Bồ Tát và La Hán

Truyện sưu tầm và sáng tác - truyện của ngày ấy, mỗi cuộc đời là một trường thiên tiểu thuyết. Kính mời các bạn hãy ghi lại những cảm nghĩ, dòng tư tưởng của mình.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TỲ KHEO THAM NGỦ ĐẮC ĐẠO
Trong Pháp Cú Thí Dụ Kinh ghi, Phật Tổ ở trong Kỳ Viên Tịnh Hội, bình thường khi dạy bảo đệ tử học Phật pháp là phải chăm chỉ, hết lòng, không ngừng nỗ lực, tuyệt không chút lơ là, lười biếng. Phần lớn đệ tử của Phật Tổ đều tuân theo lời căn dặn của ngài, chăm chỉ, chuyên cần tu hành, học tập. Cho nên rất nhiều đệ tử cũng vì thế mà đắc đạo, tu thành La hán, tiêu trừ đau khổ, phiền não và tạp niệm.

Nhưng cũng có vài đồ đệ lại không hoàn toàn tuân theo giáo hội của Phật Tổ. Ví dụ như, có một Tỳ kheo, ông cũng tín ngưỡng Phật pháp, cũng tuân thủ Phật giáo giới luật, nhưng không chịu khắc khổ chăm chỉ, hàng ngày tụng kinh cũng chỉ là cho qua, người khác đang ngồi xếp bằng tu hành, thì ông lại ngủ khò. Sư huynh, sư đệ của ông khuyên ông nhiều lần, ông vẫn không thay đổi, không tiến bộ.

Tật lớn nhất của Tỳ kheo này là mê ngủ, mỗi ngày sau khi ăn cơm no là đánh giấc, khi ngủ còn đóng chặt cửa phòng, một mình ở trong phòng ngủ vùi ngủ dập, hưởng thụ cảm giác thoải mái do giấc ngủ mang lại cho mình, đem tất cả kinh văn phải đọc và việc tu hành gạt qua một bên.

Ngày nọ, Tỳ kheo này sau khi ăn no bữa cơm chay, lại quay về đến tăng phòng của mình để nhập mộng. Lúc này còn ở vào lúc chính ngọ mặt trời trên đỉnh đầu, hắn mà ngủ thì không chịu dậy, tiếng ngáy như sấm dồn trong phòng mãi đến ngày hôm sau.

Ngày hôm sau, buổi sáng là giờ giảng kinh thường lệ của Phật Tổ. Tất cả các đệ tử đều đến, duy chỉ thiếu tên Tỳ kheo mê ngủ ngày. Phật Tổ bèn hỏi các đệ tử: "Vị đệ tử mê ngủ ấy tại sao không đến?"

Một đệ tử vội vàng đứng dậy trả lời: "Hắn ngủ từ trưa hôm qua, đến bây giờ vẫn chưa chịu dậy, chúng con gọi mãi nhưng cũng không chịu dậy".

Phật Tổ đột nhiên nhớ ra, vị Tỳ kheo mê ngủ này kể từ hôm nay tính ra thì tuổi thọ chỉ còn có bảy ngày, nếu để hắn cứ ngủ say như chết thế này, hắn sẽ không đạt được trọn vẹn. Phật Tổ thấy tội nghiệp cho hắn, cho nên trước tiên để cho chúng đệ tử đọc kinh văn, còn mình thì cùng A Nan vội vàng đến tăng xá.

Phật Tổ và A Nan chưa đến tăng phòng của tên Tỳ kheo ấy, từ xa đã nghe thấy tiếng ngáy dồn dập như sấm vang rồi.

Sau khi đẩy cửa phòng vào, âm thanh càng lớn. Tỳ kheo ấy nằm gọn trên giường ngủ thật ngon. A Nan gọi vài tiếng, nhưng Tỳ kheo không có phản ứng gì, vẫn cứ ngủ. Cuối cùng, Phật Tổ đi đến trước giường, dùng ngón tay chỉ nhẹ vào người Tỳ kheo. Tên Tỳ kheo đang ngủ ngon lành này ngay lập tức tỉnh dậy.

Tỳ kheo tỉnh dậy trông thấy Phật Tổ đang đứng trước mặt, nhìn mình với ánh mắt từ ái, bèn vội vàng hành lễ với Phật Tổ và A Nan.

"Thưa Phật Tổ tôn kính, xin tha tội vô lễ của đệ tử".

Phật Tổ nói với Tỳ kheo rằng: "Tuổi thọ của ngươi chỉ còn có bảy ngày, ta không nhẫn tâm thấy chết đi trong giấc ngủ, mà không đắc thành chính quả, cho nên đặc ý đến gọi ngươi tỉnh dậy".

Tên Tỳ kheo ấy giật mình, hắn vốn không nghĩ rằng sức khỏe mình tốt như thế mà chỉ còn sống có bảy ngày. Hắn vừa kinh vừa sợ, không biết làm sao.

Lúc này, Phật Tổ an ủi hắn rằng: "Đây là tiền định trong số mạng của ngươi. Tiền thân của ngươi trước đây đã từng cúng dường thức ăn cho đức Phật, cho nên về tiền thân của ngươi xuất gia làm Tỳ kheo. Tiền thân này của ngươi sau khi xuất gia vẫn vậy, chỉ biết ăn ăn uống uống để bảo dưỡng cơ thể, ngược lại chưa từng tụng kinh, niệm Phật, không tuân thủ giới luật Phật pháp. Mỗi ngày sau khi ăn uống no nê, gối đầu lên ngủ, làm lỡ dỡ việc tu hành của mình, cuối cùng đã hại đến bản thân. Không lâu sau, tiền thân của ngươi cũng đến lúc thọ tận mạng vong, do không tích được phúc đức nào, cho nên linh hồn của ngươi đầu thai thành một con mọt trong bồ thóc. Và như thế, tiền thân của ngươi làm thân phận con mọt đủ năm vạn năm. Cuối cùng, tiền thân của ngươi lại đầu thai thành một con sâu trong gốc cây và như thế thiền thân của ngươi làm con sâu ấy trong năm vạn năm.

Nói đến đây, Phật Tổ ngừng lại, nhìn tên Tỳ kheo đang chăm chú lắng nghe, A Nan ở bên cạnh cũng thế. Rồi Phật Tổ nói tiếp: "Những gì ta vừa nói, tất cả những con mọt, con ốc, con trai, con sâu mà tiền thân của ngươi đầu thai thành, chúng đều thích sống ở nơi tối tăm không có ánh sáng, sống ở đấy, chết cũng ở đấy. Bốn con vật ấy đều có một điểm giống nhau, chính là tham sống và sợ chết, đặc biệt là thích sống ở nơi tối tăm tĩnh mịch, ghét ánh sáng ngay từ khi mới sanh ra. Còn về cách sống thì càng giống nhau hơn, là bốn con vật đều thích ngủ, một khi đã ngủ thì giấc ngủ của chúng thường kéo dài hơn một trăm năm. Chúng chỉ biết ngủ mà không chịu cầu tiến".

Phật Tổ ngưng lại một hồi, rồi chuyển sang nói với vị Tỳ kheo này bằng giọng nhẹ nhàng: "Sau khi trải qua hai mươi vạn năm, tiền thân của ngươi và tội nghiệp của ngươi xuất gia không lo tu hành chỉ lo ngủ ấy mới được gột rửa sạch. Cho nên, kiếp này của ngươi mới có thể đầu thai thành người, và xuất gia làm Tỳ kheo. Nhưng, ngươi đã làm Tỳ kheo thì nên chăm chỉ tu hành khắc khổ, chăm chỉ nghiên cứu mới dúng. Không ngờ, ngươi lại giống như tiền thân của hai mươi vạn năm trước tham ăn tham ngủ, tại sao ngươi cứ ngủ không đủ vậy? Ngươi phải nhớ kỹ hai mươi vạn nam trước kết quả tiền thân của ngươi".

Phật Tổ giảng xong những lời này, im lặng. Vì ngài biết trống vang không nên đánh mạnh, hơn nữa, tên Tỳ kheo này tuy là tham ngủ, nhưng tính giác ngộ của hắn rất cao.

Quả nhiên, một lúc sau, tên Tỳ kheo ngại ngùng đỏ mặt, thể hiện sự hối hận ăn năn với Phật Tổ và còn khiển trách mình rất nặng. Ngay chính lúc mà hắn tự trách mình, tất cả những tạp niệm của hắn đều theo đó mà tan biến hết, ngay lập tức, hắn dắc La hán quả.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CÂU CHUYỆN TỲ KHEO GIẾT MẸ ĐẮC ĐẠO
Trong Tâm Bổn Tịnh Kinh có nói: Xưa kia có một người, cha của hắn mất khi hắn còn nhỏ. Cho nên hai mẹ con hắn nương tựa vào nhau mà sống. Một ngày nọ, hắn và mẹ hắn vì một chuyện nhỏ mà tranh cấp với nhau. Tên này nhất thời nóng nảy, đã đẩy mẹ một tay, mẹ hắn ngã lăn ra sau, đầu va vào đá bị chảy máu rất nhiều, không bao lâu thì chết.

Sau khi người này phát hiện mẹ mình đã chết, rất đau khổ, hối hận, hắn một mình chạy ra khỏi nhà, đến một gốc cây ngoài vườn khóc lớn, trong miệng gọi to: "Thế này thì mình phải làm sao đây? Thế này thì mình phải làm sao đây?", hắn vô cùng hối hận vì đã lỡ tay hại chết mẹ ruột của mình, hắn trách mình đã không giữ tròn chữ hiếu mà đã làm nên tội tày trời.

Hắn kêu khóc dưới gốc cây: "Mình thật là đáng chết, hại chết mẹ ruột của mình, thật sự đã phạm tội tày trời, thật dáng sa vào địa ngục!"

Và như thế, hắn ngồi dưới gốc cây kêu khóc mãi.

Lúc này, Bạt Thủ Bồ tát đang đi ngang qua đó, ngài trông thấy tên này còn biết hối hận ăn năn, và lại còn nhận thức được tội nghiệp của mình. Cho nên, Bạt Thủ Bồ tát dùng thần thông biến thành ba người đi đường, đó là một đôi vợ chồng già và một đứa con trai, đến con đường cách người đang khóc không xa.

Ba người này đi trên đường cãi nhau, ở một nơi cách người đang khóc không xa, ba người nọ dừng chân lại, cãi nhau lớn tiếng.

Người cha nói với con trai mình rằng: "Con đường này mới là chính lộ, nếu đi theo cách của ngươi, chúng ta đi đến mai cũng chưa đến nhà!"

Người mẹ hiển nhiên cũng đồng ý với ý kiến của cha, hắn nhảy dựng lên nói: "Đường này mới là chính lộ, dường cha nói là sai, nếu theo lời cha mà đi thì chúng ta đi đến năm sau cũng không về đến nhà!"

Và như thế hai cha con mỗi người một câu cãi nhau lớn tiếng, càng cãi càng dữ tợn. Đứa con trai do Bạt Thủ Bồ tát biến thành phẩn nộ lên, hắn rút con dao găm ở thắt lưng ra, đâm chết cha mình, sau đó cũng giết luôn người mẹ. Sau khi hắn giết chết cha và mẹ mình, hắn lại hối hận, kêu khóc lên rất đau khổ không ngừng.

Tất cả cảnh tượng này đều được người hại chết mẹ đang kêu khóc dưới gốc cây trông thấy, hắn rất kinh ngạc.

Sau đó, đứa con trai mà Bạt Thủ Bồ tát biến thành đột nhiên đến trước mặt hắn và vội nói với hắn rằng: "Tôi nhất thời nóng nảy, giết chết cha mẹ mình, gây tội nghiệp tày trời, sau khi chết nhất định phải sa vào địa ngục. Bây giờ tôi phải làm sao đây, xin người hãy nghĩ giúp tôi một cách được không?"

Người này nín khóc, trong lòng nghĩ: "Người này vừa giết chết cha mẹ mình, mà mình chỉ giết mẹ thôi, như thế này, tội nghiệp mà mình gây ra còn nhẹ hơn cả tội nghiệp của hắn, nhưng hắn chẳng qua cũng chỉ là sa địa ngục, vậy thì mình cũng giống vậy thôi", hắn nghĩ như thế chứ ngược lại chẳng nói lời nào.

Người con trai do Bạt Thủ Bồ tát biến thành thấy tên này bỏ mặc hắn, lại kêu khóc rất bi thương, sau đó lẩm bẩm: "Ôi! Hết cách rồi, ta đành phải đi tìm Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni nhân từ. Nghe nói Phật Tổ đặc biệt nhân từ khoan dung, tất cả mọi người đi thỉnh cầu ngài đều được giúp đỡ. Cho dù là người phạm tội tày trời, không thể tha thứ cũng có thể được Phật Tổ giúp đỡ. Người có tâm hồn đang hốt hoảng, Phật Tổ cũng có thể tìm cách để tiêu trừ sự hốt hoảng cho họ, vả lại còn có thể khiến họ được an ủi. Nếu đến chỗ Phật Tổ, có thể được ngài cứu hộ, vậy thì quá tốt rồi".

Sau khi nói xong những lời này, hắn lại khóc rống lên, vừa khóc vừa đi về phía trước. Mà tên hại chết mẹ ấy nghe xong lời này, cũng cảm thấy rất thích gặp Phật Tổ, hắn nghĩ đến chỗ Phật Tổ không chừng có thể tìm được phương pháp giải thoát tội nghiệp. Vì vậy, hắn cũng theo gót tên giết chết cha mẹ, đi rề rà không gấp gáp. Hắn vừa đi vừa nghĩ: "Nếu như sau khi hắn đến chỗ Phật Tổ hối tội mà có thể giải thoát được tội nghiệp, vậy thì, tội nghiệp của mình bất luận như thế nào thì cũng còn nhẹ hơn hắn".

Không bao lâu sau, hai người nọ kẻ trước người sau đi đến trước mặt Phật Tổ ở Kỳ Hoàn. Đứa con trai giết chết song thân, quỳ xuống đất khấu đầu hành lễ với Phật Tổ. Sau đó hắn nói với Phật Tổ: "Thưa Phật Tổ tôn kính, vừa rồi con đã phạm một tội nặng nề, con vì tìm đường để về nhà mà đã cãi lời cha mẹ, trong lúc đó con nhất thời nóng nảy, giết chết cha mẹ của mình, con đã phạm phải tội đại nghịch bất hiếu như thế này, giết chết cha mẹ, trong lòng rất hối hận, nhưng lại không tìm ra cách để giải thoát tội nghiệp, cho nên mới tìm đến ngài, xin ngài giúp đỡ".

Sau khi Phật Tổ nghe xong lời này, bèn nói: "Thiện tai! Được thôi, được thôi! Con người của ngươi rất thành thật, không có lời dối gạt người, nhưng lời ngươi nói đều đúng với những gì ngươi làm, nếu đã thành thật như thế này, vả lại có thể nhận thức được tội nghiệp của mình đã phạm, vậy là rất tốt".

Tiếp theo, Phật Tổ lại nói với người này rằng: "Thái độ thành khẩn thật thà của ngươi, không nói dối, những gì ngươi làm và những gì ngươi nói đều không mâu thuẫn. Cho nên, hiện giờ ngươi nên hiểu được tâm trạng của mình, nên nghĩ lại cho kỹ, mình giết chết cha mẹ trong tâm trạng như thế nào. Tâm trạng ấy có trong quá khứ thì đã là quá khứ, tâm trạng hiện tại cũng sẽ trở thành quá khứ, tâm trạng như thế này không đâu có thể tìm, cũng không biết cuối cùng mất đi ở nơi nào. Nếu là tâm trạng trong tương lai, thì tâm trạng này vẫn chưa đến, không nhìn thấy, không sờ được, cũng không biết hiện giờ ở nơi nào?"

Phật Tổ lại nói với người giết chết song thân rằng: "Ngươi nên biết, tâm trạng tuyệt không phải ở trong cơ thể của mỗi người, nhưng cũng không phải do môi trường bên ngoài sinh ra, mà nó phụ thuộc vào cả hai yếu tố đó. Điều này ngươi phải đặc biệt hiểu rõ".

Người con trai do Bạt Thủ Bồ tát biến thành sau khi nghe xong lời của Phật Tổ nói, than rằng: "Con trước giờ chưa từng nghe thấy ai nói đạo lý tinh thâm, kỳ diệu như thế này, thưa Phật Tổ tôn kính, người thật là một thánh nhân đại trí đại đức. Ngài biết rõ sự kỳ diệu của Phật pháp như thế nào, không ai có thể vượt qua ngài".

Cuối cùng, hắn thỉnh cầu Phật Tổ: "Con là một người phạm phải tội ác tày trời, con giết chết cha mẹ của mình, cho nên hiện giờ không có chỗ nương tựa, đơn độc không có ai giúp đỡ, vì vậy con thỉnh cầu lòng từ bi của Phật Tổ ngài thu nhận con làm đệ tử, để con quy y Phật pháp, con hứa sẽ tiếp thu giới luật của Phật pháp, thỉnh cầu Phật Tổ thu nhận con".

Phật Tổ đồng ý với lời thỉnh cầu của hắn và ra hiệu cho hắn lại gần. Sau đó, Phật Tổ nói với hắn: "Ngươi đến thật dúng lúc". Phật Tổ vừa nói xong, thì tóc trên đầu của người con trai do Bạt Thủ Bồ tát biến thành và râu trên mặt đều tự nhiên mà rụng hết, y phục còn vướng máu cũng không cánh mà bay. Thay vào đó là một chiếc áo cà sa mới. Đợi sau khi hắn hoàn tỉnh, Phật Tổ mới giảng cho hắn những Phật pháp làm thế nào để giải trừ đau khổ. Sa môn mới này nghe xong thì rất vui mừng.

Một lúc sau, Sa môn mới xuất gia này nói với Phật Tổ: "Thưa Phật Tổ tôn kính, sau khi nghe xong lời giảng của ngài, con đã thông hiểu, bây giờ con đã có được thần thông, vì vậy, con muốn nhập Niết bàn, triệt để tiêu trừ căn bản của sự đau khổ xác thịt này".

Phật Tổ rất vui mừng, ngài liền dùng pháp lực để cho Sa môn mới này thăng lên trên không trung cách mặt đất bốn trượng chín thước. Sau đó, Sa môn mới này nhập Niết bàn. Sau khi nhập Niết bàn, thân thể của ông ta đột nhiên bùng lửa, ngọn lửa bừng bừng này đốt cháy thể xác ông ta. Không bao lâu, ngọn lửa tắt ngụt, trên không trung chỉ còn lại một ít xá lợi.

Tất cả những hình ảnh này đều được tên hại chết mẹ mình ở đàng sau trông thấy cả, đương nhiên hắn không biết được đây là màn diễn song đôi của Bạt Thủ Bồ tát và Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Hắn trông thấy tên giết chết song thân cũng có thể làm Sa môn, ngay lập tức còn có thể nhập Niết bàn, siêu thoát khỏi cảnh khổ nơi địa ngục và sinh tử luân hồi, nên quyết định làm theo tên giết chết song thân ấy, cầu mong được sự cứu giúp của Phật Tổ.

Chủ ý đã định, hắn vội vã đi đến trước mặt Phật Tổ, quỳ dưới chân khấu đầu hành lễ với người. Sau đó, hắn ngẩng đầu lên trông về phía Phật Tổ ngập ngưng nói: "Thưa Phật Tổ tôn kính, bất luận như thế nào xin ngài cũng cứu con. Con cũng phạm phải đại tội bất hiếu. Trong nhà con có một chút chuyện nhỏ cãi nhau với mẹ, trong lúc nóng nảy, đã lỡ tay đẩy mẹ, nào ngờ khi mẹ con ngã xuống, chẳng may va phải tảng đá, nhưng không thể cứu kịp. Con biết đây là tội không thể dung tha, nhưng con đích thực không biết nêm làm như thế nào, xin Phật Tổ cứu giúp con".

Sau khi Phật Tổ nghe xong lời hắn, rất mừng, cảm thấy hắn không nói dối, dám nhận tội, lại biết sai là điều rất khó có được, cho nên Phật Tổ nói rằng: "Rất tốt, rất tốt, tuy ngươi phạm phải tội bất hiếu hại chết mẹ ruột, nhưng ngươi rất thành thật, không có chút giả dối để che dấu chân tướng thực sự, hành động và lời nói của ngươi đều thống nhất, thế là rất tốt".

Phật Tổ vừa nói xong mấy lời này, trên người tên hại mẹ bỗng chốc nổi lửa. Đây chính là lửa địa ngục đốt từ lỗ chân lông đốt ra, phàm là người phạm phải tội nặng như sát sinh đều sẽ chịu trừng phạt này.

Ngọn lửa này đốt rất dữ tợn, khiến cho toàn bộ cơ thể tên này đều đau rất khó chịu, dù dập như thế nào cũng không thể tắt. Cuối cùng hắn chịu không nổi, liền khẩn cầu Phật Tổ:

"Thưa Phật Tổ tôn kính, hiện nay con đã không chịu nổi nữa rồi, xin người hãy cứu giúp con, mau cứu lấy con đi".

Phật Tổ biết đây là báo ứng tiền định trong số mạng của hắn, cho nên, khi mới bắt đầu nổi lửa, Phật Tổ tuyệt không để ý đến, bây giờ hắn đã bắt đầu kêu cứu rồi. Vậy thì hãy giúp đỡ hắn, Phật Tổ vừa nghĩ vừa đưa cánh tay sắc vàng của mình ra, đặt lên đầu của hắn. Trong nháy mắt, ngọn lửa trên người hắn đã tắt, vì hắn đã nhận được ân huệ của Phật Tổ. Tất cả những chỗ đốt bị thương lành lại và sự đau rát trên người cũng đều không còn nữa, từ đó hắn mới được yên. Lúc này, hắn mới hoàn toàn nhận thức được uy lực vô biên của Phật pháp, cũng càng tin phục Phật pháp.

Thế là hắn lại khấu đầu hành lễ với Phật Tổ, sau đó cầu Phật Tổ: "Thưa Phật Tổ tôn kính, con cũng muốn xuất gia làm một Sa môn, từ bây giờ quy y Phật pháp".

Phật Tổ đồng ý thỉnh cầu của hắn, ngay lập tức cử hành nghi thức thụ giới. Sau khi thụ giới, Phật Tổ đặc biệt giảng thuyết Tứ đế pháp cho hắn, giúp hắn hiểu được tất cả mọi thứ trong thế giới trần tục đều là đau khổ và nguyên nhân sinh ra những đau khổ này. Thông qua sự giảng giải của Phật Tổ, hắn cũng hiểu được mục đích đấc đạo khi tu hành Phật pháp cùng với các phương pháp và phương thức tu hành.

Sau khi người này hiểu được những giáo lý này, liền giải thoát được những phiền não và đau khổ, hoàn toàn vượt qua tất cả mọi khổ đau của thế tục. Học được phương pháp nghiên cứu Phật pháp thâm sâu. Hắn cần cù học tập, chăm chỉ tu luyện, cuối cùng tu thành Kim thân A la hán.

Sau khi dắc thành A la hán, người này càng có nhận thức sâu sắc về Phật pháp. Trên cơ sở đó, anh ta lại càng có sự theo đuổi sâu hơn.

Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni có lời khen ngợi đối với sự tiến bộ thần tốc của anh ta, thường lấy anh ta làm gương để giáo huấn những đệ tử nhập môn sau, đôi khi thậm chí Phật Tổ còn bảo anh ta đi giảng pháp cho các đệ tử sau và trao đổi về phương pháp tu hành và nhận thức về phương diện tu hành. Phật Tổ rất tín nhiệm anh ta, thường để một số vấn đề quan trọng cho anh ta xử lý.

Một ngày nọ, Sa môn đắc đạo này vừa sáng sớm đã đến tăng phòng của Phật Tổ. Sau khi hành lễ, anh ta liền nói với Phật Tổ: "Thưa Phật Tổ tôn kính, con từng là một người mắc phải trọng tội, đều nhờ vào sự giáo huấn và chỉ bảo của ngài, con mới có kết quả tốt như ngày hôm nay, đối với ân điển của ngài, con mãi không thể nào quên được..."

Phật Tổ biết anh ta nhất định sẽ nói điều gì đó rất quan trọng, cho nên mỉm cười nhìn anh ta, lắng nghe và đợi chờ điều anh ta sắp nói ra.

Quả nhiên không ngoại dự tính của Phật Tổ, tên Tỳ kheo đắc đạo này thật sự muốn nó một điều rất quan trọng.

"Thông qua sự dạy bảo và khuyên răn của Phật Tổ, con đã tu thành A la hán, tháo bỏ hết tất cả phiền não và đau khổ trên trần thế. Nhưng con vẫn cảm thấy chưa đủ, đó chính là tội ác của con đã phạm trong quá khứ. Nên hôm nay, con dặc biệt đưa ra thỉnh cầu với ngài, con muốn nhập Niết bàn, triệt tiêu đi tất cả mọi thứ khổ lụy của xác thịt, triệt để thoát ly bể khổ luân hồi, không biết Phật Tổ tôn kính nghĩ thế nào?"

Sa môn đắc đạo này nói xong, ngẩng đầu nhìn Phật Tổ. Phật Tổ trầm ngâm một hồi, ngài có đôi chút không nỡ bỏ tên đệ tử thông minh thành thực này. Nhưng, Phật Tổ lại nghĩ: "Tên đệ tử này đã có sự truy cầu cao như thế này, vả lại trông bộ dạng có vẻ như là rất quả quyết, vậy thì cứ thuận theo hắn đi, không nên phá vỡ ý nguyện với hắn".

Thế là Phật Tổ nói: "Nói thật ra, ta không nỡ để cho con nhập Niết bàn, vẫn muốn để con thay ta làm nhiều việc. Nhưng, con thỉnh cầu nhập Niết bàn cũng là một chuyện lớn tốt. Ta không thể nào cản trở, con hãy tự quyết định, ta rất yên tâm về con".

Vị Sa môn này vừa nghe thấy Phật Tổ cũng đồng ý với thỉnh cầu của mình, trong lòng cũng rất vui, trịnh trọng khấu đầu hành lễ với Phật Tổ. Sau đó, anh ta từ biệt Phật Tổ về tăng phòng của mình, tắm rửa sạch sẽ, sau đó thay một bộ cà sa mới.

Sa môn đắc đạo này ra vườn, vươn người nhảy lên không trung cách mặt đất bốn trượng chín thước, quần áo ngay ngắn, ngồi nghiêm chỉnh, chắp tay trước ngực, hai mắt nhắm nghiền. Không bao lâu, thể xác Sa môn nổi lửa, ngọn lửa thiêu đốt thân thể và Sa môn đã bị thiêu hóa.

Khi Sa môn đắc đạo và nhập Niết bàn, có ngàn vạn thiên thần ở trên không trung trông thấy và rải hoa chúc tụng.

Sau khi Sa môn nhập Niết bàn, Xá Lợi Phất nói với Phật Tổ: "Thưa Phật Tổ tôn kính, ân đức của ngài thật vô lượng, thậm chí có thể để một người phạm trọng tội được độ hóa, thật là không biết nói sao cho xiết. Theo con thấy, trên thế gian này chỉ có Phật và những vị Bồ tát ấy mới có thể hiểu rõ về tình cảnh của chúng sanh một cách thấu đáo, sau đó căn cứ vào từng tình huống cụ thể để thực thi hóa độ. Cảnh giới này không phải là người xuất gia nào cũng có".

Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni nghe xong lời của Xá Lợi Phất, không nói nhiều, chỉ gật đầu nói một lời: "Là thế".
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ÔNG LÃO QUY Y PHẬT PHÁP
Trong Bần Cùng Lão Công Kinh: Xưa kia ở nước Xá Vệ có một cụ già rất nghèo khổ. Mặc dù nghèo khổ, nhưng ông sống rất thọ, đã hơn hai trăm tuổi. Thường ngày ông kể cho moi người nghe chuyện của hơn một trăm năm về trước, rất nhiều người thích nghe, vì rốt cuộc cũng không có mấy người sống đến độ tuổi của ông.

Cụ già này không những khác người ở chỗ sống thọ mà diện mạo bên ngoài cũng rất đặc biệt. Đôi mày của cụ già dài và rất đẹp, đoan chính, đôi mắt to dưới cặp chân mày long lanh và rất có thần. Đôi tai cụ rất dài, nhất là trái tai rất to, hầu như trĩu xuống hai vai. Tuy tuổi tác cụ cao, nhưng không như những cụ già khác hầu như không còn cái răng nào, mà có một hàm răng vững chắc, nếu như cụ đứng thẳng người lên một cách thoải mái, đôi tay sẽ xuôi dài đến gối.

Nếu chỉ nhìn bề ngoài cụ già hơn hai trăm tuổi này, thì sẽ nói cụ là người có phúc tướng, song lại là phúc tướng rất khó có được. Nhưng, tướng mạo không giống như vận mệnh của một con người, thậm chí còn trái ngược. Cụ già này cũng vậy, tuy là cụ có tướng mạo phúc phần, nhưng ngược lại cuộc sống rất nghèo khó gian nan. Chiếc áo cụ mặc rách mướp, hầu như che không hết thân thể, bụng thì thường nhịn đói, đôi khi, đói đến không đi nổi, đành phải nằm bên đường như người chết.

Do cụ có một cuộc sống gian khổ, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, nên cụ cảm thấy rất đau khổ. Vả lại sự đau khổ như thế này, lại rất ít người giúp cụ giải thoát. Trước đây cụ từng nghe nói Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni đặc biệt rất nhân từ, thường giúp đỡ người khác thoát khỏi khổ lụy, tiêu trừ phiền não. Cụ từ lâu đã nghĩ đến việc đi tìm Phật Tổ, nhưng mãi không tìm được cơ hội thích hợp. Lần này, cụ cảm thấy tuổi tác cũng đã quá cao, không biết sống được bao lâu nữa, nếu không đi gặp Phật Tổ, e rằng sau này cũng không còn có cơ hội nữa. Cho nên, cụ quyết định đi gặp Phật Tổ.

Khi cụ đến trước cổng Kỳ Hoàn, đang chuẩn bị bước chân vào cửa, hai vị Tỳ kheo trông cửa thấy y phục của cụ rách nát, khuôn mặt hốc hác gầy gò, lại không giống như tăng thân ở phương xa đến, hay cư sĩ tại gia, thế là họ chận lại trước cửa, không để cho cụ bước vào. Tuy trong lòng cụ già này không vui, nhưng rốt cuộc chốn này cũng là Phật môn tinh địa, vả lại Phật Tổ cũng đang ở bên trong, cho nên cụ không dám ỷ mình là tuổi cao mà ngang nhiên xông vào. Vì vậy cụ nói với hai vị Tỳ kheo trông cửa rằng: "Nhờ hai vị sư phụ, phiền hai vị đi bẩm với Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, có một cụ già bần cùng muốn gặp ngài".

Nhưng, hai tên Tỳ kheo trong cửa đã bỏ ngoài tai mọi lời khẩn cầu tha thiết của cụ già.

Lúc này cụ già thực sự nổi giận, cụ gọi to lên: "Ta biết, các ngươi không chịu để ta vào, vì hiềm ta nghèo khổ, ghét ta bẩn thỉu, chê ta ăn mặc rách nát. Nhưng ta nói cho hai tên tiểu tử các ngươi biết, tuy ta rất nghèo, rất hạ tiện, bị mọi người coi khinh, nhưng ta vẫn là tam sinh hữu hạnh, có thể gặp được Phật Tổ tại thế, chẳng lẽ ta muốn hỏi Phật Tổ rằng ta mắc phải tội gì, có phúc đức gì, cầu ngài thương hại để ta thoát ly khổ nạn cũng không được sao? Ta nghe nói Phật Tổ rất nhân từ và lòng từ bi của người đã ban phát khắp thế gian, đến cả mọi người trong Xá Vệ thành, ai ai cũng nhận được lòng thương yêu từ người. Tại sao hai người các ngươi cứ cản trở một mình ta, khiến ta không nhận được lòng nhân từ của Phật Tổ vậy chứ? Ta nghĩ, cách làm này của các ngươi đã vi phạm ý nguyện phổ độ chúng sanh của Phật Tổ!"

Hai tên Tỳ kheo trông cửa ấy, vốn không nghĩ rằng cụ già này lại nói ra những lời tổn hại đến sĩ diện mình như thế, trong lòng không những không phục, mà còn nói trả lại với cụ. Cứ như thế ba người mỗi kẻ một câu cãi nhau lớn tiếng, đến nỗi như một đống hồ đồ, không thế nào chỉnh đốn được.

Phật Tổ đang giảng Phật pháp cho các đệ tử ở giảng kinh đường, đang giảng đến chỗ cao hứng, đột nhiên nghe thấy tiếng cãi nhau ồn ào ở bên ngoài cửa vọng vào. Phật Tổ nghe thấp thoáng có người nhắc đến tên của mình, bèn để một đệ tử ra ngoài xem rốt cuộc là có chuyện gì.

Không lâu sau, tên đệ tử ấy quay vào nói cho Phật Tổ nghe những gì hắn hiểu được, Phật Tổ vừa nghe xong, ngay lập tức để cho tên đệ tử ấy đi nói với hai Tỳ kheo trông cửa mời cụ già vào.

Một lúc sau, tên đệ tử đưa cụ già vào giảng kinh đường. Cụ già trông thấy trong giảng kinh đường đầy ắp các Tỳ kheo, trong lòng rất căng thẳng, nhất cử nhất động cũng hiện rõ sự bối rối không yên, đôi mắt không biết nên nhìn về hướng nào, tay cũng không biết nên đặt ở đâu.

Ngay khi cụ già ấy tay chân bối rối không biết phải làm thế nào, thì Phật Tổ mỉm cười mời cụ đến trước mặt mình.

- Thưa cụ, xin cụ thứ lỗi để đệ tử của tôi đắc tội với cụ. Xin cụ chớ căng thẳng, hãy đến gần tôi đi.

Cụ già vừa nghe lời của Phật Tổ ngay lập tức quỳ mọp xuống trước Phật Tổ, liên tục khấu đầu trước Phật Tổ. Trông thấy Phật Tổ, cụ già vừa vui vừa buồn, vui vì cuối cùng cũng gặp được Phật Tổ, tận mắt thấy phong thái của người; buồn vì cả đời mình chịu khổ chịu lụy, nhịn không được nên nước mắt dàn dụa.

Cụ già vừa lau nước mắt, vừa nói với Phật Tổ:

- Thưa Phật Tổ tôn kính, tuy tôi có một dáng vẻ tốt đẹp, nhưng ngược lại cực khổ cả đời, tôi đã sống hơn hai trăm năm, cũng chịu hơn hai trăm năm khổ lụy. Tôi luôn nghĩ đến đây tìm ngài, nhưng mãi không có cơ hội thích hợp. Cả mười năm, hôm nay cuối cùng cũng gặp được ngài.

Nói đến đây, cụ già không nhịn nổi khóc òa lên. Một lúc sau, cụ lại nói với Phật Tổ:

- Từ rất lâu tôi đã muốn quy y Phật pháp, trì giới tu hành. Nhưng tuổi tác tôi quá lớn, lỡ như chết gục ở nơi này lại làm ô uế Phật môn thanh tịnh, càng thêm tội lỗi cho tôi. Hiện giờ tôi tuổi cao sức yếu, tiến thoái lưỡng nan. Nếu cứ tiếp tục sống, tôi lại chịu đủ cơ hàn, nay tôi không muốn sống như thế này nữa, mà đi xuất gia cũng không được. Tôi chỉ mong Phật Tổ có thể sớm giúp tôi chết đi, dù gì thì tôi sống cũng đã đủ rồi, nếu Phật Tổ thương tôi có thể giúp tôi thực hiện được nguyện vọng này, tôi chết không hối tiếc.

Nói rồi, liên tiếp khấu đầu.

Sau khi nghe xong lời của cụ già, Phật Tổ nói với cụ một cách rất cảm động:

- Sở dĩ một người đầu thai làm người đều là duyên phận. Tốt, xấu trong vận mệnh của một người cũng đều là duyên phận và cũng do những việc làm của mình trong tiền kiếp quyết định. Kiếp này của cụ chịu khổ như thế cũng là sự quyết định trong tiền kiếp của cụ. Bây giờ ta nói cho cụ nghe về tiền thân của mình.

Sau đó, Phật Tổ nói với cụ già bằng một giọng từ tốn:

- Tiền thân của cụ sinh ra trong một gia đình đế vương quốc thế cường thịnh, sau khi cụ sinh ra không bao lâu thì được sách lập làm thái tử. Lúc bây giờ, cụ tiêu pha xa xỉ vô độ, có thể nói là không có trời đất, pháp luật gì cả. Phụ vượng và mẫu hậu của cụ cũng rất nuông chìu cụ, nâng niu cụ như là một báu vật vậy, càng khiến cụ đắc chí, xa xỉ, dâm ô. Vì vậy, cụ càng coi thường tất cả thần dân và còn lăng mạ họ.

Cụ có tài sản bạt ngàn, nhưng số tài sản này đều là bốc lột từ thần dân mà ra. Mà lúc bấy giờ dân chúng của cụ phần lớn đều bị sự hoành hành bá đạo của cụ làm cho khốn khổ cùng cực, có người thậm chí tán gia bại sản mất cả mạng. Mặc dù như thế, nhưng cụ vẫn hạch sách dân chúng, lúc ấy cụ còn có một tật rất xấu, là chỉ biết bốc lột mà không biết bố thí, dân chúng bàn cùng và những tăng nhân khốn khổ trong nước, chưa từng được sự cũng dường nhỏ nhoi của cụ. Còn những tăng lữ từ phương xa đến càng không được sự cúng dường của cụ.

Phật Tổ nói đến đây, lại kể thêm:

- Tất cả những điều ta biết được này, tuyệt không phải tùy ý ta bịa ra, bây giờ ta sẽ kể về một chuyện xảy ra trong tiền thân của cụ.

Nói xong, Phật Tổ nhìn cụ già và thấy cụ ấy đã ngưng lau nước mắt tự khi nào, đang tập trung tinh thần để nghe lời mình.

Tiếp theo, Phật Tổ lại nói với cụ già, kỳ thực cũng là nói cho các đệ tử tại chỗ nghe:

- Chính ngay lúc đó có một vị Tỳ kheo khốn cùng, tên gọi là Tịnh Chí. Tỳ kheo ấy đến từ một nơi xa xôi lội suối trèo non đến nơi này. Do đường xá xa xôi, nên Tỳ kheo ấy tinh thần mệt mỏi, y phục rách nát. Sau khi Tịnh Chí vào thành, bèn đi đến Đông cung Thái tử. Lúc ấy, Tịnh Chí không hề biết thái tử là người chỉ biết hạch sách chứ không biết bố thí. Tịnh Chí đến Đông cung gặp cụ, chỉ xin cụ một tấm áo cà sa, mà bất luận cũ mới, chỉ cần có mặc là được, vì chiếc áo cà sa trên người ông đã rách nát rồi. Nhưng cụ vốn không đoái hoài đến người ta, mà thái độ còn rất thô bạo ngang ngược, vì cụ bình thường quen thói kiêu ngạo. Đã không bố thí pháp y cho Tịnh Chí, mà đến cả bát cơm chay giúp đỡ người khất thực đói rét cũng chẳng có. Nếu Tịnh Chí gặp được người khác, có lẽ ông ta sớm được cà sa và cơm chay. Nhưng Tịnh Chí lại gặp phải một người đến một sợi lông cũng không rứt.

Tịnh Chí đã đói đến mức không còn sức để đi nữa, thế là ông ta đành ngồi ở trước cửa Đông cung. Khi Tịnh Chí có ý muốn ra đi, cụ ngược lại không cho, thậm chí còn phái người canh gác Tịnh Chí cẩn thận. Và như thế, Tịnh Chí ngồi mãi ở trước cửa Đông cung bảy ngày bảy đêm, trong thời gian này đến một ngụm nước cũng không thí cho ông ta. Đến ngày thứ bảy, Tịnh Chí chỉ còn hơi thở yếu ớt. Lúc này cụ ngược lại rất vui mừng, cho rằng Tịnh Chí không ăn không uống bảy ngày, bảy đêm, mà còn có thể sống được thì đúng là một kỳ tích. Vì vậy cụ triệu lại đến cửa cung vây lấy xem Tịnh Chí và xem chuyện này là một trò vui. Khi ấy có một thủ hạ của cụ khuyên gián:

- Người xuất gia phần lớn đều là từ bi cung thuận, nội tu đạo đức, chính là vì họ tu có đạo đức, cho nên, y phục của người xuất gia này dù có rách nát thì ông cũng vẫn không cảm thấy lạnh, không có cơm ăn cũng không khiến cho ông ta chết đói. Sở dĩ ông ta đến đây hóa duyên chúng ta, hoàn toàn là tạo phước cho chúng ta. Chúng ta đã không bố thí gì cho ông ta rồi, thì cũng nên nói nhỏ nhẹ khuyên ông ta đi đi, sao có thể mang ông ta ra làm trò đùa như thế này? Tốt nhất mau khuyên ông ta đi, để tránh mang tội vào thân.

Cụ ngược lại nói một cách không vui rằng:

- Ngươi là thứ gì, mà cũng dám nói hắn ta tu có phúc đức, ta chỉ hơi làm khó cho hắn ta, chứ không làm gì khiến hắn ta chết đâu. Huống gì ta đang muốn thả hắn đi đây, ngươi đừng lo.

Sau đó, cụ mới để cho Tịnh Chí đi, song phái cận vệ áp giải Tịnh Chí đến biên giới, mãi đến nơi cách biên giới hơn mười dặm, các cận vệ mới thả Tịnh Chí. Tịnh Chí một mình đi trên đường núi, gặp phải một tên cường đạo đã không ăn cơm ba bốn ngày rồi, tên cường đạo này cầm một thanh đại đao trên tay định giết chết Tịnh Chí, sau đó ăn thịt của ông. Nhưng khi tên cường đạo cầm đao bổ bổ đến Tịnh Chí, Tịnh Chí rất bình tĩnh nói với tên cường đạo rằng:

- Đợi nào, ta là một người xuất gia vừa đói vừa rét, ốm đến nỗi lồi xương ra. Chỗ thịt bầm tím đau nhức trên người ta chắc chắn cũng vừa tanh vừa dai, không ngon đâu. Ngươi giết chết ta cũng uổng công thôi, vì thi thể của ta đối với ngươi không có tác dụng gì.

Tên cường đạo nói:

- Ngươi biết không, người xuất gia, ta đã đói đến nỗi phải ăn đất ba bốn ngay hôm nay rồi! Tuy ngươi gầy ốm, nhưng xét cho cùng cũng là thịt, thế nào cũng còn ngon hơn là đất bùn chứ?

Vì thế tên cường đạo không muốn bỏ ông ta Tịnh Chí đành phải lui chầm chậm về sau. Do tên cường đạo đã không ăn gì mấy ngày rồi, cho nên cũng không có sức để đuổi theo Tịnh Chí. Và như thế, cường đạo và Tịnh Chí cả hai một tiến về phía trước, một lui về phía sau, dần dần rồi cũng đến biên giới. Sau khi có người trông thấy cảnh tượng này, lập tức chạy đến Đông cung bẩm báo với cụ. Lúc này cụ mới vội vã, trong lòng nghĩ rằng: "Sở dĩ người xuất gia này gặp phải cường đạo, đều vì ta không chịu cúng dường y áo thức ăn cho ông ta, sao có thể để cho tên cường đạo này giết chết ông ta được chứ?" Thế là cụ lập tức lên ngựa mang theo tùy tùng đến biên giới.

Lúc ấy, cường đạo và Tịnh Chí chỉ còn cách nhau khoảng bảy tám bước thôi, hai người đều dựa vào gốc cây thở hổn hển. Cụ vội vàng xuống ngựa, những tùy tùng đi theo khấu đầu đảnh lễ với tên cường đạo tặc, thỉnh cầu cướng đạo tha cho Tịnh Chí. Cường đạo trông thấy cụ người đông thế mạnh, và thế là thuận nước mà đẩy thuyền, tỏ ý không hại tính mạng Tịnh Chí nữa. Sau đó, tên cường đạo ném đao xuống đất, hốt hoảng chạy vào rừng.

Phật Tổ giảng đến đây, dừng lại. Ngài dùng ánh mắt hòa nhã, thiện ý nhìn cụ già và nói với cụ:

- Kỳ thực, Tịnh Chí chính là Phật Di Lặc, ông ta vì muốn khai đạo cho cụ nên mới đến đấy. Tại sao kiếp này cụ nghèo nàn khốn đốn không ai giúp? Đấy chủ yếu chính là vì cụ quá hà tiện, không thích bố thí, chỉ biết thu gom. Vì sau đó cụ cứu được tính mạng Tịnh Chí, cho nên kiếp này cụ mới được báo ứng tốt, có thể sống đến hơn hai trăm tuổi. Đấy cũng chính là vì những tội nghiệp mà cụ đã tạo nên và những phúc đức mà cụ đã tích lũy được.

Cụ già nghe xong lời giảng của đức Phật, sụt sùi một hồi lâu, sau đó nói:

- Ôi! Thì ra tiền kiếp của tôi là như thế, vậy những cái khổ của tôi phải gánh chịu là đáng! Nhưng, tôi muốn thỉnh cầu Phật Tổ tôn kính, xin hãy thâu nhận tôi làm đệ tử của ngài. Tuy tôi đã ở vào độ tuổi gần đất xa trời, nhưng tôi nguyện đem ngày tháng còn lại để phục thị bên cạnh ngài, từ đó kết thúc khổ đau mà tôi phải chịu trong hai trăm năm trở lại đây.

Sau khi Phật Tổ nghe xong lời thỉnh cầu khẩn thiết của cụ già, ngài rất vui mừng nói:

- Thiện tai, thiện tai! Thế này cũng là một chuyện tốt!

Lời Phật Tổ vừa dứt, râu và tóc của cụ già tjw nhiên rụng hết xuống. Ngay lập tức, mảnh áo tồi tàn trên người cụ cũng không cánh mà bay, thay vào đó là một chiếc áo cà sa mới khác. Thêm vào đó, thân thể cụ già cũng trở nên khỏe mạnh hơn, tai và mắt cũng nhe và nhìn rõ hơn một tí. Ngay sau đó cụ già cũng có một nhận thức rất sâu sắc về thuyết pháp, tiến vào cảnh giới thiền định. Kỳ thực tất cả những điều này đều là nhờ vào phúc của Phật Tổ. Sau đó cụ già với tinh thần phấn chấn này làm mười sáu câu kệ cho Phật Tổ:
  • Xưa kia ta từng là một vương tử được người sủng ái
    Chưa từng nhận thức được ý nghĩa của nhân từ
    Kiêu ngạo buông thả chính mình
    Làm một thái tử không ai bằng mình
    Mình tưởng rằng không tạo nghiệp và cũng không tạo phúc
    Và nghĩ rằng nhờ đó khiến mình luôn tồn tại
    Không nghiêm chỉnh suy nghĩ đến báo ứng của sinh tử
    Cho nên bây giờ phải chịu khổ
    Song tuy ta có tội nhưng lại được giúp đỡ
    Trong những năm còn sống được gặp Phật Tổ
    Vì vậy mà có thể giải thoát được tội nghiệp đã phạm trước đây
    Vào lúc gần đất xa trời quy y Tam Bảo
    Từ đó ta thoát khỏi tâm trạng hẹp hòi
    Đời đời kiếp kiếp hưởng thụ tấm lòng của Phật pháp
    Từ đó ta nguyện không rời bỏ Phật pháp
    Khiến mình cũng có thể đắc được cuộc sống vĩnh hằng.
Sau khi cụ già niệm xong bài kệ, lại hướng về Phật Tổ khấu đầu hành lễ. Sau đó, cụ trở thành một đệ tử cao tuổi nhất trong chúng đệ tử của Phật Tổ.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THẦN LỰC CỦA TIỂU TỲ KHEO
Trong Hiền Ngu Kinh ghi, Phật Tổ ở Xá Vệ thành đã từng hóa độ năm trăm tiểu ăn mày, các tiểu ăn mày này sau đó đều trở thành các Tỳ kheo theo Phật Tổ tu tập Phật pháp.

Bản tính của các tiểu Tỳ kheo thông minh, lanh lợi, sau khi quy y Phật pháp khắc khổ họ đều chăm chỉ, chuyên cần học tập. Thêm vào đó họ được Phật Tổ chỉ dạy mọi lúc, cho nên sau đó đều tu đắc thành chánh quả, từng người một đều trở thành La hán toàn thân. Vì vậy, đừng thấy họ nhỏ tuổi mà xem thường, kỳ thực các tiểu Tỳ kheo này đều có thần thông siêu phàm.

Lại nói đến vua Ba Tư Nặc của nước Xá Vệ sau khi kết hôn với Mạc Lợi, sanh được một đứa con trai. Đứa con trai sau này được vua Ba Tư Nặc lập làm thái tử, tên của thái tử là Đế Đà. Đế Đà từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của phụ vương và mẫu hậu, dặc biệt là mẫu hậu, vì vậy sau khi trưởng thành rất tín ngưỡng Phật pháp. Chàng thường xuất cung bố thí cho người xuất gia, cũng đã từng nhiều lần mở trai đàn mời Phật Tổ cùng với các đệ tử đến Đông cung giảng dạy Phật pháp cho mình. Vua Ba Tư Nặc và vương hậu Mạc Lợi rất hài lòng về Đế Đà, thường khen chàng có lòng hiếu kính đối với Phật pháp.

Một ngày kia, thái tử Đế Đà lại phái sứ thần của mình đi Kỳ Hoàn, chuyển lời đến Phật Tổ.

Sứ thần vừa đến Kỳ Hoàn, thì được các đệ tử của Phật Tổ nghênh tiếp đưa đến gặp Phật Tổ. Thì ra, sứ thần này và Phật Tổ đã quen biết nhau từ trước.

Sứ thần vừa trông thấy Phật Tổ liền chắp tay hành lễ rất cung kính, sau đó ông chuyển lời của thái tử đến Phật Tổ. Thì ra, ngày mai là ngày Hoàng đạo, thái tử Đế Đà chuẩn bị tiệc cơm ở Đông cung, mời Phật Tổ và các đệ tử đến dự trai đàn. Sau đó nhờ Phật Tổ thuyết giảng Phật pháp cho chàng và những người khác trong cung.

Sau khi Phật Tổ nghe xong mỉm cười đồng ý.

Nhưng, sứ thần không cáo từ, ông vẫn dứng nguyên chỗ cũ. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu rõ ông còn lời gì muốn nói, thế là ra hiệu cho sứ thần nói.

Sứ thần trông lên thượng pháp có chút do dự, rụt rè một hồi, ông mới nói với Phật Tổ:

- Ngày mai là ngày Hoàng đạo, thái tử Đế Đà kỵ húy những người thấp hèn làm mất đi không khí vui tươi của ngài, vì vậy bảo rằng tốt nhất Phật Tổ đừng mang theo năm trăm vị Tỳ kheo mà trước đây là ăn mày đến dự trai đàn.

Phật Tổ mỉm cười một cách khoan dung, ngài nói với sứ thần:

- Xin thái tử yên tâm, ta không mang họ đi là được chứ gì.

Sứ thần trông thấy Phật Tổ vui vẻ đồng ý như thế, thì mình ngược lại cảm thấy có chút xấu hổ, sắc mặt cũng ửng đỏ, ông vội vã từ biệt Phật Tổ, lại chắp tay hành lễ thật lâu.

Sau khi sứ thần ra về, Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni gọi năm trăm vị tiểu Tỳ kheo ấy đến, Phật Tổ nói với họ ngày mai không được vào Đông cung để dự trai đàn, cho dù vào cung cũng không thọ trai, vì đây là lời thí chủ dặn dò. Nói rồi, Phật Tổ để cho họ giải tán.

Sáng hôm sau, Phật Tổ mang chúng đệ tử đến ngoài cửa Đông cung theo hẹn ước, thái tử Đế Đà từ sớm đã đứng ở đây đợi rất lâu.

Ngay tức khắc, Phật Tổ được nghênh đón vào cung. Trong sân rồng trước Đông cung đại điện đã bày đầy các cao lương mỹ vị, ngôi bảo tòa để cho Phật Tổ ngồi cũng được đặt ở giữa. Phật Tổ và chúng đệ tử ngay lập tức được dẫn đến trước tọa vị của mình.

Thái tử Đế Đà và Phật Tổ ngồi gần bên nhau, sau khi hai người hàn huyện xong, thái tử đích thân bưng thức ăn đến mời Phật Tổ.

Mọi người vừa ăn xong một lúc, đột nhiên nghe thấy trên trời vang lại từng đợt âm thanh. Phật Tổ mìm cười, trong lòng ngài biết nhất định là năm trăm vị Tỳ kheo đến.

Quả nhiên một lúc sau, năm trăm vị tiểu Tỳ kheo y phục chỉnh tề ngồi ngay ngắn, trên tay cầm một cái bát xuất hiện ở trên không trung, trong Đông cung mọi người đều xôn xao, kinh hoàng.

Không bao lâu, những Tỳ kheo này từng người từng người một từ trên không trung giáng xuống, theo thứ tự ngồi ở chỗ trống. Không đợi đến Tỳ kheo cuối cùng giáng xuống, thủ hạ của Đông cung thái tử đã vây lại, họ ngạc nhiên khi phát hiện thấy trong bát của các vị Tỳ kheo này đã chứa đầy cơm đặc biệt, mà chỗ cơm này chỉ có ở Bắc Úc Đơn Việt cách nước Xá Vệ ngàn dặm mới trồng được, lúc này đúng là mùa thu hoạch ở Bắc Úc Đơn Việt. Mọi người đều ngẩn ngơ, vì loại gạo này ở trong cung thái tử cũng chỉ có thể ăn được loại cũ, gạo mới của năm nay phải đợi đến năm sau mới có.

Đế Đà thái tử cũng trố mắt ngạc nhiên, không khỏi tán dương. Bình sinh chàng chưa từng trông thấy cảnh tượng này, không nhịn nổi sự tò mò, liền hỏi Phật Tổ ngồi bên cạnh:

- Các Tỳ kheo thánh đức từ trên trời giáng xuống này từ đâu đến thế?

Phật Tổ mỉm cười trả lời:

- Đây chính là năm trăm vị tiểu ăn mày, hiện nay là đệ tử Phật môn, ai nấy đều có thần thông.

Thái tử Đế Đà có chút xấu hổ.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LA HÁN VÀ CON VOI
Trong Thí Dụ Tạp Kinh ghi: Trong thời đại Phật Ca Diếp, đức Phật di khắp mọi nơi để cứu độ cho chúng sanh.

Có hai anh em nọ, đều xuất gia là Sa môn, hai người đều muốn thành chánh quả.

Hai anh em này bình thường thì chuyên tâm tu đạo, thành tâm kính Phật, chỉ là cách làm của hai người có hơi không bình thường, khiến cho người khác cảm thấy họ thực sự chưa toàn tâm toàn ý cúng Phật.

Chuyện là như thế nào?

Thì ra, anh trai chỉ một lòng một ý tọa thiền cầu đạo, nhưng không bao giờ bố thí. Còn người em tuy một lòng một dạ bố thí tu phúc, nhưng lại thường phá giới, giống như là cố ý vậy. Bao nhiêu năm trôi qua, hai người đều như vậy.

Sau đó, người anh vì theo đức Thích Ca xuất gia mà đắc thành La hán quả, khiến cho người em rất ngưỡng mộ. Nhưng, hắn không chịu nổi cái khổ của người anh, bèn đầu thai trong đám voi, thành một con voi.

Do tiền thân con voi này bố thí tu phúc, kiếp này rất có thiện duyên, nó có uy vũ hùng tráng, được quốc vương để mắt, nên là con vật yêu của quốc vương.

Sức mạnh của con voi này lớn vô cùng, có thể giúp quốc gia kháng giặc ngoại xâm, các nước thù địch lân cận đều không dám manh động. Thế là, quốc vương phong cho con voi làm "Bách Hộ Vương", dùng vàng bạc, châu báu, xâu chỗi ngọc... đeo cho nó, nó muốn gì, quốc vương đều cho cái nấy, có thể nói là những gì cần có cũng đã có.

Nhưng tình trạng của người anh tu thành La hán thì không như thế. Ông ta quần áo rách tươm, ăn uống thiếu thốn, đói rét đang hành hạ ông ấy.

Có một lần, ông ta đến những bảy ngày mà không hóa duyên được gì, đói đến nỗi không đứng thẳng lưng được. Vạn phần khốn đốn, ông ta đành phải ăn những thứ mà đàn nai chừa lại, mới có thể miễn cưỡng giữ lấy tánh mạng.

Người anh này thực sự không còn cách nào, đành đi tìm người em trai trong tiền kiếp ấy là Tượng vương để xin một bữa cơm.

Tượng vương đang ở cũng với các nhi nữ của mình, ăn các loại trái cây tươi ngon. Hiện giờ nó đang sống một cuộc xuống xa hoa thoải mái như thế này, đâu có còn nhớ đến nhân duyên tiền kiếp chứ?

Tượng vương đang ăn uống no say, một con voi cận vệ tiến đến báo cáo:

- Thưa đức vua, bên ngoài có một Sa môn muốn gặp ngài.

- Cho truyền.

Tượng vương nói chung không cho đó là điều quan trọng.

Con gái của Tượng vương hiếu kỳ hỏi:

- Phụ vương, hắn mang lễ đến cho ngài chứ?

- Chẳng lẽ con không không biết sao? Chỉ có một người cho Sa môn thức ăn, đâu có lý mào Sa môn lại cho người ta lễ gì chứ!

Con trai của Tượng vương nghe xong lời này, cười hỏi:

- Vậy thì, cha sẽ bố thí chứ?

- Mọi thứ của cha đều là của quốc vương ban tặng, không thể tùy tiện đem cho người nào cả.

Lúc này, người anh là La hán bước vào cửa, ngẩn ngơ trông Tượng vương. Mùi thơm của trái cây tươi khích thích sự thèm ăn của La hán, nên ông ta cố nuốt nước bọt.

Hai anh em tiền kiếp cứ như thế nhìn nhau, cả buổi không nói được lời nào.

Một lúc sau, Tượng vương mói hỏi:

- Ngươi tìm ta có chuyện gì?

La hán trông thấy Tượng vương ngự trên ngôi cao, lãnh đạm thờ ơ đối với mình, không cố ý bố thí, bèn không thèm để ý đến thứ gì đi thẳng đến phía trước, nắm chặt lấy đôi tai to của một con voi, nói rằng:

- Ta và ngươi tiền kiếp đều có tội!

Tượng vương nghe thấy điều này, bèn giác ngộ ra rằng, tiền kiếp của mình hình như có quan hệ gì với tên Sa môn này. Nó ngay lập tức cảm thấy rất buồn bã, không nuốt nổi thứ gì.

La hán trông thấy Tượng vương không có chút tình ý bố thí, nổi giận quay người đi.

Tượng vương thân ở trong danh gia vọng tộc luôn đắc chí, đột nhiên gặp tên Sa môn nghèo khốn này, lại còn có duyên với tiền kiếp của mình, khiến trong lòng không vui.

Các con gái của Tượng vương thấy phụ vương đang ăn ngon miệng đột nhiên ngừng lại, đều lo nghĩ buồn rầu. Nhưng bất luận là chúng có khuyên phụ vương như thế nào, phụ vương đều rầu rĩ không vui. Không biết làm sao, con trai của Tượng vương đành đến chỗ Quốc vương cầu cứu.

Quốc vương đang dùng bữa trong cung, cận vệ vào báo là con trai của Tượng vương cầu kiến.

Quốc vương nói:

- Hãy nói là ta đang ngự thiện, bảo hắn đợi một chút.

- Bệ ha, hắn gấp vô cùng, nhất định phải lập tức gặp ngài.

- Vậy hãy để cho hắn vào.

Con trai của Tượng vương vào bẩm báo với vẻ mặt ưu sầu:

- Thưa bệ hạ tôn kính, phụ vương con đột nhiên buồn rầu, cơm cũng không ăn nổi.

- Mau nói đi, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?

Quốc vương nghe nói Tượng vương trợ thủ đắc lực trị quốc, ngự địch của ông không ăn nổi, cảm thấy đây là vấn đề trọng đại, nên rất nóng ruột.

- Vừa rồi có một tên Sa môn y phục rách nát bước vào, nắm lấy tai của phụ vương hạ thần nói gì đấy, người đột nhiên buồn bã rầu rĩ, cơm cũng không chịu ăn.

Quốc vương giận dữ hỏi:

- Tên Sa môn ấy rốt cuộc đã nói những gì?

Con trai của Tượng vương lắp bắp nói:

- Hạ thần không nghe rõ hắn nói gì.

Quốc vương cũng không ăn cơm nữa, ngay lập tức truyền cận vệ vào căn dặn:

- Ngươi mau mang vài tên cận vệ cùng với con trai của Tượng vương đi bắt tên Sa môn ấy lại cho ta, ta muốn đích tra hỏi hắn.

Các cận vệ cùng với con trai của Tượng vương đi. Quốc vương dùng xong bữa bèn ngồi trong cung đợi họ đến.

Không bao lâu, cận vệ đã mang tên Sa môn nghèo khổ vào. Quốc vương hỏi:

- Tên Sa môn đáng chết kia, ngươi biết tội chưa?

- Thưa bệ hạ tôn kính, tôi đã phạm phải tội gì? Xin ngài hãy chỉ rõ.

- Người đã nói lời ác độc gì với Tượng vương?

- Không có, không có.

- Vậy cứ tại sao Tượng vương của ta lại bỏ cơm nước không ăn? Nếu như Tượng vương ngã bệnh, thì ta sẽ không tha cho ngươi đâu!

- Ồ! Ra là chuyện này.

La hán bèn mang nhân duyên duyên tiền kiếp và những lời đã nói với Tượng vương kể cho quốc vương nghe. Trong lòng quốc vương cũng có nhiều suy nghĩ. Ngài nói với La hán rằng:

- Tiền thân của các ngươi đã có nhân duyên này, ta cũng xem như ngươi vô tội. Niệm tình ngươi y thực không đủ, mau về để lo cái ăn cái mặc cho ngươi đi.

La hán ra đi, Quốc vương lại dùng ngon tiếng ngọt mới khiến cho Tượng vương vui vẻ trở lại, sống những ngày tháng thoải mái của mình một cách yên ổn.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

NĂM TRĂM NGƯỜI MÙ ĐƯỢC ÁNH SÁNG
Theo Hiền Ngu Kinh ghi, Tù Xá Lợi quốc có năm trăm người mù. Những người bất hạnh này vì không trông rõ mọi vật, nên không làm được việc gì cả, chỉ có thể dựa vào việc hành khất mà sống qua ngày, chịu hết sự coi khinh của người đời.

Lúc này, Phật Tổ xuất thế, tin tức truyền đến tai của năm trăm người mù này. Trong lòng họ cũng không yên. Vì bất cứ ai cũng biết, phàm là những người trông thấy Phật Tổ, tất cả mọi đau khổ dày vò đều có thể tan biến, hóa giải.

Thế là, năm trăm người mù này bàn bạc với nhau: "Chúng ta muốn thấy Phật Tổ một lần, nhiều năm trở lại đây chúng ta phải chịu sự bất hạnh vì khổ nạn. Chỉ cần chúng ta trông thấy Phật Tổ, chúng ta có thể thấy ánh sáng".

Một người nói:

- Đúng vậy, chúng ta nên đi gặp Phật Tổ, chứ đừng đợi Phật Tổ dến đây gặp chúng ta, mọi người nghĩ xem có phải không?

Một số người mù không biết đi gặp Phật Tổ bằng cách nào nói:

- Nhưng chúng ta đi bằng cách nào? Chúng ta vốn không thấy đường!

Vị thủ lãnh của năm trăm người mù ấy nói:

- Nếu như mọi người thực sự muốn đi gặp Phật Tổ, thì cần phải nhờ người dẫn đường, nhưng ai chịu dẫn đường cho chúng ta đi?

Mọt người mù thông minh nghĩ ra điều này:

- Như thế này đi, mọi người chúng ta tìm cách đi xin, mỗi người xin đủ một số bạc, góp lại nhờ một người dẫn đường cho mọi người đi.

Thế là mọi người chia nhau đi xin.

Thế nhưng, nhưng chuyện tốt đẹp thường gặp nhiều gian nan. Qua nhiều ngày, chịu không ít khổ nhọc, năm trăm người mù góp đủ năm trăm tờ giấy bạc.

Khi có tiền rồi, thì thuê một người dẫn đường sẽ dễ dàng hơn nhiều. Họ vừa cất lời thì có ngay một người đồng ý.

Thấy dáng vẻ người ấy nhiệt tình chu đáo, hình như dẫn đường cho người mù là một nghĩa vụ chính đáng, kỳ thực, nếu không phải là vì năm trăm bạc lấp lánh, e rằng những người mù này có dập đầu đến nức óc cũng không có tác dụng gì.

Người ấy cười với vẻ mặt gian trá:

- Muốn gặp Phật Tổ, vậy thì quá dễ rồi, theo ta thì được ngay thôi.

Hắn nói cứ như là Phật Tổ ở ngay tại nhà hắn không bằng.

Năm trăm người mù thấy có người chịu dẫn đường cho họ, họ tỏ vẻ rất vui mừng.

- Này mọi người hãy nắm lấy vạt áo của nhau, xếp thành một hàng, người đi đầu, ngươi hãy nắm lấy vạt áo của ta là được.

Như thế, năm trăm người mù đi theo người dẫn đường, thành một đoàn người dài thượt, ngoằn ngoèo. Họ tiến về phía nước Xá Vệ nơi ở của Phật Tổ. Trên đường đi họ gặp bao nhiêu là khổ nhọc, nhưng càng đi trong lòng họ càng lóe lên hy vọng, bước chân hình như cũng nhẹ hơn. Nhưng, khi sắp sửa đến Magadha, phải đi qua một ngon núi. Người dẫn đường thấy đường đi gian nan, bèn việc cớ để tẩu thoát.

Các người mù đợi và đợi. Cuối cùng không thấy người dẫn đường quay trở lại. Những người mù hốt hoảng nói:

- Này lão, tâm huyết của mọi người đều phí cả, tên khốn đó lấy tiền của chúng ta, rồi bỏ mặc chúng ta, bây giờ phải làm sao đây?

Mọi người đều hoang mang và không thể tiến, lại không thể lùi, bị chôn sống ở nơi này rồi. Nhưng, họ không chịu đứng yên một chỗ. May mà người ở đầu hình như nghe được trước mặt là hướng có âm thanh của nước chảy, bèn để cho mọi người nắm tay nhau đi về hướng đó.

Mọi người không quờ quang mò mẫm lung tung, nhưng đột nhiên, họ nghe thấy một tiếng chửi phẫn nộ:

- Bọn các người là đồ súc sanh, mù à? Đạp chết hết mạ non của ông cả rồi!

Một người trong đám người mù sợ bị đánh kêu lên:

- Ối, ối! Đừng đánh tôi! Chúng tôi thực sự không thấy được ruộng lúa của ngài. Ôi thật là không may rồi. Hãy nghe tôi nói, người tốt bụng, thương hại chúng tôi đi. Năm trăm người mù chúng tôi vì mắt mù nên mới đi gặp Phật Tổ, nào ngờ tên dẫn đường lại bỏ chúng tôi ở đây, hắn chiếm mất số tiền của chúng tôi rồi tẩu thoát, báo hại chúng tôi đạp phải chỗ mạ của ngài. Xin khai ân!

- Nhưng chỗ mạ của ta bị các ngươi đạp chết cả rồi, ta phải làm sao đây. Không phải các ngươi đã hại ta rồi sao?

Người chủ điền thực sự rất giận, nhưng đối mặt với những người mù này thì có cách gì chứ? Chủ điền là một ông già, sau khi nổi nóng một trận, cũng đành phải oán trời trách đất: "Ta làm sao sống đây? Ta làm sao sống đây! Trời ơi!"

Các người mù tự biết là đã gây họa, vội vã khẩn cầu:

- Giá như mà chúng tôi thấy đường thì không gây nên tội tình này rồi. Người tốt bụng, cầu xin ngài khai ân, chỉ cho chúng tôi một con đường đến nước Xá Vệ đi. Chúng tôi đã bị người ta gạt, chỉ có đợi sau này đến bồi thường chỗ mạ cho ông tuyệt không nuốt lời.

Cho dù người chủ điền vừa giận lại vừa hận, nhưng thấy năm trăm người mù này thực sự cũng tội nghiệp, ông ta liền than rằng:

- Chỉ trách là chỗ mạ của ta mọc không đúng nơi. Các ngươi đi theo ta, ta tìm một người dẫn đường các ngươi đến nước Xá Vệ là được thôi.

Những người mù vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vã cám ơn:

- Hôm nay thực sự là gặp được người tốt!

Người chủ điền phái một thanh niên, dẫn bọn người mù tiến về nước Xá Vệ. Cuối cùng thì họ cũng đến được Xá Vệ thành, bọn người mù hết sức vui mừng.

Nhưng niềm vui đó không kéo dài được lâu, vì chủ trì trong chùa nghe xong ý định đến gặp Phật Tổ của họ thì trả lời:

- Các ngươi đến trễ rồi, Phật Tổ đã đến Magadha.

Những người mù rất thất vọng, bèn quay đầu lại Magadha, những khổ nhọc trên đường đi thì không cần phải nói đến nữa, họ theo dấu chân của Phật Tổ một cách gian khổ, trong lòng đầy ấp niềm tin.

Đến Magadha, nào ngờ Phật Tổ lại quay về nước Xá Vệ.

- Thật là khiến cho người ta chịu khổ! - trong lòng một người mù đã bị dao động, nhưng lại tự trách mìn ngay: "Sao mình lại sợ khổ như thế? Tội lỗi, tội lỗi!"

Những người mù này tuy đã mệt quá sức, nhưng họ kiên trì tin tưởng là có thể gặp được Phật Tổ, thế là, lại quay về nước Xá Vệ. Họ đã hạ quyết tâm, phải gặp bằng được Phật Tổ.

Tiếc là, lần này về lại nước Xá Vệ vẫn không gặp được Phật Tổ.

"Phật Tổ đi Magadha rồi", chủ tri trong chùa nói với vẻ thông cảm trên mặt. Không biết làm cách nào, những người mù đành quay về Magadha. Nhưng, sự việc bắt đầu có biến đổi. Người ta thường nói, những người mù không ngại đường sá, nhưng năm trăm người mù này đi đường cũng không mất sức nhiều, vả lại càng đi càng quen thuộc, càng nhẹ nhỏm.

Phật Tổ trong thấy năm trăm người mù này thiện căn đã có, thiện đức đã thành, khi những người mù đi đủ bảy lượt qua lại, thì ở lại nước Xá Vệ đợi họ.

Phật quang lấp lánh, chiếu đến đôi mắt của người mù cũng phát quang, cuối cùng họ cũng đã gặp được Phật Tổ mà mình mong đợi từ lâu. Chỉ thấy đức Như Lai toàn thân phát sanh sáng vàng, uy nghi như Tử Kim Sơn.

Để thấy được ánh sáng, năm trăm người mù phải vượt qua vô số khổ nạn, nhưng họ cam tâm tình nguyện kiên trì đi về phía trước.

Những người mù lũ lượt chạy lên phía trước, vây quanh lấy Phật Tổ.

"Phật Tổ cứu khổ cứu nạn, ban cho con ánh sáng để cho con thấy được Phật Tổ", năm trăm người mù lần lượt quỳ xuống, ngũ thể sát đất, hành lễ cảm ơn.

Phật Tổ thấy họ thành tâm như thế, nói với các người mù:

- Các vị minh trí, trên đường đi khổ nhọc, nhưng vẫn toàn tâm, kiên trì với Phật pháp. Ta rất cảm động, ta có ban ánh sáng cho các ngươi.

- Tạ đại đức Phật Tổ!

Năm trăm người mù đã có thể nhìn thấy Phật Tổ. Tất cả đều nghe thấy lời đức Phật mà giác ngộ, một lòng chúc phúc vang vọng mây xanh:

- Phật đức vô lượng, Phật ân bao la, chúng tôi không ngại xa xôi đến, nguyện Phật Tổ thụ giới cho chúng tôi, chúng tôi muôn đời theo ngài, cúng dường ngài.

Đức Phật nói: "Được thôi, đồ đệ của ta, hãy đến đây đi!"

Năm trăm người mù nghe xong lòng được hóa giải, râu tóc rụng hết, thân khoác áo cà sa mà đắc đạo. Phật Tổ Như Lai lại bố thí công pháp, năm trăm người đều tu thành La Hán.

Năm trăm người mù, năm trăm La hán, sự khác biệt của trời đất, công của tạo hóa là một, ngàn vạn năm sau còn truyền danh thơm, đức đẹp.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

THẦN THÔNG CỦA CA DIẾP THỜI THƠ ẤU
Trong Tăng Kỳ Luật ghi: Khi Phật Tổ còn sống ở thành Xá Vệ, trong thành xảy ra một chuyện.

Trong thành Xá Vệ, có một gia đình Bà la môn rất hòa thuận. Bà la môn này có hai người con gái, thường ngày rất được nuông chiều. Đến khi lớn lên, hai cô con gái dần hiểu chuyện trai gái, nhất là cô chị. Bà la môn quản giáo con gái của mình rất nghiêm khắc, chưa từng để cho họ một mình tiếp xúc với người ngoài.

Tục ngữ nói rất đúng: "Cọp dữ cũng có lúc phải ngủ". Tuy Bà la môn quản thúc con gái rất nghiêm, nhưng cũng không thể kiểm soát hết những hành động của họ. Cuối cùng một ngày nọ, cô con gái lớn của Bà la môn cũng đã nếm trộm trái cấm, dan díu với một thanh niên hàng xóm.

Sau đó, cô con gái lớn phát hiện mình mang thai. Chuyện này bị Bà la môn biết. Ông cảm thấy đây là một chuyện nhục nhã, bôi nhọ danh dự gia đình, trong lúc giận dữ đã đuổi cô con gái ra khỏi nhà.

Cô con gái mang cái bụng bầu đến nhà hàng xóm, nhưng tên thanh niên ấy lại không cần cô nữa. Trong lúc không biết làm sao, cô nghĩ đến Phật Tổ, thế là cô mang cái bụng to đùng của mình đến Kỳ Hoàn. Phật Tổ khoan dung cô ta. Sau khi cạo tóc thụ giới cho cô ấy, người để cho cô làm một Tỳ kheo ni.

Nhưng các Tỳ kheo ni khác lại không nghĩ thế, cho rằng cô ta mang cái bụng to ấy làm nhục Phật môn, huống hồ gì lại là cái thai do quan hệ bất chính và họ đã mưu toan đuổi cô đi. Họ đến gặp Phật Tổ, xin Phật đuổi Tỳ kheo ni mang thai ấy đi.

Nhưng Phật Tổ khuyên ngăn họ. Phật Tổ nói:

- Tỳ kheo ni ấy mắc tội lỗi khi ở nhà, mang thai bất chính, nhưng sau khi xuất gia thì ngược lại không mắc phải tội lỗi gì. Huống hồ nhìn một người không phải chỉ nhìn về quá khứ của họ, mà quan trọng là xem biểu hiện ở hiện tại kìa. Như vậy, bây giờ Tỳ kheo ni ấy không có lỗi, cô ta không vi phạm bất cứ giới luật nào, vì vậy, các ngươi không thể đuổi cô ta đi.

Phật Tổ không chỉ khuyên các Tỳ kheo ni đừng đuổi cô ấy đi, mà ngược lại còn muốn các Tỳ kheo ni phải quan tâm chăm sóc cô ấy nhiều hơn nữa.

Tỳ kheo ni ấy được ở lại và cũng được sự quan tâm chăm sóc thiện ý của mọi người. Sau mười tháng mang thai, cô ấy sinh ra một đứa con trai, đứa con trai này chính là Ca Diếp.

Sau khi Ca Diếp được tám tuổi, thì xuất gia theo Phật Tổ tu tập Phật pháp. Do thiên tư vốn thông minh, lại chịu khắc khổ chăm chỉ học tập, cho nên không lâu sau, Ca Diếp đã tu đắc quả La hán, thành một vị La hán mới, có đạo hạnh và pháp lực rất cao.

Mùa hè nọ, Ca Diếp và một số Tỳ kheo cùng trang lứa không chịu nổi cái nóng oi bức, sau khi Phật Tổ giảng xong kinh Phật, bèn mang bồn chậu tắm, đến bờ sông A Lỗ La cách Kỳ Hoàn không xa. Sau đó, những người xuất gia vẫn còn là trẻ con này từng chú tiểu trần trùng trục, nhảy xuống dòng sông mát mẻ, mặc tình vui đùa. Chúng lúc lặn lên, lúc hụp xuống dưới sông, có lúc tóe nước vào nhau. Bên bờ sông A Lỗ La rộn rã tiếng cười đùa của bọn trẻ.

Lúc bấy giờ, Ba Tư Nặc quốc vương đang ở trên lầu cao gần bờ sông, thả mắt nhìn chung quanh. Theo tiếng ồn ông trông thấy các chú tiểu tắm táp, bơi lội, bắn nước ở dưới sông. Nghe thấy tiếng cười hả hê của chúng, vua Ba Tư Nặc cảm thấy chúng cũng rất phóng túng. Lúc này, vua Ba Tư Nặc con chưa tín ngưỡng Phật pháp. Khi ông trông thấy tình cảnh này, trong lòng càng sinh cảm giác chán ghét Phật pháp.

Vua Ba Tư Nặc quay đầu lại nói với vương hậu Mạc Lợi đã tín ngưỡng Phật pháp từ lâu, đang đứng ở bên cạnh:

- Hậu xem kìa, đây chính là những đệ tử có đức hạnh tu dưỡng của Phật pháp mà Hậu tín ngưỡng. Hậu đã tín ngưỡng sâu sắc không nghi ngờ gì đối với Phật pháp, vậy tại sao không chịu xem kỹ lại bộ dạng phóng túng hình hài của những người xuất gia kia chứ?

Mạc Lợi vương hậu không đợi vua Ba Tư Nặc nói tiếp, ngay lập tức trả lời:

- Những đứa trẻ này có lẽ vừa mới được hóa độ xuất gia, còn chưa hoàn toàn hiểu giới luật. Rốt cuộc thì chúng vẫn còn là những đứa trẻ mà. Ngoài ra, cũng có lẽ Phật Tổ chưa chế định ra những giới luật thích đáng để hạn chế chúng làm như thế này, cho nên chúng mới như vậy.

Vua Ba Tư Nặc không phục, bèn tranh cãi với Mạc Lợi vương hậu.

Ca Diếp lúc này tuy tuổi tác còn nhỏ, nhưng cậy sớm đã đắc La hán quả, cậu dùng thiên nhĩ thần thông, nghe thấy cuộc tranh cãi của vua Ba Tư Nặc và Mạc Lợi vương hậu, ngay lập tức cậu nói với các tiểu Tỳ kheo. Ca Diếp nói:

- Sau khi vua Ba Tư Nặc trông thấy chúng ta ở đây vui vẻ náo loạn, càng không tín ngưỡng Phật pháp, mà trong lòng của Mạc Lợi vương hậu cũng rất buồn. Bây giờ chúng ta nên tìm cách làm cho vua Ba Tư Nặc tin phục Phật pháp mới được.

Các tiểu Tỳ kheo ấy cũng ngừng cuộc vui, đồng thanh đáp:

- Được thôi.

Sau đó, do Ca Diếp dẫn đầu, các tiểu Tỳ kheo mỗi người tự mang nửa chậu nước của mình, đi đến bên bờ sông, xếp thành một hàng, đặt chậu nước ra trước mặt, ngồi chấp bằng xuống đất. Chúng loại bỏ hết tất cả tạp niệm, cơ thể cùng với chậu nước bay lên không trung.

Sau đó, dưới sự thống lĩnh của Ca Diếp, chúng xếp thành một hàng, giữ nguyên tư thế bắt đầu bay đến chỗ tầng lầu của vua Ba Tư Nặc đang ở và bay qua cao lầu của vua Ba Tư Nặc.

Lúc này, Mạc Lợi vương hậu đang ngồi chơi, vừa trông thấy có bóng người bay qua, bà ngẩng đầu lên. Bà trông thấy một hàng Tỳ kheo y áo chỉnh tề ngồi ngay ngắn, trước mặt còn có một chậu nước, từng người từng người một bay qua, như những đàn nhạn bay về phương Nam vào mùa thu vậy.

Trong lòng Mạc Lợi vương hậu rất vui, bà không ngờ các tiểu Tỳ kheo còn nhỏ mà đã có đạo hạnh cao thâm như thế, còn có thể bay trên không nữa.

Bà liền chỉ các tiểu Tỳ kheo ở đàng xa và nói với vua Ba Tư Nặc:

- Bệ hạ, người hãy nhìn thần thông của các đệ tử Phật môn mà thiếp tín ngưỡng kìa!

Vua Ba Tư Nặc ngẩng đầu trông, cũng nhìn thấy hình ảnh ấy ở đàng xa. Ông bắt đầu có chút tín ngưỡng. Lúc sau, khi xem rõ các bóng người trên không trung chính là các tiểu Tỳ kheo vui đùa bên bờ sông lúc nãy, vua Ba Tư Nặc không thể không có suy nghĩ, các tiểu Tỳ kheo nhỏ tuổi như thế mà lại có thần thông như vậy.

Vua Ba Tư Nặc từ đó có hứng thú với Phật pháp và bắt đầu tín ngưỡng Phật pháp.

Khi vua Ba Tư Nặc không còn nhìn thấy hình ảnh của Ca Diếp và các tiểu Tỳ kheo nữa, mới khen rằng:

- Thật là quá hay, quá tốt, các đệ tử Phật môn và Phật pháp ở trong địa phận thống trị của ta thật là có ích, ta thật lòng hy vọng Phật Tổ và các đệ tử của ngài ở mãi đất nước ta, mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho nhân dân ta.

Mạc Lợi vương hậu thấy vua Ba Tư Nặc thay đổi nhận thức về Phật pháp, cũng cảm thấy rất vui.

Lại nói đến La hán Ca Diếp và các tiểu Tỳ kheo sau khi về đến Kỳ Hoàn, Phật Tổ biết những điều họ vừa làm. Thế là, Phật Tổ chế định giới luật mới, cấm họ đến vui chơi ở sông A Lỗ La. Từ đó về sau, vua Ba Tư Nặc và Mạc Lợi vương hậu không còn trông thấy hình ảnh của La hán Ca Diếp và các tiểu Tỳ kheo nữa.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHÚ NA KỲ MỜI PHẬT VÀ CHÚNG ĐỆ TỬ
Trong Hiền Ngu Kinh ghi, ngày xưa, tại Phóng Bát Quốc có một vị trưởng giả tên gọi là Đàm Ma Ngưỡng. Ông là đại phú ông đứng đầu cả nước.

Phóng Bát Quốc giàu có hùng mạnh, thường hay xuất binh chinh phạt các nước khác. Đương thời khi đứa con trai đầu lòng của Đàm Ma Ngưỡng ra đời, đang là lúc quân đội nước này xuất chinh, vì vậy ông ta đặt cho con trai tên là Tiển Na, nghĩa là quân. Khi đứa con thứ hai ra đời, nhằm lúc quân đội chiến thắng trở về, cho nên ông đặt cho đứa con thứ hai tên là Tỷ Kỳ Đà Tiển Na, nghĩa là thắng. Sau khi hai đứa con trai lớn lên, Đàm Ma Ngưỡng cưới vợ thành lập gia thất cho con, sống với nhau yên ổn vô sự.

Về sau, Đàm Ma Ngưỡng tuổi cao nhiều bệnh, thường nhờ đại phu đến xem bệnh. Đại phu tham lam thấy thù lao của ông cao, ăn được ngon, cho nên không chịu trị dứt bệnh cho Đàm Ma Ngưỡng, mà nhận được thù lao lâu dài.

Người trong cuộc thì thường mê muội, người ngoài cuộc sáng suốt. Nô tỳ hầu hạ bên cạnh Đàm Ma Ngưỡng, nhìn thấy được lòng dạ xấu xa của tên đại phu, bèn nói lại cách nhìn của mình với trưởng giả, rồi xin Đàm Ma Ngưỡng từ chối tên đại phu ấy, để mình chữa trị điều dưỡng. Đàm Ma Ngưỡng đồng ý.

Thế là, nô tỳ chăm sóc chu đáo Đàm Ma Ngưỡng, không bao lâu bệnh của trưởng giả quả nhiên khỏi hẳn. Trong thời gian chăm sóc chữa trị, nô tỳ phát sinh tình cảm với trưởng giả, trưởng giả cũng vì sự lương thiện của cô ta mà cảm kích, hai người dan díu với nhau, nô tỳ sanh được một đứa con trai, tên gọi là Phú Na Kỳ, nghĩa là hài lòng.

Phú Na Kỳ rất xinh đẹp, khi trưởng thành rất khôi ngô tuấn tú, thông minh lanh lợi, lại rất chăm chỉ siêng năng, nhất là giỏi làm công việc kinh doanh buôn bán. Nhưng, vì chàng là con của nô tỳ, cho nên không thể làm con trai của trưởng giả, vẫn phải làm nô lệ suốt đời.

Trưởng gia lúc lâm chung, gọi hai đứa con trai lại dặn dò: "Sau khi ta chết, hai con không được chia tài sản ở riêng".

Trong vài năm đầu, sau khi trưởng giả qua đời, hai đứa con trai còn có thể theo lời dặn dò của trưởng giả mà làm, không chia tài sản. Về sau, hai anh của Phú Na Kỳ, muốn ra nước ngoài để làm ăn, mang vợ con giao lại cho Phú Na Kỳ chăm sóc, lo lắng.

Phú Na Kỳ cai quản sự chi xuất của một đại gia, rất công minh liêm chính. Nhưng sự ganh tỵ, đòi hỏi của con trai của anh thứ Tỷ Kỳ Đà Tiển Na là làm khó cho Phú Na Kỳ nhất, nó thường xuyên đến trước Phú Na Kỳ đòi này hỏi nọ, Phú Na Kỳ luôn nghĩ mọi cách để làm cho nó toại nguyện.

Một ngày nọ, trong tay của Phú Na Kỳ không có tiền, mà đứa con trai của anh thứ muốn cậu mua đồ ăn, Phú Na Kỳ đành phải nhẫn nại giải thích cho nó, nhưng nó không những không nghe lời khuyên, ngược lại còn ghét cay ghét đắng Phú Na Kỳ, còn chạy đến chỗ mẹ mách lẻo: "Phú Na Kỳ đối xứ tốt với con trai của bác, nó muốn gì được nấy, còn con thì không".

Chị dâu thứ nghe lời con trai mình, tin là thật, nghiến răng phẩn hận nói rằng: "Tên nô tài này lại dám đối xử thiên vị".

Đợi khi chồng về, hai mẹ con bèn đem chuyện ấy mách lại với chồng. Sau khi hắn nghe xong, không những không an ủi khuyên can, ngược lại còn phẩn nộ: "Tên nô tỳ hạ tiện này đã dám vi phạm lời gia huấn của ta, hắt hủi con trai ta, không giết hắn không cam!"

Chủ ý đã định, người anh thứ bèn ngỏ ý chia gia tài với anh cả. Anh cả muốn giữ lời hứa với cha trước khi lâm chung, không đồng ý chia gia tài, nhưng ngược lại đứa em thì không chia không chịu, hai anh em cãi nhau một hồi cũng không đi đến kết quả gì. Người anh cả biết rõ em trai mình hận mình đến xương tủy, nên cuối cùng cũng đồng ý chia gia tài.

Điều kỳ quái là, Tỷ Kỳ Đà Tiển Na đã đưa ra: Tất cả gia sản là một phần, Phú Na Kỳ là một phần, hai phần này anh trai tùy ý chọn lấy một phần.

Anh cả trông thấy tấm lòng hiểm ác của em trai, tội nghiệp Phú Na Kỳ, thế là, chọn phần Phú Na Kỳ. Anh cả trắng tay, mang vợ con đến nhà người khác ở đỡ.

Tuy là em trai không có được Phú Na Kỳ, nhưng kết quả này, vẫn khiến cho âm mưu của hắn được hoàn thành: Nuốt trọn toàn bộ cả gia tài.

Một ngày kia, Phú Na Kỳ nói với chị dâu: "Xin bà hãy cho tôi một ít tiền, tôi đi mua củi".

Chị dâu nói: "Chỉ có năm đồng, ngươi cầm lấy đi đi".

Phú Na Kỳ cầm số tiền chỉ có năm đồng, đến chợ củi. Thấy có một bó củi bán đúng năm đồng, bèn mua nó về.

Sau khi về đến nhà, Phú Na Kỳ mở bó củi ra, đột nhiên phát hiện trong bó củi có một "cây đàn hương sừng trâu", thật là không tưởng tượng được, chẳng biết đây là một thứ thuốc quý, vui mừng khôn xiết, bèn cẩn thận cất lại, đợi đến khi nào có cơ hội bán sẽ được nhiều tiền hơn, để mua sắm đồ dùng trong nhà.

Không lâu sau, vương hậu mắc bệnh gọi là "bệnh cảm", bệnh tình rất nghiêm trọng. Thái y mấy lần chẩn đoán, dùng mọi thứ thuốc đều không trị khỏi, cho rằng chỉ có cây đàn hương sừng trâu ép thành bột, đắp lên thân thể mới có thể loại bỏ độc nhiệt, nhưng tìm khắp cả nước, cũng không tìm được thứ thuốc này. Thế là quốc vương hạ lệnh thông báo toàn quốc:

"Ai mang đến một lạng mộc hương, thì sẽ thưởng cho ngàn lạng vàng ròng".

Phú Na Kỳ thấy cơ hội đã tới, mang một khúc nhỏ mộc hương đến, quốc vương lập tức thưởng ngay cho chàng ngàn lượng vàng. Chẳng bao lâu, mười đoạn mộc hương đều bán hết, Phú Na Kỳ được vạn lượng vàng.

Phú Na Kỳ mang tất cả số vàng này đưa cho anh trai và chị dâu, cả nhà lại cất nhà mua ruộng, mua nô tỳ, mua xe, gia cảnh giàu hơn cả trước khi chia gia tài.

Sau đó, có năm trăm thương nhân muốn ra biển lấy bảo vật, họ hẹn Phú Na Kỳ cùng đi. Phú Na Kỳ được sự đồng ý của anh trai, bèn đi cùng.

Biển lớn mênh mông, khắp nơi là bảo vật. Mọi người thỏa lòng mong muốn, tùy ý lựa chọn, mặc sức mà mang về.

Một ngày nọ, thuyền đi đến nơi nguy hiểm, chỉ thấy Nam Thiệm Bộ Châu có ba mặt trời treo trên không, mọi người đều rất ngạc nhiên, vội vã hỏi đường: "Ba ngày không biết xảy ra là kiết hay hung?"

Người dẫn đường xanh mặt trả lời: "Một cái là mặt trời, hai cái kia là mắt cá, cái trắng ở giữa là hàm răng. Chúng ta phải qua một đầu nguồn nước là miệng cá. Đây chính là một nơi rất đáng sợ. Chúng ta đã không có đường sống để đi, chết chắc rồi!".

Trong số những thương nhân, có một vị là tín đồ Phật giáo, nói với mọi người rằng:

- Các vị đừng hót hoảng, chỉ cần thành tâm niệm "Nam Mô Phật", bảo đảm bình yên vô sự.

Thế là mọi người đồng thanh tụng niệm "Nam Mô Phật, Nam Mô Phật!"

Ma Kiết Ngư nghe thấy lời niệm Phật, lập tức ngậm miệng lại lặn xuống dưới đáy biển.

Thế là các thương nhân bình yên về đến nước mình.

Phú Na Kỳ về đến nhà, mang ra một đại kim án (bàn dài lớn) trên mặt bày đầy các loại trân châu bảo vật, quỳ xuống dâng cho anh trai và nói:

- Tôi đã tích góp cho anh không ít tài sản bảo vật, nhà cửa ruộng vườn, nhưng gì cần có cũng đã có, con cháu đời đời dùng cũng không hết. Hiện nay kính mong anh cả cho phép tôi xuất gia tu hành.

Anh cả nói: "Xuất gia tu hành là chuyện tốt, ta không cản trở chú, chỉ là tuổi tác của chú vẫn còn nhỏ, không hiểu sự đời, Phật pháp khó học, hay là đợi vài năm nữa hãy đi".

Phú Na Kỳ đem đạo lý Phật giáo nhân sanh vô thường, lại đem chuyện gặp nạn ở ngoài biển thuật lại cho anh trai nghe, anh trai biết không giữ được chàng, bèn đồng ý.

Thế là Phú Na Kỳ và năm trăm thương nhân đều xuất gia làm Sa môn.

Sau khi xuất gia, năm trăm vị Sa môn nghe Phật thuyết pháp, trong lòng khai mở nhanh chóng tu thành A la hán quả, duy chỉ có Phú Na Kỳ không khai thông.

Nhưng, chàng rất thành khẩn, rất cần mẫn. Theo quy định Phật giáo, tăng nhân mỗi năm có hai hoặc ba lần ngồi thiền, mỗi lần ba tháng, gọi là "an cư". Phú Na Kỳ yêu cầu để cho họ đến Phóng Bát Quốc tọa thiền. Đức Phật nói:

- Người nước ấy biết đạo hạnh ngươi không thâm sâu, sỉ nhục ngươi thì làm thế nào?

Phú Na Kỳ nói:

- Chỉ cần không hại con, sỉ nhục, mắng nhiếc con thế nào cũng đều không sao cả.

- Vậy nhiều lần muốn hại con, thì làm sao?

- Chỉ cần không lấy mạng con, con vẫn muốn nhớ lấy ân điển của họ.

Đức Phật nói ép rằng:

- Nếu vẫn cứ muốn hại tánh mạng của con thì sao?

Phú Na Kỳ không chút do dự nói:

- Vạn vật đều là hữu hình quy về vô hình, nếu như họ có giết con, ngay cả bị chết con cũng không sợ.

Đức Phật nói:

- Người khác chửi con, đánh con, giết con, nhưng con vẫn không chết, con có phiền não không?

Phú Na Kỳ nói:

- Không! Từ đầu đến cuối, con đều không sanh lòng oán hận thậm chí một niệm (suy nghĩ một chút) cũng không có.

Đức Phật tán dương:

- Rất tốt, rất tốt! Con tu hành như thế là một cách thành đạo nhanh nhất.

Phú Na Kỳ từ biệt đức Phật, về đến Phóng Bát Quốc.

Sáng sơm ngày hôm sau chàng đến hóa duyên ở một nhà phú ông Bà la môn. Bà la môn vừa thấy hòa thượng bèn mắng, Phú Na Kỳ không mắng trả lại, bèn quay người đi.

Ngày hôm sau, chàng đến hóa duyên ở nhà Bà la môn này, Bà la môn dùng tay chân dánh đập, Phú Na Kỳ không những không đáp trả, mà còn vui vẻ, có thái độ cam tâm, Bà la môn thấy tình cảnh này, bất chợt tự hối hận.

Phú Na Kỳ qua ba tháng ngồi thiền, đạt được hiệu quả theo kỳ dự định, từ biệt thí chủ chuẩn bị đi về bên cạnh đức Phật.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Trước lúc đi, chàng đến thăm anh trai, dặn dò anh trai nhất thiết đừng đi ra biển lấy bảo vật, vì rất nguy hiểm, huông hồ gì tài sản trong nhà đủ để con cháu đời sau hưởng dụng.

Ai ngờ, không lâu sau, anh trai không nghe theo lời của Phú Na Kỳ, lại thêm vào đó là lời xúi dục của người khác, rốt cuộc lại theo các thương nhân đi ra biển lấy báu vật.

Sau khi ra đến biển, anh trai biết được sự quý giả của gỗ đàn hương, bèn liều mạng đặt đặt lên đầy thuyền. Nào ngời, rồng ngoài biển không nỡ để cho người khác lấy mộc hương, nên bắt thuyền lại giữa đường, thuyền không thể đi về phía trước.

Các người cùng đi sợ rồng không tha cho Tiển Na, vội vã gọi: "Phú Na Kỳ mau lại cứu nạn!"

Lúc này Phú Na Kỳ đang ngồi thiền ở tịnh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ, chàng đã đắc A la hán quả, có thể dùng "đại nhĩ" nghe tiếng ở đàng xa, nghe được tiếng người kêu cứu, biết rằng anh trai đang trong cơn nguy khốn, vội vã dùng "thần thông lực" của mình, biến thành Kim Sí Điểu Vương, để dọa con rồng đó.

Hải long (rồng biển) vừa trông thấy Kim Sí Điểu Vương, giật mình bỏ chạy xuống đáy biển, các thương nhân mới bình yên về đến nhà.

Phú Na Kỳ nhân cơ hội này khuyên anh trai nên tin Phật, dùng mộc hương xây thành một ngôi Phật đường. Sau khi Phật đường xây xong, lại để cho anh trai "thỉnh Phật" cúng dường. Hai anh em tay cầm lư hương lên lầu thắp hương, mời đức Phật đến dự.

Khói hương nghi ngút, tỏa khắp không trung, bay đến Phật đỉnh. Đột nhiên, khói đọng thành nước, như một dòng chảy nhỏ xuống chân Phật. A Nan thấy cũng rất kỳ quái, hỏi đức Phật nguyên do.

Đức Phật nói với A Nan:

- Đây chính là Phú Na Kỳ Tỳ kheo ở Phóng Bát Quốc khuyên anh trai mời chúng ta đến dự, cho nên tỏa hương làm tin. Ngươi mau đi chuyển lời, nói cho các Tỳ kheo thần thông, ngày mai tập họp đến đây, sau đó mọi người tự biến pháp đến dự.

Thì ra, đức Phật cũng không thể một ngày không ăn. Ngày hôm sau, người khác vẫn không có động tĩnh gì, Hỏa Phu Kỳ Hiến Trực Kỳ bèn đội "Bách Đầu Đại Oa", cầm muỗng lên đường trước, bay lượn mà đi. Tiếp theo đó, các đệ tử Phật mỗi người tự biến hóa, hoặc động vật hoặc thực vật, mỗi người theo hướng gió mà bay đi.

Tuân Đề và mười sáu vị tiểu hòa thượng, tất cả biến thành rừng cây, trong chớp mắt, đến trước mắt Phú Na Kỳ và anh trai của chàng.

Anh trai hỏi Phú Na kỳ:

- Đây chính là sư phụ của chú phải không?

- Không, đây chính là các sư đệ vừa mười tuổi đã tu đắc La hán quả.

Một La hán già biến thành một ngàn con rồng, thân rồng chi chít làm chỗ ngồi, miệng rồng nhả "thất bảo", thân phát hào quang, chiếu sáng thiên hạ.

Anh trai lại hỏi:

- Đây chính là thầy của chú phải không?

- Không, đây chính là một trong những đệ tử đầu tiên của sư phụ tôi, tên gọi là Kiều Trần Như. Khi đức Phật vừa đắc đạo, lần đầu tiên thuyết pháp ở Lộc Dã Uyển, có năm người đắc độ lần ấy, một người trong số họ là ông ta.

Anh trai nghe rồi, tôn kính gấp bội.

Ma Sa Ca Diếp hóa thành "Thất Bảo Giảng Đường" toàn thân phát sáng.

Tiển Na hỏi:

- Đây chính là thầy của chú phải không?

- Không, đây chính là Ma Sa Ca Diếp đệ tử Phật, thông qua "hóa duyên" tu hành đắc đạo.

Xá Lợi Phất biến thành sư tử ngàn đầu, kết thân làm chỗ ngồi, phía trên xếp một đại bảo tòa, bay lượn trên không trung.

Anh trai Tiển Na hỏi:

- Đây chính là thầy của chú phải không?

- Không, đây là đại đệ tử của sư phụ. Ngài chính là Xá Lợi Phất, học thức uyên bác, thông minh đệ nhất.

Anh trai vì quen biết được họ nên rất vui mừng.

Đại Mục Liên hóa làm một ngàn con đại tượng (voi lớn), miệng voi đều có ngà lớn, một chiếc ngà trên đầu có bảy bồn tắm, mỗi một bồn có sáu nhánh hoa sen, mà trên mỗi đóa sen đều có bảy vị ngọc nữ đứng yêu kiều.

Anh trai lại hỏi:

- Là sư phụ của đệ phải không?

- Không phải! Đây là Đại Mục Liên đệ tử Phật. Ngài ấy có thể biến, hiện đến "cảnh giới không suy nghĩ", có thể lội suối treo non qua lại tự do, hiệu "Thần Túc Đệ Nhất". Đức hạnh của ngài thuần khiết cao thượng, danh thơm bát ngát.

A Na Luật Đề hóa thành Thất Bảo Trì, trong ao có đầy hoa sen kim sắc, thân hoa sen là do thất bảo hợp thành, mình thì ngồi ở trên hoa sen, nơi mà ánh mặt trời chiếu rọi, đầy trời kim sắc.

Anh trai lại hỏi:

- Đây chính là thầy của chú phải không?

- Vẫn không phải, ngài ấy chính là A Na Luật Đề đệ tử Phật, hiệu là "Thiên Nhãn Đệ Nhất".

A Nan đệ tử Phật, hóa làm một ngàn con ngựa, cưỡi thất bảo xa, trên xe có thất bảo cái phát quang lấp lánh.

Anh trai lại hỏi:

- Đây chính là thầy của chú phải không?

- Đây chính là em trai của sư phụ đệ, phúc tướng hoàn mãn, đức hạnh thuần khiết, trong số đệ tử của đức Phật cũng là một người tên tuổi lừng lẫy.

Tu Tát Đê hóa thành Thất Bảo Sơn, trên núi có một động pha lê, ông ngồi nghiêm chỉnh đoan trang trong động, trên thân phát hào quang ngũ sắc, chiếu rọi thiên địa. Ngọn "Phi Sơn" này đến trước mắt của Tiển Na, Tiển Na mắt không chớp, vội vã hỏi: "Là sư phụ của đệ?"

Dáp: "Không phải. Ngài ấy gọi là Tu Tát Đề. Trong số đệ tử của sư phụ, vì kiến thức rộng rãi, lý luận cao siêu nên được xếp là đệ nhất".

Phân Đậu Văn Đà Ni Tử hóa thành một ngàn Ca Lâu La Vương, kết thân làm tọa, đầu ngẩng tứ phương, miệng ngậm các loại bảo bối, phát ra âm thanh huyền diệu, theo âm thanh mà đến.

Tiển Na hỏi: "Đây là sư phụ của chú?"

- Không, sư phụ của đệ cũng là sư phụ của ngài ấy. Chúng tôi vẫn là huynh đệ. Ngài ấy gọi là Phân Nậu Văn Đà Ni Tử, có thể nhóm họp thuyết giáo, tài biện luận không ai sánh bằng, thiên hạ đệ nhất.

Ưu Bỉ Li hóa ra ngàn con nhạn, kêu ai tương hòa, miệng ngậm các loại bảo vật, ông ta ngồi trên con nhạn từ không trung giáng xuống.

Anh trai hỏi: "Còn đây là ai?"

- Đây là Ưu Bỉ Li, trong số đệ tử Phật, ông ta giữ giới tốt nhất, gọi là "Trì Luật Đệ Nhất".

Sa môn Thập Nhị Ức hóa ra một hàng cây, hai bên hàng cây là các loại bảo bật, lại lấy pha lê màu thiên thanh lót thành đường, mọi người qua lại ở đó.

Anh trai hỏi: "Đây là ai biến thành?"

Phú Na Kỳ đáp:

- Đây cũng chính là đệ tử Phật, tên gọi là "Sa môn Nhị Thập Ức". Trong số Tỳ kheo chúng đệ, ông ta rất chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp để cầu thông đạt.

Đại Kiếp Binh Vũ hóa ra Thất Bảo Thụ, trên cây có các loại hoa quả, dưới cây có thất bảo tòa, ông ta ngồi trên bảo tòa, hào quang tỏa sáng, theo sự hư huyền mà đến.

Anh trai liền hỏi: "Phải là sư phụ của đệ không?"

- Không, đây là Kiếp Binh Vũ "Dũng Mãnh Đoan Chánh Đệ Nhất".

Một đóa hoa sen từ trên trời giáng xuống, trên hoa sen có hai người ngồi, nguyệt quang bao quanh lấy ông ta.

Anh cả lại nói với em mình: "Là sư phụ của đệ phải không?"

- Không, đây chính là đệ tử Phật, Binh Đầu Lô Đóa Đô, "Đệ Nhất Tọa Thiền".

Một ngàn đứa con trai của Chuyển Luân Vương đến trước mắt, Tiển Na hỏi em trai: "Đây là ai biến thành?"

- Đây là con trai của đức Phật, vốn dĩ ở nhà trị bì thiên hạ, không động đao kiếm, thất bảo tự đến, vì vậy nước ấy hòa bình, hạnh phúc. Nhưng, ngài ấy ngược lại bỏ mặc vương vị, xuất gia học đạo, như ngày nay đã đắc A la hán quả, đại danh là La Lĩ La.

Nói chung, cứ một người đến, là anh trai lại thắp hương, dâng hoa cúng dường. Tất cả đều là những người chàng chưa từng gặp, những điều kỳ lạ chưa từng nghe, vì vậy chàng lại càng vui mừng khôn xiết.

Khi Tiển Na tán dương hết lời, đột nhiên thấy trời đất đều thành kim sắc.

Phú Na Kỳ vội vã nói với anh trai: "Lần này là sư phụ của đệ đến, phát ra kim sắc là để báo trước".

Phú Na Kỳ vừa dứt lời, mặt đất chấn động cả lên. Đức Phật từ trên tọa bước xuống, chân vừa chạm đất, ngay lập tức đất trời nghiêng ngửa. Đức Phật vừa xuất hiện, trang nghiêm, long trọng hơn bao người khác.

Nhưng thấy, Bát Đại Kim Cang, Bát Đại Thủ Vệ, Tứ Đại Thiên Vương ở phía trước dẫn đường, Đế Thích và "Dục Giới Thiên Tử", trăm ngàn vạn người hầu thị vệ ở bên trái, "Sắc Giới Chư Thiên" vô số người đứng ở bên phải, đệ tử A Nan theo sau, ngoài ra đại chúng vây quanh, như các ngôi sao vây lấy mặt trăng bay vào tầng không, tiến về phía Phóng Bát Quốc.

Lúc này có năm trăm nông phu đang cày bừa. Các con trâu ngẩng đầu trông thấy đức Phật phát kim sắc, trong lòng kính nể, đứng ở dưới chỉ biết ngóng trông lên, quên cả việc ruộng nương. Nông dân thấy chuyện này cũng ngẩn mắt mà trông, thấy đức Phật bay qua, vội vã quỳ xuống thỉnh Phật thuyết pháp, khai độ để cho họ "vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ của sự sanh tử".

Thế là, đức Phật dừng lại ở giữa đường, thuyết pháp cho năm trăm vị nông phu. Năm trăm nông phu trong lòng rộng mở, lập tức trừ đi Nhị Thập Ức Ác (hai tỷ điều ác), thành Tu Đà Hoàn quả, sau khi chết cũng đầu thai tiên giới.

Đức Phật và tùy tùng tiếp tục lên đường. Đi không bao xa, có năm trăm đồng nữ đang dã ngoại vui chơi, đột nhiên thấy mặt đất đều có ánh kim sắc, trông thấy đức Phật đến, lại yêu cầu thuyết pháp. Sau khi năm trăm đồng nữ nghe pháp, lập tức tin nhận, cũng thành Tu Đà Hoàn quả.

Không bao lâu, lại có năm trăm tiên nhân thấy kim quang phổ chiếu, tỏa kim sắc, ngẩng đầu trông đức Như Lai đang đi trên không trung, khổ ải kêu cầu, thỉnh Phật thu nhận họ làm Sa môn. Phật theo ý nguyện của họ, ngay lập tức năm trăm tiên nhân thành A la hán, theo đức Phật đến Phóng Bát Quốc.

Phú Na Kỳ và anh trai thỉnh đức Phật đến Phóng Bát Quốc, tiếng trống reo hò, cùng hương hoa dâng lên Người, sau đó lại đến hội trường, sau khi an tọa, đức Phật được tiếp đãi những cao lương mỹ vị mà cả nhà Tiển Na dâng lên. Sau đó Người giảng kinh thuyết pháp cho cả nhà Tiển Na và Phóng Bát Quốc. Tự nhiên, diệu pháp không ngờ của đức Phật, khiến tất cả mọi người đều dạt quả thiện khác nhau. Những nam nữ ở nước ấy đều đắc đạo không thể đếm xiết.

Phú Na Kỳ một con người tốt như thế, tại sao lại là nô lệ hạ tiện? Tại sao lại có phúc phần lớn như thế có thể gặp được Phật chứ? Những nhân quả tiền định đó, đến cả A Nan thân tín của Phật cũng không thể biết.

A Nan để hiểu rõ, bèn hỏi Phật Tổ.

Đức Phật nói:

- Xưa kia, khi Ca Diếp tại thế, có một trưởng giả, gia tài vô số, vui vẻ bố thí, từng vì đức Phật và chúng Tăng tu tạo chùa chiền, cung phụng y phục, ẩm thực, dược liệu, những gì cần có cũng đều có cả. Sau khi trưởng giả chết, những thứ cúng dường dần ít lại, hòa thượng cũng tán đi cả, tự viện cũng hoang phế cả. Một ngày nọ, đến lượt một La hán đạo nhân trực nhật, sau khi quét dọn, chất cỏ lá tạp nham và đất đá thành đống ở trong sân, chưa kịp dọn sạch. Con trai của trưởng giả không hài lòng điều này, mắng nhiếc rằng: "Tên này hạ tiện như nô tài vậy!" A Nan, con biết vị Tỳ kheo mắng người khi ấy là ai không? Chính là Tỳ kheo Phú Na Kỳ ở kiếp này. Chính vì hắn xem "đạo nhân" như nô tài, chính vì câu nói ấy, hắn từng ở trong "năm trăm đời làm thân nô lệ". Lại nhờ hắn hợp với kẻ khác tu sửa chùa chiền, cúng dường tăng ni, tích đức, cho nên mới có thể gặp được ta. Còn nữa, con biết không, số người đắc đạo ngày nay của Phóng Bát Quốc, chính là những người xuất tiền tu bổ tự viện.

A Nan và mọi người ở hội trường nghe xong lời thuyết giáo của đức Phật, đều tìm tòi suy nghĩ tu hành như pháp.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CÔ GÁI MỒ CÔI VÀ QUỐC VƯƠNG
Trong Xá Vệ thành có một quả phụ. Số mạng bà ta vốn khổ, người chồng trẻ tuổi đã chết, để lai cho bà một bào thai. Sau khi con gái ra đời, cuộc sống của hai mẹ con có thể nghĩ cũng biết là cực khổ, gian nan thế nào.

Người mẹ mỗi ngày phải lê trên đường phố khất thực, để nuôi con khôn lớn từng ngày. Tuy là chưa từng ăn một bữa ăn no, không được mặc một chiếc áo mới, chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau để sống, nhưng họ vẫn sống một cách ngoan cường... Vả lại trong chớp mắt đứa con gái cũng trở thành một cô gái mười bảy tuổi rồi.

Cô con gái sinh ra trong gia đình nghèo khổ cơ hàn, cô đơn, sắc mặt xanh nhợt, nhưng những thứ này không thể dấu nổi vẽ mỹ miều và sức sống của thiếu nữ tuổi thanh xuân. Cô ấy đoan trang tú lệ, ôn hòa cẩn thận, thuần khiết, trong sáng, nhân phẩm hiền thục, là một cô nương tốt thấu tình đạt lý. Không những như thế, cô còn được kế thừa gia đình có truyền thống học hành, thuộc làu kinh thư, thông hiểu nghĩa niệm kinh. Cho nên, dù cuộc sống có đói rét cơ hàn, thì người mẹ vẫn còn một niềm an ủi và ngưỡng mộ là đứa con giái dù khổ cực, họ cương quyết không bán sách để nuôi thân.

Ngoài ra, người mẹ hàng ngày vẫn dạy con rằng: Phải giữ gìn đạo làm vợ, không thể tùy tiện xuất đầu lộ diện, đặc biệt là đối với người lạ. Trước mặt người ngoài, phải cẩn thận tự trọng, nhất định không được coi thường. Con gái luôn luôn làm theo lời dạy của mẹ, chân không bước ra khỏi cửa.

Tuy cô gái mồ côi chỉ ở nhà nhưng lòng cô ấy rất cao thượng. Trong lòng của cô ấy, có hai nguyện vọng lớn lao đang ấp ủ. Đây chính là bí mật lớn nhất của cô ấy, thậm chí cả mẹ mình, cô cũng chưa nói ra. Cô gái mồ côi này cả ngày ở trong phòng mong đợi một ngày có thể thực hiện được mong ước.

Một ngày nọ, quốc vương xuất cung du hành, rong ruổi trên lưng ngựa. Đang lúc du ngoạn, đột nhiên thấy một con chim đậu ở trên đỉnh mái nhà bên đường, hót lên tiếng kêu bi ai, lưỡng lự không chịu bay đi. Quốc vương cảm thấy con chim này thật lạ:

"Âm thanh vang dội của đoàn người và ngựa đông như thế, sao con chim này không kinh sợ bay đi, mà còn đậu trên mái nhà rất tự tại. Sao lại có gan to như thế chứ? Hay thật, hay thật".

Ngĩ rồi, quốc vương nắm chắc dây cung, lấy mũi tên. Trông dáng vẻ cử động khác thường của con chim này khiến cho quốc vương có hứng săn bắn. Quốc vương giương cung kéo tên, nhắm kỹ con chim, một mũi tên bay ra là trúng ngay con chim ấy, nó vỗ đôi cánh nhấc mình lên, mang theo mũi tên bay khỏi mái nhà, bay thẳng vào trong nhà một cách khó khăn.

Quốc vương bèn lệnh cho người hầu cận đi mang mũi tên ấy về. Người hầu không dám chậm trễ, vội vã đuổi theo dấu vết của con chim, chạy đến trước cửa ngôi nhà vừa trông như đã lâu năm không tu sửa, cũng không màng gõ cửa, xông vào không chút khách sáo lịch sự, tìm kiếm lục lọi khắp nơi.

Đột nhiên, trong nhà vang lên một tiếng nói ôn hòa của một cô gái: "Đừng tìm nữa, mũi tên ở đây này, cầm lấy mà đi đi".

Nói rồi, con chim bị thương ấy từ trong nhà bay ra, trong chớp mắt chẳng thấy hình bóng nó đâu nữa, mà chỉ thấy mũi tên rơi "bộp" một tiếng ở ngoài sân.

Người hầu bắt đầu có chút nghi ngờ, ngơ ngẩn trông về mũi tên trên đất, nhưng trong đầu ngược lại chỉ nghĩ đến cô gái, chỉ nghe tiếng nói không thấy mặt, ngoài cửa tiếng ngựa hí dồn vang, nhắc nhở người hầu, hắn vội vã cầm lấy ngự tiển của quốc vương. Hắn vọt ra ngoài sân, chạy thục mạng.

Cô gái thần bí chỉ nghe tiếng không thấy mặt ấy, chính là con gái mồ côi của người quả phụ.

Lại nói đến quốc vương, trách hỏi người hầu tại sao lâu như thế mới mang mũi tên về, người hầu bèn kể lại chuyện cô gái ấy phóng sinh trả tên mà mình đã gặp. Quốc vương nghe xong cũng cảm thấy lạ, nhưng không để ý.

Năm này, vương hậu quốc vương đột nhiên bệnh vong. Tang sự làm xong, ông phái người tìm kiếm khắp nơi một cô gái đẹp ngoan hiền, để thay vào tôn vị của vương hậu. Nhưng tìm khắp trong nhân gian, vẫn không có một cô gái nào như đức vua yêu cầu, không phải là không đẹp, thì là không cao nhã, không phải là không hiền đức, thì chính là không tài trí, nói chung, một cô gái tôn quý phẩm hạnh song toàn, dung nhan kiều diễm thì thật là khó kiếm.

Đang khi quốc vương buồn rầu chau mày, lo lắng không vui, tên cận thần đuổi chim lấy tiển ấy nhắc nhở với ý thăm dò:

- Bệ hạ còn nhớ lần xuất cung tuần du trước, khi bắn một con chim gặp một cô gái kỳ lạ không? Tuy không gặp mặt nhưng nghe tiếng nói trong trẻo ngọt ngào, như rót mật vào tai, có thể đoán là đang độ tuổi yêu đương. Lại nói hành động của cô ấy, vừa trông thấy thì đã biết một cô gái có đọc sách thông hiểu lý lẽ, vã lại có lòng từ bi khoan dung, nhất định là quí nhân. Hiềm một nỗi, nhà cô ta rách nát hoang tàn, trông ra thì gia cảnh khốn cùng suy lạc, rất cơ hàn; lại không phải là nhà thân quan thích quốc, địa vị thấp hèn, e bệ hạ ngại địa vị của cô ấy, khó sách lập vào ngôi vương hậu. Không biết ý bệ hạ như thế nào? Bệ hạ có muốn tiểu thần tìm rõ nguồn cơn một lần không?

Quốc vương trầm ngâm nói:

- Cũng được, xem ra cô ta không giống người trong thiên hạ. Còn địa vị, không phải chỉ cần một câu nói của quốc vương ta đây thì mọi chuyện sẽ yên ổn sao? Quan trọng là nhân phẩm tướng mạo của cô ta. Thế này đi, ngươi nhanh chóng mang cô ta về cung, ta sẽ mới thầy tướng số xem tướng diện cho cô ta, xem thử mạng của cô ta là hung hay kiết, là tiện hay quí, sau đó hãy quyết định.

Cận thần làm sứ giả của quốc vương phụng mệnh đến nhà cô gái mồ côi cấy, chỉ có một mình cô trong nhà. Sứ giả đứng trong vườn, ngẩng đầu, ưỡn ngực, nhón chân gọi to rằng:

- Cô gái trong nhà, mau ra đây! Quốc vương triệu cô vào cung hỏi chuyện, không được thất lễ, nhanh lên!

Nào ngờ gọi hết ba lượt, trong nhà vẫn không chút phản ứng, cũng không có người ra. Khiến trong lòng cận thần có ý không vui: "Ta đường đường là đặc thần của quốc vương. Sao lại dám thất lễ?", sứ giả lại thét lớn:

- Ngươi chẳng qua chỉ là một cô gái bần tiện, có lý do gì mà thanh cao? Đến quốc vương cũng dám mạo phạm sao? Mau ra đây!

Nói vừa dứt lời thì nghe tiếng đáp lại từ trong nhà:

- Chẳng lẽ người bần tiện lại không phải là người sao? Chẳng lẽ ngôi nhà hàn vi không phải là nhà sao? Nên nhớ người bần tiện cũng có tôn nghiêm, nhà hàn vi cũng có quy củ. Người đã là đặc sứ của quốc vương phái đến, tại sao lại mạo phạm thất lễ xông vào nhà người khác thế, vả lại còn hô to gọi nhỏ, tại sao một tý qui củ lễ nghi tối thiểu cũng không hiểu thế?

Sứ giả đang khi bị mắng liên hồi, ngạc nhiên đến nỗi há hốc mồm ngơ ngác, chỉ thấy rèm cửa vừa vén lên, một cô gái thướt tha yểu điệu, quí phái tao nhã, diện mạo thanh tú thuần khiết xuất hiện trước mắt. Một chút ngại ngùng khiến khuôn mặt cô có hơi ửng đỏ, đôi mắt long lanh có thần, càng hiện rõ dung nhan kiều diễm, môi mắt mê ly.

Sứ giả khen thầm, cảm thấy rất tốt, bất chợt lùi hai bước, nhắc lại ý chỉ một lần nữa. Sau đó nói thêm một câu: "Cô thật là một viện ngọc trong ngôi nhà nhỏ, sao lại to gan đến thế?"

Cô gái mỉm cười, hỏi một cách rất kiêu ngạo:

- Quốc vương có việc gì mà phải ngài đến mời tôi vào cung thế? Chẳng lẽ để tôi làm nô tỳ nô bộc? Nhà tôi có quy có củ, an phận thủ thường, chưa từng phạm qua vương pháp, dựa vào đâu mà bắt tôi làm nô tỳ? Nếu như đến triệu tôi vào cũng làm vương hậu, vậy thì ngài thành ra là người hầu của ta. Nhưng ngươi lại dám khinh cử manh động như thế, thô lỗ như thế? Vả lại còn dùng ngôn ngữ bất cung bất kính để trêu ghẹo, sỉ nhục bổn cô nương, điều này không phải là bức bách uy hiếp sao? Bổn cô nương tuy địa vị nhỏ nhoi, không phải là đại gia khuê các, hào môn quí nữ, nhưng lòng tự tôn của ta quyết không cúi đầu trước quyền lực bức bách uy hiếp này đâu!

Nói rồi, cô đi thẳng vào nhà, đầu cũng không màng quay lại.

Sứ giả nhanh chóng đi về cung, thuật lại rành mạch sự thể cho quốc vương nghe, trong lòng vui vẻ. Quốc vương nghe xong, luôn miệng kêu tuyệt, lập tức triệu văn võ bá quan lại, sau đó phái năm trăm tài nữ cùng đi nghênh tiếp.

Chiếu lệnh vừa phát, trên dưới trong cung lập tức ríu rít lên, không đến một buổi trời, tất cả chuẩn bị nghênh đón hàng hàng lớp lớp trên đường.

Chỉ thấy sứ giả ngồi trong xe trang trí một cách trang trọng tôn nghiêm, ngũ mã gia ngự (người điều khiển xe có năm ngựa) đánh một chiếc xe hoa to lớn chứa đầy sỉnh lễ bò, dê, heo, rượu..., có mười vạn tinh binh làm tiền đạo, xe cộ lớn nhỏ không dưới một ngàn, phiêu kỵ mã hàng trăm hàng vạn; thị vệ nô bộc có mười hai vạn người; thêm vào đó đội nhạc trống chiếng rầm rộ, thổi thổi đánh đánh, âm thanh vang dội, kinh thiên động địa, đội ngũ kéo dài đến mấy mươi dặm. Bá tánh men theo đường trông coi không thể nào kể xiết.

Đội ngũ đón dâu trước nay chưa từng đến trước nhà của cô gái. Sứ giả xuống xe, khấu môn bái thỉnh rất cung kính. Cô gái được mẹ dẫn ra gặp sứ giả. Trong cảnh tượng này, trong lòng ngường ngượng, nói:

- Đa tạ đặc sứ đại nhân, văn bõ bá quan và thị vệ sứ thần. Trên đường đi vất vả mệt nhọc, thật là phiền mọi người! Đứa con gái ti tiện bần cùng của lão, đâu dám phiền chư vị đại nhân, thị thần gian khổ như thế.

- Ý đến của sứ giả ngài không nói cũng biết, nhưng e là tôi không đủ sức, đành để chư vị không làm tròn chiếu lệnh của quốc vương. Nghĩ tôi xuất thân bần tiện, cử chỉ thô thiển, tuổi tác lại nhỏ nhoi, không hiểu chuyện đời, vô đức vô công.

Sứ giả vừa nghe cô gái nói như thế, trong lòng vội vả, toát mồ hôi lạnh. Muốn thuyết phục cô ta, nhưng nhất thời lại tìm không ra lời thích hợp. Không đợi sứ giả đáp lời, cô gái lại nói tiếp:

- Tỳ nữ đã không có diện mạo hoa nhường nguyệt thẹn, cũng không có tiếng nói ngọt ngào trong trẻo, thân thể không mượt mà như tử ngọc kim hoa, không có hương thơm chiên đàn (cây đàn hương); nói chuyện thiếu mỹ đức trung nghĩa hòa hợp, nhân từ lương thiện, cử chỉ không biết thâm thiển tiến lui uyển chuyển. Cho nên không thể đương nổi chức vị vương hậu. Tấm lòng của quốc vương và lễ vật của chư vị e rằng tôi cũng không có tư cách để nhận lãnh, các vị lần này e chỉ là có thể phí công vô ích rồi.

Sứ giả và văn võ bá quan không ngờ rằng, nhưng lời vàng ngọc ấy lại được nói ra từ một cô gái bình thường như thế này. Vì vậy, vừa nghe xong, không ai không cảm kích, bội phục, gật đầu khôn xiết, luôn miệng ngợi khen. Ngay lập tức, họ bèn gọi năm trăm tài nữ lại, dặn rằng:

- Các vị có biết tại sao những người hồng nhan thanh xuân, lại bạc phước chỉ làm một nô tỳ như thế này không? Vẻ đẹp bên ngoài là chưa đủ. Đã mang mệnh nô tỳ hạ nhân thì hãy an phận thủ thường, khắc chế mình đi, phục thị tốt cho quốc vương, tu luyện thiện tâm mọi lúc, làm nhiều việc thiện, tuân theo mệnh lệnh của nhà vua, không phạm cũng qui.

Các tài nữ luôn miệng hứa, tạ sự giáo huấn của sứ giả và văn võ bá quan. Sau đó, lại gọi hai ngàn năm trăm vị công tử đến hầu:

- Người sinh ra vốn đã không phân quí tiện, nhưng một người nếu ngày sau trong quá trình trưởng thành có thể chuyên tâm, cầu học, đắc đạo ý đối nhân xử thế và chân lý cuộc đời, người này chính là nhân thượng chí tôn chí quí. Các ngươi đều là hậu duệ của quan lại, công thần, học giả. Tiền bối của các ngươi đều vì quốc gia lập công, lập nên sự nghiệp. Các ngươi không thể ngồi không để hưởng thành quả đó, nhưng cũng không cần quảy gánh gì cả, nên tìm vết chân của tiền nhân để đi theo con đường của mình.

Các thiếu niên công tử đều cúi người thi lễ, tạ lời giáo huấn.

Lúc này, bá quan từng người, từng người một bước lên phía trước, dâng sính lễ của quốc vương cho cô gái: Một ngàn bánh vàng, hai ngàn bánh bạc; vòng đeo hoa lệ, pha lê tinh luyện, trâu châu lấp lánh, san hô nhiều kiểu dáng, hổ phách thần bí; bạch tố thiên thất, ngự liêm thiên thất; hằng trăm chiếc áo lụa là quí hiếm, đỏ, nâu, tím, xanh, vàng, trắng, còn có các lại cỏ thơm, túi thơm, phấn thơm, không dưới ngàn loại. Bá quan, sứ giả cũng quỳ xuống, cầu xin cô gái tiếp nhận lễ vật theo họ vào cung.

Cô gái bị ép đến nỗi không thể từ chối. Sứ giả trông thấy thế, nhân cơ hội này, liền ra lệnh dâng y phục vương hậu cho cô gái, cùng trăm thứ trang sức trang điểm kèm theo, rồi lệnh cho cung nữ nhập cung phục thị vương hậu ăn mặc trang điểm.

Một lúc sau, chúng tài nữ vây quanh tân vương hậu vinh hoa phú quí, tôn nghiêm trang nhã, rạng rỡ kiêu sa xuất hiện trước công chúng. Văn võ bá quan trông thấy, tung hộ vạn tuế, khen ngợi, tất cả đều cho rằng có một vị vương hậu như thế này, quốc gia tất nhiên hưng thạnh thái bình. Những cung nữ ấy, các người hầu ấy càng vui mừng khôn xiết, vây quanh vương hậu, như con tìm thấy mẹ vậy, họ cảm thấy vô vàn hạnh phúc. Đó là ngày trời quang mây tạnh chim hót líu lo, đúng là một cảnh tượng tốt đẹp.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đội ngũ đón dâu này lại lần lượt kéo về vương cung. Cứ như là cưới được một phu nhân tôn quí trên thế gian hiếm thấy vậy. Trên dưới trông ngoài cung điện đều lộng lẫy nào là xanh vàng đỏ tím... sáng rực một vùng. Năm trăm người hầu tiến vào cũng bái kiến quốc vương. Quốc vương trông thấy trong cung sáng chói rực rỡ, ngơ ngác không hiểu. Sứ giả vội vàng thuật lại tỉ mỉ, cặn kẻ quá trình đón dâu, sau đó gọi các cung nữ dìu tân vương hậu vào cũng bái kiến quốc vương.

Cô gái mồ côi tiến vào cung, ngại ngùng e thẹn, cúi đều quỳ bái, dáng vẻ thướt tha, nhu nhã, dù chỉ một động tác nhỏ cũng đều thể hiện phong thái khoan thai, say đắm lòng người! Quốc vương bất giác gập người đáp lễ, tiến lên phía trước dìu tân vương hậu đi, cẩn thận nhẹ nhàng, càng thấy càng yêu, trong lòng khen thầnm: "A! Thật là một thiếu nữ nhu nhã hiền thục, nhân nghĩa hòa thiện, ta thật là có phúc thần. Trong thiên hạ lại có một cô gái tốt như thế này sao, ta tìm được nàng, thật là mãn nguyện!"

Từ đó, cô gái mồ côi chánh thức vào cung làm vương hậu. Bình thường nàng không nói nhiều, nhưng đã nói thì tất nói lời có lý, có nghĩa, có tiết, rất mực trung thực, chuyện khó khăn gì thì cũng giải quyết được. Mọi người trong triều, không ai không kính phục, không ngưỡng mộ. Còn quốc vương vừa yêu lại vừa kính.

Từ ngày tiến cung làm vương hậu đã là bảy ngày bảy đêm. Nhưng trong bảy ngày bảy đêm này, cô không chợp mắt được, không hề dán lưng xuống chiếu, suốt ngày suốt đêm đều vui đùa cùng ca nhân, tài nữ. Các cung nữ mấy lần truyền báo, nói rằng quốc vương muốn gặp vương hậu, nhưng đều bị cô ta cự tuyệt. Quốc vương năm lần bảy lượt bị cự tuyệt ở bên ngoài cửa, đã nhịn không nổi nữa, huống hồ chi cô ta là phu nhân tân hôn. Quốc vương bèn cho cũng nữ đi hỏi rõ nguyên nhân, tại sao vương hậu không gặp mặt.

Không bao lâu, cung nữ về tâu:

- Vương hậu nói phải giữ gìn trinh tiết, muốn giữ gìn sự trong trắng, không thể bị những thứ không trong trắng làm ô uế, cho nên không thể nói chuyện với quốc vương, càng không thể gặp mặt.

Quốc vương nghe xong, vừa tức cười lại vừa tức giận. Lệnh rằng:

- Ngươi hãy đi nói cho vương hậu biết, đã gọi là một nhà, thì đã có danh phận phu thê giữa hai người. Vợ và chồng phải có ân ái, chũng chăn xẻ gối. Người vợ bảy ngày đêm từ chối chồng mình ngoài cửa, không có lý do nào không gặp mặt, đấy là nghĩa lý gì? Chẳng lẽ lại hợp gia pháp lễ nghi sao?

Một lát sau, cung nữ chuyển lời quay lại, đem nguyên lời vương hậu nói với quốc vương:

- Có một bí mật hôm nay muốn cho ngài biết. Trong lòng thiếp vốn có hai tâm nguyện lớn, một là đã thực hiện, chính là thành hôn với quốc vương, nhưng vẫn còn có một tâm nguyện chưa được thực hiện, cho nên không thể gặp mặt ngài!

Quốc vương cảm thấy tân vương hậu thật không đơn giản chút nào, toàn làm những việc mà thế gian không ai giống, đều này làm cho ngài cảm thấy có hứng thú, không hỏi rõ nguồn cơn không được.

- Vương hậu có thể nói cho trẫm biết nguyện vọng thứ hai đó là gì không?

Vương hậu trả lời:

- Thiếp từ nhỏ đã hứa nguyện, lớn lên nhất định phải được gả cho một vị quốc vương, tâm nguyện còn lại chính là phụng thờ Phật Tổ.

Quốc vương thỉnh cầu nói:

- Đã có tâm nguyện như thế, thì chúng ta hãy cùng gặp mặt trước, sau đó ta giúp nàng thỉnh Phật, thế nào?

- Không được, nếu không gặp đức Phật trước, thì thiếp và quốc vương vĩnh viễn không thể gặp mặt.

Quốc vương nghe xong lời này, ngay lập tức nổi trận lôi đình, hét lớn:

- Ngươi vốn là một kẻ ăn mày hạ tiện bần hàn, sao dám mạo phạm kháng cự một quốc vương uy quyền như ta đây! Thật là không biết tự lượng sức mình!

Vương hậu trả lời:

- Người xưa nói vận mệnh của người phụ nữ nằm trong tay của chồng, phu xướng phụ tùy, là chuyện đạo lý trời đất, thiếp và ngài đều phải thuận theo, thiếp càng phải nghiêm khắc tuân thủ đạo làm vợ. Nhưng thiếp thực sự có một sở nguyện, đã lập nên lời thề, tuyệt đối không thể vi phạm! Đại vương tuy là chí cao vô thượng, cũng không thể ép buộc thiếp được!

Vương hậu thấy quốc vương đang nổi cơn thịnh nộ, lại đang cố hết sức giữ lấy sự tôn nghiêm của mình, bèn hòa nhã khuyên giải, khai đạo rằng:

- Quốc vương là cha mẹ của bá tánh, phán đoán thị phi ngay thẳng nên lấy công lý, công đức làm gốc, sao có thể dựa vào sự ghét yêu của mình, theo tánh tình mà hành động như thế? Cách làm này đến người bình thường cũng không chấp nhận được, huống hồ ngài lại là một quốc vương được chúng dân tin yêu, mang đội.

Quốc vương bị vương hậu hỏi đến không biết phải trả lời thế nào, lại không chịu thua, càng cứng nhắc giương cổ giận dữ nói:

- Ta không cần biết nàng nói đến đạo lý gì, ta cứ làm theo cách của ta ai nói gì thì mặc, thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết! Cho dù là ai cũng mặc!

- Quốc vương đã nói như thế, vậy thì được! Tiểu nữ cũng có một tấm lòng, nếu thuận theo lòng thiếp thì gặp mặt, không thuận theo lòng thiếp thì vĩnh viễn không gặp mặt nhau.

Quốc vương thực sự hết cách với vương hậu, nhưng ngài quá thương yêu nàng. Càng bị nàng chỉ trích, càng cảm thấy cô ta đáng yêu, càng không thể bỏ lỡ.

Cuối cùng, quốc vương nhượng bộ:

- Vậy thôi được, nàng nói làm thế nào để thỉnh cầu đức Phật đi.

- Chẳng lẽ điều này cũng khó sao? Đức Phật vốn ở nước ta, nếu thành tâm thỉnh mời thì nhất định gười sẽ đến.

- Phu nhân có điều không biết, khó thì không phải khó ở chỗ này, mà khó ở chỗ văn võ bá quan. Nếu như ta mời đức Phật vào cung, họ nhất định sẽ cười nhạo ta, nói như thế, quốc vương ta đây có còn uy tín gì nữa chứ?

Vương hậu rất tự tin cổ vũ quốc vương:

- Đại vương bất tất phải lo âu, chỉ cần ngài mời đức Phật vào cung, còn thái độ của bá quan, thiếp bảo đảm họ sẽ vui vẻ, cầu còn không được, tuyệt đối không cười nhạo chê bai ngài.

Ngay ngày hôm ấy, quốc vương bèn truyền lệnh các đầu bếp của ngự thiện phòng (bếp của nhà vua) bảo họ ngày đêm làm một bữa cơm cho mười vạn người. Sau đó phái cung nữ đi hỏi vương hậu.

- Ta đã truyền lệnh chuẩn bị bữa ăn cho mười vạn người, đến lúc đi thỉnh cầu đức Phật được rồi chứ?

Vương hậu trả lời:

- Đạo vợ là phải nghe theo chồng. Thỉnh cầu đức Phật không phải là chuyện qua loa, lấy lệ, lễ nghi không thể sơ sài được! Đại vương tốt nhất ngài nên hạ giá đích thân đi nghênh thỉnh, gặp đức Phật còn phải làm đại lễ, cung kính chứ...

Không đợi vương hậu nói xong, quốc vương bèn cướp lời nói rằng:

- Được rồi, được rồi, đến đây là chấm dứt. Nếu là ta muốn thỉnh cầu đức Phật, thì ta đi. Nếu là nàng muốn thỉnh cầu đức Phật, vậy thì nàng đi. Ta sẽ không thay giúp.

- Đại vương hàng ngày tôn quý uy nghiêm, lại là chồng thiếp, thiếp chỉ làm ngài mất chút sức lực, chứ làm sao chống lại được uy lực câu chữ của ngài. Nể tình vợ chồng, ngài hãy đích thân đi một chuyến, nếu không, chúng ta không phải như người xa lạ không duyên không phận sao?

Không nhắc đến tình vợ chồng thì thôi, nhắc đến chỉ làm chạm vào nỗi đau của quốc vương, ông không vui vẻ, ném ngay một câu oán giận rằng:

- Sao, "phu thê" gì chứ? Chẳng lẽ chúng ta đã là vợ chồng rồi sao? Đã không thành phu thê chánh thức, lại nói gì đến tình duyên, đạo nghĩa!

Vương hậu nghe xong, trầm ngâm không nói, trên mặt ửng đỏ, càng tăng thêm sự quyến rũ mê người, quốc vương sợ nàng đi một mình, lại càng sợ nàng sẽ bỏ đi luôn, nên lệnh cho vệ binh trong ngoài cũng và tuần đêm càng phải canh phòng cẩn mật, chú ý lưu tâm, đóng kín cửa cung, nhất thiết không thể đẻ cho vương hậu ra ngoài. Ba bước một lính canh, năm bước một trụ gác, cảnh thượng trong cung như đang bố trí thiên là địa võng, đến một con chim cũng đừng hòng ra khỏi.

Lại nói đến vương hậu, nàng cũng cảm nhận được tất cả, vả lại cung nữ bên canh nàng cũng thấy nhiều hơn, chia theo giờ giấc hầu hạ nàng, canh giữ không rời mắt. Trong lòng nàng hiểu rõ, quốc vương sẽ không đi thỉnh cầu đức Phật, vả lại còn thể hiện sự không tin tưởng mình, phái nhiều người như thế trông coi, giam lỏng mình. Nàng lắc đầu thở dài, bèn biến mất.

Các cung nữ và phi tần thấy vương hậu đột nhiên biến mất, hốt hoảng cả lên, chạy tán loạn tìm kiếm khắp nơi. Nhưng trong ngoài cung, bụi cây góc tường lục tung mọi ngõ ngách, vẫn không tìm được gì.

Lúc này quốc vương rất hối hận, đứng xuôi tay tiu nghỉu, nước mắt chảy dài: "Đều tại ta, đều tại ta cả, nhất thời cố chấp, nói những điều làm tổn thương lòng nàng, bây giờ có hối cũng không kịp nữa rồi, làm sao đây? Làm sao đây? Chỉ cần nàng có thể quay trở lại, bảo ta làm gì cũng được, chuyện gì ta cũng làm theo nàng".

Các phi tần bên cạnh nói:

- Vương hậu không phải là do bọn chúng tôi lơ là. Đại vương nên theo lòng nàng, tùy ý nàng mới được, sao có thể làm theo sở thích của mình mà nặng lời tổn thương đến vương hậu chứ. Hiện nay sự tình cũng đã rõ, vương hậu không phải là hạng phàm phu tục tử, mà là quý nhân từ trên trời! Như bây giờ đại vương ép quá, nàng bỏ ra đi, bảo bảy mươi mốt người chúng tôi phải đi theo ai bây giờ? Ôi...

Cung nữ và các người hầu khóc than kể lể ở bên cạnh, như là tân nương chết rồi vậy, đại thần khanh tướng đều thương tiếc, oán trách; đến cả chim chóc cũng không buông tiếng hót, thê lương đến nát lòng. Quốc vương càng đau khổ, ngẩng mặt lên trời than thở, nước mắt đầm đìa. Bá tánh thị dân đều ngưng đốn công việc, nông dân bỏ cả ruộng đồng. Chợ búa tiêu điều, mọi người ngồi lại bên nhau, ôm đầu khóc...

Bảy ngày bảy đêm qua đi, quốc vương nằm trên giường, không động đậy, không ăn, không uống. Các cung nữ thấy tình cảnh này, đều cuống cuồng khuyên can ngài:

- Đại vương, ngài cứ như thế này thì không được, có bỏ nước, quên tính mạng thì cũng không thể khiến vương hậu sống lại! Không biết ngài đích thân đi gặp đức Phật, thỉnh cầu ngài vào cung, có lẽ đức Phật sẽ giúp được chúng ta.

Quốc vương gặp đức Phật, lập tức quỳ xuống khấu đầu bái lạy, nói rõ ý định đến đây, muốn thỉnh cầu đức Phật vào cung. Đức Phật hỏi quốc vương:

- Thân là quân vương của một nước, chính sự quốc gia nhất định bận rộn, không ít lo âu, thật là nhọc thân. Mạo muội hỏi ngài một câu, ngài trị vì quốc gia vẫn cường thịnh chứ, cuộc sống của bá tánh có bình an không?

Quốc vương buồn sầu nói:

- Tuy nói là quốc thái dân an, nhưng có một việc lớn mà tôi chưa giải quyết được, đến nỗi ngày nay nước buồn dân oán. Điều do tôi mà ra cả. Cho nên đặc biệt đến đây thỉnh cầu người, để thực hiện nguyện vọng trước đây nên làm mà chưa làm, cũng là bù đăp lương tâm. Nhưng nguyện vọng của tôi thế nào đây?

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Bồ Tát và La Hán

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Đức Phật thấy tâm trạng của quốc vương hối hận và tuyệt vọng, trong lòng đã biết. Ngay tức khắc, đức Phật được mời lên ngự xa, cùng tiến về cung điện.

- Quốc vương mời đức Phật đến cung rồi! Đây là nguyện vọng của vương hậu.

Tin tức vừa truyền đi, trên dưới cả nước đều chấn động, mọi người đều kỳ đợi đức Phật có thể mang lại hạnh phúc cho quốc gia, cho rằng vương hậu sùng bái đức Phật như thế này, nhất định có nguyên do gì.

Quốc vương cung phụng đức Phật như thượng khách, chuẩn bị vị trí tôn quý. Đức Phật vừa an tọa thì trông thấy vương hậu dẫn chúng thị nữ mỹ nhân và tài nữ tổng cộng có ba ngàn năm trăm bảy mươi mốt người tiến về đức Phật thi đại lễ. Tất cả mọi người tại tọa, chỉ có Phật nhãn của đức Phật mới có thể trông thấy vương hậu, mà tục nhãn của quốc vương, tài nữ, phi tần vốn không thể trông thấy.

Đức Phật quay đầu lại trông thấy quốc vương tâm sự nặng trĩu, u sầu trên mặt, mỉm cười và từ tốn cất tiếng nói rằng:

- Bệ hạ, vương hậu mà ngài sớm tối hằng mong, xa tận chân trời gần ngay trước mắt! Ngài trông ai đang đứng trước đây?

Quốc vương định nhãn lại, vừa kinh hoảng, vừa vui mừng:

- Ôi! Đây chính là vương hậu của trẫm sao! Vương hậu, thật là nàng sao?

Văn võ bá quan, phi tần, tài nữ cũng với những người trên dưới trong cung đều hoan hỷ cả lên. Quốc vương ngay lập tức hạ lệnh bày biện chay yến, để nói lên tấm lòng cảm kích. Dùng xơm chay xong, đức Phật nói với chúng sanh:

- Hôm nay là ngày đáng mừng, đáng vui, trong lòng chư vị có nguyện vọng gì hãy nói ra đây, ta nhất định sẽ đáp thành ước nguyện của các ngươi.

Quốc vương vội vã hỏi rằng:

- Vương hậu của ta xuất thân nghèo khổ, địa vị nhỏ nhoi, còn là một đứa mồ côi cha. Bây giờ làm vương hậu của một quốc gia, vả lại nhân nghĩa hiền đức, tấm lòng từ bi lương thiện, nói chuyện rung động lòng người, luôn sợ sẽ làm tổn thương người khác. Một vương hậu tốt như thế này thiên hạ được mấy người? Sao có thể để cho nàng biến đi mất trong bảy ngày, bảy đêm, thoát ly nhân gian, đến nơi quỷ thần chịu cái khổ kinh sợ hãi hùng chứ?

Đức Phật biết quốc vương nhất định sẽ hỏi rõ nguồn cơn, bèn nói chậm rãi từ tốn rằng:

- Kiếp trước của vương hậu này vốn là một nam nhân, là một vị cư sĩ của Phật giáo, ông ta giỏi lý luận. Tuy gia tài của gia đình ông ta vô số, rất giàu có, nhưng ngược lại là một người hà tiện, tham lam tiền của, không nỡ thí xá cho Phật môn một thứ gì. Cho nên kiếp này để cho ông ta là một người nghèo khổ không thân, không phận.

Ngoài ra vị cư sĩ này còn ham mê tửu sắc - cho nên kiếp này cũng để cho ông ta trở thành con gái, cùng với cô gái khác gần gũi ngày đêm.

Đương nhiên những điều này không mất đi trí tuệ học thức của cư sĩ, cùng với thành tựu mà ông ta đã đạt được trong Phật học. Do ông ta thích kết giao với học giả nổi danh, ẩn mình tu luyện, nghiên cứu đạo nghĩa Phật giáo trong lòng nên ngày nay mới có thể gặp được ta.

Ở kiếp này, cư sĩ hóa thành phụ nữ, kết thành phu thê với quốc vương. Nhưng vì trong tiền kiếp khi cô ta hầu phụng năm trăm đức Phật, lòng không trung kiên, thân bất tận tình, cho nên kiếp này ở trong luân hồi phiền não, đầu thai thành một phụ nữ.

Đức Phật ngừng lại một lúc, nhìn quanh mọi người, rồi nói:

- Vương hậu phải qua ba mươi chín kiếp, mới có thể đắc đạo thành Phật. Đại vương cũng phải đầu thai trên trời bảy lần, đầu thai dưới trần thế bảy lần. Khi đại vương đầu thai trên trời, vương hậu là thiên nữ, hầu hạ bên cạnh quốc vương, rất tâm đầu ý hợp. Hai người các ngươi sẽ sanh tử cùng theo nhau cùng làm bạn, mấy đời mấy kiếp trung trinh không đổi, cùng giúp đỡ lẫn nhau, cuối cùng giải thoát luân hồi. Sự kiêu ngạo trước đây của quốc vương, nếu thuận theo ta, dù ta có mất mãi mãi sẽ không tái phạm nữa.

Quốc vương nghe xong trong lòng vui mừng khôn xiết, tức là đắc đạo. Ngay lúc đó ông xin đức Phật cho mình thọ "ngũ giới", sau đó truyền chiếu lệnh cho các phi tần, tài nữ, công khanh lớn nhỏ, quan sứ cùng với toàn dân bá tánh, đều phải tín ngưỡng tuân thủ "ngũ giới" - không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

Vương hậu trước đây cũng từng thụ qua "thập giới", nàng ở trong cung chay giới, quy định một năm ba lần đại chay, một tháng sáu lần tiểu chay, cai quản trên dưới ba ngàn năm trăm bảy mươi mốt cô gái. Quốc vương chỉnh đốn triều cương, chính trực rõ ràng, kỷ luật nghiêm minh, khoan dung đối đãi với người, hành sự có quy chế để theo, có phép tắc để dựa. Quốc gia ngày càng cường thịnh thái bình, hòa thuận yên vui. Quốc vương cho tất cả đó là công lao của đức Phật, nên sử dụng rất nhiều đất, gỗ xây chùa dựng tháp, xướng đạo Phật giáo, khiến cho người người trong thiên hạ vạn ngưỡng đồng quy.

Nhưng, sau vài năm, một làn sóng vừa mới bình yên, lại một làn sóng nổi lên. Tâm tư của vương hậu thay đổi, bà đột nhiên nhận ra quy luật cuộc sống, chính là con người hay thay đổi nhất, ý vô thường niệm, không nên nghĩ nhiều đến tình cảm, phu thê cũng không ngoại lệ. Nàng hối hận mình sinh thời không giữ được sự trinh tiết, lúc chết đi lại không trong sạch. Vì thế mà than ngắn thở dài, cả ngày áo não, lôi thôi, tóc tai rối bù, không chải chuốt tắm gội, không giống như một vương hậu tôn quý.

Quốc vương không biết vương hậu đã xảy ra chuyện gì, nhưng lại không dám đột nhiên gặng hỏi. Đang rối ruột, vương hậu đã nói với ngài:

- Đại vương bất tất phải lấy làm lạ, chuyện trên thế gian vốn đã như thế. Cho dù nhân tình thế thái biến hóa vô thường như thế nào, rốt cuộc thì cũng không tránh khỏi cái chết.

Cứ thử nói về đại vương, sở dĩ ngài yêu mến thiếp, chính vì dung nhan thiếp trẻ đẹp, yêu kiều, làn da mượt mà và mùi hương thơm ngát, nhưng những thứ này âu không phải là những thứ lâu bền, sự trẻ đẹp sẽ không giữ mãi, dung nhan sẽ già cỗi, da dẻ sẽ khô cằn, hơi thở cũng vẩn đục hôi tanh, chúng đều sẽ suy bại và biến mất.

Phu thê ân ái, nhưng khó tránh khỏi sanh lão bệnh tử, một ngày kia khi tuổi già và bệnh tật đến với thiếp, có ai mà ngăn chặn chúng lại giúp thiếp, xin đuổi nó đi chứ?

Ôi! Đời này kiếp này của con người âu chẳng phải cũng nhi nữ tình trường, phu thê giao hợp thôi sao, ngoài những điều này ra còn có gì nữa chứ? Nói như thế, cuộc sống con người quá vô vị.

Trong lòng quốc vương không cho là thế, sao lại có thể nói đây là sự hy vọng cầu mong và dựa dẫm duy nhất của một con người chứ? Chân lý của đời người đâu chỉ dừng lại ở những thứ này. Nhưng suy xét kỹ lại, quốc vương lại nói với vương hậu:

- Phu nhân là thiên nhân, là người chí tôn chí thượng! Nhất cử nhất động, từng lời nói của nàng đều quan trọng, nhất thiết không thể là lời xằng bậy bừa bãi. Nàng nên biết nhưng lê dân bá tánh, nam nữ, già trẻ đều lấy nàng làm gương, họ có thể mặc cho nàng cười nói không. Xin phu nhân hãy suy nghĩ lại, những lời nói của mình.

Vương hậu nói một cách thật tình rằng:

- Thiếp là con gái, đôi khi tùy tiện, không thể tự mình khắc chế, cho nên hay lo lắng, không yên, cho nên muốn nói rõ với ngài, chẳng qua là thiếp có cái sáng suốt tự biết, số mệnh của người con gái chính là như thế. Thiếp kính khuyên đại vương, chỉ bằng sớm tìm một cô gái trẻ đẹp thay thiếp, một người sắp sửa già cỗi này đi, tài nữ, mỹ nhân trong cung thì vô số. Đây cũng xem như là đáp thành tâm nguyện của mỗi người.

Lời này nói thật trúng tim đen của con người, nhưng quốc vương tuyệt không nổi giận, vẫn hòa nhã giải thích:

- Ta đã già rồi, bên cạnh tuy có bao nhiêu là phi tần, mà những tài nữ ấy phần lớn đều là lớp trẻ, nhỏ bé như thế, trong đó không có lấy một người vừa ý ta. Lại nói, ta và nàng có nhân duyên tiền định, sống cùng nhau đến đầu bạc răng long. Ta còn đợi ngày nàng tiễn đưa ta phút cuối cùng. Sau khi ta chết tất cả chuyện hậu sự đều do nàng chủ trì, thái tử còn nhỏ, nhất là cần phải có sự yêu thương chăm sóc của nàng, sao nàng lại có thể nhẫn tâm bỏ mặc tất cả, đi một mình như thế? Lại nói nàng có thể đi dến đâu nữa chứ?

- Chuyện sinh tử của mình khó lường trước được, nhưng đối với hạnh phúc trần tục, thực sự thiếp đã chán chường, ghét bỏ rồi, không muốn ở đây hao phí sinh mệnh của thiếp nữa. Cho nên quyết ý muốn đi tìm đức Phật, thỉnh cầu ngài để thiếp xuất gia làm Sa môn.

Lúc này quốc vương nhịn không nổi nữa, nói:

- Phu nhân nói lời này thật là kém cõi, nàng là mẹ của một nước, một vương hậu chí cao vô thượng, sao lại có tư tưởng ấy, sao lại muốn xuất gia chứ! Đây chẳng phải là để cho người trong thiên hạ cười cho sao? Những Sa môn nhỏ nhoi ấy đâu phải để cho người cao quý như nàng làm chứ? Chuyện này nhất thiết không thể làm được, tuyệt đối không cho phép! Nàng hãy bỏ ngay ý định đó đi!

Vương hậu trịnh trọng giải thích rằng:

- Đức Phật tôn quý như thế không phải đều từ Sa môn ra ư? Chẳng phải nhà vua khoác áo cà sa đã bỏ chín mươi chín nước, tám chín ngàn phi tần, tài nữ mà xuất gia cầu làm Sa môn sao? Từ xưa đến nay, những người xuất gia làm Sa môn rất nhiều, song không chỉ có một mình thiếp đây. Người xưa nói rằng: Người nữ mang họa thủy triều. Nhưng thiếp nghĩ, nhưng người đàn ông ham mê phụ nữ càng nguy hiểm hơn. Họ giống như bị rơi vào trong ngọn lửa, không thể tự vùng ra, rớt vào trong trầm luân, không cần nói đến tội lỗi có nặng hay không, mà người khác muốn cứu cũng khó nữa là! Tiền kiếp của thiếp là một tên háo sắc, kết quả là tự làm tự chịu, kiếp này làm thân nhi nữ, đó là báo ứng, cũng là sự trừng phạt mình. Nhưng thiếp hiện nay đang tỉnh ngộ. Đại vương ngài nhất thiết đừng đi con đường cũ của thiếp.

Nếu trong lòng đại vương thực sự không thể loại bỏ được phụ nữ, vậy thì ba ngàn năm trăm vị ca kỹ, tái nữ cũng đủ để cho ngài dùng rồi chứ, lại hà tất phải giữ chân một mình thiếp chứ?

Quốc vương thấy những lời vương hậu nói đều là lẽ phải, rất khó nói qua được nàng. Nhưng quốc vương vẫn không cam tâm, lại nói:

- Vương hậu nếu đã có ý đi một mình như thế, vậy thì quốc gia này để lại có mình trẫm làm sao trị vì đây? Trước đây không có nàng, tình hình trên dưới cả nước đến này vẫn còn nhớ rõ như in, nàng không thể đi, nước không có vương hậu, sẽ không còn là một nước nữa!

Dù quốc vương có cầu van nãi nĩ như thế nào đi nữa, vương hậu vẫn không lay động. Nàng kiên quyết giữ ý chí của mình, thậm chí còn khai đạo giúp quốc vương nữa:

- Quốc thổ, vương vị, bá quan, công khanh, phi tần, tài nữ, tất cả những ngọc ngà châu báu ấy, chẳng qua là áng mây qua mắt thôi, vốn không để lưu luyến, mà ngay cả bản thân con người, tất cả những thân hình, xương cốt, đầu óc, ngũ tạng, tương lai sau khi chết sẽ về với đất không biết sẽ phân ly trôi nổi đến phương nào? Cho nên, tất cả những thứ này có đáng để ngài lưu luyến, khó bỏ không chứ?

Quốc vương bị nói đến tội nghiệp, nhìn vương hậu nói:

- Hiện giờ ta để cho nàng đi một mình, nếu sau này, những phi tần, tài nữ, lần lượt theo nàng mà đi thì không phải ta thành ra cô độc một mình sao.

Vương hậu nói:

- Đã gọi là mỗi người đều có một số mệnh, mỗi người đều có phúc phận riêng của mình, không phải người khác có thể quyết định được, cũng không phải lực lượng của người khác có thể ngăn ngặn được. Đã phát sinh, thì ngăn chặn thế nào cũng không nổi, không phát sinh, cho dù có muốn cũng bằng thừa thôi. Thiếp tin là họ sẽ không đi, chỉ cần đại vương ban cho họ chút tình ân ái, chủ ý chăm sóc, lo lắng, khoan dung, nhất định họ sẽ hòa nhã theo người.

- Nhưng những người này đều sùng bái đức hạnh của nàng, một mình người đàn ông như ta sao có thể khéo xoay sở chở che, để mọi người đều vui vẻ chứ? Huống hồ trẫm chỉ sủng ái một mình nàng, nhưng người ấy cơ bản không phục tùng ta, nhưng bây giờ nàng bỏ lại ta, để mình ta đối mặt với họ, e rằng chỉ động thương, động đao với họ, mới có thể khiến họ sự ta, phục ta.

- Không phải là lý do này. Người phụ nữ luôn tôn trọng người đàn ông. Chỉ cần đại vương gần gũi với họ, nhất định sẽ bình yên vô sự.

- Không được, không được! Lòng ta vẫn mênh mông. Bất luận như thế nào đi nữa cũng phải xin vương hậu xuất diện, dặn dò ngay trước mặt, thì trẫm mới yên tâm.

Thế là vương hậu bèn gọi tất cả những phi tần mỹ nữ lại, nói:

- Các ngươi đều là con gái, từ nay về sau phải toàn tâm toàn ý phục thị đại vương, không được mạo phạm, không được khinh mạn. Ta nhân cơ hội này nói lời từ biệt với mọi người, xuất cung là Sa môn. Từ nay về sau, mọi người phải tận tâm với công việc, giúp đỡ nhau. Ta chỉ muốn đi cầu kinh phụng pháp, điềm tỉnh thoát ưu, sớm tu thành Phật đạo. Đến lúc đó chúng ta sẽ được gặp lại.

Chúng thị nữ nghe xong lập tức kêu khóc ầm ĩ, tiếng khóc kinh thiên động địa. Thiên vương Đế Thích ngay lập tức xuất hiện, bay đến tặng cho vương hậu một mảnh cà sa. Vương hậu ngay tức khắc rụng tóc, khoác cà sa lên người, lại thụ "ngũ bách giới". Vương hậu đã thực sự biến thành Tỳ kheo ni. Các phi tần, tài nữ bên cạnh đều vui vẻ. Sau đó, Đế Thích Thiên vương lại tặng cà sa và bình bát cho Tỳ kheo ni, thế là Tỳ kheo ni lại trở thành Sa môn.

Quốc vương bình tĩnh nhìn thấy tất cả, ông không giận, không buồn, không phiền, không tội, ngược lại còn cười một cách thích thú rằng:

- Công người hiền đức rõ ràng, đức hạnh vô lượng, thật là không có chỗ quy tụ nào tốt hơn nữa!

Nói rồi quốc vương cũng đắc đạo. Ông về đến vương cung, thần thái tính tình trở nên hiền lành, nếu có mất gì, cũng như là được vậy. Một vài ngày sau quốc vương đóng cửa một mình tĩnh tâm, không thượng triều, không nghe chánh trị. Văn võ bá quan xôn xao bàn luận, thấp thỏm lo âu. Cuối cùng một buổi sáng nọ, quốc vương gọi thái tử đến bên cạnh, giao phó cho chàng trị vì quốc gia. Từ đó quốc gia có một vị quốc vương mới trẻ tuổi.

Cuối cùng, quốc vương ngẩng mặt lên trời khấn nguyện: "Ta muốn làm Sa môn, ai hiểu lòng ta? Người ấy sẽ giúp ta thành ước nguyện!"

Quốc vương vừa dứt lời, thì Đế Thích Thiên vương lại xuất hiện trước mặt ngài, đích thân hóa độ quốc vương, đưa áo cà sa và bình bát cho ngài.

Từ đó, quốc vương theo đức Phật chu du khắp nơi trong thiên hạ, khiến cho quốc vương của hai mươi quốc gia đều truyền vương vị cho thái tử, xuất gia làm Sa môn. Sau đó, họ cũng đều tu thành quả La Hán.
Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.15 khách