MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Truyện sưu tầm và sáng tác - truyện của ngày ấy, mỗi cuộc đời là một trường thiên tiểu thuyết. Kính mời các bạn hãy ghi lại những cảm nghĩ, dòng tư tưởng của mình.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình ảnh
MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin

ĐẠI CA DIẾP
ĐẦU ĐÀ ĐỆ NHẤT
  • 1. DƯỚI CÂY SANH VĨ NHÂN
Nếu như hai ngàn năm trăm năm trước, có người giữ gìn nhục thân sống đến hôm nay, thì đó là tôn giả Đại Ca Diếp, Đầu đà đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.

Cách đây không lâu, bác sĩ Bá Khắc Sum người Pháp đã được gặp tôn giả Đại Ca Diếp tại Kê Túc Sơn, Ấn Độ, và đã quy y với Ngài. Cuộc đời của vị thánh đầy tánh cách truyền kỳ ấy, hôm nay đem giới thiệu ra đây, thật là một đoạn cố sự mỹ lệ.

Chúng ta hãy trở lại từ lúc Tôn giả vừa chào đời.

Hai ngàn năm trăm năm trước, tại thôn làng Ma Ha Sa Ha Dà cách thủ đô Vương Xá nước Ma Kiệt không xa, có một nhà hào phú trưởng giả dòng Bà la môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba, tiếng đồn tài sản của ông có thể sánh với vua Tần Bà Sa La đương thời.

Tôn giả Đại Ca Diếp đã xuất sanh trong gia đình hào phú ấy.

Nói về lúc đản sanh Tôn giả, có những điềm lành không khác với điềm lành đản sanh Phật đà là mấy. Ngày mẫu thân Tôn giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất Bát Ba nghỉ ngơi, lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới, và Đại Ca Diếp cất tiếng khóc chào đời.

Đại Ca Diếp, cha mẹ đặt tên vốn gọi là Tất Bát La Da Na, lấy ý sanh dưới gốc cây. Đại Ca Diếp tướng hảo đầy đủ không thua kém ba mươi hai tướng của đức Phật. Gia đình đại phú hào chỉ có một quý tử, sự nuôi dưỡng và thương yêu của cha mẹ thật không thể nói hết. Nội số nhũ mẫu đã hết bốn bà, còn số người hầu hạ chăm sóc chơi đùa lại rất nhiều.

Khi Đại Ca Diếp lên tám tuổi, đã được học các giới điều Bà la môn, và theo thầy học tập các thứ, từ pháp tế lễ, thi họa, toán thuật, văn học, ngũ minh, bốn bộ Phệ Đà, cho đến xem thiên văn, đoán âm dương kiết hung, đất động sấm nổ, âm nhạc ca vũ v.v... do sức thông minh của Ca Diếp, không có môn nào không thấu hiểu triệt để.

Duy có một điều rất lạ, ngay từ nhỏ Ca Diếp không giống các trẻ con khác, đối với dục lạc thế gian không ưa, chẳng thích tình âu yếm, chán ghét bất tịnh, thường ưa ở một mình xa đám đông, ngay cả cha mẹ, xa cách cũng không nhớ đến.
  • 2. NGƯỜI VỢ KHÔNG CHUNG GIƯỜNG
Ngày tháng thoi đưa, Ca Diếp đã trở thành một thanh niên anh tuấn, phong lưu. Song thân chàng rất hài lòng, bèn bảo chàng, một ngày gần đây sẽ chọn một tiểu thơ xinh đẹp để cưới cho chàng, Ca Diếp vội vàng từ chối:

- Đó là điều không nên, con chỉ mong muốn duy nhất là được tu đạo, có vợ con rất trở ngại cho việc tu trì lắm.

Đương nhiên là song thân không thể nào đáp ứng yêu cầu đó, khi không còn cách nào để chối từ, chàng bỗng nghĩ ra một biện pháp. Chàng liền mời một nhà điêu khắc đến, lấy vàng đúc thành một pho tượng mỹ nữ sáng rỡ, và chàng đem trình với song thân.

- Cha mẹ nhất định bảo con cưới vợ, xin hãy chọn cô nào giống y tượng vàng này, nếu không con sẽ suốt đời không lấy vợ.

Song thân Ca Diếp thấy con yêu cầu điều này, biết là thật rối rắm khó khăn, sau cùng mới theo lời đề nghị của các thầy Bà la môn thường lui tới trong gia đình, quyết định tìm cho ra một cô nương giống tượng vàng ấy. Các thầy Bà la môn bèn thiết lập một nhà dù thật lớn đặt pho tượng trong đó, thờ cúng như một vị nữ thần, và đi rảo từ làng này sang làng nọ, từ phố này sang phố kia, đến đâu thiên hạ cũng bu theo xem rất đông đảo. Các thầy mới rao lên:

- Các cô thiếu nữ có cầu mong ước nguyện gì! Hãy đến cúng dường nữ thần! Các cô sẽ được toại nguyện như ý.

Cứ như thế các thầy dạo đi từ thành Vương Xá, qua sông Hằng, lần lần đến thành Tỳ Xá Ly. Ngoại thành này có một thôn trang tên Ca La Ty Ca, và trong thôn có một gia đình Bà la môn cũng nổi danh đại phú. Họ có một cô con gái tên Diệu Hiền, thiên tư quốc sắc, nổi danh mỹ nhân, thường ở trong khuê phòng ít bước chân ra ngoài.

Hôm ấy nhằm ngày hội hoa đăng, nam thanh nữ tú vui chơi dập dìu. Diệu Hiền được bạn bè hẹn hò, đến chiêm bái pho tượng vàng thần nữ. Diệu Hiền nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, khi đến lễ nữ thần đã khiến lu mờ cả tượng vàng. Thầy Bà la môn quản lý một phen thấy rồi rất mừng rỡ, bèn theo hỏi thăm gia đình nàng, và đến gặp song thân Diệu Hiền trình bày ý muốn kết thân. Bên song thân nàng cũng nghe danh tiếng Đại Ca Diếp, nên rất hoan hỷ hứa gả con gái.

Thủ tục đính hôn hoàn thành, chọn ngày lành tháng tốt đón dâu. Hãy nhìn Diệu Hiền xem, nàng mặc áo gấm, đeo chuỗi ngọc, thật là tiên nữ cũng không đẹp bằng. Nhưng có điều rất lạ, tân nương tuy có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước, mà gương mặt rất buồn, như nặng mang một tâm sự.

Đờn ca xướng hát, lễ bái trời đất xong, Đại Ca Diếp và Diệu Hiền được đưa vào động phòng. Đôi vợ chồng mới, chẳng có một nụ cười, cũng không ai ngó ai, chỉ ngồi nhắm mắt làm thinh, mỗi người một tâm sự trầm mặc. Đêm động phòng hoa chúc thế này, thật là lạnh lùng nghiêm trang!

Canh một rồi canh hai, canh ba, canh bốn, canh năm đã dứt, trời dần sáng mà cả hai không nói một lời nào. Cho đến lúc lâu, ánh nắng xuyên vào phòng, Ca Diếp mới mở lời:

- Xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?

Diệu Hiền châu mày, ngồi làm thinh.

- Có điều gì nàng cứ nói, chúng ta cùng thương lượng.

Diệu Hiền lại ứa nước mắt, mà cũng chẳng trả lời.

- Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?

Ca Diếp hỏi tới, có vẻ giận.

Ca Diếp hỏi đôi ba phen, Diệu Hiền không dừng được, mới thở dài đáp nhỏ:

- Chàng phá hoại chí nguyện của tôi. Tôi xưa nay rất ghét ngũ dục, muốn tu phạm hạnh thanh tịnh. Ba má tôi bị mê hoặc bởi sự giàu sang của chàng, khiến nguyện vọng của tôi bị lở dở.

Đại Ca Diếp nghe nói rất mừng. Chàng liền nói cho Diệu Hiền biết, mình cũng rất ghét ái nhiễm, ưa tu hạnh thanh tịnh. Đây thật là khéo hợp ý trời, chúng ta có thể làm theo chí nguyện của mình.

Do đó hai người cùng ước định, trong phòng kê hai cái giường, trên danh nghĩa là phu thê mà không ngủ chung giường.
  • 3. MƯỜI HAI NĂM THỦ ƯỚC
Câu chuyện ngủ riêng giường, lọt đến tai cha mẹ Ca Diếp. Hai ông bà bèn vào phòng xem xét, thấy hai giường kê hai nơi thật chẳng cao hứng tí nào, bèn rầy:

- Hai con là vợ chồng mới cưới mà trong phòng kê riêng hai giường thật chẳng nên. Ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.

Ca Diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững lời hứa, càng cương quyết lập chí, chàng nói với Diệu Hiền:

- Không lo chuyện ấy. Còn một cái giường thì chúng ta thay phiên nhau ngủ. Đầu hôm đến giữa đêm thì nàng ngủ, tôi đi kinh hành tu niệm trong phòng, đến gần sáng thì nàng thức dậy, tôi ngủ, nàng có thể đi kinh hành hoặc ngồi thiền.

Diệu Hiền rất bằng lòng đề nghị đó, nàng nói thêm:

- Chúng ta cần phải mau mau ra khỏi cái nhà nguy hiểm này, chớ còn trong vòng ngũ dục thì nơi nào cũng có nguy cơ ẩn nấp, mê hoặc người trong chốn đọa lạc.

Ca Diếp an ủi:

- Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng phụ mẫu còn hiện tại, tôi là con một không thể bỏ đi. Nàng hãy kiên nhẫn, lý tưởng và chí nguyện của chúng ta sẽ có ngày thực hiện.

Hai người tuy sống trong chốn bụi trần mà tâm vui trong đạo nghiệp thanh tịnh, không hề xúc phạm nhau, an ổn qua thời gian.

Có một đêm, Diệu Hiền ngủ trên giường, Ca-diếp đi kinh hành trong thất, bỗng nhiên có một con rắn độc màu đen bò ngang giường Diệu Hiền. Ca Diếp chú ý nhìn thấy cánh tay Diệu Hiền buông thõng xuống giường cách chỗ rắn độc không xa, chàng lo lắng, rủi như nàng bị rắn mổ nhằm mới làm sao?

Trong lúc mười phần cấp bách, Ca Diếp liền dùng chéo áo quấn quanh cánh tay mình, rồi mới nhè nhẹ đỡ cánh tay Diệu Hiền lên trên giường. Đang ngủ ngon bỗng bị động, Diệu Hiền giựt mình choàng tỉnh, nàng kinh sợ lật đật ngồi dậy, có vẻ vừa giận vừa bực, nàng hỏi Ca Diếp:

- Việc gì xảy ra thế? Có chuyện gì như thế này?

Sau khi nghe Ca Diếp giải thích nàng mới yên lòng, và rất cảm phục chàng. Cả hai giữ mức sống thanh tịnh như vậy trong suốt mười hai năm.
  • 4. XUẤT GIA HỌC ĐẠO
Hội hợp ắt biệt ly, có sanh ắt có tử, đó là đạo lý nhất định của thế gian. Song thân Đại Ca Diếp lần lượt qua đời.

Sau đó không lâu, ngày nọ Diệu Hiền sai gia nhân ép dầu mè, trong dầu mè có rất nhiều con bọ nhỏ lúc nhúc cựa quậy, nàng nghe gia nhân bàn tán với nhau:

- Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ này không biết sau này chịu quả báo đáng sợ thế nào? Nhưng thật ra đó không phải là lỗi của chúng ta mà là mệnh lệnh của nữ chủ.

Diệu Hiền nghe qua những lời ấy cảm thấy ghê sợ, lập tức bảo họ ngừng ép dầu, một mình lui vào phòng đóng cửa lại tịnh tọa tư duy.

Cũng hôm ấy, Đại Ca Diếp đi thăm ruộng. Chàng thấy đôi bò kéo cày nặng nhọc, nông phu làm việc không kể thân. Trong ruộng có những loài côn trùng bị đường cày chặt đứt, lớp chết, lớp bị thương quằn quại thật thảm thương. Chàng nhìn cảnh tượng ấy càng chán ngán cho sự sống trên thế gian. Chàng nghĩ: "Chỉ vì sự ăn mặc của ta mà bao nhiêu người và bao nhiêu thú vật phải chịu đủ thứ khổ sở như thế sao? Không kể là người nào, không kể ăn thức ăn gì, cũng trong khoảng một đấu cơm, không kể ngủ cách nào cũng chỉ trong khoảng cái giường sáu tấc. Còn những thứ cần dùng khác chẳng qua là một sự lãng phí. Chỉ vì những sự lãng phí xa xỉ vô dụng đó, mà làm tổn bao nhiêu người vật, giết hại bao nhiêu sanh linh như thế, thật là một điều quá ư bất công và rất không hợp lý!"

Đại Ca Diếp nghĩ như thế rồi, trở về nhà thấy Diệu Hiền với những sự tình ưu não như vậy, thật chẳng vui chút nào. Sau đó, hai người ngỏ bày tâm sự, cả hai đều cảm thấy nỗi đau khổ của thế gian, nỗi buồn thảm của kiếp người.

Đại Ca Diếp bèn nói với Diệu Hiền:

- Nói gì thì nói, tôi sẽ rời bỏ cái nhà này để đi xa học đạo. Ở nhà thiệt chẳng khác ở trong chốn lao ngục, bao nhiêu thứ ràng buộc, khổ não đủ điều. Ở trong gia đình tạo nghiệp không có hồi kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chơn lý của kiếp người. Tu hành trong chốn rừng núi như là lui tới trong chốn hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi đi trước tìm thầy hỏi đạo, nàng ở lại nhà đợi khi nào tôi gặp được bậc thầy hiền minh, tôi sẽ trở về dẫn nàng cùng xuất gia. Chúng ta sẽ đem hết tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng cơ khổ, và chia cho các gia nhân. Nàng hãy đợi, nhất định tôi sẽ mang tin tốt đẹp trở về.

Diệu Hiền nghe xong, rất kính phục chí nguyện của trượng phu, cùng cảm kích mối quan tâm của chàng. Chuyện xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng, vì còn cha mẹ mà phải qua hơn mười năm chờ đợi.

Hôm nay, Đại Ca Diếp đi xuất gia tu hành, trong tâm tình thật hoan hỷ, thật không thể nói hết.
  • 5. LÀM ĐỆ TỬ ĐỨC PHẬT
Lúc ấy Đại Ca Diếp đã ba mươi tuổi. Theo truyền thuyết, ngày chàng rời nhà tìm đạo cũng chính là ngày đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ đề, trên tòa Kim Cương thấy sao mai mọc và thành Đẳng chánh giác.

Đại Ca Diếp đi tìm thầy khắp nơi, nhưng thầy nào cũng không đáp ứng được nguyện vọng của chàng. Hai năm sau, trong lúc đang tìm đạo tại nước Uyên Già, có người mách với chàng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Đại giác của thời này. Ngài đang thống lãnh những đạo sĩ nổi danh như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp... cả ngàn đồ đệ tại tinh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp nghe tin ấy rất vui mừng bèn hỏi thăm đường đến Trúc Lâm.

Tinh xá Trúc Lâm là đạo tràng tối sơ khi đức Thế Tôn tổ chức giáo đoàn, cách cửa Bắc thành Vương Xá không xa. Khi Đại Ca Diếp đến đây, chàng không trực tiếp thưa hỏi đức Phật, chỉ mỗi ngày theo tín chúng trong thành đến nghe pháp. Chàng nghĩ bụng nếu không phải là Phật thì không tôn bái làm thầy. Theo ý chàng, nếu không gặp Phật, không có tôn sư, chàng cũng có thể tu chứng được quả vị Độc giác.

Lời thuyết pháp của Phật, đức huệ của Phật dần dần kích động tâm can Đại Ca Diếp. Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp xong, chàng trở về thành Vương Xá. Gần cổng thành là tháp Đa Tử, cạnh đó có một cây đại thọ cành lá sum sê. Chàng ngạc nhiên thấy đức Phật đang ngồi tịnh tọa dưới gốc cây. Khi chàng ra về, còn thấy Ngài ngồi trên bảo tòa pháp vương ở trong tinh xá, sao bây giờ lại gặp Ngài ở đây? Chàng càng nhìn càng thấy đức Phật tướng mạo oai nghiêm thuần tịnh, như một tòa kim sơn, rốt cuộc không đến lễ bái không xong. Chàng đến đảnh lễ dưới chân Phật, và cảm động thành khẩn nói:

- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc đại sư của con, xin tiếp độ cho con – Đại Ca Diếp được quy y, từ nay Đại Ca Diếp là đệ tử Phật!

Đức Phật biết lúc này lòng tin của Đại Ca Diếp đã chắc chắn, liền bảo:

- Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, như người nào chưa chứng quả vị Chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta.

Đức Phật từ từ đứng dậy, đi về tinh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp theo sau chân Ngài, vừa cung kính vừa cảm động, vừa mừng vui đến rơi lệ.

Đức Phật ngoái lại nhìn Đại Ca Diếp sau mới nói:

- Ta nghe nói về ông đã lâu, ta biết thế nào ông cũng đến cầu đạo với ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ, Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì chúng sanh và vì chính mình, ông nên thận trọng!

Về đến Trúc Lâm, đức Phật làm lễ thế độ cho Đại Ca Diếp, và nói pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên, với oai đức tướng hảo của Thế Tôn, với từ ân thân thiết của Thế Tôn, có thể nói rằng bầu không khí chứng ngộ đã bao trùm Đại Ca Diếp. Lời dạy của Phật như đám mưa rơi trên thửa ruộng khô khao, tám ngày sau ông khai ngộ.
  • 6. CỨU ĐỘ HIỀN THÊ
Đại Ca Diếp xuất gia một năm sau, là đức Phật thành đạo năm thứ ba. Đức Phật nhận lời thỉnh của phụ vương, cùng các Tỳ kheo trở về cố thành Ca Tỳ La, Đại Ca Diếp cũng có mặt trong ấy. Sau đó, Phật trở về tinh xá Kỳ Viên nước Xá Vệ. Trong số những hoàng tộc theo Phật xuất gia, có cả Kiều Đàm Di di mẫu cũng được xuất gia và thành lập giáo đoàn Tỳ kheo ni.

Do đó, Đại Ca Diếp nhớ đến lời hứa với Diệu Hiền, vì trước đó người nữ không được xuất gia nên Tôn giả không dám xin đức Phật. Bây giờ đã có giáo đoàn Tỳ kheo ni, chính là lúc thực hiện lời giao kết với Diệu Hiền. Đại Ca Diếp từ khi rời nhà học đạo đã cách ba, bốn năm. Trong ba, bốn năm ấy chẳng biết tình hình của Diệu Hiền thế nào? Tôn giả bèn an tĩnh nhập định quan sát, mới biết Diệu Hiền đang theo làm đệ tử một phái ngoại đạo bên bờ sông Hằng.

Nguyên lai là từ khi Tôn giả đi tìm đạo, Diệu Hiền cũng ở nhà một mình đợi tin tức. Nhưng năm tháng trôi qua vùn vụt, một năm rồi hai năm mà chẳng thấy âm hao của Đại Ca Diếp, nàng mới quyết định tự xuất gia, không đợi nữa. Lập chí rồi, nàng cho gọi người quản gia đến bảo đem hết trang sức, y phục của mình phân chia cho bà con, làng xóm, gia nhân. Nàng đi đến bờ sông Hằng, lễ bái nhóm lõa hình ngoại đạo đang tu tập tại đây làm thầy.

Làm đệ tử nhóm ngoại đạo này, vì dung mạo mỹ lệ mà nàng đã chịu nhiều sự lăng nhục. Đại Ca Diếp biết nàng đang cần sự tiếp độ của mình, đích thị là Tôn giả phải mau mau đem đạo lý chân thực của đức Phật sớm giác ngộ cho nàng. Tôn giả bèn nói chuyện ấy với một vị Tỳ kheo ni, yêu cầu đi đón Diệu Hiền. Vị Tỳ kheo ni ấy bằng lòng, chẳng bao lâu đã đưa Diệu Hiền về đến.

Diệu Hiền gia nhập ni viện rồi, cũng vì sắc đẹp ấy làm đề tài cho thiên hạ xầm xì xa gần. Nàng cảm thấy rất tủi hổ, buồn bực đã trót sanh làm thân người nữ kém phước. Từ đó, nàng không đi ra ngoài khất thực, xa lìa đại chúng, không ló mặt nơi đông người.

Đại Ca Diếp biết chuyện sanh tâm lân mẫn. Tôn giả xin phép Phật mỗi ngày chia bớt phân nửa phần thức ăn cho Diệu Hiền. Chuyện ấy lọt vào mắt cô Tỳ kheo Thâu La Nan Đà. Cô là một người hay thị phi bàn tán nhất trong chúng. Chẳng biết là vì tật đố hay vì cớ gì, cô nhiều lời phỉ báng. Cô nói:

- Hai người này, nghe nói mười hai năm ở nhà không ngủ chung giường, mà bây giờ mỗi ngày thấy họ thân mật chia sớt thức ăn, tôi đoán thế nào cũng có tình ý gì đây.

Tôn giả Đại Ca Diếp nghe nói, trong tâm vị thánh giả thì rỗng rang không dính mắc, nhưng vì muốn khích lệ Diệu Hiền nỗ lực tu tiến, nên từ đó không giúp cơm nữa.

Thế gian đầy thị phi ác độc. Một vị Thánh thanh tịnh như Đại Ca Diếp, mà còn có người khiêu khích đồn đãi, thiệt là ai nghe cũng bất bình.

Qua sự khích lệ ấy, Diệu Hiền nhận thấy mình phải tu hành nghiêm túc. Bà suốt đêm không ngủ, thành tâm sám hối, và sau cùng được khai ngộ. Sau khi khai ngộ bà nói:

- Đoạn trừ mọi ràng buộc, hoàn thành tịnh hạnh, việc đáng làm ta đã làm xong.

Về sau Phật khen ngợi bà:

- Trong chúng Tỳ kheo ni, không ai có thể sánh với Tỳ kheo ni Diệu Hiền về mặt Túc mệnh thông!

Tôn giả Đại Ca Diếp rất hoan hỷ, đối với ân tình của thế gian, Ngài chẳng lưu lại chút mảy may.
Hình ảnh


sotam26
Bài viết: 631
Ngày: 30/01/09 02:14
Giới tính: Nam
Đến từ: NVM
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi sotam26 »

Hiền hữu battinh đã làm một việc rất hữu ích, khi quyết định đăng 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca lên diễn đàn.
Xin được tán thán công đức này!
chúc đh thân tâm thường an lạc.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 7. XÁ LỢI PHẤT PHỎNG VẤN
Từ đó Đại Ca Diếp được người tôn xưng là Thánh giả, thân danh hiển lộ trong Tăng đoàn.

Có lúc, Tôn giả cùng Xá Lợi Phất đồng tu tập tại núi Kỳ Xà Quật. Có nhiều chúng ngoại đạo đến phỏng vấn tôn giả Xá Lợi Phất, bao quanh Ngài đưa ra nhiều vấn đề gạn hỏi. Họ hỏi: Như Lai sau khi Niết Bàn có sanh tử hay không? Hoặc là sau đó có sanh tử? Hoặc là sau đó không có sanh tử? Hoặc là chẳng phải sanh tử? Cũng chẳng phải không sanh tử?

Ngoại đạo dùng lối tứ cú để hỏi về vấn đề sanh tử của đức Phật như thế, tôn giả Xá Lợi Phất trả lời họ, nhưng chỉ có vấn đề này không thể nói là Như Lai ở trong cú nào.

Chúng ngoại đạo không vừa ý với lối đáp của tôn giả, họ gièm chê:

- Người không trả lời được vấn đề này, sao dám tự xưng là bậc Thượng tọa? Nói là Trí tuệ số một mà giống như trẻ con.

Ngoại đạo đàm tiếu rồi bỏ đi, Xá Lợi Phất rời chỗ tu tập của mình, băng qua đám lá rậm của rừng cây, đến thạch động tham vấn tôn giả Đại Ca Diếp.

Xá Lợi Phất đem câu hỏi của ngoại đạo thuật lại cho Đại Ca Diếp nghe và hỏi:

- Tôn giả! Tại sao đức Phật chưa từng giải đáp về vấn đề ấy, đối với câu hỏi của ngoại đạo không thể nói ra sao.

Đại Ca Diếp liền trả lời:

- Đức Như Lai đã hết sạch ái chấp, tâm không còn phiền não, vĩnh viễn giải thoát, sự chứng ngộ của Ngài rộng lớn sâu xa, không thể dùng tứ cú của mê tình để hỏi, cũng không thể dùng ngôn từ để đáp. Chỉ vì vấn đề ấy không nên hỏi nên Ngài không giải đáp.

Xá Lợi Phất nghe câu trả lời, thật là thích thú, cáo từ và trở về động mình tu tập.

Trong hàng đại đệ tử, các vị thường chỉ dạy nhắc nhở nhau, cùng hỏi cùng nghiên cứu, vấn đáp qua lại để bàn soạn sự học, cho nên câu chuyện hỏi đáp của hai vị tôn giả chẳng có gì lạ, nhưng đối với vấn đề khúc mắc như Xá Lợi Phất nêu ra mà có thể tùy tiện giải đáp, mới thấy là sức tu đạo của Đại Ca Diếp cao xa đến mức nào!
  • 8. ĐỘ BÀ LÃO NGHÈO SANH CÕI TRỜI
Một hôm, đức Phật và các đệ tử ở nước Xá Vệ, còn Đại Ca Diếp thì giáo hóa tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Tôn giả thường ra vào trong thành để bố thí phước điền. Khi tôn giả đi khất thực, thường tránh nhà giàu có mà chỉ chọn những nhà bần cùng. Trong tâm tôn giả nghĩ rằng: Nhà giàu tuy cũng cần nên lân mẫn với họ, nhưng so với người nghèo khổ mỗi ngày phải lo lắng sinh nhai lại đáng thương hơn.

Những người bần khổ không thể hưởng thọ niềm vui ngũ dục đầy đủ, tuy nghe được chánh pháp họ rất thích, nhưng không đủ duyên may để thâu được cái quả báo phước đức của sự bố thí. Cho nên tâm từ của Tôn giả như nước lành rưới khắp những hạng người nghèo cùng đáng thương.

Trong thành Vương Xá, có một lão bà rất nghèo khổ, đã không có bà con thân quyến lại không có nhà cửa gì cả. Sáng sớm, đi lang thang từ ngõ Đông sang ngõ Tây. Chiều tối, thì ngủ vất vưỡng ở bất cứ xó hẻm nào. Trên mình bà đeo những mảnh lá khô chằm víu vào nhau tạm che thân. Một hôm bà mang bệnh trầm trọng, nằm quỵ trên gò đất chờ chết. Lúc ấy gặp gia nhơn của một nhà giàu nọ đem nước cơm đi đổ, bà lão bị đói khát hoành hành vội vơ lấy mảnh ngói bể hứng lớp nước bầy nhầy để uống cho đỡ đói.

Đại Ca Diếp biết bà lão đáng thương bị bệnh nghèo đeo đẳng, Ngài đặc biệt đến thăm. Bà lão từ trước giờ chưa từng được ai hỏi han đến nên khi thấy dáng Tôn giả đứng trước mặt, bà gượng nhổm dậy nhìn kỹ. Té ra là một vị Tỳ kheo trang nghiêm đang đi khất thực. Không lẽ thầy Tỳ kheo này lại nghèo cùng hơn ta? Bà mới nói:

- Thân tôi nghèo khổ đói khát, cát đất, gò mả, bụi bờ là nhà, Ngài xem tôi áo mặc không kín thân. Trong cái đất nước này không ai nghèo khổ hơn tôi. Ý da! Chẳng lẽ trên thế gian không có người nhơn từ cúng dường Sa-môn sao? Vì sao Ngài đến hỏi tôi? Xin Ngài chỉ dạy tôi phương pháp cứu tôi khỏi nghèo đói.

Đại Ca Diếp đáp:

- Trên thế gian này, người tôn quý nhất nhân từ nhất không ai bằng đức Phật, hoặc là những ai đã được tắm mát trong giáo lý Phật đà. Hôm nay, tôi muốn cứu độ bà thoát khỏi sự bần cùng, nên mới đặc biệt đến đây khất thực. Tôi cũng nghĩ đến việc đem tài vật đến giúp bà, nhưng điều đó chỉ giúp bà khỏi khổ nhất thời, mà sau lại tăng thêm bần cùng nữa. Chi bằng bà hãy tùy ý đem bất cứ thứ gì bên mình mà bố thí cho tôi, bà sẽ nhờ công đức đó đời sau được sanh trong nhà giàu có, hoặc được sanh lên trời, hưởng thọ sung sướng lâu dài.

Bà lão nghe Tôn giả từ bi thuyết pháp như vậy, rất cảm động, nhưng tìm hoài không có một chút gì để bố thí. Bà rất đỗi bi thương, buồn khóc thưa rằng:

- Thưa thầy Sa môn vĩ đại! Lời chỉ dạy quý báu của Ngài con ghi khắc sâu xa trong tâm. Nhưng Ngài cũng biết, con là kẻ bần cùng hạ tiện, con chẳng có một chút vật thực nào để cúng dường Ngài, cũng chẳng có y phục để bố thí nữa.

- Này bà lão! Đã khởi tâm bố thí thì không phải người nghèo, người biết hổ thẹn cũng đã mặc pháp y. Bà đã có hai món bảo bối hiếm có ấy, nên chắc chắn không còn nghèo. Hãy xem những người giàu có đầy tiền của châu báu trên thế gian này, không biết bố thí, không biết hổ thẹn, đó mới thật là người ngu, người bần vậy.

Bà lão nghèo nghe lời chỉ dạy, vui mừng phấn khởi, tâm đầy hỷ lạc, đầy hy vọng về tương lai, bà quên thân mình ô uế bưng chút nước cơm đựng trong mẻ sành đem cúng dường Tôn giả. Tôn giả cũng cung cung kính kính tiếp nhận, và để cho bà khỏi nghi ngờ, Tôn giả liền uống cạn miếng nước cơm. Bà lão thấy thế vui mừng vô hạn.

Chẳng bao lâu, bà lão rời bỏ cõi đời, được sanh lên cõi trời Đao Lợi, do công đức cúng dường nước cơm, bà được trở thành một thiên nữ xinh đẹp. Một hôm, thiên nữ quan sát phước nghiệp đời trước, nhớ đến ân sâu của tôn giả Đại Ca Diếp, bèn bay xuống cõi trần dùng thiên hoa rải cúng dường Tôn giả.
  • 9. QUAN SÁT TÌNH HÌNH TÍN CHÚNG
Một hôm, đức Thế Tôn bảo Đại Ca Diếp đến thành Khoáng Dã để quan sát tình hình giáo đoàn. Ở đấy, sáng sớm Tôn giả đắp y mang bát vào thành, oai nghiêm đi khất thực.

Đi qua một vài con đường, Tôn giả phát hiện một chuyện lạ. Dân chúng thấy Tôn giả đi ngang nhà đều đóng cửa. Tôn giả ra khỏi thành vào trong thôn khất thực cũng gặp một cách đối xử như vậy. Ngài khởi niệm nghi ngờ. Phật pháp ở đây rất hưng thạnh, vì sao dân chúng đối với các Tỳ kheo không một chút tôn kính như vậy kìa?

Ngài bèn đến nhà một cư sĩ hiểu biết rộng, và hỏi thăm:

- Đức Phật rời khỏi đây không bao lâu, cũng còn các Tỳ kheo ở lại giáo hóa, vì sao mọi người quên hẳn sự cung kính Tam bảo? Các Tỳ kheo đi khất thực chẳng ai cúng dường?

Cư sĩ nọ đáp:

- Tôn giả! Từ khi đức Thế Tôn đi rồi, mấy năm trở lại đây các vị Tỳ kheo trong thành này bày ra nhiều chuyện xây cất, mỗi người đều tự cất phòng ốc cho mình nói rằng đức Phật đã cho phép. Xưa nay, nếu là kiến tạo giảng đường hay tinh xá công cộng để dùng trong việc hoằng pháp hoặc tu học tập thể thì đó là việc bổn phận chúng con phải hộ trì. Nhưng mà bây giờ các Tỳ kheo đều cất nhà để an nhàn thân mình, các thầy cất cốc, cất am lu bù, đến từng nhà thí chủ kêu gọi cúng dường cửa lớn, cửa nhỏ, cột kèo, ngói gạch, dây mây..., mọi thứ đều kêu gọi quyên tới tín đồ. Lâu ngày, tín chúng đều cảm thấy việc cung ứng này không có ngày chấm dứt, do đó nhân dân trong thành, ngoài thôn hễ thấy các vị Tỳ kheo liền lật đật đóng cửa. Ôi! Nói đến việc này, chúng con thật hổ thẹn với đức Phật!

Đại Ca Diếp nghe xong, trong tâm rất khó chịu. Tôn giả lập tức quay trở về thành Vương Xá, đem câu chuyện trên bạch với đức Phật. Đức Thế Tôn bèn đến thành Khoáng Dã triệu tập hết các thầy Tỳ kheo, giáo giới các thầy không được bắt tín chúng cúng dường quá sự phát tâm của họ. Đức Thế Tôn dạy:

"Các Tỳ kheo! Chánh pháp của ta lưu truyền lâu dài đều nhờ sức thanh tịnh và cao thượng của Tăng đoàn. Người đến mức vô cầu mới là thanh cao. Các ông không được yêu sách chúng sanh quá nhiều, trái lại các ông phải là người cống hiến cho chúng sanh, các ông đừng để tín chúng chê bai, xa lánh. Nhiệm vụ quan trọng của các ông là hoằng pháp độ sanh, không phải là chuyện lo lắng về chỗ ở, chỗ ăn. Nếu như các ông xây cất giảng đường để thuyết pháp cho tín chúng, hoặc thiết lập tinh xá để tu chung với nhau, không phải xây cất cho riêng mình, điều ấy ta cho phép.

Còn làm nhiều tịnh thất lẻ tẻ, thiểu số người trong đó hưởng thọ của cúng dường, đó là làm phân tán lực lượng Tăng đoàn. Am thất này tranh với am thất kia, ai cũng cho mình là ngon lành, lại càng dễ sanh tâm riêng tư".

Lời dạy của Phật thật là tiếng chuông cảnh tỉnh trong giáo hội, tôi hy vọng các Tỳ kheo khi đi hóa duyên các nhà cư sĩ, và các hàng cư sĩ tại gia của thời đại này nhận thức được điều ấy.

Đức Phật dạy các Tỳ kheo xong, trở về thành Vương Xá. Tôn giả Đại Ca Diếp ở lại gây dựng tín tâm cho dân chúng.

Tôn giả không tính toán cho đời sống riêng mình, cho nơi cư trú của mình, chỉ bận lo mang niềm vui Phật pháp đến cho người, đợi cho tất cả đều tin tưởng hiểu biết chân lý của đức Phật xong, tôn giả liền rời thành Khoáng Dã đi nơi khác.

Lấy cái họa của giáo đoàn làm cái họa của mình, hoàn thành việc đáng làm rồi liền lui gót, không mong cầu cho mình mà chỉ làm việc vì Phật pháp, cái tư cách và chí nguyện cao cả của bậc thánh ấy thật đáng cho chúng ta khâm phục.
  • 10. A NAN TẶNG BÁT
Tôn giả Đại Ca Diếp chân thành vì pháp, rất được đức Thế Tôn tín nhiệm. Đức Phật đối với Tôn giả thường yêu mến ủng hộ luôn.

Trong giáo đoàn có nhóm Lục Quần Tỳ kheo như Mãn Túc v.v... chuyên môn kết bè đảng làm việc ác. Do đó, đức Phật đã chế ra một số giới luật.

Có một thời kỳ, Phật đang ở Kỳ Viên tinh xá, Lục Quần Tỳ kheo cũng ở đây cố tình tích chứa bình bát đủ loại. Bình bát thường thường có hai loại: bát bằng sắt thép và bát sành do địa phương sản xuất. Chất liệu, hình dáng mỗi thứ không giống nhau, cho nên phân biệt thì có: bát thiếc, bát của nước Tô Ma, bát của nước Ô Già, bát màu đen, bát nước Ưu Già, bát màu đỏ đủ loại v.v... Lục Quần Tỳ kheo thường sưu tầm các thứ bình bát tốt đem về tàng trữ trong phòng, như là một cửa tiệm đồ gốm.

Mấy ông Tỳ kheo này, từ sáng đến chiều chẳng lo tu hành gì cả, chỉ để hết tinh thần vào việc chứa bát, ngắm bát. Vì theo tinh thần của giáo đoàn, tuyệt đối cấm tích trữ vàng bạc, y phục, gạo thóc, tài sản... cho nên mấy thầy dồn hết hứng thú trong việc thâu chứa đồ cổ.

Và do đó, đức Phật lại cấm chỉ việc chứa bát dư, chế định giới luật nếu ai chứa bát dư phạm Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề.

Trong lúc Phật sắp ban hành điều luật này, A Nan được cúng một cái bát nước Tô Ma rất quý, A Nan định đem tặng Đại Ca Diếp, nhưng tôn giả Đại Ca Diếp còn bận du hóa nước ngoài, không có mặt ở thành Xá Vệ. Nếu y theo giới luật không được chứa bát dư thì A Nan không thể để lại mà kịp tặng cho Đại Ca Diếp. A Nan chỉ còn cách đem ý ấy lên bạch Phật. Phật hỏi:

- Còn mấy ngày nữa Ca Diếp mới về lại Xá Vệ?

- Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày trở lại tôn giả mới về đến.

Đức Phật bèn triệu tập đại chúng, giảng dạy pháp Đầu đà chơn chánh, và khen ngợi Đại Ca Diếp vâng giữ hạnh Đầu đà không sái phạm mảy may, dạy Lục Quần Tỳ kheo nên noi theo hạnh của Tôn giả mà tu tập. Và sau cùng, vì sự tình A Nan đã trình bày, đức Thế Tôn đặc biệt sửa đổi giới điều này, cho phép được chứa bát dư trong mười hôm.

Theo dõi sự kiện này, chúng ta có thể biết địa vị của tôn giả Đại Ca Diếp đối với tâm tưởng của đức Phật, và trong giáo đoàn rất cao vậy.
  • 11. ƯA TU KHỔ HẠNH
Đại Ca Diếp một bề ưa thích tu tập khổ hạnh Đầu đà. Nói về sự tu tập của Tôn giả, từ trẻ cho đến tuổi già, không kể tình hình ra sao, hoặc là mọi người ân cần nói thế nào, Tôn giả không hề từ bỏ khổ hạnh.

Phàm người tu khổ hạnh Đầu đà phải đủ mười hạnh:
  1. Cầu chọn nơi vắng vẻ.
  2. Chỉ sống bằng cách khất thực.
  3. Thường ở một chỗ.
  4. Ngày ăn một bữa.
  5. Khất thực không chọn lựa.
  6. Chỉ có ba y, bình bát, toạ cụ.
  7. Thường ngồi tư duy.
  8. Thường tịnh tọa chỗ trống.
  9. Mặc y phấn tảo.
  10. Thường ở nơi gò mả.
Sinh hoạt của một vị Đầu đà cần phải đơn giản và thanh tịnh như thế.

Đối với nhân vật như Đại Ca Diếp, không đi hóa độ chúng sanh mà ưa ở riêng một mình, sống quá ư khắc khổ, so sánh với các vị Tỳ kheo tích cực tiến bộ thật không giống, tâm từ bi làm lợi lạc chúng sanh của Tôn giả đáng kính phục, nhưng nhiệt tình hoằng pháp thì còn thiếu.

Trừ đức Thế Tôn, việc biện luận với ngoại đạo và giáo hóa các Tỳ kheo đó là việc của nhị vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, còn Đại Ca iếp chỉ chuyên tâm tu đạo. Trong khi đức Thế Tôn và hai vị đại đệ tử còn tại thế, Đại Ca Diếp chỉ thỉnh thoảng thuyết pháp cho hàng tục gia cư sĩ mà thôi. Sau khi Phật diệt độ, thay thế Phật thống lãnh đại chúng, lực lượng ấy đã được hàm dưỡng từ thời độc tu khổ hạnh trước đây. Tôn giả như một cỗ đại hồng chung, thời lặng thinh thì lặng thinh trầm mặc, nhưng khi chạm duyên cũng phát tiếng lớn vang dội.

Ban đầu hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng thường khuyên Đại Ca Diếp nên quên mình để phát tâm Bồ đề mà ra làm việc hoằng pháp lợi sanh, tuyên dương chân lý. Đại Ca Diếp cũng nhất quyết trả lời:

- Đối với việc hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sanh, tôi không thể làm được. Quên tự ngã không phải là chuyện dễ đâu. Dạy dỗ những bọn người không tín tâm, ác độc như thế, tôi thật chẳng có dũng khí và sức lực. Tôi tự lượng sức mình, chỉ kham sinh hoạt tự tu cho chính mình, bền bỉ trong việc khổ hạnh kham nhẫn, để ủng hộ kẻ hậu lai đối với hạnh đầu đà thiểu dục tri túc, biết tôn trọng và thực hành theo. Nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh lớn lao kia, hoàn toàn trông cậy vào các vị.

Hai tôn giả nghe Đại Ca Diếp nói thế không hề thất vọng, trái lại còn xưng tán:

- Trưởng giả đủ khả năng dựng lập pháp tràng về phương diện ấy, thật cũng rất khó khăn. Phật pháp rất nhiều mặt, mỗi người có thể làm theo lý tưởng của mình, theo chí nguyện của mình. Chúng tôi xin chúc hạ trưởng lão!

Đại Ca Diếp không thích sinh hoạt trong đoàn thể ở tinh xá rừng Trúc hay tinh xá Kỳ Viên, thậm chí Tôn giả không thích hòa vui trong cảnh ấy. Tôn giả chỉ ưa tịnh tọa nơi đồng trống, quán tử thi nơi gò mả, hay vá y dưới gốc cây. Tôn giả nhận thấy đống xương trắng hoặc mùi hôi người chết rất thích hợp trong việc tu quán vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đại Ca Diếp không sợ mưa to gió lớn, không nệ ngày nắng đêm sương, thân già khô gầy của Tôn giả luôn luôn ở dưới gốc cây trong rừng, hoặc nơi phần mộ xương trắng đồng hoang, mặc cho ai khuyên can, chẳng hề đình chỉ khổ hạnh.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 12. ĐỨC PHẬT CHIA NỬA TÒA
Tôn giả niên lạp càng ngày càng cao, đối với việc khổ hạnh đầu đà càng lúc càng tinh cần.

Một hôm, đức Phật không thể nhìn thấy Tôn giả tuổi cao tác lớn mà cứ sống dầu dãi nắng mưa, ngày đêm phong sương như vậy, nên muốn khuyên Tôn giả bớt khổ hạnh.

Lúc ấy, bánh xe pháp dừng trụ tại giảng đường Lộc Mẫu, đức Thế Tôn cho gọi Đại Ca Diếp. Tôn giả mặc y bá nạp, râu tóc ra dài, chậm chạp đi đến. Các tân Tỳ kheo ở đấy không biết Tôn giả, thấy hình dáng lôi thôi của Tôn giả đều tỏ ý khinh rẻ, có người còn định bước tới ngăn cản không cho đến gần Thế Tôn.

Phật biết ý đại chúng, liền từ xa gọi Tôn giả:

- Đại Ca Diếp! Ông đến đó ư! Ta còn chừa phân nửa tòa ở đây, ông hãy mau đến ngồi.

Các Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Phật nói, giật mình, không dè ông Tỳ kheo già đó là tôn giả Đại Ca Diếp danh chấn tông môn. Tôn giả đảnh lễ Phật xong, lui lại vài bước và bạch:

- Bạch Thế Tôn! Con là đệ tử của Ngài, con thật chẳng dám ngồi tại tòa dành riêng cho Thế Tôn.

Lúc ấy, đức Phật nói cho đại chúng rõ oai lực vô biên của Đại Ca Diếp, lịch trình tu tập của Tôn giả tương đồng với Thế Tôn, đời nay nếu không gặp Phật, Tôn giả cũng có thể giác ngộ, chứng quả vị La hán Độc giác.

Qua sự việc trên, có thể thấy đức Phật quý trọng Tôn giả đến thế nào, thậm chí đối đãi như khách, biểu lộ địa vị trọng yếu của Tôn giả trong giáo đoàn.

Đức Phật bảo Tôn giả không nên tiếp tục khổ hạnh, hãy bỏ bớt y thô nặng nề, mặc y nhẹ của tín thí cúng dường để tịnh dưỡng tuổi già, không nên mệt nhọc quá độ như thế.

Nhưng dù cho đến đức Phật ủy lạo đến đâu, Tôn giả cũng chẳng thay đổi cách tu. Tôn giả thưa với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hạnh đầu đà đối với con chẳng phải là khổ nhục, trái lại rất an lạc. Con không bị lo lắng ưu phiền về thức ăn, y phục, không màng sự đắc thất trên nhơn gian, con chỉ cảm thấy một sự tự do thanh tịnh thôi.

Đương nhiên có người phê bình lối sống của con nặng về tự lợi, còn như các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên thì thay Phật làm nhiệm vụ tuyên dương chân lý, không sợ khó khăn, chẳng tiếc thân mạng, cổ động bánh xe pháp, ủng hộ chúng sanh thấm nhuần pháp vị, đồng được pháp lạc. Về phần con, tuy không đủ nhiệt tình vì người vì pháp, nhưng con không hề quên ân Thế Tôn. Cũng vì muốn báo ân Phật con mới tu học hạnh khổ đầu đà. Vì chúng sanh cần cứu độ hoàn toàn nương vào sự hoằng pháp của Tăng đoàn. Các Tỳ kheo bố giáo là bậc thân pháp sư của tín đồ, cũng phải kiện toàn tự thân các vị mới có thể đảm đương công tác cao quý ấy. Còn bổn phận của Tăng đoàn kiện toàn như thế nào? Đương nhiên chỉ có theo sinh hoạt nghiêm túc để bồi dưỡng đức hạnh cho chính mình. Môn khổ hạnh đầu đà trong Phật pháp cũng là một phương pháp sinh hoạt nghiêm túc, tập quen được lối sống ấy mới có thể khắc khổ, nhẫn nại, kham nhẫn đạm bạc, nhất tâm nhất đức vì pháp vì chúng sanh! Bạch Thế Tôn! Con vì muốn trực tiếp củng cố Tăng đoàn, gián tiếp làm lợi ích chúng sanh, nên luôn luôn nguyện không xả bỏ khổ hạnh. Xin Thế Tôn lượng thứ cho tính cách chấp trước của đệ tử.

Phật nghe xong, rất hoan hỷ. Ngài nhìn Đại Ca Diếp, lại nhìn các Tỳ kheo, và nói:

- Rất tốt! Tỳ kheo các ông có nghe lời trưởng lão Đại Ca Diếp vừa nói không? Tương lai chánh pháp của ta bị hủy diệt, không phải do thiên ma ngoại đạo phá hoại, mà vì sự hủ bại tan nát của Tăng đoàn! Đại Ca Diếp nói rất đúng. Muốn hoằng dương Phật pháp, để ánh chân lý mãi mãi chiếu sáng thế gian, điều trước tiên là phải củng cố Tăng đoàn. Muốn củng cố Tăng đoàn phải sinh hoạt nghiêm túc. Người như Đại Ca Diếp mới có thể phụ trách chủ trì chánh pháp của ta!

Này Ca Diếp! Ông cứ tiến tu đạo nghiệp, ta không ép ông. Ông cứ tu theo ý nguyện của mình. Khi nào ông muốn gặp ta, cứ tùy thời mà đến.

Đức Phật và Đại Ca Diếp, tuy là hai mà tâm chỉ một, thầy trò thông cảm nhau. Đức Phật đãi Ca Diếp như khách, như bằng hữu, nhưng tôn giả không quên lễ nghĩa, dùng tư cách đồ đệ mà đáp lại, khiến cho mối tương giao sư đệ càng thêm thâm sâu nồng hậu.

Chúng ta nghe nói đến đức Phật hoặc các vị La hán, đều tưởng tượng rằng các vị ấy lạnh lùng nghiêm nghị như cây khô, đá lạnh, đối với thế gian chẳng lưu chút tình cảm nào. Thật ra không phải thế. Các vị ấy đã biến đổi nhơn tình tạp nhiễm thành một thứ tình cảm tự nhiên cao thượng, gọi đó là từ bi. Hạt giống từ bi nẩy mầm từ cây Trí tuệ, như đá nam châm thu hút chúng sanh, khiến chúng sanh sớm chiều gần gũi tiếp cận được nhân cách cao thượng ấm áp ấy, liền sửa đổi tập khí của mình.

Trong chốn rừng rậm um tùm của miền nhiệt đới, cây Sa la trổ hoa bát ngát. Những ngày hạ nhiệt đông hàn, những đêm trăng sáng trải ánh vàng trên vòm lá xanh, trong chốn cư trú thanh tịnh, vắng vẻ ấy, Đại Ca-diếp đã tu tập hằng năm, hằng năm qua đều đặn, dầu cho mười năm cũng như một ngày, cái phong tư cao cả của bậc Thánh đệ tử như còn phảng phất đâu đây.
  • 13. NỐI TIẾP Y BÁT CỦA ĐỨC PHẬT
Ngày tháng thoi đưa, nhanh như điện chớp, ứng thân hóa độ thế gian của đức Thế Tôn đã mãn duyên, vào năm tám mươi tuổi, Ngài báo tin sẽ nhập Niết bàn.

Cùng năm ấy, trước tiên là Mục Liền Liên tuẫn nạn, sau đến Xá Lợi Phất hồi hương nhập diệt, hiện tại đức Thế Tôn lại sắp nhập Niết bàn, trong Tăng đoàn đâu đâu cũng thấy vẻ sầu thảm. Vì sự lưu truyền của chánh pháp và lãnh đạo Tăng đoàn, đức Thế Tôn đã sớm chú ý chọn người tiếp nối. Hiện nay trong Tăng đoàn, tôn giả Đại Ca Diếp già nua, và A Nan tuổi trẻ được coi như là những nhân vật có thể kế thừa Thế Tôn. Nhất là tôn giả Đại Ca Diếp. Ở trên hội Linh Sơn đức Thế Tôn đã ngầm trao "Chánh pháp nhãn tạng. Niêm hoa vi tiếu" là điển tích tối sơ của Thiền tông.

Khi đức Phật nhập diệt ở thành Câu Thi Na, tôn giả Đại Ca Diếp còn đang hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo du hóa ở nước Đặc Xoa Na Xà phương Bắc. Sau khi nghe tin, tôn giả rất cảm thương, dắt các Tỳ kheo đi ngày đi đêm về thành Câu Thi Na. Có người nước mắt đầm đìa, có người nằm lăn ra đất khóc than.

Trong chúng Tỳ kheo có ông Bạt Nan Đà thuộc nhóm Lục Quần Tỳ kheo, lại rất vui vẻ nói rằng:

- Mấy thầy cần gì phải thương cảm như vậy? Phật đà Niết bàn rồi chúng ta mới được tự do. Lão nhân gia ấy còn sống đã bó buộc chúng ta, quản lý chúng ta, Ngài thường rằn ri chúng ta điều này không tốt, điều kia không được làm, cứ lải nhải đến bực mình. Bây giờ, Ngài Niết bàn rồi, chúng ta càng nhẹ nhỏm, thong thả chứ sao!

Không đợi Đại Ca Diếp quở trách, một thầy Tỳ kheo bước đến định đánh Bạt Nan Đà. Đại Ca Diếp vội ngăn lại và răn:

- Đức Thế Tôn Niết bàn, mọi người mất nơi nương tựa nên đều buồn thương, tại sao ông ngu si cho điều đó là việc vui mừng?

Kỳ thiệt Tôn giả phải đập cho ông ta một trận mới được. Tuy là một bậc thánh, nhưng giây phút ấy Tôn giả cũng một phen vọng tưởng, có lúc tợ như con thơ nhớ từ phụ, tưởng đến dung mạo và ngôn từ dạy bảo tha thiết, có khi nhớ đức Phật như nghiêm sư với đệ tử, oai đức khiến người kinh sợ chẳng dám gần, có lúc lại nghĩ đến việc kết tập Pháp bảo, phải nên mời những vị nào tham gia, người nào thuyết kinh, người nào đọc luật, Tôn giả đều suy nghĩ tới nơi. Tôn giả đem tấm lòng của một trưởng lão mà lo lắng cho tiền đồ Phật pháp.

Tóm lại, tâm tư của Tôn giả rất thâm trầm. Lúc ấy kim quan của đức Phật an trí tại chùa Thiên Phủ. Hàng đệ tử vây quanh buồn bã khóc than, và chuẩn bị tưới dầu thơm, sắp củi lửa để làm lễ trà tỳ, nhưng đốt hoài không cháy. Bảy ngày sau, Đại Ca Diếp về đến, từ trong kim quan đức Phật ló hai chân ra, tôn giả trông thấy không cầm được nước mắt, chắp tay đảnh lễ thưa rằng:

- Đức Thế Tôn từ bi! Bậc cứu thế vĩ đại. Xin an tâm, chúng con sẽ đi theo bước chân của Ngài!

Đại Ca Diếp nói xong, đức Phật thâu hai chân vào. Và lúc ấy, giữa những tiếng khóc than kinh động của chúng đệ tử, đức Phật dùng "Tam muội chân hỏa" tự trà tỳ kim thân.

Từ đây trách nhiệm lưu truyền đại pháp, đã do tôn giả Đại Ca Diếp đảm đương.
  • 14. KẾT TẬP TAM TẠNG THÁNH ĐIỂN
Phật diệt độ khoảng chín mươi ngày sau, các Tỳ kheo mở hội nghị kết tập pháp điển.

Ban đầu, Đại Ca Diếp cũng một phen khổ tâm khi chọn vị trí kết tập. Tinh xá Trúc Lâm thì quá rộng, ở đấy lại không có nhiều các Tỳ kheo ly dục chứng quả cư trú. Sau cùng Tôn giả chọn một thạch động trong vùng núi phía Đông Nam của thành Vương Xá, tên gọi là động Tất Ba La Diên.

Trong rừng núi tịch tịnh, hang động rộng rãi, chính là một cảnh thoát trần trong những cảnh ngoài vòng trần ai. Năm trăm vị A la hán đều suy cử tôn giả Đại Ca Diếp, A Nan Đà, A Na Luật, Ưu Ba Ly, Phú Lâu Na làm bậc thượng thủ. Song tôn giả Đại Ca Diếp với tư cách chủ tọa đã cử tội A Nan trước đại chúng, quở trách A Nan chưa chứng Thánh quả, mỗi tội bỏ xuống một thẻ, sáu tội sáu thẻ, oai nghiêm như đức Phật, A Nan dù kiêu khí ngất trời nhưng trước mặt Tôn giả cũng chẳng dám phản kháng, chỉ một bề nhận lỗi.

Đại Ca Diếp rất vĩ đại, sau khi Phật diệt độ, trong những hàng thánh đệ tử đông như thế mà đủ sức thống lý đại chúng, không để cho giáo đoàn bị chia năm xẻ bảy. Do đó đủ biết thanh danh và oai quyền của Tôn giả thật vững chắc như bàn thạch.

Khi Phật còn tại thế, hai vị đại đệ tử anh tài như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đã hoạt động trong và ngoài giáo đoàn, là hàng đệ tử thân tín của đức Phật. Còn Đại Ca Diếp thì trầm mặc tu đạo, những hoạt động của Tôn giả đều có giới hạn. Nhưng đến khi đức Phật và hai vị đại đệ tử nhập diệt rồi, mới gọi rằng nước cạn bày đá, đảm nhiệm việc lãnh đạo giáo đoàn. Do đó mới thấy ra sức tu dưỡng cao sâu của Tôn giả, và độ lượng rộng lớn của Ngài.

Tác phong của Tôn giả là bảo thủ. Tôn giả không giống tinh thần tiến bộ và tích cực của Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Phật giáo ngày nay có khuynh hướng thối ẩn, cư trú rừng núi bảo thủ chú trọng khổ hạnh, đã chịu ảnh hưởng của tôn giả Đại Ca Diếp rất nhiều, điều này là sự thực không thể phủ nhận.

Tôn giả Đại Ca Diếp không có thần thông quảng đại, nhưng đối với bất cứ điều khó khăn nào đều có thể kiên nhẫn, an nhiên mà vượt qua. Đem ánh sáng chân lý của đức Phật cao vọi như Thái Sơn chiếu khắp đại địa, lưu truyền đến đời vị lai vô cùng, đầy đủ tư cách ấy thì trong Tăng đoàn đương thời không có ai sánh bằng Tôn giả.

Ngày kết tập thứ hai trở đi, A Nan tụng kinh, Ưu Ba Ly tụng luật, Phú Lâu Na luận nghị. Đó là sự nghiệp thiêng liêng lớn lao của cuộc kết tập tam tạng lần thứ nhất, đã thuận hòa hoàn thành như thế.

Chúng ta được thừa hưởng cam lồ pháp thủy của đức Phật, chúng ta có kho tàng Thánh điển mênh mông như đại hải kia, chúng ta phải cảm tạ tôn giả Đại Ca Diếp!
  • 15. LONG HOA TAM HỘI NGUYỆN TƯƠNG PHÙNG
Hai mươi, ba mươi năm sau lần kết tập ấy, Đại Ca Diếp bỗng nhiên khởi ý nghĩ yếm thế. Ngài nghĩ "Đức Thế Tôn là bậc đại sư của ta, ân sâu như đại hải, đối xử với ta tình như cha mẹ yêu con, ta đã vì đời sau mà lưu truyền đại pháp, có thể tính là báo đáp được ân Phật một phần trong muôn phần. Hiện nay, ta đã già yếu, thân thể lão hủ này còn luyến tiếc gì, tốt hơn ta nên nhập Niết bàn".

Lúc ấy Ngài đã hơn một trăm tuổi.

Ngài liền đến nơi A Nan đang du hóa, phó chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng, và sau đó bay lên hư không đến tại các nơi có tháp thờ Xá lợi của Phật, hết thảy tám chỗ, cúng dường lễ bái.

Tôn giả trở về thành Vương Xá, định đến cáo từ vua A Xà Thế, nhưng quân hầu bảo vua còn đang ngủ. Tôn giả bèn rời thành, đến núi Kê Túc phía Tây Nam, cách đó tám dặm. Ngọn núi này có ba đỉnh cao chót vót, hình dáng như chân con gà. Phân nửa núi trở lên là rừng cây rậm rạp, phân nửa núi trở xuống là thảm cỏ trải dài.

Khi Tôn giả đến dưới chân núi, thì ba đỉnh núi từ từ tách ra thành một nơi tọa thiền bên trong rất đẹp. Tôn giả liền lấy cỏ trải tòa mà ngồi và tự nói: "Hôm nay ta sẽ dùng sức thần giữ gìn nhục thân này, dùng y phấn tảo che phủ trên mình, để đến sáu mươi bảy ức năm sau, Bồ tát Di Lặc giáng sanh thành Phật, ta sẽ đến bái kiến Ngài, giúp Ngài giáo hóa chúng sanh". Nói xong, ba ngọn núi khép lại như cũ, giấu kín tung tích Tôn giả.

Vua A Xà Thế nghe tin Tôn giả nhập diệt, rất đỗi bi thương! Lập tức đến gặp tôn giả A Nan, yêu cầu cùng vua đi đến núi Kê Túc. Khi hai người vừa đến nơi, ba ngọn núi lại tách ra, cả hai cùng thấy Tôn giả Đại Ca Diếp đoan tọa nhập định trong đó, trên thân phủ đầy hoa Mạn đà la. Nhà vua cùng A Nan cúng dường lễ bái rồi lui ra. Núi tự nhiên khép lại. Ngoái lại nhìn rừng núi tịch tịnh, để sáu mươi bảy ức năm sau, tôn giả Đại Ca Diếp đã trường kỳ giữ gìn y bát của đức Phật, ở tại núi này đợi đức Di Lặc Tôn Phật đến thăm, lại trao y bát ấy cho Ngài. Phong độ lưu truyền giáo hóa ấy, cả hai đều khâm phục vạn phần.

Câu chuyện diễm lệ, huyền ảo này có ghi chép nhiều trong kinh điển. Từ đó, chúng ta có thể nhận ra tư cách vĩ đại của tôn giả, qua ngàn vạn kiếp không lu mờ!

Có người nói: Tinh thần của các bậc vĩ nhân đã hòa cùng tạo hóa, thâm nhập vào chỗ trí áo của trời đất, mà sinh mạng trường tồn với thời gian vô tận. Từ cố sự của tôn giả Đại Ca Diếp, chúng ta có thể thấy sinh mệnh của tôn giả đã vô cùng vô tận, và như thế, giáo pháp của đức Phật nói ra cũng lưu truyền vô cùng vô tận vậy.

Một đời của tôn giả Đại Ca Diếp thật huy hoàng lộng lẫy. Từ lúc sanh ra dưới gốc cây, đến đúc tượng vàng chọn vợ, mười hai năm danh nghĩa phu thê, cho đến khi quy y với Phật bên tháp Đa Tử, xuất thân là con nhà giàu mà kham nhẫn tu tập khổ hạnh, niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn, nối tiếp chánh pháp của Phật, nhiếp giữ đại pháp cho đến hơn trăm tuổi, không hề buông lơi một bước, phản đối A Nan tham dự kết tập mà đến khi A Nan khai ngộ chứng quả lại nguyện đem Phật pháp giao phó cho A Nan kế thừa. Đó thật là cuộc đời của một nhân vật vĩ đại, đáng cho chúng ta hộ niệm, học tập.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XÁ LỢI PHẤT
TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT
  • 1. TRƯỚC VÀ SAU ĐẢN SANH
Tại nước Ma Kiệt Đà ở Nam Ấn Độ, cách thủ đô Vương Xá khoảng hai ba dặm, có một thôn trang tên Ca La Tý Nỏa Ca, rừng đẹp trúc cao, núi xanh sông biếc, thật là một địa phương u tịnh, và đó cũng là quê hương của ngài Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất sanh trong gia đình Bà la môn, thân phụ Đề Xá là luận sư nổi danh trong giáo đoàn Bà la môn. Thân mẫu khi mang thai Ngài, trí tuệ trội vượt hơn mọi phụ nữ tầm thường (Theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).

Em trai thân mẫu là Câu Hy La, cũng rất giỏi nghị luận, nhưng mỗi khi cùng với bà chị đàm đạo, đều bị cạn lời bí lối, chẳng dám cầm cự phải thoái lui. Ông xấu hổ rời nhà ra đi, biết rằng đứa bé trong bụng chị mình ngày sau sẽ là một người đại trí tuệ, nếu tự mình không tiến hơn, mai sau cậu chẳng bằng cháu, thiên hạ sẽ cười cho thối óc. Do đó, ông đi khắp nơi tìm thầy học hỏi, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay ra dài mà không dám nghỉ để cắt. Người đương thời đặt cho ông danh hiệu là Trường Trảo Phạm Chí (Sau này khi Xá Lợi Phất quy y Phật, ông cũng quy y theo làm Sa môn).

Vào năm tám tuổi, Xá Lợi Phất đã có thể giải suốt mọi thư tịch. Thời ấy, trong nước Ma Kiệt Đà, có hai anh em trưởng giả, anh tên Cát Lợi, em tên A Già La, mở tiệc đãi đằng vua quan, thái tử, các vị luận sư... ca vũ nhạc kịch, luận cổ bàn kim. Đại hội quy định, ai ngồi theo chỗ đó, chỉ có cậu bé Xá Lợi Phất trèo lên bảo tọa của luận sư cao tột, bên cạnh không người nào dám ngồi, mà chẳng hề sợ sệt. Ban đầu, mấy ông đại luận sư cho đó là một tên thiếu niên vô tri, không thèm đếm xỉa đến, sai các đệ tử nhỏ tuổi đến thù đáp, nhưng gặp Xá Lợi Phất lời lẽ khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, làm kinh ngạc bốn phía. Lúc ấy các đại luận sư mới khâm phục, khen ngợi rối rít, quốc vương cũng đẹp dạ, đem luôn một thôn trang phong tặng Xá Lợi Phất.

Ấu thơ tám tuổi đã xuất đầu lộ diện trong trường hợp như thế, phụ thân tuy nổi danh học giả, cũng tự cảm nhận: Thông minh tài trí của mình không bằng cậu con yêu.
  • 2. LÃO SƯ CHÂN CHÁNH
Đến tuổi trưởng thành, người trong nước đều biết đại danh Xá Lợi Phất. Dáng người cao lớn, dung mạo thanh tú, mắt sáng như sao, tay dài quá gối, Xá Lợi Phất thừa hưởng truyền thống học giả của phụ thân nên cũng rất có phong độ học giả. Giới học thuật đương thời không ai không biết đến chàng thanh niên hậu sanh khả úy này.

Đến năm hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất từ giã quê hương phụ mẫu, lên đường tìm sư học đạo. Ban đầu, chàng đến bái yết vị Bà la môn nổi danh San Xà-Dạ làm thầy, nhưng học chưa được bao lâu, chàng cảm thấy học vấn của thầy không đủ đáp ứng cho sức tìm hiểu của mình, bèn tính chuyện cáo từ. Bạn đồng học lúc bấy giờ, chỉ có Mục Kiền Liên là tâm giao, Xá Lợi Phất đem ý định của mình nói cho bạn nghe, và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy như vậy. Cả hai bèn quyết định ly khai San Xà Dạ, thành lập riêng một học đoàn, chiêu tập đồ đệ. Hai chàng tuổi trẻ yên chí rằng trên đời này không có người trí thức nào sánh kịp mình, và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy mình.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tuổi tác tương đương, sức học và tư tưởng cũng gần gũi, cả hai đều có chí nguyện tìm cầu chân lý, nên tình cảm rất hòa hợp. Sức tự tu và dạy học, học giả trên toàn cõi Ấn Độ không có ai vừa mắt hai chàng.

Một ngày nọ, trên con đường đến thành Vương Xá, Xá-lợi-phất gặp một vị đệ tử Phật, Tỳ kheo A Thị Thuyết. A Thị Thuyết là một trong năm vị Tỳ kheo đầu tiên quy y Phật, Ngài đã trải qua nhiều năm khổ hạnh, đến khi nghe Phật nói pháp Tứ Đế, liền chứng Thánh quả. Ngài có thái độ trang nghiêm, đi đứng oai nghi, Xá Lợi Phất một phen thấy qua trong lòng sanh kinh ngạc, không thể ngăn nổi sự tò mò đến trước hỏi luôn:

- Xin lỗi, cho phép tôi hỏi thăm đạo giả, chẳng hay Ngài tên gì? Hiện ở đâu ?

- Đa tạ! Tôi tên A Thị Thuyết, ở Trúc Lâm tinh xá ngoài thành không xa.

- Thầy của Ngài là ai? Bình thường dạy Ngài đạo lý gì?

Xá Lợi Phất khi hỏi câu này thật là khẩu khí của một trưởng giả. A Thị Thuyết chậm rãi trả lời:

- Thầy tôi là bậc đại Thánh Thích Ca Mâu Ni xuất sanh từ dòng họ Thích. Ngài dạy về chơn lý của vũ trụ nhơn sanh, kẻ ít học như tôi không thể lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ, đạo lý của Ngài thường giảng là:
  • Các pháp do nhân duyên sanh
    Các pháp do nhân duyên diệt.
Cũng dạy rằng: "Các hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui". Đối với lời dạy của bậc Đạo sư, thật khó diễn tả được hết cảm kích của chúng tôi.

Xá Lợi Phất được nghe danh hiệu Phật đà và giáo pháp của Ngài, dường như trời long đất lở, như sáng ngời mặt trời trước mắt, tất cả mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất, chàng đứng bên đường đàm đạo với A Thị Thuyết như là bạn tri kỷ trăm năm, và sau cùng ước hẹn, sẽ đến bái phỏng đức Phật.

Xá Lợi Phất về đến nơi, Mục Kiền Liên thấy bộ dạng hân hoan của bạn, liền hỏi thăm:

- Xá Lợi Phất, có việc gì trông bạn có vẻ cao hứng đến thế?

- Mục Kiền Liên! Đây là dịp cao hứng đệ nhất trong đời tôi, thật hoan hỷ, tôi báo cho bạn biết, tôi đã tìm gặp vị Lão sư của chúng ta.

- Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy chúng ta?

- Phật đà! Đó chính là đức Phật đà!

Xá Lợi Phất liền đem những lời của A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp, kể lại cho Mục Kiền Liên nghe, người kể, người nghe đều không ngăn được xúc động, bất giác rơi lệ.

Pháp nhân duyên, người bình thường nghe sẽ không lãnh hội được ra sao, nhưng đối với người tìm cầu chân lý như Xá Lợi Phất, thì phải ném hết những công phu tu hành từ nhiều năm nay. Có thể nói không lầm rằng người nhận thức được pháp nhân duyên mới có thể nhận thức được Phật pháp.

Ngày hôm sau, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đem hai trăm đồ chúng, đồng đến Trúc Lâm tinh xá, quy y dưới tòa đức Phật. Đức Phật cũng rất hoan hỷ, Ngài biết rằng chân lý mình chứng ngộ đến hôm nay mới gặp đúng người có thể tiếp thọ, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.
  • 3. GIÁM ĐỐC CÔNG TRÌNH KỲ VIÊN
Sau khi Xá Lợi Phất quy y Phật, lực lượng Tăng đoàn bắt đầu tăng thêm. Đức Phật rất tin dùng Xá Lợi Phất. Người thứ nhất vâng lãnh sứ mạng sang phương Bắc hoằng pháp, và trông coi việc xây cất Kỳ Viên tinh xá, là Xá Lợi Phất.

Trúc Lâm tinh xá nằm ở Ma Kiệt DDà, Nam Ấn Độ, còn trong thời gian Phật thành đạo hai năm đầu, ở phương Bắc không có một căn cứ để thuyết pháp. Nhân duyên kỳ ngộ, Tu Đạt trưởng giả ở thành Vương Xá nước Kiều Tát La (Kosala) phương Bắc, nhân đến phương Nam thăm người quen, được gặp thánh nhan của Phật, liền phát tâm quy y, và phát tâm kiến lập một tinh xá ở phương Bắc cúng dường Phật để khắp rưới nước cam lồ.

Trưởng giả Tu Đạt dùng vàng ròng trải khắp mặt đất mua vườn hoa của Thái tử Kỳ Đà làm nơi kiến tạo tinh xá. Ông thỉnh Phật cử cho một người thiết kế và trông coi công việc. Đức Phật biết chính Ngài không có nhân duyên đến phương Bắc, ở đấy toàn là ngoại đạo. Đến đấy không những chỉ hướng dẫn việc xây cất tinh xá, mà còn phải hàng phục chúng ngoại đạo. Vì thế, Xá Lợi Phất cùng Tu Đạt đến thành Xá Vệ trước.

Tinh xá vừa khởi công không bao lâu, quả không lầm, ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu Tu Đạt bỏ ý định xây dựng tinh xá cúng Phật, thậm chí bảo ông đừng tín ngưỡng Phật-đà.

Tu Đạt là người đã lãnh thọ pháp ân của Phật, dù bất cứ thế nào ông cũng không nghe theo lời của ngoại đạo, họ bèn nghĩ đến việc biện luận với đệ tử Phật, ngài Xá Lợi Phất. Họ chắc rằng đánh đổ Phật giáo, để làm cho Tu Đạt tỉnh ngộ. Tu Đạt nghe qua tin này rất kinh sợ, nghĩ thầm một mình ngài Xá Lợi Phất làm sao tranh biện nổi với từng ấy ngoại đạo?

Ông rầu rĩ báo cho Xá Lợi Phất biết ý định của bọn họ, trái lại Ngài rất hoan hỷ, đây chính là cơ hội tốt nhất để Ngài thay Phật tuyên dương giáo pháp.

Đã ước định về thời gian, địa điểm mở cuộc đại hội biện luận, ngoại đạo cử mười vị luận sư danh tiếng, bên nhà Phật chỉ có một ngài Xá Lợi Phất. So sánh về lực lượng, bên Phật giáo tuy ít, nhưng một mình ngài Xá Lợi Phất có thể hạ ngàn vạn ngoại đạo. Xá Lợi Phất là đệ tử vô tỷ trong hàng đệ tử Phật, lại xuất thân từ gia đình Bà la môn, ông nội, phụ thân đều là những luận sư danh tiếng trong Bà la môn giáo, đều là học giả bậc nhất của toàn cõi Ấn Độ. Học vấn của Xá Lợi Phất đã thừa hưởng truyền thống danh giá đó, Ngài tinh thông tất cả kinh điển ngoại đạo, và hiện tại là người đắc Thánh quả. Chọn Xá Lợi Phất để tranh luận với ngoại đạo, thiệt là không còn ai hơn.

Trong trường biện luận, khỏi phải nói Xá Lợi Phất thắng lợi hoàn toàn, có một số ngoại đạo tiếp thu chân lý, đều xin nhờ Xá Lợi Phất giới thiệu, trở lại quy y bậc đại thánh. Đức Phật chỉ ngồi ở phương Nam mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc.

Phen này Xá Lợi Phất hướng dẫn trên cả ngàn vạn người quy y Phật, Tu Đạt đến lúc này mới nở lỗ mũi, càng khâm phục Xá Lợi Phất, càng cảm kích oai đức của Thế Tôn.

Việc xây cất Kỳ Viên tiến rất mau, theo thiết kế của ngài Xá Lợi Phất, trù liệu có mười sáu giảng đường dành cho đại hội giảng kinh, lại có mười sáu tiểu đường, chia ra làm phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho... Ngoài ra còn có sân vận động, ao tắm, suối nước giặt giũ…

Lúc tinh xá sắp hoàn thành, Xá Lợi Phất nói với Tu Đạt:

- Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kia?

- Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả – Tu Đạt thất vọng trả lời.

- Chẳng có gì lạ, mắt thường không thể thấy được những biểu hiện, bây giờ ông nương sức thiên nhãn của tôi, xem lại một lần nữa.

- A! Tu Đạt vui mừng kêu lên: - Thưa Tôn giả con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.

- Đó là cung điện của sáu cõi trời Dục giới, vì ông cúng dường tinh xá cho Phật thuyết pháp, tinh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.

- Nhưng, trong sáu cõi trời ấy nhiều những cung điện đến thế, con phải ở cõi trời nào mới tốt?

- Cõi trời Đao Lợi thọ mạng rất lâu, biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo, khó đọa lạc. Xá Lợi Phất giải thích cho Tu Đạt nghe.

- Vậy sau này con nhất định nguyện về cõi Đao Lợi.

Khi Tu Đạt nói xong, những cung điện kia dần dần ẩn mất, chỉ có cung điện của cõi trời Đao Lợi sáng rực đẹp đẽ hiện ở không trung. Tu Đạt thấy rồi rất mừng rỡ, trong cuộc bình sanh chưa bao giờ được như vậy.
  • 4. KHÔNG THOÁI CHUYỂN TÂM ĐẠI THỪA
Nhân chuyện trưởng giả Tu Đạt cúng dường tinh xá cho Phật, nhờ thần lực thiên nhãn của ngài Xá Lợi Phất thấy được cung điện cõi trời. Về đôi mắt của tôn giả, trong thời quá khứ tu nhân sáu mươi kiếp về trước khi Ngài tu khổ hạnh, có một sự kiện liên quan đến đôi mắt ấy.

Xá Lợi Phất phát tâm tu đạo Bồ tát hành hạnh bố thí của Đại thừa, Ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản... những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, tối hậu cho đến thân thể, mạng sống, cũng không tiếc một mảy may, nguyện bố thí cho người.

Phát tâm nguyện chơn thiết như vậy, làm kinh động trời đất, bèn có một Thiên nhơn đến thử đạo tâm của Ngài.

Thiên nhơn biến thành một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, ngồi chờ trên đường Xá Lợi Phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy Ngài đi đến bèn lớn tiếng khóc rống, Xá Lợi Phất thấy vậy bất nhẫn, đến trước mặt an ủi hỏi han:

- Úy da! Này cậu kia, vì sao ngồi đây khóc lóc trông thương tâm như vậy?

- Ông đừng hỏi lôi thôi, nói cho ông nghe cũng chẳng được gì.

- Tôi là Sa môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.

- Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được, thầy thuốc nói cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc, bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm, con mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc, tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc đó ạ!

Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh, tôi là Sa môn kia mà, tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.

Thanh niên vui mừng nhảy lên.

- Ý! Ngài bố thí cho tôi một con mắt?

- Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết, chính lúc muốn tiến một bước trên hạnh Đại thừa tôi nguyện đem thân ra bố thí. Đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần, tôi được mãn nguyện tâm đạo, tôi rất vui mừng cảm ơn anh, anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi.

Sáu mươi tiểu kiếp trước trong tâm thầy tu Xá Lợi Phất nghĩ rằng: "Ta có hai con mắt, bố thí cho người một con, còn một con mắt cũng đủ thấy đường, đối với mình cũng chẳng trở ngại chi".

Ngài bảo thanh niên tìm cách lấy con mắt đi, thanh niên không chịu, nói:

- Thiệt chẳng nên, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.

Xá Lợi Phất nghe nói có lý, liền quyết tâm, dũng mãnh chịu đau, lấy tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên và nói:

- Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, anh hãy cầm lấy!

Thanh niên cầm con mắt la lên:

- Hỏng bét! Ai biểu ông móc con mắt trái ra đây. Bệnh của mẹ tôi, phải dùng con mắt bên phải mới tốt.

Xá Lợi Phất nghe nói, thiệt là hỏng tuốt, Ngài tự trách mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt, bây giờ làm sao? Cho con mắt bên trái, còn con mắt bên phải để xài, nếu cho luôn con mắt bên phải sẽ không thấy gì ráo. Thật đáng kính phục, Xá Lợi Phất không bao giờ trách người, Ngài nghĩ tiếp, phát tâm phát cho triệt để, cứu người cũng cứu triệt để, khó gặp được người nhận thí để thành tựu đạo hạnh của mình, nên móc con mắt bên phải cho người mới xong. Xá Lợi Phất nghĩ như vậy rồi bèn an ủi thanh niên:

- Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp không kịp hỏi nên móc lộn con mắt, bây giờ tôi biết rằng, thân thể này là hư huyễn vô thường. Tôi còn con mắt bên phải, tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ anh.

Xá Lợi Phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên phải cho thanh niên nọ.

Thanh niên cầm con mắt Xá Lợi Phất không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái, quăng luôn xuống đất, mắng:

- Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi rình khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng!

Thanh niên mắng xong còn lấy chân chà lên con mắt của Xá Lợi Phất.

Tuy không thấy, nhưng lỗ tai còn thính, Ngài nghe lời thanh niên mắng mỏ, nghe tiếng chân thanh niên chà đạp con mắt của mình, Ngài thở dài, nghĩ thầm: "Chúng sanh khó độ, tâm Bồ tát khó phát, ta chẳng dám vọng tưởng tiến tu Đại thừa, ta nên quay lại chú trọng việc tu hành tự lợi thôi!"

Trong tâm Ngài vừa khởi ý niệm ấy, tức thời trên không trung xuất hiện rất nhiều Thiên nhơn nói với Xá Lợi Phất:

- Tu đạo giả! Ngài đừng chán nản, người thanh niên lúc nãy là do Thiên nhơn chúng tôi đến thử thách Bồ tát hạnh của Ngài, Ngài phải dũng mãnh tinh tấn lên, theo như tâm nguyện mình mà tu học.

Xá Lợi Phất nghe nói rất xấu hổ, tâm Bồ tát lợi tha khởi phát trở lại, ngay lúc ấy thành tựu được đạo tâm bất thoái.

Từ sáu mươi tiểu kiếp đến nay, Xá Lợi Phất không ngừng học đạo, đời này được gặp Phật, chứng Thánh quả, do đó được Thiên nhãn thông.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 5. THỌ THỨC ĂN BẤT TỊNH
Xá Lợi Phất là thủ tọa trong hàng đệ tử Phật, đại trí đại tuệ, thần lực siêu quần, Ngài đối với đức Phật thật là bách y bách thuận, đối với lời chỉ dạy của Phật chưa từng cãi lời.

Đức Phật đối với các đệ tử, tín nhiệm nhất là Xá Lợi Phất, sau ngày thành đạo, lần trở về cố hương Ca Tỳ La thứ nhất, gặp La Hầu La muốn xuất gia, đức Phật bảo ông bái Xá Lợi Phất làm thân giáo sư, theo Xá Lợi Phất thọ giới Sa di.

Một hôm, Xá Lợi Phất dắt Sa di La Hầu La đi khất thực trở về, đức Phật thấy vẻ mặt của La Hầu La không vui, biết trong tâm ông có chuyện bất bình, bèn gọi ông đến gần, hỏi ông trong lòng bất mãn việc gì.

Sa di La Hầu La cúi đầu tỏ ý không vui, giọng nói bất mãn:

- Phật đà! Con là Sa di, đáng lẽ không nên nói lỗi bậc Thượng tọa, nhưng nếu không nói thì không ai biết hoàn cảnh của Sa di chúng con.

- Sự việc như thế nào? Ông giải thích ta nghe.

- Phật đà! Các vị Thượng tọa và Trung tọa dẫn chúng con ra ngoài thành khất thực, tín chúng cúng dường các vị ấy toàn những món ngon thượng đẳng, còn hàng Sa di sơ học chúng con, chỉ bố thí toàn cơm trộn xác mè, rau rừng lộn lạo. Thân thể con người đối với việc ăn uống đâu có phân biệt tuổi tác và giới hạnh, đều có nhu cầu giống nhau. Các vị trưởng lão ngoài sự thọ dụng của riêng mình, không có lòng từ bi đoái hoài đến chúng con, khiến tín chúng cúng dường sanh tâm phân biệt.

- Việc ấy đâu đáng gì để nói, chỉ có chút tiểu sự mà ông không thể nhẫn!

- Phật đà! Xin Ngài từ bi đừng trách mắng chúng con, được ăn dầu mè và tô lạc mới có thể tăng trưởng khí lực, thân thể khỏe mạnh mới có thể an tâm tinh tấn tu hành, còn chúng con mỗi ngày ăn xác mè và rau rừng, dinh dưỡng không đủ, lâu ngày thân thể mỏi mệt, thường chẳng có thể chuyên tâm tu trì.

Đức Phật nghe La Hầu La nói, cũng công nhận là đúng, tuy nhiên Ngài cũng răn dạy:

- La Hầu La! Ông rời hoàng cung gia nhập Tăng đoàn là vì thọ sự hảo cúng dường phải không?

- Thưa không! Bạch Thế Tôn, con vào Tăng đoàn là vì để học đạo tu hành.

- Vậy thì ông mới nói chuyện gì đó? Như nếu nghĩ đến việc tu hành, thì khi thọ nhận của tín thí một hạt mè, một hạt cơm cũng thấy là đầy đủ. Ông đi mà lo tu hành, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.

Tuy dạy bảo La Hầu La như thế, nhưng Ngài cũng biết tín chúng khi cúng dường có khởi tâm phân biệt, trong lòng không vui. Ngài kêu Xá Lợi Phất đến sau khi bảo La Hầu La lui ra, hỏi:

- Xá Lợi Phất, hôm nay ông thọ đồ ăn bất tịnh, ông biết không?

Xá Lợi Phất nghe nói kinh hãi, lập tức cho những thức ăn hôm nay ói hết ra đất và bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Từ lúc con quy y với Ngài, con vẫn y pháp khất thực của Phật mà xin ăn, con không hề trái phạm mà xin thức ăn bất tịnh.

Phật biết rõ tâm Xá Lợi Phất, giải thích:

- Việc khất thực của riêng ông, ta biết là hoàn toàn không trái phép, nhưng Tăng đoàn có lục hòa, không nên chỉ biết riêng mình. Về pháp chế nên bình đẳng, lợi ích cũng đều nhau, làm bậc trưởng lão nên thường thương tưởng để ý đến các Tỳ kheo nhỏ tuổi và Sa di, khi khất thực nên chú ý đến họ.

Đức Phật dạy xong, Xá Lợi Phất đối với lời dạy không có một chút bất bình, đều cảm kích lãnh thọ.
  • 6. KHIẾN KẺ PHẢN BỘI KINH SỢ
Trong hàng đệ tử Phật, có một Tỳ kheo tên Đề Bà Đạt Đa, ông ta vốn là đường đệ của Phật khi Ngài còn làm vương tử, sau khi theo Phật xuất gia được mười năm, bị ma quỷ làm mê mờ tâm trí, bèn phản lại đức Phật, tách rời khỏi Tăng đoàn.

Một hôm, sau khi đức Phật đi khất thực về, cùng các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường, Đề Bà Đạt Đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đảng đến yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo Tăng đoàn cho ông.

Phật chẳng hề trả lời, mặc cho Đề Bà Đạt Đa la lối om sòm, Phật vẫn im lặng nhường lời, Đề Bà Đạt Đa lại kêu gọi các Tỳ kheo đi theo ông. A Nan là bào đệ của ông, lúc ấy mới nói:

- Xin anh đừng hồ đồ, anh là huynh trưởng của tôi, tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là bậc đại từ bi, con người như anh không thể sánh với Ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, chắc chắn không để cho anh tung hoành như vậy.

Sau đó, Đề Bà Đạt Đa dùng các phương pháp uy hiếp, dùng lợi lộc dụ dỗ các đệ tử Phật, có một số người lòng tin không vững, vì tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A Xà Thế đối với Đề Bà, đổi lòng đi theo ông.

Ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp một chỗ, Xá Lợi Phất uy nghiêm đi đến và hỏi:

- Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu, quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?

Đại chúng đồng đáp:

- Vì mục đích tu đạo, vì muốn thoát ly sanh tử.

- Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của đức Phật, lại để cho lòng tin thuần khiết tôn quý của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con, các ông phải mau mau phản tỉnh giác ngộ mới được.

Khi Xá Lợi Phất nói lời ấy, từ thân mình phóng ra muôn đạo kim quang, trong đó hiển hiện từ dung của Phật, các Tỳ kheo phản bội và môn đồ của Đề Bà thấy rồi đều quỳ xuống sám hối, Xá Lợi Phất lại dẫn họ trở về Tăng đoàn.

Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá Lợi Phất, Ngài có công lớn trong sự hòa hợp Tăng đoàn. Đề Bà Đạt Đa không sợ Phật, mà rất sợ Xá Lợi Phất.
  • 7. LÃNH THỌ ĐẠO CỨU KHỔ
Khi đức Phật ở Kỳ Viên tinh xá, thương cho chúng sanh trôi nổi trong biển khổ sanh tử không chỗ nương cậy, nghĩ đến mọi loài luân hồi trong sáu nẻo không có một nơi trở về an vui, hạnh phúc, Ngài muốn nói lên pháp môn cứu độ nhưng sợ hạng căn cơ thấp kém nhỏ hẹp không thể tin tưởng thọ trì. Sau cùng, chọn lựa cặn kẽ, Ngài quyết định: Dùng trí tuệ của Xá Lợi Phất chắc chắn sẽ thông hiểu được cõi Cực lạc trang nghiêm thanh tịnh, chắc chắn có thể lãnh thọ tín ngưỡng Phật A Di Đà. Trong chúng hội tuy có đủ ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ nhưng đức Phật chọn Xá Lợi Phất làm đương cơ để nói lên một pháp môn dễ thực hành mà sáng tỏ. Đức Phật dạy: "Xá Lợi Phất! Ở phương Tây, cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc. Ở đó có vị giáo chủ là đức Phật A Di Đà đang thuyết pháp.

Xá Lợi Phất! Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực Lạc? Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta bà này có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp, đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ không hề thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Cõi ấy cảnh vật bằng phẳng, sạch sẽ, giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men… đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi. Những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi. Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ, kiến trúc như đô thị nguy nga.

Xá Lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, gieo trồng nhân duyên phước đức, tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn, được vãng sinh về nước của Ngài.

Xá Lợi Phất! Chúng sanh ở thế giới Ta bà nếu muốn thoát khỏi khổ não trong sáu đường luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A Nan lễ bái Phật A Di Đà, ông ấy cũng từng được thấy đức Phật kia phóng hào quang lớn, các ông nên tin pháp môn khó tin mà ta vừa nói, đó thật là con đường cứu khổ".

Đức Phật nói xong, Đại trí Xá Lợi Phất không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà.
  • 8. ĐỨC HẠNH NHẪN VÀ NHƯỜNG
Xá Lợi Phất đối với giáo pháp của đức Phật luôn tôn kính và phụng trì, đối với việc bố giáo chưa từng thoái chí, chỉ đối với riêng mình thì vinh nhục khen chê đều chẳng lưu tâm, thảy đều nhường nhịn.

Có một hôm, đức Phật dẫn đại chúng đi bố giáo và trở về thành Xá Vệ, lúc đó nhóm đồ đệ của Lục Quần Tỳ-kheo, đã nhanh chân đến Kỳ Hoàn tinh xá trước đức Phật và đại chúng, chiếm luôn những chỗ nghỉ ngơi tốt đẹp, ngay cả cư thất của Xá Lợi Phất cũng bị chiếm. Họ lại nói: Chỗ này là chỗ của thầy chúng ta, chỗ này là chỗ của chúng ta.

Xá Lợi Phất về sau đức Phật, ngày đó vì hơi chậm chân, khi về đến tinh xá thấy chỗ của mình bị Lục Quần Tỳ kheo đã ở trước, không còn cách nào khác, Tôn giả bèn ra gốc cây ngồi thiền qua đêm. Sáng sớm, đức Phật dậy, nghe dưới gốc cây có tiếng ho hen, Ngài bèn hỏi:

- Ai ở đó? Sao không tịnh tọa trong phòng?

Xá Lợi Phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con là Xá Lợi Phất, vì hôm qua có rất nhiều Tỳ kheo theo Phật về tinh xá, tất cả phòng đều có người, con tạm ngủ dưới gốc cây một đêm cũng không sao.

Đức Phật nghe xong rất khen đức tốt nhẫn nhượng của Tôn giả, nhưng nhóm các Tỳ kheo lại dạy:

- Các Tỳ kheo! Ta hỏi các ông, trong giáo đoàn ta, người nào xứng đáng được thọ lãnh sàng tòa thượng đẳng, nước thượng đẳng, ẩm thực thượng đẳng?

Các Tỳ kheo ồn ào bày tỏ ý kiến:

- Đó là Tỳ kheo xuất thân từ dòng vua chúa!

- Đó là Tỳ kheo xuất thân từ dòng giáo sĩ!

- Tỳ kheo nào tu hành và có khả năng bố giáo mới xứng đáng được sàng tòa hạng nhất, nước và thực phẩm hạng nhất!

Sau khi nghe các câu trả lời lung tung, đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các Tỳ kheo! Thuở xưa tại núi Tuyết có chim chá cô, con khỉ, con voi đồng ở chung. Tuy chúng là bằng hữu, nhưng vì thân thể, sức lực và trí khôn của mỗi con không đồng nhau, nên mạnh ai nấy tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Sau biết như vậy là sai trái, mới cung kính và nghe lời răn dạy của loài lớn tuổi, đến khi thân hoại mạng chung, chúng đều sanh vào đường lành.

Các Tỳ kheo! Các ông phải tôn kính bậc niên lão về pháp hạnh, hiện tại được người khen ngợi, về sau mới được sanh chỗ lành. Này các Tỳ kheo! Trong giáo pháp ta không có giai cấp cao thấp, nhưng có bậc trưởng lão về pháp lạp và giới lạp, các ông phải cung kính, phụng sự, lễ bái. Các bậc trưởng lão ấy đáng được thọ sàng tòa đệ nhất, nước và thực phẩm đệ nhất .

Đức Phật nói như thế, đại chúng đều hiểu ý, Xá Lợi Phất rất cảm kích, đại chúng cũng rất cảm kích.
  • 9. KHEN MỘT CÁI CHẾT ĐẸP
Xá Lợi Phất tuy là bậc trưởng lão chứng Thánh quả nhưng đối với người nữ tu hành thành tựu, cũng rất tôn trọng.

Ngày nọ, Tôn giả đang ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, đang lúc buông hết để nhập chánh định, bỗng nghe Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na ngồi thiền trong hang động đối diện lớn tiếng gọi Ngài, Ngài bước đến thì Ưu Ba Tiên Na nói:

- Thưa Tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì, ban đầu tôi không lưu ý, sau mới biết là một loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ thừa lúc chất độc chưa hoành hành, xin Ngài từ bi vì tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt!

Khi nói câu ấy, Ưu Ba Tiên Na không tỏ một chút gì kinh sợ, như là chẳng có việc gì xảy ra.

- Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn, nhất định cô sẽ biến sắc.

Ban đầu Xá Lợi Phất cho là không có việc gì nên nói như thế. Ưu Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:

- Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là không. Tôi đã chứng được đạo lý ấy, độc xà làm sao cắn được cái "không"?

- Cô nói rất đúng, cô đã đến trình độ thoát khỏi mọi đau đớn của thân thể, cô dùng tuệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.

Xá Lợi Phất khen ngợi Ưu Ba Tiên Na và thông tri cho các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tu tập gần đó, đem Ưu Ba Tiên Na ra khỏi động, nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Ưu Ba Tiên Na vô sự nhập Niết bàn. Thấy được bậc giải thoát như thế, đại chúng rất tán thán, Xá Lợi Phất nói:

- Người tu hành điều tâm, tấn nhập Niết bàn, đối với cái chết của thân mình, coi như bỏ một cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện nhất định thành, sắp chết không đổi sắc, đó là dùng mắt trí tuệ mà xem tướng thế gian, ra khỏi nhà lửa, thật là đẹp vô cùng.

Lời ngài Xá Lợi Phất khen Ưu Ba Tiên Na, cũng vốn là phương pháp quán sát của Phật giáo đối với chuyện tử sinh. Chuyện ấy trong con mắt người tu hành, xem giống như một đám mây qua.
  • 10. LÒNG KHOAN DUNG RỘNG RÃI
Tuổi tác của Xá Lợi Phất tùy theo vô thường năm tháng gia tăng, Ngài đến lúc là một bậc cao niên tám mươi tuổi. Năm ấy, sau mùa an cư ở Kỳ Viên, vì việc hoằng pháp độ sanh, Ngài không nề tuổi già, không từ lao khổ, thỉnh cầu đức Phật cho phép Ngài đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả và rất khen ngợi tinh thần vì người, vì giáo lý của Xá Lợi Phất.

Tôn giả rời tinh xá không bao lâu, có một Tỳ kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà vì ông ấy đã làm nhục con, gặp mặt con thấy hổ thẹn muốn tránh mặt nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

Đức Phật không thích kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức sai người mời Xá Lợi Phất trở lại, và ở trước đại chúng, Phật nghiêm nghị hỏi Xá Lợi Phất:

- Xá Lợi Phất, sau khi ông đi không lâu, có một Tỳ kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể, nhục mạ ông ấy, có thật vậy không?

Xá Lợi Phất ôn hòa cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo Ngài đến nay, nay là gần tám mươi tuổi, con nhớ con chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng, chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư lợi hại được mất của người, cùng người bàn tán tốt xấu. Hôm nay là ngày rốt sau của an cư, trong ba tháng qua, mỗi ngày con đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con trong lặng, không có một vẻ bất bình, con làm sao khinh thị người khác được ư?

Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phẩn tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

Dòng nước thanh tịnh, không kể vật sạch dơ hay cũ mới đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước.

Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu, tâm con hôm nay thật là không hề khởi phân biệt tốt xấu. Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị Tỳ kheo kia, con đối Phật mà nói lời này, con biết việc làm của con, Tỳ kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu con có lỗi, con xin hướng về Tỳ kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.

Vị trưởng lão gần tám mươi tuổi, đã đối trước Phật cáo bạch mọi việc như thật, đại chúng nghe qua đều cảm động.

Phật bảo ông Tỳ kheo vu cáo kia:

- Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến Tăng đoàn phân vân, ông chẳng muốn cho Tăng đoàn hòa hợp. Nếu như ông không chí thành sửa đổi, sẽ bị khổ báo vô cùng!

Tỳ kheo kia vội vàng quỳ trước Phật ai cầu sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất là người không lỗi chi, con đối với bậc Trí tuệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố, xin Phật từ bi thương xót, cho con cơ hội đầu tiên sám hối.

Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

- Ông hãy đến sám hối Xá Lợi Phất.

Tỳ kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá Lợi Phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông mà từ tốn nói:

- Tỳ kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi? Biết lỗi liền sửa, đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

Thái độ và lời nói của Xá Lợi Phất, ai nghe cũng cảm động. Lòng quảng đại, tâm bình đẳng của Tôn giả thật là không kể kẻ oán người thân.
  • 11. VÀO KIM CANG ĐỊNH
Khi đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Đà, thành Vương Xá, tôn giả Xá Lợi Phất nhập Kim Cang tam muội ở núi Kỳ Xà Quật. Trong núi có hai con quỷ một thiện một ác, một đứa tên Ưu Bà Ca La, một đứa tên là Già La. Chúng nhìn xa xa thấy Xá Lợi Phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa, ác quỷ Già la bèn nói với thiện quỷ Ưu Bà Ca La.

- Này Ưu Bà Ca La, ta sẽ đánh bể cái đầu của lão Sa môn kia!

- Anh chớ nên nói như thế, vị Sa môn ấy là đệ tử Phật, thông minh Trí tuệ số một và có thần lực, nếu như anh khởi ác tâm hại vị ấy, về sau sẽ trầm luân vĩnh cửu, chịu khổ vô cùng. Thiện quỷ Ưu Bà Ca La can ngăn.

- Anh sợ lão Sa môn ấy sao? Sa môn là người rất dễ bắt nạt. Anh chú ý một chưởng của tôi, cái đầu Sa môn lập tức nát như cám.

- Anh nói vậy chớ tôi thật kiêng nể Sa môn, Sa môn tuy là nhẫn nhục dễ bị lấn áp, nhưng các vị ấy có oai đức rất lớn. Anh mà đánh Sa môn ấy, ổng tuy bị khổ nhứt thời, nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.

Thiện quỷ nói xong, ác quỷ vẫn không nghe liền tung chưởng đánh ngay đầu Xá Lợi Phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy, bèn tàng hình biến đi. Câu chuyện tuy nói dài dòng nhưng xảy ra chỉ trong nháy mắt, ác quỷ đánh tới, mà Xá Lợi Phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đầu. Ngài mở mắt ra kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu rớt xuống địa ngục.

Xá Lợi Phất từ Kim cang tam muội dậy, chỉnh y phục, đến vườn Trúc gặp Phật, Phật bèn hỏi:

- Xá Lợi Phất! Hôm nay, thân ông có việc gì không?

- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, hiện tại trên đầu chỉ đau chút đỉnh.

- Xá Lợi Phất! Hôm nay, ông nhập Kim cang định rất tốt. Quỷ Già La đánh trên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông, phải biết quỷ Già La mà đấm núi Tu Di cũng phải bể hai. Sức định Kim cang lớn mạnh như thế, Tỳ kheo các ông cần phải tu trì.

Xá Lợi Phất thường dạo chơi trong Không tam muội và Kim cang tam muội, tai nạn bên ngoài không thể làm hại Ngài tí nào.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 12. XIN ĐƯỢC NHẬP NIẾT BÀN TRƯỚC
Đức Phật ở trong rừng của thôn Trúc Phương, gần thành Tỳ Xá Ly, sau khi thuyết pháp xong liền báo cho mọi người một tin kinh hãi, đó là ba tháng nữa Ngài sẽ nhập Niết bàn.

Mọi người đều buồn thảm, chuyện ấy không cần nói, Xá Lợi Phất cũng không thể nào nhìn thấy đức Phật Niết bàn. Tôn giả ở trong định nghĩ thầm:

- Những đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều nhập Niết bàn trước, nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn, ta nên nhập Niết bàn trước Ngài.

Sau khi nghĩ như vậy, Xá Lợi Phất liền xả thiền đến trước Phật, quỳ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập Niết bàn, xin đức Thế Tôn hứa khả.

Phật chú ý nhìn Xá Lợi Phất rất lâu, mới hỏi:

- Vì sao ông muốn nhập Niết bàn mau như vậy?

- Bạch Thế Tôn, Ngài nói Ngài sẽ nhập Niết bàn gần đây. Thế Tôn đã ban cho con pháp tình và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn vào Niết bàn. Vả lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều vào Niết bàn trước các Ngài. Con thiết tưởng nay là đúng lúc con vào Niết bàn, xin Thế Tôn từ bi hứa khả.

Xá Lợi Phất nói xong, rất có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất phong độ an tịnh. Phật lại hỏi:

- Ông định vào Niết bàn ở nơi nào?

- Ở cố hương của con, thôn Na La Tý Nỏa Ca. Mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn mạnh khỏe, con muốn về thăm mẹ già một lần. Và sẽ nhập Niết bàn nơi phòng con đã được sinh dưỡng.

- Ta không cản ngăn ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, nên đợi các chúng hội họp và lưu lại cho mọi người đôi lời giáo huấn.

Phật sai A Nan tập hợp chúng Tỳ kheo. Mọi người nghe tin Xá Lợi Phất cáo từ để vào Niết bàn, đều mau mau vân tập. Trước tiên Xá Lợi Phất cáo biệt đức Phật:

- Thưa Thế Tôn, con từ quá khứ vô lượng kiếp, luôn luôn mong được sanh nhằm thời Phật ra đời, và rốt cuộc đã được mãn nguyện. Nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong bốn mươi năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí tuệ, giác ngộ chân lý, chứng Thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con. Hôm nay, thời hạn lìa cõi tục của con gần kề, con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa tấn nhập cảnh giới Niết bàn tự do, tự tại. Như người gánh nặng đi xa, sắp được buông xuống. Con tự lấy làm vui mừng, con thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn, đã giúp con cởi mở sự trói buộc của ngũ uẩn, không còn thọ những khổ não các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin Ngài cho con đảnh lễ.

Xá Lợi Phất nói xong, gieo năm vóc sát đất, không khí rất trầm lặng nghiêm túc.

Phật gật đầu nói với Tôn giả:

- Xá Lợi Phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông, tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sanh, thành tựu quả Phật tối cao.

Đức Phật nói xong, liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá Lợi Phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn, mới xoay mình lại bước đi.

Các Tỳ kheo đều mang hương hoa đưa tiễn Tôn giả, đây là lúc đượm vẻ vắng lặng, trang nghiêm thê lương, phần lớn các Tỳ kheo đều rướm lệ.
  • 13. LỜI TẶNG SAU CÙNG
Các Tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất một đoạn không xa, Tôn giả dừng lại nói với mọi người:

- Quý vị hãy ngừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Sa di Quân Đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về, tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly ưu bi khổ não, mau vào cảnh giới giải thoát tự do.

Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian này như hoa Ưu Đàm mấy ngàn vạn năm mới gặp kỳ nở hoa. Thân người khó được, tín tâm thuần khiết khó nuôi dưỡng, đời nay chúng ta được xuất gia lại được tự thân nghe Phật thuyết pháp, thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời. Hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên. Các hành vô thường, cần yếu phải chiến thắng cái khổ vô thường đó, đạt đến cảnh giới Niết bàn vô ngã, đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chơn thật của chúng ta, đó mới là một thế giới an vui tịch tĩnh.

Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đến đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sinh ly, không nén nổi bi ai, mọi người đều khóc với Tôn giả:

- Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng Tỳ kheo chúng con, về sau chúng con rất cần Ngài lãnh đạo trong công tác hóa đạo, vì sao Ngài sớm vào Niết bàn như thế?

Xá Lợi Phất biết rõ tâm sự đại chúng, nhưng rất an tĩnh đáp:

- Xin các vị đừng thương cảm như thế. Thế gian này là vô thường, Phật đã chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu Di còn có lúc hoại, biển lớn còn có ngày khô cạn, cái chết của sắc thân Xá Lợi Phất tôi như hạt cải nhỏ xíu, đó là chuyện đương nhiên, đó cũng là thật tướng của thế giới.

Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là cần phải nhất tâm tu đạo, thoát ly khổ hải, cần gấp về thế giới Cực lạc thanh lương. Đức Phật ngày xưa đã từng nói với tôi, quốc độ của Phật A Di Đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì nguyện vọng của quý vị sẽ như ý.

Tôi lại mong quý vị tuyên dương lưu bố giáo pháp của Phật đà, không nên so đo toan tính về danh lợi của riêng mình; không vì phước lợi cho quần sanh thì đừng xuất gia. Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp chỉ cần có chúng sanh nghĩ đến việc cầu vui dứt khổ, giải quyết xong chuyện của chính mình, họ cũng có thể nối tiếp huệ mạng của Phật-đà.

Xá Lợi Phất nói xong, mọi người đều bi thương cảm động. Mỗi người đều biết đây là lần chia tay sau cùng với Tôn giả, về sau sẽ vĩnh viễn không thể tương phùng. Tuy Tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo Ngài. Ngài không thích thái độ lưu luyến như thế, lại một lần nữa cự tuyệt sự tiễn đưa của họ. Cuối cùng, mọi người phải dừng lại, nhìn theo bóng Tôn giả mất hút mà không nghĩ chuyện quay về. Nghĩ đến từ nay không còn gặp lại vị Trí tuệ đệ nhất, mà bất giác nước mắt rơi không ngừng. Các vị ấy tuy đã giác ngộ, nhưng nhơn tình và pháp tình không khác vậy.
  • 14. HỒI GIA
Từ giã đức Phật và Tăng đoàn, Xá Lợi Phất chỉ dắt theo Sa di Quân Đầu. Trên đường đi, trong tâm Tôn giả khởi lên những đợt sóng cảm nghĩ triền miên. Tuy nhiên như thế nhưng trong tâm Ngài vẫn không loạn động, phẳng lặng và sáng suốt như đứng lặng trên đỉnh Tuyết Sơn, toàn vũ trụ đều hiện rõ trong tâm.

Khi đó Xá Lợi Phất về đến cố hương, mặt trời nghiêng về Tây, trên thôn làng Ca La Tý Nỏa Ca, một ráng mây hồng ở góc trời. Tôn giả ngồi nghỉ bên đường, thốt nhiên đứa cháu gái tên Ưu Bà Ly Bà Đa đến bên lễ bái, Tôn giả hỏi:

- Bà nội có nhà không?

- Bà nội không đi đâu cả.

- Cháu thưa với bà có ta trở về.

- Dạ!

- Thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ, ta sẽ nghỉ ở đó một đêm.

- Dạ!

Xá Lợi Phất về làm gì, đứa cháu nhỏ chẳng hề biết ất giáp, chỉ dạ lia lịa, vội chạy về thưa với bà, báo tin bá phụ hồi gia.

Mẫu thân của Tôn giả nghe tin con mình từ lâu không về nhà, nay về đến, rất vui mừng. Xá Lợi Phất tuy đã tám mươi tuổi, nhưng đối với tấm lòng của bà mẹ già một trăm tuổi, lúc nào cũng xem Tôn giả như đứa con nhỏ.

Bảo quét dọn căn phòng sanh dưỡng của Tôn giả sạch sẽ, mẫu thân Ngài rất lấy làm lạ, nhưng nỗi vui mừng mẹ gặp con khiến bà phấn khởi không căn vặn lý do.

- Bà nội! Hãy nghỉ đi, chúng cháu quét dọn cũng được rồi – Ưu Bà Ly Bà Đa nói.

- Mấy đứa bây làm nhanh nhanh, cẩn thận quét dọn cho thật kỹ, bác bây là người rất ưa thanh tịnh đó nghen!

Mặt trời khuất núi, Tôn giả về đến nhà, hỏi thăm từng người trong gia đình. Mẹ Ngài vui mừng đến rơi lệ, nói:

- Cuối cùng rồi con cũng trở về!

Xá Lợi Phất an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười, và đem ý định trở về đây để nhập Niết bàn báo cho mẹ cùng gia nhơn hay, ai nấy đều kinh hãi.

- Mọi người đừng bận tâm – Xá Lợi Phất nói – Thưa mẹ! Xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Khi chết ai cũng khóc lóc, nhưng con vào Niết bàn là việc rất vui mừng. Lúc này, thâm tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con được gặp bậc thầy cứu thế Phật đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó, con đã được cứu vớt khỏi biển sanh tử, đã được giải thoát từ trong phiền não không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con trở về vì để tấn nhập Niết bàn. Con là đệ tử thượng túc của Phật, con phải vào Niết bàn trước Ngài. Xin cả nhà yên lòng, đời người ai khỏi chết? Như con không chút mê mờ mà vào cảnh giới Niết bàn thường trụ, đó thật là một hạnh phúc lớn lao.

Mẹ già trăm tuổi của Tôn giả nghe xong rất buồn, nhưng nghĩ đến con mình xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp tự do giải thoát như vậy thì cũng đáng mừng. Bà nghĩ đến cái chết của mình trong tương lai cũng hy vọng được như Tôn giả, đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận.

Xá Lợi Phất lại đem lời dạy của Phật nói lại cho mẹ nghe, bà rất thông hiểu ý Tôn giả, nói với Ngài:

- Con giảng giải rất đúng, mẹ cũng vì con mà vui mừng. Không mê muội mà vào Niết bàn, không còn cái khổ sanh tử là hạnh phúc trên hết. Con hãy nghỉ ngơi một chút đi!

Tuy bà nói vậy nhưng cũng rơi nước mắt mà về phòng.
  • 15. NIẾT BÀN
Mẹ và gia nhơn đi rồi, Tôn giả mới nói với Quân Đầu:

- Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng này.

Tin Xá Lợi Phất trở về nhập Niết bàn lan truyền trong thôn xóm. Đến canh ba, nửa đêm, những người trong thôn lân cận đã quy y với Phật đều tụ tập. Vua A Xà Thế cũng đem nhiều đại thần đến, ai cũng muốn được gặp Tôn giả lần cuối, viếng thăm và nghe lời thuyết pháp của Ngài.

Quân Đầu dẫn mọi người ngồi tại một nơi và bảo hãy đợi Tôn giả nghỉ ngơi xong sẽ tái kiến.

Đêm càng sâu càng vắng, nơi tịnh thất Tôn giả chỉ có một ngọn đèn sáng, ngoài ra không nghe một tiếng động nào.

Phương Đông dần sáng, Tôn giả gọi Sa di Quân Đầu đến hỏi:

- Có người nào đến phải không?

- Thưa phải, nhiều người nghe tin Tôn giả nhập Niết bàn đều đến xin được gặp, cả vua A Xà Thế cũng đến.

- Con mời họ vào đây.

- Họ rất mong được thấy Tôn giả.

Quân Đầu ra nói với mọi người, Tôn giả sẽ cùng mọi người tương kiến, ai nấy còn đang sợ rằng không được thấy Tôn giả hiện tiền, nghe nói vậy đều rất phấn khởi. Mọi người rón rén bước vào phòng Tôn giả, chẳng dám ho hen, bao quanh lớp trong lớp ngoài.

Cuộc gặp gỡ thật thiêng liêng. Tôn giả nói với mọi người:

- Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần này. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa, hoặc là tu học bên đấng đạo sư, tôi đối với Ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn, tôi càng lúc càng cảm kích ân lớn của Ngài. Trên đời này, đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có những chỗ thậm thâm tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng. Tôi được mọi người tôn xưng là Trí tuệ đệ nhất, chẳng qua nhờ sức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy mà hành trì, nỗ lực tinh tấn mà chứng Thánh quả.

Tôi nói như vậy, là muốn nhắc cho các ông biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ, các ông phải mau mau theo lời Phật dạy mà tu học, bảo bối trong biển pháp tuy nhiều, các ông không tham cầu thì không được.

Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các ông, tôi sẽ vào cảnh giới Niết bàn tịch tịnh. Tôi nguyện theo sau Phật đến nơi bất sanh bất tử vĩnh viễn trường tồn.

Mọi người nghe Tôn giả thuyết pháp, thấy dáng mạo an tịnh của Ngài, ai có thể nghĩ rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời. Vua A Xà Thế và tất cả đều cung kính khâm phục và cũng rất thương cảm. Tôn giả an trụ trong định, nằm nghiêng bên hữu, vào cảnh giới Niết bàn.
  • 16. TINH THẦN CÒN MÃI TRÊN THẾ GIAN
Tôn giả Xá Lợi Phất nhập Niết bàn được bảy ngày, Sa di Quân Đầu đem hài cốt trà tỳ. Sau đó trở về chỗ Phật, kể hết sự tình cho A Nan nghe, A Nan rơi nước mắt, đưa Quân Đầu đến báo cáo tỉ mỉ với đức Phật, Thế Tôn yên lặng lắng nghe.

Quân Đầu báo cáo xong, đức Thế Tôn thấy A Nan rất đỗi bi thương, nước mắt đầm đìa, mới hỏi:

- A Nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá Lợi Phất nhập Niết bàn điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ giáo pháp của ta, rồi khi viên tịch đã đem hết chân lý đi không để lại chút gì sao?

A Nan cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy. Tôn giả Xá Lợi Phất phụng trì giới luật, Trí tuệ cao siêu, thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ bố giáo, Ngài luôn luôn nhiệt tình trong công tác, điều ấy không những chỉ chúng con biết mà chúng sanh cũng hoan hỷ xưng tán. Nghĩ đến hôm nay Tôn giả không còn nữa, vì sự lưu bố chánh pháp, vì sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chịu ảnh hưởng sự Niết bàn quá sớm của Tôn giả, chẳng phải riêng con lo lắng, con thiết tưởng cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.

Đức Phật biết điều đó là đúng, nhưng điềm đạm an ủi A Nan:

- Ông chẳng nên lo nghĩ. Xá Lợi Phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất, vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sanh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ trước khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn; núi báu trước khi hoại, thì tảng đá to hoại trước, Xá Lợi Phất là người nhập Niết bàn đầu tiên trong chúng Tỳ kheo, cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu cũng nhập Niết bàn. Các ông đừng thất vọng, giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng, ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Tấn nhập Niết bàn, qua thế giới Cực Lạc là công phu cần thiết đệ nhất.

Phật nói xong, nhận linh cốt Xá Lợi Phất từ tay Sa di Quân Đầu, nói với đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Linh cốt này trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp bố giáo, còn là Đại trí Xá Lợi Phất. Trí tuệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế Tôn ra không ai sánh kịp. Ông ấy chứng ngộ pháp tánh, ít muốn biết đủ, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát, không còn khổ não.

Các Tỳ kheo! Hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.

Khi đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đảnh lễ linh cốt Tôn giả, cung kính gieo năm vóc sát đất.

Tôn giả tuy ra đi nhưng tinh thần còn mãi mãi trên thế gian.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MỤC KIỀN LIÊN
THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT
  • 1. NGƯỜI THỊ TÙNG ĐẦU TIÊN
Hiện nay, trong mỗi đại hùng bảo điện, chúng ta thường tôn trí thánh tượng Phật đà ngay chính giữa, bên tả là ngài A Nan, bên hữu là ngài Ca Diếp, nhưng vào thời tối sơ của đức Phật mới hoằng pháp, sự tình không phải là như vậy.

Trong hai năm đầu đức Thế Tôn thành đạo, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên quy y Phật. Từ khi ấy,Mục Kiền Liên luôn luôn ở bên tả của Ngài, Xá Lợi Phất bên hữu. Trừ những lúc bận hoằng hóa phương xa, bình thường hai vị không hề rời Phật nửa bước.

Xá Lợi Phất theo Phật xuất gia, nửa tháng sau mới dứt hết kiết sử, đoạn trừ phiền não, nhưng Mục Kiền Liên chỉ trong vòng bảy hôm liền hết các lậu hoặc, hiện sức thần thông, chứng quả A la hán.

Mục Kiền Liên dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài, biểu lộ tính cứng rắn. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm, thường vì chánh nghĩa đả phá việc bất bình.

Trong hàng Tỳ kheo đệ tử Phật, có nhiều vị thần thông phi thường, nhưng Mục Kiền Liên được danh hiệu Thần thông đệ nhất là vì trong lúc hóa đạo, Ngài ưa hiện thần thông. Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử hiển phép lạ mê hoặc người nhưng riêng đối với Mục Kiền Liên thì Ngài thường khen ngợi.
  • 2. NGUYÊN NHÂN PHÁT NGUYỆN CẦU THẦN THÔNG
Vì sao Mục Kiền Liên có thần thông? Chuyện này có liên quan đến một đoạn nhân duyên vi diệu của Ngài trong quá khứ.

Thời quá khứ, Mục Kiền Liên làm nghề đánh cá, thường ở bờ biển lưới tôm chài cá đem đi bán, sinh sống bằng nghề ấy qua ngày. Cho đến một hôm thiện lương phát hiện, thức tỉnh rằng nghề của mình là một nghiệp khổ to lớn. Tuy sống đời này nhưng cần phải tạo công đức cho đời sau, và do ý niệm hướng thiện ấy chàng ngư phủ quyết định đổi nghề. Chẳng bao lâu chàng thấy trong thành có một vị Bích Chi Phật, mỗi ngày đi ngang qua đường với oai nghi đi đứng tĩnh lặng, phong độ thật trang nghiêm đáng kính, bèn thỉnh về nhà cúng dường thịnh soạn. Nhưng vị Bích Chi Phật ấy tuy bên ngoài hiện thần thông mà không khéo thuyết pháp, Ngài chỉ dùng thần thông hóa độ, ngoài ra không có pháp môn khác. Sau khi thọ thực xong, Ngài bay lên hư không đi tới đi lui, lên xuống như thường. Ngư phủ thấy rồi trong lòng rất vui mừng bèn phát nguyện đời sau xin được thần thông.

Có chí thì nên, do nhân duyên đó, tôn giả Mục Kiền Liên đời nay quy y Phật và được xưng là Thần thông đệ nhất.
  • 3. CẦU BÁU ĐƯA PHẬT ĐÀ
Thần thông của Mục Kiền Liên tai nghe thấu mọi âm thanh xa gần, mắt thấy hết sự vật không bị trở ngại, không kể đường dài ngắn, vừa nghe liền hiện thân, Tôn giả thường dùng phép lạ ấy để trợ Phật giáo hóa.

Một hôm dân chúng trong kinh thành Xá Vệ tổ chức buổi yến tiệc cúng dường chín mươi sáu giáo phái xuất gia, và mời vua Ba Tư Nặc, thái tử, quần thần cùng đến dự. Bàn tiệc dọn tại quảng trường đối diện bờ sông A Kỳ, Mục Kiền Liên là vị khách đến đầu tiên. Giây lát sau chúng ngoại đạo tấp nập đến thọ cúng, ai cũng muốn đến trước để chiếm một chỗ ngồi tốt nhất. Nhưng hôm đó, nước sông A Kỳ bỗng dâng cao không thể qua được. Lúc ấy, Mục Kiền Liên nhìn xa xa thấy đức Phật thống lãnh đại chúng oai nghi an tường đi đến, Ngài lập tức hóa một chiếc cầu trân bảo bắc ngang sông, giăng mắc hương hoa, dùng thất bảo nghiêm sức để đón Phật.

Lúc đức Thế Tôn chưa đến, chúng ngoại đạo dừng bên bờ thấy nước mênh mông bèn nghĩ thầm: "Hôm nay nước dâng cao quá, chúng ta không thể sang bên kia thọ cúng. Thôi hãy đợi Phật và các đệ tử đến xem Ngài có biện pháp gì chăng?" Còn đang tính toán, chiếc cầu báu vừa hoàn thành, bọn họ vừa thấy rất vui mừng, reo hò inh ỏi, tranh nhau nói:

- Sa môn đến chậm rồi! Trời cho cây cầu này đưa chúng ta qua trước, chúng ta sẽ là thượng khách chiếm ghế chủ tịch.

Ngoại đạo nói xong chen nhau lên cầu. Đến giữa cầu bỗng nghe một tiếng nổ lớn, chiếc cầu gãy ngang, mọi người rơi xuống nước lủm ngủm, tiếng kêu cứu chấn động một vùng.

Khi đức Phật đến, cầu trở lại như cũ, Phật và các Tỳ kheo đi qua, thấy các ngoại đạo đang vùng vẫy loi ngoi dưới nước, Ngài động lòng từ bi vận dụng thần lực cứu hết mọi người đem lên, cho đi theo sau đức Phật, sau đó mới được yên ổn theo thứ tự mà qua sông, rồi cầu cũng biến mất.

Trong khi đức Phật và các đệ tử thọ thực, chúng ngoại đạo y phục ướt mem, phải ngồi phơi nắng hong khô. Sau đại hội, họ đều biết sức yếu hèn của mình không thể so sánh với quang minh rạng rỡ của đức Thế Tôn và chư đệ tử.
  • 4. TRONG ĐỊNH THƯA HỎI
Một ngày nọ, đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn của nước Xá Vệ, Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất vâng lời Phật đến vườn trúc Ca Lan Đà thành Vương Xá lãnh đạo các Tỳ Kheo đi giáo hóa trong dân gian.

Hai vị ngụ trong một thiền phòng, đêm yên tĩnh, bốn bề không một tiếng động, ánh đèn trong phòng hòa cùng ánh trăng. Gần sáng, Xá Lợi Phất phá tan không khí trầm mặc, hỏi Mục Kiền Liên:

- Này Tôn giả! Cho phép tôi hỏi đường đột thế này, vậy chớ đêm nay Ngài có trụ tại chánh định tịch diệt hay không?

Mục Kiền Liên nhẹ nhàng hỏi lại:

- Vì sao Ngài hỏi tôi như thế?

- Vì lâu thật lâu, tôi không nghe hơi thở hô hấp của Ngài, cũng không thấy Ngài cử động, dường như không có mặt Tôn giả trong phòng này.

- Tôn giả Xá Lợi Phất! Đêm nay tôi vừa khởi lên một vấn đề cần thiết tinh tấn trên sự tu hành, nên tôi đến thỉnh ý Phật. Vừa rồi Ngài không nghe tiếng tăm tôi là vì tôi vừa ở bên Phật hỏi chuyện.

- Ngài nói sao khó hiểu quá, hiện giờ Phật đang ở vườn Kỳ Đà phương Bắc, còn chúng ta ở vườn Trúc phương Nam, hai nơi cách nhau rất xa, làm sao Tôn giả nói chuyện với Phật? Tôn giả dùng thần túc đến chỗ Phật? Hay đức Thế Tôn dùng thần túc đến đây?

- Không, chẳng phải vậy đâu – Mục Kiền Liên trả lời – Tôi không dùng thần túc đến nơi tòa Phật mà Phật cũng chẳng dùng thần túc đến chỗ chúng ta.

- Như vậy, rốt cuộc làm sao Tôn giả nói chuyện với đức Phật?

- Thưa tôn giả, chẳng có gì lạ lùng hết. Đức Thế Tôn có Thiên nhãn và Thiên nhĩ thông. Tôi và Tôn giả cũng có thần thông ấy, chỉ cần để tâm vận dụng, chúng ta đều có thể nói chuyện với đức Thế Tôn bất cứ lúc nào và ở đâu.

Xá Lợi Phất cũng biết vậy, nhưng Ngài luôn luôn có thái độ khiêm cung với bạn đồng trụ xứ. Nghe Mục Kiền Liên nói xong, Tôn giả rất hoan hỷ, liền khen:

- Tôn giả Mục Kiền Liên! Ngài thật có đại thần lực, đại công đức, tôi được làm bạn với Ngài thật vô cùng hân hạnh. Tôn giả như đỉnh núi nguy nga, tôi như tiểu thạch đứng bên núi, được ngồi đồng một tòa với tôn giả thật là nhân duyên hiếm có. Người nào được giao du với Tôn giả, cung kính cúng dường, nhất định được lợi ích tốt lành.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là bạn cũ. Hai vị cùng tôn kính nhau, khen ngợi nhau từ thỉ chí chung, đạo tình thâm trọng.
  • 5. AI LÀ THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT
Nói về tôn giả Xá Lợi Phất, lão bằng hữu của Mục Kiền Liên, không những có đại Trí tuệ mà cũng có đại thần thông. Đầu tiên, khi Tôn giả đến thành Xá Vệ làm giám đốc cho công trình Kỳ Viên, đã cùng với Lao Độ Sai, thủ lãnh ngoại đạo, thi triển mười tám phép thần biến và được thắng lợi. Xá Lợi Phất đã lưu lại ảnh hưởng trong dân chúng thành Xá Vệ là một vị Tôn giả đại thần thông, đại Trí tuệ.

Một hôm, nhằm ngày rằm Phật thuyết giới cho chư vị Tỳ kheo bên mé ao A Nậu Đạt; trong tòa thiếu Xá Lợi Phất, Phật bảo Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Ông đến thành Xá Vệ mời Xá Lợi Phất về đây. Hãy nói đây là ý của ta.

Mục Kiền Liên vâng dạ ra đi, đến bên tòa Xá Lợi Phất liền nói:

- Tôn giả! Đức Thế Tôn bảo tôi mời ngài đến ao A Nậu Đạt, nơi thuyết giới hiện tại.

Xá Lợi Phất nghe nói lộ vẻ hoan hỷ:

- Đa tạ huynh đã truyền Thánh ý đến cho tôi, chúng ta đi ngay thôi, nhưng tôi với Tôn giả làm một cuộc du hí nhé.

- Du hí kiểu nào? – Mục Kiền Liên nghi ngờ nhìn Xá Lợi Phất.

- Tôn giả là một bậc trưởng lão đại thần thông, đây là một sợi dải áo, tôn giả thử đem nó kết thành một cây cổ thụ!

Xá Lợi Phất vừa nói xong, liền ném sợi dây ra, Mục Kiền Liên đưa tay bắt lấy, nhưng sợi dây không nhúc nhích. Tôn giả vận dụng hết sức thần thông kéo sợi dây đến nỗi chấn động đại địa. Xá Lợi Phất mau mau đem sợi dây quấn quanh núi Tu Di, Mục Kiền Liên liền nhấc núi Tu Di lên, Xá Lợi Phất bèn đem dây cột vào tòa sư tử của đức Phật. Mục Kiền Liên một lần nữa dùng hết thần lực cũng không lay động được nó. Xá Lợi Phất cười nói với Mục Kiền Liên:

- Tôn giả! Chỗ học và chỗ chứng của chúng ta sánh với vạn đức vạn năng của Phật đà cách xa trời vực. Thần lực của chúng ta có thể dời núi Tu Di, rung chuyển thiên địa, nhưng pháp tòa của Phật không lay động mảy may. Tôi đâm ra nghi ngờ thần lực của tôi, nên mới mời ngài thí nghiệm. Thôi bây giờ chúng ta mau đến bái kiến đức Thế Tôn, mời ngài đi trước, tôi theo sau.

Mục Kiền Liên rất khâm phục lời nói của người đạo hữu thâm giao, gật đầu và dùng thần túc bay về ao A Nậu Đạt. Đến nơi đã thấy Xá Lợi Phất kiết già, ngồi bên cạnh đức Thế Tôn, Mục Kiền Liên đảnh lễ Phật xong, bèn hỏi Phật, đầy nghi ngờ:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ con mất hết thần túc thông rồi sao? Con từ tinh xá Kỳ Viên về đây trước Xá Lợi Phất, tại sao Tôn giả lại đến nơi trước con? Phật thường nói con thần thông đệ nhất, danh xưng đó con thiết tưởng tặng cho tôn giả Xá Lợi Phất mới phải.

Đức Phật từ bi an ủi:

- Mục Kiền Liên! Ông có đại thần lực, trừ ta ra không kém thua ai, ông chẳng hề thối thất thần thông, nhưng ông cần phải biết, Xá Lợi Phất là người đại Trí tuệ đấy!

Phật thuyết giới bên ao A Nậu Đạt xong dẫn các đệ tử trở về thành Xá Vệ. Tín chúng trong thành biết chuyện vừa rồi, ai nấy đều xôn xao bàn tán, nói rằng thần thông của Xá Lợi Phất hơn Mục Kiền Liên.

Mục Kiền Liên nghe tiếng bình phẩm ấy không hề cảm thấy bực bội. Tâm của ngài rộng rãi và rất khiêm tốn, cho rằng Xá Lợi Phất xứng đáng hơn mình. Mọi người khen Xá Lợi Phất, điều đó vinh hạnh như khen ngợi chính Tôn giả.

Nhưng trong lòng Xá Lợi Phất không yên, Ngài cho điều đó có gì uẩn khúc với Mục Kiền Liên, Tôn giả bèn đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mục Kiền Liên có sức đại thần thông, đại công đức, hôm trước con đến ao A Nậu Đạt trước là vì con gấp rút muốn nghe Thế Tôn thuyết giới, tuy tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần lực nhưng không nghĩ đến việc tranh thủ thời gian. Hôm nay, mọi người xôn xao bàn tán, nói con thần thông hơn Mục Kiền Liên, thật con không dám nhận. Xin đức Thế Tôn dùng phương tiện giải trừ lời phê bình bất công ấy.

Đức Phật nghe xong, từ hòa vi tiếu gật đầu, ngài biết rõ hai vị này rất khiêm nhường đối với bạn.

Ngày khác, tại giảng đường sau một thời pháp, Phật bèn gọi Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Ông là đệ tử thần thông vô tỷ trong hàng đệ tử ta, hôm nay ông có thể ở trong đại chúng hiện thần lực để khai phát tín tâm cho hàng sơ học.

Mục Kiền Liên vâng lời Phật, liền từ tòa đứng dậy, một chân đạp trên địa cầu, một chân đạp cõi trời Phạm Thiên, khiến đại địa chấn động sáu cách, và ở trong không trung dùng Phạm âm thuyết pháp, khiến sáu mươi Tỳ Kheo được lậu tận ý giải.

Từ đó, đại chúng đều đồng thanh công nhận Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất.
  • 6. DỜI NÚI ĐỘ PHẠM CHÍ
Ấn Độ thời Phật, phần đông ngoại đạo không tin theo Phật pháp lại có ngũ thông. Đáng tiếc họ không thấu rõ chân lý, không tu đức hạnh từ bi Trí tuệ, cho nên không thoát sanh tử, trở lại trầm luân trong sáu nẻo.

Đối với ngoại đạo thần thông này, dùng chính sở trường của họ để độ họ, Phật thường sai Mục Kiền Liên trong việc hóa độ chúng ngoại đạo Phạm chí.

Một hôm, Phật bảo tôn giả Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Tại biên giới Ấn Độ, có một nước lớn, vua và thần dân đều không biết Phật pháp, thờ phụng Phạm chí ngoại đạo, có nhiều Phạm chí đắc thần thông, họ dời núi lấp sông, phân thân biến hóa dễ dàng. Ông hãy đến đó, phương tiện vận dụng oai thần, khiến họ tin tưởng Phật pháp, bỏ tà về chánh, sửa đổi mê lầm.

Tôn giả vâng lời, liền bay lên không trung đến nước ấy, nhìn xuống thấy một ngọn núi lớn có rất nhiều ngoại đạo bao quanh, xem tình hình này dường như họ đang dùng đạo lực di động trái núi kia.

Mục Kiền Liên liền đáp xuống đỉnh núi, đứng trụ bộ trên ấy, thân hình cao thấu hư không, ngọn núi kia chẳng lay động mảy may. Chúng ngoại đạo hoảng kinh bàn tán:

- Núi này đã dời lên, ai lại làm cho nó cứng ngắc, không nhúc nhích như vầy. Có lẽ nào trong chúng ta có người không thanh tịnh sao?

Vừa nói xong, bỗng ngó lên thấy ngài Mục Kiền Liên đang đứng trên đỉnh núi cao vòi vọi, họ bèn hét lên:

- Tên kia! Mi là ai? Sao dám đến đây lộng hành? Ngọn núi này làm trở ngại giao thông, nhà vua ra lệnh chúng ta dẹp nó đi, vì dân trừ hoạn nạn, tại sao mi lại đè nó đứng yên, không cho di chuyển?

Mục Kiền Liên cười nói:

- Rõ ràng là tôi đứng giữa hư không, ai đè trái núi của các ông làm chi?

Ngoại đạo lại huy động hết đạo lực, ba lần muốn dời núi mà hòn núi vẫn y nguyên như cũ.

Đang lúc ngoại đạo cảm thấy hết phương cách, kinh sợ hoang mang, Mục Kiền Liên lớn tiếng kêu:

- Các Phạm chí! Định thần xem đây, núi kia sẽ biến mất.

Mục Kiền Liên nói xong, hòn núi cao ngất, hùng vĩ kia tức khắc biến thành bình địa.

Các ngoại đạo cúi đầu nói:

- Đại đức từ đâu đến? Nếu chẳng phải là bậc Trí tuệ sáng suốt, đạo đức sâu dày không thể được như vậy. Xin ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử, chỉ dạy bờ mê cho chúng tôi.

Mục Kiền Liên từ trên không hạ xuống, nói:

- Các ông có chí tâm thành hối cải, tôi biết đó không phải là lời dối gạt. Nhưng tôi nói thật, nếu các ông muốn bỏ tối cầu sáng, bỏ ác làm lành, tôi còn có bậc tôn sư, đức Phật đà Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật là bậc trời trong loài trời, bậc Thánh trong các Thánh, đầy đủ Nhất thiết trí, vạn đức vạn năng. Các ông hãy theo tôi đến chỗ Phật quy y, đức Phật nhất định từ bi nhiếp thọ.

Các Phạm chí vui mừng nhảy nhót, hỏi thăm:

- Giáo pháp của Phật chẳng lẽ hơn lão sư ư?

Mục Kiền Liên trang nghiêm nói:

- Đức Phật như núi Tu Di, tôi chỉ như hạt cải, hạt cải không thể so sánh với núi Tu Di. Phật đà như biển lớn, tôi chỉ như dòng nước nhỏ, dòng nước không thể sánh với biển cả. Phật ra đời khó gặp, các ông quy y Phật mới có thể được cứu thoát.

Các Phạm chí nghe xong vui vẻ, đều theo Mục Kiền Liên đến chỗ Phật quy y thọ giáo.

Tôn giả Mục Kiền Liên thường dùng thần thông chiết phục ngoại đạo, khiến khởi tâm quy hướng Phật pháp. Ngài là người có nhiều biện pháp trong việc hàng phục ngoại đạo.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 7. HÀNG PHỤC QUỶ ÁC
Tôn giả Mục Kiền Liên tuy hay hàng phục ác ma ngoại đạo, nhưng bọn chúng cũng thường tìm cách chọc ghẹo ngài.

Một phen, Mục Kiền Liên vâng lời Phật đơn thân đến nước Bạt Già giáo hóa. Có một tệ quỷ thấy tôn giả đang tản bộ trên đường, hắn bèn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả. Tôn giả cảm thấy đau nhói nơi bụng, dường như có vật gì như cái chén lợn cợn trong đó, mà lại kêu rầm rầm như sấm. Tôn giả liền dừng bước, trở về thất tịnh tọa tư duy, biết đây là tệ quỷ khiêu khích mình, bèn nói:

- Ác ma! Mau mau đi ra, không được xâm phạm đệ tử Phật. Mi chẳng thể làm tổn hại đức Phật và đệ tử ngài, trừ những đệ tử nghiệp lực đến thời, nếu không mi vĩnh viễn chẳng làm gì được.

Ác ma nghĩ thầm:

- Lạ thật! Hình dạng ta ra sao ngay cả Phật còn không biết, Mục Kiền Liên tuy có thần thông, làm sao biết được?

Tôn giả lại nói:

- Ác ma! Mi đừng lấy làm lạ. Ta biết trong bụng mi đang nghĩ rằng Phật đà chẳng biết hình thù mi ra sao, Mục Kiền Liên tuy có thần thông làm sao lại biết.

Tệ quỷ nghe rồi kinh hãi, liền biến thành nước miếng vọt ra, từ đó chẳng dám trêu chọc đến Tôn giả.

Thần thông của Mục Kiền Liên khiến người tin Phật khâm phục, và ma ngoại sợ hãi.
  • 8. SẮC ĐẸP KHÔNG CỰ NỔI THẦN THÔNG
Có thần thông như Mục Kiền Liên, chẳng những không bị ác quỷ gia hại mà sắc đẹp cũng không lay động đạo tâm.

Một hôm, Tôn giả đi khất thực trở về, ngang qua một khu vườn, trong đó có một người đàn bà trung niên đang chờ ngài. Người này tuy khoảng ba mươi tuổi, nhưng thời gian không làm giảm vẻ đẹp. Đôi mắt kiều mị, hình dong yểu điệu rất hấp dẫn nam nhi.

Nàng thấy Mục Kiền Liên sắp đến gần bèn đứng dậy cúi chào:

- Tôn giả! Ngài có bận đi đâu không? Ngài có thể dừng chân nói chuyện với em không ạ?

Mục Kiền Liên dừng bước, chú ý nhìn và không những ngài thấy dung mạo thanh lịch của cô ta, mà còn biết rõ bên trong tâm cô ta đang có ý đồ gì.

Tôn giả không động trước thinh sắc, oai nghiêm nói:

- Thật đáng thương cho cô! Cô phải chịu những điều ô nhục. Tuy được chút đỉnh tiền bạc mà lương tâm mờ ám, nghe lời xúi sử của ngoại đạo, tưởng rằng đối trước ta có thể bày âm mưu phi pháp!

Cô nàng nghe nói kinh hoảng, nhẹ giọng:

- Tôn giả! Ông... ông... tại sao ông nói như vậy?

Mục Kiền Liên oai nghiêm như một ngọn núi:

- Cô không thể che dấu tội lỗi của mình. Cô đến đây với ý định gì tôi vừa nhìn qua biết liền. Cô mê muội theo sắc đẹp hư vọng, sắc đẹp giúp cô tăng trưởng tội ác, giống như voi già sa lầy, càng cựa quậy càng lún sâu thôi.

- Tôn giả! Ngài đã biết rõ tâm tôi, tôi cũng biết không thể qua mắt ngài. Tôi sớm nghe danh ngài là vị đệ tử thần thông đệ nhất của Phật, tôi không tin rằng thần thông có thể vượt qua sắc đẹp. Tôi biết tôi là một kẻ tội lỗi, tôi cũng tưởng đến việc hướng thiện nhưng rất đỗi tuyệt vọng. Tôi nghĩ tôi là một kẻ không thể cứu vớt, có một quá khứ ghê rợn, mai sau chắc chắn sẽ chịu quả báo đáng sợ.

Mục Kiền Liên an ủi:

- Cô không nên tự làm khổ mình, cũng đừng thất vọng. Tội nghiệp dù nặng đến đâu chỉ cần một phen sám hối thì đều có thể cứu vãn, y phục dơ có thể giặt giũ, thân thể ô uế có thể dùng nước tẩy trừ, tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Trăm dòng sông nhớp nhúa một phen chảy vào biển cả, nước biển lớn thảy đều làm sạch nước trăm sông. Lời dạy của Thế Tôn ta đủ sức khiến thanh tịnh lòng người ô uế, có thể cho sám hối những tội nghiệp quá khứ.

Nghe tôn giả nói như vậy, cô kia rất mừng rỡ, mắt đầy hy vọng nói:

- Tôn giả, giáo thị của đức Phật từ bi vĩ đại đến vậy ư? Quá khứ tôi rất là tội lỗi, tôi chỉ gặp toàn những điều bất hạnh, tôi mà nói ra đây, Tôn giả chắc sẽ bịt tai ngoảnh mặt.

- Chẳng có gì quan hệ, cứ nói ra cũng tốt. Cô tên gì?

- Thưa, tôi tên Liên Hoa Sắc, là con gái một nhà trưởng giả thành Đức Xoa Thi La, khi tôi được mười sáu tuổi, phụ mẫu thành lập gia thất cho tôi, nhưng chẳng bao lâu cha tôi qua đời, bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi, biết việc này tôi rất đau lòng. Lúc ấy tôi đã có một đứa con gái, bèn bỏ nó ra đi. Sau đó tôi tái giá với người khác. Có một lần, người chồng sau này đi xa buôn bán, khi chàng từ Đức Xoa Thi La trở về, lén tôi lấy một ngàn lượng vàng mua tiểu thiếp. Ban đầu y dấu nhẹm không cho tôi hay, đưa tiểu thiếp gởi nhà bạn. Sau đó tôi biết được nóng nảy muốn coi mặt tiểu thiếp đó là người nào mà dám đoạt chồng tôi. Thiệt là, thưa Tôn giả, không thấy thì thôi, thấy rồi tôi té xỉu tại chỗ, người đó đâu phải ai xa lạ, chính là con gái của đời chồng trước.

Liên Hoa Sắc nói đến đó, khóc không ra tiếng. Mục Kiền Liên bèn an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Cô không nên thương tâm quá đỗi, người biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó chỉ là một sự luân hồi nhân quả. Nói thật mà nghe, đời người là một bể tội lỗi. Rồi sau thế nào?

- Làm sao tôi có thể nhẫn nhục được đối với nỗi khổ đau đó? Nghĩ đến ban đầu thì mẹ đoạt chồng mình, bây giờ con mình lại tranh chung trượng phu với mình. Tôi còn mặt mũi nào ở đời? Tôi bỏ nhà ra đi, tôi chán ghét thế gian, chán ghét mọi người. Tôi làm kẻ mua vui cho thiên hạ. Tôi muốn đùa cợt thế nhân, tôi phát triển mọi sinh hoạt tội lỗi của mình. Việc gì tôi cũng làm được miễn có tiền. Tôn giả đã biết tại sao tôi đến đây khiêu khích ngài, may mà Tôn giả có đại thần lực, bây giờ không biết tôi phải sám hối như thế nào?

Mục Kiền Liên nghe Liên Hoa Sắc kể hết sự tình, không hề khởi tâm khinh khi, trái lại Tôn giả biết trong tâm Liên Hoa Sắc rất chân thành, rất lương thiện. Ngài dùng lời từ hòa đến gần bên an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Thân thế của cô thật đáng thương, cô nên theo lời dạy của đức Phật mà sửa đổi, thời tiết nhân duyên đã đến, cô hãy theo tôi ra mắt Phật.

Liên Hoa Sắc rất mừng rỡ. Sở dĩ cô được cứu độ, chuyển họa thành phước đều nhờ sức thần thông, phương tiện thiện xảo của Mục Kiền Liên.
  • 9. THỬ NGHE TIẾNG PHẬT XA GẦN
Trong Tăng đoàn, Mục Kiền Liên là người sống động, chuyện người khác làm không được ngài đều làm xong, chỗ nào người khác không đến được ngài đều có thể đến.

Một hôm Phật thuyết pháp tại giảng đường Trúc Lâm tinh xá, Mục Kiền Liên ngồi thiền trong tịnh thất không đi nghe giảng, nhưng tiếng thuyết pháp của Phật như sấm rền bên tai. Ngài lấy làm lạ, ở một nơi cách xa Phật như thế mà vẫn nghe tiếng, bèn nảy ra ý định dọ thử xem pháp âm của Phật còn xa đến đâu. Ngài vận dụng thần túc bay qua mười ức cõi Phật, đến một quốc độ, nơi ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương là giáo chủ và đang thuyết pháp. Mục Kiền Liên cũng thường du hành đến cõi này cũng như một khách rong chơi giàu có lịch lãm, đến đâu cũng đều xem là gia hương cố quốc.

Bây giờ đến đây, thấy đức Thế Tự Tại Vương đang thuyết pháp, Tôn giả rất hoan hỷ liền nhanh tay lẹ chân tìm chỗ ngồi trong pháp hội. Nói đến chỗ này thật là bất khả tư nghì, Mục Kiền Liên chẳng những nghe tiếng Phật của quốc độ này, mà cả tiếng của đức Thích Ca ở cõi Ta bà cũng nghe luôn.

Đức Thế Tự Tại Vương thuyết pháp xong, một vị Bồ tát hướng về Phật đảnh lễ và chỉ Mục Kiền Liên nói:

- Như Lai! Trong lúc ngài thuyết pháp, chẳng biết từ đâu bò đến một con sâu lớn trông thật quái dị, chúng con muốn đuổi nó đi.

Đức Phật vội ngăn:

- Đừng nói thế! Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử thần thông đệ nhất của đức Phật Thích Ca ở cõi Ta bà!

- Sao lại nhỏ bé như vậy?

Các Bồ tát đều thưa hỏi. Nguyên lai, thân thể của chư Bồ tát và chúng sanh trong cõi nước Phật đây to lớn gấp trăm ngàn lần người cõi Ta bà, chẳng lạ gì họ ngạc nhiên khi thấy Mục Kiền Liên.

Đức Thế Tự Tại Vương giải thích:

- Các ông đừng khinh thị Tôn giả này. Ông ấy có đại thần lực, đại oai đức. Ông ấy hành hóa tự tại, dạo chơi các quốc độ. Chẳng qua thân thể thấp bé là vì chúng sanh mỗi quốc độ nghiệp lực chẳng đồng.

Đức Phật nói xong từ hòa nhìn Mục Kiền Liên:

- Tôn giả! Ông từ phương khác đến, có thể đối với chúng Bồ tát đệ tử ta, hiện các thần thông để trừ nghi hoặc của họ.

Mục Kiền Liên bèn thừa oai thần Phật, hóa hiện các thứ thần kỳ. Chúng Bồ tát thấy rồi đều sanh lòng cung kính.

Mục Kiền Liên hiện phép lạ xong, trở về chỗ ngồi. Đức Phật hỏi:

- Tôn giả! Ông đến quốc độ ta là muốn thử nghe tiếng thuyết pháp của Phật Thích Ca xa bao nhiêu phải không?

- Thưa phải, quả thật đệ tử có dụng tâm đó – Mục Kiền Liên cung kính đảnh lễ đáp.

- Tôn giả! Ông không nên nghĩ như vậy. Oai lực của chư Phật hàng phàm phu và nhị thừa không thể biết hết. Thanh âm thuyết pháp của chư Phật biến khắp tất cả hư không, cảnh giới các căn phan duyên của chúng sanh thì có xa gần, mà dùng tâm phân biệt không thể thử biết được âm thanh Phật.

Lời khai thị của đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, Mục Kiền Liên nghe xong rất hổ thẹn. Từ đó về sau, Tôn giả vẫn giữ vẻ linh hoạt nhưng không dám thử thăm dò Phật đức và Phật âm nữa.
  • 10. CHÚNG QUỶ HỎI VỀ NHÂN DUYÊN NGHIỆP BÁO
Tôn giả Mục Kiền Liên không những thường du hành các cõi Phật, mà còn thừa thần lực xuống địa ngục quan sát chúng sanh thọ quả báo.

Một hôm, Tôn giả hành khước bên bờ sông Hằng, lúc ấy ánh nắng nhạt dần, nhạt dần như rút theo con nước, màu hoàng hôn hoang vắng. Tôn giả thấy ban đêm đi hành hóa không tiện, bèn ngồi tịnh lự bên bờ sông.

Gió chiều nhẹ thổi, không trung lác đác vài vì sao. Bên bờ sông Hằng, các loài ngạ quỷ lắm phen tụ tập muốn tìm nước uống để trừ đói khát nhưng gặp phải một con quỷ hung ác giữ mé sông, tay cầm gậy sắt xua đuổi, do đó các quỷ đói không dám đến gần bờ nước. Mục Kiền Liên ngồi ngay thẳng chánh niệm, thấy các loại quỷ thọ tội không đồng, bèn gọi chúng lại. Nhân cơ hội ấy chúng quỷ hỏi ngài về nhân duyên tội nghiệp.

Quỷ thứ nhất hỏi:

- Tôn giả! Đời trước chúng tôi làm người, nay bị đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ đói khát, nghe nói nước sông Hằng trong mát, mà khi đến lấy nước uống, nước liền nóng sôi, chỉ cần hớp một miếng lục phủ ngũ tạng liền cháy tiêu, còn bị quỷ giữ nước sông cầm gậy đánh đuổi. Xin hỏi Tôn giả, chúng tôi do nghiệp gì mà thọ khổ báo này?

Mục Kiền Liên dùng sức định thần thông quan sát nhân quả ba đời, bèn nói với nó:

- Đời trước ngươi làm thầy toán số, khi xem tướng kiết hung cho người, nói dối nhiều hơn nói thật, tùy ý khen chê, tự xưng mình thông suốt mà thật là dối láo, vì muốn cầu lợi dưỡng, không thương người mê muội, mới thọ nghiệp báo như vậy.

Quỷ thứ hai hỏi:

- Tôn giả! Tôi thường bị một con chó lớn hung dữ nhai nuốt thân thể, ăn hết thịt xong, một cơn gió thổi qua bộ xương, lại sống trở lại. Chẳng biết nhân duyên gì khiến tôi chịu khổ báo này?

- Đời trước ngươi giết heo, dê, gà, vịt cúng tế trời thần nên chịu quả báo ấy.

- Tôn giả! – Quỷ thứ ba hỏi? – Tôi thì bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng thể ăn được, chẳng biết nhân duyên gì?

- Ngươi đời trước làm quan tự thị giàu mạnh, tung hoành theo ý thích, khinh khi người, tài sản người do mồ hôi nước mắt tạo ra, ngươi ỷ mạnh chiếm đoạt nên nay phải chịu khổ báo.

Quỷ thứ tư:

- Tôn giả! Lưỡi tôi le dài khắp thân, mà máu huyết cứ vọt ngược từ dưới lên trên khiến đầu to bằng cái đấu lớn. Mỗi khi huyết quản sắp đứt, mệnh như chỉ mành, chẳng biết nhân duyên gì thọ khổ báo này?

- Ngươi đời trước ưa nói chuyện thị phi, tốt xấu của người, mỗi lời nói ra không lợi ích cho chúng sanh, nếu có lời gì đều làm tăng khổ não cho người, nên nay mới chịu khổ như thế.

Mỗi ngạ quỷ lần lượt thưa hỏi tội nghiệp đã tạo ở đời trước, nhân duyên của quả báo đời nay, tôn giả đều mỗi mỗi trả lời. Thần thông của tôn giả thật là lên trời xuống đất tự tại vậy.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 11. DO LAI CỦA VU LAN BỒN
Tôn giả Mục Kiền Liên dùng Thiên nhãn thông biết nhân quả báo ứng của loài quỷ, hốt nhiên nhớ đến mẫu thân quá cố, ngài bèn vận dụng thần lực quan sát, thấy vong mẫu đang đọa trong ngạ quỷ chịu nhiều đau đớn, cuống họng nhỏ như cây kim, chỉ còn da bọc xương. Mục Kiền Liên thấy tình trạng ấy, động lòng hiếu thảo, không ngăn được nỗi thương cảm vạn phần, bèn dùng bình bát đựng đầy cơm, mượn sức thần đem đến trước lão mẫu, nhưng mẹ Ngài ôm bát cơm chưa kịp đưa vào miệng, cơm trong tay đã hóa thành lửa đỏ chẳng thể nuốt trôi. Mục Kiền Liên thấy vậy buồn bã rơi lệ nghĩ mình bất lực. Ngài biết được nghiệp quả của chúng ngạ quỷ, nhưng không thể biết mẫu thân do nhân duyên nghiệp báo gì mà chịu khổ sở như vậy. Ngài mang tâm tình trân trọng, mau mau đến trước Phật bẩm bạch:

- Phật đà! Hôm nay đệ tử dùng thần thông thấy mẫu thân đang bị đọa vào ngạ quỷ, chịu nhiều khổ não, thức ăn biến thành lửa đỏ, chẳng biết do nhân duyên gì? Thần thông của đệ tử có thể quan sát thấu đáo nhân duyên tội báo của chúng quỷ, vì sao đối vong mẫu lại chẳng biết được? Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy.

Đức Thế Tôn lộ vẻ lân mẫn đáp rằng:

- Mục Kiền Liên! Mẹ ông lúc sanh tiền báng Phật mắng Tăng, không tin nhân quả, tham sân tà ác, dối gạt mọi người. Do đó mới thọ khổ báo này. Ông vì mẫu tử tình thâm, thần thông bị thần tình che lấp nên không biết được!

- Ngài có diệu pháp gì để cứu mẫu thân của đệ tử thoát khổ ngạ quỷ? – Mục Kiền Liên hướng về đức Phật ai cầu.

- Mục Kiền Liên! Tội báo của mẹ ông cấu kết sâu dày, không thể dùng lực lượng một cá nhân mà cứu bạt được. Hiếu đạo của ông tuy cảm động trời đất, nhưng thiên địa thần kỳ đối với người đọa lạc vì phỉ báng Tam bảo không thể làm gì được. Hiện tại ông chỉ nương sức oai thần của thập phương Tăng chúng mới giúp mẹ ông thoát khổ ngạ quỷ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ tự tứ của chư Tăng, ngày đó những người làm con nên vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tại đang ở trong chốn nguy nan, sửa soạn trăm thức ăn ngon, quả vật tươi tốt nhất thế gian, đặt trong mâm đầy để cúng dường chư Đại đức Tăng mười phương. Nhân vì ngày ấy là ngày tự tứ của chư Tăng, tất cả Thánh chúng hoặc tọa thiền ở rừng núi bên dòng nước hoặc đắc tứ quả A la hán, hoặc kinh hành dưới cội cây, hoặc là bậc được lục thông đi giáo hóa, cho đến những Bồ tát trong mười phương hiện làm Tỳ kheo, đều đồng nhất tâm thọ thực, do vì chư Thánh chúng đều đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, đức độ rộng sâu như biển, bất khả tư nghì. Nếu ai hay cúng dường các vị Tăng ngày Tự tứ thì cha mẹ hiện đời và lục thân quyến thuộc nhất định ra khỏi đường khổ, liền được giải thoát, y thực tự nhiên. Nếu cha mẹ còn sống thì phước lạc trăm năm, mọi việc đều an lành thuận hảo. Đó thật là diệu pháp để cầu siêu cứu bạt.

Mục Kiền Liên nghe Phật nói, hoan hỷ vâng làm. Ngày chúng Tăng tự tứ làm lễ cúng dường đại chúng Thánh Tăng, ngày đó mẹ ngài thoát ly khổ ngạ quỷ.

Mục Kiền Liên rất cảm kích ân đức Phật, bèn tán thán công đức Tam bảo, khuyến khích thế gian làm theo pháp Vu Lan Bồn, cúng Phật cập Tăng để báo đáp ơn huệ sanh dưỡng nuôi nấng thương yêu vỗ về của song thân. Cử hành pháp hội Vu Lan, đó vốn là lợi ích cho những ai cùng khổ tâm như Mục Kiền Liên.

Tôn giả không những thần thông số một mà cũng nổi danh đại từ đại hiếu.
  • 12. GIẢNG THUYẾT BÀI KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT
Một hôm, chúng đệ tử đến yêu cầu Phật nói về nhân duyên bổn sanh của dòng họ Thích. Đức Phật nghĩ đến vấn đề này, nói việc tốt của bổn tộc thì e khó tránh khỏi tiếng tuyên truyền. Sau khi suy xét, Ngài bèn gọi Mục Kiền Liên thay Ngài giảng thuyết.

Mục Kiền Liên vận dụng Túc mạng thông quan sát sự tích của nhiều kiếp đã qua rõ ràng như vẽ trước mắt. Ngài thuật lại tỉ mỉ lịch sử dòng Thích Ca. Mọi người nghe xong đều cảm đến việc đức Phật giáng sanh trong dòng họ Thích và thành Chánh giác, không phải không có nhân duyên.

Mục Kiền Liên là người thường thay Phật thuyết pháp.

Lại một hôm, chúng Tỳ kheo nhóm họp lại cùng đàm đạo, mỗi người đều trình bày chỗ tâm đắc trong việc tu học, tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó nói bài kệ của bảy đức Phật:
  • Chư ác mạc tác,
    Chúng thiện phụng hành,
    Tự tịnh kỳ ý,
    Thị chư Phật giáo.
Dịch:
  • Chớ làm các việc ác,
    Nên làm các việc lành,
    Tự tịnh ý của mình,
    Đó là lời dạy của chư Phật.
Giáo thị của chư Phật ra sao? Từ bài kệ đơn giản của Mục Kiền Liên khiến hàng sơ học biết rõ mục đích lời dạy của đức Phật. Bài kệ này cùng tôn giả đều được mọi người lưu giữ trong tâm.
  • 13. THẦN THÔNG CHẲNG QUA NGHIỆP LỰC
Thần thông của Mục Kiền Liên trong hàng đệ tử Phật không ai sánh bằng, phàm làm việc gì ngài vận dụng thần thông đều thành tựu.

Thần thông rất tiện cho việc tiếp dẫn chúng sanh, nhưng thần thông không thể trái ngược phép tắc nhân quả, không thể thắng nghiệp lực, không thể giải thoát sanh tử phiền não, đó là sự thật.

Một lần nọ, thành Ca Tỳ La bị vua Lưu Ly nước Kiều Tát La (Kosala) xâm lược. Ban đầu đức Thế Tôn cũng động lòng ái quốc tìm cách giải cứu, ba phen ngồi chận đường cản trở đại quân của vua Lưu Ly. Tuy vua Lưu Ly mỗi lần gặp Phật, mỗi lần lui binh nhưng lòng thù hận muốn báo thù và xâm lược không dứt được. Đức Phật biết sự báo ứng của nhân quả, muốn để cho nó tự kết thúc nên sau đó để cho vua Lưu Ly tự do đi.

Thật là thần thông của Mục Kiền Liên không thể giải được hết sạch nghiệp báo. Tôn giả biết đại quân của vua Lưu Ly bao vây thành Ca Tỳ La, và rất kích động đến bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Thành Ca Tỳ La bị vua Lưu Ly xâm lược, chúng con cần phải tận lực để bảo cứu nhân dân trong thành.

Đức Phật nhìn Tôn giả giây lâu rồi từ hòa nói:

- Mục Kiền Liên! Dòng Thích Ca chịu quả báo của tội nghiệp nhiều kiếp đã qua. Đó là cộng nghiệp chiêu cảm, ông không thể chịu thay cho họ. Họ chẳng chịu sám hối, một bề kiêu mạn, không sửa đổi, nhà cửa mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi!

Mục Kiền Liên nghe Phật nói, tuy biết đó là sự thật, nhưng nghĩ đến thần thông quảng đại của mình, muốn dùng để cứu nạn dân chúng trong thành.

Vua Lưu Ly dùng trăm vạn đại quân vây khốn Ca Tỳ La, một giọt nước cũng không lọt, người ta làm sao đi lại. Chỉ có Mục Kiền Liên vận thần thông nương hư không bay vào thành. Tôn giả vào thành rồi, chọn năm trăm người ưu tú trong dòng Thích Ca thâu nhiếp vào trong bình bát, và bay ra. Đến một nơi an ổn, Ngài mở nắp bát tính thả năm trăm người ấy ra, chẳng dè không thấy gì cả. Một phen nhìn xuống thất kinh hồn vía, năm trăm người trong bát đều hóa thành máu cả.

Đến lúc này Tôn giả mới biết lời Phật nói không sai, phép tắc nhân duyên chẳng thể làm ngược lại, dầu kể là thần thông cũng không qua nghiệp lực.
  • 14. NGƯỜI TUẪN GIÁO ĐỆ NHẤT
Mục Kiền Liên nhờ thần thông lên trời xuống đất hỗ trợ tuyên dương Phật pháp, công ấy rất lớn. Nhưng Phật đã nói, thần thông không phải pháp môn cứu cánh. La hán mày dài vốn là đại thần vua Ưu Điền, tên là Tân Đầu Lô Phả La Đọa, theo Phật xuất gia đắc thần thông, hay biến hiện kỳ diệu trước hàng cư sĩ. Đức Phật từng quở trách và dạy ông rời khỏi Tăng đoàn, một mình qua châu Tây Cù Da Ni giáo hóa. Chỉ có đối với thần thông của Mục Kiền Liên, đức Phật chẳng những không quở trách mà lại thường khen ngợi. Chẳng phải đức Thế Tôn có tâm thiên lệch nhưng ngài biết một điều là dùng thần thông của Mục Kiền Liên để hỗ trợ tuyên hóa rất tốt, nhưng kết cuộc thần thông không thể hơn nghiệp báo. Nghiệp lực của mỗi người tạo tác rõ ràng dù là thần thông cũng không khỏi chết. Đức Phật dùng sự thật ấy để răn dạy người sau.

Tôn giả Mục Kiền Liên tuổi gần về già nhưng hoạt động truyền giáo vẫn như nước chảy mây bay, càng lúc càng tinh tấn. Tôn giả không biết rằng chính vì nhiệt tâm tuyên dương giáo pháp của mình lại khiến cho ngoại đạo tật đố. Bọn chúng đối với đức Phật không có biện pháp gì, chỉ đợi cơ hội ám sát Mục Kiền Liên.

Mục Kiền Liên gánh vác trách nhiệm hoằng hóa lợi sanh. Một lần nọ trên đường tuyên dương chân lý, đi ngang qua núi Y Tư Xa Lê, bị bọn lõa hình ngoại đạo bắt gặp. Chúng bèn từ trên núi xô đá xuống, muốn sát hại Mục Kiền Liên. Đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân vô thường của Tôn giả nát ngứu như tương, nhưng bọn lõa hình ngoại đạo hai ba ngày sau còn chưa dám đến gần nơi Tôn giả tử nạn, họ vẫn còn sợ sức thần thông của Tôn giả. Thật là Tôn giả vì truyền bá chủng tử Bồ đề cho nên gặp sự bức hại của ngoại đạo, để lưu lại cho hậu thế tấm gương hy sinh. Nhục thân của Tôn giả cũng trường tồn với thế gian. Máu của Tôn giả đổ ra không phải là vô ích, bao nhiêu vị tiên hiền thánh triết đã vì hoằng pháp lợi sanh, noi theo dấu chân của Tôn giả Mục Kiền Liên hiến tất cả sinh mệnh cho ánh sáng chân lý, để cho Phật pháp bất diệt. Sự hy sinh ấy thật có giá trị lớn lao.

Tin tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo ám hại truyền đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua nổi cơn phẫn nộ, hạ lệnh bắt hết các hung thủ, mấy ngàn lõa hình ngoại đạo đều bị nhà vua ném vào hầm lửa!

Chuyện ấy cũng không giải trừ được nỗi bi ai của các Tỳ kheo, đại chúng than thở cho rằng trên thế gian không công bình, tại sao Mục Kiền Liên thần thông đến thế mà không tránh được sự phục kích của ngoại đạo.

Tâm các vị Tỳ kheo không cam chịu được bèn tập hợp đến thỉnh ý Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là đệ tử thượng thủ của Phật. Mục Kiền Liên là một người hoàn toàn, khi Phật lên thiên cung thuyết pháp cho mẫu hậu, tôn giả nhận lời yêu cầu của chúng con lên cung trời bái vọng Thế Tôn. Mẫu thân ông vì phỉ báng Tam bảo mà bị đọa địa ngục, ông cũng xuống địa ngục cứu mẹ. Tôn giả là một người có thần thông oanh liệt, tại sao không dùng sức thần đối kháng ngoại đạo?

Đức Phật đã thể chứng chân lý vũ trụ, chỗ thiết yếu pháp sanh trên thế gian, đại trí giác của ngài mênh mông như đại hải. Ngài đã biết trước nên không kích động như các Tỳ kheo. Ngài an nhiên bảo đại chúng:

- Mục Kiền Liên không phải không chống cự nổi với ngoại đạo, nhưng ở lần trước khi vua Lưu Ly xâm lược Ca Tỳ La, ông ấy dùng thần thông mà cứu không được nhân dân trong thành, nên biết thần thông không qua nghiệp lực, nhục thể là vô thường, nghiệp báo cần phải trả, trong đời quá khứ ông ấy làm nghề chài lưới, sát hại oan uổng không biết bao nhiêu sanh linh. Các ông đừng lấy làm khó chịu, Mục Kiền Liên tuy chết nhưng chân lý không hề mất!

- Nhưng bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn cảm thấy Mục Kiền Liên bị hại quá ư thê thảm!

- Các Tỳ kheo! Các ông không nên nghĩ như vậy. Vấn đề sanh tử đối với người giác ngộ không quan trọng. Có sanh ắt có tử, chuyện tử không nhất thiết là chuyện kinh sợ hoang mang, đừng chấp chặt vào đó. Mục Kiền Liên khi vong thân chẳng mê muội tấn nhập Niết bàn, đó là điều đáng quý. Mục Kiền Liên hy sinh vì sự nghiệp tuyên dương giáo pháp, đó mới là cái đẹp vô hạn.

Trong hàng Tỳ kheo vẫn có người còn thắc mắc, họ than thở lắc đầu, thương cảm hết sức, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn biết cần phải có tinh thần hy sinh vì đạo, nhưng Tôn giả hy sinh như vậy thật quá sớm, còn biết bao sự nghiệp hoằng hóa, chúng con đều cần sự lãnh đạo của Tôn giả. Thế Tôn! Sao ngài không bảo trước với Tôn giả để ông ấy dự phòng?

Qua những lời trên, chúng ta có thể biết mọi người rất xúc động trước sự tuẫn giáo của Tôn giả, và cũng biết các Tỳ kheo rất khâm phục Mục Kiền Liên. Một lần nữa, đức Phật lại dùng lời an ủi khích lệ đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Khi Mục Kiền Liên lâm nạn chẳng phải ông ấy không biết dự phòng, ông ấy có thể bảo vệ cho mình khỏi chết, nhưng đó không là biện pháp cứu cánh, người tu hành không thể sai trái pháp tắc nhân quả. Ông ấy gieo nhân chài cá, nghiệp sát sanh phải kết thúc bằng quả bị hại. Vả lại, Mục Kiền Liên đã phát nguyện đem mạng sống hy sinh cho chân lý, đó là bản nguyện của ông, ông ấy rất hoan hỷ nhập diệt. Nếu đệ tử của ta đều có tinh thần của Mục Kiền Liên thì Phật pháp lại phát huy rộng lớn. Các ông nên bắt chước theo Mục Kiền Liên.

Pháp ngữ khai thị của đức Thế Tôn, các Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni nghe rồi rất cảm động. Một sắc thân Mục Kiền Liên tử vong, sẽ còn có vô số Mục Kiền Liên vì tuyên dương chân lý, vì sự lưu truyền của Thánh giáo mà hoan hỷ tự nguyện noi dấu!
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

CA CHIÊN DIÊN
LUẬN NGHỊ ĐỆ NHẤT
  • 1. THI TÀI DIỄN GIẢNG VỚI ANH
Tại thôn Di Hầu, nước A Bàn Đề (Avanti) miền Nam Ấn, có một gia đình giàu có dòng Bà la môn, được dân chúng toàn thôn kính nể.

Hôm nay, tôi giới thiệu tôn giả Ca Chiên Diên, đã xuất sanh từ gia đình ấy. Phụ thân Tôn giả là quốc sư đương thời. Gia đình có nhiều đất đai rộng lớn, kẻ ăn người ở cả trăm, quyền thế, tài phú, là bậc đại nhơn gia đệ nhất của cả nước.

Tôn giả Ca Chiên Diên vốn tên gọi là Na La Đà, con thứ hai của quốc sư Ca Chiên Diên. Ca Chiên Diên là họ, về sau Tôn giả nổi tiếng nên mọi người dùng họ để thay tên gọi.

Ca ca của Tôn giả cũng là một người thông minh, anh tuấn, hào sảng, ban đầu theo cha xuất gia làm Bà la môn, sau đi tham học khắp các nước, trải qua nhiều nơi, bái phỏng nhiều minh sư, cho nên thông đạt rất nhiều thứ học thuật, học rành nhiều tài nghệ. Sau thời gian du học, một hôm chàng trở về cố hương, triệu tập mọi người lại công khai tuyên thuyết chỗ nhận thức của mình về triết lý Vệ Đà tối cao.

Trong khi ấy, Ca Chiên Diên chưa hề bước ra khỏi cửa, biết anh trở về giảng luận Vệ Đà, chàng cũng ra một thông cáo và lập một giảng đài đối diện với giảng đài của anh, đồng thời diễn thuyết triết học Vệ Đà. Chàng trổ biện tài vô ngại, thuyết minh rõ những chỗ bí yếu, thu hút hết thính chúng của anh quay về mình. Mọi người nghe xong đều phê bình rần rộ: "Em giỏi hơn anh xa".

Ông anh vốn tánh háo thắng, bị một phen đả kích, sanh lòng tật đố với Ca Chiên Diên. Hai anh em bất hòa, gây gổ ồn ào đến trước phụ thân. Ca ca nộ khí xung thiên, thưa với cha:

- Thưa cha! Xin cha trừng trị em con. Hắn vô phép, vô tắc làm mất mặt con, con đã du học nhiều năm làm sao lại thua hắn? Vậy mà khi con đang diễn giảng hắn cũng đăng đàn đối lập, đoạt hết thính giả của con!

Thiếu niên Ca Chiên Diên điềm nhiên, chậm rãi giải thích:

- Xin cha lượng xét! Học vấn là chuyện công khai, ai cũng có quyền nghiên cứu và diễn giảng. Ca ca đi du học nước ngoài, con ở nhà nghiên cứu, con không có ý tranh hơn với Ca ca. Con chỉ nghĩ rằng: Mấy năm nay nghiên cứu ở nhà, không biết có được thành quả thế nào? Ca ca đi du học về mà chỉ mang một bụng hơn thua, con ở nhà chỉ thật lòng học hỏi. Xin cha đừng bận tâm, chúng con tự giáo dục chúng con mới phải, mong rằng Ca ca cũng đồng ý với con như vậy.

Phụ thân tuy là quốc sư, nghe hai quý tử bàn cãi cũng không biết phân xử ra sao. Rốt cuộc, ông bàn với phu nhân đem gởi Ca Chiên Diên đi phương Nam học đạo với tiên A Tư Đà ở núi Tân Đà, gần thành Ưu Thiền Da Ni. Nếu để chàng ở nhà thì ông anh không thể xuất đầu lộ diện.
  • 2. LỜI CHỈ GIÁO CỦA CỮU PHỤ
Tiên A Tư Đà là cậu ruột của Ca Chiên Diên, trưởng huynh của mẫu thân chàng. Ông là vị tiên nhơn bác học thần thông của Ấn Độ đương thời. Khi đức Thế Tôn đản sanh làm Thái tử, ông đã nhận lời mời của vua Tịnh Phạn, đến nội cung xem tướng Thái tử. Xem tướng xong, ông nói với vua Tịnh Phạn:

- Đại vương! Vị Thái tử hiền minh này tương lai nhất định sẽ xuất gia học đạo, và thành tựu quả Phật. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không kịp đợi ngài thành Phật, tôi đã qua đời. Tuy không thể lãnh thọ giáo lý của ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo ngài học đạo.

Nói xong, ông rơi nước mắt và lui ra.

Từ khi Ca Chiên Diên bị phụ thân gởi đến đây, chàng rất được tiên A Tư Đà yêu mến. Ông đem hết sở học truyền dạy cho đứa cháu thông minh. Ca Chiên Diên cũng không cô phụ lòng hy vọng của cữu phụ, chẳng bao lâu chàng thông đạt cả tứ thiền, ngũ thần thông.

Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nhớ nghĩ đến gia đình. Thứ nhất, chàng không muốn bám vào ảnh hưởng của thân phụ, bị thiên hạ cho là con của quốc sư mà cung cung kính kính. Thứ hai, là nghĩ đến ông anh háo thắng của mình, chàng biết không có cách gì ở chung cho nổi. Chàng quyết định sống riêng thế giới của mình. Cha mẹ sai người đến đón chàng trở về nhà, chàng cũng khéo léo từ chối.

A Tư Đà biết Ca Chiên Diên không bị tình thương gia đình ràng buộc, rất vui. Một hôm, ông bảo Ca Chiên Diên:

- Ca Chiên Diên! Như chí nguyện của con bây giờ, mai sau con sẽ là một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được. Chỗ hiểu biết của ta, hiện tại không đủ cho con cầu học. Đức đại thánh Phật đà đã xuất thế, con hãy đợi sau khi ngài thành đạo, mau mau theo học với ngài.

Ca Chiên Diên nghe lời thầy dạy, bán tín bán nghi. Chàng chỉ tin một điều, đó là lời tiên đoán mai sau chàng sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại.

Ngày nọ, A Tư Đà dắt Ca Chiên Diên xuống núi, đến vườn Lộc Dã nước Ba La Nại, xây cất một ngôi tịnh thất và an trụ luôn ở đó. Tịnh thất hoàn thành, A Tư Đà bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu đạo ba lần, cầu cho đức Đại giác Phật đà mau đến ngày chứng quả. A Tư Đà lại bảo cháu:

- Ca Chiên Diên! Theo ta tính quẻ dự đoán, đức Phật chẳng bao lâu sẽ thành đạo. Sau đó nhất định sẽ đến Lộc Dã Uyển mà quay bánh xe pháp trước nhất. Ta chỉ biết được như thế, còn đức Phật giác ngộ chân lý gì, e rằng ta không có phước để biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, đức Phật thành đạo rồi, con phải mau mau đi tìm ngài cầu đạo và tu học đó nhé!

Ít lâu sau, A Tư Đà chấm dứt thọ mạng, từ giã cõi đời. Ca Chiên Diên không còn thầy, từ đó phát huy học vấn và tài năng. Cha là quốc sư, cậu ruột là đại tiên A Tư Đà, tuy Ca Chiên Diên không hề nghĩ tới điều này nhưng quần chúng trọng vọng nhà học giả không để đâu cho hết. Đáng tiếc, Ca Chiên Diên bị chìm trong danh văn lợi dưỡng, quên đi di ngôn của cậu là phải đi cầu đạo với đức Phật.
  • 3. BÀI KỆ THẦN BÍ
Ca Chiên Diên tự cho mình đã đắc đạo, xứng đáng cho người đời cúng dường, đâu cần mong đợi đức Phật xuất thế làm gì. Do đó, vị thầy thân thiết qua đời không lâu, ông chẳng còn cầu đảo để sớm gặp Phật đà.

Thời gian sau, tại miền đất hoang gần thành Ba la nại, người ta đào bới được nhiều di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước. Trong ấy có một tấm bia đá trên mặt khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì. Dường như đó là một bài kệ, nhưng không ai đọc ra. Thiên hạ đồn rằng: Ai mà đọc được tấm bia đá đó, chắc chắn vị đó là một bậc đại giác mới hiểu được như vậy.

Một hôm, quốc vương Ba la nại bảo các đại thần:

- Nước chúng ta được một số bảo vật lưu truyền từ cổ đại, trong đó có tấm bia đá ghi kệ văn, các ngươi phải mau mau tìm hiểu cho ra. Nếu không, các nước lân cận sẽ cười nước chúng ta không có người trí. Nội trong bảy hôm, nếu như không ai hiểu được bài kệ ấy, ta sẽ cách chức các khanh.

Mệnh lệnh của nhà vua tuy thật nghiêm khắc, nhưng các đại thần từ xưa đến giờ chưa từng thấy thứ chữ này, đều lấm lét nhìn nhau chẳng biết phải làm gì. Sau cùng, các quan dâng kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng thông báo cho toàn quốc, ai đọc được bài kệ trên bia cũ sẽ được trọng thưởng mỹ nữ và tài vật châu báu.

Yết thị của nhà vua nêu ra, tin tức bay đến tai Ca Chiên Diên. Thầy lập tức nhớ đến cậu A Tư Đà đã từng dạy cho mình các thứ chữ trên mọi quốc gia, và những thứ chữ của chư Thiên mình cũng được học rất nhiều. Cho nên thầy rất mực tự tin ra gỡ bảng.

Quả thật, Ca Chiên Diên đọc được toàn bộ bài kệ. Thầy nói đó là thứ văn tự của Phạm Thiên, người không có thần thông chẳng thể nào thấu rõ được. Thầy bèn phiên dịch bài kệ ra cho quốc vương nghe, ý tứ như thế này:
  • Ai là vua trong các vị vua?
    Ai là thánh trong các bậc thánh?
    Thế nào là người ngu?
    Thế nào là bậc trí?
    Làm sao để lìa cấu uế?
    Làm sao để đạt được Niết bàn?
    Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?
    Ai là người tiêu diêu nơi cõi nước giải thoát?
Lâu nay, mọi người đọc không ra bài kệ thần bí, Ca Chiên Diên đã vén tấm màn bí mật lên, và toàn quốc đều truyền tụng rất nhanh chóng. Tuy ai nấy đều biết đọc suông như thế, nhưng chẳng người nào hiểu được ý chỉ của bài kệ ra sao, ngay cả Ca Chiên Diên cũng không giải đáp được.

Bài văn trên thạch bia ấy, mỗi câu là một nghi vấn trừu tượng, nếu đem các học thuyết đương thời để giải đáp cũng chỉ được phần nào, còn muốn thấu đáo toàn bộ vấn đề thiệt là không có lời đáp. Nhà vua tuy công nhận sức bác học của Ca Chiên Diên, thông hiểu cả văn tự Phạm Thiên, nhưng thầy không giải thích được nghi vấn của bài kệ, đã lưu lại một dấu hỏi lớn. Nhà vua lại ra lệnh treo giải thưởng, yêu cầu học giả trong thiên hạ đến khai thông vấn đề.

Ca Chiên Diên không chịu thua, thầy bèn hứa với nhà vua nội trong bảy ngày nhất định sẽ trở lại giải đáp ý chỉ này.
  • 4. THỈNH GIÁO ĐỨC PHẬT
Ca Chiên Diên đã hứa chắc với nhà vua, trở về khảo cứu triệt để, thiệt là cái ý chỉ của bài kệ chẳng thể dùng trí tưởng mà truy tầm cho được. Phen này chỉ có một bậc đại giác ngộ mới có thể giải đáp được thôi.

Đến lúc không còn biện pháp gì nữa, Ca Chiên Diên phải đi cầu cứu người khác. Ban đầu thầy đến chỗ Phú Lan Na Ca Diếp thỉnh giáo, sau đó lại tìm đến từng người trong nhóm lục sư ngoại đạo học hỏi, mà ý kiến của họ chỉ rất thô thiển, cũng giống như Ca Chiên Diên một thứ, chẳng phải là ý nghĩa đích thực của kệ văn.

Cùng đường hết lối, Ca Chiên Diên mới nghĩ đến Phật đà. Nghĩ đến Phật, thầy lại càng không muốn đi thỉnh giáo. Thầy nghĩ: "Bài kệ này, văn tự cõi trời, các lão Bà la môn trưởng thượng, uy quyền một cõi mà còn không biết, Cù Đàm tuổi còn trẻ làm sao mà biết được?" Sau cùng, nhớ đến lời cậu trước khi tạ thế, đã hai ba phen đinh ninh căn dặn, sau khi Phật thành đạo, nhất định mình phải đi tìm Ngài tu tập. Nhưng Cù Đàm tuổi tác không bao lăm, làm sao thành tựu được công hạnh Phật đà viên mãn ư? Sau rốt thầy mới đả thông tư tưởng, ngộ đạo không thể căn cứ trên tuổi tác lớn nhỏ mà quyết định, và nhắm hướng Lộc Dã Uyển đi tới.

Từ xưa đến nay, quả thật người có thể giải đáp bài kệ ấy chỉ có Phật. Chẳng kể văn kệ trên tấm bia là thật hay không thật, nhưng nó ám chỉ một ý nghĩa sâu xa. Đức Thế Tôn nhiều năm nỗ lực tu hành, mục đích là để khai thông vấn đề đó. Sự chứng ngộ của ngài là một giải đáp hết sức sống động cho câu hỏi đã nêu.

Ca Chiên Diên bái kiến đức Phật, mới biết lời nói của cữu phụ không sai. Thầy chưa biết được trí tuệ của Phật như đại hải, chỉ mới thấy tướng hảo trang nghiêm của ngài, đã khởi lòng cung kính vô biên.

Ca Chiên Diên chắp tay, tụng qua bài kệ một lượt, cầu mong đức Phật giải đáp cho.

Đức Thế Tôn chẳng cần suy nghĩ, như đại chung vừa chạm nhẹ đã vang tiếng, ngài dùng kệ đáp lại rằng:
  • Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu.
    Thánh trong các thánh là đức Phật đại giác.
    Bị vô minh nhiễm ô gọi là kẻ ngu
    Hay diệt hết các phiền não là bậc trí.
    Tu đạo, trừ tham, sân, si tức là lìa cấu uế.
    Hoàn thành giới định huệ tức chứng Niết bàn.
    Người chấp trước nơi ngã pháp chìm trong biển sanh tử
    Người chứng được pháp tánh duyên khởi dạo chơi trong cõi giải thoát.
Ca Chiên Diên rất thông minh, nghe Phật đáp xong, mỗi câu mỗi lời đều thâm nhập vào tạng phủ, mối nghi ngờ ám ảnh trong tâm đều được ánh sáng trí tuệ dẹp tan. Thầy vui mừng lặng đi giây lâu không nói nên lời, sau cùng mới tụng lại bài kệ của Phật và hướng về phía ngài đảnh lễ. Mối cảm kích của Ca Chiên Diên chẳng lạ gì, vì vừa nghe lời đức Phật thầy liền khai ngộ, theo đó mà thông hiểu chân lý.

Đức Phật rất ưa thích ông thầy Bà la môn này, ngài khen Ca Chiên Diên thiện căn sâu dày, và lại dạy đạo lý cho một phen nữa. Ca Chiên Diên lễ tạ xong, liền đem bài kệ đáp của đức Phật trở về thuật cho nhà vua nghe. Sau đó tuyên bố với các tín đồ của mình rằng từ nay thầy sẽ quy y đức Phật, làm đệ tử bậc đại Thánh.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 5 KHUYÊN NIỆM TAM BẢO
Ca Chiên Diên thiên tư thông tuệ, rốt cuộc bị trí tuệ cao siêu và nhân cách vĩ đại của đức Phật cảm hóa, trở thành một đệ tử được khai ngộ và chứng quả trong Tăng đoàn. Ca Chiên Diên rất vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được cứu độ, mà còn làm toại nguyện ngày xưa của cậu mình là A Tư Đà.

Tôn giả Ca Chiên Diên vốn là một nhân vật phi phàm, huống chi hiện nay đã theo Phật xuất gia chứng quả A la hán. Tôn giả thông đạt rất nhiều kinh luận ngoại đạo, lại có rất nhiều bằng hữu ngoại đạo, Tôn giả phát nguyện trước nhất sẽ cảm hóa những bạn tu còn ngơ ngẩn trên đường mê nẻo tà, mỗi mỗi đưa về quy y Phật, để lãnh thọ giáo lý của Thế Tôn.

Do đó, Ca Chiên Diên ở trong Tăng đoàn không những nhiệt tâm phục vụ và tu hành, mà đối với bên ngoài lại cũng nhiệt tâm hoằng pháp, tuyên dương giáo lý. Người hay hoằng đạo chẳng phải đạo hoằng người, chân lý của đức Phật, được sức phát động của tôn giả Ca Chiên Diên, đã dễ dàng phổ cập trong xã hội, đi sâu vào lòng người thì cũng là việc hiển nhiên.

Chân lý cứu đời của đức Phật vốn thường hằng xưa nay không biến đổi, dù trải qua ngàn vạn kiếp cũng trường tồn như mới, Ca Chiên Diên càng tuyên dương càng tăng thêm tín tâm. Tôn giả nhận thấy mình là sứ giả của đức Phật thiệt là một vinh hạnh lớn. Lòng tin và sự nhiệt thành của Tôn giả khiến đại danh Ca Chiên Diên như hương thơm bay xa, ai ai cũng biết tên tôn giả.

Một hôm, Phật trở về Ca Tỳ La hóa đạo. Ca Chiên Diên cũng theo Phật, ngụ tại tinh xá trong thôn Ha Lợi, và tất cả những gia đình trong thôn này dầu lớn, dầu nhỏ đều lưu dấu vết giáo hóa của Tôn giả. Ngày nọ, trưởng giả Bát Thành bị bệnh, Tôn giả bèn đến thăm và đặc biệt thuyết pháp cho ông nghe để giải trừ bệnh khổ.

Ca Chiên Diên bước vào nhà trưởng giả, thấy ông còn nằm bệnh trên giường, bèn đến bên thăm hỏi:

- Này trưởng giả! Nghe tin ông có chút bệnh, tôi vâng lời đức Phật, đến đây an ủi ông. Ông có chạy chữa thầy thuốc gì không?

- Kính tạ ân đức Phật và Tôn giả, bệnh của con không còn hy vọng, bao nhiêu thầy đều nói con mang bệnh bất trị – Trưởng giả Bát Thành rất thương cảm mà nói.

- Ông hãy xưng niệm Tam bảo, để nương nhờ oai đức Tam bảo khiến tâm ông được thanh tịnh, bệnh tình cũng thuyên giảm đi.

- Bạch Tôn giả! Chúng con quy y Tam bảo là mong ủng hộ Tam bảo, tịnh hóa nhân gian. Chúng con đã hiến dâng tất cả tài vật của chính mình, thì không nên trở lại cầu mong nơi Tam bảo.

- Thật ra là như vậy, thế gian vô thường không thể cầu xin Tam bảo cho được thường trụ, thân thể bệnh hoạn không thể cầu Tam bảo cho mạnh luôn. Tín ngưỡng là hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để thành tựu đại ngã. Đàn việt có chút ít bệnh khổ, chúng tôi có thể đến thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách giải cứu, thành tâm cầu nguyện Tam bảo, thì từ quang phổ chiếu, ông làm như vậy chẳng có lỗi chi.

Bát Thành nghe tôn giả nói, mỗi ngày đều một lòng nhất tâm xưng niệm Tam bảo, căn bệnh bất trị của ông dần dần thuyên giảm.

Điều đó, tuy Phật pháp rộng lớn vô biên, nhưng cũng là do Ca Chiên Diên lưu tâm đến người bệnh, dùng nước cam lồ từ bi của Phật pháp trị liệu cho nỗi khổ của chúng sanh.
  • 6. TUYÊN NÓI PHÁP BÌNH ĐẲNG
Ca Chiên Diên có khi tu học bên đức Phật, có khi một mình đi vân du giáo hóa các nơi. Phương pháp giáo hóa của Ca Chiên Diên và Phú Lâu Na có chỗ bất đồng. Khi Phú Lâu Na thuyết pháp thường là tập hợp ngàn vạn thính chúng đến nghe, còn tôn giả Ca Chiên Diên thì thích thuyết pháp riêng từng người.

Từng người, từng người một, đối diện mà giảng dạy, đó là lối thuyết pháp thân thiết nhất, khiến chân lý dễ dàng thâm nhập trong tâm người nghe. Quả thật chẳng lầm, không kể là ai ai, chỉ cần nghe Ca Chiên Diên nói vài câu liền có ấn tượng đẹp và niềm tin nơi lời nói của Tôn giả.

Một hôm, Phật trụ tại tinh xá Kỳ Viên, Ca Chiên Diên thì ba y một bát độc hành băng rừng núi, qua những cánh đồng mênh mông, đến nước Ma Thâu La (Mathura) ở phía Tây, giáo hóa.

Tôn giả đến Ma Thâu La, trước tiên xem xét dân tình, phong tục địa phương, lề lối sinh hoạt tập quán của nước này xong xuôi mới vào thành bái kiến quốc vương.

Vua Ma Thâu La một phen thấy Ca Chiên Diên bèn hỏi:

- Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài vốn dòng dõi Bà la môn, đó là một chủng tộc cao quý nhất, còn Phật đà dòng Sát Đế Lợi, mà nay Ngài trở lại quy y với ông ta, làm đệ tử ông ta, thiệt là chẳng ép uổng lắm sao?

- Đại vương! Chuyện đó chẳng những không ép uổng gì hết, mà trái lại, tôi cảm thấy rất hân hạnh được làm đệ tử bậc đại thánh Phật đà.

- Lạ thật! Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh sanh từ miệng Phạm Thiên để làm đệ tử một người dòng Sát Đế Lợi, thiệt là chẳng ai hiểu nổi.

Nhà vua này ngoan cố và thủ cựu, chấp vào thành kiến u mê, chấp ngã đầy bụng chẳng thèm nghe lời của Tôn giả chút nào.

Tôn giả chẳng hề giận, ôn hòa giải thích cho nhà vua nghe:

- Này đại vương! Ngày xưa tôi là Bà la môn tôi cũng nghĩ như đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật đà giáo thị, tôi mới biết đó là nhận thức sai lầm. Trong xã hội chia ra giai cấp Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xà, Thủ đà la các chủng tộc không đồng. Còn trên nghề nghiệp thì có tôn giáo, chánh trị, thương nghiệp, nông công phân loại. Điều ấy không sai, nhưng do đó mà chia cách ra, giải thích về dòng dõi có hơn kém, thiệt là phi pháp. Người trong dòng dõi nào cũng có thiện có ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà la môn nhiều người làm những điều ác như sát sanh, tà dâm, tà kiến, lại nói rằng là người tôn quý ư? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do dòng họ, người tu đạo làm lành, giác ngộ chứng quả, thì chẳng kể thuộc chủng tộc nào đều là bậc tôn quý, là bậc nhất, là thanh tịnh cả.

Dưới lời thuyết giáo ấy, vua Ma Thâu La chợt giác ngộ, nhà vua tự nói:

- À! Thì ra đó là lỗi của ta. Trong đất nước này, nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thủ đà la, còn Bà la môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì, xã hội hỗn loạn, nhân dân ta thán bất bình.

Ca Chiên Diên biết nhà vua thấy được chỗ sai lầm, thật tâm hối lỗi, bèn nói tiếp:

- Đại vương! Đại vương cần tín phụng chánh pháp. Đức Phật đại giác ngộ là bậc tối tôn tối quý trong loài người. Chúng ta quy y Phật làm đệ tử, tìm sự giải thoát tự do cho sinh mệnh, đó thật là hạnh phúc và vinh dự lắm!

Vua Ma Thâu La được tiếp thọ Phật pháp bình đẳng, bèn yêu cầu Tôn giả giới thiệu để quy y Phật.

Nhà vua ra lệnh đại xá, thả hết những tù nhân dòng Thủ đà la, chỉnh đốn lại chánh trị, không còn nể mạnh hiếp yếu, bỏ luôn luật pháp bất công, không phân biệt giai cấp, giữa người và người đều chịu một quốc pháp như nhau. Từ đó toàn cả nước vui mừng, nhân dân lạc nghiệp. Ai nấy đều cảm kích sự giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên, cảm kích Phật pháp từ bi, bình đẳng.
  • 7. LUẬN VỀ TƯ CÁCH BẬC TRƯỞNG THƯỢNG
Ca Chiên Diên theo đức Phật, tuyên bố chủ trương "Bình đẳng giữa bốn chủng tộc". Điều ấy khiến nhiều Bà la môn không chịu được. Hễ gặp cơ hội họ liền tìm Ca Chiên Diên chất vấn, họ nghĩ rằng "Không triệt hạ Ca Chiên Diên thì các Bà la môn từ nay không cất đầu lên nổi".

Tôn giả Ca Chiên Diên rất giỏi biện luận, không kể người đó là Bà la môn quyền uy đến đâu, khi gặp mặt, Tôn giả chỉ dùng vài lời ngắn gọn, không nói dài dòng lôi thôi, đều khiến kẻ vấn nạn phải vui vẻ khâm phục.

Một hôm, Tôn giả ở trong nước Ba La Nại, cùng với các Tỳ kheo đồng học thọ thực trong trai đường, tinh xá nằm bên ao Ô Nê. Có một Bà la môn, niên kỷ thuộc hàng trưởng thượng, biết Tôn giả đang ở đấy liền đến khiêu chiến. Lão Bà la môn chống gậy, làm thinh đứng bên cạnh Ca Chiên Diên, ý ông ta tưởng rằng: Ca Chiên Diên thấy mình đến chắc sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi. Nào dè ngoài ý dự đoán của lão, Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông, Bà la môn đợi hồi lâu bèn nổi giận, lớn tiếng trách:

- Các ngươi là giống gì? Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi hử?

Các Tỳ kheo một phen thất kinh, lắm vị đứng lên định nhường chỗ cho Bà la môn ngồi. Chỉ có Ca Chiên Diên chẳng nao núng chút nào, nói với Bà la môn nọ:

- Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ĩ? Chúng ta có phép cung kính của chúng ta, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng và tiền bối.

Lão đạo sĩ Bà la môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình, nộ khí xung thiên la lên:

- Già cả như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Không đáng cho người cung kính hả?

- Ông ấy à? Ông không đáng gọi là già lão, cũng không đáng thọ sự cung kính của chúng tôi! – Ca Chiên Diên nói một cách khi dễ.

- Tại sao ngươi khi người quá vậy?

Lão Bà la môn nổi giận lôi đình, lấy gậy chỉ chỏ Ca Chiên Diên. Đối lại, Ca Chiên Diên rất điềm tĩnh, từ tốn nói:

- Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông thô tháo như thế, tôi mới nói ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng. Đừng kể là Bà la môn, dầu cho tám, chín chục tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chánh tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não, tham sân tật đố, người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên. Như các người tuổi trẻ hai mươi quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận. Được như vậy, chúng ta mới gọi người đó là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc, đáng được tất cả chúng ta cung kính.

Lão Bà la môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào, làm thinh đi ra.
  • 8. CÓ ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI Ở TUỔI TÁC
Thuyết phục một Bà la môn râu bạc, từ đó chẳng được an ổn vô sự gì, danh tiếng Ca Chiên Diên càng to, các giáo đồ Bà la môn càng không thể tha thứ Tôn giả.

Lại có một Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đối với Bà la môn lão niên của họ chẳng những không cung kính mà còn bắt bẻ lại khiến phải ngậm miệng chẳng nói được gì, ông Bà la môn này rất tức giận, từ xứ Câu Thi Ni La ở phía Bắc xa xôi hỏi thăm tìm đến chỗ của Ca Chiên Diên tại thành Ba La Nại, vừa chạm mặt ông ta đã kêu đích danh Ca Chiên Diên mà hỏi:

- Ca Chiên Diên! Tôi nghe người ta nói, Ca Chiên Diên là gốc Bà la môn, nay cải giáo làm Sa môn, có phải vậy chăng?

- Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp ca sa đây.

- Người phản bội tín ngưỡng của mình, lỗi nhiều ít?

- Từ cái tín ngưỡng tà chấp nọ kia đi theo đạo lý quang minh chánh tín này, không có lỗi gì cả! – Ca Chiên Diên trả lời rất đanh thép.

- Ông chẳng phải là hạng người vô danh tiểu tốt, ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển Mã Nổ của Bà la môn chúng ta, ông cải giáo theo Phật, chuyện đó chưa thể bỏ qua, mà còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà la môn để rủ rê họ theo mình, hành động ấy thật là vô lễ.

- Người đã đi qua, chỉ lại cho bạn đồng hành những chỗ lầm lạc của đoạn đường cũ, đó là lời dạy từ bi của đức Phật.

Được kể là hạng người ăn nói, mà gặp phải Ca Chiên Diên, ông Bà la môn này cũng chẳng làm gì được. Nhưng ông ta chưa chịu thua, nhớ đến mục đích của mình đến đây, bèn hỏi lại:

- Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều này. Nghe nói Ca Chiên Diên làm Sa môn Tỳ kheo đã không cung kính Bà la môn lão túc, không đứng dậy tiếp đón cũng không mời ngồi. Nếu quả như vậy, nếu ông tự cho là Tỳ kheo, cũng không được vô lễ như vậy.

Ca Chiên Diên thẳng thắn, chậm rãi đáp:

- Câu hỏi của ông, sự thật là thế. Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với bậc Chánh biến tri Phật đà, quả thật không cung kính phụng sự các lão túc Bà la môn, điều đó cũng hợp lý thôi, vì tôi đã chứng thánh quả. Ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn, lễ và pháp không thể lộn xộn được.

Bà la môn nghe lời biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên, rốt cuộc thấy hổ thẹn không nói thêm lời nào. Về sau bỏ tà chấp, yêu cầu tôn giả giới thiệu để làm đệ tử Phật.

Tôn giả thật đáng kính trọng vậy!
  • 9. GIẢI ĐÁP NGUYÊN NHÂN TRANH CÃI
Chân lý nếu không biện biệt thì không sáng tỏ được. Trong Tăng đoàn có một vị như Ca Chiên Diên, khiến bao nhiêu người vấn nạn đều có phần kiêng nể.

Một hôm, Ca Chiên Diên đang ôm bát khất thực trên đường, gặp một đạo sĩ Bà-la-môn đi ngược chiều, ông ta mời Ca Chiên Diên đứng lại và hỏi:

- Tôn giả! Hôm nay gặp ngài ở đây thật là may mắn. Tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo, mong ngài lấy tư cách khách quan để giải nghi giùm tôi.

- Chẳng có chi, ông nghi hoặc điều gì?

- Tôn giả! Tôi thấy trên thế gian, Sát đế lợi tranh đấu với Sát đế lợi, Bà la môn tranh với Bà la môn, vì lý do gì mà họ tranh đấu mãi như vậy?

Ca Chiên Diên đáp:

- Vì tham dục mê hoặc.

- Thưa Tôn giả! Vậy chớ Tỳ kheo các Ngài tranh cãi nhau lại là lý do nào?

- Do ngã kiến và pháp chấp.

Đạo sĩ Bà la môn nhắm mắt lại, đưa tay vò đầu dường như cố sức suy nghĩ về lời đáp của Tôn giả. Thái độ của ông ta có phần kỳ quặc khiến dân chúng hai bên đường chú ý. Xưa nay, thầy Tỳ kheo nói chuyện với đạo sĩ Bà la môn ở giữa đường đã là chuyện lạ, huống gì Bà la môn này lại có thái độ như thế.

Một vị Tỳ kheo đắp y vàng, trang nghiêm tề chỉnh đứng đấy, cùng một đạo sĩ Bà la môn khổ hạnh râu tóc phủ khắp mình, lại đứng nhắm mắt vò đầu lia lịa, bốn phía quần chúng chú mục vào hai người như sắp sửa xem một vở tuồng vui nhộn.

Đạo sĩ Bà la môn suy nghĩ một chặp, mở mắt ra lại hỏi:

- Tôn giả! Ngài đáp rất công bình hợp lý, song tôi nghĩ rằng trên thế gian này có nhân vật nào ly khai được tham dục, ngã kiến và pháp chấp không?

Ca Chiên Diên chẳng chút do dự đáp ngay:

- Có lão sư của tôi là đức Phật, hiện đang thuyết pháp tại thành Xá Vệ. Ngài là bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài không còn phiền não tham dục, ngã kiến, pháp chấp, là bậc đạo sư của ba cõi, là mô phạm của nhân thiên.

Đạo sĩ Bà la môn rất cảm kích đối với lời thuyết pháp của Ca Chiên Diên, ông ta liền yêu cầu Tôn giả giới thiệu cho ông ta quy y Phật, làm một đệ tử cư sĩ.

Quần chúng bên đường mục kích cảnh Tôn giả thuyết phục đạo sĩ đều hoan nghênh. Nhiều người quỳ tại chỗ đảnh lễ Tôn giả như chúc mừng thắng lợi! Tuy vậy, Tôn giả chẳng lộ vẻ tự đắc, Ngài khiêm tốn đáp lễ lại mọi người, và cùng Bà la môn (nay đổi thành cư sĩ tục gia) cáo biệt, thản nhiên tiếp tục con đường khất thực của mình.
Hình ảnh


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.22 khách