Trang 1 trên 1

Siêu độ vong linh – hộ trì chùa được bình yên

Đã gửi: 07/05/09 08:06
gửi bởi thichtambinh1985
MỘT ĐOẠN NHÂN DUYÊN GIỮ TÔI
VÀ BỒ TÁT QUẢNG KHÂM
Chu Tuyên Đức

Hoà thượng Quảng Khâm suốt cả cuộc đời 95 năm niệm Phật, độ chúng chưa từng gián đoạn, nay xả báo thân vãng sanh Cực Lạc ! Ngưỡng mong Ngài quay Thuyền Từ, trở lại tiếp tục tiền duyên !

Người ngừơi xưng tụng Đại Lão Hoà thượng là bậc cao tăng, Ngài không ăn thức ăn nấu chín như ngừơi thế gian, đêm không ngã lưng nằm nghỉ, nhất tâm niệm Phật, mấy mươi năm ròng trước sau như một; do vậy mà đắc thần thông diệu dụng, hoá độ vô số chúng sanh. Nhân duyên giữa tôi với Ngài rất sâu thâm. Tôi được biết về cuộc đời của Ngài cũng khá nhiều, nhưng vì thời gian trình bày có hạn, chỉ xin chọn kể ra đây ba mẫu chuyện thực điển hình, đồng thời hồi tưởng lại “sáu đề cương trong đời tu hành” của Ngài để chứng minh rằng Ngài là vị Bồ Tát vì hạnh nguyện mà trở lại độ chúng sanh.

1. Siêu độ vong linh – hộ trì chùa được bình yên

Vào năm 1950 tôi ở ký túc xá Đài Đừơng nằm trên đại lộ Vạn Hoa Côn Minh, ĐÀI BẮC. Tôi thừơng đến chùa Pháp Hoa gần đấy lễ phật nên có quen một vị trai cô ở chùa. Trai cô cho biết cô là đại diện của tín chúng chùa này. Sau khi vị trụ trì ngừơi Nhật về nước, cô được giao cho tiếp quản chùa. Trai cô mời tôi mỗi chủ nhật đến dự pháp hội, giảng kinh cho tín chúng, và dùng cơm trưa với chùa. Cô nói chùa này tối đến không có ai dám ở lại, vì đêm khuya có ma tự mở cửa phòng, mở cửa sổ, lại còn bật đèn điện …., làm nhiều động tác khuấy nhiễu khiến ai cũng hoảng sợ, đêm ngủ không yên. Ngày ngày vào khoảng 7 giờ tối sau lúc mặt trời lặn, ai nấy đều phải ra khỏi chùa đến nơi khác ở. Tôi nghe câu chuyện ma quỷ lộng hành gây họa như vậy nghĩ rằng phải có cách gì trừ, trong lòng cứ lo lắng buồn bực. Một buổi chiều nọ, tình cờ tôi gặp một Hoà thượng già, vóc dáng không cao, đi trên đường Nam Tây Ninh, thong thả hướng về phía nam, cách chùa Pháp Hoa không xa. Tôi vội bứơc đến trứơc người, chấp tay làm lễ và kính hỏi đạo hiệu. Ngừơi đáp : “ Tôi là Quảng Khâm ”. Tôi hỏi Hoà thượng ở đâu, người trả lời : “ Không nhất định là ở đâu ”.

Nhìn dáng đi thanh thoát và đôi mắt rất sáng của người, dừơng như đây là bậc đạo hạnh, tôi mời ngừơi về chùa Pháp Hoa an nghỉ. Về đến chùa, trứơc tiên ngừơi lạy Phật, kế đó đi đến chỗ sàn gỗ mé tây, bên trái bàn thờ Phật, ngồi kiết già. Khi ấy trai cô định dọn cơm chiều cho ngừơi dùng, người bảo : “ Tôi không ăn cơm, chỉ ăn trái cây ”. Nghe thế tôi liền ra ngoài chùa mua một ít quả chuối vào, đặt lên chiếc bàn nhỏ để người tuy nghi thọ dụng. Đến khi trời sắp hoàng hôn tôi ngầm ra dấu cho các trai cô rời khỏi chùa, chỉ để ngừơi ở lại một mình, xem thử ngừơi ứng phó ma quái quấy nhiễu như thế nào.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi đến chùa, Hoà thượng Quảng Khâm lấy tay chỉ phòng khách phía bên phải Đại Điện nói : “ Ở đó có hai hồn ma Nhật Bản, các vị hãy đến giở tấm ta-ta-mi (chiếu Nhật) lên, lấy hài cốt của họ ra để tôi siêu độ cho họ”. Quả nhiên đúng như lời ngừơi nói, các trai cô tìm thấy hai bộ xương người. Hoà thượng bảo : “ Các cô đem xương cốt bỏ vào cái lư dùng để thiêu giấy tiền vàng mã trước chùa đốt cho tiêu hết đi ”.

Hoà thượng niệm Phật, lại như vừa niệm chú vãng sanh, sau đó trở vào Đại Điện nói : “ Đã siêu độ cho họ rồi ”. Nhưng chiều hôm đó các trai cô cũng không ai dám ở lại trong chùa. Sáng sớm ngày thứ ba, Hoà thựơng vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, người lại nói phòng phía sau, bên phải Đại Điện cũng có một hồn ma, bảo các trai cô giở tấm ta-ta-mi lên như hôm trứơc, lại phát hiện một bộ hài cốt, và cũng bỏ vào lư thiêu. Hoà thượng niệm Phật, trì chú xong nó: “ Hồn ma này cũng đi rồi ! ”

Sáng ngày thứ tư tôi cũng lại đến chùa Pháp Hoa, trai cô nói với tôi : “ Sư phụ bảo chúng tôi tối nay có thể vào chùa ở lại trong liêu phương trượng”. Từ đó trai cô yên tâm mời thêm mấy tín đồ dạn dĩ vào chùa ở, quả nhiên bình an vô sự, tất cả thanh tịnh. Do vậy, tôi nói với các cô : “ Quý cô nên thỉnh Hoà thượng làm trụ trì chùa này, mời ngừơi ở lại thừơng trú, nhất định sẽ đảm bảo an ninh ”.

Phần mình, hầu như mỗi chiều khi xong công việc tôi đều đến chùa Pháp Hoa xin được ngừơi chỉ dạy về quá trình tu tập. Tôi mới được rõ Ngừơi từ thuở ban đầu tu nơi sơn động ở Tuyền Châu cho đến khi sang Đài Loan đã thực hiện rất nhiều kỳ tích; chắc hẳn có nhiều người biết và ghi chép lại, tôi xin khỏi từơng thuật ra đây. Tuy trong kiếp này người chẳng đọc nhiều kinh điển, chỉ bằng khổ hạnh và niệm Phật mà chứng ngộ, ắt là do người đã trải qua nhiều kiếp tu hành nên mới có đựơc thần thông như vậy.

2. Ngày đêm niệm Phật nhất tâm bất loạn

Ban đầu được gần gũi bên Hoà thựơng, tôi vẫn có điều thắc mắc : ngừơi không nghiên cứu về Phật điển làm sao lại đựơc thần thông như vậy ? Nhiều lần tôi xin người dạy cho phương pháp tu hành, người chỉ trả lời : “ Anh chỉ cần tịnh tâm niệm Phật, lâu dài về sau sẽ đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, tự nhiên có cảm ứng ”. Nhưng tôi chưa nghe người “niệm” bao giờ nên không hình dung nổi sự cao sâu của pháp môn này, do đó tôi đặc biệt dành một buổi chiều ngày nghỉ cuối tuần đến chùa bái kiến. Người đang ngồi “xếp bằng” trên một chiếc bàn tròn thấp kiểu Nhật trong chánh điện. Tôi bước đến ngồi lên chiếc ghế đặt gần đấy bên cạnh người. Trời tối, tôi đến bậc đèn rồi chú tâm hầu đợi người. Cứ độ nửa giờ hoặc 40, 50 phút tôi đi nhè nhẹ đến bên cạnh ngừơi hỏi nhỏ : “ Thầy đang làm gì vậy ? ” Người đáp :

- Niệm Phật

- Niệm Phật nào ?

- Phật A-Di-Đà.


Tôi hỏi bảy tám lần như thế, ngừơi đều trả lời như thế .

Suốt đêm ấy tôi không ngủ được. Đến sáng hôm sau tôi lại hỏi :

- Thầy nói Thầy đang niệm Phật, nhưng sao con không nghe tiếng.

Vậy thì niệm Phật như thế nào ?

- Niệm Phật quan trọng là “tâm niệm”, “chuyên tinh”, ngày đêm không gián đoạn, không tán tâm. Tuy nhiên, nếu các anh biết miệng niệm, tai nghe, tâm tưởg , vậy cũng là “ hạ thủ công phu ”, dần dần tự nhiên có thể niệm mà không còn phân biệt ngày hay đêm; niệm Phật nhất tâm bất loạn. Do niệm Phật mà đắc định, đắc tuệ, chắc chắn sẽ thành tựu .

3. Dự báo sự việc sẽ xảy ra

Vị Thầy mà tôi quy y – Hoà thượng Trí Quang - gặp giáo sư Lý Hạnh Thôn thuộc trừơng Đại học Đông Ngô đến Hoa Nghiêm Liên Xã hỏi Thầy về vấn đề Phật học và tâm lý học. Thầy tôi không nói với ông ta nhiều, chỉ viết trên một danh thiếp giới thiệu ông đến nhà tôi để trao đổi. Sau khi đàm luận, tôi nhận thấy ông cũng có thiện căn, bèn giới thiệu đến thỉnh giáo Hoà thượng Quảng Khâm.

Mới gặp Hoà thượng lần đầu, giáo sư Lý Hạnh Thôn liền được cảm hoá bởi đạo hạnh của người, ông tự nguyện xin quy y Tam Bảo. Ông có ký hợp đồng với Đại học Hạ Uy Di bên Mỹ, sẽ được mời sang làm giáo sư ; hơn nữa, vị chủ nhiệm Khoa ngừơi Mỹ sẽ đến Đài Loan gặp ông, trực tiếp trao thư mời. Do đó, giáo sư thỉnh ý Hoà thượng :

- Việc con sang Mỹ có thành không ? – Hoà thượng nói :

- Lúc này thì không được

Vài ngày sau lại có một giáo sư tên Thang Chi Bình thuộc Viện Đại học Nông nghiệp Trung Hưng cũng được Hoà thượng Trí Quang giới thiệu đến tôi để nói chuyện Phật pháp. Theo lời anh ta kể thì gia đình đang gặp nhiều khó khăn và phiền muộn , rất mong sớm giải quyết được vấn đề kinh tế. Anh hỏi đạo Phật có giúp được gì chăng ? Tôi cũng giới thiệu anh đến Hoà thựơng Quảng Khâm. Thang tới xin gặp Hoà thượng và thỉnh ý : “ Con có quá nhiều khó khăn và lo lắng, làm sao giải quyết nổi ?” – Hoà thượng nói : “ Anh có thể ra nước ngoài làm việc kiếm tiền, cuộc sống sẽ được ổn định ”.

Sau đó hai ngừơi hẹn nhau cùng đến nhà tôi. Lý phát biểu trứơc rằng ông ta quyết định đi ra nước ngoài nhưng Hoà thượng bảo : “ đi không được ” . Thang thì nói : “ Tôi chẳng có ý định đi ra nứơc ngoài mà Hoà thượng lại bảo “ có thể đi được ”. Cả hai ngừơi đều cho rằng lời Hoà thượng rất khó làm cho ngừơi ta tin. Tôi nói : “ Hoà thượng có thần thông, biết trước việc tương lai của ngừơi khác”. Rồi tôi đề nghị Thang thử tìm cơ hội ra nước ngoài xem sao; còn Lý thì hãy đợi xem kết quả ông chủ nhiệm Khoa đến Đài Loan như thế nào.

Chưa đầy một tháng, khi ông Lý gặp chủ nhiệm Khoa ngừơi Mỹ, ông này cho biết là phải trở về Hạ-Uy-Di bàn với Hiệu trưởng xong mới gởi thư mời; từ đó Lý không được tin tức gì nữa. Còn anh Thang thì trở về trường, đọc trong báo Nông nghiệp CANADA bỗng gặp mục quảng cáo tuyển ngừơi có kỹ năng nông nghiệp, Thang liền gởi đơn xin ứng tuyển. Quả nhiên được Nông trừơng Vancouver gởi thư mời và vé máy bay đến Đài Loan cho anh ta và cả gia đình cùng sang CANADA nhận việc. Từ ấy cuộc sống của gia đình Thang hoàn toàn thay đổi, khá hẳn lên .

4. Sáu đề cương lớn cho người tu hành


Trên đây chỉ là thông linh biết trước tương lai ngừơi khác của Hoà thượng, còn nhiều kỳ tích nữa, tôi không thể kể hết .

Về sự tu hành của Hoà thượng, tôi dựa vào phương pháp quan sát và quy nạp có thể nêu giản lược 6 đề cương như sau :

1. Tâm tưởng niệm đức Phật A-Di-Đà
2. Nói ra lời gì đều phải có ích cho ngừơi.
3. Cử chỉ và hành động luôn ở trong định và tuệ.
4. Trì giới nghiêm cẩn vượt xa người thường.
5. Xem danh lợi là rỗng không.
6. Độ hết thảy sinh linh giải thoát.


Từ các sự thật nói trên, có thể chứng minh :

Hoà thượng Quảng Khâm là vị bồ-Tát tái sinh theo thệ nguyện !

Tôi nhận được điện thoại của bạn Huệ Cự từ Đài Loan gọi đến nói :

“ Bồ–Tát Quảng Khâm báo cho biết, vào ngày mồng 8 tháng 2 năm nay Ngài sẽ đoạn tận nhân duyên, thoát ly thế gian này. Nhân vì đại chúng tha thiết thỉnh cầu Ngài lưu lại, Ngài từ bi hứa sẽ chậm lại 5 ngày. Chiều ngày 13 tháng 2, quả nhiên trong Đại Hùng Bảo Điện chùa Diệu Thông, giữa âm thanh tiếng niệm Phật của đại chúng bao quanh, Ngài an toạ siêu hoá – Vào năm Ngài thọ 95 tuổi .
Đại chúng nghị bàn dự định đến ngày mồng 6 tháng 3 làm “ lễ Trà–tỳ ”.


Nghe tin ấy, tôi không cầm được nước mắt thương tiếc, và đau xót cho bao chúng sinh phứơc bạc đã mất đi một đấng Tôn Sư !

Đúng vào dịp này, ngày 23 tháng 2 chùa Pháp Ấn bên Mỹ khánh thành, đồng thời có tổ chức ngày niệm Phật. Ngài trụ trì – Pháp sư Ấn Hải – chỉ định tôi làm chủ xướng. Nhân dịp này, tôi báo cáo sơ lược với mọi người về tin buồn, và nguyện cầu Bồ-Tát Quảng Khâm tạm về cõi Tịnh Độ bên cạnh đức Phật A-Di-Đà, sau đó trở lại thế gian ô trược để hoá độ chúng sanh cùng về Lạc Quốc, đồng thành Phật đạo .

tangbong kinhle

Re: Siêu độ vong linh – hộ trì chùa được bình yên

Đã gửi: 07/05/09 08:31
gửi bởi thichtambinh1985
HỒI KÝ VỀ HOÀ THƯỢNG QUẢNG KHÂM
Tông Ngang

1. Gặp Hoà thượng lần đầu tiên.

Gặp lần thứ hai như “ tìm được bảo vật”.

Tôi được gặp Hoà thượng lần đầu vào năm 1976. Lúc đó Ngài không giảng dạy gì, chỉ bảo chúng tôi tinh tấn niệm Phật. Người bạn đồng học ở BAN VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG thuộc TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ cùng đi với tôi cảm thấy vô cùng thất vọng. Theo lời loan truyền, Hoà thượng là một nhân vật truyền kỳ, nhưng khi hội kiến thì thấy bình thường, không có gì khác lạ. Chúng tôi không ngại xa xôi mà đến, nhưng khi trao đổi với Người vài câu đều lấy làm thất vọng. Trong bọn tôi có một anh tự cho mình học rộng biết nhiều, nói : “ Hoà thượng già một chữ không biết, có thể dạy được gì ! “ Chúng tôi mê muội nên trong bụng cũng nghĩ như vậy, - như người có mắt hỏi đường người mù thì biết được gì ! Thế là hứng chí khi đến, cụt hứng khi về.

Năm sau tôi tham gia Hội niệm Phật do Hoà thượng Sám Vân tổ chức ở Đài Bắc trong bảy ngày. Ngài Sám Vân rất mực kính trọng Hoà thượng Quảng Khâm. Sau khi mãn khoá niệm Phật, một đoàn đông đảo bảy, tám chục ngừơi lên chùa Thừa Thiên thăm viếng Hoà thượng. ( Lúc bấy giờ chùa Thừa Thiên xây cất rất đơn sơ, chỉ có vài phòng tăng, không huy hoàng tráng lệ như ngày nay).

Nơi phương trượng của Hoà thượng, cả trong lẫn ngoài người ta đông nghẹt. Có người đến để xin chỉ dạy, có người vì hiếu kỳ mà đến, cũng có kẻ lên núi chơi tiện đường ghé lại.

Hoà thượng ngồi trên ghế mây, im lặng ; Pháp sư Sám Vân bước vào, hướng dẫn đoàn tới đảnh lễ Hoà thượng, sau đó mọi người ngồi xuống trên nền đất. Pháp sư Sám Vân và Hoà thượng thăm hỏi nhau xong, cả phượng trượng yên lặng . . . Hoà thượng thần sắc tươi vui, có vẻ người rất hài lòng. Thấy tất cả im lặng, người nhìn đại chúng hỏi :
“ Các vị đã hoàn mãn tuần niệm Phật, đã tìm thấy bảo vật, được của báu nên đưa ra phụng hiến, .. . nào nói đi chứ ! ”
Nghe Hoà thượng nói như vậy ngừơi này nhìn ngừơi kia như bảo nhau : được của báu không phải là tôi, vị nào được của báu vậy ? mau trình ra, không thì thật là xấu hổ ! Sau một hồi đưa mắt hỏi nhau, rốt cuộc chúng tôi – hàng ngay bàn chuyện trời đất, giảng kinh nói pháp làu làu – đến lúc này chẳng ai thốt ra được nửa lời kinh kệ .


Trong khi mọi người im lặng, không khí trở nên nặng nề, bỗng nhiên có tiếng Nam-mô A-Di-Đà Phật ” từ miệng một tỳ kheo ni phát ra, mọi người liền quay đầu lại chăm chú nhìn vị tỳ kheo ni trẻ tuổi, xem xem vị thần thánh nào thốt lên như sư tử hống vậy ! Rồi lại đưa mắt nhìn về phía Hoà thượng, xem Ngài ứng xử thế nào. Chỉ thấy Hoà thượng lắc đầu chỉ tay vào một em bé trước mặt nói :
- Câu ấy em bé ba tuổi cũng có thể nói được .

Tiếp đó, không khí trở lại trầm lặng như trước, chỉ thấy Hoà thượng, qua đôi mắt sáng chiếu tựa hồ như dò hỏi ai là người giấu của báu mà chẳng trình ra cho người khác xem, - người đó là ai ?
- Nào, nói đi . . . nói đi chứ !

Hoà thượng như một lão tướng từng trải trăm trận, binh đến dưới thành, lão tướng đích thân chỉ huy .

Trườc ánh mắt long lanh và giọng nói kiên quyết thúc bách của Hoà thượng ai nấy bặt tiếng như ve mùa đông, cảm thấy hơi thở mình dồn dập. Lúc ấy tôi mới nhận ra, đây không phải là thư sinh luận chiến mà đúng là giữa chiến trường đầy gươm giáo. Nếu không thực sự tôi luyện công phu ắt không đủ bản lĩnh để xông pha trận mạc.

Có vị tỳ kheo ngồi phía trước, như bị Hoà thượng để mắt chú ý làm cho thân thể mất tự nhiện ; vị tỳ kheo động thân … đắn đo vài giây … rồi như kẻ “ dấu đầu lòi đuôi ”, trình ra bài kệ :

Quá khứ tâm bất khả đắc
Hiện tại tâm bất khả đắc
Vị lai tâm bất khả đắc .


过去心不可得
现在心不可得
未来心不可得

Hoà thượng nghe xong nét mặt vẫn điềm nhiên, nói :
- Chúng ta đóng cửa lại nói với nhau, ta không nên cho rằng chiếc áo này ( Người chỉ chiếc áo tu sỹ trên mình ) tùy tiện mà mặc được, mặc chiếc áo này một cách chân chính không phải là dễ !

Sau đó bầu không khí lại một lần nữa tĩnh lặng. Hoà thượng thấy mọi người không ai còn trình ra của cải gì nữa, Người vẫn với ánh mắt sáng nhiếp phục, vui vẻ hiền từ nói :
- Người xưa “ đả Phật thất ” [ niệm Phật bảy ngày ] đúng kỳ thì chứng nghiệm, nếu đúng kỳ hạn mà không chứng nghiệm hoá ra “ nhờ Phật để có ăn ” hay sao ? ( tức là mượn cớ niệm Phật để được ăn cơm) . – Dừng lại vài giây Hoà thượng nói tiếp :
- “ Đả Phật thất ” mà mong được cái gì như vật báu là tham. Mọi người đến đây với tôi, cứ tưởng có được cái gì đó mang về, ấy cũng là tham .”

Người chưa dứt lời, tận cuối phòng có hai người rỉ tai nhau, có vẻ như nói lén rằng “ chúng mình không tìm được bảo vật, Hào thượng bảo đưa bảo vật ra xem, Hào thượng có bảo vật mà còn đòi bảo vật của chúng ta, ấy chẳng phải là hai lần tham ? ” Lời rỉ tai vừa xong, Hoà thượng như biết mà không để ý, nói tiếp :
- Nếu ai nghe mà hiểu lời tôi nói, thì bảo vật đặt trước mắt ắt lấy được ngay; còn nghe mà không hiểu, không nhận ra, thì dù có hai tay bưng dâng trước mặt cũng chẳng có được gì . . .

Hoà thượng nói chưa dứt lời bổng có một người trẻ tuổi nói :

- Xin thưa, Hoà thượng có lần chuỗi hạt không ?

- Không !

Thấy Hoà thượng không đeo tràng hạt anh ta cụt hứng, nhìn sang Pháp sư Sám Vân bên cạnh tay đang lần chuỗi hạt niệm Phật, anh chuyển hướng nhắm mũi tên sang Pháp sư, lém lỉnh hỏi : “ Thưa Pháp sư, Ngài có lần chuỗi hạt không ? ” – Pháp sư đáp giọng chắc nịch :
- “ Có ! ”
Anh chàng thanh niên nói một cách tỉnh bơ :
- Ngài cho tôi tràng hạt. – Pháp sư đáp :
- Tôi đang niệm phật, không thể cho anh. Nếu tôi cho anh, anh không được vứt nó đi. – Anh thanh niên chìa tay ra nói xẵng:
- Đưa tràng hạt đây !
Tiếng nói như còn bên tai, bổng Hoà thượng chỉ thanh niên bảo :
- Hiện anh đang niệm đấy !
Tức thì anh chàng thanh niên nọ mất hẳn khí sắt kiêu ngạo, im lặng không nói lời nào .
Hai vị Pháp sư đã đồng diễn “ quảng trường thiệt ” [ lưỡi Phật ], từ không nhập có; từ có nhập không, phối hợp có-không chặt chẽ, sự việc diễn ra làm cho mọi người vô cùng tán thán .

Re: Siêu độ vong linh – hộ trì chùa được bình yên

Đã gửi: 07/05/09 08:37
gửi bởi thichtambinh1985
2. Chúng sanh bệnh , Pháp sư cũng bệnh

Vào khoảng năm 1978, nghe nói Hoà thượng pháp thể suy yếu, Người tỏ ý muốn vãng sanh Tây Phương, đại chúng trong chùa rất lo lắng, mời lương y lên núi bắt mạch cho Hoà thượng. Người không muốn làm náo động đại chúng, tăng chúng khẩn cầu đôi ba lần Người mới miễn cưỡng để cho bác sỹ chẩn đoán. Sau khi cẩn trọng xem mạch cho Hoà thượng bác sỹ tỏ vẻ rất ngạc nhiên, ông ta bắt mạch nhiều lần…, vừa như lắng nghe vừa như trầm ngâm suy nghĩ, cuối cùng phát biểu : “ Mạch của Hoà thượng hoàn toàn không giống mạch người thường, nhưng không chẩn đoán ra bệnh gì”. Hoà thượng mĩm cười chỉ chúng đệ tử đang quỳ trước mặt, nói với lương y :

- Họ đều có bệnh, tiện thể nhờ xem mạch cho họ luôn.

Ai nấy đều lấy làm lạ nhìn Hoà thượng, nhưng cùng mỉm cười cảm thấy trong lòng bớt lo. Sự việc có vẻ giống như trong kinh Tịnh Danh, khi ngài cư sỹ Duy Ma nói : “ Chúng sanh có bệnh, tôi cũng có bệnh ! ”. Theo lời vị Pháp sư trong chùa thì Hoà thượng có lần bảo rằng khi Người vãng sanh Người sẽ thị hiện bệnh tướng, cõi Ta-bà quá khổ, chần chừ ở đây chịu sao nổi ?

Nghe tin Hoà thựơng bệnh, mọi người theo nhau lên núi thăm. Pháp sư Sám Vân cùng chúng đệ tử cũng vội vàng lên núi “ thỉnh Phật trụ thế ”. Khi chúng tôi gặp Hoà thượng thấy Người đang ho từng cơn, ho xong lại khạc nhổ, nhưng chẳng thấy nhổ ra vật gì. Có lúc Người nói một câu mà phải dừng ngắt mấy lần, cơ thể rung giật theo từng cơn ho, ai nhìn thấy cũng xót xa. Ngài Sám Vân và đại chúng đồng thanh khẩn cầu Hoà thượng từ bi nghĩ đến chúng sanh đau khổ, trụ thế thêm vài năm nữa. Hoà thượng nói Người không thể tự làm chủ được, thân xác Người như ngôi nhà gạch mục nát, dù có gắng gượng duy trì thì chỉ một cơn gió to ập đến cũng không thể nào chịu nổi, chi bằng đi sớm một chút, hoán chuyển một thân thể “ chắc như xi măng cốt thép ” mà trở lại mới có thể hoằng pháp lợi sanh. Nghe thế ai cũng hết sức năn nỉ, vì nếu Người có trở lại thì ít nhất cũng phải mất hai mươi năm, trong hai mươi năm ấy chúng sanh biết nương tựa vào ai; thiết tha xin Người ở lại thêm vài năm nữa. Hoà thượng bảo đơn điền của Người đã hết khí lực, nói không ra tiếng mong gì đáp ứng nhu cầu của chúng sanh, gắng gượng ở lại cũng vô nghĩa. Mọi người lại van xin Hoà thượng lưu lại, chỉ cần Người yên tĩnh ngồi đó, vô hình trung cũng đủ làm tăng trưởng niềm tin cho đại chúng. Cứ như thế, mỗi người góp một câu… cho đến giờ ngọ trai mà Người vẫn tỏ ý không trụ thế nữa. Pháp sư Sám Vân quyết định tổ chức “ Tuần niệm Phật Dược Sư tiêu tai diên thọ ” (Tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật Thất ) tại chùa Thừa Thiên để cầu an cho Hoà thượng, sau đó Pháp sư bước vội sang trai đường .

Trong lòng ai nấy đều mang tâm trạng bất an. Thế rồi đang giữa giờ cơm, một vị tỳ kheo ni vẻ mặt hớn hở tới trước ngài Sám Vân thưa nhanh : “ Kính bạch Pháp sư, Hoà thượng nhận lời không đi, lại còn mời Pháp sư khai khoá ‘ Đả Phật Thất ‘ [ Tuần niệm Phật bảy ngày ], có điều là Hoà thượng bảo tốt nhất nên khai khoá niệm Phật A-Di-Đà “.

Mọi người nghe nói đều mừng rỡ, bất luận là khoá lễ niệm Phật Dược Sư hay niệm Phật A-Di-Đà đều được cả, miễn sao Hoà thượng chịu ở lại là qúy nhất. Lúc ấy ai cũng ăn ngon miệng, trút hết nỗi ưu uất bất an từ trước. Có người sốt ruột, lên lầu xem bệnh tình Hoà thượng thế nào, thấy Người đang ung dung đi tản bộ bên ngoài phương trượng . . .

Đó là nhân duyên Pháp sư Sám Vân mở “ Tuần niệm Phật ” ở chùa Thừa Thiên và cũng là nhân duyên chúng tôi được gần gũi Hoà thượng, được biết thêm về cuộc đời của Người .

3. Một cuộc sống nghèo khổ ;
một cuộc lữ hành gian nan


Hoà thượng Quảng Khâm sanh ngày 26 tháng 10 âm lịch, năm Quang Tự thứ 18 (1892), đời nhà Thanh. Người họ Ngô, quê huyện Huệ An, phủ Chương Châu, tỉnh Phúc kiến. Gia đình rất nghèo, lúc Người lên 3-4 tuổi, ông anh cả cưới vợ mà không có tiền, Người bị đem bán cho gia đình họ Lý ở Tuyền Châu, huyện Tấn Giang. Nhà họ Lý làm nghề nông, trồng cây ăn trái trên sườn núi tạm sống qua ngày. Cha mẹ nuôi không có con nối dõi nên xem Người như con ruột. Lúc nhỏ Người rất yếu đuối và nhiều bệnh tật. Cha mẹ nuôi rất lo lắng, để cầu an cho con, họ bèn theo tập tục dân gian đem Người đến ngôi chùa Quan Âm gần đó khấn dâng cho Bồ Tát Quan Âm làm con nuôi. Việc làm này chính là nhân duyên trọng yếu của Người đối với Bồ Tát .

Người vốn có tuệ căn tiền kiếp, do vì mẹ nuôi ăn chay nên năm lên bảy cậu bé cũng tự nguyện nhất định ăn chay theo mẹ. Đến năm 1900 , cậu lên chín tuổi, bất hạnh mẹ nuôi qua đời, hai năm sau cha nuôi cũng tạ thế. Trong một thời gian rất ngắn vô thường đã cướp đi những người thân yêu nhất. Cậu bé tứ cố vô thân, không còn nơi nương tựa, thể lực lại yếu đuối, côi cút giữa cõi đời không biết đi về đâu ! Đợi khi an táng cha mẹ cậu xong, những người bà con sắp xếp cho cậu đi Nam Dương sinh sống. [ Nam Dương : chỉ chung các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông . ND ]

Ban đầu Người đi làm thuê như quét dọn, nấu cơm cho tiệm buôn để đủ sống qua ngày. Tuổi lớn dần, thân thể và khí lực tăng trưởng, Người nhập theo thiên hạ kết đội lên núi đốn cây mở rừng, tuy rất vất vả nhưng kiếm khá nhiều tiền và tương đối tự do .

Một hôm, chiếu theo tiền lệ, đến thời gian giải việc ra về ; trong lúc ai nấy chuẩn bị lên “ xe đẩy ” để xuống núi Người bỗng trực giác biết ngồi xe như vậy không an toàn, liền cảnh báo mọi người không nên đi xe. Nhưng vì ai cũng nôn nóng về sớm, cho lời nói của Người là vu vơ, không ngờ chiếc xe đẩy sau đó bị tai nạn lật lăn xuống hố. Ai cũng cho là điều kỳ lạ. Ở trên núi tuy Người làm việc rất cực nhọc nhưng vẫn giữ một mực ăn chay. Sau khi xảy ra biến cố ấy người ta nửa đùa nửa thật bảo : “ Anh đã kiên trì ăn chay như vậy, lại biết trước việc như thần sao không trở về lại Tuyền Châu đi tu ? ” Đó chỉ là lời nói đùa, nhưng Người tỉnh mộng ! Hồi tưởng lại cha mẹ nuôi lúc sinh tiền đang tuổi tráng niên mà chết là chết, mình đây sớm muộn gì cũng phải đi theo con đường ấy ! Sao lại phải đi con đường lẩn quẩn ?

Thế là Người thu xếp hành trang trở lại cố hương, quyết chí xuất gia .

Re: Siêu độ vong linh – hộ trì chùa được bình yên

Đã gửi: 07/05/09 08:47
gửi bởi thichtambinh1985
4. Hai mươi tuổi xuất gia ,
quyết tâm tu khổ hạnh .


Năm 1911 Sư 20 tuổi, vào chùa Thừa Thiên phủ Tuyền Châu xin xuất gia. Thừa Thiên Thiền Tự là một ngôi chùa của đế vương, rất cổ kính. Tương truyền chùa này xây vào thời vua Anh Tông, niên hiệu Chánh Thống nhà Minh (1436 – 1449) cách đây trên 500 năm, đất rộng 36 hecta. Lúc bấy giờ có một vị Cần Vương sinh dã tâm, thấy nơi này phong thuỷ cực tốt và đất rộng, mưu đồ chiếm lấy để dựng cơ nghiệp đế vương. Nhưng trong điện thiếu nước, theo phép thuật trong một đêm phải đào cho được 100 cái giếng, nếu không thì nghiệp đế chẳng thành. Cần Vương bèn chọn ngày tốt và tuyển thợ đào giếng . . . , thấy nước vọt lên ông ta rất mừng, không ngờ ào đến cái 99 thì gà gáy sáng, mặt trời ló dạng; ông ta hoảng hốt toát mồ hôi lạnh, chỉ vì một cái giếng chót chưa xong mà nghiệp đế trong giây phút trở thành bào ảnh. Cần Vương than tiếc tự biết phước đức không đủ, bèn đem phụng hiến để làm chùa đặt tên là Thừa Thiên Thiền Tự .

Chúng tôi dường như có duyên nên nới đến chùa Thừa Thiên tham quan. Thấy bảng tên chùa chung quanh chạm hoa văn hình rồng, trên có hai chữ “ Sắc Tứ ”, chính giữa bốn chữ lớn “ Thừa Thiên Thiền Tự ” đứng xa cũng có thể đọc được. Không thể nào qua tấm biển trên cửa chùa mà biết được truyền thuyết nói trên là thật hay giả; dù sao nhờ sự tích ấy mới rõ chùa có nguồn gốc lâu đời : truyền thuyết thì đượm màu sắc thần bí và trong chùa thì còn lại rất nhiều di tích cổ . Hai bên con đường lát đá cổ kính có hai tháp cao sừng sững, một trong hai cái là “ Tháp Phi Lai ” mang tính truyền kỳ. Hai tháp quy mô cân xứng đối diện nhau ; tuy bề ngoài giống nhau nhưng Tháp Phi lai quanh năm sạch sẽ một hạt bụi cũng không bám, còn tháp kia đầy dẫy những phân chim, bụi đắp như trát phấn, thấy mà chẳng nỡ nhìn. Khách hành hương đến đây ai cũng dừng lại suy nghĩ, không hiểu lý do vì sao như vậy. Chùa này có tám cổ tích, như “ Nguyệt đài đảo ảnh ” (Bóng trăng phản chiếu), “ Thạch quy thực mễ ” (Rùa đá ăn gạo), “ Sư tử thổ yên ” (Sư tử phun khói ), “ Thạch mai hoa hương ” (Hoa mai đá tỏa hương thơm), “ Nhất trần bất nhiễm ” (Một hạt bụi không dính), “ Long Vương Tỉnh ” (Giếng Long Vương), “ Anh ca thổ vụ ” (Anh Vũ phun sương). Thiên hạ ai cũng thích nói đến những kỳ quan sống động ấy. Tiếng đồn càng lan xa càng làm tăng thêm tính chất thần kỳ .

Ngày nay người ta chỉ còn ngậm ngùi hoài cổ, không biết căn cứ vào đâu để khảo chứng. Duy những cái không bị huyền thoại làm biến dạng đó là kiến trúc hùng vĩ, trong chùa có Thiền đường, Niệm Phật đường, Pháp đường, Tổ đường, Khách đường hoành tráng, Đại Điện có thể chứa ngàn người, tăng chúng thường trú có hơn 600 người, quả là một “ Tòng lâm cổ sát ” oai nghi .

Khi chưa vào tu trong chùa Thừa Thiên, Sư đã tự nhủ lòng : mình phước đức còn kém, nếu xuất gia tu chưa đắc đạo mà nhận của thập phương cúng dường một cách rộng rãi, e rằng không báo đáp nổi khiến cho đạo nghiệp khó thành. Do vậy, trước khi vào chùa Sư quyết chí rèn luyện giảm ăn bớt ngủ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây chứ không ngủ nghỉ trên giường chiếu, giữ được như thế rồi mới xuất gia làm tăng. Sau khi xuất gia, Người quyết tâm khổ hạnh, ăn những món mà Người khác không thèm ăn, làm những việc mà người khác không muốn làm. Chùa Thừa Thiên lấy tám chữ “ Phật Hỷ Chuyển Thụy Quảng Truyền Đạo Pháp ”

(佛喜转瑞广传道法)

để truyền thừa Pháp mạch. Lúc bấy giờ vị trụ trì chùa Thừa Thiên là Ngài Chuyển Trần , còn Sư Quảng Khâm là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương – tu khổ hạnh. Từ chỗ đó mà biết được sở nguyện của Người.

Pháp sư Thụy Phương tu khổ hạnh quá khắc khổ nên đã viên tịch lúc còn trẻ tuổi. Sư Quảng Khâm tuy là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương nhưng được sự dạy dỗ của Hoà thượng Chuyển Trần. Hoà thượng biết căn cơ Người thâm hậu, về sau ắt sẽ là long tượng của pháp môn, do vậy mà Hoà thượng khẩn thiết sách tấn và thường xuyên trực tiếp chỉ dạy cho Người .

Một hôm đại chúng đi lao động ngoài triền núi, đến gần trưa sắp trở về chùa thì nghe tiếng bản gõ báo ngọ trai. Vì chùa đông người thực phẩm cung ứng khó khăn nên thường ngày phải hạn chế trong khẩu phần ăn uống. Bữa ăn lỏng bỏng không đủ chất dinh dưỡng, chúng lại phải ra sức làm việc trên đồi núi, ai nấy đều đói đến đầu óc choáng váng, cho nên khi nghe báo giờ ăn mọi người chẳng màng thu dọn dụng cụ đua nhau về trai đường. Lúc đó Người cũng muốn mau theo chúng tăng về trai đường nhưng bị Hoà thượng Chuyển Trần gọi lại bảo phải gom hết dụng cụ trả lại chỗ cũ. Lúc đó Người đã rất đói bụng, tay chân bải hoải, hai mắt lờ đờ mất thần. Tuy vẫn thu dọn đồ đạc nhưng trong lòng chán ngán, nghĩ bụng: làm việc vất vả như thế này, ăn cơm thì toàn rau, lại phải chịu cảnh như vầy, sao mà khổ quá ! Tâm sân liền khởi, “ bất kể ba bảy hai mốt ”, “ Hòa thượng cũng chẳng thèm làm ”, thẩn thờ bước đi ra ngoài núi . . . Đi chẳng bao xa, lòng thổn thức : “ Chẳng phải vì ta đã quyết chí tu khổ hạnh ngõ hầu thoát khỏi luân hồi sinh tử nên mới xuất gia hay sao ? Nay chỉ vì một chút khổ nhọc cỏn con mà nao núng chí khí, há chẳng phải là làm trái với ý nguyện ban đầu ? ” Ngay sau tiếng nói tự đáy lòng ấy Ngừơi bỗng thấy ý chí vươn cao, lập tức sự mệt mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến trước Hoà thượng Chuyển Trần xin nhận chỉ thị. Hoà thượng cho phép Người theo chúng vào trai đường và dặn dò một câu : “ Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về sau con sẽ rõ.” Từ đó về sau Người càng khắc khổ tự rèn, chẳng dám khởi niệm thoái chuyển.

Người từ nhỏ chưa từng được giáo dục, ngay cả chữ viết to cũng chỉ đọc được năm ba chữ; không biết giảng kinh cũng chẳng rành gõ mõ tụng niệm, thường bị người khác xem thường, tự mình cũng cảm thấy buồn bực. Nghĩ trong lòng: tuy đã nhịn ăn, nhịn ngủ, nhịn mặc nhưng không có cách gì để trên thì đền ơn Tam bảo, dưới thì hoá độ chúng sanh ! Thế là Người quyết tâm gieo phước để báo ân.

Hàng ngày đợi đại chúng ăn xong Người lượm những hạt cơm rơi rớt trên bàn, dưới đất, không rửa hay nấu lại, cứ để vậy mà ăn. Nếu có các bậc Đại đức Cao tăng từ xa đến, Người hầu trà, dâng nước rửa mặt, khăn tay, giày dép, đổ nước bẩn đã giặt rửa . . . Tất cả các việc nặng nhọc như khuân vác, bửa củi, nấu cơm, lau chùi, quét dọn . . . Người đều cật lực đảm đương mà không một tiếng than phiền .

5. Thường ngồi không nằm ,
Niệm Phật chứng đạo


Người làm việc nặng nhọc, tu phước trên mười năm, sau được giao lo việc hương đèn. Mỗi ngày thức khuya dậy sớm trông lo Đại Điện qua các việc như hương, đèn, hoa, quả cúng Phật; đồng thời đánh bản báo thức chúng dậy tu tập. Có lần Người ngủ quên, đánh bảng trể 5 phút, tự nói trong lòng rằng 600 người cùng tu, mỗi người trễ 5 phút, cộng lại hơn 3000 phút, hậu quả này làm sao gánh nổi ! Bèn quỳ trước cửa chánh điện sám hối với mọi người. Người có tinh thần trách nhiệm rất cao, tự trách lỗi mình rất nghiêm khắc, từ đó về sau ngày ngày Người ngồi trước Phật đài, không dám lơ đễnh; vì trong lòng luôn cảnh giác một đêm Người thức dậy năm sáu lần, do quá thận trọng mà nửa thức nửa ngủ, để rồi mặc nhiên trở thành người “ không hề đặt lưng lên đơn ” .

Năm 1933 Người đã đến tuổi trung niên mà vẫn chưa thọ cụ túc giới. Từ ngày xuất gia cho đến nay đã được hai mươi hai năm rồi ! Sở dĩ Người trì hoãn việc thọ giới là vì nghĩ mình chưa đủ đức hạnh để gánh vác sự nghiệp của Như Lai, sợ rằng trên thì lừa đối Phật dưới thì gạt gẫm chúng sinh; ngoài thì bội thầy phụ bạn, trong thì phụ chính bản tâm. Mãi đến khi tinh tấn hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chứng được niệm Phật tam-muội Người mới dám tự nguyện gánh vác sự nghiệp Như Lai, đến chùa Long Sơn thọ đại giới, từ đó vân du tự tại. Người ta cho rằng nhờ theo phái thiền Lâm Tế mà Ngừơi chứng đắc, thực ra trước đó Người đã nhờ niệm Phật mà chứng Tam-muội, sau mới tham thiền. Cảnh giới mà Người thấy khi hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chúng ta chỉ biết được đôi chút nhờ cuộc đối thoại giữa Người với một ngoại kiều. Người chơn chất khiêm cung trả lời thắc mắc của đồng đạo ngoại kiều từ xa xôi đến : “Lúc bấy giờ, trong tiếng niệm Phật bỗng nhiên thân tâm trở nên tịch tĩnh như đang ở trong cảnh giới xa lạ; mở mắt thấy hoa nở-chim hót, gió thoảng-cỏ lay, tất cả đều hoà nhập với tiếng niệm Phật–niệm, Pháp-niệm Tăng . Trạng thái này kéo dài liền trong ba tháng không gián đoạn ”.

Trong “ Kinh Phật nói về A-Di-Đà ” có đoạn :” Lại nữa, này Xá Lợi Phất, cảnh giới ấy thường có các loài chim kỳ diệu đủ màu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca-lăng-tần-già cùng chung sống. Các loài chim này ngày cũng như đêm cùng cất tiếng ca thanh thoát, âm thanh diễn tả tuyệt vời các pháp ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Chúng sanh trong cõi đó nghe hoà âm như vậy rồi, tất cả cùng niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng ”.

Lại nói: “ Này xá Lợi Phất, cõi Phật ấy gío nhẹ thoảng lay, các hàng cây báu cùng các mạng kết bảo châu phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng thời trổi lên, ai nghe âm thanh ấy cũng đều phát tâm niệm Phật-niệm, Pháp-niệm Tăng ”.

Lại nói trong kinh chiếu ứng với cái thấy của Người. Đức Phật từ bi, Sư phụ từ bi, tuy là miêu tả một cách sơ lược nhưng đối với hạng phàm phu chúng ta nghe như tiếng sét bên tai, như tiếng sấm vang rền. Ai cũng không thể làm ngơ giả điếc giả câm. Lời Phật dạy trong kinh, điều Sư phụ thể chứng chơn thật từng câu từng chữ. Vậy đối với pháp môn niệm Phật lẽ nào ta chẳng có niềm tin sâu sắc ?

Sau khi chứng nghiệm, Người quyết chí tìm nơi ẩn tu để thể hiện pháp thân tự tại, rồi được sự đồng ý cùng mấy lời dặn dò của Hoà thượng Chuyển Trần Người đến chùa Hưng Hoá thọ giới. Sau khi thọ giới trở về, chuẩn bị đi ngay vào núi tu khổ hạnh. Hoà thượng Chuyển Trần biết Người công phu chắc thực, long tượng sơ lộ, bèn đồng ý cho Người lên núi tu một mình. Khi lên núi, hành trang chỉ có 4 bộ quần áo đơn sơ để thay đổi mỗi khi cần giặt giũ và độ hơn 10 cân gạo; nhưng lòng chứa chan hy vọng, Người lên thẳng núi Thanh Nguyên phía sau chùa Thừa Thiên, chuẩn bị một cuộc sống “mai danh ẩn tích”.

6. Ẩn tu trên núi Thanh Nguyên
ầm vào hang cọp


Núi Thanh Nguyên phía bắc Thổ Thành là một hòn núi hoang vu cỏ cây rậm rạp, không có người ở, rừng cây dày đặc. Núi này nối tiếp núi kia, trông từ xa như ruông sắp theo bậc thang. Men dần theo sườn núi mà lên, núi này cao hơn núi kia. Hòn núi sau thì cao và có nhiều cây, người dân địa phương nhờ đó làm nghề đốn củi để sinh sống dần dần lập thành thôn xóm, trong núi có con đường nhỏ thông đến Thổ Thành. Người dân ở đây thường theo con đường này đi vào Tuyền Châu bán củi. Tương truyền các cổ thành ở Đại Lục đều lấy kinh tuyến Bắc-Nam làm chuẩn. Phương vị của Phủ Thành theo hướng chính Bắc-Nam, biểu thị chính tâm, chỉ ra cho thấy công việc của quan phủ doãn cũng phải trung chính như phương vị của Thổ Thành vậy, - không một chút thiên lệch, Thành Tuyền Châu cũng xây dựng theo đạo lý của cổ thành.

Sư ra đi từ tờ mờ sáng với ý định lên núi Thanh Nguyên tìm động kín đáo để tu. Khi đến chỉ thấy núi non trùng điệp, núi trước hoang vu rậm rạp không một bóng nhà, núi sau thì rừng cây dày đặc. Sư từng nghe nói trên núi nơi nào cây cỏ rậm là chỗ ở của cọp, núi có cây thì có người sinh sống; vì núi có cây thì nhiều chim muông nên lắm phân chim, cọp sợ phân chim làm bẩn da nên thường tránh xa rừng cây mà đến nơi cỏ rậm. Sư nghĩ : “ Ta ở núi tu hành, phải tránh người như cọp tránh phân chim, cọp vì vằn trên thân mà phải trốn trong cỏ rậm, ta vì ngộ đạo mà ẩn trốn vào núi sâu ”. Thế là Người không màng để ý đến chuyện cọp và người gặp nhau phải ứng phó ra sau, chỉ chú ý đến việc tu hành phải tìm nơi an toàn để trú ẩn.

Lúc bấy giờ Sư còn sức khoẻ mà phải đi từ sáng sớm cho đến quá ngọ mới đến chân núi. Vì vách núi dựng đứng đường lên núi rất khó đi, chỉ còn cách cởi bỏ dép, tay chân bám vào vách núi lần lần bò lên. Lên chưa được bao xa, bỗng thấy có hòn núi nhỏ mà bằng đầu áp mình vào một hòn núi khác trông vẻ kín đáo. Đến nơi thấy một cái động rộng khoảng 5, 6 thước [TQ] có hai lối ra, một bên cao ước bằng thân người đứng, còn một bên thì phải khom người xuống mới ra vào được. Trong động có một chỗ rất bằng phẳng, chung quanh rộng rãi. Sư mới lên núi lần đầu cảm thấy rất mệt mỏi bèn cởi bỏ hành lý, ngồi nghỉ trên một tảng đá. Được xa lánh chốn thành thị huyên náo bổng nhiên thân tâm nhẹ nhàng chưa từng thấy. Sư vào trong động sắp xếp qua loa, an trụ hai ba ngày trong thanh tịnh vô ưu, cảm thấy an vui tự tại.

Một hôm, như thường lệ Sư ngồi thiền trong động, bỗng nghe mùi tanh nồng nặc theo gió bay vào, Sư rất lấy làm lạ. Trong bối cảnh mơ hồ dường như có vật gì to lớn lần bước vào trong động, Sư mở mắt nhìn kỹ, không ngờ đó là một con mãnh hổ. Trong lúc hoảng hốt Sư thốt lên “A-Di-Đà Phật ”. Mãnh hổ cũng bất ngờ nơi ở của chúa sơn lâm lại có tiếng “ sư hống ”, nó kinh hãi vụt tháo chạy. Sau phút kinh hồn nó lấy lại tinh thần, vươn mình đi tới, từng bước từng bước tiến vào động … thình lình gầm lên một tiếng, trợn mắt nhìn Pháp Sư.

http://www.thuvienhoasen.org/hoathuong- ... -02.htm#08