Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Kính mời các bạn góp sức bảo tồn tất cả các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam và thế giới, tiểu sử tăng ni, và Phật tử có công trong việc hoằng truyền Phật pháp.
Nội qui chuyên mục
- Trong quá chứ ban quản trị diễn đàn đã chịu rất nhiều phiền toái, do những kẻ giả mạo chùa và đoàn thể từ thiện để kêu gọi giúp đỡ. Một lần nữa chúng tôi yêu cầu tất cả các thành viên không được gởi thư kêu gọi từ thiện lên diễn đàn và chúng tôi không chịu trách nhiệm nội dung đăng tải bởi thành viên.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ tư (Ất Mão) - Hư Vân bảy mươi sáu tuổi:

Tháng bảy Âu Châu đại chiến (1914).

Nhật Bổn tấn công tỉnh Giao Châu và Thanh Đảo của Trung Quốc.

Một chuyện lạ xảy ra: Có một vị cư sĩ ở huyện Đặng Xuên, họ Đinh, đã làm quan Hiếu Liêm đời nhà Thanh. Họ Đinh có đứa con gái mười tám tuổi. Một hôm không biết thế nào, cô con gái bỗng bất tỉnh nhặn ngã đùng ra. Trọn gia đình đều hoảng hốt, sợ hãi. Một chập lâu cô ta tỉnh lại, ngồi dậy nói chuyện thì là giọng nói người đàn ông. Nó đứng phắt lên chỉ ngay vào mặt cha là Đinh Hiếu Liêm, giận dữ và mắng lớn:

- Thằng họ Đinh này, mầy cậy thế vu cáo ta là thổ phỉ, khiến ta phải mất mạng. Ta là người đất Tây Xuyên, phủ Đại Lý, tên là Đồng Chiến Bưu đây. Mầy có nhớ chăng? Nay ta lại Diêm Đường tố cáo ngươi để báo cừu tám năm về trước.

Nói xong, nó cầm dao rượt chém. Ông họ Đinh sợ hãi chạy trốn không dám về nhà.

Trong lúc ấy, quỷ cứ mỗi ngày nhập về làm cho cả nhà bối rối lo âu! Làng xóm kéo nhau đến xem như hội.

Lúc ấy, chùa Kê Túc Sơn có hai vị sư là Tố Cẩm và Tố Trị đến đất Đằng Xuyên làm Phật sự. Đi ngang qua nhà họ Đinh, thấy người, hai sư cũng lại vào xem. Thấy quỷ đang hành hung, một vị tăng nói:

- Ông không nên làm như thế. Cho tôi xin. Làm như vậy khiến cho dân chúng địa phương không yên.

Quỷ xừng xỏ đáp:

- Ông là người xuất gia, không nên nhiều chuyện. Việc tôi mặc tôi, ông chớ xen vào.

Nhà sư đáp:

- Đúng như vậy. Việc này chẳng quan hệ gì đến tôi. Nhưng sư phụ tôi thường nói "Oan gia nên mở chẳng nên buộc, Càng buộc thì càng chắc, biết bao giờ mới dứt được".

Quỷ ra chiều suy nghĩ một chập rồi hỏi:

- Thầy ông là ai?

- Sư phụ tôi là Hư Vân hòa thượng trụ chùa Chúc Thành.

- Ừ, ta có nghe danh mà chưa gặp. Nhưng không biết Hòa thượng có bằng lòng quy y cho ta không?

- Hòa thượng hành đạo đại từ đại bi độ nhất thiết khổ, làm gì mà không chịu.

Nói xong nhà sư day qua nói chuyện với người đứng cạnh bảo họ Đinh bỏ tiền ra đàn cầu siêu cho quỷ.

Vừa nghe được, quỷ nhất định la lên:

- Không, không! Nó làm tổn thương thiên lý và hại mất mạng ta. Ta không cần tiền và vật của nó đâu.

Vị sư bèn quay sang người hàng xóm khuyên :

- Vậy thì tôi xin bà con quí vị ở xóm đây chung góp làm lễ siêu độ, thì địa phương mình cũng được phúc và yên ổn đó.

Mọi người đều đồng ý. Quỷ với một giọng lớn đầy uất hận:

- Thù này chẳng báo thì biết bao giờ cái giận của ta mới nguôi. Nhưng kẻ trả thù thì oan oan tương báo, biết chừng nào dứt? Thôi, để ta đi hỏi Đại vương ta coi. Ngày mai nhà sư trở lại đây chờ ta nhé.

Quỷ xuất đi rồi, người con gái họ Đinh tỉnh lại như thường, bỡ ngỡ lui vào nhà trong.

Hôm sau, quỷ đến sớm, chờ. Khi hai nhà sư đến nó trách là lỗi hẹn.

Hai sư bảo:

- Vì chút Phật sự, nên đến trễ một chút thôi.

Quỷ nói:

- Ta hỏi Đại vương rồi, Đại vương nói: "Chùa Chúc Thành là một đạo tràng tốt", nên ta quyết tới đó. Xin nhờ sư thân đưa ta đi.

Thế là ngày hôm sau, một số thân hào địa phương này cùng hai vị sư đến chùa. Khi nghe bạch đầu đuôi sự việc Hư Vân thiết đàn tụng kinh và thuyết giới cho quỷ.

Năm Dân Quốc thứ năm (Bình Thìn) - Hư Vân bảy mươi tuổi:

Tượng Phật ngọc của cư sĩ Cao Vạn Bang tặng đã trải qua mấy năm chưa chuyển về được chùa, còn để tại Quán Âm Đình, vì nặng quá không thể cung thỉnh về Kê Túc Sơn một lượt với Long Tạng Kinh.

Hư Vân hòa thượng bèn đi Nam Dương lo sắp xếp đưa tượng về. Nghe nói địa phương này có nhiều người tin tưởng Phật giáo, nên nhân dịp Hòa thượng đến các địa phương Chưởng Đạt, Man Miên, Oa Tán, Lạp Tán để nhìn xem phong khí rồi đến Ngưỡng Nam (Rangooon) lễ Đại Kim Tháp và tìm Cao cư sĩ.

Ở chùa Long Hoa, Hòa thượng giảng xong kinh rồi đáp tàu đến Tân Gia Ba (Singapore).

Khi tàu đến Tân Nhai, các quan Tây ở đây đã cáo thị: "Tất cả dân Hoa kiều đến đây đều phải được giữ lại tra xét rõ ràng rồi mới được cho đi. Thế là mấy trăm hành khách ở trên tàu đều bị đưa đến nhà giam. Sau khi thẩm vấn lượt đầu, trừ sáu vị chúng tôi mà họ cho là thuộc đảng cách mạng và cho nhốt riêng.

Họ trói chúng tôi, đánh đập đủ điều và đem ra phơi nắng, bắt đứng không được nhúc nhích. Ai nhúc nhích cựa động là đòn liền vào đâu. Ăn uống thì chẳng có gì mà cũng chẳng cho đi tiểu tiện. Như vậy suốt một ngày từ năm giờ sáng đến tám giờ tối. Có một số đệ tử là Hồng Thạnh Tường và Đông Lão Bận hay biết tin tức, đến nhà giam xin lãnh chúng tôi ra với điều kiện là phải nộp năm ngàn đồng mỗi đầu người.

Sau khi ra khỏi nơi này, Sư lưu lại đây để qua năm và lo chuyên chở tượng ngọc Phật về chùa.

Năm Dân Quốc thứ sáu (Đinh Tỵ) - Hư Vân bảy mươi tám tuổi:

Mùa Xuân, từ Quán Âm đình bắt đầu công việc chở tượng ngọc Phật.

Tám người lực lưỡng được thuê đảm trách việc này. Giá cả đâu đó điều đình giao ước rõ ràng và đôi bên cùng đồng ý chấp nhận lộ trình từ Quán Âm đình đến chùa Chúc Thành, Kê Túc Sơn.

Hành trình trải qua nhiều núi non, đường lối kỳ khu... và đã đi được mấy chục ngày, đường sá hết sức hiểm trở, làm cho tượng đá đã nặng lại càng nặng thêm.

Một hôm, đến núi Dã Nhân, bọn phu lại sanh bụng nghĩ rằng trong lòng tượng có nhiều bạc vàng, châu báu, đồng tuyên bố không còn sức để khiêng nữa.

Sư khuyên chúng lắm điều lắm lượt mà chúng không đổi ý, chúng đòi tăng tiền công gấp đôi và nhất định không tiếp tục cuộc vận tải nếu yêu sách của chúng không được thỏa mãn. Liếc thấy gương mặt, cử chỉ của chúng, lóng nghe giọng nói của chúng, Hòa thượng biết lòng chúng sanh biến. Không thể lấy lời nhẹ nhàng và lý lẽ khuyến dụ được. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu óc của Sư, khi Sư thấy bên cạnh đường có một tảng đá rất to, ước chừng nặng đến mấy trăm cân. Vui vẻ và tự nhiên, Sư chỉ đá và hỏi:

- Các anh em xem, cục đá kia với pho tượng này đàng nào nặng hơn?

Mọi người đều đáp:

- Tảng đá nặng hơn ít ra cũng hai ba lần.

Không nói năng gì, Hòa thượng vén tay áo, bước đến nhấc bổng tảng đá lên, dời khỏi chỗ đó hơn một thước.

Bọn phu le lưỡi, lắc đầu sợ hãi, nhô nhô xin lỗi:

- Hòa thượng là Phật sống, chúng con xin xám hối.

Chẳng dám nói năng eo sách đòi hỏi gì nữa, chúng một mực ráp lại khiêng tượng và đến hôm sau thì tới nơi.

Sư trọng thưởng chúng một số tiền khá nhiều.

Bấy giờ nghĩ lại chuyện này, khi thuật lại, Hòa thượng thú nhận thật không biết tại sao mình lại có sức mạnh đở và dời tảng đá được như vậy, hình như là có Long thần Hộ pháp ám trợ.

Năm Dân Quốc thứ bảy (Mậu Ngọ) - Hư Vân bảy mươi chín tuổi:

Tháng sáu, hai ông Trương Huân và Khang Hữu Vy ủng hộ vua nhà Thanh bị truất phế làm vua trở lại, nhưng thất bại.

Phùng Quốc Chương lên thay là Đại Tổng Thống.

Tháng chín, ông Tôn Trung Sơn ở Quảng Đông được cử làm Đại Nguyên soái.

Bấy giờ, Đô đốc Đường Kế Nghiêu cho nhân viên mang thơ đến thăm hỏi Sư và hạ lệnh cho viên Tri huyện Tân Xuyên đến chùa mời Sư đến Côn Minh. Nể lòng và vì có thơ khẩn khoản yêu cầu của Đường Phái Viên, Hòa thượng phải rời Kê Túc Sơn về Vân Nam.

Lúc ấy đường đi rất gian nguy, tặc phỉ đón đường cướp của là chuyện thường.

Huyện quan biết thế, ý muốn phái binh hộ tống, nhưng Hòa thượng khước từ, mà chỉ cùng đi bộ với một đồ đệ là Tu Viện, đeo theo mình một nón lá, một chiếu cỏ, ít đồ dùng và ít quần áo cần thiết.

Tới truông Sở Hùng, gặp cướp đón đường. Chúng khám xét và lấy được thơ của Đô đốc Đường. Chúng làm dữ, muốn khảo đánh thầy trò Sư.

Sư bảo:

- Khỏi cần đánh đập, tôi muốn gặp viên Tổng Tư lệnh của các ông đây!

Chúng liền dẫ Sư và đồ đệ đến trước viên thủ lĩnh của chúng là Dương Thiện Phúc và Ngô Ngọc Hiển.

Khi gặp Sư, một trong hai tên hét to:

- Ông là ai?

- Hòa thượng núi Kê Túc.

- Tên gì?

- Hư Vân.

- Đi xuống tỉnh làm gì?

- Làm Phật sự.

- Làm Phật sự là làm cái quái gì?

- Vì nhân dân, cầu tiêu tai họa.

- Đường Kế Nghiêu là thằng ăn cướp mà Hòa thượng lại chịu nhọc nhằn đến giúp nó à? Nó là một con người rất xấu, một thứ đồ bỏ. Hòa thượng mà lui tới với nó rồi cũng thành xấu và đồ bỏ như nó thôi.

Sư đáp:

- Ông nói đến hạng người xấu, đồ bỏ, âu cũng khó mà nhận định được và cũng không phải dễ mà nói đến hạng người ấy.

- Nói như thế nghĩa là sao?

Đáp:

- Nếu quý ông đây và ông Đường đều là người vì dân vì nước, làm điều phước đức cho dân. Đến như những kẻ tay chân bộ hạ của quý ông cũng đều như thế cả, thì há chẳng phải người người đều tốt ư? Còn theo như chỗ xấu mà nói, nếu quý ông đây và ông họ Đường đều là người xấu, là bỏ đi, thì ông họ Đường cũng cho quý ông là xấu, là bỏ đi, là hạng chẳng ra gì vậy.

Đến nơi tốt thì ai cũng là người tốt. Đến chỗ hỏng thi kẻ kẻ đều là xấu, là bỏ đi.

Nếu như mọi người đều có thành kiến riêng, chống nhau như nước với lửa, thì chẳng sớm và muộn binh liền họa kết hại hết nhân dân, như vậy há chẳng phải kẻ kẻ đều là người bỏ, người hỏng hết sao?

Người dân còn biết trông cậy và theo bên nào? Theo phía trái, người dân lành là trộm cướp. Ngã phía mặt, họ là giặc thổ phỉ! Đáng thương hại biết bao!


Hai tên đầu lãnh nghe xong đều cười. Tên họ Ngô nói:

- Theo ông nói thì chẳng sai! Nhưng biết là sao cho tốt được?

Sư đáp:

- Theo như tôi thì các ông chẳng nên đánh nhau làm chi. Nếu nhị vị không chủ chiến, xin thỉnh nhị vị chiêu an.

- Như thế là Hòa thượng bảo chúng tôi đầu hàng sao?

- Không phải đâu. Tôi nói "chiêu an" là nghĩa như thế này: Nhị vị đây là bậc hiền tài, đáng cho quốc gia kêu gọi (đó là chiêu) để đem lại an ninh hạnh phúc cho địa phương. Chỉ xin nhị vị đừng giữ ý riêng tư, thì an dân cứu nước há không phải là việc tốt sao? Vì ràng các ông đây và ông Đường đều là người hiền tài của xứ sở.

Tên họ Ngô nói tiếp:

- Bây giờ phải hướng về chỗ nào để làm việc này?

- Phải day về cùng với họ Đường vậy.

- Không thể được. Họ Đường đã giết hết bao người của chúng tôi và còn đang giam giữ rất nhiều người khác của chúng tôi. Hôm nay chúng tôi chỉ muốn day về ông ta để báo thù há lại đi đầu hàng ông ta là có lý nào.

- Xin các ông đừng hiểu lầm lời nói của tôi. Tôi nói "Day về" với họ Đường để làm việc này là vì hiện nay ông họ Đường là quan sứ của chánh phủ trương ương, ông nắm quyền hành trong tay. Và ở tương lai, ông ta cũng là quan sứ của chánh phủ trung ương.

Về sau, nhị vị đây cũng sẽ là quan sứ như ông Đường, trong tay có nhiều quyền hành.

Ông Đường đã giết nhiều người của các ông, tôi đi chuyến này là để làm Phật sự siêu rỗi cứu độ hết những vong hồn binh sĩ. Còn như những người của các ông bị ông Đường bắt giam giữ, thì đi lần này tôi cũng xin ông Đường đại xá phóng thích hết.

Nếu như các ông không chấp nhận lời tôi nói mà cứ bạo động, thì xưa nay trong chỗ chiến tranh, thắng bại khó nói trước được. Đem đôi bên đối chiếu, thì nhị vị và họ Đường, mỗi bên đều có lực lượng, nhưng xét cho cùng thì khó mà đem hai ông ra so sánh với họ Đường. Tại sao? Chỉ vì họ Đường có người có của, có phương tiện hỗ trợ, có trung ương hậu thuẫn.

Tôi hôm nay, thật không có ý tìm nhị vị để chiêu an, nhưng giữa đường gặp chuyện, nên vì nước vì dân mà nói cho dứt chiến tranh, đem lại an lạc chung cho đất nước. Đó là điều nguyện của kẻ tu hành này.

Dương Thiên Phước và Ngô Ngọc Hiển đều cảm động khi nghe Sư thuyết, bèn xin Hòa thượng đứng ra thay mặt cho họ điều đình với Đường Phái Viện.

Hòa thượng nói:

- Làm đại biểu cho nhị vị thì tôi không dám. Xin các ông nêu ra điều kiện. Khi gặp cơ hội, tôi sẽ nói chuyện với họ Đường.

Hai ông Dương, Ngô bàn luận với nhau đôi ba lượt, nêu ra sáu điều kiện như sau:
  • 1. Trước khi chiêu an, phải thả những người của chúng tôi bị bắt.
    2. Không được giải tán binh đội của chúng tôi.
    3. Không được thủ tiêu chức quyền của chúng tôi.
    4. Hàng ngũ quân đội của chúng tôi do chúng tôi nắm giữ và điều khiển.
    5. Cuộc chiến đôi bên đã xảy ra trong quá khứ, chẳng nên đem ra cứu xét nữa.
    6. Sau khi chiêu an, quan sĩ hai bên phải được đãi ngộ giống nhau.
Sư bảo:

- Những điều kiện này, theo tôi không có gì là khó mà không chấp nhận và thi hành được. Hãy đợi khi tôi thảo luận với ông Đường. Sau đó sẽ có công văn chánh thức đến nhị vị để cùng bàn bạc thêm.

Ông Ngô nói:

- Chúng tôi rất tin tưởng và vô cùng cảm tạ thâm ân!

Sư liền kiếu từ.

Hai ông này cho sửa sang xe ngựa, quân hộ vệ, đưa theo lương thực và tiền lộ phí. Sư đều khước từ, chỉ nhận một ít lương thực mang theo ăn đường mà thôi.

Khi ra khỏi trại, Sư gặp ngay một số người quỳ sắp hàng hai bên đường lạy Sư. Nhìn rõ thì là những người lính hôm qua đã hành hung và toan đánh đập Sư. Hòa thượng an ủi và khuyên họ từ nay đừng làm những chuyện không lành. Tất cả đều cảm động và ứa lệ.

Hòa thượng đi lần đến Côn Minh. Đô đốc họ Đường tiếp đón rất thân mật, đưa Sư về chùa nghỉ ngơi. Hôm sau lại gặp nhau, ông Đường Kế Nghiêu tâm sự:

- Cùng Pháp sư xa cách có mấy năm mà gia đình tôi có lắm điều biến đổi, đau buồn. Cha tôi, vợ tôi và người con trai tôi kế tiếp nhau qua đời. Lòng buồn không dứt, lại thêm thổ phỉ khắp nơi nổi dậy, nhân dân không yên sống, quân binh tướng sĩ chết và bị thương rất nhiều. Hồn oan vất vưởng đó đây, không an định. Tôi thấy cần thực hiện ba việc như sau:
  • 1. Thiết một đàn tràng, làm một Phật sự rộng rãi, cầu Phật gia bị tiêu tai ách, cầu siêu cho các vong linh.
    2. Lấy chùa Viên Thông làm một đại tòng lâm để hoằng dương Phật pháp.
    3. Xây dựng một trường Đại học quy mô để giáo dục thanh niên.
Việc xây dựng trường ốc thì tôi đã có người đảm đang gánh vác được. Riêng hai việc đầu, ngoài Hòa thượng ra, không một ai có đủ khả năng đảm trách.

Hoan hỷ, Sư đáp:

- Ông phát nguyện rất lớn. Kẻ tu hành này tự xét chưa đủ năng lực và đức hạnh để gánh vác. Phải có nhiều Đại đức kết hợp mới thực hành được. Trong nước, hiện nay có nhiều bậc tu hành đạo đức cao thâm. Riêng tôi thấy địa điểm chùa Viên Thông chưa đáp ứng và thích hợp cho một cảnh đại tòng lâm như ý ông muốn, vì rồi đây, sau khi kiến thiết xong sư tăng trụ trì phải đông đảo. Xin ông để cho tôi suy xét lại khoản này.

Còn như việc siêu đàn Phật sự thì nay tôi sẵn sàng thay ông gánh vác.

Ông Đường đáp:

- Đại sư bảo địa thế chùa Viên Thông không thích hợp cho việc xây dựng một ngôi chùa đại quy mô, ý kiến rất cao và hay. Chính tôi cũng thấy thế. Vậy việc đó sau này chúng ta sẽ bàn. Còn như làm Phật sự cầu siêu thì Sư định tiến hành như thế nào?

Sư đáp:

- Tâm và Phật cùng một thể. Ông làm việc này là vì nước vì dân, nơi tối tăm, nơi sáng sủa đều được lợi! Theo ý tôi, trước khi làm Phật sự, ông cần quyết định ba việc này:
  • 1. Ngày cử hành, khi nơi bắt đầu hành lễ, tụng kinh được trọn vẹn, cả nước này không được giết chóc.
    2. Đại phóng thích tù nhân.
    3. Phát chẩn cứu giúp người dân bị nạn, bần cùng.
Ông Đường đáp ngay:

- Việc thứ nhất và thứ ba thì có thể thực hiện ngay liền. Còn việc thứ hai là thuộc quyền Tư pháp của Chánh phú Trung ương, tôi không tự chủ được.

Hòa thượng nói:

- Hiện nước nhà nhiều việc, Chánh phủ Trung ương đã chẳng có thể ngó ngàng tới. Thiết tưởng ông chỉ cần người đứng đầu đại diện Bộ Tư pháp ở đây thương lượng châm chước mà làm thì có thể được, để đón sự tốt đẹp lành hiền của trời đối với chúng dân, người sống cũng như người quá vãng.

Nghe xong, ông Đường gật đầu, rất hài lòng lòng và bảo:

- Ngài nhắc khéo, tôi sẽ uyển chuyển làm xong việc này.

Luôn đà, Hư Vân thuật lại câu chuyện trên đường đi đến đây gặp Dương Thiên Phúc và Ngô Ngọc Hiển, và nói:

- Nhờ cuộc đại xá này, ông rộng lượng phóng thích người của họ và tỏ lòng hòa hưỡn, mong muốn hòa bình, đem lại an lạc cho chúng dân thì việc chiêu an đối với họ không có gì khó khăn vậy. Phương chi việc làm của ông đây, một công mà ông hoàn thành được hai việc lớn, thật là đại phúc đức cho đất nước. Bao nhiêu lũ giặc chòm xóm khác nhau rồi sẽ quay về với ta.

Thế là cuộc cầu an siêu độ được thực hiện kết quả và công cuộc chiêu an cũng thành công mỹ mãn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ chín (Canh Thân 1920) - Hư Vân tám mươi mốt tuổi:

Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ tám, tại đền Trung Liệt ở Côn Minh, với tám mươi tuổi, Hòa thượng vẫn còn đủ dẻo dai, sau khi hoàn thành đạo tràng thủy lục cầu siêu tạo duyên cho cuộc chiêu an hai họ Dương, Ngô và Đường Phái Viên, tiếp tục giảng kinh và làm lễ quy y cho nhiều người.

Tiếp đó, Hòa thượng sang giảng kinh tại chùa Hoa Đình là một ngôi chùa xưa, phong cảnh rất đẹp. Nhưng các sư ở đây không đủ sức trụ trì, khiến cho chùa ngày càng hoang phế. Gần đây tự tăng lại còn muốn bán cho người Tây phương là Câu lạc bộ với sự đồng ý phê chuẩn của chánh quyền địa phương. Rất băn khoăn và mến tiếc cảnh thiền, Hòa thượng bèn can thiệp với Đường Phái Viên xin ông cố bảo tồn cảnh chùa tốt đẹp uy nghi này.

Họ Đường nhận lời và âm thầm thảo luận với các ông Vương Cữu Linh, Trương Chuyết Tiên để sắp xếp công việc.

Trước tiên, ba vị đứng ra tổ chức một cuộc lễ cúng chay tại chùa, mời đông đủ quan khách, thân sĩ, tín đồ, bổn đạo có cả chánh quyền địa phương tham dự, và Hòa thượng Hư Vân chứng minh,

Ngay trong buổi lễ trang nghiêm, ông Đường đứng lên rút trong tay áo một tấm thiệp kính thỉnh Hòa thượng về trụ trì ở chùa này, đồng thời hai ông Linh, Tiên và toàn thể thân hào, nhân sĩ, bổn đạo của chùa rất đông cũng đứng lên thiết tha yêu cầu Hòa thượng chấp nhận đề nghị này dể dửa sang lại cảnh chùa và lập quy củ xưa nay.

Trước tình thế, chánh quyền địa phương cũng thuận tình và khuyến khích.

Như vậy là Hư Vân về trụ trì ở đây, chấm dứt nạn bán chùa và sau đó chùa được sửa tên lại là "Vân Thê Tự".

Cuối mùa Đông, Đô đốc Đường Kế Nghiêu lìa nhiệm sở qua Hương Cảng. Nguyên do như thế này: Mùa thu trước đó, một vị tướng lãnh quân đội Vân Nam là Cổ Phẩm Trần mưu hạ bệ ông Đường Kế Nghiêu để đoạt quyền chánh tại tỉnh Vân Nam. Nhưng vì mến tin Sư, một đêm khuya, ông bí mật đến chùa tham khảo ý kiến Sư. Thành thật Sư bảo:

- Ngài rất được lòng dân đất Vân Nam mà chưa được lòng hết tướng sĩ. Nếu gây cuộc xô xát thì hai bên đều thiệt hại to, mà thế lực ngoại lai sẽ thâm nhập vào, thì lại nguy hơn cho cả đôi bên và dân chúng. Theo ý bần tăng thì ngài nên thừa dịp này phát tâm Bồ đề dẫn dắt cho Cổ Phẩm Trần thấy lòng khoan dung đại độ của ngài đẻ mà suy nghĩ, tự vấn lương tâm hầu xóa đi lòng tham luyến hư danh của y. Trong khi ấy, ngài bảo tồn thực lực của mình chờ đợi một nhân duyên sau này. Tôi thấy Cổ Phẩm Trân không phải là người tệ, kém đức hạnh và vô sĩ đâu.

Ông Đường cho là phải, nên cuối Đông ông dàn xếp xin nghỉ việc, nhường địa vị cho Phẩm Trần. Đêm ba mươi tháng chạo năm đó ông liền sang Hương Cảng.

Cũng trong năm ấy, cư sĩ Trương Chuyết đưa một cặp ngỗng trống mái để phóng sinh. Hòa thượng thuyết quy y cho chúng. Lúc làm lễ, cặp ngỗng đứng cúi đầu, yên tĩnh. Khi thuyết xong, cặp ngỗng nhô đầu lên xuống như lạy, dáng vẻ rất mừng.

Từ ấy chúng thường theo chư tăng lên điện đi vòng quanh bàn Phật, ngỗng nghe tiếng niệm Phật của tín đồ và chư tăng. Ngày tháng nào cũng thế, người nhiễu Phật, ngỗng đi theo, khiến ai trông thấy cũng vui và thương mến.

Ba năm qua! Một hôm ngỗng mái tự nhiện lên đại điện đi ba vòng chung quanh bàn Phật, đứng im lặng ngóng cổ nhìn Phật rồi hóa thân. Chư tăng để xác nó vào một cái hộp và đem chôn nó ở vườn chùa. Ngỗng trống kêu luôn mấy ngày, buồn bã không ăn, cứ đến trước chánh điện đứng ngay ngắn nhìn Phật, xòe hai cánh dáng như bay đi rồi chết! Chư tăng cũng để xác nó vào hộp, cũng đem chôn gần bên mộ ngỗng cái, và đắp gạch đá lên làm một ngôi mộ chung cho chúng.

Nghe chuyện, Ông Trương Chuyết rất cảm động làm bài "Vân Thê (tên mới của Hoa Đình Tự) song nga vãng sanh ký".

- Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều kham tác Phật. Chỉ vì mê muội nên xây lưng với bổn tánh, khởi cảm tạo nghiệp mà thọ sanh trong nẻo thiện ác, quay lăn như bánh xe trong ba cõi, không có lúc dừng.

Chúng ta, tuy nay sanh ra làm người, đối với tất cả chúng sanh khác loại, vẫn cùng chung bình đẳng ở chỗ nguồn gốc. Bởi vậy, không nên lấy sự khác nhau về thân hình mà ngạo ngó. Như ngỗng kia, miệng không ăn thịt, đi thì sắp thành hàng, lại không thay vợ đổi chồng, rất đáng cho Liên Trì đại sư tặng xưng là đạo nhân, quả là một giống chim khác thường vậy!

Tôi có cặp ngỗng, nhưng khổ vì không đất, nên đành đưa lên chùa Vân Thê để làm trường sanh nga (ý nói để không bị ai giết). Chùa có mấy con gà phóng sanh, thường bị chồn lén bắt ăn. Nhưng từ khi có đôi ngỗng lên chùa, các chú chồn bớt về giết hại. Ngoài chùa có ao phóng sanh, mỗi ngày ngỗng xuống tắm, đùa giỡn với nước, chiều về giữ cửa chùa.

Mùa hè năm nay, tôi lên chùa không thấy đôi ngỗng. Hỏi thăm, Hòa thượng bảo: Cư sĩ phóng sanh, công đức thật không đo lường được! Tháng trước, mỗi sớm chiều công phu, thường thấy đôi ngỗng đứng trước cửa điện, ngóng cổ ngó Phật, mắt không nháy chập. Nghe tăng niệm Phật, chúng xòe cánh kêu to tựa lòng hoan hỷ. Một hôm, con mái kêu dài mấy tiếng rồi chết. Người chùa bồng lên đem chôn phía ngoài. Con trống bỏ ăm mấy ngày, cũng không xuống ao giỡn nước, kêu la thảm thiết, ra chỗ chôn kiếm bạn dáng điệu thật là bi khổ. Nhưng ngày ngày lên điện ngó Phật như trước. Sư Duy Na thấy ngỗng quá thảm, đánh khánh cáo nói: "Ngươi mất bạn thân khổ. Đã biết ngó Phật thì niệm Phật A Di Đà cầu sanh Cực Lạc, chẳng nên mê luyến cái thân khổ não".

Đại chúng trợ ngỗng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Ngỗng ngưng tròng lóng nghe, cứ mỗi tiếng khánh là một câu niệm Phật, ước lối mười tiếng, ngỗng quặp cổ bái Phật, đi quanh ba vòng, giương cánh đập một cái thu cánh lại quỵ xuống rồi an nhiên mà đi.

Ngỗng này vì nhân duyên nào mà thoát thân ảo hóa trong sát na, liễu sanh tử trong một niệm, không hổ với danh "Đạo nhân".

Há lấy con mắt xem cầm thú mà ngó ngỗng được ư?

Ấy nhờ phước báo mà được thân người, thêm nghe chỉ đường tác Phật, lại tin biết có pháp môn Tịnh Độ, mấy năm niệm Phật, tối sáng nối qua, đến giờ lâm chung, năng giữ bổn tâm, không cho điên đảo, ý không tham luyến, một niệm công thành, vãng sanh Cực Lạc, làm người mà khó được như vậy thay huống chi loài ngỗng, là loài không có lưỡi của két để nói, không biết bình nhật tâm năng niệm Phật.

Sự ngỗng mái chết, đồ chúng không tỉnh thấy cái lạ lùng. Ngỗng trống nghe niệm Phật mười tiếng, đi nhiễu ba vòng, đập cánh đứng yên mà hóa, khá biết đến chùa ba năm, sớm chiều nghe tiếng tụng kinh, niệm Phật, ngỗng ắt đã mở mang linh giác. Cho nên, trên một tháng, ngay cổ ngó Phật, nhứt tâm cắt đứt dòng tư tưởng, ngó tượng mà thành tựu vãng sanh, thêm Phật lực gia bị nên mới được giải thoát.

Tôi xấu hổ không được như ngỗng, không dám làm thinh, viết khắc lên đá, khuyên người đến sau.

(Ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền thoát dịch, Từ Quang số 105, tháng 10-1960).

Nguyên chữ Hán:
  • Chúng sanh tất hữu Như Lai Tạng
    Vân hà dư loại các thú hình
    Khởi hoặc tạo nghiệp mê bổn tánh
    Cố hữu vô biên chư chúng sanh
    Phật tri Tâm, Phật chúng sanh nhất
    Vô nhị biệt cố dĩ phổ đệ
    Pháp giới chúng sanh dư vi minh
    Thừa thủ nguyện luân thành chánh giác
    Trực giao phàm thánh nhật đạo hành
    A Di Đà Phật đại nguyện thuyền
    Quyên phi nhuyễn độc câu lai thừa
    Dư văn A Đông anh vũ điểu
    Xiển phát tín thâm nguyện dữ tính
    Dư phóng song nga vô biệt ý
    Bất nhẫn thị nga tạo cát phanh
    Tống chi trường đường Vân Thê Tự
    Triền tịch đắc văn phạm bối kinh
    Hùng thư lưỡng lưỡng thăng Phật điện
    Diệu văn Phật hiệu dã thính kinh
    Dẫu lĩnh chiêm ngưỡng Thế Tôn tướng
    Mục bất tạm thuấn thân đan thanh
    Nhất triều tư nga thủa nhiêu thụ
    Hùng dã tuyệt thực thường ai minh
    Thê lương uyển chuyển tâm tất đắc
    Biệt ngẫu khởi phục phủ thanh bình
    Xung vũ vọng văn đồ diện điệu
    Cưỡng chấn nhược vũ nhận đan đình
    Cánh văn thiện sư giáo niệm Phật
    Tây phương Cực Lạc thị quy trình
    Khúc cảnh lễ Phật nhiễu tam tập
    Phách xí ủy túc mục toại minh
    Sát na giải thoát phàm điển xu
    Nhất niệm đốn siêu hà kỳ linh
    Tướng dĩ hóa sinh An Dưỡng độ
    Cụ chư tướng hảo dữ thông minh
    Thân thụ Di Đà cập hải chúng
    Hiện tại phần chứng Vô Lượng Quang thọ
    Tương lai cứu cánh viên chứng
    Vô Lượng Quang thọ chi hồng danh.
(Phật lịch năm 2950, năm Canh Thân, sau tiết Đông Chí ba ngày, Hoàng Tây cư sĩ Trương soạn và viết).

Tám mươi hai tuổi Hư Vân không làm được việc này, còn ta?? Sống vô ích thật với tuổi tám mươi hai của ta (1992).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ mười (Tân Dậu 1921) - Hư Vân tám mươi hai tuổi:

Mùa Xuân, ông Cổ Phẩm Trần thay thế ông Đường Kế Nghiêu làm đô đốc tỉnh Vân Nam.

Qua tháng hai, trời mưa không dứt, đất đai ngập lụt, trong thành phố tỉnh Vân Nam có thể chèo thuyền đi được. Mỗi ngày, trên lầu thành đều bắn súng đại bác chỉ thiên, tiếng nghe long trời (oanh thiên = bắn trời) cố đánh tan cụm mây, nhưng vô hiệu.

Đến tháng bảy, nước rút đi, lại hạn hán nối tiếp cho đến mùa Đông. Sông ngòi vẫn cạn, thậm chí giữa lòng sông nước cũng bốc hơi bay lên ngùn ngụt. Thật xưa nay Vân Nam chưa hề gặp nạn thủy hạn như thế này.

Thậm khổ hơn nữa, sang Thu khí độc lại bốc mạnh lên, bệnh dịch và yết hầu hoành hành, người chết kể cả ngàn.

Kinh khủng! Gặp hạn hung Hòa thượng đình hoãn mọi Phật sự.

Một hôm, sáng sớm Hòa thượng từ Vân Nam trở về chùa Hoa Đình (nay đổi tên là Vân Thê), giữa đường ngồi dưới bóng cây to nghỉ mát. Chợt thấy một cái gói dưới đất, mở ra thì thấy bào vòng vàng, chuỗi hột, nào tám ngàn đồng bạc Vân Nam, nào tiền mười ngàn Pháp quốc. Xem xong Hòa thượng gói lại, chờ người đánh rơi đến cho lại. Đợi mãi chẳng thấy ai đến. Trời đã về chiều và sắp tối, Hòa thượng đành mang gói về chùa, ý định hôm sau sẽ đăng báo tìm người mất của.

Khi đi gần đến chân núi, phải ngồi thuyền qua một lạch sâu. Ngó lên bờ Hòa thượng thấy một người con gái nhảy xuống nước tự tử. Bèn chạy đến và đốc xuất người vớt lên. Nhưng người này cố một chết, không chịu để cho ai cứu và nằng nặc đòi chết. Hòa thượng khuyên dứt mới chịu theo về chùa. Lúc ấy trời đã tối rồi. Khi về đến chùa, Hòa thượng dạy người con gái thay áo quần rồi bảo dọn cơm cho ăn. Nàng một mực từ chối và cứ khóc. Hòa thượng lấy lời khuyên lơn, dạy dỗ. Bấy giờ cô ta mới thú thật tâm sự của mình, nàng vốn họ Châu, người Trường Sa, nhưng sinh trưởng ở Vân Nam, mười tám tuổi. Cha ở thành nội chủ một hiệu thuốc. Nàng là con một, được cha mẹ gả cho viên tướng họ Tần, vì tưởng rằng họ Tần chưa vợ như lời y nói. Nhưng khi ván đã đóng thuyền mới hay ra chàng ta đã có vợ rồi. Việc đã dĩ lỡ, cô cũng cam số phận, nhưng người vợ lớn lại quá độc ác, đã mấy lần đánh đạp cô ta tàn nhẫn. Cha mẹ nàng lại sợ uy thế của chàng rễ họ Tần. Thế là thân cô lâm vào cảnh muốn sống không được, muốn chết cũng không xong. Vì cớ ấy, nàng mới gói của tư riêng, định lên Kê Túc Sơn tìm Hư Vân hòa thượng lạy xin xuất gia. Nhưng thân gái dặm trường, đường sá không biết, đã hai hôm rồi mà đi chẳng tới đâu. Vừa sợ người nhà đuổi bắt, lại đánh rớt mất gói của, đau khổ quá, chỉ còn có nước tự vận cho yên thân.

Nghe xong Hòa thượng hỏi trong gói có những gì? Nàng thưa rõ thì đùng y số đồ trong gói.

Hòa thượng thấy đúng bèn trao trả, an ủi và dạy pháp sư ở chùa thuyết đại ý quy y cho nàng nghe. Sáng hôm sau, Hòa thượng cho người đến bao tin gia đình cô hay.

Không bao lâu, cha mẹ cô, cả người bên gia đình nhà chồng cô đều đến chùa. Hòa thượng thuyết pháp cho gia đình hai bên nghe. Người chồng và chị vợ lớn đến trước Phật đài van vái, và thệ nguyện sám hối, rồi cùng nàng họ Châu về mà khóc. Mọi người đều cảm động.

Toàn đoàn lưu lại chùa ba hôm, phát tâm xin quy y, xong rồi mới xuống núi.

Năm Nhâm Tuất - Hòa thượng Hư Vân tám mươi ba tuổi:

Bắt đầu năm này, Hư Vân xây dựng sửa sang lại chùa Hoa Đình, tức là chùa Vân Thê này. Nguyên căn gốc rễ của chùa như sau:

Phía bờ tây hồ Côn Minh có Bích Kê Sơn. Sao lại có tên Bích Kê Sơn?

Nguyên vị thái tử thứ nhì của vua A Dục Vương có đến nơi này, thấy một bầy chim phụng, lông một màu xanh biếc rất đẹp hay bay tụ về ở đây. Bèn ở đó tu luyện thành đạo, được phong là Bích Kê Thần. Do đó, núi được gị là Bích Kê Sơn. Núi có nhiều ngọn như những bức bình phong, trông rất ngoạn mục. Trên núi lại có một ngôi chùa rất lớn, phong cảnh thanh u.

Thời nhà Nguyên có vị Huyền Phong thiền sư đắc pháp dưới tòa của ngài Trung Phong Bổn Quốc Sư chùa Tây Thiên Mục, tới núi này mở đạo tràng, đặt tên chùa là Viên Giác Tự. Rồi về sau chùa lại đổi tên là Hoa Đình.

Năm trước đây, người ta sắp sửa bán chùa này cho người ngoại quốc, kịp khi ấy Hư Vân hòa thượng lại đến. Trước tình thế ngài rất đau lòng cho Phật pháp ở đây, bèn điều đình, nhờ đô đốc Đường Kế Nghiêu khéo dàn xếp mà chùa không bán được và giao lại cho ngài Hư Vân ở trụ trì, và chùa được đổi tên là Vân Thê Tự.

Khởi đầu năm nay, Hòa thượng cùng chư Tăng ra phía sau núi, trong rừng đốn gỗ, khuân đá để trùng tu sửa sang lại chùa. Hòa thượng nhặt được một bao đựng tiền bạc và vòng vàng trị giá trên hai mươi vạn đồng. Có người đề nghị nên giao cho chánh phủ làm việc chẩn tế. Có người lại nghĩ nên giữ lại cho thường trụ đang sống trong cảnh thiếu hụt.

Hòa thượng bảo:

- Theo giới luật, tăng nhân không được lượm của rơi. Nay đã lượm lại còn giữ mà dùng là phạm giới vậy.

Tăng chúng cho là phải, nghe theo bèn đem tất cả của ấy ra chẩn tế cho người nghèo.

Vân Nam liên miên hạn hán, đất khô nức nẻ, mùa màng hư hoại, nhân dân đói khổ, bệnh dịch hoành hành, người chết vô kể. Từ tướng lãnh sĩ dân không ai không tưởng nhớ đên cao đức của Đường Phái Viên lúc bấy giờ đã cáo quan, nhường vị lại cho ông Cổ Phẩm Trần. Và lúc này không ai không rõ nguyên do vì dân vì nước là Đường đại nhân có hành động này. Thế là tất cả đều đưa kiến nghị xin đón ông Đường về nhận chức cũ.

Họ Đường trở lại Vân Nam. Việc làm đầu tiên của ông là thỉnh Hư Vân hòa thượng đảo võ cầu mưa. Sau ba hôm thiết đàn, mưa to đổ xuống (sau năm tháng trời hạn hán gắt gao, nắng đổ lửa cháy hết cỏ cây mùa màng, không có một hột mưa, dù lúc ấy giữa mùa mưa gió).

Mưa tuy có, nhưng bịnh dịch còn chưa giảm.

Ông Đường bàn với Hòa thượng:

- Tôi nghe nói hễ có tuyết là hết dịch. Nay là mùa Xuân thì làm sao có tuyết được?

Hư Vân đáp:

- Với lòng thành vì dân, ông chí thành khấn nguyện. Còn riêng tôi, bần tăng xin hết sức hết tâm kiến lập đạo tràng cầu tuyết.

Họ Đường nghe theo, trai giới trong sạch thân tâm, hết lòng cầu nguyện. Hòa thượng nhất tâm tinh tiến lễ tụng trai đàn.

Qua một ngày đêm thì tuyết xuống. Bệnh dịch tiêu mất dần. Dân chúng vui mừng, tán thán sự linh ứng không thể nghĩ bàn của đức Phật.

Năm Dân Quốc thứ mười hai (Quí Hợi 1923) - Hư Vân tám mươi bốn tuổi:

Hư Vân khởi công xây một cây tháp đặt tên là "Thất Chúng Hải Hội" tại chùa Vân Thê. Phía tay mặt cùa chùa có nhiều ngôi mộ xưa, các dọc cái ngang hỗn tạp, không đẹp mắt chút nào. Khi tháp dựng xong, Hòa thượng cho bốc mấy mộ này lên, lấy cốt cho vào tháp.

Trong khi bốc mộ, dân phu phát hiện được một ngôi mộ, có tấm bia đá khắc mấy dòng chữ: Năm Quang Tự nhà Thanh, Tỳ kheo Đạo Minh từ lúc còn nhỏ bị bại hai chân không đi đứng được. Cha mẹ cho xuất gia. Sau khi thọ cụ túc giới, Đạo Minh phát tâm lễ Phật, sám hối, cầu nguyện, trì đức thánh hiệu Quán Thế Âm. Một hôm, Tỳ kheo mộng thấy Bồ tát Quán Thế Âm dạy vào hang đá lấy nước rửa chân. Nghe theo lời dạy, Đạo Minh lần vào hang lấy nước rửa chân. Rửa xong nhìn lại thì không thấy Bồ tát đâu nữa mà hai chân thì thơ thới lạ lùng.

Sáng ra, tự bước xuống giường được và đi đứng như người thường.

Từ ấy trí huệ lại rộng mở và suốt đời chuyện niệm danh hiệu ngài "Đại Từ, Đại Bi, Đại Trí, Đại Lực, Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ tát".

Lại thấy trên nấm mộ của Đạo Minh có mối đùn, Hòa thượng không cho bốc mà giữ yên và dựng ngay lên đó một ngôi tháp nhỏ để kỷ niệm một lòng tin và một kết quả tu trì của một vị tăng.

Qua năm sau, tính lại thì khi về trụ trì tại đây, ở núi này Hòa thượng vừa kiến thiết, vừa trùng tu tất cả hai mươi sáu ngọn tháp, sơn phết sửa sang lại các tượng Phật ở các chùa, cùng với năm trăm tượng La Hán và cũng là đại diện của chùa Thắng Nhân. Ngoài ra cũng đúc được ba tượng Phật đồng rất lớn.

Cũng trong năm này, phía Tây hồ Côn Minh của tỉnh Vân Nam, chùa Quán Âm Sơn, mỗi năm vào ngày mười chín tháng sáu âm lịch, cử hành lễ giỗ Quán Thế Âm thành đạo. Dân chúng hội nhau đến rất đông đảo.

Có người khách đi hành hương là Trần Tiểu Phú cùng họ hàng cả thảy mười ba người, đi lễ chùa. Đường đi qua đất Đại Quan Lâu phải đáp tàu máy. Mọi người đều lên tàu. Duy có một cháu nhỏ, con của ông họ Trần, sáu tuổi một mình đứng lại, kêu gào rầm rĩ không chịu lên tàu, như có điều gì làm cho nó hãi hùng kinh sợ, la khóc thất thanh và đứng lên! Bà Trần kéo lên nó cũng hết sức vẫy vùng chống cự lại, không chịu theo. Ông họ Trần không còn biết làm cách nào, nên cả gia đình đành trở lại lên bờ.

Trong khi đứa bé còn mếu máo thì tàu rút đõi, kéo neo mở máy chạy. Tàu chạy được nửa dặm, bỗng nghe một tiếng nổ vang động, đáy tàu chổng ngược lên, tàu nghiêng lộn ở trong nước rồi chìm. Mọi người trên tàu đều chết.

Ông Trần và cả gia đình đều hú hồn. Khi về đến nhà, ông bà Trần hỏi con sao không chịu lên tàu. Đứa bé đáp;

- Con thấy bên cạnh tàu, có một người hết sức lớn đứng sừng sững, sắc mắt xanh lè, răng lồi chơm chỏm, tay cầm chĩa ba bằng sắt, hình dạng dữ tợn lắm. Con sợ quá không dám lên tàu.

Trọn gia đình ông Trần nhờ đứa bé mà tránh khỏi tai nạn. Từ đó ông hết lòng tin tưởng Phật. Chính vùng đất cất chùa Thắng Nhân nói trên là do ông dâng cho vậy.

Rồi từ đó về sau, ông Trần và cả gia quyến là những cư sĩ hộ pháp rất nhiệt tình.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 11/03/15 05:39 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ mười ba (Giáp Tý 1924) - Hư Vân tám mươi lăm tuổi:

Giới đàn mùa Xuân vừa xong là sư Cụ Hành tự thiêu. Nhân cảm xúc trước sự việc, Hư Vân hòa thượng làm bài ký "Cụ Hành thiền nhân hạnh nghiệp tự hóa" như sau:

Sư tên Biện, tự Cụ Hành quê quán ở đất Diệm Nguyên, mồ côi từ bé nhờ ông họ Tăng nuôi dưỡng. Lớn lên ông họ Tăng này gả con cho, sanh được hai trai. Nhà rất nghèo.

Lúc Hư Vân tôi đến Kê Túc Sơn, toàn gia ông có tám người xin vào phụ việc.

Khi rước Tạng Kinh về núi, chùa có thiết lập đàn truyền giới, Sư đưa hết người nhà vào cầu xuất gia. Sư lúc ấy hai mươi tuổi, không biết chữ, tai lại điếc, diện mạo xấu xí.

Ngày ngày sư làm vườn, cuốc đất trồng rau cải tuy nhọc nhằn, nhưng đêm đêm không quên lễ bái, trì niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm và tập tọa thiền, đồng thời cũng học khóa tụng, không cần ai nhắc nhở, mà tự lực rất tin cần. Không đầy hai năm, sáu thời lễ tụng đều thông và các kinh đều có thể thuộc lòng.

Năm Dân Quốc thứ tư, Sư xin đi triều bái các danh sơn, vân du tham học.

Đến năm Dân Quốc thứ chín (1920), lúc Hư Vân tôi ở chùa Vân Thế tại Côn Minh. Sư trở về tinh tấn tu khổ hạnh, cùng trợ giúp công việc làm vườn, trồng rau cải. Nhưng bây giờ Hư Vân tôi nhận thấy tâm ông rất sáng, óc lại thông minh, thường hay lên điện khóa tụng. Lúc rảnh thì cắt may vá quần áo cho dồng đạo, chẻ tre đan lát và không hề từ chối một công việc nặng nhọc nào như đào móng, đắp nền, xây tường, xúc đất, khiêng đá, lợp nhà, gánh nước, bửa củi, nấu cơm. Mỗi lần may vá, mỗi mũi kim là một câu niệm danh hiệu Phật. Rau cải có dư dùng thì mang cho đồng bào trong xóm quanh chùa để kết thiện duyên, không hề giữ của tư.

Tính trầm lặng ít nói. Sau này ông lại xuống chùa dưới là chùa Thắng Nhân, tiếp trồng rau cải cho chùa và đãm đang mọi công việc nặng nhọc.

Khi xây tháp "Hải Hội" ở chùa Vân Thê này, chính Sư tự mình gánh đá, xây vách rất cực nhọc và đã nói với hòa thượng Hư Vân tôi:

- Sau khi tháp này hoàn thành, tôi sẽ thường thường ở đây gìn giữ.

Thật quả đúng như vậy. Nhận thấy một mật hạnh khó được, Sư bèn xin thọ giới Tỳ kheo.

Sau khi thọ giới, ngày 29 tháng 3, sau giờ ngọ, đi ra phía sau chùa, chất rơm và cây khô, trải cà sa, lên ngồi kiết già, tay trái cầm khánh, tay mặt cầm mõ, mặt hướng về phía Tây niện Phật rồi tự phóng hỏa.

Trong chùa cả mười người mà không hay biết gì cả.

Phía ngoài tường, hàng xóm xa, có người thấy lửa sáng, khói lên cao dữ dội, tưởng là chùa bị cháy, chạy đến vào chùa hô lên. Tất cả túa ra sau điện, thì thấy Sư đang phu tọa trên đống than hồng mà không động đậy, quần áo y nguyên, chỉ có chiếc mõ bị cháy thành than.

Có người sang cho Hư Vân tôi hay tin. Nhưng vì mới nhập thất Bồ tát giới, không thể xuống núi, nên biên thơ thỉnh hai ông Vương Trúc Thân và Trương Khánh Tiên thay mặt liệu lý.

Trương, Vương thấy việc lạ liền cho đô đốc Đường Kế Nghiêu hay. Họ Đường đưa cả gia quyết đến xem.

Sư ngồi yên như sống, tuy hài, cà sa, mũ đều cháy hết. Bỗng chốc toàn thân Sư ngã rụi thành một đống tro tàn, ngoại trừ cái khánh là còn y nguyên, và gõ vào tiếng nghe thanh và trong hơn trước.

Họ Đường cho xuất công quỷ làm lễ truy điệu Sư ba hôm, người đến lễ bái có cả vạn.

Tự giải thoát một cách yên lành, Sư Cụ Hành thọ bốn mươi chín tuổi đời, mười bốn năm tuổi đạo, tinh tấn mật hạnh, nhất tâm bất loạn.

Đến khi bỏ xác thân cũng ung dung, Sư có phải chăng là một bậc A La Hán phá ngã chấp chứng nhân không chăng? Hay Sư đã là vị Pháp thân Đại sĩ chứng vô sinh pháp nhẫn ư? Khó mà nghĩ bàn. Chẳng phải là mắt phàm như chúng ta mà nhìn thấy được.

Thấy được là nay Sư đúng là người đầu tiên vào tháp Hải Hội và sẽ thường thường ở đây gìn giữ theo như lời Sư đã nói độ nào với Hư Vân tôi.

Lại nữa, trước ngày tự thiêu, Sư đem hết áo mền và đồ dùng bán đi, lấy tiền đến Quán Âm Đường làm cỗ chay cúng dường tăng chúng. Thấy thế, tăng chúng nghi là Sư sẽ đi đâu xa đây. Sư chỉ cười mà không nói gì.

Hư Vân có thơ điếu như sau:
  • Khô trường dục đoạn, chỉ hô thiên
    Thống tích thiền nhân vẫn thiếu niên
    Sở tại danh sơn tham yết biến
    Quy lai niệm Phật hạ sử biển
    Trợ hưng phạm sát đồng gian khổ
    Mật hạnh công viên thượng phẩm liên
    Nhiên bối Dược Vương chân cung dưỡng
    Khổng bị Nhan một thượng thế nhiên
    Hoạt đáo vu kim tâm cánh hầu
    Day Sư siêu dật bất tương can
    Nhân đường mạt kiếp đa duyên lụy
    Quân chí lâm chung nhất bủa hoàn
    Thế niệm nan vương sơ thải thục
    Tây quy thả hướng tịch dương biên
    Thương tâm lăn lệ huy vô tận
    Nhất khánh lưu âm thị diệu duyên.
Tạm thoát dịch:
  • Ruột khô muốn đứt, chỉ kêu trời
    Đau xót thiền nhân chết lúc trẻ
    Mấy năm tham yết các danh sơn
    Khi trở về lại niệm Phật bên cạnh cây cuốc
    Tham giúp chấn hưng Phật tự, giúp đỡ và đồng cam khổ với mọi người.
    Mật hạnh và công viên mãn, sanh lên tòa sen thượng phẩm
    Đốt hương ngài Dược Vương Bồ tát, đó mới thật là chân cúng dường.
    Khổng Tử khóc, Nhan Hồi mất sớm là điều tự nhiên vậy.
Và Hư Vân tôi cũng viết bài tụng như sau:
  • Quán thân bất tịnh thùy, thùy kham luyến?
    Nhất hỏa phần như, ý địa thanh
    Phu tọa hướng Tây, quy Tịnh Thổ
    Liên trì dục thể chứng vô sanh
    Tâm cấu dĩ trừ, trì Phật Phật
    Nhĩ căn trùng thính, tự văn văn
    Khả làm thế thượng si hung bối
    Không tự tuần thanh hãm khổ luân
    Nhất tự bất tri vô ngoại đạo
    Chí thành lễ tụng thỉ thần thông
    Đại sư lễ tụng đắc thâm ngộ
    Khả vị tam tàng, đại minh nhân
    Xừ đầu nhất hả, nhất thanh Phật
    Y thượng nhất châm, Phật nhất thanh
    Niệm, niệm, niệm, thời vô sở niệm
    Tây phương Tịnh Thổ tự nhiên thành
    Ngoại xả y khâm, kết chúng duyên
    Nội xả thân tâm cúng chư Phật
    Thị chân tinh tấn pháp cúng dường
    Viên mãn đệ nhất Ba la mật
    Diễm xưng vãn bối phần thân sự
    Diễm phát hư không ngũ sắc yên
    Tích bất văn Sư càn thảo địa
    Thanh thanh hưởng xử Phật thanh liên
    Sư ưng lân ngã hậu quy trì
    Tống tưởng Tây phương lạc nhật thùy
    Tuấn đáo thu thành sơ thái thục
    Hữu duyên lai thực Đại sư đi.
Tạm thoát dịch:
  • Xét thân chẳng sạch, ai đành mến?
    Đốt quách cho rồi, để dạ thanh
    Tây hướng tréo chân, về cõi Tịnh
    Ao sen gội thể, chứng vô sanh
    Tâm bợn đã trừ, chuyển niệm Phật
    Tai ù lại thính, tự văn thanh
    Khá thương cõi thế phường rê diếc
    Không biết hồi đầu để khổ luân (chịu khổ luân hồi)
    Một chữ không rành, không ngại đạo
    Lòng thành lạy tụng, mở thần thông
    Đại sư lễ tụng được sâu ngộ
    Khá gọi ba tàng (ba tạng kinh Phật) bậc Thánh nhân
    Trồng rau, mỗi cuốc mỗi niệm Phật
    Khâu áo, từ kim, từ Phật thanh
    Niệm Phật không dừng, không niệm khác
    Tây phương Tịnh Thổ tự nhiên sanh
    Ngoài xả y khâm thắt chúng duyên (quần áo tẩn liệm)
    Trong xả thân tâm, cúng dường Phật
    Ấy chân tinh tấn pháp cúng dường
    Tròn đầy đệ nhất Ba la mật (Lục độ đưa người
    đến giác ngộ, giải thoát)
    Nhà văn không ngớt lời khen tặng
    Hư không lửa bốc nắm sắc mây
    Rất tiếc không nghe tiếng niệm Phật
    Của Sư trong cảnh lửa thành sen
    Xin Sư xót thương kẻ chậm bước
    Mà dắt về Tây buổi xế chiều
    Nháy mắt thu về, rau cỏ lớn
    Hữu duyên sẽ hưởng cải Sư trồng.

    (Ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền dịch).
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 11/03/15 05:43 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Từ năm Dân Quốc thứ mười bốn đến năm Dân Quốc thứ mười tám (1925-1929) - Hư Vân từ tám mươi sáu đến chín mươi tuổi:

Cách ba chục dặm về phía Tây thành Côn Minh có Bích Kê Sơn, Hoa Đình Phong và ngôi chùa Hoa Đình Tự. Chùa này phía trái gối đầu vào ngọn núi Thái Hoa, phía mặt thì vòng quanh núi Bích Kê. Trước mặt chùa nhìn xuống là hồ Côn Minh. Thuyền đi lại trên hồ trông như đi trong một khuôn kiếng tròn rộng lớn. Phía sau chùa nhìn ra thấy núi Hồng Sơn (một ngọn núi chỉ riêng một mình nó thôi cũng là tốt đẹp vô cùng rồi), quanh co đi lần vào thành Côn Minh.

Những áng mây lơ lững ở năm ngọn cao thấp của núi Hoa giống như những tấm bình phong bày ra trên khoảng không, xem như một cái tán vĩ đại.

Muôn cây xanh rờn với hai ngọn tháp cao vót lờ mờ, xa xa làm cho cảnh núi non chớm chở, hùng vĩ lại càng thêm vẽ đẹp huy hoàng mà trang nghiêm và linh thiêng không tả được.

Rồi cảnh chùa chiền với những tiếng chuông sớm chiều, khiến cho lòng người lâng lâng sạch hết bụi trần, trở nên thanh tịnh!

À! Đây chốn linh thiêng thích hợp cho người tu hành vậy!

Suốt năm năm, Hòa thượng Hư Vân sống yên trong nếp tu hành, thuyết kinh giáo đạo, tô tượng, dọn rừng lấy đất trồng lúa lập vườn. Người dân quanh vùng có được việc làm. được có đất trồng trọt. lúa thóc, rau cải đủ đầy... mà nhà chùa cũng được tự túc ấm no để lo việc tu hành, tụng niệm, mặc dù đất nước đang trong buổi giao thời cũ mới xáo trộn.

Bây giờ, hãy nói qua cội nguồn chùa Hoa Đình Tự mà nay gọi là Vân Thế Tự ở Bích Kê Sơn rõ ràng hơn một chút.

Năm Diên Hựu thứ nhất, năm Canh Thân, có ngài Nguyên Phong Huyền Thông hòa thượng che một cái cốc ở núi này để tu. Đến năm Quý Hợi, mùa Xuân đi quyên giáo về lập một ngôi chùa lớn.

Nối tiếp trụ trì chùa này là các ngài Đạo Khuê, Đạo Nghĩa, Kỳ Phong, Tướng Thành, Tuyết Sang, Nguyệt Đàm, Phổ Chiếu... toàn là các vị cao tăng trào nhà Minh.

Đến đầu nhà Thanh thì có các vị Tánh Không, Phổ Giải, Chiếu Hoàn.

Dưới trào Càn Long, Gia Tỉnh thì có các ngài Thực Địa, Thoai Quang, Diệu Tướng, Giai Quan, Bổn Sơ... thảy đều tinh tiến tu khổ hạnh, tự mình vừa tu và có sự giúp đỡ của các đệ tử cúng dường, khai quang rừng rậm được mấy trăm mẫu đất trồng khoai lúa bên cạnh hồ, tự túc sinh sống và tu học, duy trì và làm phát triển ánh sáng của đạo Phật. Suốt một thời, "ánh đạo vàng" làm rạng rỡ cảnh linh thiêng, trong sáng tươi đẹp của núi hồ mà thượng các bậc "Long Tượng" xuất hiện rất nhiều ở đó.

Nhưng rồi, cũng không thoát khỏi luật thiên nhiên suy thạnh.

Xuống đến các trào vua Hàm Phong, Đồng Trị, Phật pháp trong tỉnh Vân Nam dần dàn suy sụp. Thời mạt pháp, sau nạn binh lửa, trào lưu học mới rất dữ dội mạnh bạo tràn khắp. Những chốn thiền lâm thanh tịnh đều hóa cảnh hoang vu với những đống tro tàn. Chùa chiền thập phương đều bị phá hoại, cướp bóc. Con cháu các thường trụ chẳng còn nghe được tam học (Giới - Định - Tuệ), mà bị nhiễm các cái mới không đẹp, không hay về đường đạo đức tu hành.

Tiếng chuông mõ, lời tụng niệm thưa lần và đứt đoạn.

Theo sách vở ghi chép, tỉnh Vân Nam lấy tên Hoa Đình dặt cho chùa vì chưng theo thói quen trong dân chúng mà gọi.

Theo một bia đá từ xưa thì Tổ Huyền Thông mở núi, bắt đầu xây dựng Đạo Quang Minh điện, trong điện thờ Phật Tỳ Lô Giá Na ở giữa. Bên trái, bên phải xếp mươi hai hàng pho tượng Kim Cang Bồ tát theo trong Viên Giác.

Một tấm biển đề "Viên Giác Tự" treo trên cao trước cửa điện.

Đến năm Thiên Thuận, trào nhà Minh, đại sư Tướng Thành trụ trì chùa này.

Quan Nguyên soái trấn thủ tỉnh Vân Nam họ Mục và quan Đô giám họ Lê, vì chùa này, xây cái thành vòng quanh chùa, đồng thời dâng biểu lên vua xin sắc phong cho ngôi Tam Bảo linh thiêng và trang nghiêm đẹp đẽ này. Vua y tấu, ban sắc và một tấm biển "Đại Viên Giác Tự". Tấm biển này ngày nay vẫn còn.

Năm Dân Quốc thứ chín (Canh Thân 1920) - Hư Vân tám mươi mốt tuổi:

Đáp lời mời của các tướng soái và Đô đốc tỉnh Vân Nam Đường Kế Nghiêu, ngài Hư Vân Hòa thượng, từ chùa Chúc Thánh núi Kê Túc cầm cây tích trượng của vua ban đến trụ trì chùa "Đại Viên Giác" này, rồi đổi tên chùa lại là "Tịnh Quốc Vân Thê Tự".

Ngài Hư Vân cho sửa sang, trùng tu lại chùa. Khi đào đất sửa sang chánh điện, đào xuống hơn một trượng bỗng gặp được một tấm bia đá chỉ còn có mấy chữ khắc ở hàng đầu "... Vân Thê Tự trụ trì.... và con dấu. Còn hàng cuối cùng, thì thấy lờ mờ chữ Trinh". Kỳ dư đều phẳng lỳ không làm sao đọc và đoán ra được.

Có sự ngẫu nhiên và trùng hợp về tên chùa do ngài Hư Vân đặt và tấm bia xưa, đào đất mà gặp được này, ta thấy vô tâm mà có chỗ hợp xưa và nay, khiến phải suy gẫm: có phải do duyên kiếp trước mà được thế chăng? "Vân Thê".

Cũng có sách ghi:

Ngày xưa, Trung Phong quốc sư dựng một cốc nhỏ ở đất Cô Tô, nơi sườn núi Huyền Trụ Hán. Ngài Triệu Vân Mẫn viết tấm biển đặt tên cốc là "Vân Thê". Về sau biển này bị hủy mất.

Theo kinh Phạm Võng, tôi tùy hỷ Phật sự đi thuyền đến Phước Kiến, tham dự lễ long trọng này.

Khi đến nơi, thì hai cây thiết thụ trước nổi hoa sum suê, đẹp vô cùng, xưa nay chưa từng thấy được hoa nào sánh kịp. Hoa lớn như cái chậu, râu và cánh hoa giống như đuôi phượng hoàng. Người thập phương đến xem đông đảo. Ai cùng mừng rỡ cho đây là Ưu Đàm Bát La Hoa. Hỏi các kỳ cựu, đều cho biết hai cây này do vua Mân Vương xứ Phước Kiến và Thánh quốc sư tự tay trồng, đến nay đã ngoài ngàn năm. Nay mới trổ hoa, thật là hy hữu.

Nay vừa sư huynh Hư Vân cùng tôi chụp một tấm ảnh kỷ niệm, ghi lại điềm lành từ ngàn năm một lần này của Dũng Tuyền Tự (cũng có tên là chùa Cổ Sơn).

Và Hư Vân cũng có bài kệ như sau:
  • Ưu đàm bát la phi phàm phẩm
    Tùng Phật thị ứng hiện kim hoa
    Thế gian thái phụng xưng tường thụy
    Hiện tắc cát tường hỷ phả gia
    Từ sơn trượng thất lưỡng thiết thụ
    Nhân ngôn thử quỷ hướng vô ba
    Định thị chủ lâm thần ủng hộ
    Cố tương nhân thọ phóng lưu hà.
Dịch:
  • Hoa Ưu đàm bát la hoa chẳng phải là vật phàm
    Theo Phật thị hiện ứng ra hoa vàng
    Loài chim phượng màu sắc, ở nơi thế gian gọi là điềm lành
    Hiện ra là tốt, đáng mừng, đáng khen
    Chùa này hai cây thiết thụ ở gần phương trượng
    Người ta bảo loài cây này từ xưa tới nay không có hoa
    Nhất định là chủ lâm thần ủng hộ
    Nên đem điềm nhân thọ phóng nở ra những cái ráng.
Năm nay tuổi tuy đã chín mươi mốt rồi, Hòa thượng Hư Vân vẫn hoạt động không ngừng. Tại chùa Cổ Sơn, ngoài việc truyền giáo, dựng nên giới luật Phật Học Viện, Hòa thượng còn kiến thiết ba am là Bình Sở, Tây Lâm và Vân Ngọa.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi (Tân mùi) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi hai tuổi:

Mùa Xuân vẫn là thời truyền giáo của chùa Cổ Sơn. Bỗng có một ông lão, râu tóc trắng như tuyết, dung mạo thanh kỳ, đi thẳng vào phương trượng quỳ gối trước mặt Hư Vân Hòa thượng cầu thọ giới.

Hỏi: Ông lão nói là họ Dương, quê ở Đài Kiều, miền Nam tỉnh Phước Kiến. Trong lúc đó, có một người vừa thọ giới, tên Diệu Tông, cũng là người ở Nam Đài, nhưng chưa từng gặp ông lão đẹp này bao giờ.

Kịp khi truyền giới Bồ tát và phát phái điệp xong, một chặp sau tìm ông lão thì không thấy ông đâunữa.

Về sau, Diệu Tông trở về quê nhà, khi đi ngang qua Am thờ Long Vương, thấy tượng thờ ở đó giống hệt ông lão, trong tay lại có tờ phái.

Tiếng đồn đi, trọn miền Mân Nam (Phước Kiến) đều chấn động về việc Long vương cầu giới.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi hai (Quý Dậu) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi bốn tuổi:

Thời kỳ truyền giới mùa Xuân. Cổ Sơn tự mới Ứng Từ pháp sư giảng kinh Phạm Võng.

Bấy giờ quân Nhật chiếm Sơn Hải Quan. Người người rúng động lo sợ. Lộ quân thứ 19 ở Phước Kiến cử hành việc kháng Nhật. Toàn thể chùa chiền đều đình chỉ mọi việc, không tiếp các sư nơi khác đến ở tạm để học, trừ chùa Cổ Sơn của Hư Vân hòa thượng. Tăng chúng đi hành cước, đi di tản cũng tấp nập tới chùa trên một ngàn năm trăm người. Vấn đề lương thực thật cam go, khốn đốn. Nhưng cũng may, nhờ ơn trên gia hộ Hòa thượng Hư Vân cũng cung ứng được bữa cơm bữa cháo mỗi ngày.

Tháng sáu năm ấy, vườn phóng sanh đã kiến tạo xong, và chùa làm lễ lạc thành. Cư sĩ Trịnh Cẩm Tiên gơi đến xin thả phóng sinh một bầy ngỗng. Trong bầy có một con ngỗng trống đặc biệt, nó biết đi ngay lên Phật đường ngó Phật, xòe cánh, ngóng cổ. Qua tháng sau, tự nhiên nó đứng yên trước điện, nhìn Phật một hồi lâu, mắt không náy rồi hóa luôn. Trinh cư sĩ thấy lạ, xin phép làm lễ trà tỳ cho nó. Bảy ngày sau mới đem xác đốt theo nghi lễ nhà Sư, nhưng vẫn không có mùi khét hôi. Nhân đó Hòa thượng cho xây một hộc nhỏ bằng gạch để chôn nó, gọi là "Vạn Tánh Khanh" (chỗ chôn muôn loài).

Địa điểm vườn phóng sanh, trước đó là chỗ thờ Dị Ngưu (con trâu khác thường).

Quan Thái Phó Trần Bảo Thâm có ghi sự tích con trâu được thờ này như sau:

Ông Tả Văn Tương, tức ngài Tả Tôn Đường làn Tổng đốc tỉnh Phước Kiến độ ấy. Một hôm, có con trâu to lớn, sừng cong rất hùng vĩ, tự nhiên chạy thẳng vào dinh Tổng đốc, quỳ ngay trước sảnh đường, không chịu đứng dậy nữa. Nó quỳ rất lâu, không cục cựa.

Thấy lạ, Tổng đốc cho mời ông sư ở chùa Pháp Danh là Kỳ Lương đến xem sao. Tổng Đốc bảo nhà sư dỗ dành nó, rồi dắt nó về chùa nuôi dưỡng.

Trải qua mười tám năm sau, quan Tổng đốc trở lại tỉnh này, cho hai vị quan hầu là Thẩm Đạo và Ứng Khuê đến chùa xem con trâu ngày xưa còn mạnh và sống chết như thế nào. Thì biết von trâu khi về chùa đã chịu quy y Tam Bảo, và nay đã chết rồi. Các sư trong chùa dẫn hai người ra sau chùa chỉ chỗ chôn nó và bên cạnh đó có một cái miếu nhỏ thờ nó, gọi là "Dị Ngưu".

Sự việc tới nay đã trên năm mươi năm rồi, và là một sự thật trong lịch sử phóng sanh của chùa Cổ Sơn từ xưa vậy.

Quan Thái Phó Trần Bảo Thâm, tức Thính Thủy cư sĩ ghi việc này khi ông tám mươi tuổi và viết luôn một đôi liễn như sau:
  • "Tụng Liên Trì Đại Sư Văn, dữ thể đồng tu Tịnh Độ sám.
    Cảm tương Âm tướng Quốc Sư, Cổ Sơn tằng kiến Dị Ngưu từ".

    (Tụng đọc Văn ngài Liên Trì Đại sư, cùng với đời cùng tu sám hối Tịnh Độ.
    Cảm cái việc của vị tướng quân Tương Âm, chùa Cổ Sơn đã từng thấy cái miếu thờ con trâu bạc
    ).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • LẠI CHỈNH ĐỐN QUY CỦ CỦA CHÙA, TRỪ CỰU BỐ TÂN
"Cổ Sơn Tự" là một ngôi chùa nổi danh trong nước. Lịch sử chùa là rất lâu đời. Điện các, phòng, liêu của chùa đâu đó rất là ngăn nắp thứ lớp, và địa thế lại là một danh lam thắng cảnh của đất Phúc Kiến. Vì trải qua nhiều đời, nhiều lớp người tu sĩ thay nhau trụ trì không được chu đáo, nên các tăng chúng không còn giữ đúng quy luật, nề nếp. Do đó, cảnh nhã và tục lộn xộn, khó nhìn cho đẹp mắt, vừa lòng.

Rồi gần đây, vì đó mà chỗ thờ Phật lại hóa ra môi trường mưu sống cho một số người. Khách hành hương vãng cảnh đến càng nhiều, lại càng biến cảnh trang nghiêm thành cái ổ của kẻ "buôn Như Lai để thủ lợi".

Người vào tu, sau khi thọ giới chỉ là một tỳ kheo trên danh tự. Nếu khéo biết nói năng, chiều lòn và có của dâng một số nào quy định cho sư là lên ngay chức Thủ tọa, ngồi hưởng sự tôn vinh.

Thứ đến, là chức Tri khách cũng được khá tiền lộc của tín đồ cúng dường.

Do đó, số Thủ tọa, Tri khách này rất đông ở chùa, rần rần mà dùng thì chẳng được vào đâu, không có được một kết quả nào như ý. Tạp khí ở chùa rất nặng nề.

Khi về đây, Hư Vân cương quyết làm triệt để một cuộc trừ cựu bố tân, dẹp trên một trăm vị Thủ tọa, chỉ còn lại tám viên Tri khách thôi. Trước kia nơi Thiền đường chỉ có ba người tu tập, Hòa thượng tăng lên mười bốn, nhất nhất đều chỉnh đốn, sắp đặt lại có quy mô. Nhờ đó chư phương bô lão quy về đông đảo.

Hòa thượng Hư Vân cho lễ thỉnh Kim Sơn Hà Hậu Đường làm Thủ tọa, kiêm chủ trì Thiền đường, thỉnh Linh Nghiêm Từ Chu pháp sư ở Tô Châu về làm chủ Luật Viện. Hòa thượng lại còn sáng biện Phật Học Xã.

Trước kia, mỗi khi làm lễ chư tăng trong chùa dùng tục nhạc với Phạn âm tạp tấu. Hư Vân cho là không ổn nên cấm hẳn lối này, làm cho nhiều trai chủ bất bình bỏ đi chùa khác.

Thấy thế, Hòa thượng ngồi cười và nói một mình: Từ nay mới được gọi là Thanh Tịnh Phật Độ.

Mọi tệ đoan đều được dẹp lần và dứt hẳn.

Ngoài việc trùng tu, sửa chữa tháp, điện, am, phòng và tổ chức ruộng vườn tự túc sinh sống, Hòa thượng rất chăm lo việc học của các tăng sinh, khiến cho được ngày càng chu đáo, tinh tiến, trang nghiêm và phát triển.

Việc khắc bản in kinh cũng rất nhiều từ đó. Không chùa nào ở Trung Quốc, lúc bây giờ lại có nhiều hơn. Ngay cả bộ kinh Lăng Già của Tô Đông Pha viết chữ vô cùng sắc sảo cũng được khắc rất tinh vi, không một nét nào là không tuyệt.

Khi quyên tiền được bao nhiêu là Hòa thượng tung ra hết để in kinh.

Thế cho nên, trong vòng có mấy năm về chùa, lại là ngay trong thời buổi nhiễu nhương gay go của đất nước vì chiến tranh, xáo trộn chánh quyền, mà chùa được phát triển về đủ mọi mặt. Số tăng chúng đông lên, môn phong trùng tú, người học đạo, hỏi đạo thường đến nghe giảng, hải hội trí thức ai ai cũng cho và nhận Hư Vân hòa thượng là một nghị lực hiếm có.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi ba (Giáp Tuất) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi lăm tuổi:

Trong khi tọa thiền, giữa lúc gần như mộng nhưng không phải mộng, Hư Vân thấy Lục Tổ đại sư (Huệ Năng) đến bảo:

- Giờ đã đến rồi, ngươi nên lo mà trở về.

Sáng hôm sau, Hòa thượng cho gọi đệ tử Quang Bổn đến bảo:

- Duyên kỳ đời ta không còn xa, vì đêm nay ta thấy Lục Tổ triệu về.

Đến khoảng tháng tư, một đêm luôn ba lần Hòa thượng thấy Lục Tổ về thúc. Thức giấc, Hòa thượng lấy làm lạ.

Thì không bao lâu, có điện tín ở Quảng Đông và Quảng Tây đến thỉnh.

Hòa thượng nghi rằng: Đạo tràng của Lục Tổ đang gặp phải trùng tu. Bèn xếp soạn đi Lãnh Nam. (Việc trùng hưng Tào Khê Nam Hoa Tự của Lục Tổ sẽ đề cập sau).

Mùa Đông năm ấy, tại Nam Hoa Tự, các hộ pháp cư sĩ yêu cầu lập đàn truyền giới. Lúc bấy giờ, chỗ nơi không có, điện vũ chênh nghiêng, phòng ốc đã bị phá hoại, chỉ còn được vài mái tre lợp tranh đơn sơ ẩn nấp. Thế mà từ phương xa khách quy về cả trăm, còn ở tại lưỡng Quảng thì thân hào quyến thuộc cùng người lại quy y rất đông. Phải vất vả huy động hết chúng tăng và bổn đạo nhiệt thành đêm ngày xếp dọn xây cất thêm, mới tạm có chỗ.

Bấy giờ nơi đạo tràng, tứ chúng hợp rất đông. Các quan chức, bậc quý nhân có quân lính theo hầu rất nhiều cũng đến tham dự lễ Phật.

Ngày 17 tháng chạp khai đàn nơi chánh điện, đến đêm thì thuyết Bồ tát giới.

Lúc ấy, người con trai của ông Giang Khổng Ân, tên là Thúc Đỉnh đứng trên gác Tàng Kinh tự phát hiện từ đàng xa, trước cửa chùa trong đêm tối, hai làn ánh sáng như điện chiếu lại và lần đi tới. Khi nó đến gần, xem kỹ lại là một con cọp rất lớn. Thúc Đỉnh báo nguy. Tất cả đàn tràng đều sợ sệt, xôn xao. Binh lính rút súng định bắn.

Hòa thượng Hư Vân ngăn lại và trấn tĩnh mọi người:

- Cứ an nhiên ngồi nghiêm chỉnh nghe thuyết pháp.

Bây giờ cọp đi lần đến nằm phủ phục trước thềm. Ngài Hư Vân vì nó thuyết tam quy, rồi căn dặn nó, như nói với một tín đồ, rất ôn tồn và nhỏ nhẹ, khuyên nó kiếm chỗ ẩn núp nơi rừng sâu, đừng làm tổn thương người vật. Nghe xong cọp đứng lên, cúi đầu ba lần rồi quay đi. Đi ít bước nó ngoảnh đầu nhìn Hòa thượng như ra dáng quyến luyến.

Từ đó về sau, mỗi năm nó đến chùa vài lần. Các loại heo rừng, dã thú thường hay ra trong đêm tối phá phách, cắp trái, ăn rau đậu ở vườn đều mất tích hết. Mỗi lần nó về đều được ngài Hư Vân an ủi và phủ dụ.

Lạ lùng thật! Việc cọp quy y này được Hòa thượng thuyết kệ như sau:
  • Hổ thức quy y Phật
    Chánh tín vô lưỡng dạng
    Nhân tâm dữ súc tâm
    Đồng nhất quang minh tạng.
Dịch:
  • Cọp biết quy y Phật
    Chánh tín không hai thứ
    Tâm người, tâm súc sinh
    Cùng một quang minh tạng.


    SAU ĐÂY, XIN TRỞ LẠI VIỆC TRÙNG TU CHÙA NAM HOA Ở TÀO KHÊ CỦA LỤC TỔ XƯA
Đạo Phật truyền vào Trung Quốc từ đời vua Vĩnh Bình nhà Hán đến nay đã ngót một ngàn chín trăm năm. Sư Huệ Năng vác cây tích trượng đi về phía Nam, lập ra Nam Tông, gọi là điều hưng thạnh của Phật giáo. Sau đó, y bát chẳng còn truyền, ấy là "Nam Hoa thực tập" họp sự thành công rất lớn của Phật giáo ở đây.

Chùa Nam Hoa được khai dựng lên từ đó, tiếng tăm vang dội khắp xa gần.

Nhưng tất cả nào đâu tránh được nỗi biến chuyển "Thành, Trụ, Hoại, Không".

Con người lần đi xa đạo. Chùa chiền, cảnh vật cũng tàn lần mọi nếp linh thiêng huyền diệu của chúng.

Mấy lần mộng thấy Lục Tổ Huệ Năng, Hư Vân tiên đoán được là ngài Lục Tổ cũng thấy cần nối tiếp, sửa sang lại công trình xưa của ngài.

Trước đây, là ông tướng quân Lý Hán Hồn đóng quân ở phía Bắc tỉnh Quảng Đông, xét thấy chùa Nam Hoa hư đổ và bị tàn phá rất nhiều. Tướng quân đã đứng ra tu sửa lại một số. Ông đề xướng việc bảo tồn danh thắng, mà kẻ hưởng ứng việc này (chỉ Hư Vân) cũng muốn làm cho trong sạch mọi nhơ bẩn trong chốn thiền môn, đồng thời nhà nước cũng mưu tính việc làm để bảo tồn những nơi lịch sử.

Chùa Nam Hoa đây là một danh thắng có một lịch sử lâu đời.

Từ đời vua Long Tường nhà Đường trở lại đây, tuy có nhiều lần sửa sang, nhưng nay với thời gian, lại cũng đi vào cảnh hoang phế đổ nát.

Lý Hán Hồn nay chịu mệnh lệnh của chức vụ, đóng quân ở đất Thiều Quang (Tào Khê), ngoài việc điều quân cũng chiêm ngưỡng chút gì về Phật đạo, nên lòng cũng suy nghĩ và phát nguyện sửa sang lại chùa này. Bèn bàn bạc với các cư sĩ nhiệt tình vì đạo; những nhà hiển đạt một lòng kinh tin Phật pháp thì được hoan nghinh và toàn thể chấp nhận chung góp công của để làm việc dưới sự lãnh đạo của tướng quân Lý Hán Hồn.

Lý liền ra lệnh cho viên bí thư của mình là Ngô Chủng Thạch thay mặt mình thi hành công việc chọn lựa nhân viên, lập ra kế hoạch, mướn thợ, mua sắm vật liệu, nhận của cúng dường v.v... phát hoang rừng rậm tăng diện tích ruộng vườn trồng trọt cho chùa, đòi lại những gì mà chùa đã bị tiếm đoạt.

Công việc tu sửa bắt đầu từ hai mươi hai tháng chín, trải qua tám tháng là xong.

Lại quyên tiền mua được bộ Đại Tạng Kinh, khôi phục Tổ điện, xây Tàng Kinh Các, tạo đóng những tủ chứa các bảo vật về Phật cụ để truyền lại về sau. Và thiết yếu nhất là phải mời ngài Hư Vân Lão hòa thượng cho được để trụ trì chùa Nam Hoa này.

Than ôi! Việc hoằng tôn, mở mang Phật pháp đâu phải là chuyện mà kẻ độn căn như Hán Hồn này mà dám nghe, dám làm và làm được!

Sau này, cảnh chùa mà được tươi tốt, hoa trái chùa thêm nhiều, pháp Phật được nhiều người nghe và theo đó mà được giải thoát là nhờ chư Phật, chư Bồ tát, chư Tổ gia hộ, tài đức của Hòa thượng trụ trì không phải là không cần trong giai đoạn này, và chừng như nếu không có là thiếu đi một lực lượng quan trọng mà do đó sự thành công sẽ không được là bao nhiêu.

Mong rằng mọi công việc thực hiện này được bổ ích cho dân sinh.

Mong rằng được cởi áo giáp để tiêu tan sự dùng binh hầu được theo bên Phật. Cầu nguyện chư Thiên, Bồ tát gia hộ cho!

(Năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, tháng tám, đất Ngô Xuyên, Lý Hán Hồn ghi, đất Đại Phổ, ông Châu Lễ khắc vào bia đá).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ hai mươi bốn (Ất Hợi) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi sáu tuổi:

Bấy giờ Phổ Nghi ở thành Trường Xuân xưng vương, tiếm tước hiệu Đại Đồng, rồi đổi lại là Khang Đức.

Mùa Xuân, ông Lý Hán Hồn đổi đi trấn nhậm khu phía Đông. Do đó, công việc sửa sang chấn hưng chùa chiền thiếu sự trợ giúp đắc lực và có phần khó khăn trì trệ.

Vì có lời thỉnh của Đông Huê Tam Viện, Hòa thượng Hư Vân lại phải một phen đi Hương Cảng.

Tại đây Hòa thượng thiết Thủy Lục đạo tràng. Xong ngài trở về Cổ Sơn từ chức trụ trì, thỉnh Pháp sư Viên Anh kế nhiệm. Rồi Hòa thượng hồi Nam Hoa tự, tiếp nối công trình của họ Lý. Trước hết là tu bổ Tổ điện, kế đó là kiến thiết Quán Âm Đường, và các phòng viện, liêu thất.

Lúc bấy giờ, ở phía Bắc đình Phục Hổ và phía Nam suối Trắc Tích, có ba cây bá cổ trồng từ đời Tống năm nay bỗng nhiên lại đâm ra mấy chồi. Ông Thủ tọa Quang Bổn có làm bài trường ca ghi lại việc này và cư sĩ Sầm Học Lữ có khắc bia đá kỷ niệm. Ghi rằng:

Bên cạnh núi Cửu Long, phía sau Tổ đình chùa Nam Hoa có ba cây Bá già cao chọc trời. Một cây thì đoạn trên đã khô và gãy. Còn hai cây kia thì cành đã lung lay muốn rụng. Chẳng biết ba cây này đã sống trải bao nhiêu năm tháng rồi.

Ngài Hư Vân lão nhân ở chùa Cổ Sơn sang trụ trì nơi Tổ đình này.

Mùa Đông năm Ất Hợi, là thời truyền giới, bốn phương đến dâng hương có mấy trăm ngàn.

Từ đời nhà Minh, sau khi ngài Hám Sơn Đức Thanh ở đây, nơi Tổ đình này, ba cây đã lạnh lẽo, tàn tạ ngót mấy trăm năm rồi. Nay bỗng lại tươi tốt, nẩy mầm, như có luồng không khí trong mát của buổi ban mai... và sự cảm hứng của loài vật vì thế mà biến hóa, nổi dậy, bừng lên, rồi nẩy ra lá non, tược xanh. Thân cây xần xùi vàng héo, lần lượt trở lại tươi tốt.

Nghe rằng: Ngài xưa, ngài Huyền Trang đi Tây Vức thỉnh kinh, thì cây thông xưa ở chùa Linh Nham nhánh nhánh đều quay về hướng Tây. Kịp khi ngài trở về cố quốc, thì bao nhiêu nhánh cây lại xoay trở về hướng Đông. Các đệ tử ngài mừng nói: "Giáo chủ trở về đây". Bèn đi qua phía Tây đón rước ngài.

Đúng vậy, ngài Huyền Trang trở về và đặt tên cho cây thông này là "Ma Đảnh Tùng".

Nay điềm lành này phải chăng cũng giống điềm lành của ngài Tam Tạng trước kia.

Lại một chuyện lạ khác xảy ra:

Mùa hè năm nay, xứ Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông bị lụt. Nước dâng cao, sóng to dữ dội. Nhà cửa thôn xóm nơi đất bằng đều bị nhận chìm và cuốn trôi mất hết.

Tại đất Mã Bá, có người làng họ Vân, một gia đình gồm mười lăm người. Nhà nay đang hoảng hốt vì sức nước dâng lên. Gia đình có một đứa con mới bốn tuổi. Bỗng nhiên nó chắp tay và buột miệng niệm to thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát. Người trong nhà nghe thế, đồng chắp tay niệm theo, nguyện cầu Quán Thế Âm Bồ tát cứu mạng.

Bỗng nhiên, nguyên vẹn nhà này, như được bốc lên, nổi trên mặt nước, y như một chiếc thuyền và trôi theo nước. Rồi bỗng nhiên nhà bị một cây to cản lại, mắc cứng và không trôi đi đâu được nữa. Mọi người đều leo lần được lên cây và liền đó nhà chìm xuống nước cuốn mạnh, tan nát và trôi đi mãi.

Sau khi nước xuống, trọn gia đình này lần tới chùa Nam Hoa, dâng hương kính tạ Phật trời cứu độ, rồi chân thành thuật chuyện này lại cho mọi người nghe.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi lăm (Bính Tý) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi bảy tuổi:

Công việc sửa chùa đâu đó xong xuôi. Tam đàn giới kỳ cũng vừa mãn.

Con trai ông chủ tịch Quốc Phả Hà công tử, tên là Lâm Siêu, ông Viện trưởng tên Cư Chính và ông Tưởng Trung Chánh (tức ông Tưởng Giới Thạch) đến viếng chùa.

Hai ông Lâm và Cư hiến một số tiền để sửa sang thêm Đại điện. Riêng ông họ Tưởng thì trợ giúp cho việc khai đào lại con sông mới (trước đây con sông này không do ai đào cả, tự nhiên nó có (trời sanh vậy). Nhưng lâu ngày nó cạn đi dần. Nay ông Tưởng đưa mọi phương tiện và nhân công đến mở rộng và khai thông cho nước tưới khắp ruộng vườn.

Qua ngày hôm sau, quan Đoàn trưởng thứ mười sáu (đệ thập lục đoàn) của quân trú phòng đất Tào Khê, tên Lâm Quốc Canh đến lễ Phật, có mang theo một cái lồng to, bên trong có một con vật lông trắng, sọc đen rất mịn mướt, miệng nhọn, đuôi tròn. Đó là một con chồn.

Ông Đoàn trưởng chỉ nó và bảo:

- Lai lịch con vật này rất kỳ lạ. Trước kia nó bị người ta đánh bẫy bắt được tại núi Bạch Vân ở Quảng Châu.

Có người lại nói:

- Lúc Quảng Châu phá thành khai lộ, nó từ chân tường chui ra và bị bắt. Nhưng các điều đó không có gì quan trọng.

Điều tôi biết chắc là ông bạn tôi bỏ ra bốn chục đồng bạc mua nó. Ban sơ, bạn tôi định hầm nó ăn một bữa cho sướng miệng, nhưng thấy đôi mắt chồn long lanh, lườm lườm như biết ý, nên bạn tôi bất nhẫn, bèn đưa nó vào nhốt trong công viên động vật Quảng Châu (vườn thú), định ý rằng như vậy là không có tội. Một thời gian sau đó, nhà bạn tôi có việc tranh tụng lòng vòng, lôi thôi mấy năm mà chưa xong. Rồi bỗng nhiên, không biết vì nguyên do nào, lại bị giam vào tù, mà xét ra, theo đơn khiếu nại của vợ con, thì anh bạn này không có tội gì, mà tòa trên cũng chẳng quyết đoán ra sao.

Một hôm, vợ bạn tôi đến thăm một nhà quen. Thừa ưa gặp ở đó đang cầu cơ. Định hỏi thử xem việc kiết hung. Nhưng chưa mở lời thì cơ đã giao động và chỉ:

- Kiện thưa không xong, lại mắc vòng lao lý. Một phần là vì ông nhà đã cầm tù một con chồn. Hãy đem nó đến chùa Nam Hoa phóng sanh đi.

Vợ bạn tôi nghe qua liền toát mồ hôi, bèn kiếm cách chuộc con chồn này ra. Cũng là chỗ bạn thân, tôi đến thăm, người vợ bạn nhờ mang lên chùa đây.

Ngài Hư Vân nhận chồn, thuyết tam quy ngũ giới pháp, rồi thả vào rừng sau núi. Mỗi ngày chồn vào chùa xin ăn, tăng chúng lấy trái, bánh cho vì từ ngày thọ giới chồn không ăn thịt nữa.

Trong đám thợ sửa chùa, có người rắn mắt lấy thịt nhét vào trái cây cho chồn ăn. Nó biết, quàu trầy mặt hết mấy người. Nó lõ mắt nhìn, căm giận như trách sao khinh nó, rồi bỏ đi mấy ngày không trở lại.

Một hôm nó bị dân làng đuổi bắt. Chồn lên cây cao chót vót, bám chặt vào cột, la inh ỏi. Sa di thấy thế vào bạch Hòa thượng. Hòa thượng bước ra, người làng dừng tay, chồn vừa thấy bóng, tức tốc phóng xuống và chạy đến cắn bám vào áo Hòa thượng, y như chó lâu không gặp chủ.

Hư Vân ôm nó vào chùa. Sợ có người rình bắt nó nữa, Hòa thượng dọn chỗ nuôi nó, không cho nó vào rừng nữa. Lâu lâu, mới cho nó ra ngoài một lần. Tuy nhiên, nó cứ quanh quẩn trong chùa, không trở về rừng, cũng không đi đâu xa.

Một hôm, ông Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên đến chùa, có lính hộ vệ mà không thông báo cho chùa hay trước. Khi đến chùa gặp con chồn trắng này, bọn lính muốn bắt, ông Tưởng ngăn không cho. Chồn ta chạy như bay vào phương trượng, cắn áo ngài Hư Vân kéo xuống lầu cùng với ông Tưởng gặp nhau.

Mỗi khi Hòa thượng tọa thiền, chồn thường leo lên sàn nằm sẵn kế bên. Thấy Hòa thượng nhắm mắt, chồn lấy chân khều râu giỡn. Hòa thượng mở mắt bảo:

- Con có linh tánh, đừng làm thói rừng như vậy.

Từ đó chồn hết phá nữa. Một hôm chồn bò ra mấy nhà kế cận, giỡn với trẻ con. Không biết thế nào chồn bị xe cán què giò, không đứng lên được.

Thấy vết thương quá nặng không thể trị nổi, Hòa thượng băng bó cho nó. Nó lăn lộn không nằm yên được.

Biết chồn không thoát khỏi cơn bệnh ngặt, Hòa thượng bèn khai thị cho nó:

- Cái bao da này chẳng đáng lưu luyến, con nên phóng hạ bỏ đi, sám hối tội nghiệp kiếp trước của con. Chính vì một niệm sai mà con phải rơi vào dị loại (thân chồn), lại gặp ác báo ngày nay, nên phải chịu đau khổ. Đây là nghiệp của kiếp trước và quả báo đã mãn, con nên nhất tâm niệm Phật để mau được giải thoát.

Chồn như hiểu biết, gật đầu mấy lượt, nằm yên thật lâu, rồi nấc lên ba tiếng và chết một cách êm đềm. Thây nó để lại hai ngày mà không đổi sắc. Hòa thượng cho vào thùng nhỏ, rồi theo lễ chôn cất các vị sư, táng nó ở núi sau chùa.

Bèn làm một bài minh như sau:
  • Bất lạc bất muội
    Nhân quả để đối
    Bất khoái tất dũng
    Hư không phấn toái.
    Cẩu tử Phật tánh
    Hữu vô hà ngại
    Cổ lệ khó thung
    Thương ưng khí khái.
    Hồ tử thố khấp
    Lưỡng gia năng đái
    Dị loại trung hành
    Đương quán tự tại.
Dịch:
  • Không rơi vào, chẳng mê muội
    Nhân quả đối đãi nhau
    Thùng sơn chẳng mau lẹ
    Hư không tan như tro bụi
    Con chó cũng có Phật tánh
    Có hay không, có gì là trở ngại
    Cây thung khô nơi bên đường xưa
    Khí khái của con chim ưng màu xanh.
    Chồn chết, thỏ buồn khóc
    Cả hai con đều không hiểu việc
    Cái hành ở trong dị loại
    Phải nên quán sự tự tại của nó.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lại một câu chuyện khác:
  • CON SUỐI LINH VỚI SỰ CẦU ĐẢO CHÂN THÀNH:
Đất đai và rừng cây nơi Tào Khê ở địa giới núi Tứ Thiên Vương đều thuộc về chùa Nam Hoa. Các vị vương thân hộ pháp, từ triều này qua triều khác chẳng bao giờ chấp nhận cho để mả chôn cất nơi gần chùa. Các nhà địa lý danh tiếng cũng nhận là đất kết ở nơi chùa, linh khí đã có chủ rồi! Nay gượng ép chôn hài cốt vào đó thì không có lợi cho con cháu là lại làm hư hoại cơi danh tiếng mà thành ra đôi bên đều có hại. Cho nên, từ đó tới nay không có ai để mả ở đó.

Năm trước đây, có người ở thôn Toàn Khê lén để mả vào nơi sau chùa, núi Tượng sơn. Thì cái suối gần đó bỗng khô kiệt đi. Huyện quan Khúc Giang tên là Điệp Chấn Đồng cho điều tra, xét thấy rõ ràng và buộc ngôi mộ này phải dời đi ngay. Ngôi mộ đã dời, nhưng suối vẫn khô kiệt.

Thấy việc có quan hệ đến vấn đề nước uống cho chốn này và cũng cho chùa. Ngài Hư Vân đi ngay tới suối kỳ đảo âm thâm (mặc đảo), vái van. Khấn nguyện, chẳng mấy chốc thì suối nước chảy trở lại như cũ.

(Sách: "Tào Khê Thống Chí, quyển bốn của Thượng thư Lý Nhật Tuyên có ghi chuyện này).

Lại một việc sửa đổi dòng sông một cách huyền diệu:

Con sông chảy ngang qua Tào Khê vốn cách xa mặt chùa Nam Hoa khoảng một trăm bốn mươi trượng. Lâu năm, vì không sửa sang, cát đá đóng chứa lại, nên dòng nước chảy đổi chiều lại day về hướng Bắc, bắn thẳng vào trước cửa chùa.

Đó là một điều rất hệ về mặt địa lý. Một sự việc không thể bỏ qua vì tương lai của chùa, vận số của Tăng chúng và bổn đạo trong vùng, không thể không sửa chữa được.

Hư Vân hòa thượng cùng chư tăng, thân hào cư sĩ, bổn đạo hộ pháp họp bàn cách sửa đổi dòng sông. Sau khi xét định cho đường nước phải chảy đi như thế nào, ở đoạn nào, theo phương hướng nào, rồi phải bao nhiêu khối đất, đá, cây, đê đập... nhân công để dựng con đường sông mới, lấp đi đoạn sông cũ. Mọi người xét thấy: sông dài những tám trăm bốn mươi trượng, phải cần trên ba ngàn người, và phí tổn rất nặng. Tuy nhiên công việc vẫn phải làm là cứ làm.

Chính đương lúc khởi công được mấy hôm, thì vào một đêm, đêm 20 tháng 7 mưa và sấm sét đổ xuống rất dữ dội, suốt đêm gào thét như muôn ngàn con ngựa chạy.

Kịp đến sáng sớm hôm sau, nước dâng lên bằng mặt đê, xung phá chảy ồ ồ, tự nó mở ra một đường chảy mới, như lằn ranh mà trong cuộc họp bàn đã định cho con sông mới chảy đi.

Con sông cũ bị cát đá, đất chẹn lại, nước vọt lên mấy thước, làm thành ra hình cái mặt bàn dài to tướng, như chữ Nhật ở trước cửa chùa, mà địa lý nhận cho là rất quý.

Đây là một sự lạ lùng mà ai cũng cho đó là có thần linh giúp sức cho sửa lại dòng sông vậy! Lành thay!

Năm Dân Quốc thứ hai mươi sáu (Đinh Sửu) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi tám tuổi:

Trần Tế Đường từ chức, trả lại chính quyền cho chính phủ trung ương.

Quân sự Ủy viên Tưởng Giới Thạch bị Trương Học Lương bắt giữ (việc này được gọi là "Tây An sự biến").

Sau khi truyền giới mùa Xuân, do lời mời của thành phố Huệ Châu, Hư Vân hòa thượng sang đó giảng kinh.

Lúc bây giờ vị Phật sống Tây Tạng là Vĩnh Tăng Kỳ Bố với các ông La Cách Cảnh Tang cũng sang đây và có một số người cùng theo đoàn xin quy y.

Rồi tăng chúng ở đất Phật Sơn lại mời Hòa thượng sang chùa Nhân Th... để khai quang bảo tháp vừa xây xong.

Bây giờ quân Nhật đánh úp Lư Cầu Kiều (ở ngoài Bắc Kinh). Quân chánh phủ ra khỏi Bắc Kinh. Cuộc chiến Trung Nhật trở nên dữ dội.

Tháng 12 thành Nam Kinh bị chiếm. Quốc Dân chánh phủ dời về Trùng Khánh (Tứ Xuyên, Ba Thục)

Từ năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy đến ba mươi (1938-1941) - Hòa thượng Hư Vân chín mươi chín đến một trăm lẻ hai tuổi:

Suốt thời gian này Hòa thượng Hư Vân luôn ở Hoa Nam.

Chiến sự kháng Nhật tiếp tục. Dân chúng đói khổ, vô cùng lầm than!

Hòa thượng lo tổ chức "giám tĩnh vãng thực" nghĩa là bớt buổi ăn chiều lấy gạo chẩn tế.

Đến năm một trăm lẻ hai tuổi, thấy công việc kiến thiết trùng tu ở chùa mười phần đã xong trên tám, chín... Hòa thượng bèn gom góp tất cả tiền bạc của thiện tín bốn phương, dâng cúng trong hai năm, còn dư trên ba mươi vạn và đem giao hết cho chánh phủ giúp dân nghèo đói, không giữ lại một tơ hào. Đồng thời cũng có mấy việc đáng ghi như sau:
  • MA QUỶ BÁO ÂN:
Hòa thượng đến Quảng Châu, cư sĩ Trần Bồi có một tòa nhà mới rất đẹp. Ông Bồi giữ chức vụ nơi một hãng buôn của nước Đức tại Hương Cảng. Hết thảy gia đình ông đều ở Hương Cảng. Nhà giao cho một người coi giữ. Hòa thượng được đưa về nghỉ tại nơi này. Cư sĩ mời Hòa thượng nghỉ nơi từng lầu thờ Phật của nhà.

Một bữa, máy bay Nhật đến ngoài bốn mươi chiếc sang oanh tạc ném bom ở đây. Nhà cửa chung quanh đều bị hư nát, người chết vô số. Cửa cái, cửa sổ nhà Hòa thượng ở đều gãy đổ nát, nhưng trọn căn nhà không hề hấn gì. Sư và mọi người cùng ở đều được bình yên. Trong số người ở gần nhà này có hai ông họ Hứa và họ Lý, làn bạn thân cùng làm việc chúng, rất tương đắc với nhau. Ông họ Lý chết để lại vợ còn trẻ và con thơ ấu.

Họ Hứa lo việc chôn cất cho ông Lý xong. Sau đó nuôi dưỡng vợ con ông Lý rất chu đáo, xem coi như người ruột thịt trong gia quyến. Trên mười năm qua..., bỗng một hôm, trên đường ông họ Hứa lại gặp ông họ Lý. Ông Lý rất mừng rỡ, mời ông ta vào quán uống rượu. Ông họ Hứa lạ lùng vì biết ông bạn Lý của mình đã chết rồi kia mà, làm sao còn được ở đây như thế này.

Ông Lý dường như cũng cảm được ý nghĩ của anh bạn họ Hứa, cười và thẳng thắn bảo thật với bạn:

- Lúc trước chúng ta là bạn thân. Anh đừng lo sợ gì cả. Tôi nay đã là người thiên cổ, mà ơn anh bấy lâu nay hết lòng và thành thật bảo bọc và nuôi dưỡng vợ con tôi. Ơn đức ấy, tôi nhớ mãi không quên. Vừa rồi, tôi phụng mạng bề trên đến đây, vì chỗ này sẽ có biến cố lớn, để lập danh sách người trong vùng. Nơi nhà anh đang ở cũng bị tai nạn chung, nhưng may mắn là nhà anh không có người nào có tên trong danh sách, nên tôi đặc biệt báo cho anh biết nên mau mau đi lánh nạn, tránh xa khỏi chỗ này. Đi được thì bình yên.

Nói xong rồi cùng uống rượu và móc tiền ra trả cho chủ quán và từ biệt ra đi.

Trước khi chia tay, còn căn dặn nên đi gấp, đừng trù trừ mà có hại. Rồi đi thật nhanh như gió, chốc lát đã biến đâu mất.

Ông họ Hứa lật đật về nhà, tuy nghi ngờ nhưng cũng cấp tốc đưa cả gia đình đồ đạc đi nơi khác.

Không mấy hôm thì tai nạn xảy ra. Nhà cửa vùng này bị máy bay oanh tạc dữ dội, tan nát hết.

Thấy thế mà nghĩ: sống chết đã đành chẳng phải là ngẫu nhiên, và ma quỉ cũng vẫn còn biết ân đền nghĩa trả, và sự báo ứng rất nhanh chóng, nhãn tiền như tiếng dội của lời nói.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi mốt (Nhâm Ngọ) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ ba tuổi:

Cuộc chiến rất ác liệt, binh sĩ và dân chúng chết rất nhiều.

Hòa thượng bèn lập đàn tràng, mỗi Phật tử tại chùa phát tâm mỗi ngày lễ sám hai tiếng đồng hồ cầu siêu cho vong linh người chết và cầu nguyện tiêu tai cho người sống.

Đất Khúc Giang thành lập Phật giáo hội, tỉnh Quảng Đông đồng tâm cử hòa thượng Hư Vân Lý Sự Trưởng lãnh đạo làm các Phật sự.

Một sự việc lạ xảy ra.

Tại ven ao phóng sanh mới đào, ở phía Tây cửa vào chùa Hoa Nam Tào Khê, có một cây Chương cổ thụ không ai biết đã mọc bao nhiêu đời rồi và bao nhiêu tuổi, cây cao ngất, tàn lá xum xuê, che mát cả một vùng chu vi hơn trượng.

Mỗi năm, đến ngày mồng tám tháng hai là ngày giỗ Tổ (Lục Tổ Huệ Năng), các quan mọc lên, bàn ghế quanh gốc cây, dân làng đến tham lễ chè chén rượu thịt, trông như quang cảnh một miếu thần, quên mất đó là đạo tràng của Tổ khai sơn Nam Tông.

Lại nữa, thêm vào đó, có một số tăng bất lương (bất pháp tăng) chiêu tập quân du dãng, kiếm cách chiếm cứ chùa này bày ra chứa bạc, chứa điếm (Bọn bất lương bàn cứ sơn trung).

May thay! Lý Tướng quân kịp nghinh thỉnh Cổ Sơn Hư Vân hòa thượng về trùng hưng chùa Nam Hoa này.

Đến nơi, thấy quang cảnh ô uế tồi tàn trước mắt, Hư Vân hòa thượng quét sạch mới nghe. Bèn định lại cổ quy, lập lệ không cho đem rượu thịt lên núi. Bên ngoài tuyên truyền cho cuộc chỉnh đốn, bên trong nhờ địa phương quan ủng hộ sự cấm đối. Ngay dưới gốc Cây chương chỗ lập miếu thờ Thổ địa. Thực hành như thế trong mấy năm, nạn tệ đoan trước đều diệt mất.

Sang năm Nhâm Ngọ, lúc đang cử hành đàn giới mùa Xuân, có một hành giả đến xin thọ giới Tỳ kheo. Hỏi tên họ, xưng là họ Trương. Hỏi gốc tích, đáp là người Khúc Giang. Hỏi tuổi, nói là tám mươi bốn tuổi. Hỏi đã thế độ với ai thì lúng túng, trả lời không được. Còn tam y bình bát nhất nhất đều chẳng có gì. Tuy nhiên, thấy lòng chân thành, Hòa thượng vẫn nhận và cho pháp danh là Thường Nhục.

Trước khi chưa vào giới đàn, hành giả họ Trương này phục dịch rất cần mẫn. Mỗi ngày quét dọn trong ngoài không hề giải đãi, nhưng tính trầm mặc, ít nói, ít cười với chúng. Đến khi lên giới đàn học giới thì xử sự đúng theo quy luật.

Lúc ba đàn giới viên mãn, Phạm Võng đã xong, thì người này bỗng dưng đi đâu mất, áo cà sa và khí cụ lưu lại ở giới đường, mà người tìm đâu cũng không thấy. Lâu ngày rồi ai cũng lãng quên.

Năm Quý Mùi (1943), lúc đàn giới mùa Xuân sắp mãn, người ấy nhập vào giấc chiêm bao của ngài Hư Vân, xin lãnh giới điệp năm ngoái. Trách hỏi đi đâu?

Người ấy đáp là chẳng có đi đâu cả. Hỏi ở đâu thì đáp: Cùng ở chung với Thổ địa.

Thức giấc, Hòa thượng biết ra là thần cây Chương già của chùa đã đến cầu thọ giới.

Bèn cho thiết lễ cũng nơi miếu Thổ địa bên gốc cây Chương, lập một bài vị và đem giới điệp cũ đốt đi để trả lại cho thần.

Cho hay, lòng chí thành có thể cảm hóa được thân mình. Thật khó nghĩ bàn.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • CHÙA NAM HOA VỚI PHI CƠ NHẬT
Từ khi thành Huệ Châu bị vây hãm, chánh phủ tỉnh Quảng Đông dời qua đất Khúc Giang. Nhân viên quân sự và chánh trị thường tới chùa Nam Hoa. Địch do biết tình hình, và đúng một ngày có nhiều nhân vật trọng yếu đến chùa, thì tám phi cơ bay đến quần đảo trên không khu vực chùa.

Ngài Hư Vân bèn ra lệnh cho chư tăng trở về liêu, còn khách thì tất cả đều lên chùa, vào điện của Tổ. Riêng Hư Vân một mình lên chánh điện đốt hương cầu nguyện rồi ngồi kiết già.

Máy bay địch quần đảo rất lâu trên không phận... Một chiếc bỗng dâm đầu xuống liệng một trái bom lớn, trúng vào phía ngoài chùa, bên cạnh sông, trong rừng cây. Các phi cơ khác tiếp tục rần rần bay sát trên chùa. Bỗng nhiên, cách phía Tây chùa mười dặm, hai chiếc phi cơ đụng nhau bốc cháy, rớt xuống tan nát, phi công chết ngay.

Từ đó phi cơ địch không còn dám bay đến chùa nữa. Ngay khi chúng bay đi lên phía Bắc, cũng bay đường vòng quanh, tránh không còn dám bay ngang qua chùa nữa.

Mùa Đông, thể theo lời yêu cầu của Lâm Sum, chủ tịch chánh phủ tại Trùng Khánh, Hư Vân hòa thượng thiếp lập một đàn tràng gọi là "Tức Tai Pháp Hội" để cầu an cho đất nước.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi hai (Quý Mùi - 1943) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ bốn tuổi:

Tháng Giêng, ở Tức Tai Pháp Hội (được hai chùa Từ Vân và Hoa Nghiêm bảo trợ) sư tăng tu nghi thức sám hối đến ngày hai mươi sáu thì viên mãn.

Ông Chủ tích Lâm Sum, ông Tưởng Giới Thạch và nhiều vị Trưởng quan khác chia nhau làm cỗ chay thiết đãi.

Ông họ Tưởng hỏi Phật pháp rất tỉ mỉ, ông đặt ra câu hỏi nhiều về vấn đề duy tâm, duy vật, về thần và lý của Cơ Đốc giáo.

Hư Vân hòa thượng, tại hai chùa Từ Vân và Hoa Nghiêm đã thượng đường khai thị.

(Thị giả pháp danh là Duy Nhân bút ký những lời khai thị này như sau):

... Dưới mắt ta, thế giới có hai sức mạnh: Duy thần luận và duy vật luận.

Cả hai đều phủ nhận thuyết luân hồi, quả báo, và cả hai đều ảnh hưởng lớn.

Duy thần luận của Cơ Đốc Giáo, tuy có thuyết lấy khoái lạc ban thưởng người lành, lấy đau khổ trừng phạt kẻ ác, vẫn nhận sự tồn tại của thần như một việc tự nhiên, nhưng không biết tại sao là "tự nhiên" như vậy. Bởi cớ, không khiến người ta tin tưởng được một cách thâm sâu, mà lại còn để cho Duy vật luận nốt trôi.

Đây là nguyên nhân Cơ Đốc giáo không thể giữ gìn hòa bình cho thế giới.

Sự thật, Thần tức vật, vật tức tâm, tâm cũng như là thần. Nhưng thật đây cũng chẳng phải là thần, mà vật cũng chẳng phải là vật. Tâm cũng chẳng phải là tâm.

Phải vạch rõ: Trong ba cõi (vũ trụ) không một pháp (sự vật) nào được xây dựng, sáng tạo. Tất cả đều do chân tâm khơi vọng mà sanh.

"Chân tâm" bất quá cũng chỉ là một giả danh lập ra để đối lại "vọng vật" vậy thôi.

Xét cho cùng tột đến chỗ "thực", cái được gọi là "chân tâm" này cũng chửng phải là chân.

Thí dụ: Biển cả. Tâm là nước, muôn pháp (muôn sự muôn vật) là sóng. Phẳng lì, nằm yên thì gọi là nước. Sôi trào, nhảy dựng thì gọi là nước. Nước mà gặp lúc nhảy dựng là sóng.

Lại nhân có cái nhảy dựng là sóng, mà gọi cái không nhảy dựng, nằm yên, bình tĩnh là nước.

Giả sử ở chỗ căn bản không có cái tướng sóng thì cái tên giả là sóng không lập được. Rồi cái giả danh "bình tĩnh" cũng không do đâu mà sanh.

Lập ra những cái giả danh đó cũng bất quá là do chúng ta tùy ý mà lập, chứ cái chúng ta gọi là nước, biết đâu loài cá không gọi là "không khí".

Bởi vậy, nên biết: Vật tức là tâm, Có tức là không, Sắc tức là trống không. Vọng tức là Chân, Phiền não tức là Bồ đề, Chúng sanh tức là Phật.

Một niệm lầm lẫn, thì ngay lúc ấy, tâm thành vật. Không thành có, trống không thành sắc, Bồ đề thành phiền não, chư Phật thành chúng sanh, như nước nhảy dựng mà thành sóng.

Bằng một niệm sáng suốt, thì ngay lúc ấy, vật chẳng khác tâm, có chẳng khác không, sắc chẳng khác trống không, vọng chẳng khác chân, phiền não chẳng khác Bồ đề, chẳng khác khác chư Phật, như sóng không còn nhảy dựng nữa thì trở lại bĩnh tĩnh là nước.

Lại nhân sai lầm mà dấy lên những cái: Vật, có, sắc, không, phiền não, chúng sanh. Cho nên để đối đãi lại, mới lập ra những giả danh là: Tâm, vô, không, chân, Bồ đề, chư Phật.

Nếu ở chỗ căn bản không có cái mê, thì giả danh: "Vật, có, sắc, vọng, phiền não, chúng sanh" không cần phải lập, Và như vậy thì làm sao thành lập được những giả danh đối chọi là "Tâm, vô, không, chân, Bồ đề, chư Phật".

- Vậy, những cái gọi là Duy tâm, Duy vật, Hữu thần, Vô thần đều là sự phân biệt, tính toán, đo lường của thức - tâm làm sanh ra mà thôi.

Có người nói: Nếu luận như vậy thì Phật học là Duy tâm mất rồi còn gì?

Phật học tuy nói Duy tâm, nhưng cái Duy tâm này rất khác với Duy tâm của triết học...

Duy tâm luận của triết học cho tâm là có, cho vật là không.

Đây là điểm mà đức Phật Thích Ca gọi lấy tâm leo trèo làm tự tánh, chấp sanh tử, vọng tưởng làm chân thật.

Trái lại Duy vật luận cho vật là có, còn tâm là không.

Đức Phật Thích Ca bảo đó là đảo lộn, lầm nhận vật là mình, tự mình bắt mình trôi lăn trong luân hồi.

Duy tâm luận chia cắt thực thể của vật chất, và thực thể của thần linh ra làm hai thế giới khác nhau.

Đức Phật Thích Ca cho đó là mê lầm, không thấy trong thân có tâm, là lấy bọt nước mà cho là toàn nước.

Duy vật, Duy tâm mỗi phái đều chỉ thấy có một khía cạnh (biên kiến).

Hoặc vì đứng quá gần mà thấy hình tượng của bò mà cho là bò, hoặc nhìn trộm qua lỗ trộm của một ống trúc, thấy cặp sừng mà cho đó là toàn con bò, hay thấy cái đầu rồi cũng cho đó là toàn con bò. Sự thực không phải vậy. Chỉ vì bị che lấp mà toàn thể con bò không được thấy đủ.

Phật giáo đi ngược dòng cho tới gốc nguồn, đưa con bò chân thật ra mà chỉ.

Nếu chỉ rồi mà thấy, thì chưa bao giờ có cái trường hợp không thấy toàn thể con bò. Bởi vậy muốn nghiên cứu những cái nghẹt lối của Duy tâm, Duy vật mà bỏ Phật giáo thì không làm sao được.

Cái mà Phật giáo gọi là "Minh tâm kiến tánh"
(1), Thanh tịnh bổn nhiên(2), ly chư danh tướng(3), vô hữu phương sở(4), Thể tự giác(5), Thể tự minh(6). Đó là tánh đức tự nhiên vốn có, trong đó tuyệt vô năng, sở(7) là hai cái đối chọi nhau.

Ở trong tánh đức ấy là bản thể, không có cái gọi là mười phương
(8), ba đời(9), cũng không có cái gọi là đất đai, nhân loại, cầm thú, thảo mộc, sắt đá. địa ngục, thiên đàng v.v... Chỉ vọng tưởng mà những pháp hữu vi(10) được dựng lên, như Phật đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm.

Giác tánh chân như (vốn có một), nhưng khi đã ra có chân, có vọng thì liền sanh ra hai cái khác nhau là: bất biến và tùy duyên.

Trong cái bình đẳng bất biến, nghĩa là ngoài cái sai biệt của tướng, thì không có thánh phàm, chẳng phải lành, chẳng phải dữ, luôn luôn luôn chân như thường. Đó gọi là bất biến chân như vậy.

Còn tùy duyên thì có sanh có diệt, tướng này tướng nọ khác nhau nổi lên, thành ra có thánh, có phàm, có lành, có dữ, Đó là tùy duyên chân như vậy
(11).

Đứng trên phương diện bất biến chân như mà nói, thì muôn vật là chân như, chẳng có gì là tâm, là vật, là thần cả. Đứng trên phương diện tùy duyên chân như mà luận, thì chân như tức là muôn vật, là tâm, là vật, là thần
(12) vậy.

Những nhà Duy tân luận lầm nhận thức thần, đứng trên tùy duyên chân như mà cho đó là chân tâm, rồi đề xướng Duy tâm luận.

Những nhà Duy vật luận, bị đóng khung trong cái thấy khía cạnh, đứng trên phương diện tùy duyên chân như, tức là phương diện chỉ thấy vật, mà khởi xướng lên Duy vật luận. Rồi lại căn cứ trên duy vật mà xướng có thần luận, đến nỗi không biết rằng: Tâm tức là vật, vật tức là thần. Tâm, vật, thần đồng mọt bản thể. Có vật aswst có tâm, có thần, không tâm ắt không thần, không vật.

Tuy nhiên, cái Có ở đây chẳng phải là cái có ở trong cặp đối đãi "Có, Không)". Cũng chẳng phải Có nhiệm mầu (diệu hữu) với cái nghĩa "chẳng phải có mà có".

Cũng thế, cái Không ở đây chẳng phải cái không của đoạn tuyệt, cũng chẳng phải cái không mầu nhiệm (diệu vô) vượt ra ngoài vòng đối đãi "có, không" của thế tình. Những nhà Duy Tâm luận và Duy vật luận đều chưa sáng tỏ nghĩa này, cho nên công kích lẫn nhau. Thực ra, không ai là không đúng, mà cũng không ai là đúng.

Một phen nghiên cứu Phật học, sự mê chấp sẽ tự tan rã như băng giá.

Đối với sự nghiên cứu bản thể của vũ trụ, Phật học đã dứt khoát với những gì đã thuật lại ở đoạn trước. Ngoài ra, đối với sự cấu tạo và thành hoại của thế giới, sự tổ chức của các cơ quan trong con người, và biết bao nhiêu vấn đề khác, kinh Lăng Nghiêm cùng những Kinh Luận khác cũng đã cứu xét phải trái và làm sáng tỏ một cách rành mạch, tế nhị và đa số những luận xét ấy đều tương hợp với những phát kiến của các nhà triết học, khoa học hậu lai.


CHÚ THÍCH:

(1) Minh tâm kiến tánh, cũng có chỗ gọi là thường trú chân tâm, chân như, giác tánh, pháp thân, thực tướng v.v... tất cả những từ ấy đều là biệt danh của chân lý.

(2) Thanh tịnh bổn nhiên: Đức thanh tịnh tự nhiên vốn có.

(3) Ly chư danh tướng: Lìa, vượt lên trên những tên gọi và hình tướng (despasser les noms et les apparences).

(4) Vô hữu phương sở: Không có phương hướng và chỗ nào.

(5) Thể tự giác: Thể tự thức tỉnh.

(6) Thể tự minh: Thể tự sáng suốt.

Tất cả những danh từ trên đều chỉ cái bản thể (le soi) của vũ trụ, cái chân lý tuyệt đối, cái mà các tôn giáo gọi là Thượng đế, Chúa, đấng sáng tạo.


(7) Năng: là chủ quan, chủ động. Sở: là khách quan, bị động.

(8) Mười phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Thượng, Hạ.

(9) Ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai.

(10) Pháp hữu vi: Vũ trụ, vạn sự, vạn vật.

(11) Giản lược để ví tánh chân như, như sự sống trong muôn vật. Sự sống y như nhau ở mọi người. Đó là bất biến chân như. Nhưng vì có sống nên con người mới có nói và làm, mà không có nói làm giống nhau, như có kẻ làm hại, có kẻ không làm hại, thành ra mới phân biệt thiện ác.

Sự biểu hiện sai khác nhau của sự sống trong lời nói việc làm này gọi là tuy duyên chân như.


(12) Thần ở đây không có nghĩa là một ông thần, mà có nghĩa là tinh thần, cái phần thiêng liêng huyền diệu ở con người, khác phần xác thịt.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hiện nay có một vấn đề chưa vạch rõ được là giá trị con người, tức những hành động và tâm nguyện của chư Bồ tát, là những hạnh nguyện mà, nếu chẳng phải Thánh hiện thì không sao làm được. Trong kinh điển bất luận chỗ nào, đều có thể thấy những hạnh nguyện này. Cứ theo đó khá biết rõ chỗ thần điều vĩ đại của Phật gió. Tuy nhiên, Phật giáo không bao giờ "tiêu kỳ lập dị"(13) để gạt người, cũng chẳng "cố lập huyền hư"(14) để cảm chúng.

Một lời nói, một việc làm của Phật giáo đều tùng ba cái học Giới, Định, Tuệ, tự mình theo đuổi thực hiện mà được.

Sao gọi là Giới, Định, Huệ?

  • Ngừa trái, dứt dữ gọi là Giới.
    Sáu căn tiếp cảnh, nhưng tâm không tùy theo gọi là Định.
    Tâm cảnh đều không, soi thấy mà không mê loạn gọi là Huệ
Ngừa dứt những cong vạy, trái quấy của ba nghiệp (thân, khẩu, ý), ắt được tự lóng, đó là Giới sanh Định, nước tâm được lóng trong, ắt soi muôn tượng, ấy là do Định sanh Huệ.

Nhà Nho cũng có câu: Có Định rồi sau mới tĩnh, Tĩnh rồi sau mới an, An rồi sau mới liệu, liệu rồi sau mới được... Vật có gốc ngọn, sự có đầu đuôi
(15).

Nhà triết học chẳng những không trầm ngâm suy gẫm theo sự mà học được vậy. Nhưng nhà Nho cũng như triết gia, khoa học gia, đều lầm ở chỗ lấy cái tâm leo trèo mà cứu xét vạn vật trong vũ trụ, không biết rằng:

Vũ trụ, vạn vật đều là "Phan duyên tâm" tạo ra, thành ra cái năng xét là chủ quan và cái bị xét là khách quan, đều là Phan duyên tâm cả. Thế mà lại muốn tìm chân lý, thì có khác nào đang ngồi trên ghế mà lại muốn dở cái ghế lên mà không thể được.

Sở dĩ những nhà triết học thời nay, đối với Nhận thức luận, còn dưa ra tranh cãi phân vân, không ai cùng một nhận thức với ai, rốt cuộc không đi đến một kết luận nào, chỉ vì cái cớ vừa nói.

Phật thì không bàn luận (ly ngôn), không kết luận nào, chỉ vì cái cớ vừa nói, dùng trí huệ tĩnh soi muôn vật trong vũ trụ, như người ngồi ghế đi dứng xuống đất dở ghế lên, bởi vậy không mê hặc (nhậm vận như như).

Đây là Phật giáo rộng lớn hơn triết học, khoa học và tôn giáo. Phật giáo tỷ như cái lò trong đó ba cái triết học, khoa học và tôn giáo được bỏ vào nấu chung, lại còn biết trước, tỉnh thức trước tất cả.

Nhật Bổn lấy Phật giáo làm quốc giáo mà được hưng thạnh, các bậc hiền của cuộc Duy Tân ở nước ấy hằng chịu ân Thiền học không phải là ít. Sự kiện ấy, khắp nơi công chúng đều biết. Nếu bọn quân phiệt, mê tín võ lực, trái ngược với Đạo, không lấy giết chóc làm công, xâm lược làm giỏi, thì nước Nhật đâu có nếm mùi thất bại như vừa qua.

Hoặc có người lại cho Phật giáo tiêu cực, mê tín không đủ điều kiện làm quốc giáo. Đó, thật nên nói là chưa rõ Phật giáo là gì?

Sự thật, Phật giáo không hoại thế gian tướng thì làm sao mà gọi là tiêu cực được? Bước bước Phật giáo đưa con người từ mê muội ra nơi ánh sáng, thì làm sao gọi là mê tín được? Xét danh từ Phạn ngữ, "Buddha" thì thấy có nghĩa là người đã tỉnh thức sáng suốt; hễ ai tự giác, giác tha, hạnh hạnh đều sáng suốt hoàn toàn, thì người ấy được gọi là Phật (Buddha).

Chữ Bồ tát (Boddhisattva) dịch nghĩa là chúng sanh hữu tình đã giác ngộ. Có hai hạng Bồ tát: xuất gia và tại gia. Nhưng tất cả là những người ở lòng rộng lớn, vì chúng sanh mà cầu đạo vô thượng, một mặt tự tu tự sửa, một mặt giáo hóa người khác. Cái tích cực và chánh tín của Bồ tát, sợ không có người hơn.

Y theo hai nghĩa ChiếcNhiếp, Phật giáo lập ra nhiều thứ phương tiện.

- Chiếc là gì?

Là khuất phục người dữ, có tích xưa Thạch Lặc hỏi ngài Phật Đồ Trừng về giới cấm sát sanh. Ngài Đồ Trừng đáp:

- Khổng Tử vì kẻ làm vua mà lấy câu "bất vọng sát"
(16) để răn cấm sự sát sanh, đó là nghĩa của giới sát.

Các vị "đại quyền Bồ tát"
(17) đều có hành động vì cái lẽ khuất phục kẻ ác, làm lợi chúng sanh. Vì vậy cho nên, dù tay có cầm dao gậy, thậm chí dù có làm cho đẩu rơi máu đổ, vẫn không phạm giới. Vì ác ý mà giết người, thật là việc không nên. Vì nhân lành mà giết người, thật là việc làm cương quyết của bậc đại quyền Bồ tát.

- Sao gọi là Nhiếp?

Nhiếp là dẫn dụ người lành. Phật và Bồ tát, vì muốn làm lợi ích chúng sanh, cho nên không tránh sự khó khăn nguy hiểm.

Có bốn phương pháp dẫn dụ:

  1. Bố thí: Nếu có chúng sanh cần có của cải thì bố thí của cải, cần được dạy bảo thì bố thí pháp, khiến cho họ sanh lòng thương mến mà chịu vào nẻo đạo.
  2. Ái ngữ: Tùy căn tánh chúng sanh mà khéo lựa lời hoặc an ủi, hoặc dẫn dụ, khiến họ có lòng mến thương mình mà theo vào đạo.
  3. Lợi hành: Khéo hành động bằng thân, miệng ý, làm lợi ích cho chúng sanh, khiến họ sanh lòng thương mến mà theo vào đạo.
  4. Đồng sự: Lấy mắt "pháp" mà xem xét căn tánh chúng sanh, tùy sở thích của họ mà thay hình hiện ra, để cùng họ làm việc họ làm, đem lợi ích lại cho họ, khiến họ tích cực đi vào con đường của chư Phật, Bồ tát.
- Sao gọi là phương tiện?

Phương tiện là lựa theo căn khí của chúng sanh mà quyền xảo, phương này thế nọ, đưa họ ra khỏi sông mê.

Trước đây nói về bốn pháp dẫn dụ (tứ nhiếp pháp), đó là một phương tiện.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm "Hóa Thành" nói: Thí dụ có một con đường ác hiểm lối về chẳng có, phần thú dữ rất nhiều, lại thêm nước cỏ không ngơi, ai cũng lấy làm sợ sệt. Nhưng muôn vạn vô số người lại muốn qua con đường hiểm ấy, vừa thênh thang, vừa diệu viễn, phải trải qua năm trăm do tuần mới tới đích. Lúc bấy giờ có một người giỏi nghề dẫn đường, giàu kinh nghiệm lại thêm trí sáng, biết rõ ràng ý của khách lữ hành, bèn quyết định giúp đỡ người bị nạn. Mệt nhọc, chán nản, bọn người đi đường bèn thưa với người dẫn đường: "Chúng tôi quá mệt nhọc, bây giờ chỉ muốn thối về".

Ông làm nghề dẫn đường mới suy nghĩ: Bọn này thật đáng thương xót, tại sao lại muốn trở lui để mất cơ hôi được hưởng những của báu quí giá? Nghĩ như thế, ông bèn suy tính coi phải dùng phương tiện nào để bọn kia khỏi thối bước. Ông lấy sức mạnh thần thông hóa ra một cái thành và nói: "Các anh hãy vào thành, muốn gì có nấy".

Bọn người kia vào thành xong, lòng đều vui sướng. Ông dẫn đường khi ấy mới nói: "Đây là một cái thành do tự biến hóa ra. Ta thấy các anh quá mệt mỏi, nửa đường muốn thối lui, nên quyền biến ra thành này. Nay (sau khi nghỉ ngơi), mọi người tinh tấn đi cho tới chỗ chứa báu..."

Xem như trên, đủ thấy thâm ý của đức Thế Tôn trong việc chia thời thiết giáo, quyền biến phương tiện dạy dỗ. Bởi cớ, đối với các bậc tối thượng căn thì nói Thiền, đối với thượng căn thì nói Giáo, đối với bậc trung thì nói Duy Thức, đối với hạng tầm thường thì nói Tịnh Độ, quyền biến mà dạy khi Đại Thừa, khi Tiểu Thừa, bất luận xuất gia hay tại gia, miễn sao hóa độ được mọi căn cơ làm cho chúng sanh đều thấm nhuần lợi ích của pháp vậy.

Người thời nay, thấy hàng Phật tử quỳ lạy trước tượng Phật, hoặc thấy người trì danh hiệu Phật theo pháp môn Tịnh Độ, lại đứng trên lập trường Vô thần luận mà cho là mê tín, không biết rằng quỳ bái với sự tỏ lòng thành kính trước bậc tôn trưởng thượng; đôi đàng nào có khác đâu, và việc niệm Phật đối với việc tu tâm nào phải là một công phu nhỏ.

Lại nữa, trì danh hiệu Phật bất quá là một phương tiện giúp người sơ cơ vào cửa pháp một cách giản dị, huống cho ngoài ra còn những pháp niệm Phật khác như quán tượng niệm Phật, quản tưởng niệm Phật, thực tướng niệm Phật v.v... đều là những diệu dụng của pháp môn Tịnh Độ.

- Sao vì chỗ mình không biết mà lại cho là mê tín?

Hoặc có người nói: Cơ Đốc giáo đã thoát thai nơi kinh A Di Đà của tông Tịnh Độ. Này thử xem:

Áo mặc của Gia Tô (Jesus Christ) và của Phật giống nhau.

Kinh A Di Đà nói: Tây phương Cực Lạc thế giới, thì Gia Tô nói Thiên chúa Cực Lạc.

Tịnh Độ vãng sanh chia làm chín phẩm, sách Thiên Thần Phổ của Lý Lâm(?) bên Gia Tô cũng nói Thiên thần chia làm chí bậc.

Kinh A Di Đà nói: "Không thể ít nhân duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước ấy", thì Gia Tô cũng nói: "Nếu người không lập công tại nhân gian, thì Thượng đế không hứa cho người về Thiên quốc đâu".

Tịnh Độ dạy mười hai giờ phải niệm danh hiệu Phật, cầu Phật tiếp dẫn, còn Gia Tô thì dạy sớm chiều cầu xin Thượng đế xót thương.

Thậm chí trong cửa Phật có pháp "Quán Đảnh" (lấy nước đội lên đầu), thì bên Gia Tô cũng có lễ rửa tội.

Xét như trên, thấy đại khái có chỗ tương đồng giữa giáo nghĩa của Gia Tô và Tông thứ của Tịnh Độ. Tuy nhiên , Gia Tô đản sanh sau Thích Ca trên một ngàn năm (có chỗ bảo là từ năm trăm hay sáu trăm năm) thì Gia Tô ắt đã thọ Phật hóa, được truyền thọ kinh A Di Đà rồi trở về nước căn cứ theo đó mà đứng riêng lập giáo. Vấn đề này gần như không có chỗ nghi ngờ, huống chi Gia Tô tông có ba năm ẩn tích, ắt đã dùng thời gian ấy sang Ấn tham học. Việc này tuy không căn cứ, nhưng trên "Tìm nhện phản tơ, kiếm ngựa theo dấu" thì tôi nghỉ nói trên không phải là vu vơ vậy.

Xét bề ngoài thì Gia Tô có phần tương tựa với pháp môn trì danh niệm Phật của tông Tịnh Độ dành cho bậc sơ cơ, như chúng ta vừa thấy. Nhưng trên thực tế, đôi đàng rất xa nhau.

Gia Tô chú trọng nơi tha lực, chỉ rõ kết quả, nhưng không biết rõ tại sao phải có kết quả như vậy. Thế thì gần như miễn cưởng mà làm.

Pháp môn trì danh niệm Phật trọng chỗ ứng đối giữa sức ngoài (tha lực) và sự cố gắng nơi mình (tự lực) như chương Đại Thế Chí Viên Thông trong kinh Hoa Nghiêm có nói:

  • "Mười phương chư Phật thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con chạy trốn thì mẹ dầu nhớ cũng không biết làm thế nào. Con hằng nhớ mẹ, như mẹ nhớ con thì mẹ con đời đời không cùng nhau xa cách.

    Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, tưởng Phật, không đời này thì đời sau ắt được thấy Phật và cách Phật không xa.

    Không nhờ vào phương tiện nào khác mà vẫn được mở tâm mình, nguyên nhân thành tựu của ta là lấy sự nhớ Phật để đưa tâm vào Vô sanh nhẫn (không tạo nghiệp, không khởi niệm nghiệp).

    Nay tại thế giới này, ta tiếp người niệm Phật đưa về Tịnh Độ".
Có nhân tất có quả, bởi cớ Lý và Sự không ngại nhau.

Lai nữa Gia Tô nói" Vĩnh sanh" (sanh về đời bất diệt - Naitre à la vie éternelle) thì đó là chỗ Tịnh Độ Tông nói: "Vãng sanh Tịnh Độ, thấy Phật nghe pháp chứng ngộ vô sanh".

Sanh về cõi sống đời đời là diệt cái hiển sanh (đời sống hiển hiện trước mắt đây = vie phénoménale).

Có sanh là có đối đãi, rốt phải có lúc chết.

Sanh của vô sanh, vốn tự không sanh, nên không có cái diệt.

Do đây, gọi là Vô Lượng Thọ vậy (nghĩa dịch của A Di Đà).

Người phát nguyện hành Bồ tát hạnh không phải đợi xuất gia mới làm được. Người tại gia chẳng phải chẳng hành được hạnh này. Bất quá bậc xuất gia,biệt quốc chủ, lìa thân thuộc, bỏ gia đình là ý muốn thoát ly dây ràng buộc của tình dục, bỏ tư tình mà thực hiện cái vĩ đại là Bác ái, lấy cứu độ tất cả chúng sanh là "Trung", lấy phụng sự tất cả chúng sanh làm "Hiếu". Đó là nghĩa Đại Đồng vậy.

Tôn Trung Sơn tiên sanh thường nói: Phật giáo là lòng nhân cứu thế. Phật học là mẹ của triết học. Tôn giáo tạo thành dân tộc cùng duy trì một thứ tự nhiên lực hết sức mạnh lớn của dân tộc. Nhân dân không thể không có tư tưởng tôn giáo.

Nghiên cứu Phật học có thể bổ túc thiên lệch của khoa học.


CHÚ THÍCH:

(13) Tiêu kỳ lập dị: Nêu cái lạ làm khác người, ý nói: lập luận cầu kỳ, cốt để làm cho mình khác người.

(14) Cố lộng quyền hư: Cố đưa cột với những cái bông lông không có thực, như nói chuyện trên thiên đường dưới âm phủ.

(15) Nguyên văn: Định nhi hậu năng tĩnh, tính nhi hạu năng an, an nhi hậu năng hiệu lự, liệu nhi hậu năng đắc vật hữu bổn mạc, sự hữu chung thỉ.

(16) Bất vọng sát: Đừng giết hại với lòng mê muôi, như vì tình, vì tham, vì giận...

(17) Đại quyền Bồ tát: chỉ vì Bồ tát quyền biến giả dạng này, dạng khác để giúp đỡ chúng sanh. Theo đây thì những bậc anh hùng cứu khổ phò nguy đều là đại quyền Bồ tát.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ông Duy Nhân (thị giả), thư ký của ngài Hư Vân còn nói thêm:
  • Sự buông bỏ của Hư Vân đối với vật chất.
Khi ngài Hư Vân từ Trùng Khánh (Tứ Xuyên) trở về chùa Nam Hoa (Quảng Đông), các thân bằng cố hữu, các quan cao cấp đều có tặng ngài nhiều món đồ cổ và các món châu báu, ngọc ngà rất quí và những chữ đẹp, những bức tranh có tiếng. Số đồ biếu tặng này chất đầy năm rương to. Nhưng đi dọc đường ngài chia ra tặng lại cho những người khác hết.

Hỏi thì Hòa thượng đáp:

- Giữ những vật này mất công một cách vô ích! Nó chỉ làm loạn tâm người ta mà thôi.

Trên đường về này, người đến quy y với Hòa thượng gần bốn ngàn người. Số tiền của tín đồ dâng cúng cũng rất lớn. Nhất nhất ngài bảo ghi vào sổ nhật ký và dùng hết để xây dựng tháp Hải Hội (một ngọn tháp lớn, chỗ để tro xương của các vị tăng).
  • Tháp Hải Hội
Về việc xây tháp Hải Hội này, Thang Anh tức Dung Hy Pháp sư viết bài ký như sau:

Trà tỳ là một trong bốn phương pháp lớn để chôn cất người chết theo chế độ xưa của Án Độ. Từ Phật giáo truyền qua Trung Quốc, tứ chúng theo phương pháp này.

Đời nhà Minh thì rất thịnh hành, đến đời nhà Thanh thì kém đi.

Các tùng lâm ở Quảng Đông đôi khi cũng có xây dựng Phổ Đồng Tháp, nhưng là tiểu qui mô, chớ không lớn lao gì.

Năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, Hư Vân hòa thượng đến trụ trì (trác tích) chùa Nam Hoa, ngài liền có ý dựng tháp: "Chúng Hải Hội" này.

Chúng là thất chúng, gồm: Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và Thức Xoa Ma Na Ni (cũng là Phật những chưa lên tới chức Tỳ kheo).

Đồng thời, ngài Hư Vân cũng xây dựng sửa sang Phật điện, tăng xá, huân tu trì tụng lợi khắp cõi U minh. Lúc đó, vì Tổ đình đã đổ nát, trăm sự việc tàn phế phải sửa sang.... Đã bao nhiêu năm rồi mà công việc chưa hoàn thành.

Kịp lúc ấy có người cư sĩ đất Triều Châu là Trịnh Tử Gia đến chùa phát tâm xin ủng hộ trợ giúp làm công việc này nên mới xây được xong tháp Chúng Hải Hội. Công việc đầu đuôi có một nhân duyên lạ lùng! Đúng là có một sự cảm ứng rõ ràng linh nghiệm chẳng thế nào mà không ghi lại để nhớ. Cho nên, có bài ký này:

Trước tiên, vị cư sĩ này là một người Huê Kiều làm nghề thương mãi ở Hương Cảng rất giàu. Mùa Đông Dân Quốc thứ ba mươi (1941-Tân Tỵ) Hương Cảng cũng bị Nhật Bổn chiếm đóng. Dân chúng phập phòng lo sợ. Vị cư sĩ này, một đêm mộng thấy một võ sĩ mặc áo giáp, vác cái chày Kim cương chỉ cho ông ta phương pháp đi lánh nạn. Khi tỉnh giấc, ông ghi lại điều ấy rất rõ ràng và gấp rút đưa gia quyến chạy trốn. Đường đi trải qua bao nhiêu gian nan nguy hiểm, nhưng rồi đều được lướt qua trong bình yên, như có một cái gì thiêng liêng hộ trợ cho. Trải qua mười ngày vất vả đi đến chùa Nam Hoa. Liền xuống xe ngựa ngừng nghỉ, và đi lững thững vào chùa xem chơi, hóng mát.

Khi đến điện Thiên Vương, ngửa mặt nhìn lên, chực thấy tượng của vị Hộ Pháp Vi Đà giống y vị võ sĩ mà chính mình đã thấy trong mộng, với chiếc chày Kim cương đặc biệt ấy. Giật mình, sợ hãi vừa kinh ngạc... ông ta liền thụp xuống đất lạy, hết sức cảm động, nước mắt chảy ròng ròng.

Liền đó cư sĩ đi ngay vào chùa, đến phương trượng lạy ngài Hư Vân và bạch lại việc lạ lùng này, đồng thời phát tâm xin quy y và tình nguyện cúng một số tiền lớn để xây dựng trùng tu chùa để báo ân Bồ tát đã gia bị cho toàn gia quyến mình.

Ngài Hư Vân bảo:

- Các nơi chánh điện của chùa trùng tu đã xong, duy còn thiếu việc xấy cất Hải Hội tháp.

Vị cư sĩ này vui mừng cúng ngay năm chục ngàn đồng, và người con trai lớn của ông cũng xin đảm nhận việc đi quyên tiền thêm nữa. (Do đó, các cư sĩ Chu Hòa Viễn tùy hỷ giúp hai vạn đồng, cư sĩ Trương Tử Liêm giúp một vạn đồng.... và các thiện tín nối tiếp nhau quyên cúng rất đông. Thế là Tháp Hải Hội trang nghiêm hướng lên cao khỏi mặt đất.

Thang Anh Dung Nghi Pháp sư viết: Xét kỹ nhân duyên của cư sĩ họ Trịnh, thì Bồ tát Vi Đà nguyên đứng sừng sững kia chứ nào đâu có chút động đậy. Không riêng Bồ tát Vi Đà, mà ngay đức Phật Như Lai của chúng ta cho đến Hư Vân hòa thượng cũng chưa từng có chút xíu nào động tâm.

Kinh nói: Tùy duyên đi đến chỗ cảm ứng, không chỗ nào là chẳng khớp, mà thường ở nơi pháp tòa dưới gốc cây Bồ đề. Tùy duyên phó cảm mị bất chu, nhi hằng xử thử Bồ đề tọa.

Hoa Nghiêm kinh:
  • Phật thân xung mãn ư pháp giới
    (Thân Phật chỗ nào cũng có, đầy khắp nơi, pháp giới tức là Pháp thân Phật)
    Hay phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền
    Tùy duyên phó cảm mị bất chú
    Nhi hằng xử thử Bồ đề tọa.
Như vậy cái bất khả tư nghì của Phật pháp há ở nơi kẻ phàm phu trong vòng ràng buộc mà có chỗ đo lường được sao? Đối với cư sĩ họ Trịnh thì thiện nhân đã gieo từ kiếp trước nên mới được thiện quả này. Các vị tín đồ thanh tịnh cũng tùy theo duyên này và cũng vì thiện quả này mà nên gieo trồng thêm thiện nhân.

Muôn việc thiện đều rõ ràng đồng viên chủng trí... Vì thế nên ta phải cầm bút ghi lại chuyện thực này để về sau vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Và sau đây là bài ký của ngài Hư Vân hòa thượng tự tay viết khi trùng tu chùa Nam Hoa ở đất Tào Khê:
  • CHÙA NAM HOA Ở ĐẤT TÀO KHÊ
Ở trên đầu sợi lông hiện ra Bảo Vương Sát. Ngồi trong một hạt bụi (vi trần) mà chuyển Pháp luân (quay bánh xe pháp).

Tận cùng hư không, khắp cả pháp giới, chỗ nào lại chẳng phải là đạo tràng?

Một nắm đất, một bức vẽ trên cát, việc nào mà chẳng phải là Phật sự?

Nói đến nguyên tắc cùng cực, thì động niệm đã là sai quấy rồi, làm gì ngôn ngữ văn tự mà ghi chép được ư?

Nhưng, thời thế có biến thiên trôi chảy, giới có phương hướng vị trí, Đạo có lúc ẩn lúc hiện, việc có khi phế bỏ lúc trùng hưng, huống chi đạo ở nơi người mà chẳng hoằng dương?

Lý vì sự việc mà hiển. Muốn nối tiếp người xưa, dẫn dắt người sau, tiếp tục tuê mạng để truyền ngọn đèn của Phật, sao lại chẳng có ngữ ngôn văn tự để ghi chép ư?

Như Tào Khê là đạo tràng của lục Tổ Đại Giám thiền sư, truyền pháp mạch Đông Sơn, hoằng dương tông phong "Nam đốn". Một giọt nước của Tào Khê rơi khắp hoàn cầu, năn Tông dành nhau sự tốt đẹp của nó, gây ảnh hưởng đủ ngàn năm. Tuy có lúc mờ lúc tỏ, mà kẻ thành Phật, người lên Tổ chẳng biết là bao nhiêu rồi.

Nay báo ân gốc rễ, nhớ tưởng nơi nguồn..., há chẳng là việc đáng trọng sao?

Vì thế mà không sao không có ngôn ngữ văn tự để chi chép vậy.

Hư Vân tôi nay đã già, tuổi quá cao rồi, mới tới được Tào Khê làm kẻ đầy tớ quét dọn điện của Lục Tổ. Việc như là có túc duyên.

Vân tôi công phu trên mười năm, lần lượt sửa sang, tâm sức chen nhau mệt mỏi, mới vừa đầy được khuôn viên này.

Mong các vị tông đồ sau này cố giữ gìn, đừng để mất, vĩnh viễn bảo vệ đạo tràng. Trên để báo chút ít ân lớn của Phật Tổ, ngoài cũng chẳng phụ một cách cái tội, cái nguyện lớn của các vì Hộ pháp
.

Năm Trung Hoa Dân Quốc thứ bảy, lúc Hư Vân này ở tỉnh Vân Nam, chùa Kê Túc Sơn, ông Lý Căn Nguyên, Đốc Biện vụ ở Triều Châu, sửa sang chùa Nam Hoa, có gởi thơ tới Vân Nam dặn dò Hư Vân này qua đó chủ trì công việc.

Vì nhân duyên chùa Kê Túc Sơn chưa xong, nên từ tạ không nhận lời.

Năm Dân Quốc thứ mười sau, Vân tôi và cư sĩ Vương Cửu Linh cùng ở tại Hương Cảng. Lúc đó, vị chủ tich tỉnh Quảng Đông là Trần Minh Khu mời Vân tôi đến Châu Giang và cùng mời trụ trì chùa Nam Hoa. Trước đó, có vị Bộ trưởng Hải quân Dương Thu Trang và ông Phương Thanh Đào, vì chùa Cổ Sơn ở đất Phúc Kiến gấp rút sửa sang nên ép buộc Vân tôi phải đến đó. Lại nữa, vì trước kia Hư Vân này xuống tóc xuất gia ở chùa Cổ Sơn này, nên chẳng có thể nào và làm sao khước từ được!

Mấy năm cay đắng, mệt nhọc, mới xây dựng tạm được phần nào, định lại cơ sở ở đó.

Đến năm Dân Quốc thứ hai mươi ba, các vị tăng ở tỉnh Quảng Đông là Kinh Thiền, Chí Thanh, Phước Quả đến tham lễ chùa Cổ Sơn. Họ bảo Vân nhiều lượt là Phật pháp ở Quảng Đông suy tàn, Tổ đình đổ nát, tệ đoan dẫy đầy, nên cố mời Vân này đến đó để trùng hưng lại, nhưng lòng này chưa quyết định. Thì trong một đêm, Hư Vân tôi mơ liền ba lượt thấy Lục Tổ gọi sang Nam Hoa. Hôm sau, thuật lại chuyện này, ai cũng cảm thán cho là hy hữu.

Chẳng mấy ngày sau, ông Lý Hán Hồn, chủ nhiệm Việt Bắc, nay là chủ tịch chánh phủ tỉnh Quảng Đông đánh điện mời Vân đến trụ trì chùa Nam Hoa.

Mọi người đều đồng ý cho là việc phải, hợp với mộng, theo ý Tổ.

Hư Vân liền dưa lên ba đề nghị với chủ tịch họ Lý:
  1. Chùa Nam Hoa, đạo tràng của Lục Tổ, phải vĩnh viễn là thập phương tùng lâm để cho các vi tăng trụ trì.
  2. Nên trưng thu lấy lại đất nhà Nguyên trước đây là của chùa bị chiếm, với sự đồng ý của người giao trả, chẳng bức bách, uy hiếp bằng vũ lực.
  3. Hàng hóa, tiền bạc chi thu ra vào vể sản nghiệp của chùa cần phải được sửa lại rõ ràng, và các việc thưa kiện trước đây... hết thảy đều do thí chủ phụ trách.
Nếu ông Chủ tịch bằng lòng và chấp nhận điều này, Hư Vân tôi sẽ đến chùa xem xét. Ông họ Lý chấp nhận và cho người Bí thư là ông Ngô Chủng Thạch đại diện, cùng hơn mười vị Tăng và bạch y cư sĩ ở Quảng Châu và Hương Cảng đến chùa Cổ Sơn để đón Hư Vân tới.

Khi đến chùa Tào Khê lễ Tổ xong, Vân này đi quan sát địa lý của chùa. Nhận thấy Đông, Tây, sau trước khuôn viên chùa có nhiều điều thất nghi, cần phải thay chuyển lớn. Vì thế, Vân này trình với ông Chủ tịch họ Lý: "Việc này hệ trọng, về mặt địa lý cần phải thay đổi, sức bần tăng mỏng, đức bần tăng không có là bao, e khó đảm đang được nổi.

Ông Lý bảo: "Như thế có nghĩa là gì?"

- Đây là nơi danh thắng Tổ đình, là chốn quan trọng mà suy phế như thế này, địa thế thất nghi. Nếu chẳng phá hết đi, rồi kiến thiến lại cho đúng vị trí, thì không đủ để làm thông nguồn gốc của Tổ, và giúp ích cho kẻ sau này.

Còn như làm đúng theo phương pháp, hợp với địa lý thì không thể làm nổi. Bần tăng đâu có đủ lực lượng và phương tiện.

Ông Lý nói:

- Xin Hòa thượng gắng sức làm việc này. Tiền nong, tôi sẽ đem hết năng lực ra lo vậy. Hòa thượng cứ yên tâm vè mặt tài chánh và phương tiện vật chất.

Như thế là một sơ đồ kiến thiết, nhất nhất đều được vẽ ra để bàn luận. Và công việc bắt đầu, sau khi nhận xét kỹ về hình thể trọn núi này với vị trí các nơi của chùa phải sửa chữa xây dựng và thay đổi.
  1. Sửa đổi dòng sông trước đây chảy đâm thẳng vào cửa chùa, nay đưa nó chảy sang một hướng khác.
  2. Thay đổi làm cho hướng núi được chính và trở thành chủ thể, sửa sang lại các gò nỗng cho đồng đều, thứ tự: dọn dẹp tất cả những mồ mả chôn dọc ngang, loạn xạ..., lấp bằng những hố vũng vô ích; mở rộng bãi trồng trọt các thứ cây, biến thành một khung cảnh: bóng mát cây xanh che trời, mây trắng trùm đất... Từ đàng xa trông lại, nghiễm nhiên mà thấy rõ là mọt nơi thanh tịnh đạo tràng.
  3. Bồi dắp núi chủ và xây cao hai ngọn núi hai bên tay trái tay mặt để hộ vệ, làm thành một cục diện lớn, đầy đủ quân thần tá sứ.
  4. Kiến thiết, xây dựng lai lớn rộng và nguy nga cả chánh điện, thiền đường để giữ lấy chỗ trang nghiêm.
Rồi sẽ lần lượt cho mọc lên các điện, lầu chuông, gác trống, linh tòa, bảo tháp, liêu phòng, khác đường, học đường, giảng đường, tàng kinh các, chứa nước, ao phóng sanh, vườn rau cây trái, ruộng lúa vườn trà. Đồng thời đúc ba pho tượng cao năm trượng Kim Thân Đại Phật (gồm giữa là Thích Ca, bên trái Dược Sư, bên phải A Di Đà, và hai pho tượng tôn giả Ca Diếp và A Nan đứng hầu hai bên cạnh. Với năm trăm pho La Hán, cùng ba pho khác rất đẹp và cũng khá to: Văn Thù, Phổ Hiền và Đại sĩ Quán Âm.

Lai san bằng các gò nỗng rối loạn không thích hợp trước đây để xây dựng Tứ Thiên Vương điện, bên tả là Hư Hoài Lâu, bên hữu là Vận Hải Lâu. Lại xây nhà bếp Hương Tích trù, đào đất xay hồ sen to rộng. (Khi đào đất xuống sâu, gặp được cái chảo nấu cơm rất lớn còn nguyên vẹn, có thể nấu cho một ngàn người ăn. Nghiệm ra, đây là vật đời nhà Nguyên vậy "Thiền tăng đại phạn oa". Bèn dời cái chảo lịch sử này đến sau điện Quán Thế Âm Bồ tát dùng trồng hoa sen).

Cũng đào được một cái chuông đồng rất lớn, từ đời nhà Tống. Chuông rất thanh, tiếng ngân đến mười dặm.

Lại xây Tây Quy Đường thờ giác linh các vị Tăng chúng, Công Đức Đường chủ vị các vì Hộ pháp, Văn Thủy Đường để tiếp đãi các tăng chúng qua lại. Đồng thời mở rộng diện tích trồng trà và thu hoạch huê lợi để dùng vào chi phí thuốc men.

Lại khai thông cáu núi phía sau phương trượng dẫn nguồn nước Trác Tích Tuyền,xay thành một cái hang nước lớn rồi đặt ống từ đó đưa nước đi đến Hương Tích trù, các nhà, liêu khắp chùa.

Một tòa Pháp đường rộng lớn được xây dựng để thuyết pháp, phía trên là Tàng Kinh Lâu, chứa toàn bộ Long Tàng Kinh thỉnh từ Bắc Kinh về từ năm Dân Quốc thứ hai mươi lăm.

(Ông chủ tịch Lý Bá Hào lại tặng cho một bộ Trách Sa Tạng).

Khi xây dựng xong giới đàn, đào đất gặp được một tấm bia đá sửa tháp tháp năm Vạn Lịch trào nhà Minh. Nay dựng nó lên ở vách Hoa Vũ Đài làm kỷ niệm.

Trong khi ấy lại xây dựng Hồi Hướng Đường thờ chung các vong linh binh sĩ tử trận vì nước. Kiến thiết Nghinh Hiền Lâu để tiếp đãi các khách qua lại viếng chùa có nơi ăn ở tạm nghỉ. Lập Vô Tận Am để cho tăng chúng phái nữ tu hành. Cất Niệm Phật Đường dành cho chư tăng Tịnh Độ tu hành. (Nơi đây cũng đào được một tám bia từ năm Vạn Lịch, có khắc chữ Tô Đình Am của ông Dư Đại Thành..., cũng dựng nó lên trên ở tường niệm Phật đường này để ghi nhớ.

Xây dựng Diên Thọ Đường để cho các chư tăng già yếu ở an dưỡng tu hành. (Đúng là ngài Hư Vân đã già nên cảm thông mà lo cho cái tuổi già của người tu hành ở chùa).

Cũng ở đây, lại đào đất gặp một tấm bia đá từ khoảng vua Thuần Hy đời nhà Tống khắc chân tượng Lục Tổ.

Phía sau lầu chuông lại xây dựng nhà giã gạo, nhà tắm gội giặt rửa, nhà làm công nghệ, chỗ chứa vật liệu và nhà vệ sinh.

Nơi đây đào lên, phát hiện rất nhiều xương người và mấy cái áo quan còn nguyên, dài đến một trượng sáu thước. Bên trong các áo quan này toàn là những đồ gốm nung lửa.

Từ xưa không có tháp Phổ Đồng (chôn chung), nên các vị tăng qua đời, từ đời này qua đời khác, chôn rối loạn ở chung quanh núi, lâu ngày mồ mả siêu lạc, không được người săn sóc, thành ra vong linh các tiền bối ấy không được an ủi!

Bèn lập ra lò Trà Tỳ (lò thiêu xác) để thiêu hết các xương còn thiếu sót lại đưa vào tháp Thất Chúng. Tháp này, dùng sắt dài để đúc và xi măng xây hết sức kiên cố, có thể chứa đựng xương tro đến muôn cổ. Trên tháp có Niệm Phật Đường, luôn năm năm, tháng tháng, ngày ngày, đêm đêm, đều có sư tăng niệm Phật cầu nguyện, làm lợi ích cho cả cõi Âm và cõi Dương.

Bên mặt và bên trái của tháp, dựng bốn căn lâu phòng làm chỗ cho người cói sóc tháp và niệm Phật. Ngoài ra, chung quanh tháp lại có trồng hoa sen, cây cảnh. Có ao trong sạch chứa nước, có giếng nước lọc bằng cát với ống dẫn đi các nhà dùng.

Lại cũng sửa sang "Phục Hổ Đường" ngăn chận sự phá quấy của cọp và thú rừng.

Lại xây dựng trường Nghĩa Học dạy dỗ các trẻ em nhà nghèo.

Kể ra thật công phu và rất chu đáo, chăm lo đời sống lẫn tinh thần và vật chất. Như vậy, ai bảo là Phật giáo yếm thế?

Soát lại, mười năm tâm lực, với bao sự ủng hộ của các nhà hộ pháp nhiệt tâm, đến nay công việc sửa sang kiến thiết mới tạm thành về mặt hình thức.

Nay lại phải lo bề giới luật, hoằng pháp trang nghiêm.

Hư Vân này bèn tuân hành thanh quy của ngài Bá Trượng, giữ kỷ cương một cách nghiêm mật. Mỗi ngày chỉ một bữa cháo một bữa cơm. Giữ phép ăn đúng ngọ. Một bước đi đứng, tới lui... hết thảy đều phải giữ gìn oai nghi khuôn mẫu làm chân Phật tử.... và từ đó giữ gìn được lâu dài cảnh tùng lâm.

Sơ Tổ từ phía Tây đến chỉ truyền riêng Tông Thiền thôi (Đan tâm trực chỉ).

Lục Tổ đắc pháp hoằng dương Nam tông. Đây là Thiền Ba la mật vậy!

Chư Phật, Tổ.... không vị nào là chẳng từ trong Thiền định mà tới được. Đạo cơ đại dụng độ chúng sinh không biết bao nhiêu.

Nay đạo tràng "Đốn giáo" của đức Lục Tổ vắng vẻ đã từ lâu, Hư Vân này tạo ra Thiền đường, định số nén hương để tọa thiền, phát ra lời Cảnh sách, lập ra khuôn phép gắt gao (hạ kiểm chúng), mong các vị rèn luyện thân tâm, tự độ, độ tha, nối tiếp huệ mạng đức Phật chúng ta (Xin xem phần Cảnh Sách ở sau).

Thời nay là đời mạt kiếp(1), pháp vận suy tàn, lòng tôi (Hư Vân) đau, mắt tôi ứa lệ! Phật dặn ta: "Ba la mộc đề xoa (tức giới luật) là thầy của các con". Người lại bảo: "Giới luật như mặt trời, mặt trăng, có thể làm ta sự tối tăm của đêm dài. Nếu chẳng trì giới này thì thế giới sẽ đều đen tối" (Quan trọng vậy thay giới luật).

Phần đông Thích Tử, ngoài thì mặc áo cà sa, mà hành động lại giống kẻ phàm tục. Đây là đồ đệ thuộc Ma Ba Tuần, làm con rận, con rệp ở trong thân sư tử mà thôi?

Hư Vân này muốn lôi kéo bỏ mọi cái không hay, nên đi xin tiền và đồ vật của các thí chủ, tín đồ mà biện được cảnh quy mô này, ý tôi muốn sao mỗi việc đều phải đúng theo Phật pháp, bồi đắp và trồng lấy nhân tài, thường xuyên chuyển Pháp luân, nối tiếp tuệ mạng... Vì thế xây dựng Giới đàn trường kỳ, năm nào cũng truyền giới, đường chẳng kể xa gần, người bất luận nhiều ít, đúng theo thời giờ mà tới, mà hành động truyền thụ pháp giới.

Sau khi được truyền giới, phải vào ngay nhà Học giới thực hành sự tu tập để làm vốn đi sâu vào Phật pháp.

Nhờ oai linh của chư Phật, nhờ đàn việt hộ pháp, Hư Vân tôi tạm làm xong cái chí của ngài Hám Sơn.

Nay điện đường, liêu phòng, nhà cửa có thể dùng cho năm trăm người trụ trì. Huê lợi, ruộng, trà, công nghệ chút ít... cũng đủ lương thực trong năm. Bốn việc cúng dường tuy đủ, nhưng hãy còn nhỏ chưa có gì.

Phật tử trụ trì, lòng yên, không còn lo lắng nữa.

Kính mong mọi người chấp sự giữ gìn.

CHÚ THÍCH:

(1) Đời mạt kiếp: Như chính đức Phật tiên tri, Phật pháp đã mạt theo sự thay đổi tinh thần của con người.

Theo lời tiên tri của đức Phật, Phật giáo sẽ suy tàn dần cho đến khi mất hẳn khỏi trái đất này. Lúc ấy, Phật Di Lặc sẽ giáng sinh xuống thế gian nay, và Phật pháp sẽ tái xuất hiện, lần này khắp thế gian.

Phật giáo của thời sau này (thời kỳ Di Lặc) sẽ không bị suy tàn kiểu như Phật giáo của thời hiện tại (tức thời kỳ của Phật Sakya Muni đang lâm phải). Theo chú thích của Chan Chen Chi (Trương Trừng Cơ) ở quyển Thiền Đạo Tu Tập phần chú thích trang 355).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.22 khách