Chương II
Vị Tỳ Kheo Nghiêm Trì Giới Luật Cẩn Mật và Đại Hành Giả Lỗi Lạc Chân Tu Thật Chứng Có Trí Huệ Quảng Đại, Bác Học Đa Văn
Lúc Đại Sư được ba tuổi, người cha thỉnh mời ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết (Dhondup Rinchen) đến nhà thọ trai. Nào ngờ, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết mang đến tặng gia đình Đại Sư cừu ngựa và rất nhiều tài vật khác, cùng xin để Ngài giáo huấn và nuôi dưỡng Đại Sư luôn. Được biết ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết vốn là một vị đại thành tựu, nếu con mình được Ngài dạy bảo thì bội phần lợi ích, nên thân phụ Đại Sư hoan hỉ nhận lời. Từ đó cho đến năm mười bảy tuổi, Đại Sư hoàn toàn y theo ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết mà tu học Hiển-Mật giáo pháp.
Thiên tánh của Đại Sư vốn thông minh mẫn tiệp, siêu quần bạt chúng (1). Đối với tất cả kinh điển chưa từng học tập, chỉ cần suy gẫm đôi chút là đọc tụng trôi như nước chảy, không có ngăn ngại. Thấy rõ như thế, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết rất vui mừng. Để giúp cho trí huệ của Đại Sư sớm được khai mở, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết đặc biệt truyền dạy Văn Thù Ngũ Tự Minh cùng pháp Diệu Âm Thiên Nữ.
Ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết biết rõ Đại Sư sau này nhất định sẽ chứng quả Bồ Đề, chuyển đại pháp luân, tức là trở thành bậc đại y vương trong Phật giáo, và được chúng sanh nương tựa quy y. Vì vậy, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết nhất tâm nhất ý dạy dỗ, hỗ trợ Đại Sư; bất luận Hiển giáo hay Mật giáo, đều truyền dạy hết. Do đó, lúc vào Tây Tạng, Đại Sư đã có đủ tư lương của ba môn văn, tư, tu, để làm nền tảng cho sự tu học thành công sau này.
Về sau, mỗi lần nhớ đến ân đức của ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết, Đại Sư rơi lệ nói:
- Ân đức của tôn sư Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết thật thâm sâu vô cùng. Lòng từ ái của cha mẹ làm sao sánh bằng!
Đại Sư được ví như một đóa hoa Ô Ba Lạp hy hữu xuất hiện trên thế gian. Những trẻ em đồng lứa, thường thích nô đùa chơi giỡn. Tuy nhiên, Đại Sư lại thích ở những nơi tịch tĩnh. Những trò chơi của chúng bạn không thể lôi kéo được Đại Sư. Tánh khí thoát tục, thái độ trang nghiêm, Đại Sư tựa hồ như đang sống tại một cảnh giới phi phàm. Thường thường, Đại Sư im lặng tĩnh mặc, ngồi thiền yên tịnh suốt cả ngày. Tuy nhiên, một khi mở lời thì nói thao thao bất tuyệt, hàm chứa đầy đủ trí huệ vô biên.
Lòng đại từ bi của Đại Sư xuất phát từ nội tâm, như suối nguồn chảy vô tận. Mỗi lần thấy ai bị khổ nạn, tâm của Đại Sư đau xót như thân bị dao cắt. Nếu có đủ khả năng, Đại Sư nhất định giúp đỡ hết mình. Nếu vượt ngoài khả năng, Đại Sư cũng khẩn thành phát nguyện, hết lòng hồi hướng cho họ.
Đại Sư cung kính Tam Bảo, có thể bảo rằng tự phát xuất từ bẩm tánh, chứ không do ai dạy bảo chỉ dẫn.
Thời niên thiếu, đối với những việc ở thế tục, Đại Sư cảm thấy rất chán chường. Sống nơi nhà thế tục ví như thân bị giam trong lao tù, hầm lửa, hang rắn, nên không có chút an lạc. Tất cả mọi việc trong ba cõi đều là khổ, không, vô thường, dễ tan hoại. Đối với thế gian vô thường hư huyễn như sấm chớp chợt tụ chợt tán, Đại Sư luôn luôn có bầu nhiệt huyết cầu mong xuất ly ra khỏi. Đại Sư lại cảm thấy thế gian là nơi có bao đau khổ thống thiết vô tận. Chúng sanh bị năm món dục lạc làm mê mờ nên khiến gây bao tội ác. Càng đuổi theo năm món dục để hưởng thụ, thì càng bị rơi vào hố sâu khổ ải. Tham ái vốn là nguyên nhân, và là cội nguồn khiến gây nên biết bao tội ác. Vì vậy, muốn tránh mọi đau khổ, thì phải đoạn trừ tham ái. Muốn đoạn trừ tham ái, thì phải xả bỏ ân ái tạm thời ở thế gian mà xuất gia tu đạo. Mười phương ba đời chư Phật cũng do xuất gia mà chứng đạo Bồ Đề vô thượng.
Do đó, Đại Sư khất cầu cha mẹ cho phép xuất gia tu học. Vì tuổi quá nhỏ, nên ước nguyện chưa thành.
Chưa đến bảy tuổi, Đại Sư đã được ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết truyền cho pháp Đại Oai Đức Kim Cang, Thắng An Lạc Luân, Hoan HỶ Kim Cang, Kim Cang Thủ, v.v... cùng các pháp quán đảnh khác, và ban cho mật hiệu là Bất Không Kim Cang (2). Được pháp quán đảnh xong, Đại Sư y như pháp mà tôn thủ tất cả giới luật của Mật Thừa, giống như giữ gìn tròng con mắt, chẳng hề phạm giới nhỏ nhặt nào. Trong thời gian ngắn, Đại Sư đã nhớ hết các pháp Thắng Lạc Luân Kim Cang, HỶ Kim Cang, Đại Oai Đức Kim Cang, cùng những nghi thức bí mật. Ngày ngày Đại Sư đều tu trì, không hề gián đoạn. Những pháp Bổn Tôn khác, Đại Sư cũng lần lượt tinh cần tụng niệm, mà không bỏ qua.
Bấy giờ, tuy tuổi còn nhỏ, Đại Sư đã có khả năng tư duy đúng như giáo lý, và phát tâm đại Bồ Đề. Lúc tu trì, Đại Sư luôn nhất tâm bất loạn, chú ý tập trung tinh thần, tin tưởng kiên cố chắc thật vào Bổn Tôn, và khẩn thiết cầu nguyện. Tu tập tâm chú Văn Thù (ngũ tự minh) chẳng bao lâu, trên bảng đá trong phòng của Đại Sư có rất nhiều chữ Ộngũ tự minhỢ hiện lên rõ ràng, uyển chuyển như được viết.
Năm Đại Sư lên bảy tuổi, hai vị Bồ Tát Tý Kim Cang thường thị hiện trong mộng. Tôn giả A Để Sa (Atisa, 982-1054) vốn là bậc đại sĩ mà người Tây Tạng hằng quy kính, cũng hiện thân dạy đạo cho Đại Sư. Về sau, lúc vào Tây Tạng cầu tu học, Đại Sư đặc biệt đến lễ bái tượng của tôn giả A Để Sa, và nhìn thấy tôn tượng thật giống như vị tôn giả thị hiện trong mộng. Đây là điềm dự báo rằng về sau Đại Sư sẽ phát huy giáo pháp của tôn giả A Để Sa.
Do được nguyện ước xa rời ân ái thôi thúc mãnh liệt, có đầy đủ trí huệ thâm sâu, có tâm chán chường việc thế tục, cùng có khả năng làm lợi ích cho chúng sanh và khiến Phật pháp được trụ thế lâu dài, nên Đại Sư không ngừng hướng đến chư vị Tôn Sư, Bổn Tôn, Tam Bảo nhất tâm cầu khẩn, với niềm hy vọng rằng nhân duyên xuất gia sẽ sớm được thành tựu.
Y theo ngài giáo thọ A Xà Lê Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết (3), Đại Sư chánh thức thọ mười giới Sa Di, với pháp hiệu là Hiền Huệ, danh xưng là Kiết Tường, tiếng Tây Tạng gọi là La Tang Trát Ba Cụ (Losang Drapa). Thọ giới Sa Di xong, cho dầu tánh giới hay giá giới, Đại Sư đều cẩn trọng phòng hộ, thọ trì không phạm. Thời thời khắc khắc, nơi tất cả hành vi, tâm hằng xa rời tham ái sanh tử, nên chóng trở thành một vị xuất gia phạm hạnh chân chánh thanh tịnh.
Hơn mười năm, Đại Sư y theo ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết tu học đa văn. Mỗi bộ luận Đại Sư đều học thấu suốt thâm sâu. Tuy nhiên, với trí huệ bao la như biển cả, Đại Sư không cảm thấy sự tu học đó là đủ. Ngày nọ, Đại Sư suy nghĩ: "Đức Thế Tôn dạy bảo chúng ta không ngoài hai việc. Thứ nhất, đọc tụng kinh điển, rồi nghiền ngẫm tư duy. Thứ hai, phải tu định để đoạn các lậu hoặc. Trong hai loại này, văn và tư đứng đầu tiên. Nhưng, muốn đắc được văn và tư thì nhất định phải thân cận các vị thiện tri thức. Nhờ sự giảng giải của các vị thiện tri thức mới có thể hiểu rõ không lầm lạc về yếu chỉ của tất cả kinh luật luận. Nếu không hiểu chỗ nào, phải cùng chư đại luận sư biện biệt việc chân giả, thì mới quyết định có kiến giải đúng đắn chân thật. Do đó, lúc tu học tất cả kinh điển tuyệt đối không thể có một chút hiểu biết sai lầm. Sau khi hiểu rõ tất cả giáo pháp của đức Thế Tôn, mới y theo đó mà tuần tự tu học.
Nếu không tu học như thế, mà chỉ y theo kiến giải lệch lạc của mình, rồi tùy tiện giải thích xuyên tạc kinh điển, hoặc chỉ y vào một đoạn hay một câu kinh mà tự nhắm mắt tu mù theo, thì làm sao thành tựu? Ví như kẻ mù muốn lên đến đảnh núi cao chót vót. Ai dám bảo đảm rằng hắn sẽ không bị té xuống vực sâu nguy hiểm.
Vì vậy, đối với người tu học Phật pháp, sau khi thông đạt hoàn toàn giáo lý Hiển-Mật, rồi mới tu tập các loại thiền định. Nếu được như thế, mới tự tại bước trên đường giải thoát.
Nếu muốn tu học Phật pháp, thì thắng địa Vệ Tạng (4) vốn là nơi lý tưởng bậc nhất, vì nơi đó bốn bề đều có Tuyết Sơn bao bọc, khí hậu trong bốn mùa điều hòa chẳng chênh lệch. Ngoài ra, Vệ Tạng vốn là vùng Phật giáo được phát triển sớm nhất. Thuở xưa, có rất nhiều vị đại Bồ Tát đến đó kiến lập chánh pháp. Sau này, chư đại thiện tri thức cũng hoằng dương không gián đoạn. Hiện tại, vẫn còn rất nhiều vị đại đức có trí huệ cao siêu, và các bậc cao tăng chứng đạo liễu đạt giáo pháp. Những điều kiện thuận lợi đó, dễ dàng giúp người cầu đạo sớm được thành tựu. Vì vậy, phải nên rời quê hương đến Vệ Tạng để tu học thêm nhiều kinh luận.
Đường đi từ Tông Khách đến Vệ Tạng thật xa xôi diệu vợi. Trên đường đi có nhiều ngọn núi cheo leo cao ngất ngưỡng, cùng vô số hang hố gập ghềnh, nên khách bộ hành thật vất vã cực nhọc. Tuy nhiên, nhớ lại thuở xưa, Bồ Tát Thường Đề vì cầu pháp mà chịu đựng biết bao gian khổ. So với việc này, chẳng thấm vào đâu.
Bồ Tát Thường Đề vì tầm cầu giáo pháp chân chánh, mà phải dầm mưa giãi nắng, ngủ ngoài đồng hoang núi vắng, nếm đủ tất cả khổ nhọc. Lắm khi, Ngài bị người ngoại quốc trêu cười, chửi mắng, hoặc đánh đập. Đôi khi, Ngài lại bán thân làm nô lệ để sống qua ngày. Ngài đã từng ghi nhớ hết những lời dạy quý báu của các bậc tôn sư. Nơi thiếu giấy bút, Ngài dùng dao cắt tay lấy máu để viết lại những lời giáo huấn. Ai ai cũng đều biết rằng một khi móc tim ra thì chắc chắn sẽ chết. Nhưng, vì cầu pháp, Ngài dũng mãnh móc tim ra. Do Ngài nhất tâm tinh tấn cầu pháp, phá được nhiều nghịch duyên chướng ngại, nên cuối cùng đạt đến cảnh giới cao quý cùng tột, và thành tựu đạo quả tối thù thắng.
Bồ Tát Thường Đề là tấm gương tốt cho Ta noi theo. Để tầm cầu chánh pháp, Ta thầm nguyện học theo tinh thần dũng mãnh tinh tấn đó. Dẫu chông gai đầy cả mặt đất, khiến máu đổ lan tràn cả thân, cho đến lúc máu khô tủy cạn, nếu chưa đạt được sở nguyện, thì quyết chẳng dừng nghỉ".
Suy nghĩ như thế, Đại Sư lập tức phát khởi đạo tâm kiên cố như kim cang, quyết định đến Vệ Tạng tham học. Kế đến, Đại Sư tỏ bày tường tận ước nguyện tới Vệ Tạng tu học, cho thầy giáo thọ nghe. Ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết đầy đủ lực thần thông, biết rõ nhân duyên đến Vệ Tạng của Đại Sư đã thành thục, nên vui mừng khích lệ.
Năm mười sáu tuổi (1372), như ngỗng chúa vượt ao sen, Đại Sư vui mừng hướng tâm đến Vệ Tạng. Trước khi lên đường, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết hỏi:
- Nầy Hiền Huệ! Hiện tại Ta muốn truyền cho ngươi một giáo pháp. Vậy ngươi muốn điều gì?
Đại Sư thưa:
- Con mong muốn được Thầy truyền cho giáo pháp nào hỗ trợ mạnh mẽ nhất trong việc tu tâm.
Ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết bèn nhập tam ma địa, dùng lực thần thông quán sát tinh tường, rồi sau mới viết kệ, khai thị từng câu từng lời. Đại ý là đầu tiên phải học hết mọi pháp môn, rộng cầu văn, tư. Kế đến, phải y theo sự văn và tư mà tu học. Lại nữa, phải tu học hết nghĩa lý của giáo pháp. Cuối cùng, phải làm lợi ích cho loài hữu tình, để khiến chánh pháp mãi trường tồn. Đại Sư nhớ hết hoàn toàn những câu kệ đó mà không quên sót chữ nào.
Về chi tiết, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết dạy việc tu học phải theo trình tự. Trước tiên, phải học tập năm bộ luận do Bồ Tát Di Lặc trước tác, như luận Hiện Quán Trang Nghiêm, luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh, luận Biện Trung Biên, luận Biện Pháp Tánh, luận Bảo Tánh. Kế đến, phải học bảy bộ luận nhân minh do luận sư Pháp Xưng tạo, như luận Thích Lượng (5), luận Định Lượng, luận Chánh Lý Tích, luận Nhân Tích, luận Quán Tướng Chúc, luận Thành Tha Tương Tục, luận Tranh Chánh Lý.
Vì kỳ vọng hoàn toàn nơi Đại Sư, nên ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết ân cần từ bi dạy bảo:
- Do chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, cùng tội chướng của bổn thân, người tu hành ngay nơi sự nghiệp tự lợi và lợi tha, sẽ gặp ít nhiều chướng ngại. Vì muốn phá trừ chướng ngại để được thành tựu thuận lợi, phải nên tu học theo pháp của Bổn Tôn. Nếu muốn phá trừ ngoại ma nội chướng, phải thường tu trì pháp Kim Cang Thủ. Muốn tăng trưởng trí huệ rộng sâu, phải tu trì pháp Văn Thù Ngũ Tự Minh. Muốn được thành tựu thuận lợi, phải tu trì pháp Tài Bảo Thiên Vương. Muốn tăng trưởng nhiều phước thọ lợi ích, phải tu trì pháp Vô Lượng Thọ Như Lai. Muốn trừ các sự phiền hà nhiễu loạn của nhân và phi nhân, cùng mong cầu được thành tựu tất cả sự nghiệp, phải tu trì pháp Ma Cáp Tồi Lạp. Đấy là những pháp Bổn Tôn của Ta. Hiện tại đều truyền trao hết cho Ngươi. Vì vậy, Ngươi nhất định phải y theo pháp mà tu trì liên tục, chớ nên gián đoạn!
Để tiễn đưa Đại Sư, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân đặc biệt trần thiết một đàn tràng trang nghiêm, cùng đặt để rất nhiều cúng phẩm vi diệu thù thắng. Lúc cúng dường, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết nhập tam ma địa, chí tâm thiết tha cầu khẩn tất cả chư thánh chúng hộ pháp gia trì cùng cầu nguyện cho Đại Sư được thành tựu tất cả sở nguyện. Cầu nguyện xong, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết dùng các hạt lúa xanh để cúng dường đàn tràng. Trong sát na, tất cả hạt lúa xanh biến thành những hạt trân châu, phóng hào quang sáng chói. Thấy việc này, ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết vui mừng bảo:
- Đây chính là điềm lành dự báo Hiền Huệ sẽ thành tựu đạo nghiệp, trở thành vị đệ nhị Năng Nhân.
Lúc từ biệt, Đại Sư thành tâm lễ bái cáo từ ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết. Tuy tình thầy trò khắng khít khó cách ly, nhưng vì việc đến Vệ Tạng để tham học thật rất trọng đại, vì quan hệ đến sự thịnh suy của Phật giáo cùng lợi ích của chúng sanh, nên Đại Sư không dám lưu luyến, mà chỉ chí thành phát nguyện rằng tương lai sẽ gặp lại vị Tôn Sư tại cõi Tịnh Độ.
Nghĩ đến thâm ân dạy dỗ hằng ngày của vị Tôn Sư, Đại Sư ưu sầu vô hạn và rơi lệ từ biệt. Ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết ân cần xoa đầu mà an ủi Đại Sư. Thế rồi, cả hai thầy trò đều rơi lệ, trân trọng chia tay.
Vừa cất bước lên đường, Đại Sư vừa tụng kinh Văn Thù Chân Thật Danh. Nỗi niềm thầy trò ly biệt mới từ từ lắng đọng. Mỗi lần xoay đầu trở lại, tuy không nhận rõ nơi trụ xứ của vị Tôn Sư, nhưng trong tâm của Đại Sư vạn phần đau xót, nên không thể chẳng nghĩ tưởng muốn trở về. Nhưng, Đại Sư vẫn nỗ lực tụng đọc kinh Văn Thù Chân Thật Danh để dẹp trừ tâm lưu luyến.
Thật không thể nghĩ bàn! Vừa đọc tụng đến câu "những ai chẳng trở vào vòng luân hồi thì sẽ không quay lại", thì trong lòng tự nhiên sanh khởi tín tâm kiên cố không lay chuyển, nên cứ một mực tiến bước. Phải chăng, đó là điềm dự báo, và hiển thị rằng Đại Sư sẽ đoạn được ân ái thế gian, không còn quay về cố hương.
Khi ấy là mùa thu năm 1373; Đại Sư vừa được 17 tuổi. Nhân tiện tới chùa của Đại Sư để hoằng pháp, ngài Nhân Khâm Cụ (6) đã hướng dẫn Đại Sư về chùa Chỉ Công trên đường đến Vệ Tạng.
Đến Xương Đô, họ dừng lại nghỉ qua đêm. Khuya hôm đó, Đại Sư mộng thấy mười sáu tôn giả cùng ngài Ma Cát Tồi Lạp hiện thân gia trì.
Năm ngày sau, họ đến chùa Chỉ Công ('Drikung, hay 'Bri-khung) ở Tiền Tạng. Tại vùng Sư Y, ở chùa Chỉ Công Thế (7), Đại Sư yết kiến đại pháp vương Kiếp Kiết Kết Bố (Chennga Chokyi Gyalpo), là một vị đại Lạt Ma nổi danh vào đương thời của phái Chỉ Công thuộc chi phái Cát Cử. Dưới tòa của đại pháp vương Kiếp Kiết Kết Bố, Đại Sư tu học nghi thức phát tâm Bồ Đề (Bobhichitta), năm pháp đại ấn
(Mahamudra), sáu pháp Na Nhã (Naropa), cùng các trước thuật của các đại Lạt Ma thuộc hệ phái Chỉ Công.
Đại Sư lại kết thân với các pháp hữu rồi khởi hành từ chùa Chỉ Công đi về hướng tây, đến Cống Đường (8). Nơi đó, Đại Sư theo vị đại y sư Cổn Kiếp Trát Hy (9), vị y chỉ sư tinh thông y thuật, để học tám loại sách y học do Bồ Tát Mã Minh tạo, cùng tất cả lời chú thích của các vị y sư uyên thâm ở Ấn Độ và Tây Tạng, cùng thực tập tất cả thủ thuật lớn nhỏ. Chẳng bao lâu, Đại Sư hoàn toàn thông đạt nghĩa lý huyền diệu thâm sâu, và viên mãn các phương tiện thiện xảo.
Lần nọ, thân thể của Đại Sư bất an, nên cả chục danh sư cùng nhau đến chữa trị. Song, cách thức điều trị và dùng những loại thuốc nào, họ đều hỏi qua Đại Sư. Do đó, họ có cơ hội theo Đại Sư học về y dược. Thời gian sau, họ đều tán thán Đại Sư không ngừng:
- Hiện nay, trong tất cả y sư ở Tây Tạng, tinh thông tường tận về y dược, không có ai qua được Pháp Vương Nhân Ba Thiết (10). Ngài chỉ cần giảng giải sơ lược về sự khác biệt của y dược cùng cách trị bịnh, mà đã vượt hơn những sở học xưa của chúng ta, và lại giúp chúng ta hiểu rõ tinh tường.
Qua lời này, chứng minh rằng đối với y thuật trong ngũ minh, Đại Sư đã thấu triệt tinh thông, đạt thiện xảo.
Trú tại Cống Đường chẳng bao lâu, vì muốn tu học những bộ luận do các vị đại Bồ Tát trước tác như Di Lặc, Vô Trước, Long Thọ, Đề Bà, v.v... Đại Sư lại đến chùa Đệ Ngõa Cẩn (11).
Tới nơi, Đại Sư y theo vị trụ trì là ngài Trát Hy Tăng Cách (12), thượng tọa Dã Hiệp Tăng Cách (13) để nghe giảng giải kinh luận. Đại Sư lại y theo hai vị A Xà Lê là Vân Đơn Gia Thác (Yonten Gyatso) và Ổ Cẩm Ba (O-rgyan-pa) để học kinh luận. Trong mười tám ngày, Đại Sư học thành thục và thông đạt bổn văn luận Hiện Quán Trang Nghiêm (14), các chú giải của ngài Sư Tử Hiền ở Ấn Độ, cùng sớ giải của luận sư Ráng Gia (15).
Thấy trí huệ siêu phàm của Đại Sư, các vị giáo thọ sư và những vị đồng học đều tán thán vô ngần.
Theo thông lệ tu học Phật pháp ở Tây Tạng, tu học thành thục và thông suốt xong một bộ luận nào, thì phải đến ngôi chùa lập tông luận đó. Kế đến, lại phải biện luận với các vị luận sư tinh thông bộ luận đó. Phương pháp nghiên cứu tu học luận lý Phật pháp thật rất nghiêm cẩn, bằng cách phân chiết lý lẽ tinh vi, khiến cho người tu học đạt được kiến giải vững chắc đúng đắn về những nghĩa lý bao hàm trong kinh điển.
Năm mười chín tuổi, Đại Sư đã học thông thạo và đạt được thiện xảo về bộ luận Hiện Quán Trang Nghiêm, nên bắt đầu đến các tự viện, tham gia biện luận. Trạm biện luận đầu tiên, Đại Sư chọn ngôi chùa rất nổi tiếng vào đương thời là chùa Tang Phác (Gsang-phu).
Chùa Tang Phác nằm về phía nam của Lạp Tát, và nằm về phía đông của Nhiếp Đường. Ngôi chùa này được ngài Cao Lặc Tất HỶ Nhiêu kiến lập vào năm 1073. Vị đại sư nổi tiếng của Tây Tạng là Cao La Đôn HỶ Nhiêu (16) đã từng trụ trì qua nhiều năm tại nơi đây. Từ đó, chùa Tang Phác trở thành một đại tự viện trứ danh, chuyên giảng giải kinh luận, cùng ban truyền luận Nhân Minh và năm bộ luận của Bồ Tát Di Lặc. Ở Tây Tạng, Nhân Minh cùng nghi thức biện luận nhập môn của các chi phái, đều phát xuất từ ngôi chùa này. Vào thời sơ tổ Trí Tam, Xát Ba Cát Cử, v.v..., các vị Lạt Ma trứ danh của phái Cát Mã Cát Cử thường đến chùa nầy (17) để cầu pháp.
Lúc Đại Sư biện luận tại chùa Tang Phác, do trong tâm ẩn hoài bi trí, ngoài đủ vẻ hòa duyệt, cùng có biện tài vô ngại, xiển minh diệu nghĩa thâm sâu, nên khiến cho rất nhiều học giả tín phục, và gọi Đại Sư là vị "Trí Huệ Viên Minh".
Đại Sư nhận thấy rằng việc tu hành thành Phật chỉ có hai con đường: Thứ nhất là Hiển giáo. Thứ hai là Mật giáo (Kim Cang Thừa). Trong hai thừa đó, thì Kim Cang Thừa là siêu thắng hơn, vì vốn là bảo tạng của pháp thành tựu. Do đó, lúc trú tại chùa Đệ Ngõa Cẩn, vì muốn học Mật pháp, Đại Sư đến vùng Kiếp Tông (Chos-rdzong) thuộc vùng phụ cận của Nhiếp Đường, lễ bái giáo chủ phái Tát Ca, tức tôn giả Tiêu Nham Kiên Tham (18) quán đảnh, Thắng Lạc Thân Mạn Đà La quán đảnh của phái Linh Sư, v.v...
Năm mười chín tuổi, Đại Sư lại theo ngài Nhân Khâm Nam Kết (19), vị trụ trì chùa Hà Lỗ (Zhalu) để học mười ba pháp Tôn Thắng Lạc của phái Di Lặc Ba, cùng pháp quán đảnh Đại Oai Đức Kim Cang Ngũ Tôn. Tại chùa Giác Ma Tương (Jo-mo-nang) Đại Sư y theo ngài Bạc Đống Kiêu Liệt Nam Kết (20) tu học sáu pháp gia hạnh của phái Thời Luân Kim Cang, cùng các đại sớ giải.
Mật pháp và sớ giải Mật giáo đều là pháp truyền thừa quan trọng và là giáo pháp tâm tạng của Phật giáo Tây Tạng vào đương thời. Những pháp này, Đại Sư đều thọ trì và lãnh hội.
Vào mùa hè năm hai mươi tuổi (1376), Đại Sư đến chùa Tư Khâm (21) yết kiến Cổn Cát Cụ Nhân Thiết Ba (Nyapon Kunga Pel). Ngài Cổn Cát Cụ Nhân Thiết Ba giảng giải tinh tường luận Hiện Quán Trang Nghiêm cho Đại Sư nghe. Ngài Cổn Cát Cụ Nhân Thiết Ba trí huệ sáng suốt, có đầy đủ phương tiện thiện xảo, lại còn có khả năng quán sát căn cơ chư đệ tử mà thuyết pháp. Tại đây, Đại Sư lấy làm mãn nguyện vì được chỉ dạy và thông đạt hầu hết các loại chú giải kinh luận từ Ấn Độ truyền sang.
Về sau, lúc Đại Sư cung thỉnh giảng luận Câu Xá, ngài Cổn Cát Cụ Nhân Thiết Ba bảo:
- Ta vốn đã thông đạt luận Câu Xá. Nhưng, những năm gần đây, vì không có ai đến nghe giảng, nên Ta có chút sao lãng. Hiện tại, nếu muốn trùng tuyên giảng lại, phải tham duyệt những trước tác của các tông phái. Tuy nhiên, gần đây thân thể của Ta bất an, lại thêm phải giảng luận Trang Nghiêm cùng Nhân Minh. Trong thời ngắn này, e rằng không thể khiến Ông đạt được sở nguyện. May thay! Ta có một đệ tử, tên là Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa (Rendawa, 1349-1412). Trí huệ của hắn rất cao siêu, lại hiểu rõ luận Câu Xá. Ông hãy theo hắn mà học luận Câu Xá. Nếu chuyên cần học tập, thì chắc sẽ đạt được lợi ích.
Vừa được ngài Cổn Cát Cụ Nhân Thiết Ba giới thiệu, Đại Sư bèn theo Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa, thọ học luận Câu Xá do Bồ Tát Thế Thân chú giải.
Ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa giảng kinh thật thâm sâu tường tận. Ngài chẳng hề bỏ sót giải thích một đoạn văn nào, mà lại còn tuần tự sắp đặt các yếu nghĩa bộ luận cho có thứ lớp. Trong một bộ luận, nếu có những đoạn khó hiểu, Ngài đều giảng giải, phân tích tinh tường. Vừa nghe giảng qua một lần, Đại Sư hoan hỶ và lãnh hội trọn vẹn tất cả văn nghĩa. Cuối cùng, Đại Sư tự đưa ra những vấn đề rất thâm sâu khó hiểu, để thảo luận với ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa.
Cuộc đời của Đại Sư được ảnh hưởng sâu đậm bởi giáo pháp của ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa (22).
Đại sư Tông Khách Ba thân cận vị đại đức Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa này, rồi lần lượt nghe giảng hết các bộ kinh luận như Nhập Trung Luận, Tập Luận, Thích Lượng Luận, Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Câu Xá Luận, v.v... cùng giới luật. Vì vậy, đối với những bộ luận đó, Đại Sư đều thông suốt tinh tường yếu chỉ. Học được những lý giải các kinh luận này xong, Đại Sư biên soạn bộ luận Biện Liễu Nghĩa Bất Liễu Nghĩa, cùng các bộ luận bàn về tánh tướng. Những tư tưởng này, đều dựa trên những lời giảng dạy của ngài Nhân Đạt Ngõa. Do đó, giữa những bậc tôn sư của Đại Sư, ngài Nhân Đạt Ngõa là một vị ân sư cao cả nhất.
Mùa xuân năm 1377, để học giới luật, Đại Sư (được hai mươi mốt tuổi) đến chùa Giác Ma Lũng (23), theo trụ trì La Tái Ngõa (24), nghe giảng về Giới Kinh Tỳ Kheo do luật sư Đức Quang ở Ấn Độ trước tác, Giới Kinh Sớ do luật sư Thích Ca Quang ở Ấn Độ trước tác, cùng những bài chú giải giới luật của các tông phái khác.
Thuở ấy, Tây Tạng có hai tông phái truyền thừa giới luật. Thứ nhất là sự truyền thừa của tông phái Hạ Lạc, do ngài Cách Nhiêu Tái (dge-ba rab-gsal) lãnh đạo. Thứ hai là sự truyền thừa của tông phái Thượng Lưu, do ngài Đạt Ma Ba Lạp Tự lãnh đạo. Hai tông phái này đều xuất phát từ phái Nhất Thiết Hữu Bộ, và rất chú trọng quyển Đức Quang Giới Kinh, và Thích Ca Quang Giới Kinh Sớ.
Vì muốn triệt để học tập giới luật, đầu tiên Đại Sư nghiên cứu tu học những bộ giới luật sớ sao đó.
Ngoài việc tu học giới luật, ngày ngày Đại Sư đều tự nghiên cứu đọc tụng sớ sao của giới luật tỳ kheo không gián đoạn. Do xem qua liền nhớ mãi, nên đối với những sự giải thích khác biệt về giới luật của các tông phái, Đại Sư đều hiểu rõ tường tận.
Mỗi ngày, tại chùa Giác Ma Lũng, Đại Sư thường theo đại chúng hành lễ. Hôm nọ, lúc cùng đại chúng đọc tụng kinh điển đến pháp Bát Nhã Hạnh, Đại Sư vừa đọc tụng vừa tư duy nghĩa không, nên trong khoảng sát na, bèn nhập tam ma địa, và tâm an trụ nơi lý duyên khởi tánh không của "các pháp đều huyễn hóa không thật". Lúc đại chúng tụng qua các bài kinh khác, trong tâm Đại Sư điềm nhiên không khởi một niệm phân biệt, và an trú nơi không tác ý, khiến tâm cảnh sáng suốt rõ ràng, cùng nhập vào tánh không vô ngã. Những âm thanh bên ngoài đều không làm xáo động tâm của Đại Sư.
Khóa lễ tụng kinh vừa xong thì Đại Sư mới từ từ xuất định. Thấy việc này, đại chúng đồng tán thán Đại Sư không ngớt:
- Đối với chúng sanh phước mỏng huệ cạn như chúng ta, nhập thất tu học đã bao năm, mà cũng chưa hẳn đã nhập được thiền định nào, huống hồ nhập định tại "quán cảnh duyên khởi tánh không"! Sự hành trì về văn, tư, tu của Đại Sư, trên thế gian hiếm ai đạt được!
Vào mùa đông năm 1377, lúc nghiên cứu đọc tụng hơn bốn mươi quyển sớ sao giới luật, Đại Sư đột nhiên cảm thấy sau lưng đau nhức dữ dội, ví như dao cắt không ngừng, mà người thường không ai chịu nổi. Đại Sư đành phải đến Đóa Lũng Phác (25) cầu ngài Ổ Cẩn Ninh Chủ (Mật Pháp Danh), vị y sư thiện xảo, truyền cho Mật pháp trị bịnh. Đại Sư y theo nghi thức mà tu trì, nhưng vẫn không thuyên giảm chút nào. Trở về chùa Đệ Ngõa Cẩn, Đại Sư nhờ một vị y sư rất giỏi về y thuật trị liệu, nhưng vẫn không có hiệu quả.
Bấy giờ Đại Sư thầm nghĩ: "Từ khi đến Vệ Tạng, vì điều kiện bất tiện, đối với sự tu trì về các pháp Bổn Tôn như Tài Bảo Thiên Vương, Lục Tý Cát Tối Lạp, Kim Cang Thủ, v.v... thật có thiếu sót, nên mới chịu hậu quả nghịch duyên đau bịnh như vầy. Nguyên do vốn không vâng theo lời dặn dò của thầy bổn sư (26)!"
Sau này, dưới tòa của ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa, Đại Sư nỗ lực tinh cần tu học. Tại chùa Tát Ca, Đại Sư thỉnh cầu một vị y sư thiện xảo, truyền cho pháp chữ "Ha". Trụ nơi tịnh xứ tu hành qua một thời gian, bịnh của Đại Sư từ từ bình phục.
Vào mùa xuân năm 1378, Đại Sư (được hai mươi hai tuổi) qua Nạp Nhĩ Đường, đến chùa Tát Ca thọ giáo pháp của phái Tát Ca. Chùa Tát Ca nằm về phía tây của Lạp Tát. Ngôi chùa này vốn thuộc phái Tát Ca của ngài Côn Duyện Kiếp Kết Bố ('Khon dkon-mchog rgyal-po', 1034-1102). Một hôm, ngài Côn Duyện Kiếp Kết Bố đang ngắm nhìn bầu trời, bỗng nhiên thấy ánh sáng chiếu xuống đỉnh núi, làm hình bóng những núi đồi bốn bên trông tựa như đang cúi đầu lễ bái, nên mới cho cất chùa (năm 1073). Về sau, ngôi chùa này là đạo tràng chính của phái Tát Ca.
Bấy giờ, Đại Sư cũng còn theo ngài Đa Kiệt Nhân Khâm (Rdo-rje rin-chen) để tu học phẩm thứ hai của pháp HỶ Kim Cang Mật Tích (27), do các đại đức của phái Tát Ca chú giải.
Vào mùa xuân năm 23 tuổi (1379), Đại Sư theo ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa từ chùa Tát Ca đi đến chùa Lạp Đóa Ráng Mão Nhân (28). Nơi đó, Đại Sư nghe ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa giảng Tập Mật Căn Bản Tích, Ngũ Thứ Đệ Luận (thuộc Mật pháp vô thượng), Thích Lượng Luận, và Thiện Thuyết Hải (trong Tập Luận) từ mùa xuân cho đến cuối hạ.
Mùa thu năm 1379, Đại Sư từ chùa Mão Nhân quay trở lại chùa Tát Ca, rồi trở về Tiền Tạng để nhận vật dụng do gia đình gởi đến. Sau này, do sự khuyến thỉnh của các bạn đồng tu cùng lời nhắn nhủ của người mẹ, Đại Sư có ý định trở về quê quán thăm gia đình và quyến thuộc.
Trên đường từ Lạp Tát trở về hướng đông đến vùng Mai Trác Lạp Lũng (29), Đại Sư chợt suy nghĩ: "Lần này về thăm nhà, lợi thì ít mà hại thì nhiều, về làm gì cho khổ nhọc!
Từ vô thủy, chúng sanh luôn bị sợi dây ân ái trói buộc, nên mới chịu luân hồi sanh tử không cùng tận. Ta đã là người xuất gia, không thể còn có tâm niệm lưu luyến ân ái thế gian nữa. Nếu còn, thì chẳng khác gì người thế tục!
Nếu còn chút dây tham luyến thế gian, thì vẫn không thể kể là đã phát tâm Bồ Đề chân thật (30), lại càng không thể thành tựu Phật quả thanh tịnh. Nếu như thế thì làm sao báo đền ân sâu nghĩa trọng của chư Phật cùng công ơn dưỡng dục của cha mẹ?
Tâm luyến ái của chúng sanh tựa như chó giữ nhà. Dầu có đuổi cách mấy, nó vẫn chạy trở về. Ngược lại, tâm xuất ly thế tục như nai tơ chạy giữa rừng hoang; vừa lạc bước một chút là mất dấu tích. Vì vậy, phải cẩn thận đối trị, cố gắng điều phục tâm luyến ái đó.
Từ nay về sau, dù sao đi nữa, Ta cũng quyết không trở về quê cũ Tây Ninh".
Nghĩ như thế, Đại Sư khởi tâm xa lìa, không còn ham muốn dục lạc ân ái của thế gian.
Thấy đã lâu mà Đại Sư chưa trở về, thân mẫu Đại Sư bèn viết thêm một lá thư nữa, và cắt một cụm tóc bạc bỏ vào bao thư, rồi nhờ người mang đến. Thư viết: "Mẹ đã già yếu như ngọn đèn phất phơ trước gió; thân thể gần đây không được khỏe cho lắm. Ngày ngày mẹ mong mỏi Thầy trở về. Đời nay không biết còn có ngày nào gặp mặt. Xin Thầy hãy mau kíp trở về".
Đọc qua lá thơ này, Đại Sư tự nhủ: "Trở về quê nhà vào lúc này thật chẳng có mảy may ích lợi. Nhưng, mẹ muốn nhìn xem tướng mạo của Ta, vậy sao không vẽ một bức tranh để gởi về, ngỏ hầu bà được an tâm!"
Do đó, Đại Sư bèn vẽ lại dung mạo của mình, rồi gởi về cho mẹ. Bà vừa mở bức tranh đó ra, thì hình trong tranh đột nhiên kêu lên tiếng: "Mẹ!"
Thấy điềm kỳ dị như thế, ban đầu bà thật kinh hoàng, nhưng kế đến lòng thấy vui mừng cùng khởi tín tâm kiên cố; bà có cảm tưởng như Đại Sư đã trở về nhà. Từ đó, tâm bà được an lạc.
Từ thuở nhỏ, vì có tâm xuất ly thế tục thật mạnh mẽ, nên sau này khi được vua Minh ở Trung Quốc cung thỉnh về triều để làm quốc sư, nhưng Đại Sư đã không ngần ngại từ chối.
Lòng đã quyết không trở lại quê nhà, Đại Sư mạnh bước đến vùng Mai Trát Lạp Lũng để nghe Lạt Ma Tiêu Nam Trát Ba (bla-ma bsod-nams gsags-pa) giảng kinh luận. Đại Sư lại tự nghiên cứu đọc tụng Pháp Xưng Thất Luận và Trần Na Tập Lượng Luận.
Cảm thấy sự chú giải của các tông phái về luận Thích Lượng đều không giống nhau, nên Đại Sư nhập thất tĩnh tu, duyệt xem tinh tường bộ luận Thích Lượng Luận Quảng Thích Chánh Lý Tạng (31), cùng các loại sớ sao do những luận sư Ấn Độ chú giải.
Bộ luận Thích Lượng (Commentary on the Compendium of valid Cognition) do luận sư Pháp Xưng trước tác, gồm có bốn phẩm. Phẩm thứ hai là phẩm Thành Lập Lượng Sĩ Phu. Trong phẩm này, dùng môn Lưu Truyền và môn Hoàn Diệt để chứng minh rằng Phật là đấng tự giác giác tha viên mãn. Mục đích của luận môn Lưu Truyền là: Về phương diện thứ nhất, chứng minh rằng bậc nhất thiết trí của "Lượng Sĩ Phu" là do tôn hành một phương pháp nhất định mới đạt thành tựu, để đả phá tà kiến nhận lầm nhất thiết chủng trí là không có nhân sanh. Về phương diện thứ hai, luận chứng rằng do "có nhân" mà thành nhất thiết chủng trí (Phật), tức là bậc thiện thệ, có đủ ba đức (tự lợi viên mãn), cùng là bậc cứu hộ tất cả chúng sanh (lợi tha viên mãn).
Lại nữa, nơi Giá-Chỉ, luận chứng theo môn Hoàn-Diệt, rồi dùng tâm đại bi mà thành lập đạo lý "Lượng Sĩ Phu". Thôi thúc trí huệ, dùng tâm Bồ Đề và gia hạnh viên mãn để chứng đắc trí huệ vô cấu nhiễm, cùng tập hạnh lợi tha, chính là hành vi chủ yếu. Về sau, hiển thị bằng cách tu trì lục độ. Nói đơn giản, theo luận thuyết của các môn Lưu Truyền thì mục đích là muốn khiến mọi người biết rõ sự thị hiện của Phật đà, tức là cách tu hành chứng quả vị Phật như thế nào. Theo luận lý của môn Hoàn-Diệt thì mục đích là khiến cho người người trước hết phải biết tường tận về đạo lý Tứ Đế, rồi mới có thể biết cách tu hành chứng đắc công đức viên mãn. Luận chứng nhiều lần để giảng giải việc làm sao có thể thành Phật và bàn luận về sự luân hồi của đời trước và đời sau.
Duyệt xem kỸ càng về phẩm này, Đại Sư càng thêm tín phục hâm mộ luận sư Pháp Xưng. Thế nên, lông tóc của Đại Sư dựng đứng lên; vui mừng buồn thương lẫn lộn, khiến nước mắt tuôn trào. Về sau, mỗi lần xem qua bộ luận này, Đại Sư đều rơi lệ như thế. Việc này chứng tỏ rằng Đại Sư rất tín trọng bộ luận đó.
Xưa kia, các nhà học Phật khi tu học bảy bộ lượng luận của luận sư Pháp Xưng hoặc luận Tập Lượng của luận sư Trần Na, thì họ chỉ có tài biện luận trên văn từ, mà hoàn toàn không biết đến trong đó có dạy về con đường giải thoát, tu đạo chứng quả. Chỉ một mình Đại Sư vì có trí huệ thanh tịnh siêu phàm, nên khi xem hết các bộ luận Nhân Minh, đặc biệt là luận Tập Lượng và luận Thích Lượng, thì tiếp thọ mọi giáo nghĩa tu hành theo thứ lớp của đức Như Lai, mà chẳng lầm lạc.
Điều này hiển minh rằng dẫu là ai, một khi tu học Phật pháp, từ lúc sơ phát tâm đến khi thành Phật, phải đi từ thấp lên cao, và từ thô thiển tới vi tế; thứ lớp tu hành mà không thể có chút sai lầm. Ví dụ, nếu chỉ tu phát tâm Bồ Đề mà không tu pháp Trung Quán, hoặc chỉ tu Trung Quán chánh kiến mà không phát tâm Bồ Đề, thì đó là học Phật pháp sai lầm. Dẫu có tinh cần đến đâu, thì cũng không thể thành Phật. Giống như trồng lúa, chỉ biết gieo hạt giống thôi mà chẳng lo về các nhân duyên khác như đất, nước, khí hậu, v.v... thì không thể gặt hái thành tựu.
Do đó, đối với các luận sư như Trần Na, Pháp Xưng, Đại Sư sanh khởi tín tâm thâm sâu.
Vào mùa đông năm 1379, tại chùa Đệ Ngõa Cẩn, Đại Sư bắt đầu nghiên cứu tu học các bộ kinh luận để chuẩn bị tham gia các buổi biện luận ở những chùa viện khác vào mùa xuân năm kế. Bấy giờ thái tử Thiếp Mộc Nhi của vua Nguyên Thuận Đế, gởi một bức thơ, cùng các lễ vật trân quý để cúng dường chư đại đức ở Tây Tạng. Vào ngày hai mươi bảy tháng chạp, Đại Sư viết thơ cảm tạ thái tử Thiếp Mộc Nhi.
Năm hai mươi bốn tuổi (1380), Đại Sư đến các chùa ở Hậu Tạng để tham gia biện luận. Đến chùa Nạp Nhĩ Đường, Đại Sư lại y theo thiện tri thức Đốn Tang Ngõa (Don-bzang-ba) để nghe giảng luận Thích Lượng.
Mùa hạ năm đó, trong kỳ đại pháp hội tại chùa nầy, y theo bốn bộ kinh luận Thích Lượng, Tập Lượng, Câu Xá, và Giới Kinh, Đại Sư lập tông đáp biện, tức là dùng những bộ luận đó để lập tông chỉ, mà người sau gọi là "Cát Hy Ba" (bka'-bzhi-pa). Tông này chỉ có thể y theo bốn bộ kinh luận mà lập tông biện luận, và là danh xưng của kinh luận Hiển giáo.
Năm 1381, tại chùa Nạp Nhĩ Đường, Đại Sư lại y theo ngài Cổn Cát Trát Hy Nhân Ba Thiết (32), để tu học nghĩa lý của phái Tát Ca, cùng "Tùng Tác Ma". Kế đến, Đại Sư lại theo ngài Nam Khách Nam Giao (nam-mkha' rnal-byor hay Namkha Zangpo) học tập Mật pháp "Tô Tất Địa".
Mật pháp Kim Cang Thừa có thể phân chia thành bốn bộ: Tác, Hành, Du Già, Vô Thượng Du Già. Pháp Tô Tất Địa thuộc về Tác Mật. Đương thời, ở Tây Tạng, người tu học Mật pháp chuyên tôn sùng Vô Thượng Mật của bộ thứ tư, và Du Già Mật của bộ thứ ba. Tuy có lưu hành các loại quán đảnh cùng pháp tu của hai bộ Tác và Hành, nhưng hình như hiếm người giảng giải những pháp đó.
Đại Sư nhận rõ rằng nếu muốn liễu giải chính xác cùng tu học Mật Tông, tuyệt đối không thể chỉ chuyên học một bộ kinh luận Mật pháp, mà phải chỉnh lý, hệ thống hóa, tu tập bốn bộ Mật pháp đó. Vì vậy, lúc còn cầu học, Đại Sư nghiên cứu tu học bốn bộ Mật pháp ấy.
Vào mùa thu năm 1381, tại chùa Bạc Đống Ái và chùa Xu Ái, Đại Sư theo ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa nghe giảng Nhập Trung Luận, Tập Lượng Luận, Thích Lượng Luận, Câu Xá Luận. Đại Sư lại thỉnh cầu ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa giảng lại Hiện Quán Trang Nghiêm Luận và Giới Kinh.
Kế tiếp, trụ trì chùa Nạp Nhĩ Đường là Cổn Cát Kiên Tham (33), ban truyền cho Đại Sư sáu quyển luận của phái Trung Quán như luận Trung Quán, luận Lục Thập Như Lý, luận Thất Thập Không Tánh, luận Hồi Tranh, luận Quảng Phá, luận Bảo Man (34). Sau này, tại chùa Đệ Ngõa Cẩn, Đại Sư cầu thỉnh Lạt Ma Ráng Nhân Ba ('Jum-rin-pa) giảng giải rõ ràng về những bộ luận đó.
Đương thời, tại Tây Tạng, người tu học các bộ luận của học thuyết Trung Quán cũng nhiều, nhưng người có khả năng giảng giải lại rất ít.
Tại các ngôi chùa ở Tiền Tạng và Hậu Tạng, Đại Sư lập tông đáp biện; tổng cộng, Đại Sư dùng năm bộ kinh luận: Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Tập Lượng Luận, Thích Lượng Luận, Câu Xá Luận, Giới Kinh. Sau này, tại các tự viện thuộc phái Hoàng Giáo, trong "năm bộ kinh luận" bộ Nhập Trung Luận được thay thế bằng bộ Tập Lượng Luận. Đại Sư đã từng theo ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa mà học bốn lần về bộ Nhập Trung Luận (34). Lý do Đại Sư chẳng dùng Nhập Trung Luận để lập tông đáp biện, vì đương thời học thuyết Trung Quán rất suy vi, không có nhân tài cùng Đại Sư biện luận.
Bộ Nhập Trung Luận, Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Thích Lượng Luận đại biểu cho ba phái Trung Quán, Du Già, Nhân Minh, và cũng đại biểu cho sự phát triển theo từng giai đoạn quan trọng của Phật giáo Đại Thừa. Muốn đọc tụng thông đạt ba bộ luận đó, phải duyệt xem những bộ luận phụ trợ khác (35). Vì vậy, chân thật thông đạt được ba bộ luận đó, thì có thể nói rằng hiểu rõ được toàn diện về tư tưởng của các bộ phái Đại Thừa.
Đương thời, tại Ấn Độ, bộ luận Câu Xá được gọi là "Thông Minh Luận" (36). Cách tổ chức sắp xếp của bộ luận này theo trình tự rất nghiêm mật. Bộ luận này bàn luận chi tiết về chân lý nhân quả mê ngộ, cùng chỉ bày đường hướng dẫn đến quả vị Phật và Niết Bàn tịch tĩnh. Người học Phật, nếu hiểu rõ luận Câu Xá rồi nghiên cứu Phật giáo Đại Thừa, thì dễ dàng thông đạt toàn bộ giáo lý, nắm vững phương pháp nhập môn thứ tự như tín, giải, hạnh, chứng.
Giới Kinh do luận sư Đức Quang ở Ấn Độ trước tác. Quyển này không đồng với quyển giới bổn mà người xuất gia thường tụng đọc, nhưng dùng sự đắc giới, trì giới, thứ lớp hoàn tịnh, và tổ chức hệ thống hóa khái quát các bộ giới luật của thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (37).
Hai bộ kinh luận đó làm nền tảng tri thức và trì giới căn bản cho các tu sĩ ở Ấn Độ và Tây Tạng.
Lúc đi cầu học, Đại Sư hoàn toàn y theo lời răn nhắc của ngài Đốn Châu Nhân Khâm Nhân Ba Thiết. Vì muốn tu học Phật pháp một cách đúng đắn, đầu tiên học giáo lý của Hiển giáo, rồi mới chuyên tu Mật giáo. Lúc học Hiển giáo, nơi các bộ luận của các vị Bồ Tát Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Pháp Xưng (38), Công Đức Quang, Thích Ca Quang, v.v... không thể được ít cho là đủ, mà phải nghiên cứu kỸ càng hết các bộ kinh luận.
Đối với các bộ kinh luận tại Tây Tạng vào đương thời, Đại Sư hoặc thừa thọ trực tiếp, hoặc nghe giảng, nên biết hết tất cả.
Dĩ nhiên, đối với vô lượng pháp nghĩa thâm sâu áo diệu, Đại Sư đã hoàn toàn thâm nhập, dung hợp vào một pháp vị, thông đạt vô ngại.
Lúc đi cầu học, Đại Sư thường đến các tự viện nổi tiếng, và y theo luận mà lập tông đáp biện. Đối với năng lực cá nhân, Đại Sư có thể lập hàng chục bộ luận khó khăn, nhưng vì tại các đạo tràng tự viện, ít có nhân tài, nên chỉ y theo năm bộ luận căn bản mà lập tông chỉ.
Do trí huệ siêu phàm, biện tài vô ngại, thông đạt giáo lý rộng như biển cả, nên những vấn nạn của các học giả, đều bị Đại Sư phá dẹp như chẻ tre. Lúc biện luận, âm thanh như tiếng chuông; đánh nhẹ thì vang tiếng nhỏ; đánh mạnh thì vang tiếng to.
Bấy giờ, ở Tây Tạng, trong các đại tùng lâm, từ các vị đại đức thông đạt tam tạng kinh điển, cho đến các vị thiện tri thức chuyên lập vấn nạn, đều tán thán Đại Sư không ngừng. Từ đó, rất nhiều học giả, không còn dám biện luận với Đại Sư.
Lúc biện luận, Đại Sư thường khởi tâm đại Bồ Đề. Gặp những tông phái tệ hại, làm chướng ngại thánh đạo, Đại Sư đều khởi tâm từ bi mà dùng lý lẽ thâm sâu của kinh điển để nhiếp phục tất cả tà chấp, nhưng không bao giờ khởi tâm cống cao ngã mạn. Đại Sư dùng phương tiện thiện xảo thanh tịnh như thế, nên khiến rất nhiều học giả khâm phục. Vì vậy, có rất nhiều người theo Đại Sư xin làm đệ tử.
Đại Sư nhận biết rằng trong bảy loại giới biệt giải thoát của tâm tạng Phật pháp, thù thắng và tôn quý nhất là giới tỳ kheo. Giới tỳ kheo thanh tịnh là nền tảng căn bản của giới luật Đại-Tiểu Thừa và Hiển-Mật giáo. Đồng thời, chánh pháp có thể trụ được lâu dài tại thế gian hay không, hoàn toàn y cứ vào việc có kiến lập được giới luật tỳ kheo hay không.
Nhưng, muốn thọ trì giới tỳ kheo thanh tịnh, phải có đầy đủ tâm chán chường trần thế và mong cầu giải thoát, cùng thệ nguyện quyết tâm hành trì giới luật thanh tịnh, lại phải nắm vững về tinh thần và lãnh hội tông chỉ của giới luật. Đối với những sự đắc giới, trì giới, hoàn tịnh, v.v... phải hoàn toàn hiểu rõ tinh tường.
Khi còn đi cầu học, Đại Sư đã chuẩn bị hoàn toàn về những giai đoạn cần thiết. Do đó, năm hai mươi chín tuổi (1385), tại chùa Nam Kết Lạp Khang (Rnam-rgyal lha-khang) ở Nhã Đôn, Đại Sư cung thỉnh trụ trì chùa Thác Cần Ba là luật sư Thô Trì Nhân Khâm (39) làm đắc giới hòa thượng, trụ trì chùa Thác Ba Kiết Tân là luật sư Huệ Y (Ser-mgon-pa) làm yết ma A Xà Lê, thầy duy na của chùa Thác Ba Kiết Tân là luật sư Kim Cang Phước (Bsod-nams rdo-rje) làm giáo thọ A Xà Lê, cùng chư đại đức ở hai chùa khác làm tôn chứng sư. Từ đó, Đại Sư chính thức thọ giới tỳ kheo.
Vừa thọ giới tỳ kheo xong, thân tâm của Đại Sư đột nhiên tràn đầy pháp vị cam lồ, nhập chánh tăng giáo, khiến trời người đều vui mừng, còn quân ma thì kinh hoàng run sợ.
Tại Tây Tạng, hơn một trăm năm sau khi vua Lãng Đạt Mã phá hoại Phật giáo, tăng chúng không khác biệt gì với kẻ tục, vì người xuất gia không có mấy ai chân chánh nghiêm trì giới luật. Về sau, ngài Lô Mai đến Tây Khương y theo đại luật sư Cách Ngõa Nhiêu Tái cầu thọ tịnh giới. Trở về Tây Tạng, ngài Lô Mai hoằng dương giới luật, thanh lọc hàng ngũ tăng già, nhờ vậy mà các bậc long tượng trong nhà Phật lần lượt xuất hiện, khiến dân chúng toàn quốc lại đều kính tín phụng ngưỡng giáo pháp của đức Thế Tôn. Sự giáo hóa được hưng thạnh, như vầng mặt trời chiếu sáng khắp thế gian.
Trước khi trở về Tây Tạng, đại luật sư Cách Ngõa Nhiêu Tái tặng cho ngài Lô Mai một chiếc mũ màu vàng (xưa kia tại Tây Tạng, chỉ có hai vị Lạt Ma đội mũ màu vàng là đại luật sư Cách Ngõa Nhiêu Tái và sơ tổ phái Tát Ca là Thất Lợi Bạt Đà La), rồi dặn dò:
- Đội chiếc mũ này, tức là ngươi tưởng nhớ đến Ta (ý bảo rằng đội cái mũ đó chính là nhớ đến giới luật).
Từ đó, những vị đại đức có lòng muốn chấn hưng giới luật, đều đội mũ màu vàng.
Lúc còn đi cầu học, Đại Sư nhận thấy giới pháp ở Tây Tạng ngày càng sa sút. Nhiều người đều cho rằng việc giữ giới là chấp trước theo Tiểu Thừa, nên lơ là giới luật. Có một số tăng sĩ, những vật tùy thân thiết yếu của một bậc tỳ kheo như tọa cụ hay bình bát, cũng chưa hề biết đến. Lại nữa, các điều bậc của ba y ca sa, họ cũng chưa từng nghe qua. Vì vậy, vừa thọ đại giới cụ túc xong, y theo mật ý của chư đại đức thuở xưa, Đại Sư cũng đội mũ vàng. Đây là biểu tượng cho việc muốn chấn chỉnh giới pháp, cùng đối trị những kẻ không tôn thủ giới luật. Nhờ công lao hoằng dương giới luật, Đại Sư được người đời tôn xưng là tổ sư của phái Hoàng Mạo (tức phái mũ vàng), gọi tắt là Hoàng Giáo.
Thọ giới tỳ kheo xong, Đại Sư đến chùa Đơn Tát Thế (40), lễ bái yết kiến ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết (41), và thỉnh vấn nghĩa lý Phật pháp, cùng ấn chứng sở học, lại tiếp thọ giáo nghĩa Đạo Quả của phái Tát Ca, sáu pháp Na Nhã (Naropa) của phái Cát Cử, các trước tác của Lạt Ma Chủ Ba Đa Kiệt Kết Bố (42), v.v... Đương thời, Đại Sư đã tu học tất cả giáo pháp của phái Cát Cử (43).
Ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết từ thuở nhỏ đã phát tâm Bồ Đề; lúc trưởng thành, nghiêm trì giới luật cẩn mật. Dẫu cho giới nhỏ nhặt nào cũng tôn thủ không phạm, nên được người người xưng tán là "Kiếp Hy Ba (nghĩa là hành trì bốn giới pháp nghiêm cẩn: 1/ Thà chết chứ không uống rượu. 2/ Mắt không nhìn người nữ. 3/ Không giữ tiền bạc tài vật riêng. 4/ Sống đời tu hành đạm bạc). Ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết là vị lãnh đạo tối cao của chùa Đơn Tát Thế. Năm 1374, vua Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương) cho vời vị này vào kinh đô để yết kiến, và ban tặng danh hiệu là "Quán Đảnh Quốc Sư".
Lúc tương kiến đàm luận, thấy Đại Sư có học thức thâm sâu, chí khí dũng mãnh cao siêu phi phàm, nên ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết bất giác rơi lệ cảm động. Lần nọ, trước mặt đại chúng, ngài Trát Ráng Khúc Nhân Ba Thiết tán thán Đại Sư:
- Chỉ có vị tài ba như đại sư Tông Khách Ba đây, mới có thể thành tựu công đức tạng vĩ đại cao siêu. Đại Sư chân chánh là một vị cứu tinh cho tiền đồ Phật giáo!
Trong kinh Hoa Nghiêm, chư đệ tử thỉnh hỏi Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Khởi đầu tu hành từ nơi nào để đạt đến đạo Bồ Đề?
Phật đáp:
- Phải bắt đầu từ nơi ngũ minh.
Ý nghĩa câu này là người tu học giáo pháp Đại Thừa, muốn hành đạo Bồ Tát, phải có kiến thức về phương diện phương tiện thiện xảo. Do đó, bên cạnh nghiên cứu học tập Nhân Minh, Nội Minh, Y Phương Minh, Đại Sư cũng tinh cần thâm nhập vào Thanh Minh.
Xưa kia, vào năm mười chín tuổi, lúc đến các tự viện để tham gia biện luận, Đại Sư đã từng đến Tát Tang (44), theo ngài Mạt Để Ban Khâm (45), để học thơ luận. Mùa thu năm hai mươi bốn tuổi, tại chùa Ái Tự, Đại Sư theo ngài Nam Khách Tang Bố (nam-mkha' bzang-po) học tập "Niễn A Mai Long" (46).
Học tập xong, Đại Sư không những biết cách vận dụng văn chương ngôn tự chính xác, mà còn thâm nhập vào những nghĩa lý u huyền, cùng thể hội tất cả âm thanh vi diệu thâm mật.
Khi ngài Trát Ba Ráng Khúc Nhân Ba Thiết nhập tịch vào năm 1386, do sự cầu thỉnh của đại chúng, Đại Sư làm thi kệ tán thán, văn từ rất lưu loát bóng bảy tuyệt diệu, khiến ai ai cũng đều khen ngợi.
Trong hai năm tu học pháp Diệu Âm Thiên Nữ, Đại Sư được Diệu Âm Thiên Nữ hiện thân thuyết pháp, giảng dạy tất cả nghi thức. Vì vậy, Đại Sư chứng đắc vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Từ đó, những trước tác, văn thơ, kệ tán, chương cú của Đại Sư đều rất thanh tao bóng bẩy, lưu loát.
Lúc trú tại chùa Sát Tự, Đại Sư đã từng dẫn đệ tử là A Vượng Trát Ba đến chùa Đại Chiêu ở Lạp Tát, thọ trì Đại Bi Tế Giới trước thánh tượng Quán Thế Âm.
Năm 1386, Đại Sư đến các chùa Văn Địa ('On, tại vùng Văn Hà Hà Cốc), Trát Hy Đa Cát (Bkra-shis rdo-dkar, tại Hà Đông), Hoàng Như (Ke-ru, tại Hà Tây), v.v... giảng luận Hiện Quán Trang Nghiêm, Thích Lượng, Nhập Trung Luận, v.v... cho các đệ tử và tăng chúng nghe.
Kế đến, Đại Sư tới chùa Sát Tự ở Sát Cống Đường (47), duyệt xem đại tạng kinh Cam Châu (Kanjur) và Đơn Châu (Tanjur), nên đạt được vô lượng diệu huệ thù thắng.
Tối hôm nọ, vì muốn biết công nghiệp hoằng dương Phật pháp độ sanh như thế nào, Đại Sư cùng người đệ tử đến trước thánh tượng Quán Thế Âm, lễ bái khẩn cầu Đại Sĩ từ bi ứng mộng thọ ký.
Vào một đêm nọ, người đệ tử của Đại Sư (tức A Vượng Trát Ba) mộng thấy hai cái pháp loa từ trên hư không, dần dần bay vào y ca sa, rồi hợp nhất thành một. Thuận tay, A Vượng Trát Ba cầm lên mà thổi, khiến vang ra âm thanh lớn vô cùng (48).
Đại Sư cũng mộng thấy mình bay lên đỉnh núi Na Đường Nha Lạp Nha. Nơi đó, Đại Sư thấy có một tảng đá màu trắng bằng phẳng sạch sẽ. Trên tảng đá lại có một đóa hoa sen xanh đang nở rộ, với màu sắc vô cùng tươi thắm; cành hoa không khô héo; mỗi phần của cánh hoa đều đầy đủ rõ ràng. Trong mộng, Đại Sư bèn nhặt lấy đóa hoa sen đó, và nghĩ thầm: "Đây chính là biểu tượng cho thiền định giải thoát. Tại sao lại sanh xuất nơi này? Có phải đây là điềm dự báo rằng Ta sẽ tiếp thọ đạo Bồ Đề chăng?"
Bấy giờ, đột nhiên trên hư không có tiếng đáp:
- Chẳng phải! Đó là điềm thọ tướng duyên khởi viên mãn (49) !
Vào mùa xuân năm 1389, Đại Sư đến Cổ Vực (50), giảng giải luận Thích Lượng, Hiện Quán Trang Nghiêm, Nhập Trung Luận, Tập Luận, v.v... cho hơn bảy mươi tăng chúng. Bấy giờ, tại chùa Sát Tự, có một vị đại đức thật chứng, tên là Da Hiết Kiên Tham (Thubten Ye-shes Gyaltsen). Vị này tinh thông các kinh luận Hiển-Mật, và sở trường đặc biệt là Thời Luân Kim Cang (Kalachakra Cycle). Đại Sư cầu thỉnh vị đại đức này ban truyền Mật pháp, và được hứa khả. Do đó, Đại Sư theo ngài Da Hiết Kiên Tham đến vùng Giác Ma Lũng, rồi nghe giảng sớ Thời Luân Kim Cang Vô Cấu Quang Minh (51), cùng học tập tất cả sự tướng, v.v...
Vào mùa đông năm 1389, Đại Sư trú tại chùa Môn Lộ Trát Hy Đống (mon-kar Tashi Dong). Đêm nọ, Đại Sư cùng với đại chúng trong chùa đốt đèn đàm luận về truyện của các bậc cao tăng ở Ấn Độ và Tây Tạng. Đại Sư cảm thán, bảo:
- Xưa kia, lúc còn tại thế, ngài Huệ Sư Tử (Yeshe Shatonpa) giảng kinh thuyết pháp, mà không có bậc đại thiện tri thức nào sánh bằng. Trong pháp hội giảng kinh, cứ mỗi ngày, ngài Huệ Sư Tử giảng mười một bộ kinh luận khác nhau. Than ôi! Đời nay Phật pháp ngày càng suy vi. Đời sau e rằng khó mà nghe được Phật pháp.
Bấy giờ, có Hà Đốn Cách Tây (sa-ston) cùng các đại thiện tri thức cầu thỉnh Đại Sư:
- Khi đại thiện tri thức Huệ Sư Tử giảng kinh luận thù thắng, chúng con tuy vô phước không được nghe, nhưng hiện tại được nghe những lời giảng dạy của Đại Sư, thì cũng đã hoan hỶ muôn phần! Đại Sư học vấn thâm sâu u triết, quyết chắc làm Phật sự rộng lớn. Vì vậy, chúng con cầu thỉnh Đại Sư hãy làm như đại thiện tri thức Huệ Sư Tử, vị đã từng thăng tòa giảng mười một bộ kinh luận trong một pháp hội. Xin Đại Sư từ bi, chấp thuận lời cầu thỉnh của chúng con!
Thấy họ rất mực chân thành, Đại Sư từ bi chấp thuận, bảo:
- Nếu tôi cố gắng chút ít thì cũng có thể giảng được!
Ngày kế, Đại Sư nhập thất tĩnh tu, ôn duyệt lại tất cả bộ kinh luận, và định là ngày ba mươi sẽ ra thất, rồi sang tháng tới sẽ bắt đầu khai giảng.
Chư thiện tri thức và quần chúng Phật tử trong vùng nghe tin Đại Sư sẽ giảng mười một bộ kinh trong một ngày, nên vô cùng vui mừng hoan hỶ, và cùng rủ nhau đến nghe giảng kinh. Các Phật tử ở những nơi xa gần, sợ không thể tham gia được pháp hội nghe giảng kinh, nên liên tiếp gởi thơ đến, thỉnh cầu Đại Sư kéo dài ngày giảng kinh. Để mãn nguyện đại chúng, từ mồng một đến mồng bốn, Đại Sư chỉ giảng giải kinh luận của phái Cát Cử một cách khái quát. Từ mồng năm, Đại Sư mới chính thức đăng đàn khai giảng kinh luận. Hôm đó, đột nhiên Đại Sư tự tuyên bố là sẽ khai giảng mười lăm bộ kinh luận. Từ đó, trong mỗi ngày, Đại Sư liên tiếp giảng giải mười lăm bộ kinh luận mà không thiếu sót. Nơi đó, sau khi giảng xong hai bộ luận ngắn, Đại Sư tiếp tục giảng hai bộ luận khác. Tổng cộng, trong kỳ pháp hội đó, Đại Sư thuyết giảng mười bảy bộ kinh luận dài ngắn: Năm bộ luận của Bồ Tát Di Lặc, năm bộ luận Trung Quán (52), Tập Lượng Luận, Câu Xá Luận, Giới Kinh, Thích Lượng Luận, Nhập Hành Luận, Nhập Trung Luận, Tứ Bách Luận. Mỗi ngày, Đại Sư giảng giải đại sớ làm chủ yếu, còn những sớ sao khác làm phụ trợ. Lúc gặp những sớ giải bất đồng của các bộ phái, Đại Sư nhất định đưa ra những quan điểm khác nhau của họ, để biện luận chánh lý, rồi mới tự bàn luận. Do đó, những chỗ khó khăn vấn nạn của các bộ kinh luận đều được giải thích, và nghĩa lý chân thật được hiển bày.
Pháp hội giảng kinh kéo dài ba tháng mới kết thúc. Trong lần đó, tuy bận rộn với việc thuyết giảng, nhưng vào mỗi buổi tối, Đại Sư cũng vẫn tu trì pháp Đại Oai Đức Kim Cang, cùng các Mật pháp khác mà không khiếm khuyết gián đoạn. Thấy định huệ thù thắng của Đại Sư, thính chúng đồng sanh khởi tín tâm thù thắng hy hữu, và tán thán:
- Đại Sư nếu chưa đạt được sự gia trì đặc biệt của Bổn Tôn, thì cũng đã chứng đắc công đức tổng trì đà la ni của Bồ Tát Đại Địa. Nếu không thì tại sao làm được Phật sự rộng lớn như thế!
Về sau, trong pháp hội giảng kinh khác, Đại Sư lại giảng hai mươi mốt bộ luận đồng một ngày. Bảy năm trú tại chùa Đệ Ngõa Cẩn và các đạo tràng khác, trong mỗi pháp hội, Đại Sư thường liên tục giảng mười bộ kinh luận đồng một lúc. Đối với sự tu trì trước sau, Đại Sư nghiên cứu tu học hai mươi chín bộ đại luận. Mỗi lần giảng thuyết, Đại Sư đều chỉ bày những chỗ tinh yếu của các bộ kinh luận. Tại các nơi, Đại Sư thường biện biệt cho đến khi nào hiển xuất ra chánh lý mới dừng. Phật sự này thật rất khó khăn, nhưng Đại Sư đều ung dung tự tại mà giảng thuyết. Trí huệ siêu phàm của Đại Sư thật không thể nghĩ bàn!
Mùa xuân năm 1390, Đại Sư định đi khắp nơi để học các pháp Mật Tích Kim Cang Thừa, quán đảnh, mật truyền, sự tướng, v.v..., và muốn đến thân cận ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa, nên từ vùng Giác Ma Lũng, đi đến Tạng Đạt Thương (53).
Trên đường, Đại Sư ghé qua Khách Địa (54), Noa Kiếp Lũng (Rongurb-chos-lung), và y theo trụ trì chùa Thác Tự (tsong) là ngài Trát Ba Hiết Ninh (Dragpa Shenyen Rinpoche) học tập "Ngũ Thứ Đệ Luận".
Đương thời, có một vị Lạt Ma từ Tây Ninh đến, tên là Tôn Truy Tôn Cách (brtson-grus seng-ge), trú tại chùa Đệ Kiều Đăng (bde-mchog seng). Vì tinh thông luận Trung Quán thâm sâu, nên ai ai cũng tôn xưng vị Lạt Ma này là Lạt Ma Ổ Mã Ba (Umapa Pawo Dorje). Trong số đệ tử của Đại Sư, có Phước Xưng tam tạng pháp sư và Huệ Xưng thiện tri thức đồng đến cầu pháp với vị Lạt Ma đó. Lạt Ma Ổ Mã Ba bảo họ:
- Đại sư Tông Khách Ba tài năng siêu phàm, trí huệ thâm cao, đầy đủ bao loại công đức. Ta vốn ngưỡng mộ Đại Sư đã lâu, nên nay muốn đến đó để bái kiến cùng thỉnh cầu truyền dạy pháp quán đảnh Diệu Âm Thiên Nữ.
Về sau, lúc gặp nhau, Đại Sư cùng vị Lạt Ma đó rất vui mừng. Do lời thỉnh cầu, Đại Sư truyền dạy vị Lạt Ma đó pháp quán đảnh Diệu Âm Thiên Nữ. Cả hai ngài cùng đàm luận nghĩa lý Phật pháp, và hỗ tương ấn chứng sở học. Lạt Ma Ổ Mã Ba nói:
- Thuở thiếu thời, tôi được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hiện thân thuyết pháp. Tuy nhiên, vì e rằng đó chỉ là huyễn tướng, hoặc là ma chướng, nên tôi dùng bao phương pháp để kiểm nghiệm. Hiện tại, tôi cũng chưa dám xác định là chân hay giả. Đại Sư đã thâm nhập vào tâm tạng của Phật pháp, thấu triệt lẽ u huyền, xin thỉnh cầu hãy từ bi giải thích giúp hộ. Lại nữa, hôm nay đến đây tôi thật muốn cầu thỉnh Đại Sư dạy pháp quán đảnh.
Đại Sư bèn dùng nghĩa lý thâm sâu của Trung Quán, mỗi mỗi hỏi han rành rẽ tường tận, và cảm thấy hiện cảnh đó là chân thật, nên nói:
- Đã thấy rõ sự chân giả, từ nay Ngài chớ có nghi ngờ. Tuy nhiên, tuyệt đối chớ nên tự mãn, khiến quên mất mật ý. Ngược lại, Ngài hãy nên nỗ lực tinh cần, khẩn cầu Bồ Tát gia trì. Đối với chân thân thật ngữ của Bổn Tôn, không thể dùng các căn như mắt tai để quán sát nghe thấy. Chân thân thật ngữ đó cho đến cảnh giới của ý thức, phải quán sát thâm nhập tam ma địa mới có thể thấy được. Xưa kia, tôi cũng muốn thỉnh cầu thọ giáo pháp của Bồ Tát Văn Thù, nên chẳng bao lâu, tôi sẽ đến Đạt Thương, thân cận ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa.
Đàm luận xong, Đại Sư bèn cáo từ Lạt Ma Ổ Mã Ba, rồi dẫn đồ chúng đến Đạt Thương.