô gái ấy có gì chứ? Không phải chỉ là đẹp thôi sao? Mỹ nữ trong thiên hạ nhiều vô kể, có hiếm gì chứ? Hừm! Mình không cho mọi người chú ý đến, sẽ không cam".

Thế là hắn từ bỏ thế giới phàm tục, chạy đến Tỳ Bà Thi Như Lai, đứng ở sau người để che lọng. Qua bảy ngày bảy đêm, hắn phát nguyện: "Ta phải biến thành một cô gái tuyệt đẹp, để tất cả những nguồ trông thấy ta cũng đều phải chết mê, quỳ gối dưới chân ta".

Nói rồi, hắn tắt thở thọ tận. Sau đó chuyển thân ba mươi ngày, biến thành một vị thiên nữ. Cô ta có một nhan sắc không gì sánh bằng, tính tình thư thái, luôn nở nụ cười, vả lại có thể giữ mãi tuổi thanh xuân. Phàm là những nam tử thiên giới trong thấy nàng, ai cũng muốn cưới cô làm vợ.

Sau đó, nàng đầu thai xuống nhân gian, trong một gia đình Bà la môn bần hàn và làm tỳ nữ trong nhà của Nguyệt Quang đồng tử, tên gọi là Kỷ La. Vợ của Nguyệt Quang đồng tử tên là Ma Nộ Hà La, dung mạo cũng không ai sánh kịp, tư thế muôn màu muôn vẻ, vả lại còn có một cái tên đẹp động lòng người đó là Nguyệt Quang phu nhân.

Nguyệt Quang phu nhân rất vui vẻ thiện tâm, luôn bố thí và làm điều tốt. Bình thường luôn căn dặn Kỷ La: "Nếu trên đường phố có gặp Sa môn, Bà la môn, ngươi hãy dẫn về nhà, ta muốn bố thí chút ân huệ cho người ấy".

Một hôm nọ, có một vị Bích Chi Phật (Độc Hành Tăng) ngồi ở trên bục cửa nhà Nguyệt Quang đồng tử cầu xin bố thí. Vừa đúng lúc Kỷ La ra ngoài về, nàng bèn mời vào trong nhà, đang muốn đi lấy thức ăn cho ông ta, đột nhiên nghe thấy trong nhà Nguyệt Quang phu nhân gọi cô luôn miệng.

Kỷ La vội vã vào nhà, Nguyệt Quang phu nhân nói với nàng rằng: "Ta trông thấy tên Sa môn này tướng mạo xấu xí, áo mũ bất nghiêm, khiến người ta ghét bỏ. Ngươi thay ta đuổi ông ta đi đi! Ta không muốn bố thí gì cho một tăng nhân như thế này", nói rồi lạnh nhạt quay đầu đi.

Kỷ La cung kính mà rụt rè đáp: "Phu nhân, chớ trách nô tỳ to gan, nhưng nô tỳ cho rằng không nên chỉ vì diện mạo ông ta xấu xí mà không bố thí cho ông ta. Phu nhân, lòng từ bi của người, tấm lòng Bồ tát của người, ai ai cũng tán dương, công đức vô lượng. Cho nên vẫn mong phu nhân nghĩ lại!"

"Đừng nói nhiều! Ý ta đã tuyệt. Mau đuổi ông ta đi đi!" Nguyệt Quang phu nhân nói một cách giận dữ.

Trong lòng Kỷ La vừa thất vọng vừa thương tâm, nhưng lại không chịu vì thế mà bỏ qua, bèn nói một cách khẩn thiết rằng: "Nếu phu nhân cố chấp không chịu, vậy khẩn thỉnh phu nhân đưa cho tiểu tỳ phần cơm của ngày hôm may đi".

Kỷ La cầm lấy phần thức ăn ấy của mình, đi ra ngoài cửa, chia cho Bích Chi Phật. Tăng nhân ăn cơm xong ngay lập tức nhẹ thêm như có cánh, bay lên không trung. Kỷ La trông thấy, vui vẻ khôn cùng, ngay lúc đó phát nguyện rằng: "Ta bình sinh tại thế gian, quyết định phải tích đức hành thiện, vĩnh viễn không làm điều tà ác".

Lúc này Nguyệt Quang đồng tử thống lĩnh năm trăm vị thương nhân, họ đang tụ tập ở đại giảng đường. Từ xa họ đã trông thấy Bích Chi Phật cầm bát ở trên không. Năm trăm người vung tay múa chân, tranh nhau nói: "Vị thánh nhân này nhất định là được sự bố thí của nhà ta".

Vậy, Nguyệt Quang phu nhân "thiện tâm bố thí" này có biểu hiện gì chứ? Bà ta nói với Kỷ La rằng: "Ngươi đem đồ của ta cho ngươi bố thí cho Bích Chi Phật, cho nên, cũng xem như là ân huệ bố thí, công đức tu hành của ta! Được thôi, giờ ta cho ngươi một phần thức ăn để ngươi thay ta đi bố thí".

Thấy Kỷ La không trả lời, Nguyệt Quang phu nhân hơi nổi nóng. Nói một cách ác ý rằng: "Vậy, ta cho ngươi ba phần. Năm phần, mười phần, hai mươi phần, thậm chí một trăm phần, một ngàn phần. Được rồi chứ?"

Lúc này trong mắt Kỷ La, phẩm hạnh của Nguyệt Quang phu nhân đã không đáng để cho nàng tôn kính nữa rồi.

Trông thấy phu nhân như là đang mắng, Kỷ La mới bình tĩnh trả lời: "Phu nhân hà tất phải phẫn nộ như thế? Bất luận thế nào, tiểu tỳ cũng sẽ không đi bố thí thay cho phu nhân".

Nguyệt Quang phu nhân không ngờ rằng trước mặt một con nô tỳ ty tiện này lại mất đi thân phận và sự tôn nghiêm, không khỏi xấu hổ và phát cáu:

"Con tiện tỳ to gan! Ngươi dám chống lại mệnh lệnh của ta, còn cãi bừa, ngang nhiên cao giọng! Hôm nay cho ngươi nếm mùi lợi hại của ta! Ta sẽ cắt lấy tai, mũi và đôi tay của ngươi! Hỏi ngươi một lần sau chót, chịu hay không chịu?"

Kỷ La vẫn im lặng không chịu theo. Nguyệt Quang phu nhân gọi nô tỳ trong nhà, dùng gậy đánh loạn xạ lên người của nàng.

Ngay lúc ấy, Nguyệt Quang đồng tử bước vào. Trông thấy tỳ nữ Kỷ La quần áo rách tan, đầu vỡ máu tuôn, thương tích đầy mình, vết máu loang lỗ, ngồi tựa cửa đầm đìa ngấn lệ bi thiết. Nguyệt Quang đồng tử vội đi vào nhà trong, xông vào hỏi phu nhân:

"Phu nhân, vì đâu mà nàng lại đánh đập tàn nhẫn tỳ nữ như thế này? Cho dù ả có lỗi lầm gì, cũng không nên làm ra chuyện tàn nhẫn như thế?"

Phu nhân thấy chồng về, ấm ức trong bụng, có bao nhiêu tức giận trút hết ra.

Kết cục chuyện này e là Nguyệt Quang phu nhân có nằm mơ cũng không nghĩ đến. Nguyệt Quang đồng tử đột nhiên giáng Ma Nộ Hà La làm tỳ nữ, mà tôn Kỷ La lên làm đệ nhất phu nhân, một danh vị xứng đáng với nàng. Vì công đức của Kỷ La thí cơm cho Bích Chi Phật, sau này nàng đắc thành quả La hán và cuối cùng thành Phật.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

SA DI HẠI CHẾT SƯ PHỤ
Theo Hiền Ngu Kinh ghi: Xưa kia ở nước Xá Vệ có một ông già, vợ ông ta mất từ sớm, chỉ nương tựa vào một đứa con, sống một cuộc sống gian nan. Về sau, cụ già được sự khai thị giáo nghĩa của Phật Tổ, bèn cũng con trai xuất gia, theo Phật Tổ tu luyện. Cụ già làm Tỳ kheo, con trai của ông còn nhỏ, chỉ làm Sa Di, thành ra thầy trò.

Hằng ngày các Tỳ kheo phải chia nhau đi hóa duyên. Cụ già mang theo đứa con trai, cũng là đệ tử đi theo.

Một ngày nọ, hai thầy trò càng đi càng xa mà không hay biết, đợi đến khi muốn quay về thì trời đã tối mịt, sư phụ tuổi cao nên đi rất chậm, đồ đệ lại đi ở phía trước dìu sư phụ. Khi đi đến dưới một gốc cây, trời đã tối đen như mực. Không có ánh trăng, xòe tay cũng không thấy được năm ngón, trong rừng cây chỉ có thể nghe thấy tiếng bước chân của hai thầy trò và tiếng xào xạc của lá rừng, còn có tiếng kêu rú của thú hoang từ xa vọng đến. Tiểu Sa di biết trong rừng đôi khi có thú dữ xuất hiện, sợ là ban đêm có dã thú xuất hiện tìm thức ăn mà hại phụ thân, bèn vội vàng ôm lấy vai của phụ thân, dìu đỡ phụ thân đi đến men rừng. Nào ngờ phụ thân tuổi già sức yếu, lại đi suốt cả ngày, lòng thì gấp rút nhưng chân không gấp được. Thêm vào đó là trông không rõ đường sá, với sự vội vã thôi thúc của con trai, liêu xiêu ngã lăn ra đất, vô tình đầu va phải một tảng đá, một lúc sau thì chết.

Sa di thấy cha ngã xuống đất, vội kéo vực ông dậy, nhưng chẳng thấy có phản ứng gì, mới cảm thấy khác thường, xem kỹ lại bất chợt giật mình, kêu khóc thất thanh.

Đến khi trời sáng, Sa di một mình về đến chùa. Sau khi các Tỳ kheo biết nguồn cơn sự tình, đều xúm lại trách mắng Sa di, vì tiểu Sa di hại chết phụ thân của mình. Tiểu Sa di có miệng nhưng chẳng nói được lời nào, trong lòng uẩn khuất, bèn đi tìm Phật Tổ cáo khổ.

Phật Tổ cho Sa di ngồi xuống, nói rằng: "Những điều mà con muốn nói ta đã biết cả. Cha của con đã chết, nhưng ta không trách tội con". Phật Tổ trông thấy tiểu Sa di vẫn chau mày, tiu nghỉu. Phật Tổ liềm mỉm cười, tiếp tục nói: "Bây giờ ta kể cho con nghe một câu chuyện:

Ngày trước, cũng có hai cha con, họ sống ở một thôn nhỏ ngoài thành. Người cha đang bệnh nặng trên giường, con trai rất sốt ruột, hết lòng chạy chữa thuốc thang, chăm sóc cha tận tình. Đầu tiên anh ta hầu hạ cha, cho cha uống thuốc, sau đó dìu cha lên giường nghỉ, chỉ mong cha sớm bình phục. Nhưng chỗ mà họ sống lại một mái nhà tranh, mặt đất lại ẩm thấp, nên đôi khi nhiều ruồi muỗi bay qua bay lại, kêu vo vo, làm phiền giấc ngủ của cha. Phụ thân ngủ không yên trên giường, con trai cũng rất lo lắng, vội vàng tìm một cây vợt đánh ruồi muỗi khắp nơi. Nhưng ruồi muỗi ngược lại càng lúc càng nhiều.

Con trai vừa sốt ruột lại vừa giận dữ, quay người lại lấy gậy đánh loạn xạ, đuổi đánh những con ruồi muỗi bay qua lượn lại trên không trung. Một con muỗi tìm không được chỗ đậu, vội vã đậu ngay trên mũi cha mình. Nào ngờ con trai đang đứng bên cạnh, trông thấy không kịp nghĩ, đánh mạnh một gậy. Phụ thân chịu một đòn mạnh này, kêu lên một tiếng cũng không kịp, chết ngay tại chỗ.

Con trai là một đứa con hiền lương, nhưng vô ý đã hại tánh mạng của cha mình, đây cũng là chuyện ngoài ý muốn, không thể vì thế mà trách con trai là một hung phạm sát nhân, chuyện đó nên trách sự đời".

Phật Tổ thấy Sa di nghe rất chăm chú, hình như có cảm ngộ, bèn hỏi thêm rằng: "Sư phụ bị con hối thúc, là vì con sợ trời tối, sư phụ sẽ bị thú dữ tấn công, quá khứ và hiện tại của con đều không có ác ý hay cố tình hại người, phải không?" Sa di gật đầu thưa phải.

"Câu chuyện mà ta kể và câu chuyện mà con đã trải qua có chút khác nhau. Nhưng nguyên lý là một, Ngã Phật lấy từ bi làm gốc, sẽ khoan dung và cứu độ, con hãy yên tâm".

Sa di nghe lời của Phật Tổ, trong lòng được an ủi, uẩn khúc được giải tỏa. Từ đó Sa di chuyên tâm khổ học, cần mẫn tu luyện, cuối cùng hữu học tất thành, tu thành La hán quả.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NA LAI VÀ ĐỀ KỲ LA
Theo Lục Độ Tập Kinh ghi, xưa kia có hai người tu hành, một người tên là Na Lai, người kia tên là Đề Kỳ La. Họ đi về lặng lẽ, trong lòng không có tạp niệm dục vọng, rời bỏ thế tục, đến một vùng núi xa xôi thanh tịnh để tu đạo. Để rèn luyện mình, tu thành chánh quả, họ đào núi làm nhà, mặc áo cỏ, giày cỏ, uống nước suối ăn quả rừng, khổ hạnh tu đạo.

Qua sự khổ luyện không biết bao nhiêu năm, họ nắm bắt được năm bản lãnh mà thế gian không ai có. Một là mắt có thể nhìn rất xa, mọi vật như ở ngay trước mắt; hai là tai có thể nghe xa ngàn dặm, âm thanh như gần bên tai; ba là có thể bay lượn, xuất nhập tùy ý; bốn là có thể thông hiểu tất cả những suy nghĩ của người khác; năm là có thể hiểu rõ tất cả những chuyện trong quá khứ và biết trước được tương lai. Họ thật sự đạt đến cảnh giới, thông tuệ tất cả, không thầy không đến, pháp lực vô biên, thần thông quảng đại, đến cả Đế Thích, Tiên Thánh, Thiên Long, Địa Quỷ, ai cũng đảnh lễ với hai người, khấu đầu thán phục.

Na Lai và Đề Kỳ La ở trong núi tu đạo hơn sáu mươi năm, lấy an nguy, họa phúc của dân chúng trong thiên hạ làm niệm, chưa từng lấy thần thông và pháp lực của mình làm nguy hại đến bá tánh.

Họ ngày đêm đem lòng tu đạo, tụng kinh, niệm Phật từ đêm khuy đến sáng sớm, rất gian khổ.

Một ngày nọ, đêm đã rất khuya, hai người đang tụng kinh. Đề Kỳ La niệm, mí mắt đã nặng trĩu, ông không thể kiên trì được nữa, bèn nằm xuống đất ngủ thiếp đi. Na Lai vẫn như cũ một lòng tụng niệm.

Na Lai đang tụng kinh, thấy ánh sáng dần tối lại, biết nến sắp lụn, bèn đứng dậy đi đốt một cây nến khác. Ông không biết Đề Kỳ La đang nằm ở bên cạnh mình, vừa nhấc chân lên, không cẩn thận đạp ngay đầu của Đề Kỳ La.

Đề Kỳ La đang trong giấc ngủ say, bị người khác đạp lên đầu, bất chợt giận dữ, nói: "Là ai đạp đầu ta, ngày mai khi mặt trời lên đền đầu sào, đầu tên đó sẽ nát thành bảy mảnh!"

Na Lai vì vô tình đạp đầu Đề Kỳ La, rất áy náy đang muốn xin lỗi, vừa nghe thấy Đề Kỳ La chửi rủa mình, cũng bất giác đại nộ: "Ta chẳng qua là vô ý đạp lên đầu ngươi thôi, sao ngươi lại phát ra lời nguyền nặng như thế với ta? Phàm chén chung sống còn còn lúc khua đụng nhau, huống hồ gì người sống chúng với nhau, đâu có chuyện lâu năm mà không lỡ tay chứ? Ngươi lại phát đại nguyện, ngày mai mặt trời lên khỏi núi, đầu của ta bị vỡ ra thành bảy mảnh. Vậy được, ta sẽ chế ngự mặt trời, để mặt trời không thể mọc lên nữa, để xem lời nguyện của ngươi có còn tác dụng gì nữa!"

Na Lai và Đề Kỳ La đều là người có pháp lực vô biên, thàn thông quảng đại, Đề Kỳ La nguyền người đạp đầu mình, ngày mai khi mặt trời vừa lên đến đầu sào, đầu nứt ra thành bảy mảnh; Na Lai để cứu lấy tánh mạng của mình, bèn phát thề, lấy pháp lực của mình, quấn chặt lấy mặt trời, khiến cho mặt trời không thể mọc nữa. Chỉ cần mặt trời không mọc, thì lời nguyền của Đề Kỳ La không thể nào thực hiện được nữa.

Quả nhiên, dưới pháp lực khống chế của Na Lai, mặt trời không thể nào mọc được, thế gian bao trùm một màn u tối.

Một ngày, hai ngày... cả năm ngày, mặt trời dưới sự khống chế của Na Lai, cũng không thể mọc lên. Khắp nơi chìm trong một màn đêm tối, thò tay không thấy rõ được năm ngón, mọi người đành đốt nến để thắp sáng. Họ sống mà không biết ngày giờ, nên cảm thấy rất hoang mang. Các quan sứ không có lòng để lo việc chánh trị, bá tánh không có lòng để làm ăn sinh sống, cũng không biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Trong lòng quốc vương cũng rất nóng ruột, như vậy thì quốc vương trị nước ra sao? Ông bèn triệu tập quần thân để bàn bạc. Có một đại thần kiến nghị: "Điều này e là phàm nhân chúng ta không thể giải thích được, nên mời một đạo sĩ pháp thuật cao siêu, để giải đáp nguyên nhân này".

Quốc vương chuẩn tấu, phái người đi khắp nơi mời một đạo sĩ tài giỏi, cuối cùng tìm được vài người.

Quốc vương nói: "Liên tiếp mấy ngày nay, mặt trời không mọc, vấn đề rốt cuộc từ đâu ra?"

Trong đó có một đạo sĩ tài học hơn người, thông thiên văn hiểu địa lý, có khả năng bói toán tiên tri, bèn nói với quốc vương rằng: "Trong một khu rừng sâu ở nơi xa xôi, có hai người tu đạo, giữa hai người có một mâu thuẫn nhỏ. Vì vậy, họ dùng pháp lực để không chế mặt trời, làm cho mặt trời không thể mọc.

Quốc vương nghe thấy, vội vàng hỏi: "Hai vị đạo nhân pháp lực vô biên ấy, là vì chuyện gì phát sinh mâu thuẫn thế?"

Vị đạo nhân có khả năng bói tiên tri bèn đem đầu đuôi câu chuyện của Na Lai và Đề Kỳ La kể lại một lượt cho quốc vương nghe.

Quốc vương nghe xong, rất nóng ruột nói: "Vậy, hai vị đạo nhân dùng pháp lực như thế, bá tánh toàn quốc chúng ta làm sao sống đây?"

Đạo nhân trả lời rằng: "Tôi chỉ cho đại vương một cách, xin đại vương hãy đích thân thống lĩnh quan sư, bá tánh toàn quốc, bất luận già trẻ, lớn bé, nhanh chóng đến khu rừng xa xôi ấy, khẩn cầu hai vị đạo nhân vì cuộc sống của dân chúng mà hòa giải. Tu đạo nhân nhất định mở lòng nhân từ, như thế, vấn đề không phải là được giải quyết rồi sao?"

Quốc vương nghe xong, thấy có lý, liền tuyên triệu thiên hạ bất luận là già trẻ quý tiện, phàm là dân trong nước, đều lập tức đến khu rừng của hai vị tu đạo.

Thế gian một màn đêm u tối, quốc vương đích thân thống lĩnh hậu phi, quần thần, bá tánh toàn quốc, tay cầm đuốc lửa, lần lượt kéo đến khu rừng của hai vị đạo nhân. Trên đường đi lội núi trèo non chịu muôn vàn gian khổ, cuối cùng cũng đến nơi.

Quốc vương trông thấy hai vị đạo nhân, liền thống lĩnh thần dân kính cẩn quỳ xuống khấu đầu với họ, rồi nói: "Quốc gia của chúng tôi quanh năm ngũ cốc dồi dào, bá tánh giàu có sung túc, nhân dân an cư lạc nghiệp, quốc thế cường thịnh. Mấy năm nay dựa vào ân trạch của hai vị tiên nhân, bá tánh không ai không ca ngợi, đảnh lễ. Như bây giờ, giữa hai vị tiên nhân phát sinh mâu thuẫn, thực sự là không phải lỗi của chúng tôi, một chút cũng không oán trách bá tánh của tôi, họ không có tội! Tôi hôm nay thống lĩnh thần dân toàn quốc, đến khấu đầu trước hai vị tiên nhân, khẩn thỉnh hai vị hãy dựa vào pháp lực của mình, vì bá tánh mà giải từ đau khổ, lo âu, đem lại an ninh và hạnh phúc cho mọi người!"

Sự thành ý của quốc vương đã làm động lòng hai vị đạo nhân.

Na Lai nói: "Quốc vương thật là một minh quân nhân từ! Đạo hạnh của tôi vốn có lòng từ bi. Xin quốc vương yên tâm, chỉ cần Đề Kỳ La chịu hòa giải, tôi sẽ thu lại pháp lực, để mặt trời mọc trở lại bình thường!"

Đề Kỳ La ngại ngùng nói: "Sự thành khẩn của ngài đã làm ta rất cảm động, nguyện sẽ giải trừ khổ nạn của bá tánh và lo âu của chúng sinh, nhưng câu chú của ta một khi đã phát ra thì không thể thu về. Như thế nào mới có thể khiến cho Na Lai để cho mặt trời mọc trở lại bình thường, mà đầu của ông ấy không bị nứt ra chứ?"

Quốc vương hỏi: "Có thể dùng thứ gì khác để làm vật thay thế câu chú của người đối với đầu của vị tiên nhân kia không?"

Đề Kỳ La nói: " Có thể".

Quốc vương bèn nghĩ ra một chủ ý, nói với Na Lai: "Tiên trưởng, Đề Kỳ La tiên trưởng đã đồng ý hòa giải, chỉ là câu chú đã ra, không thể thu về. Chi bằng ngài hãy dùng đất sét để nặn ra đầu của mình, chịu phép thế cho đầu thật. Như thế, cả hai đều tốt đẹp, mặt trời cũng sẽ mọc lên".

Na Lai trước tiên dùng đất sét, bao lấy đầu mình, sau đó thu pháp lực về, để mặt trời ló dạng. Khi mặt trời vừa lên dến đầu sào, quả nhiên câu chú của Đề Kỳ La có hiệu lực, đất sét phủ trên đầu của Na Lai nứt ra làm bảy mảnh, còn đầu của ông ta không có tổn hại gì cả.

Trông thấy hai vị tiên nhân đã hòa thuận lại như trước, mặt trời đỏ rực lên đến trời cao, vạn dân vui mừng nhảy múa, vội vàng tắt đuốc, tung hộ vạn tuế.

Hai vị đạo nhân cảm niệm lòng nhân ái của quốc vương đối với dân chúng, nguyện rợ giúp quốc vương trị vì quốc gia. Vì vậy, quốc gia này lấy nhân ái làm gốc, người người hành thiện. Ân trạch của quốc vương ban bố khắp nơi trong thiên hạ, thậm chí đến cây cỏ; sứ thần đều thanh liêm, trung nghĩa khiêm nhường, già yêu trẻ, trẻ kính già, dân trong nước đại chấn, quốc thái dân an, quốc thế cường thịnh.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TRÙNG TÁNH ĐẠI NẠN KHÔNG CHẾT
Trong Hiền Ngu Kinh ghi, xưa kia, nước Xá Vệ do thiên thời địa lợi, thêm vào đó quốc vương trị vì nghiêm minh, cho nên ngân khố quốc gia dồi dào, nhân dân giàu có. Trong nước Xá Vệ cũng có nhiều đại phú gia.

Ở một vùng đồng bằng nhỏ bên con sông phía Đông thành Xá Vệ. có một nhà rất giàu có, chủ nhân là một vị trưởng giả có địa vị, tất cả tài sản có được khó lòng đếm hết.

Nhưng, vị trưởng giả giàu có này, có một nỗi đau trong lòng là không có con. Vì vậy, cho dù ông giàu có như thế, cũng luôn lo âu, ăn không ngon, ngủ không yên.

Từ rất lâu, ông đã vì mong muốn có con mà khấn nguyện, vả lại chưa từng xao lãng vì bất cứ lý do gì. Người xưa nói đúng, tâm thành tất linh, đá vàng cũng tan. Cuối cùng, phu nhân của trường giả cũng đã mang thai. Trông thấy phu nhân bụng càng ngày càng to, trong lòng trưởng giả cũng rất đổi vui mừng.

Sau mười tháng, một buổi sáng tinh mơ, phu nhân của trưởng giả sinh được một bé trai tòn trịa, rất đáng yêu. Trưởng giả nghe thấy là một bé trai thì vui mừng khôn xiết.

Sau khi đứa trẻ đầy tháng, trưởng già mời bạn bè thân thiết cùng đến khánh chúc họ và chọn một khu đất bằng phẳng bên bờ sống để mở tiệc. Trưởng giả và phu nhân bế đứa bé đến bên bờ sống để dự tiệc cùng với mọi người. Thân bằng quyến thuộc của vị trưởng giả đều bày tỏ niềm vui mừng, hạnh phúc đối với họ.

Hai vợ chồng trưởng giả rất vui mừng, cùng bồng bế đứa con nhảy múa và ca hát.

Khi mẹ của đứa bé bế con, vừa nhảy vừa hát, đến bên bờ sông, không cẩn thận, chân vấp phải mọt hòn đá, người lảo đảo, đứa bé trên tay không được bế chắc cuối cùng tuột tay, rơi ngay xuống dòng nước đang chảy xiết. Cha đứa bé và các thân bằng quyến thuộc trông thấy sự việc giật mình, vội vã chạy đến bờ sông để cứu, nhưng đứa bé trong nháy mắt đã mất tâm mất dạng.

Mẹ của đứa bé đau lòng nhất, mấy lần muốn nhảy xuống sông. May mắn được mọi người kéo lại, đôi chân của trưởng giả đã mỏi, ngồi bên bờ sông, trong lòng nghĩ cho dù bây giờ có vớt được đứa bé lên thì e là nó cũng không sống nổi, rốt cuộc đứa bé này cũng vừa đầy một tháng tuổi!

Lại nói đến sau khi đứa bé này rơi xuống sông, bị một con sóng lớn cuốn đi, nhưng tiền kiếp của đứa bé tích nhiều phúc đức, vì thế không những không chết chìm, vả lại đến một ngụm nước sống cũng không uống.

Nó theo dòng nước chảy trôi xuống hạ nguồn. Ở hồ hạ nguồn có một con cá lớn, khi đứa bé bị dòng nước cuốn qua, bị con cá to này nuốt chửng, nhờ phúc đức tiền kiếp của nó, nên dù ở trong bụng của con cá, nhưng đứa bé không chết, vẫn sống bình thường.

Ở hạ nguồn con sông này có một thôn trang nhỏ. Trong thôn có một đại phú gia, cũng rất giàu có, nhưng lại không có con nối dõi. Chủ nhân của nhà này cũng rất lo rầu, hàng ngày khẩn nguyện ơn trên ban cho ông một đứa con.

Chủ nhân này có một nô lệ, mỗi ngày hắn cho tên nô lệ đến bờ sông đánh bắt cá. Hôm ấy, nô lệ lại đến bờ sông giăng lưới. Khi hắn kéo lưới lên, lúc này hắn cảm thấy trong lưới hình như có một thứ gì nặng trĩu, bèn dùng hết sức lực kéo tấm lưới lên bờ. Lúc này, hắn nhìn thấy trong lưới có một con cá to, song vẫn dãy dụa chưa chết. Tên nô lệ rất mừng, vì bắt được con cá to này, hắn sẽ được thưởng. Tên nô lệ phải dùng hết sức mới vác nổi con cá lên lưng và vác nó về nhà một cách mệt nhọc. Chủ nhân của hắn quả nhiên rất vui, thưởng cho tên nô lệ một số tiền.

Khi mổ con cá ra, người đầu bếp moi ra từ trong bụng cá một đứa bé còn sống. Chủ nhân vừa kinh sợ vừa vui mừng, ông cho là do mình khẩn nguyện mỗi ngày, nên ơn trên ban cho một đứa bé. Vì vậy, ông lại thưởng thêm tiền cho tên nô lệ.

Vị phú gia này thật tâm cảm tạ thần linh mà mình luôn khẩn nguyện, trong lòng rất phấn khởi. Thế là chuẩn bị bữa tiệc lớn chiêu đãi mọi người trong thôn, khánh chúc mình có con nối dõi.

Không lâu sau, trưởng giả ở thượng nguồn nghe được tin con trai mình bị rơi xuống hạ nguồn và biết được ở hạ nguồn có một phú gia đã moi từ trong bụng cá một đứa bé, vội vã đến nhà phú gia trong thôn đó. Khi ông trông thấy đứa bé mà vị phú gia ấy có được chính là con trai mình bị rơi xuống sông, không khỏi đầm đìa nước mắt, vội vàng khẩn cầu vị phú gia trả lại đứa con cho ông.

"Đứa bé này chính là con ruột của tôi, bị nước cuốn từ thượng du. Hiện nay, nó may mắn ở chỗ của ngài, xin ngài trả con trai lại cho tôi đi".

Nào ngờ, vị phú gia ấy trả lời: "Nhà tôi từ lâu đã khẩn cầu trời Phật được một đứa bé kế thừa gia nghiệp. Thần linh thấy lòng thành của tôi, mới ban cho một đứa con trai, sao ngài có thể nói là con trai của ngài chứ? Huống hồ gì con trai của ngài rơi xuống nước, từ trên thượng nguồn đến hạ nguồn, một quãng đường nước xa như thế, đã bị chết chìm từ sớm".

Trưởng giả ở thượng nguồn vẫn khăng khăng nói là con trai của mình và nhất định phải mang con về cho được; phú gia ở hạ nguồn thì từ đầu đến cuối nói con trai mình là trời ban cho, không thể để người khác tùy ý mang đi. Hai người lời qua tiếng lại, cãi nhau ầm ỉ, không ai chịu nhường nhịn. Cuối cùng bất đắc dĩ, đành phải dến đại điện vương cung, để quốc vương giải quyết chuyện này.

Sau khi hai người gặp quốc vương, mỗi người đều nói cái lý của mình. Trưởng giả ở thượng nguồn nói là vợ mình không cẩn thận đánh rơi đứa con trai xuống sông, rồi phú gia ở hạ nguồn vớt được. Phú gia hạ nguồn thì nói là mình lấy ra từ bụng cá, hoàn toàn là sự ban thưởng của thần linh vì sự khẩn cầu của ông, không phải là con của vị trưởng giả. Hai bên mỗi người đều cố giữ ý kiến của mình, không chịu nhượng bộ.

Sau khi quốc vương nước Xá Vệ nghe xong, cũng không biết ai đúng ai sai, nếu nói là con trai của trưởng giả ở thượng nguồn, thì đứa bé từ trên thượng nguồn bị nước cuốn xuống hạ nguồn, chắc là phải bị ngạt chết; còn nói là con của phú gia hạ nguồn, thì ông được đứa con mà người khác đánh rơi, vả lại cha mẹ đứa trẻ con nhận được. Không biết làm thế nào, quốc vương đành nói: "Những lý lẽ của hai người nói ta đều rõ, nhưng theo tình hình hiện giờ cho thấy, nếu ta xét đứa bé cho một trong hai người thì cũng chưa thông suốt. Thế này đi, hai người các ngươi, hãy tự chọn cho nó một cái tên, cùng nuôi dưỡng nó, đợi đến khi nó lớn, hai ngươi mỗi người cưới cho nó một người vợ, an cư gia nghiệp, để nó ở luân phiên với các ngươi. Sau đó, xem con dâu nhà nào sinh con trước, vậy nó sẽ là con của người ấy, ý hai người như thế nào?"

Hai người đều đồng ý từ biệt quốc vương, rời khỏi vương cung.

Trưởng giả thượng nguồn và phú gia hạ nguồn mỗi người theo ý chỉ của quốc vương đặt tên cho đứa bé. Và thương lượng thời gian thay nhau nuôi dưỡng đứa bé.

Xuân đến đông qua, trong nháy mắt, đứa bé này đã trở thành một chằng trai anh tuấn đến tuổi kết hôn.

Hai bên cha mẹ chàng theo ý chỉ của quốc vương đã chọn cho chàng vị hôn thê từ rất sớm, đến khi chàng khôn lớn, hai bên cha mẹ đều cưới vợ cho chàng. Như thế này, chàng ở thượng nguồn và hạ nguồn đều có một gia đình mới.

Tuy nói chàng có hai gia đình mới, bắt đầu cuộc sống độc lập, vậy mà chàng vẫn được cha mẹ chăm lo cung cấp tài sản như trước đây, không thiếu một thứ gì. Nhưng, cuộc sống này dường như không hứng thú đối với chàng.

Quả nhiên không lâu sau, chàng nói với hai bên cha mẹ ý nguyện muốn xuất gia tu hành. Hai bên cha mẹ rất thương yêu, nuông chiều chàng từ nhỏ, vì thế mà không ngăn cản chàng.

Sau khi chàng trai được sự đồng ý của cha mẹ, bỏ lại hai người vợ, đi đến gặp Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni ở Kỳ Hoàn, thỉnh cầu Phật Tổ cho mình xuất gia làm đệ tử.

Sau khi Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni nghe xong lời thỉnh cầu của chàng, nói với chàng: "Ngươi đến thật đúng lúc". Phật Tổ vừa nói xong, tóc và râu của chàng trai tự nhiên rụng xuống. Đồng thời, y phục trên người cũng lập tức hóa thành cà sa. Tức khắc, chàng thành người xuất gia. Phật Tổ đặt cho chàng một pháp danh Trùng Tánh, vì chàng đồng thời là con trai của hai gia đình.

Sau khi Trùng Tánh xuất gia, Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni lập tức giảng giải Phật pháp cho chàng, Trùng Tánh vừa nghe giảng giải thì liền được khai thông. Do tiền kiếp Trùng Tánh tích nhiều công đức, cho nên sau khi chàng nghe đức Phật giảng kinh xong, nhanh chóng siêu nhiệm, vượt qua tất cả mọi khổ đau, loại bỏ tất cả các tạp niệm, tu đắc A la hán đạo.

Một ngày nọ, Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng cho các đệ tử ở giảng kinh đường một câu chuyện.

Từ rất lâu, có một vị Phật được người đời tôn kính, tên gọi là Tỳ Bà Thi. Môn hạ của ông cũng có nhiều đệ tử. Bình thường ông cũng tiêu diêu thế giới hóa độ chúng nhân.

Có một lần, ông mang đệ tử du ngoạn đến một nước lạ, triệu tập rất nhiều người lại và giảng giải Phật pháp cho họ. Lúc này, có một vị trưởng giả giàu có đến nghe Tỳ Bà Thi giảng giải Phật pháp.

Sau khi vị trưởng giả này nghe đức Phật giảng giải đa hành thí xá, nghiêm cách chay giới, tuân thủ Phật pháp giới luật có thể đem lại cho con người hạnh phúc, có lòng tín phục và cung kính đối với Phật pháp. Sau đó, ông chịu giới luật không sát sanh và quy y Tam Bảo, song còn lấy tiền bố thí cho Tỳ Bà Thi Phật.

Vị trưởng giả này chính là tiền thân của người cha ở thượng nguồn của Trung Tánh, ông ta đời đời có phúc, có tiền, mãi không nghèo khổ. Trưởng giả cũng có một đứa con trai, chính là tiền thân của Trung Tánh, do trưởng giả từng bố thí cho Tỳ Bà Thi Phật, các kiếp sau của Trùng Tánh cũng mãi được sung sướng. Kiếp này Trùng Tánh cũng được sự nuôi dưỡng chăm sóc của hai gia đình giàu có, vả lại rơi xuống nước mà không chết, bị cá nuốt vào bụng cũng không chết, điều này hẳn là do trưởng giả tiếp thu giới luật không sát sanh của Phật pháp.

Chính là vì trưởng giả tiếp thu tam quy ngũ giới, cho nên Trùng Tánh mới có thể nhanh chóng tu thành A la hán.
Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.27 khách