Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Kính mời các bạn góp sức bảo tồn tất cả các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam và thế giới, tiểu sử tăng ni, và Phật tử có công trong việc hoằng truyền Phật pháp.
Nội qui chuyên mục
- Trong quá chứ ban quản trị diễn đàn đã chịu rất nhiều phiền toái, do những kẻ giả mạo chùa và đoàn thể từ thiện để kêu gọi giúp đỡ. Một lần nữa chúng tôi yêu cầu tất cả các thành viên không được gởi thư kêu gọi từ thiện lên diễn đàn và chúng tôi không chịu trách nhiệm nội dung đăng tải bởi thành viên.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Sáng ngày mười chín tháng Giêng, Sư tuy còn yếu, nhưng bắt đầu lên đường lạy hương, theo sau là Văn Cát. Từ đó, việc mang hành lý và làm cơm ăn đều do Văn Cát đảm đang. Mọi vọng tưởng lo âu ở Sư ngưng hết.

Ngoài không có lụy về vật chất, trong không có vọng niệm nên bệnh Sư hết lần, thân thể ngày càng mạnh.

Sáng sớm đến chiều tối, Sư vừa đi vừa lạy được hơn bốn mươi lăm dặm mà chẳng thấy mệt nhọc gì cả.

Đến cuối tháng Ba, Sư đến chùa Nam Tường, huyện Thái Cốc, vào làm lễ viên Tri Khách mới vừa gặp mặt, Sư cúi đầu làm lễ. Tri Khách ngó Văn Cát rồi hất hàm hỏi:

- Vị này có phải đi với Sư không?

Sư đem tự sự trình bày, Tri Khách quát tháo bảo:

- Sư xuất môn hành cước mà không thức thời vụ. Nhè cái năm miền Bắc thất mùa, thiên hạ đói khổ mà lại triều sơn. Ông là quan to chi chi mà có người phục thị như thế? Muốn cầu hưởng phước thì cần gì phải đi xa làm chi? Ông có thấy cửa chùa nào mà lại có khách tục đến trình điệp văn để xin tá túc chưa?

Nghe lời mắng của Tri Khách, Sư không dám trả lời, bèn nhận lỗi và cáo từ.

Tri Khách liền bảo:

- Sao lại cáo từ? Sư cứ tự tiện vậy.

Nghe thế Sư hỏi:

- Giá như tôi để Văn tiên sinh đây ra khách điếm nghỉ, còn tôi ở lại làm rầy nhà chùa một phen có được chăng?

- Được chứ.

Văn Cát liền đề nghị với Sư:

- Từ đây đến Ngũ Đài Sơn đường không còn xa mấy. Tôi trở về trước đó, ông thư thả đi sau. Còn hành lý của Sư, thì không bao lâu sẽ có người thay ông mang lên núi.

Sư hết sức cầm Văn Cát ở lại mà không được. Lấy bạc đền ơn, ông cười, khước từ... rồi cáo từ mà đi.

Văn Cát đi rồi, viên Tri Khách đổi sắc mặt, vui vẻ mời Sư vào nhà hậu, thổi lửa pha trà và bổn thân nấu mì mời Sư dùng.

Thật là một cử chỉ lạ lùng. Nhìn chung quanh không thấy một ai. Sư lại không hiểu gì nữa, bèn hỏi:

- Bạch Sư, ở đây thường trú được bao nhiêu tiểu chúng?

- Tôi ở xa lâu năm, mới về trụ trì chùa này chưa bao lâu, nhưng gặp lúc hạn hán liên miên, nên chỉ có một mình tôi ở lại đây. Lương thực cũng chỉ có chừng này. Bao nhiêu cử động của tôi nãy giờ đối với ông, như nấu trà, luộc mì, chỉ là chuyện giỡn chơi vậy thôi, xin chớ lấy làm lạ.

Sư vô cùng khó chịu, khó cười dở dang và cũng không biết ông Tri Khách là người thế nào.

Sư làm thinh, cố gắng gượng ăn nửa chén mì rồi liền đứng lên cáo từ ra đi một mạch, không để ý gì tới lời lưu khách của nhà chùa.

Sư đi ngay ra phố tìm các nhà trọ để kiếm ông Văn Cát. Nhưng con chim đã bay mất đâu rồi! Đêm ấy nhằm mười tám tháng Tư, trăng sáng. Sư muốn đuổi theo cho kịp Văn Cát, nên đang đêm cứ nhắm hướng phủ Thái Nguyên bái hương tiến lần. Vì lòng hối hả, gấp rút, đi trong sương đêm nên sáng hôm sau Sư thấy tâm nóng, đầu nhức, lỗ mũi chảy máu cam rất nhiều. Mặc dù thế, Sư cũng tiếp tục đi và lạy luôn. Đến ngày hai mươi thì tới núi Hoàng Thổ Câu, chùa Bạch Vân.

Vị Tri Khách chùa này, thấy miệng Sư chảy máu, không chấp việc trình điệp văn, mà chỉ cho ở tạm một đêm đó thôi.

Sáng hôm sau, Sư lên đường bái lạy đi lần vào thành Thái Nguyên, đến chùa Cực Lạc. Lại một phen nữa, Sư bị mắng nhiếc rất thậm tệ, nên không trình điệp văn và tiếp tục việc bái hương của mình.

Ngày hai mươi hai, sáng sớm đang bái hương trên đường đi ra cửa Bắc, Sư gặp một vị tăng thanh niên, pháp danh Vạn Hiền. Nhìn Sư chăm chỉ bước lại gần, vị tăng này chào hỏi rất lễ phép, rồi mời Sư đi ngay về chùa đồng thời mang cả hành lý hộ cho Sư.

Về đến phương trượng, tăng thanh niên này tự tay pha trà, dọn cơm thết đãi Sư rất cung kính như đối với cha chú.

Trong lúc uống trà đàm đạo, Sư hỏi:

- Hòa thượng như vừa mới ngoài hai mươi tuổi, và cũng không phải là người xứ này. Vì cớ sao lại đến đây trụ trì?

- Bạch Thượng Tọa, cha tôi ở tỉnh này, làm quan đã lâu năm, sau sang phủ Bình Dương nhậm chức. Vì quá cang trực nên bị gian thần hãm hại. Mẹ tôi uất ức, lại tự vận chết theo. Tôi nuốt nước mắt xuất gia. Các quan và thân sĩ ở địa phương này là bạn bè cũ của cha tôi và được người giúp đỡ rất nhiều, nên đón tôi về đây ở chùa này. Tôi cũng không muốn ở đây lâu, mà chỉ muốn vân du học hỏi trên đường đạo. Nay gặp được ngài, nhìn qua tôi biết là người tiên phong đạo cốt mà lòng rất mến mộ và ý dịnh mời ngài ở lại đây với tôi để tôi được chỉ dạy trên bước đường tu hành.

Sư cũng không ngại cho vị Hòa thượng trẻ tuổi này biết rõ nguyên do của mình phát nguyện lạy hương. Nghe xong, vị trụ trì rất thiết tha, tin tưởng và cố van nài Sư ở lại chùa. Sư khước từ, nhưng vì cảm mến lòng tử tế của vị Hòa thượng trẻ, nên phải lưu lại đến mười hôm sau mới đi, không nhận y vật, lữ phí của vị trụ trì cúng dường.

Khi Sư từ biệt lên đường bái hương, chính thân vị trụ trì trẻ này mang lấy bàn hương đưa ngoài mười dặm rồi mới gạt nước mắt trở về chùa.

Bấy giờ Sư hướng về phía Hòa Châu vừa đi vừa lạy.

Một buổi sớm mai, khi Sư ở giữa đường lạy hương thì phía sau có một cỗ xe ngựa chạy đến. Nhưng lạ là xe cứ thủng thỉnh đi rất lâu mà không chịu vượt lên. Thấy thế, Sư bèn nép sát qua một bên lề đường nhường cho xe chạy. Xe cũng không lướt tới, mà trên xe có một ông quan bước xuống, đến gần Sư và hỏi:

- Đại sư ở trên đường lạy lễ gì đây?

Sư bèn đem sự tình ra thưa.

Vị quan này cũng là người ở Huyện Tương như Sư, ăn nói rất nhã nhặn hiền lành, nên hai bên trò truyện rất vui vẻ. Vị quan nhân bảo:

- Tôi hiện ở tại chùa Bạch Vân, núi Nga Khẩu. Đại sư triều đài, thế nào cũng đi ngang qua đó. Vậy bao nhiêu hành lý của Đại sư, sẵn xe, tôi xin đưa hết đến đó trước cho (đúng như lời Văn Cát nói lúc trước về sự giúp đỡ bất ngờ này).

Sư rất cám ơn và nhận lời ngay. Rồi cùng nhau bái biệt.

Đến trung tuần tháng Năm, Sư đến chùa Bạch Vân. Bấy giờ mới hay người nhận đưa hộ hành lý của mình trước kia là một võ quan đang chỉ huy một doanh trại đóng tại đây.

Gặp lại nhau, hai bên rất mừng rỡ. Sư được mời ngày vào doanh trại và được tiếp đãi ân cần. Nghỉ đó ba ngày, Sư cáo biệt. Vị võ quan tặng rất nhiều lễ vật và tiền lộ phí. Sư hết sức cám ơn và không nhận gì hết. Vị quan liền cho binh sĩ mang hành lý và cả đồ vật và tiền bạc đưa trước tới chùa Hiển Thông là nơi mà Sư phải đến.

Sau khi chia tay, rảnh rang, nhẹ nhàng, Sư cứ đi lạy lần đến núi Khê Phong. Bí Ma Nham rồi Oa Long Đông. Các nơi này, phong cảnh núi non, cây nước, có rất nhiều dấu tích lạ lùng nói ra không hết. Nhưng vì phận sự hiếu đạo nên Sư không thể dừng lại để ngắm xem được.

Vào hạ tuần tháng Năm, Sư lạy đến chùa Hiển Phong. Công việc đầu tiên của Sư khi đến đây là đi lễ bái các chùa trong vùng và hỏi thăm tiên sinh Văn Cát. Ai cũng lắc đầu, không một ai biết gì về nhân vật này. Ít hôm sau, nhân đàm đạo với một vị Sư già, nói về chuyện này, vị lão tăng chắp tay kính cẩn nói: "Đó là đức Văn Thù Bồ Tát hóa thân vậy".

Sư như chợt tỉnh, cúi xuống lạy giữa thinh không tạ ơn.

Sáng hôm sau, suốt hai ngày liền, Sư tái khởi hương lạy đến Đài phía Đông luôn đêm ấy trăng sáng đẹp, sao trong, gió mát. Sư lạy tiếp cho đến nhà đá, dâng hương cầu nguyện. Nơi thạch thất này, Sư sáng tối lễ Phật tụng kinh và ngồi Thiền luôn bảy ngày mới xuống để lễ Hang Thần Na La Diên.

Bây giờ lương khô đã hết, Sư phải trở về chùa Hiển Thông.

Vào kế hôm đó, chuẩn bị xong đâu đó, Sư bắt đầu bái hương lên núi Hoa Nghiêm và qua đêm ở đó. Sáng lại tiếp tục đi và lạy qua Đài phía Bắc và cũng qua đêm ở đó.

Hôm sau, Sư lạy qua Đài phía Tây, nghỉ ở đó một ngày và sau khi lễ Phật xong, trở về chùa Hiển Thông.

Tiếp đó, ngày hôm sau, Sư lạy qua Đài phía Nam. Nơi đây Sư cầu nguyện, tụng kinh và nhập thất luôn bảy ngày.

Xong đâu đó, Sư từ giã xuống đài và lạy về chùa Hiển Thông để tham gia Đài Phật Hộ trong sáu tháng.

Chính đây là đích của Sư để cầu nguyện chư Phật gia hộ cứu độ song thân được siêu sinh.

Đến đây, cái nguyện "Vừa đi vừa lạy" đến Ngũ Đài Sơn của Sư đã chấm dứt sau ba năm khó nhọc trên đoạn đường dài xuyên rừng, leo núi, trèo đèo, vượt sông, qua biển.

Trong ba năm ấy, theo lời Sư thuật, trừ những lúc tật bệnh làm khốn khổ, gió tuyết trở ngại không bái hương được, ngoài ra thì Sư nhất tâm chánh niệm.

Còn khi lễ bái dặm trường, trải đủ gian nan, nguy hiểm, lòng Sư luôn hoan hỷ. Nhờ đó mà xét nghiệm thêm được tâm mình. Càng ở trong cảnh đắng cay, khổ nhọc, càng thấy tâm an. Nhân đó mà giác ngộ được lời người xưa đã nói: "Tiêu được một phần tập khí, liền được một phần quang minh. Nhận chịu được một phần phiền não, chứng được chút ít phần Bồ Đề"

(Lịch tận gian nan tâm sinh hoan hỷ. Mỗi mỗi tạ cảnh nghiệm tâm, dữ tận khổ xứ dũ giác tâm an. Nhân thử tài ngộ cổ nhân sở vị: "Tiêu đắc nhất phần tập khí, đắc nhất phần quang minh. Nhẫn đắc nhất phần phiền não, tiện chứng thiểu phần Bồ đề).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG VÂN DU
1. NỘI DU:

(Triều sơn, lễ chùa, nhiễu tháp, bái tượng, thăm lăng, quan chiêm cổ tích lịch sử, miếu điện, đền thờ...)

Sư nói:

- Từ núi Phổ Đà đến tỉnh Triết Giang, rồi đến Trung Châu là những tỉnh, những địa phương ở khoảng giữa nước Tàu. Đến sông Hoàng Hà, đến núi Thái Hùng, thì thắng địa danh sơn nói ra không hết.

Sách Du Ký từ xưa đã nói rõ, tả nhiều, đọc thấy rất sướng khoái. Nhưng lại không sao bằng được, thích thú và say sưa hơn, là khi tự thân mình trải qua những cảnh đó. Như vậy mới khoái hoạt (Thân tại cảnh, mắt thấy tai nghe).

Như Ngũ Đà Sơn là thanh hương thắng cảnh, ngài Văn Thù phóng quang ngàn trượng núi lạnh, muôn năm tích tuyết, cầu đá quá ngang lầu các treo trên khoảng không, thì chẳng phải chỗ khác mà có được, và có bằng được.

Vì trong thời kỳ "lạy hương", nhiệm vụ báo hiếu chưa xong, Sư tôi chưa kịp thưởng ngoạn. Nhưng sau khi đã hoàn nguyện, Sư tôi có đi xem một vài nơi. Tại sao? Vì rằng mình chẳng muốn cho "Non thiêng cười mình" vậy.

Thế là sau khi Đại hội viên mãn, Sư tới Đạo Lao Đỉnh bái Trí Tuệ Đăng (đài Trí Tuệ). Đêm đầu không thấy gì. Đêm thứ hai Sư thấy ở chót Bắc Đài một hòn lửa bay sang Trung Đài và rơi ngay đó, tách ra nhiều cục lửa nhỏ không đều. Cũng trong đêm ấy, Sư còn thấy trên Trung Đài ba hòn lửa khác bay lên bay xuống, và ở trên Bắc Đài nhiều hòn lửa hiện ra bốn năm chỗ, cũng lớn nhỏ khác nhau.

Sau đó, Sư làm lễ bái tạ Văn Thù Bồ tát rồi xuống núi, do đèo Hoa Nghiêm hướng về phương Bắc mà tới cảnh giới Đại Danh Hỗn Nguyên. Ở đây, Sư dừng bước triều Bắc Nhạc, Hằng Sơn, rồi qua Hồ Phong Khẩu và thẳng lên Nhà Bia đá khắc chữ "Sóc phương đệ nhất sơn" là ngọn núi thứ nhất ở phương Bắc.

Những bia đá dẫy đầy ở trong khoảng trời này, Sư kính cẩn tiến hương.

Xong, xuống núi, lại đến Bình Dương phủ triều hang Nam Bắc Tiên Quật.

Phía thành Nam có đền thờ vua Nghiêu rất tráng lệ. Từ đó, Sư đi lần xuống phía Nam. Tới Bồi Châu, Lư Nhân lễ miếu thờ Hán Thọ Đình Hầu Quan Võ, tức miếu thờ Quan Công thời Tam Quốc. Rồi từ đó, Sư lại qua sông Huỳnh Hà, vượt ải Đồng Quan vào đến Hiệp Tây tới Hoa Am, leo núi Thái Hoa, lễ miếu Tây Nhạc Hoa Sơn và trải qua các nơi như đất Phan Tỏa, đất Thiền Xích Tràng, núi Bách Xích Giáp và ngài Lão Quân Lê Câu... dẫy đầy danh lam thắng cảnh kể không sao xiết.

Sư trụ lại nơi này tám ngày mà lòng còn chưa thỏa, chưa muốn rời. Nhưng vì lòng hâm mộ bậc Thánh Bá Di Thúc Tề nên Sư sang chơi núi Thủ Dương để nhớ tiết tháo của hai vị thánh đã không ăn lúa nhà Châu, nhịn đói mà thác và gởi nắm xương tàn ở đây.

Tiếp tục cuộc hành trình, Sư đến phía Tây Nam đất Thiểm Tây lên Hương Sơn vào lễ Quán Thế Âm Tự và thăm lăng vua Trang Vương. Rồi Sư vào địa giới tỉnh Cam Túc, trải qua các nơi như Kinh Bình, Xuyên Bình đi lần đến núi Không Động... thì sắp sửa hết năm nên Sư trở về chùa Hương Sơn để qua năm vậy.

Sư đã bốn mươi sáu tuổi (vào năm Quang Tự thứ 11). Sau tiếp Sư rời khỏi Hương Sơn, do ngả Đại Khanh vào đất Thiểm Tây, rồi trải qua các nơi Diệu Châu, Tam Nguyên, lần đến Hàm Dương để quan chiêm cây Cam Đường lịch sử của ông tướng Phi Lợi Trường Quang minh đời nhà Đường. Đời nhà Châu (Trung Quốc), có ông quan tên là Thiệu Bá thường lấy phần chánh dạy dân. Dân mến đức người đến kính mến cả cây Cam Dương (tức cây lê) là nơi Thiệu Bá che chòi bên gốc cây để ở, khi đi kinh lý miền Nam. Có sách ghi: Thiệu Bá làm quan rất thanh liêm, hằng chăm lo cho đời sống dân. Nhân dân thương mến ông như cha mẹ. Lúc sống, ông có trồng trước nhà một cây cam đường, thường ngày tự tay săn sóc và rất quý nó. Khi ông từ quan và mất đi, dân chúng nhớ ơn, bảo tồn cây cam này như lúc ông còn tại thế. Do đó có câu ca dao:
  • Cam Đường quan Bá Thiệu Nam
    Trăm năm người mất, cây cam đường còn
    .
Sang đến thành Tràng An, tường thành rất kiên cố và hùng vĩ, cổ tích rất nhiều.

Trong thành, từ chùa Từ Ân với ngọn tháp Đại Hạn bảy tầng và những danh bia từ đời Đường về sau cùng với bia Cảnh Giáo đời đại Tần là một rừng bia trên bảy trăm tấm ở trước Cung Phủ Học. Ở phía Đông thành là Bá Kiển trên sông Bé, một cây cầu bảy mươi hai nhịp (arches) vòng cung như cái cầu vòng. Trên đỉnh cầu là đình Chiết Liễu và một chỗ gọi là Dương Quang Tam Diệp (Do đó, cây cầu này cũng được gọi là Chiết Liễu Kiều - cây cầu, nơi mà người xưa hay đưa nhau đến đây tổ chức một bữa tiệc trước khi tiễn biệt nhau. Và khi chia tay lại bẻ một nhành liễu trao cho người đi, cầm khi lên ngựa).

Đến chùa Hoa Nghiêm thì vào nhiễu tháp Đỗ Thuận Hòa thượng và tháp Thanh Lương Quốc sư. Xong sang viếng chùa Ngưu Đầu, chùa Hưng Quốc để lễ bái tháp Huyền Trang Pháp sư (Đường Tam Tạng Trần Huyền Trang).

Đến núi Chung Nam (ở phía Đông Ngũ Đài Sơn), đất Hương Cổ Pha, vào chùa Bảo Tràng, đất Bạch Thủy Lãm. Chỗ này có hai vị thánh tăng Ấn Độ trụ trì.

Sang phía Nam Ngũ Đài Sơn, có nhiều thảo am, phong cảnh rất đẹp. Sư gặp các vị Thượng nhân như Giác Lăng, Dã Khai, Pháp Nhẫn, Phổ An, Pháp Tánh, mấy vị này lưu Sư ở lại trụ trì nơi này và Sư cũng kết cỏ làm môn am ở đó hai năm, tham cứu kinh điển được nhiều lợi ích.

Một hôm, đêm mùng một tháng Ba, trời khuya thanh tịnh, sau khi lên chánh điện làm lễ, Sư bỗng thấy một bầy sao bay loạn xạ trên không. Một chập sau, một cái sao chổi thật to hiện ra một hồi lâu mới lặn. Chẳng rõ đó là điềm gì?

Năm bốn mươi chín tuổi (Quang Tự thứ 14): Đã hơn hai năm Sư ở mao bồng (am tranh) cùng với các vị sư tu học, tham cứu và thảo luận có rất nhiều điều hay ích lợi cho đường tu hành. Đông chí phương, Sư bèn xuống núi, rời am cỏ đến Thúy Vân Sơn, lễ chùa Hoàng Dụ, thăm chùa Thảo Đường đạo tràng xưa kia của Pháp sư Cưu Ma La Thập ở. Rồi lại qua núi Thanh Hoa, núi Mậu Ấn lễ chùa Tịnh Nghiệp, viếng tháp của Tổ Đạo Tuyền.

Hôm sau đi chơi núi Thái Bạch cao một trăm lẻ tám dặm, vài tiết tháng Sáu mà tuyết không tan. Sau đó đến lễ các chùa Nhị Bản, Đại Bản và đỉnh núi Long Trì, ở đây có một suối nước chia làm bốn dòng chảy vào một vùng rộng lớn.

Sư lại đi sang Tý Ngọ trấn, Hán Trung phủ (tức Nam Trịnh) nơi mà xưa kia Hán Cao Tổ Lưu Bang (Hớn Bái Công) lập đàn bái tướng, phong Hàn Tín lại Đại nguyên nhung, ban cho ấn kiếm phá Sở lập nên nhà Hán. Liền đó Sư đến Ban Thành miếu Gia Cát Lượng và thăm các thắng cảnh Trương Phi vạn niên đăng. Kiếp tiếp qua phía sau Long Động đến Thiên Hùng Quan, Tiểu Nam Vi lễ chùa Bát Vu, thăm Kiến Môn Quan, Bạch Mã Quan và lăng quân sư Bàng Thống.

Sư theo con đường sạn đạo vào Tứ Xuyên, huyện Tử Đồng, thăm miếu Văn Xương. Giữa đường, trải qua Thất Khúc Sơn, cửa Phúc Thủy, Kiếm Môn Quan... có những ngọn núi cao chót vót, vách đá cheo leo ngăn cản. Hai bên sườn núi có những ngọn đá chong lên như gươm đúng như lời thiên hạ nói: Một người đứng trên cửa ải với bao ngọn gươm tua tủa như kia, thì dầu có muôn người cũng không thể nào phá mà vào ải được.

Bên trên núi có thành Khương Duy, tức chỗ Khương Bá Ước trước kia đóng binh. Rồi tiếp đó là con đường sạn đạo lởm chởm khi đi như lên trời xanh; nơi mà xưa kia Hàn Tín giả vờ cho tường Phàn Khoái ra tu sửa để đưa quân ra khỏi Hán Trung đánh Hạng Võ. Nhưng thật ra đó là kế sách trùng tu sạn đạo để âm thầm bí mật điều quân ra ngả Trần Thương "ám độ Trần Thương", thình lình đánh úp nơi Tam Tần Vương, đưa đại bộ binh Hán ra khỏi Hán Trung cùng Hạng Võ tranh hùng để lập nên nhà hán cho Lưu Bang.

Kế đó Sư đến Nam Tân Đô, đất Quảng Hán và ở lại chùa Bản Quang ăn Tết.

Năm này, Sư vào Tứ Xuyên, chiếc thân cô độc, ba y, một bát, ngoài ra không vướng víu ràng buộc nào làm phiền lụy cả. Tự cảm thấy bồi hồi trong khoảng thời gian cao mây núi chập chùng và cũng những cảnh này làm cho tâm hồn Sư thêm trong sạch.

Sau Tết, từ chùa Bảo Quang, Sư khởi hành đi vào Thành Đô, lễ chùa Chiêu Giác, viện Văn Thù, chùa Thảo Đường, Cung Thanh Hương, rồi trải qua đất Hoa Dương, Sư đi về phía Nam xuống huyện My Sơn, huyện Bồng Nhã và đến chân núi Nga My có chùa Phục Hổ và động Cử Lão. Lên đỉnh Nga My dâng hương và qua đêm luôn ở đó.

Thắng cảnh ở đây thật nhiều, kể ra không xiết.

2. XUẤT NGOẠI:

Đến tháng Năm, Sư vượt sông Lô trên một cây cầu làm bằng dây sắt (loại cầu treo lơ lửng giữa thinh không). Cầu chơ vơ dài hơn ba mươi trượng. Đi trên cầu này, vừa lung lay, vừa rung chuyển, cao và ngộp, người ta tự nhiên có lòng khiếp sợ. Người lưng mật ắt khó qua được cây cầu này! Qua cầu xong, Sư hướng về hướng Tây tiến bước, lần đến một vùng bao la đất rộng mà người ít oi thưa thớt. Càng đi sâu vào, cảnh càng vắng vẻ.

Từ đây, phong cảnh, nhân vật, địa danh đều khác.

Nơi đất rộng người thưa này, trải qua các vùng Đà Tiễn Lô, Lý Đường, Ba Đường, rồi Sát Mộc Đa, Thạc Đốc, qua A Lan Đà và đến Hiệp Lý. Đây là lãnh thổ của các mán Hán, Tạng, Phiên, Mông và những bộ lạc Giao, Đồng v.v... ở chung lộn nhau. Ngôn ngữ phức tạp, tuy chịu chánh thể Trung Hoa, nhưng một trăm người giỏi lắm là một vài người biết nói và hiểu tiếng Trung Quốc, đa số theo Lạt Ma giáo.

Qua khỏi Giang Đức (tức Thái Chiên), Sư đặt chân lên cảnh giới của Tây Tạng (Tibet), cái nóc nhà của thế giới, như người phương Tây đã nói: "Le toit du monde".

Ở vùng Lý Đường có núi thần là Công Cát, thánh địa của các vị Lạt Ma.

Ở Ba Đường phần nhiều là non cao hiểm trở. Ở Sát Mộc Đa có nhiều sông ngòi. Vượt hai con sông, Sư đến thủ đô Lạp Tát (Lhassa) là trung khu Toàn Tạng chánh giáo.

Cung Đạt Bố Lạp (Potala) điện vũ trang nghiêm, vách vàng chói mắt, cao mười ba tầng. Là nơi tọa sàng của đức Phật sống Đạt Lai. Nơi đây số các vị sư Lạt Ma có đến hai vạn. Gần đó có ba ngôi chùa lớn, mỗi chùa có cả ngàn tu sĩ.

Vì ngôn ngữ bất đồng, Sư chỉ đến các chùa dâng hương và một phen vào cung làm lễ đức Hoạt Phật.

Rời Lạp Tát (Lhassa), Sư đi về hướng Tây đến Công Cát, Giang Thảo, Nhật Khách Tắc (tức Trác Thập Luân Bố = Tachilumpo). Nơi đây có một chùa rất lớn cũng gọi là chùa Tachilumpo, kiến trúc rất đẹp, khuôn viên địa thế rất đẹp, bao la, hùng vĩ và kiên cố. Đó là nơi các nhà lãnh tụ chánh trị và tôn giáo Hậu Tạng, tức Phật sống Ban Thiền Lạt Ma. Số sư tăng Lạt Ma ở đây có đến năm, bảy ngàn.

Kể ra từ Tứ Xuyên vào cảnh giới Tây Tạng, Sư đã đi gần một năm. Khi mặt trời ló dạng là Sư lên đường, hoặc trời xuống đất thì dừng chân nghỉ. Leo đèo, trèo núi, qua sông, lội suối, băng rừng... có khi cả năm, ba ngày không gặp một người, chim chóc, muông thú đều khác lạ mà ở Trung Quốc không thấy. Phong tục dân tình lại càng khác nữa.

Các nhà sư Lạt Ma không giữ giới, phần nhiều ăn thịt trâu, dê, bò. Y phục thì phân hai màu vàng và đỏ, tuy theo tông phái.

Năm mươi tuổi: Sư không muốn ở Tây Tạng nữa. Bắt đầu mùa Xuân, Sư đi xuống phía Nam để đi Ấn Độ. Sư đi lần đến Mao Đồng, cửa ngõ thứ nhất từ Tây Tạng sang Ấn Độ, vượt qua không biết bao nhiêu ngọn núi, trùng trùng, điệp điệp, không biết là tên gì, nhưng toàn thể có tên là Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) hay Tuyết Sơn.

Cảm cảnh tuyết trắng phủ bốn mùa, Sư làm bài thơ:
  • Hà vật hoành thiên tế
    Tình không nhập vọng trung
    Gió bang ngân thế giới
    Vô dị ngọc lung linh
    .

    (Luật ngang vạch vòm biếc
    Trời quang rõ xa trông
    Trắng phau ngời thế giới
    Vốn khác ngọc lung linh
    )
Vừa đi vừa ngâm nga, Sư đi lần đến thành Dương Phủ, triều lễ các cổ tích Phật, rồi đi xuống phía Nam để mà ngồi thuyền sang Tích Lan (Ceylan). Nơi đây Sư đi thăm các Thánh địa, rồi đáp tàu đi Miến Điện (Birmanie), triều bái Tháp Vàng (Đạt Kim Tháp) và đến Mã Lai - Miến, Kiết Đế Lợi chiêm ngưỡng một tảng đá rất lớn lạ thường, nổi và có nhiều màu sắc, mặt lại bằng phẳng mà lúc nào cũng có đông đảo người đến hành hương. Người ta bảo đây là tảng đá do ngài Tôn giả Mục Kiền Liên mang về đặt ở đó.

Đến tháng Bảy, Sư khởi trình về Trung Quốc, theo ngả Vân Nam.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

3. TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC:

Thế là từ đất Lạp Tát, qua cửa ải Hán Long (tức cảnh giới tỉnh Vân Nam) Sư đi lần qua Miển Ninh, Long Lăng, Cảnh Động, Mộng Hóa, Triều Châu..., rồi xuống cửa quan đến phủ Đại Lý (kinh đô tỉnh Vân Nam).

Sư đến xem sóng bạc nhấp nhô và vỗ mạnh của con sống Nhị Hà, tiếng dội nghe xa mấy dặm. Thật là một kỳ quan.

Cái nguyện đầu tiên của Sư khi trở về nước là triều núi Thế Túc Sơn để lễ ngài Ca Diếp tôn giả. Sư bèn day về hướng Đông Bắc mà tiến. Trải qua đất Ngật Sắc, Bạch Đầm, Bình Sa, Sơn Giác, Sư đến An Bang vào Đại Vương miếu, đến Linh Sơn nhứt hội phường.... tức là Thể Túc Sơn đây vậy.

Chính Thể Túc Sơn chính là nơi đáng kể mà Sư nguyện đến, bởi vì có một câu chuyện đã kể ra như sau:

Lưng chừng núi, có một chỗ bằng phẳng là một giải đá rộng chạy dài bằng bặn mà người ta gọi là Minh Ca Bình phơi mặt rất ngoạn mục, y như phơi sườn hứng ánh dương sáng đẹp. Tương truyền khi tôn giả Ca Diếp nhập sơn, có tám nhà vua theo đưa dến đây rồi không chịu trở về mà đồng ở lại tu hành, sau thành tám vị thần hộ pháp. Dân chúng lập đền thờ gọi là "Đại Vương Miếu".

Từ miếu này đi dốc lên đến điện Ca Diếp, bên trong thờ tượng ngài. Phía sau tượng có hai cửa đá bây giờ bị bít, bìm sắn leo bò, nhưng xưa kia thì có mọt con đường ăn sâu vào bên trong. Chính sau vách đá này, tôn giả Ca Diếp đang ngồi nhập định chờ đức Di Lặc xuất thế.

(Tương truyền rằng xưa kia ngài A Nan tôn giả đến triều đức Ca Diếp thì cửa đó tự nhiên mở ra).

Sư cũng đến lễ ở thắng cảnh Huyền Nham (chỗ ngọn núi cao nhất, cheo leo, như treo giữa lưng trời... mà cũng là nơi người ta tương truyền xưa kia đức Ca Diếp ngồi nhập định chờ Phật Di Lặc hạ sanh.

Hôm Sư đến đây, du khách hành hương cũng đông và thổ dân tụ tập cũng nhiều. Lúc Sư dâng hương lễ bái, bỗng có tiếng hồng chung ngân lên ba tiếng lớn và kéo dài rất thanh trong. Người thổ dân reo mừng và sụp xuống lạy ngay trước mặt Sư. Họ bạch:

- Từ trước tới nay, chúng tôi hằng nghe tiếng trống, tiếng khánh tự reo, chứ chưa hề được nghe tiếng hồng chung. Nay ngài vừa lễ là chuông ngân như thế này, vậy quả ngài là bậc đạo cao đức trọng.

Sư bái lại họ, không dám nhận lời này. Hôm ấy là ngày 30 tháng 7 năm Kỷ Sửu 1889.

Sau đó, Sư đến một ngọn núi cao nữa là Thiên Trụ. Đó là ngọn núi cao nhất vùng này. Từ chân núi lên đến ngọn ước chừng ba mươi dặm. Có một nơi, một ngôi điện xây cất toàn bằng đồng và một tòa tháp Lăng Nghiêm cũng rất nguy nga.

Theo sách chép thì núi này có đến ba mươi sáu am và bảy mươi hai chùa lớn. Nhưng dến nay thì vỏn vẹn còn chẳng hơn mười chùa. Còn các vị tăng và người tục không có gì khác nhau. Vì rằng con cháu thừa kế, mỗi chùa chiếm cứ giữ gìn lấy sản nghiệp riêng của mình. Nếu không phải là con cháu trong dòng họ... thì không cho ở chùa, và cũng không bao giờ nhận cho người ngoài ở tạm trong chùa.

Nhớ đến lúc hưng thạnh của pháp hội xưa... thật là đau đớn buồn bã cho cảnh suy tàn ngày nay.

Sư suy nghĩ: Tôi phải làm sao? Làm gì? Nhưng chẳng biết cách nào và bắt đầu từ chỗ nào?

Buồn bã Sư xuống núi.

Xuống núi, Sư theo ngã Lương Vương Sơn, Cửu Phương Sơn... đến huyện Vân Nam rồi qua các núi Thủy Mục, Linh Thứu, Từ Kế mà tới chùa Cao Đảnh thuộc phủ Sở Hàng.

Vào chùa lễ Phật, không bao lâu nghe thấy mùi lan sực nức khắp chùa, không gian thơm phức.

Vị tăng chấp sự, tự nhiên quay về hướng Sư đang lễ, mừng rỡ và nói:

- Đại sư đến đây, hoa Tiên Lan phóng hương bát ngát. Đó là điềm tốt lạ lùng. Trong phủ này, sách có ghi: Núi này có loại hoa Tiên Lan, không ai trông thấy hình dáng màu sắc... Nếu có bậc chân tu đạo hạnh đến thì phát ra mùi hương lạ. Ngày hôm nay, Đại sư vừa đến một chốc là mùi hương này tràn ngập đầy chùa, khắp núi. Đó là điềm tốt cho chốn này và cũng nhờ đức lành của Đại sư đó.

Vị tăng chấp sự ân cần tiếp đãi và cố tình lưu Sư ở lại chùa. Nhưng Sư từ chối vì lẽ muốn gấp rút về quê hương mà chỉ nhận nán lại một đêm thôi. Sáng sớm lại cáo biệt lên đường.

Sau khi qua khỏi phủ Côn Minh, phủ Khúc Tịnh đến đất Bình Di của tỉnh Quảng Châu, Sư bám theo đường bộ đi về phía Đông, xuống đồng bằng sang trấn Quý Dương, Sư lần đi vào sông Dương Chỉ, tức là vào phía Tây đất Tương rồi.

Trải qua phủ Bản Khánh Sư đến Hoành Dương, vào chù Kỳ Sơn lễ Hằng Chỉ hòa thượng và lưu lại đó một tuần, rồi mới hướng về Bắc tiếp tục cuộc hành trình.

Sư đến thành Vũ Xương đất Hồ Bắc, viếng chùa Bảo Thông bái lễ hòa thượng Chí Ma. Sau khi ở đó học xong pháp "Đại Bi Sám", Sư tới sông Cửu Giang để vào núi Lô Sơn, đến chùa Hải Hội, lễ ngài Chí Thiện hòa thượng và tham gia hội Niệm Phật.

Sau một thời gian ở đó, Sư đi sang tỉnh An Huy chơi núi Hoàng Sơn và triều Cửu Hoa Sơn lễ ngài Địa Tạng Vương Bồ tát, rồi tới Bách Tuế Cung lễ bái Bảo Ngộ hòa thượng. Vị lão tăng này giới hạnh tinh nghiêm, định lực vững vàng.

Kế đó, Sư sang sông đến chùa Bảo Hoa Sơn lễ Thánh Tín hòa thượng.

Bấy giờ, Sư ngẫm nhớ: Trong hai năm qua, thân hành muôn dặm, trừ những lúc phải dùng tàu thuyền qua sông, vượt biển. Sư toàn đi bộ, trèo đèo, lội suối, leo núi, băng rừng, bến sống, trạm đường, chùa hư, vệ đường, miếu cũ, lều nát, chòi tranh; rồi nào sương, gió, tuyết, mưa, lạnh lùng và oi bức nắng của sa mạc..., rồi vào quần đảo, cù lao.... cảnh cảnh đổi thay, nhưng tâm sư như mảnh trăng cô độc ở vòm trời vẫn soi sáng mà càng ngày càng sáng hơn, bước đi nhanh nhẹn, không thấy dặm trường gian khổ của kẻ lữ hành mà duy có cảm thấy xưa kia mình quá phóng dật là điều quấy lắm!

Nhớ lại lời người xưa bảo: Đọc muôn sách thì phải đi đường muôn dặm! Đúng vậy thay!

Năm mươi mốt tuổi: Sư dừng bước ở Xích Sơn, huyện Nghi Hưng, vào chùa Hiển Thân, lễ Nhân Trí hòa thượng, gặp khi chùa đang tu bổ sửa sang, Sư ở lại giúp đỡ mọi công việc. Chùa này là nơi của các Tổ Mật Tông xuất gia.

Sư ở đây đến hết mùa hè mới bắt đầu sang đất Cũ Dư, lễ Pháp Nhãn hòa thượng. Nơi đây Sư cũng giúp một tay sửa sang lại chùa Xích Sơn. Do đó, ở lại chùa đến cuối Đông mới ra đi.

Năm mươi hai tuổi: Đầu xuân mới, Sư sang đất Kim Lăng làm bạn với Tùng Nghiêm Thượng Nhân và cũng giúp sửa lại chùa Tịnh Thành. Cũng trong khi ấy cùng qua lại trao đổi bàn bạc với Dương Nhân Sơn cư sĩ về Nhân Minh Luận, Bát Nhã Đăng Luận.

Ở chùa Tịnh Thành đến hết Đông, ra Xuân Sư mới cáo biệt ra đi.

Năm mươi ba tuổi: Cùng ước hẹn với các sư Phổ Chiếu, Nguyệt Hà, Ấn Liêm lên núi Cửu Hoa để sửa chữa những cái cốc tranh ở núi Thúy Phong, rồi cũng ở đó tu hành

Sau dó, lại lập Pháp tràng giảng kinh Hoa Nghiêm. Phổ Chiếu sẽ là chủ giảng và sư Hoàng Ngữ giữ phần giáo nghi. Lúc bấy giờ Tông Hiển Thủ bị suy đồi đã lâu nên nghe thế các nơi đến nghe giảng giáo nghi rất đông và rất nhiều đại sư đến phó hội.

Từ đó, Hiển Thủ giáo ở vùng Giang Hạ được chấn hưng và phát triển.

Năm mươi bốn tuổi: Ở núi Thúy Phong, Sư nghiên cứu kinh giáo đến mùa hè và cùng Đế Nhàn pháp sư độ hạ. Xong xuôi rồi mới từ biệt đến chùa Kim Sơn cũng ở trên núi này để qua Đông.

Năm mươi lăm tuổi: Sư cũng vẫn ở trên ngọn núi Thúy Phong nghiên cứu kinh giáo.

Lúc bấy giờ nhà sư trụ trì chùa Cao Mân (cũng gọi là Cao Ngại) ở Dương Châu là ngài Nguyệt Lãng đến thông báo là ở chùa Cao Mân có vị thí chủ họ Chu làm pháp sư luôn mười sáu cái thất. Công việc chùa sẽ rất bề bộn, mặc dù vị sư già ở chùa Xích Sơn cũng đã sang Cao Mân giúp đỡ... nên Nguyệt Lãng mời Sư và các vị đến giúp cho Phật sự chùa Cao Mân được thực hiện đầy đủ, tốt đẹp.

Thế là Sư được cử xuống núi trước một mình.

Khi đi đến Đại Thông, Dịch Cảng, Sư theo ven sông lớn mà tiến. Lúc bấy giờ nước dâng cao, ngập tràn bờ biển, muốn qua sông phải nhờ thuyền. Nhưng người lái thuyền đói những sáu tiền, mà túi Sư thì trống rỗng, không có một "ten", đành đứng xem ông lái đò chèo thuyền đi mất trên dòng nước lụt. Sư bèn đi dài theo sông mong tìm một chiếc đò khác. Chẳng may khi đến chỗ nước vận, xẩy chân vô ý thế nào Sư lọt ngay xuống dòng sống bị nước xiết cuốn mạnh đi, không làm sao cưỡng nổi. Vật lộn với sóng gió... Lại nữa Sư bơi lội không giỏi, nên trôi nổi suốt một ngày một đêm rồi lịm dần, phú cho dòng nước đưa đi gần đến bến Thạch Ky. May có người thuyền chài vớt được. Biết là Sư chết chìm, người thuyền chài cấp báo cho sư tăng chùa Bảo Tích gần đó cấp tốc đến nhận xác. Nhà Sư chùa này vốn đã cùng Sư ở chùa Xích Sơn nên nhận ra ngay: Đây chính là Sư Đức Thanh vậy mà! Lập tức khiêng thây về chùa cấp cứu và Sư sống lại. Tuy nhiên, miệng mũi, đường tiểu tiện của Sư đều ra máu.

Suốt hai mươi hôm tịnh dưỡng, Sư mới lần đi đến chùa Cao Mân. Viên tăng tri sự thấy Sư dung nhan tiều tụy thì hỏi: "Ông bệnh chăng?"

Sư đáp: "Không" và xin yết kiến Nguyệt Lãng hòa thượng.

Vì tuổi già sức yếu, Hòa thượng Nguyệt Lãng nhờ Sư thay thế Hòa thượng gánh vác Phật sự hiện rất bộn bề. Sư kiếm lời từ chối, không nhận một chức việc gì hết mà cũng chẳng hở môi nói nguyên do mình đang bệnh vì trận chết chìm hụt vừa qua. Sư vẫn yêu cầu được cho ở nơi Thiền Đường Đả Thất.

Kỷ luật chùa Cao Mân rất nghiêm. Nếu như mời ai làm chức vụ gì mà kẻ ấy cự tuyệt thì cho là người đó khinh thường tăng chúng, liền đưa ra trước chư tăng kể tội và đánh bằng ván hương bản. Sư vẫn làm thinh nhận chịu đòn. Từ đó bệnh trở lại rất nặng. Sư mê sảng, máu chảy ra rất nhiều, thậm chí còn tiết tinh nữa. Tình trạng chỉ còn chờ chết mà thôi.

Được đưa vào thiền đường, ở đó tôi định tâm cả ngày và đêm, tinh cần lóng lòng một niệm, không còn biết đến thân là gì (Trừng thanh nhất niệm). Suốt hai mươi ngày nhập định như thế, các bệnh lui dần. Lúc ấy có vị trụ trì chùa Thái Thạch Ky là Đức Ngạn đem dâng cho Sư một bộ y và ít đồ dùng, nhìn thấy sắc diện Sư hồng hào, sáng rỡ, vị trụ trì hết sức ngạc nhiên, mừng rỡ, rồi đem việc Sư té sông chết hụt kể cho tăng chúng ở chùa nghe. Bấy giờ đồ chúng ở chùa mới biết, hết lời tán thán, khâm phục và cảm mến. Các chức việc ở chùa không còn sai Sư giữ việc gì nữa mà để cho Sư tự do hành động.

Từ đấy, muôn niệm đều buông bỏ xuống hết, công phu tu hành rất tiến bộ. Ngày đêm như một, hành động như bay.

"Một đêm, lên chánh điện, tôi vừa thắp hương xong và lễ lạy, trong lúc đang quỳ, mắt mở, bỗng thấy hào quang rực rỡ, ánh sáng tràn ngập như ban ngày, trong ngoài thông suốt, không có gì ngăn cách; cách tường mà Sư vẫn thấy sư hương đăng đi tiểu, lại thấy luôn cả vị sư ngồi ở phía tây trong nhà xí, lại thấy suốt sư Tây Đơn ngoài vườn và cho đến cảnh ngoài sông xa, nào những chiếc thuyền qua lại lên xuống, nào cây cối lả lướt theo chiều gió bên bờ, nào là bao nhiêu cảnh vật màu sắc...". Sáng ra, hỏi vị hương đăng và sư Tây Đơn thì sự việc rõ ràng đúng y như vậy.

Đến tháng chạp, vào thất thứ ba. Đêm thứ ba, sau khi ngồi tàn sáu nén hương, những vị sư gìn giữ thất có lệ mang nước sôi đến. Vị này sẩy tay đánh rơi nước sôi xuống trọn bàn tay của Sư và chén rớt ngay xuống gạch vỡ ra từng mảnh. Tiếng chén vỡ làm cho Sư hốt nhiên chặt đứt nghi án, vui mừng như người tỉnh mộng. Sư bừng tỉnh, nhẹ nhàng, sung sướng..., tự mình lại nhớ ra lúc xuất gia trôi nổi đến nay đã mấy chục năm và lại thấy cảnh xưa nơi chòi tranh, cạnh sông Hoàng Hà, bên đường đầy tuyết, bị anh chàng thế tục trỏ tay vào nồi nước hỏi mình: "Là gì?" mà mình chẳng biết nước là gì.

Nếu lúc đó mà mình đạp lộn nhào cả nồi lẫn bếp xuống thử coi ông Văn Cát quý mến nói gì cho biết.

Sư lại trực nghĩ: Nếu chuyến này không vì té sông ba chìm bảy nổi mà mắc bệnh nặng, lại nếu chẳng gặp cảnh nghịch nhiếp tâm, chẳng được thiện hữu tri thức giáo hóa cho, thì hầu như là đã uổng phí đi một đời rồi, làm sao được khai ngộ như ngày hôm nay.

Bèn làm bài kệ rằng:
  • Bôi tử phốc lạc địa
    Hưởng thinh minh lịch lịch
    Hư không phấn toái dã
    Cuồng tâm đương hạ tức.

    Chén trà rơi xuống đất
    Nước đổ, rõ tiếng khua
    Hư không hoàn tro bụi
    Điên rồ khắc chấm dứt
    .(1)
Rồi làm thêm một bài khác:
  • Thang trước thủ, đả toái bội
    Gia phá, nhân vong, ngữ nan khai
    Xuân đáo hoa hương xứ xứ thấu
    Sơn hà địa dịa thị Như Lai.

    Phỏng tay, rơi chén, vỡ tơi bời
    Người mất, nhà tan, miệng bặt lời
    Xuân đến hoa khai hương khắp chốn
    Như Lai cùng thể núi sông trời
    .(1)
Khi tâm đã tỏ ngộ rồi, sướng khổ, vinh nhục không còn gì nữa.

tất cả đều là Chân như Tự tánh. Thấy tướng tức thấy tánh, không còn phân biệt chấp trước nữa vì đã đến Vô Phân Biệt Trí. Tất cả đều là Nhất Thể Viên Mãn nhiệm mầu và trong sáng, tươi đẹp.

Như Cổ Đức đã từng nói:
  • Thanh thanh thủy trúc
    Tổng thị chân như
    Uất uất hoàng hoa
    Vô phi Bát nhã.
Biết như vậy rồi, ta không còn phải than thở gì nữa. Không còn bỏ Đông mà cầu Tây. Không còn thấy Ta Bà đau khổ này là đáng nhàm, Cực Lạc vui sướng để cầu mong và chấp nhận ở lại với trần gian khổ lụy, chớ không mong "vượt biển" ra ngoài tâm giới mình làm gì nữa. Nên ở lại để chấp nhận thân phận mình với tất cả đắng cay, xót xa, vinh nhục của một kiếp người.

Tất cả đều là Như Lai, đều là Pháp thân bất hoại. Dù cho có bị tù đày hay chết chóc đi nữa thì cũng chẳng quan hệ gì, vì Pháp thể vốn Như thị, Phiền não tức Bồ đề, Sanh tử tức Niết bàn và chúng sanh tức là Phật vậy
.

CHÚ THÍCH:

(1) Ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền ghi chú: Nhân cái chén vỡ mà nghĩ đến thân, và tỷ thân như ngôi nhà mà người ở là thần thức. Khi nhà hư (thân chết cứng đơ), thì dẫu còn miệng vẫn không nói nên lời. Vậy thân không phải là người thật, không phải là cái thường còn, mà cái thường còn ở con người là bản thể Như Lai chung cho muôn vật cây cỏ, sông núi, trời đất.

Sư đã thấy thực tướng của vũ trụ rồi đó
.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

10. LẠI ĐỐT NGÓN TAY CẦU SIÊU CHO MẸ:

Vì sinh ra là mất mẹ, chỉ được thấy ảnh mà không thấy dung nhan. Cho nên mỗi khi nhớ đến đấng sanh thành, Sư rất đau đớn, xó xa. Do đó, mặc dù đã gian lao lạy hương triều kiến Ngũ Đài Sơn để báo hiếu, Sư còn chưa thỏa dạ, lòng thương từ mẫu không lúc nào nguôi. Vì thế, năm năm mươi tám tuổi, Sư lại phát nguyện đến chùa A Dục Vương (sau này cải tên là Quảng Lợi) lễ Xá lợi, đốt ngón tay cũng Phật mong siêu độ mẹ.

Với ý nguyện ấy, Sư sang Ninh Ba.

Lúc bấy giờ Huyền Nhân pháp sư và Ký Thiền hòa thượng (tức ngài Bát Chí Đầu đà, sư phụ của ngài Thái Hư đại sư) đang trụ trì chùa Thiên Đông, còn Hải Ngạn hòa thượng thì coi sóc chùa A Dục Vương.

Các vị này đều đón Sư về giúp công việc cho hai chùa. Nhưng vì Sư đến với lời nguyện như trên, nên không giúp được gì cho chùa như ý muốn của các vị. Tuy nhiên ba vị cũng hết lòng hộ trợ Sư trong việc hoàn thành ý nguyện này.

Nghi thức bái Xá lợi của Sư phụ thực hiện như sau:

Mỗi ngày lạy ba ngàn lạy, khởi sự từ tiếng bản thời công phu sáng cho đến tối. Về đêm thì khai đại tịnh. Khi lên chánh điện, vào thiền đường không dùng bồ đoàn để ngồi, duy phải mặc áo cà sa cho nghiêm chỉnh.

Một đêm kia, trong lúc thiền tọa. Sư chợt vào một cảnh mộng mà không phải là mộng: thấy giữa hư không hiện ra một con rồng vàng bay đáp xuống ao Thiên Trì trước điện Xá Lợi. Mình rồng dài mấy trượng ánh vảy vàng lóng lánh. Sư leo lên ngồi trên mình rồng và nó bay bổng lên không trung đến một khoảng núi sông vô cùng đẹp đẽ, hoa mộc thanh u, lầu gác cung điện trang nghiêm kỳ diệu. Ngó lên lầu, Sư nhìn thấy mẹ đứng nhìn Sư. Liền lớn tiếng kêu: "Mẹ ơi! Con mời mẹ cỡi rồng này về cảnh Tây phương Cực lạc giới.

Rồng liền đáp xuống chỗ mẹ đứng, thì Sư chợt tỉnh lại.

Cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng sảng khoái. Hình ảnh này còn rõ ràng trong đầu óc. Bình sanh mộng thấy thân mẫu, đây là lần thứ nhất vậy. Chỉ có một lần này là Sư thấy mặt mẹ.

Từ ấy, thường hay có người đến chùa chiêm ngưỡng Xá lợi Phật, và mỗi lần đều có Sư tham gia. Mỗi người, mỗi lần quan chiêm là mỗi lần trông thấy khác.

Riêng Sư nhiều lần xem Xá lợi, mỗi lần là mỗi lần thấy khác nhau, không lần nào giống lần nào. Ban đầu Sư thấy Xá lợi lớn như hột đậu xanh, màu tía và đen (vì còn nặng nghiệp trần gian). Khi Sư lạy xong hai tạng kinh, lại xem lần nữa thì cũng thấy lớn như cũ, nhưng màu sắc đã biến như hạt châu màu đỏ có ánh sáng ngời. Sư lại lạy nữa và chí tâm tinh tấn cầu nguyện, thì lúc bấy giờ toàn thân mình đau nhức. Lại xem thì thấy Xá lợi lớn như hột đậu nành, phân nửa là màu trắng, phân nửa là màu vàng long lanh.

Đến đây Sư tin tưởng một cách đích xác rằng: Xá lợi tùy Căn và Cảnh mà thị hiện
.

Sư lại thiết tha cầu nguyện, lễ bái, tụng niệm càng nhiều thêm.

Rồi bỗng nhiên đến tháng mười một, phát bệnh nặng không còn làm sao lễ lạy được nữa. Bệnh ngày càng trầm trọng, bắt buộc phải vào "Như Ý Liêu" dành riêng cho chư tăng ốm đau nằm để điều trị (infirmerie). Bao nhiêu thuốc men đều vô công hiệu. Sư thì liệt giường, không ngồi dậy nổi.

Vị Thủ tòa Hiển Thân và Viên Giám Viện Tòng Lượng với cô nương họ Lư đã dùng nhiều phương pháp, thuốc thang nội ngoại cứu trị mà chỉ hao công tốn của, vô ích thôi.

Tăng chúng trong chùa đều cho rằng duyên trần của Sư đã mãn. Và Sư chỉ còn nằm để chờ giờ thôi! Sư cũng đành vậy, nhưng nguyện "đốt ngón tay" chưa thành khiến Sư lo lắng bức rức.

Tuy nhiên, sáng ngày 16, có tám người vào liêu thăm Sư. Những người này đều vì việc "đốt ngón tay" dưng Phật mà đến chùa. Họ biết Sư cũng có nguyện này và đang bệnh nặng nên vào thăm và rủ cùng làm bạn đốt ngón tay.

Như thế là Sư biết ngày mai đây là ngày lễ đặc biệt cho việc "đốt ngón tay".

Sư hết sức thành khẩn, thiết tha yêu cầu ngài trụ trì cho Sư tham gia cuộc lễ. Nhưng các vị thủ tọa đều không tán thành, không chấp nhận vì cho rằng sẽ nguy hiểm đến tánh mạng của Sư.

Bất giác nước mắt Sư chảy ròng ròng và thều thào Sư nói: "Việc sống chết thì còn ai tránh khỏi. Vì muốn báo ân sâu của mẹ nên tôi phát nguyện đốt ngón tay. Nếu vì bệnh mà bỏ đi lời nguyện thì tôi dầu có sống cũng chẳng ích gì! Tôi nguyện lấy cái chết mà thôi!"

Vị Giám viện là Tổng Lượng mới hai mươi mốt tuổi, trước cảnh cũng ứa nước mắt, nhỏ nhẹ bên Sư:

- Ông chớ nên phiền não, tôi sẽ sắp xếp lo liệu đủ phương tiện để ông thành tựu nguyện này. Ngày mai đây lễ cúng chay, tôi sẽ thân đón ông đến đó. Hãy yên tâm vậy.

Thế là sáng sớm ngày 17, Sư Tổng Lượng và sư đệ của ông là Tổng Tín tự thân dìu Sư đến trước cuộc lễ. Bao nhiêu người khác lại luân phiên đỡ Sư lên đại điện lễ Phật.

Trải qua bao nhiêu nghi thức, lễ, tụng, và các sư tăng niệm văn sám hối, Sư quỳ nạp trước chánh điện, nhất tâm niệm Phật cầu siêu cho mẹ. Lúc mới bắt đầu đôt ngón tay. Sư đau thấu ruột gan, nhưng tâm vẫn kiên cố nhất niệm, rồi lần lần người Sư thấy ổn định trong sáng lên. Khi niệm đến câu "Pháp giới Tạng thân A Di Đà Phật" thì trọn vẹn thân Sư tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông đều vươn lên dậy dứng. Tay Sư đốt xong và tự Sư một mình đứng lên lễ Phật không cần ai nâng đỡ nữa.

Lúc bấy giờ Sư chẳng biết mình đang bệnh nặng mà tự nhiên quay lại bái tạ các vị sư rồi một mình đi thẳng về liêu.

Mọi người đều tán thán, cho là một việc hy hữu.

Từ đó Sư dùng nước muối ngâm ngón tay trong mấy ngày thì máu không còn ra nữa. Chẳng mấy hôm da thịt lành trở lại... và Sư tiếp tục lễ bái trở lại được như xưa.

Sư lưu lại chùa A Dục Vương đến hết năm ấy.

Sáu mươi tuổi: Ở tỉnh Ninh Ba, chùa Thất Tháp tổ chức đúc một cổ đại Hồng Chung thật lớn. Ngài hòa thượng trụ trì ở đó thỉnh Mặc An pháp sư nhân dịp đến giảng kinh Pháp Hoa, đồng thời cũng sáng chùa A Dục mời Sư phụ giảng kinh này.

Sau khi giảng xong, Sư đến đất Nghi Hưng, lên núi Đồng Quan, kết cỏ dựng cốc nhỏ ở tu. Nhưng ở không bao lau lại phải đến Đan Dương gisp hai vị thượng nhân là Kết Sâm và Bản Lâm sửa sang lại Tiền Đài Quán, và ở đó qua hè.

Đến tháng bảy thì lại sang đất Cứ Dương, núi Xích Sơn, nhận lấy am tranh nhỏ của Pháp Nhẫn hòa thượng để ở qua Đông.

Sáu mươi mốt tuổi (1900- Quang Tự thứ 25): Tính lại Sư đã ở vùng Giang Tô, Triết Giang ngót mười năm. Lòng lại muốn vân du đây đó. Trước hết định trở lại ẩn tích tu hành. Bèn rời Xích Sơn, đi đến Trấn Giang, Dương Châu rồi vào Vân Đài Sơn.

Hướng về hướng Đông núi này, Sư triều Đông Nhạc Thái Sơn, tiếp đến Lan Sơn và tìm tới hang đá Na La Diên (tức là động thất của ngài Hám Sơn Lão nhân, chùa Hải Ẩn). Rồi Sư đến đất Khúc Thọ lễ miếu lăng đức Khổng Tử.

Trên đường đi về hướng Tây, một đêm, Sư vào nghỉ trong một miếu hoang, miếu trống trơn, không có vật gì ngoài một cổ quan tài dã mục. Sư quét bụi nắp quan tài để ngửa và leo lên nằm, sau khi xem xét thấy rõ là không có người nào trong đó.

Đến nửa đêm, đang yên giấc, bỗng nghe có tiếng động trong quan tài, tiếp theo có tiếng người nói nho nhỏ: "Tôi muốn ra, tôi muốn ra".

Sư lấy làm lạ hỏi:

- Là người hay ma đó?

- Tôi là người.

- Người, mà người gì?

- Người đi xin ăn.

Sư cười rồi bước xuống nhường chỗ cho người ấy chun ra.

Nhìn dáng dấp nó xấu như quỷ. Người ấy đứng lên hỏi Sư là ai?

- Hòa thượng.

Người ấy tỏ ý giận dữ, bảo là Sư đè ép lên đầu nó và cung tay muốn đánh.

Sư cười vào bảo:

- Hãy coi chừng! Khi nãy ta ngồi trên nắp quan tài mà ngươi còn không động đậy nổi, thì còn nói gì đến việc đánh đá ta được.

Nghe xong người ăn mày xụi lơ, bỏ tay xuống, bước ra sân đi tiểu rồi trở vào nằm lại trong quan tài.

(Đúng là chưa biết coi mặt người ta vậy).

Trời sắp sửa sáng, Sư bắt đầu lên đường.

Lúc bấy giờ Nghĩa Hòa Đường ở các huyện tỉnh Sơn Đông có triệu chứng nổi loạn. Một hôm, đang đi giữa đường Sư gặp một người lính ngoại quốc. Nó chĩa súng vào ngực Sư và hỏi:

- Có sợ chết không?

- Nếu tôi phải chết ở tay anh, anh cứ bắn.

Thấy Sư thần sắc thản nhiên bất động, tên lính nói:

- Tốt, thôi ông đi đi.

Sư liền đi thẳng đến Ngũ Đài Sơn.

Sau khi hành hương xong, Sư muốn đi đến núi Chung Nam. Nhưng tình hình chánh trị ở đây rối bời, mỗi ngày càng thêm dữ. Nến Sư đành lui về ở Bắc Kinh.

Trên đường về Bắc Kinh, Sư đến chùa Tây Vức làm lễ Thạch Tạng Kinh (tức là bộ kinh Phật chứa trong đá) ở núi Đàm Thác và tìm kiếm các vị tu hành có đầy đủ giới hạnh. Đồng thời Sư cũng đến chùa Đại Chung tham quan một cổ đại Hồng Chung đúc nặng tám vạn bảy ngàn cân, cao một trượng năm xích (tức 4m50), đường kính một trượng bốn xích, phía bên ngoài khắc nổi trọn bộ kinh Hoa Nghiêm, phía trong đúc trọn bộ kinh Pháp Hoa, lấy bộ kinh Kim Cang làm cái khóa. Chúng quanh chuông, vòng bốn phía trên thì đúc chú Lăng Nghiêm.

Chuông này là một tác phẩm kỳ đặc của mẹ vua Vĩnh Lạc hoàng đế cũng cho chùa.

Xem xong, Sư đi về phía Nam Thành, ở chùa Long Tuyền.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

11. LẠI ĐỔI PHÁP DANH:

Đến tháng năm, lửa loạn Nghĩa Hòa Đoàn, dưới hiệu triệu "Phù Thanh diệt Dương"(1) bùng cháy khắp nơi.

Dưới sự che chở và âm mưu của Hoàng Thái Hậu (tức Từ Hi Thái Hậu), loạn quân bạo hành giết vị thư ký của Sứ quán Nhật Bản và viên công sứ nước Đức.

Bắc Kinh lâm đại nạn, náo loạn to.

Tháng sáu, Thiên Tân thất thủ.

Tháng bảy, liên quân các nước Tây phương tổng hãm Bắc Kinh.

Lúc bấy giờ các vị Vương công đại thần, một số lớn vào chùa Long Tuyền lánh nạn, cùng với Sư quen biết. Họ khuyên Sư cùng theo chân nhà vua đi về phía Tây.

Trong chốn binh hoang, ngựa loạn, đi bộ cả ngày lãn đêm, người người gian khổ.

Khi đến Phục Bình huyện, mới nghe ông tướng Phiên ở tỉnh Cam Túc là Sâm Xuân Huyên đem quân cần vương đến cứu giá. Vua và Hoàng Thái Hậu rất mừng.

Bèn hộ giá ra ngoài Trường Thành, vào tỉnh Sơn Tây, đến Nhạn Môn Quan.

Nơi này có chùa Vân Môn, trụ trì là một lão tăng tuổi đã 124. Vua ban cho nhà sư một tấm đoạn vàng và một hàng chữ để treo trong chùa.

Đoàn lại đi về hướng Tây, đến Bình Dương phủ. Chốn chốn, nơi nơi đều thất mùa, dân tình đói khổ. Người dân địa phương mang lá khoai, lá cải dâng vua đỡ lòng. Vua và Thái Hậu ăn, khen rất ngon. (Đói mà)

Đi đến Tây An, vua ở nơi Phủ Viện. Nơi đây dân tình đói khổ vô cùng, nhiều chỗ có kẻ ăn cả thịt người chết. Vua bèn xuống chỉ cấm việc này và tức tốc thành lập ngay những trạm bố thí cơm gạo, làm việc ngày đêm cứu vớt nhân dân. Tướng Sâm Xuân Huyên thỉnh Sư đến chùa Ngọc Long tổ chức pháp hội cầu nguyện tiêu tai. Sau khi làm Phật sự xong, Đãng Hà lão hòa thượng mời Sư ở lại trụ trì chùa Ngọc Long.

Trước tình cảnh đau thương này, Sư buồn vô hạn. Lại nữa, xe giá của nhà vua ở Tây An quá ồn ào, phiền nhiễu. Sư phải lánh đi lên Chung Nam Sơn tìm một khoảnh đất tu tịnh, kết cốc ở hang Sư Tử Nham ở đó, và cải hiệu là Hư Vân thay thế Đức Thanh thuở ấy.

Núi này thiếu nước, uống thì phải lấy tuyết đóng lại.

No bụng thì chỉ có rau rừng, mà tự mình phải trồng lấy.

Các sư tu hành ở núi thì chỉ có sư Bổn Xương ở Phú Thạnh Sơn, sư Diệu Liên ở miếu Quan Đế, sư Đạo Ninh ở động Ngũ Hoa, sư Diệu Viên ở một cái cốc nhỏ và sư Thanh Sơn cũng là người đất Tương. Cùng ở gần nhau nên thường lui tới cùng nhau kết bạn với Sư.

Đến tháng tám năm Sư sáu mươi hai tuổi, có ba vị sư Phục Thành, Nguyệt Hà và Liễu Trần đến cốc Sư. Thấy Sư, các vị này bảo: "Mấy năm chẳng biết tin tức ông, nào ngờ đâu giờ đây lại cùng ông ngủ ở chỗ này!

Năm sắp sửa hết, muôn núi chứa tuyết, lạnh buốt xương.

Một hôm, Sư một mình ngồi trong cốc, thân tâm thanh tịnh, khoai đang nấu trong nồi, ngồi kiết già đợi khoai chín. Trong chỗ chẳng hay biết, Sư đã nhập định từ bao giờ.

Hòa ước năm Tân Sửu ký kết, Trung Quốc phải bồi thường tám vạn năn ngàn lượng bạc.

Tháng mười liên quân rút khỏi thành Bắc Kinh.

Tháng mười một, Thái Hậu dắt vua xe giá trở về Bắc Kinh.

Cuối tháng chạp Nhâm Dần sáu mươi hai tuổi, trong khi luộc và chờ khoai chín, Sư nhập định thình lình không biết bao lâu. Các sư Phục Thành ở các cốc trong những núi gần lấy làm lạ sao lâu rồi không thấy Sư đến với họ. Bèn đến thăm Sư cùng chúc mừng năm mới. Đến cốc thấy bên ngoài đầy khắp dấu chân cọp. Nghi cho là Sư không còn. Vào cốc xem thấy Sư còn trong định, ngồi trơ một chỗ. Họ đánh khánh gọi tỉnh và hỏi "Đã ăn chưa?"

- Chưa! Khoai còn đang luộc trong nồi.

Mở nồi ra xem thì thấy khoai đã lên meo hơn một tấc, đông cứng lại như đá.

Sư Phục Thành lấy làm lạ bảo:

- Thế này là ông nhập định đã hơn nửa tháng rồi?

Cùng cười và nấu khoai ăn.

Sau khi đám tăng Phục Thành về rồi, chẳng mấy ngày sau, Sư, tăng và người tục lần lượt đến viếng Sư rất đông. Cảnh mao bồng không còn thanh tịnh nữa.

Một đêm, Sư trốn bỏ cốc ra đi.

Một vài hành lý dơn giản, Sư hướng về chỗ muôn dặm, không có tấc cỏ mà đi.

Trước hết Sư đến núi Thái Bạch, vào trong một hang sâu.

Không biết làm thế nào, vài ngày sau lại thấy sư Giác Trân lót tót đến thăm. Cùng cười rồi lại cùng rủ nhau đi chơi núi Nga Mi.

Bèn đến Bảo Ấp Khẩu, Tử Bá Sơn qua Diệu Đài Tử thăm miếu Trương Lương. Rồi đến Thiện Hóa huyện xem cây bá của ông Trương Phi trồng thuở nọ, rồi đến Thành Đô. Từ đây lại theo ngả Gian Định mà đến Nga Mi.

Tại Nga Mi, hai sư trèo lên chót đỉnh núi chiêm ngưỡng ánh Phật quang. Thấy không khác gì ánh Phật quang ở Kê Trí Sơn. Đêm đến lại xem Vạn Tràng Minh Đăng. So với Trí Huệ Đăng ở Ngũ Đài Sơn cũng tương đồng.

Rồi đến Ngõa Điện lễ bái Chân Ứng lão hòa thượng. Ngài đã bảy mươi tuổi và là lãnh tụ trọn vùng núi Nga Mi này. Hai Sư lưu lại đây mấy ngày và đi viếng các cảnh đẹp khác.

Thỏa lòng hoài vọng, hai Sư xuống núi và lần lượt trải qua các cảnh Nga Mi Tự, Trưởng Lão Bình, Tỳ Lô Điện, Nga Mi huyện, Hiệp Giang huyện..., và tới sông Lưu Sa nước đầy ngập bãi. Phải đợi từ sớm đến trưa mới có thuyền qua sông.

Mọi người đều lên thuyền. Sư nhường cho Giới Trân lên trước và tạm ban hành lý cho y. Nhưng chính lúc Giới Trân bước lên thuyền thì neo đứt. Giới Trân nắm dây kéo lại. Phần nước chảy quá mạnh, thuyền nhỏ, hành khách lại quá đông, nên thuyền lăn lộn gần lật úp. Sư âm thầm phóng mình xuống nước, một tay bám vào mạn thuyền, nhưng không dám động mạnh và cứ trong tư thế áy để cho thuyền trôi theo dòng nước mà chịu, dầm mình suốt đến chiều mới sang được bờ bên kia.

Khi thuyền cặp bến, mọi người mới xúm lại kéo Sư lên được. Thì ra quần áo và hai chân Sư đều bị đá nhỏ cắt rách hết. Trời lạnh lại mưa xối xả, hai sư cố chịu đựng lần đi đên Sái Kinh Quan. Nhưng khổ nỗi, vào lữ quán xin tá túc, thì nhà trọ chẳng chịu cho tăng ở. Đôi ba lượt khẩn cầu cũng vô hiệu.

Ngoài phố có ngôi miếu nhỏ, có một sư già ở giữ. Hai Sư đến đó xin ngủ qua đêm. Nhưng eo ơi! Sư già cũng chẳng cho vào. Hai Sư hết lời năn nỉ, sư già mới cho ngủ ngoài cửa miếu. Nhờ sư già mua cho bó rơm khô trải nằm. Phần sư cũng kéo cho hai bó cỏ cũng ướt nhũn, đốt không cháy mà lót cũng không ổn. Thế là hai Sư đành ngồi bẹp trên đất dói bụng qua đêm đầy muỗi mòng và gió rét.

Sáng ra, mua được ít củ khoai gậm đỡ rồi lên đường, lần lên núi Hỏa Nhiên, rồi trải qua đất Kiến Xương, Ninh Viễn, Chậu Hội Lý và vào ranh giới tỉnh Vân Nam.

Không gặp được chùa nào để tạm nghỉ, hai Sư tiếp tục đi cho đến huyện Vĩnh Bắc vào chùa lễ Thánh Tích Quán Thế Âm Bồ tát. Nghỉ được một buổi ở đó vừa khỏe, hai Sư sang sông Kim Sa, đến núi Kê Túc Sơn. Quá mệt mỏi, hai Sư đêm ấy ngủ ngay bên gốc cây dưới chân núi. Nửa đêm, trong giấc ngủ Hư Vân nghe trong đá văng vẳng có tiếng chuông. Biết là nơi linh thính! Sáng ra hai Sư lần leo lêm kim đảnh dâng hương, các chỗ đổ nát hoang tàn. Ngó quanh, cảnh vật tiêu sơ.

Chạnh lòng Hư Vân bùi ngùi cảm xúc, tự nghĩ: "Đạo tràng Phật Tổ sao lại suy bại như thế này? Phải chăng là tại sự đọa lạc của toàn tăng chúng Vân Nam?"

Sư lại phát nguyện cất am trên núi để tiếp đãi những khách hành hương. Nhưng Sư lại gặp trở ngại của con cháu các chủ chùa miễu ở địa phương ngăn cấm. Không biết làm sao, hai Sư khóc mà xuống núi.

Đi đến phủ Côn Minh, Sư lại may mắn gặp cư sĩ Sâm Khoan Từ lưu giữ ở chùa Hưng Phước, một lòng hộ pháp

Thế là hai Sư bế cửa tu hành và qua năm.

CHÚ THÍCH:

(1) Phù Thanh diệt Dương: Ủng hộ triều đình nhà Thanh, giết bọn xâm lăng Tây phương.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hư Vân sáu mươi bốn tuổi (Quang Tự năm thứ 29):

Một vị tăng từ chùa Nghinh Tường đến thăm và thuật chuyện, ở chùa ông có con gà trống của tín đồ đưa đến phóng sanh cân nặng mấy cân. Tính nết nó rất hung dữ, ưa cắn đá. Toàn thể bầy gà phóng sanh ở vườn chùa đều bị nó cắn, đá mang đầy thương tích, mà chẳng có cách nào trị dạy cả. Sư dạy vị tăng này về truyền quy giới cho gà và tập nó niệm Phật. Chẳng bao lâu sau, nghe nói là gà hết tánh hung hăng, trở nên rất hiền lành. Chẳng những không cắn đá đồng bọn mà thường riêng một mình bay đậu trên cây, cũng không cắn mổ làm tổn thương sâu bọ. Nếu có người rải cho lúa hạt thì nó ăn. Không thì nhịn ăn. Lâu rồi, thường ngày hễ nghe tiếng mõ, khánh là nó theo các tăng chúng lên chánh điện. Khi lễ xong nó lại về cây đậu.

Dạy nó niệm Phật... thì nó cất cổ, phùng má làm ra tiếng: Ốôc! Ốôc!

Hai năm sau, một hôm khi khóa tụng buổi chiều xong, nó lên chánh điện, đứng thẳng trước bàn Phật, ngẩng đầu lên, xòe rộng hai cánh ra, ra dáng điệu như lạy và niệm Phật rồi đứng yên thật lâu mà hóa. Nó đứng như thế mấy ngày mà không biến đổi màu sắc. Nó đã chết cứng!

Nhà chùa để nó vào hộp cây, đưa ra sau am ngoài vườn chôn tử tế.

Nghe chuyện, Hư Vân có làm bài thi cho khắc vào bia gà như sau:
  • Hiếu danh đấu thành thử kê hùng
    Thương quan bạt vũ huyết lê giang
    Tri úy, phụng giới, cuồng tâm yết
    Tố thực, cô thê, bất hãi hùng
    Lương mục thiềm nghinh huỳnh kim tướng
    Niệm Phật "ốc ốc" hà thung dung
    Triền nhiễu tam phốc an nhiên hóa
    Chúng sanh dữ Phật tương vô đông.
Dịch:
  • Đấu đá đam mê hóa tánh gà
    Tổn thương mồng tích máu chan hòa...
    (Chỉ thấy tác giả dịch hai có câu này thôi, nên ghi vào có bấy nhiêu)
    .
Sáu mươi lăm tuổi:

Mùa Xuân, các vị hộ pháp và hòa thượng chùa Quy Hóa, pháp danh Khế Mẫn khẩn thiết mời Sư đến thuyết giảng kinh Viên Giác và kinh Tứ Thập Nhị Chương. Sư nhận xuống núi sang đó thuyết pháp và làm lễ quy y cho trên ba ngàn người.

Mùa Thu, ngài Mộng Phật thượng nhân ở chùa Âu Trúc thỉnh Sư giảng kinh Hàn San Thi (Hàn San là một vị Bồ tát hóa thân, tức là đức Văn Thù Bồ tát đó). Bản khắc kinh hãy còn giữ tại chùa này.

Trong thời gian ở chùa, Sư đã làm lễ quy y rất nhiều người (hơn một ngàn người).

Lúc bấy giờ, quan Đề Đốc phủ Đại Lý là Trương Tùng Lâm và Đề Đốc Lý Phúc Hưng cùng phái đoàn đông đảo các quan viên thân sĩ ngỏ ý muốn thỉnh Sư về trú luôn tại chùa Sùng Thánh và giảng kinh Pháp Hoa. Sư từ chối vì bình sanh không thích ở chốn thị thành, lại nữa bởi đã có lời phát nguyện sửa sang chùa chiền và quy củ ở núi Kê Túc Sơn, nhưng gặp hoàn cảnh khó khăn trước sự cản trở của người địa phương nên chưa làm gì được. Nay nếu các vị Hộ pháp có thể vì Sư, liệu biện cho được một khoảnh đất ở đó, Sư sẽ mở đàn tràng đón tăng chúng và người thập phương đến Kê Túc Sơn để cứu vãn tình hình Phật giáo tình hình Phật giáo ở Vân Nam này.

Sư nói một cách chân thành: "Tôi muốn khôi phục đạo trường của ngài Ca Diếp và đó cũng là nguyện vọng thiết tha của vị tu hành này".

Nghe xong, mọi người đều tán thành. Hai vị Đề Đốc liền giao cho viên Tri Huyện Tân Xuyên đảm nhiệm việc này.

Không bao lâu, quan Huyện đã tìm được trên núi một am xưa đã hư là Am Bát Vũ.

Sư liền về đó ở. Cảnh tuy hoang tàn đổ nát, không buồng cửa, không lương thực, nhưng vài hôm sau là tứ chúng đến rất đông, được Sư tiếp đón rất niềm nở, lễ độ.

Bát Vũ Am sau triều vua Gia Khánh hoang phế, không người coi giữ, cỏ cây rậm rạp khắp chốn. Phía bên tay phải có một tảng đó thật to. Theo địa lý gọi đó là Bạch Hổ, địa thế không tốt. Sư định ngay chỗ đá đào liền một ao phóng sanh thật rộng. Đồng thời mướn nhân công đập bỏ tảng đá này đi. Nhưng đá quá cứng, quá to, búa không tài nào làm nhúc nhích nó được. Xem xét kỹ, thấy đá không có gốc, cao chín thước bốn tấc. Mặt đá rất bằng phẳng, rất tốt cho người ngồi kiết già. Sư mướn người dời nó sang phía bên tay trái, cách đó ba chục trượng. Nhân công có đến một trăm người, gia sức trọn ba ngày mà không dời nổi đá. Họ bèn bỏ công việc không tiếp tục nữa.

Sư thành khẩn cầu đảo việc này nơi thần Già Lam và tụng Phật chú suốt mấy ngày đêm, rồi dẫn hơn mười vị tăng đến dời đá. Lành thay! Việc làm dễ dàng, không có gì khó nhọc nặng nề. Mọi người, nhứt là anh em nhân công đến xem đều kinh sợ và bảo là có thần linh phò hộ. Người hiếu sự bèn nói: "Đây là hòn Vân Di Thạch" (đá do ông Hư Vân dời). Các bậc học sĩ có đề thơ rất nhiều về vấn đề.

Riêng Hư Vân cũng có ghi mấy câu kỷ niệm:
  • Ta nga quái thạnh đỉnh kỳ trung
    Đài tiễn do tồn Thái cổ phong
    Thiên vị bồ hoàn lưu đãi ngã
    Vân khan biến hóa dục tòng long
    Di sơn cảm tiếu Ngu Công Chuyết
    Thính pháp nghi tằng hổ phụ phùng
    Tị thử bát phong xuy bất động
    Lăng tiên đường bạn lưỡng tam tùng
    Bát vương phong ủng Phạm Vương Cung
    Kim sắc đầu đà cựu hữu tung
    Phỏng đạo cảm tứ lai vạn lý
    Nhập sơn kim dĩ đội thiên trùng
    Niên thâm lĩnh thạch, ngôn lưu tiễn
    Nguyệt lặng trì ngư ảnh bỉ tùng
    Phủ bám cứu châu trần ngoại vật
    Thùy phong suy tống số thanh chung.
Tạm dịch:
  • Đá lạ sừng sững đưa lên tung tích lạ
    Rêu, dây còn đó bao trùm tảng đá từ đời Thái cổ
    Trời vá chưa xong, còn lưu đó để chờ ta
    Mây xem biến hóa muốn theo rồng
    Dời núi, dám cười Ngu Công là vụng
    Nghe pháp ngờ rằng gạo đó nhi hổ phục
    Từ đây tám gió không nao núng
    Vượt tới mây cao, làm với đó ba cây tùng
    Nơi Bát vu bao vòng Cung Phạm Vương
    Vị Đầu đà thân vàng chưa có tung tích ở đây
    Đi tìm đạo há đâu dám từ muôn dặm đến (dù phải đi muôn dặm để đến chốn này tìm đạo cũng chẳng từ).
    Vào núi... vào núi chập chùng
    Trải qua năm tháng, đời đời, đá vẫn còn giữ dấu vết của dây leo
    Trăng sáng lặng trong giếng cá giữ bóng tùng
    Cùi nhìn vạn vật ngoài cõi ở chin châu
    Thì kìa luồng gió đưa sang mấy tiếng chuông ngân
    .


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Sửa chùa, tiếp đãi thập phương, việc việc sự sự... từ chỗ tay không mà tiếp, nên rất cần phải có tiền, thật nhiều tiền. Mà có được vậy, Sư phải gấp rút đi mộ hóa (quyên tiền bá tánh), xét thấy một mình không lo kham, Sư bèn nhờ Giới Trần tiếp tay liệu lý để cho Sư rỗi rảnh xông pha vào đất Đằng Xung, rồi sang Hạ Quang đến Vĩnh Xương, Hòa Mộc Thụ.

Con đường này, trăm dặm gồ ghề, đi thật gian nan, vì đã từ lâu quan dân không hề để ý tu sửa. Theo lời người bản xứ, gần đây có một vị tăng từ đâu không biết, đến phát tâm khổ hạnh bồ đắp không quyên góp của ai một đồng. Từ người qua đường có hảo tâm cho cơm gạo thì giúp. Một mình một bóng, đã mười năm rồi, ông tăng cứ đem theo chí nguyện lo làm đường, không bao giờ ngơi nghỉ hay thối lui bỏ dở. Chặng đường nay đã khai thông được chín phần rưỡi. Khách qua đường và người địa phương rất cảm ân đức của ông tăng. Họ rủ nhau tu sửa chùa Khổng Tước Hành Vương gần đó rồi mời ông đến trụ trì, nhưng người không nhận... chỉ một mực sửa đường mà thôi.

Nghe chuyện, lòng rất cảm khái, Sư bèn đi ngay đến chỗ này.

Rất may khi trời sập tối, Sư gặp tăng ở giữa đường.

Thấy ông vác cuốc đeo ky, sắp sửa trở về chỗ trú. Sư bước tới chào hỏi. Ông chỉ trừng mắt nhìn, không thốt một lời và bỏ đi luôn. Sư cũng làm thinh, thản nhiên nối gót theo sau lưng ông. Đến một ngôi chùa cũ, ông ta để cuốc và ky xuống, leo lên bồ đoàn ngồi tỉnh tọa.

Sư đến trước mặt làm lễ, ông tăng cũng chẳng ngó ngàng gì đến, xem như không có ai ở đó.

Sư cũng ngồi lại, đối diện ông và cũng tham thiền.

Sáng hôm sau, ông ta đứng lên đi nấu cơm. Sư tự động nhóm lửa.

Khi cơm chín, ông ta cũng không mời Sư. Ông ta ăn, Sư cũng xách chén mình lại bới cơm.

Ăn xong ông ta vác cuốc đeo ky ra đi. Sư cũng gấp rút đi theo, rồi cùng nhau dọn đá, đào đất, trải cát, cùng làm cùng nghỉ, không ai nói với ai một tiếng nào. Như vậy suốt mười lăm hôm. Hai người giống như hai kẻ câm cùng làm việc chung nhau.

Rồi một tháng. Rồi ba tháng trôi qua. Đường đã chữa xong.

Một đêm trăng sáng như ban ngày, Sư ngồi trên phiến đá lớn nơi ngoài chùa tĩnh tọa. Đến khuya mà chưa thấy ông ta về. Nhưng khi về, ông ta lại nhẹ nhàng bước đến sau lưng Sư hét to: "Làm gì ở đây?"

Sư hơi hé mắt đáp: "Xem trăng".

- Trăng ở chỗ nào?

Sư dáp:

- Ánh trăng của sáng (mây) rất đẹp! (Trong ánh sáng chứ đâu).

Ông ta nói:

- Rất nhiều mắt có lẫn hạt châu. Đồ thật khó mà phân biệt được. Chẳng nên nhận cái mống hay vầu vòng làm sáng có nhiều màu sắc. (Ý ông ta bảo Sư: Làm sao biết được ông ta chân tu hay giả tu).

Sư đáp:

- Ánh sáng bao hàm muôn trượng, không có nay và xưa, chẳng thuộc âm dương và dứt tuyệt che lấp.

Ông ta nói:

- Đồ da ngư mục chân nan biện = Mắt phần đông là mắt cá, không phân biệt cái chân.
Hựu nhân hồng nghê thị thể hà = Cho nên nhận cầu vòng (móng) là Ngân hà.(1)

Sư đáp:

- Quang hàm vạn tượng vô kim cổ = Cái sáng bao hàm muôn tượng, không sưa nay.
Bất thuộc âm dương, tuyệt chướng già = Không thuộc âm dương và giải thoát khỏi buộc ràng.

Ông ta bèn cầm tay Sư, cười và bảo:

- Khuya rồi, xin mời vào nghỉ.

Hôm sau vui vẻ, ông ta tâm sự: Tôi là người Tương Đàm, pháp danh Thiền Tu. Xuất gia từ thuở nhỏ, đến hai mươi bốn tuổi ở Thiền Đường, chùa Kim Sơn, được một chỗ nghỉ ngơi (ý nói, tôi tỏ ngộ một phần nào).

Sau đó đi triều các danh sơn, lần đến Tây Tạng, vòng ngã Hồi Quốc, Miến Điện về Trung Quốc. Đi ngang qua đây thấy đường lổm chổm, gồ ghề, hoang phế, lỗ hang khắp cùng, người ngựa đi qua vất vả. Vì cảm hạnh xưa của Trì Địa Bồ tát, nên phát nguyện một thân tu sửa lại đường này. Mấy chục năm qua, không người tri kỷ, tôi đã tám mươi ba tuổi rồi. Duyên may hạnh ngộ, nên mới tỏ bày.

Hư Vân cũng đem việc mình xuất gia bày tỏ.

Sáng hôm sau, cơm nước xong Hư Vân cáo từ. Hai người Sư cười lớn mà từ biệt. Hư Vân đi đến đất Đàng Xuân, vào Hồ Nam Hội Quán, chưa kịp buông hành lý xuống thì có mấy người mặc tang phục chạy đến khấu đầu lạy và thưa:

- Xin Hòa thượng đến niệm kinh.

- Không được. Tôi không phải là tăng ứng phó tụng kinh

Người con trai mặc tang phục thưa:

- Ông nên vì Hòa thượng của các ông mà tụng kinh vậy.

Hư Vân đáp:

- Chỗ này nghe nói không có một vị Hòa thượng nào cả mà.

Người chức việc trong Hội Quán tiếp lời giải thích:

- Đúng thế, ở địa phương không có Hòa thượng. Nhưng Đại sư đi tụng kinh là phải. Việc này rất thích hợp và đúng là nhân duyên đưa đó vậy. Con trai này là chắt của Thái Sử họ Ngô. Quan Thái Sử trọn đời tu hành tinh tiến. Trong khoảng mấy chục năm, người người đều gọi ông là Thiện Nhân. Nay thọ đã hơn tám mươi tuổi. Con cháu mấy chục người, có mấy người thì đỗ Hiếu Liêm, còn bậc Tú Tài thì rất nhiều. Bữa hôm qua, trước lúc qua đời, ông tự bảo mình là một Hòa thượng, và dặn dò con cháu phải dùng y phục nhà sư mà khâm liệm xác mình, cũng không được khóc kể, không cho sát sanh cúng kiến, chẳng chịu cho rước thầy cúng tụng kinh. Đồng thời lại bảo: "Sắp có một vị cao tăng đến đây, vị này sẽ vì mình mà siêu độ cho". Nói xong người ngồi kiết già mà hóa. Trải qua mấy ngày mà dung nhan vẫn như người sống. Nay Đại sư đến đây, phải chăng là duyên Phật pháp đưa đó vậy. Đại sư nên đến đó tụng kinh siêu độ cho quan Thái Sử.

Hư Vân liền nhận lời đi ngay. Trong bảy ngày Pháp sư tụng kinh, phóng sanh thì thực, thân sĩ thứ trong vùng đến cúng lễ rất hoan hỷ. Nhân đó xin quy y rất đông. Về sau đó, dân chúng ngỏ ý thỉnh Sư lưu lại chùa Đằng Việt.

Hư Vân từ chối, viện lẽ chí nguyện của Sư là về tu ở Kê Túc Sơn. Vì lẽ sửa chữa và trùng tu các chùa ở Kê Túc Sơn. Nên hôm nay Sư mới đến đây mộ hóa. Do đó, Sư không sao nhận lời mời tốt đẹp này và cũng không thể ở lại được.

Nghe xong, mọi người hoan hỷ, nô nức quyên một số tiền rất lớn cho Sư.

Nhờ sự hộ trợ tích cực này, chẳng bao lâu cảng Kê Túc Sơn được trùng tu tốt đẹp. Hư Vân liền lập định quy ước, khai đàn thuyết pháp, chấn chỉnh luật nghi, truyền thọ giới pháp. Tứ chúng đến rất đông. Các chùa quanh núi lần cải cách theo gương của Hòa thượng.

CHÚ THÍCH:

(1) Phải. Rất nhiều mắt cá có lẫn hạt châu. Đồ thật khó mà phân biệt được. Chẳng nên nhận cái mống hay cầu vòng làm Ngân hà hay ánh sáng có nhiều màu sắc. Ý ông ta bảo Sư làm sao biết ông ta là giả tu hay chân tu.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHỤ CHÚ:

Nhân đoạn trên có nói quan Thái Sử trước khi qua đời lại nhớ được tiền kiếp của mình là một vị Hòa thượng. Ngài Hư Vân ghi lại một vài sự việc mà ngài có biết có nghe để làm sáng tỏ thêm vấn đề:

1. Quan Thái Thú Trần Lan Khanh, gốc tỉnh Triết Giang, đất Thiên Hưng, sanh trưởng ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, quy y với ngài Nhân Thê hòa thượng ở chùa Tây Sơn, đất Côn Minh. Dốc lòng niệm Phật, ông thường tụng kinh Kim Cang, lại có tài vẽ rất khéo cỏ Lan và Quan. Mọi người tranh nhau mua tranh này, cho đó là của báu.

Lúc nhỏ trở về quê nhà ứng thi, khi đi tới đất Hàng Châu thì ông thấy cảnh này in hệt như là ông trở về quê hương xưa của mình vậy. Bỗng nhiên ông nhớ lại rõ ràng kiếp trước của mình là một vị Sư ở chùa Mã Não đất Tây Hổ. đã từng đối với bạn bè hồi trước cảnh huống ở trong chùa nay và sự sắp đặt bày biện ở liêu phòng chỗ ông ở khi xưa, chí đến những cây hoa trồng ở vườn, cảnh vật tả rõ như một bức tranh, mọi người đều cho là ông bịa.

Bèn kéo ông đến chùa, thì thấy đúng y như lời ông nói.

Ông cũng nói: "Vợ ông kiếp trước là một người đàn bà coi cửa hàng một tiệm buôn bán mõ ở bên cạnh chùa Mã Não, đã từng cúng dường một chiếc áo cà sa. Cho nên kết duyên với nhau ở kiếp này, Nghe nói, ai nấy đều tin và lấy làm lạ.

Suốt đời, ông sống đầy phước báu, con cháu rất nhiều

Tuy ông tin Phật, niệm Phật, nhưng không có ý xuất gia trở lại nữa.

Năm Quang Tự thứ 30, Hư Vân ở chùa Phước Hưng, đất Côn Minh, thường cùng ông qua lại. Nhiều lần Sư cảnh giác ông, nhưng ông không tỉnh ngộ.

Cho hay, giàu sang khó học đạo, câu nói của kinh Phật rất đúng vậy.

Tiếc thay cho quan Thái Thú Trần Lan Khanh.

2. Phía ngoài cửa Đông đất Đăng Xung, ở chùa Vạn Phật, có một vị sư già, trọn đời niệm Phật chuyên cần, tinh tấn tụng kinh Kim Cang, đức hạnh đầy đủ.

Ông nội của quan Thái Thú họ Ngô thường cúng dường vị sư này. Người con dâu của ông này một hôm chuyển bụng sanh. Bỗng nhiên ông thấy vị sư già đến nhà, đi ngay vào phòng. Và ngay sau đó người con dâu của ông sanh một đứa cn trai (tức là quan Thái Thú cháu nội của ông vậy).

Nghe ông kể, mọi người đều rất lấy làm lạ. Bèn đến chùa hỏi xem thì đúng giờ sanh ấy, vị sư già thở hơi cuối cùng.

Đây là một vài chuyện nghe thấy tận tai mắt, nên ghi lại để người tu hành tự mình cảnh sách vậy.

Sau đây, soạn giả cũng xin chép lại một câu chuyện viết ở sách "Mấy thầy tu huyền bí ở Tây Tạng và Mông Cổ" của Đoàn Trung Còn.

Dưới chuyện ông Đoàn Trung Còn có ghi chú: Chuyện này có lẽ là một câu chuyện khôi hài để chế diễu mấy sư giải đãi và ỷ lại.

Tuy nhiên, theo tôi dù có thật hay không, cũng đáng cho người tu hành ghi nhớ và suy nghĩ vậy.

Có một vị Đại đức Lạt Ma làm Thượng Tọa trong một ngôi chùa. Ngài thuộc về hạng như sư Tulkan. Hạng nhà sư này tới chừng thác thì đầu thai trở lại và có quyền giữ chức Thượng Tọa có ngôi chùa mà mình đã cai quản bấy lâu. Ngài vốn giải đãi, ưa sống trong cảnh bơ thờ và chẳng chịu lâp công tu phước. Hồi nhỏ, ngài đã có học qua với nhiều thầy hay. Trong kho tàng của ngài chứa rất nhiều kinh xưa điển cổ của chư Tổ để lại. Và lúc nào cũng có các bậc cao tăng quây quần theo, thế mà ngài chỉ biết đọc qua loa mà thôi. Rồi ngài thác!

Thuở ấy có một bậc dị nhân, vừa là nhà sư huyền bí, vừa là nhà triết học thoát thân ra ngoài những lề lối thường. Vị này làm nhiều việc lãng mạn mà dân chúng ưa thêu dệt cho rườm rà.

Ngài tên là Dongpha Kunlegs. Ngài thường đi Ta Bà. Một lúc nọ, đến gần một con suối, gặp một thiếu nữ tới múc nước, không nói gì hết, ngài nhảy lại ôm đại thiếu nữ toan dục hãm. Thiếu nữ to lớn mạnh mẽ, còn ngài thì già. Cô chống cự một cách quyết liệt. Sau cùng thoát khỏi và chạy một mạch về nhà thuật lại cho mẹ nghe.

Bà mẹ ngẩn ngơ lạ lùng! Bạn trai tráng trong làng đều là thuần hậu nết na, không nghi cho ai được. Chỉ có kẻ xa lạ mới làm chuyện tồi bại đó thôi. Bà liền bảo con tả dạng người ấy.

Trong khi cô chỉ rõ từng chi tiết, bà mẹ suy nghĩ lắm. Bà nhớ rằng một lúc nọ bà đi hành hương, bà có gặp vị sư đắc đạo Dongpha Kunlegs. Theo lời con tả thì hẳn là Đại sư lãng mạn đó chứ không ai khác.

Bà suy xét lung lắm và nghĩ chắc có lý do gì đây. Lấy theo lẽ thường tình mà phán đoán hành vi của bậc tu hành đắc phép thần thông thì không được. Mấy vị sư thường gác mình ra ngoài lễ giáo thường lệ. Những hành vi của các ngài chiều theo những sơ tâm cao thượng mà bọn phàm phu không sao hiểu nổi.

Bà kêu con dạy: "Con ơi! Người mà con gặp đó là đại sư Dongpha Kunlegs. Việc ngài làm là phải. Vậy con hãy trở lại bờ suối, quỳ nơi chân ngài và thuận theo lệnh truyền của ngài. Thiếu nữ trở lại suối và thấy đạo sư đang ngồi nhập định trên một tảng đá. Cô quỳ lạy, xin tha lỗi vì lỡ đã chống cự là vì cô chưa biết ông. Cô thuận theo hầu hạ ông trong mọi việc sai khiến.

Đạo sư giương mắt và đáp:

- Con ôi! Hàng phụ nữ đâu có phải là sở thích của ta. Số là, ngài Đại Đức Lạt Ma ở chùa gần đây vừa mới tịch. Trọn đời ngài giải đãi biếng nhác, chẳng lo học hỏi, tu hành và bồi công tích đức. Ta thấy linh hồn ngài phưởng phất trong cõi âm và đang bị lôi cuốn vào những đường luân hồi đọa lạc. Vì lòng nhân, ta muốn cứu để ngài mang đặng lớp người. Nhưng ảnh hưởng nghiệp quả của ngài nặng trì, khiến cho con thoát khỏi tay ta. Trong khi con chạy về làng thì con lừa dực và con lừa cái mà con thấy trong đồng cỏ kia đó, chúng nó vừa giao cuộc sanh dục. Ngài Đại Đức Lạt Ma bèn chun vào hàm thai của con lừa cái rồi. Đây rồi ngài sẽ sanh ra mang lốt lừa. Thương thay! Song làm sao? Khó cưỡng lại sức nghiệp quả đã nuôi.

Nói xong, vị Sư nhắm mắt lại và nhập định. (Theo sự trông thấy của bà David Neal khi bà sang Tây Tạng để tu học).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

12. SANG MIẾN ĐIỆN (Trên đường hoằng hóa):

Ngài Hư Vân sáu mươi sáu tuổi:

Màu Xuân, Bảo Lâm Lão hòa thượng chùa Thạch Chung mời Sư sang truyền giới. Người đến cầu giới có tám trăm. Khi làm Phật sự ở đó xong, Sư liền đi Nam Dương hoằng hóa.

Đi đến phía Nam Miến Điện, Sư nói kinh A Di Đà ở chùa Thái Bình, người xin quy y có đến mấy trăm.

Kế tiếp, Sư theo đến Thiên Nhai Man, vượt qua Dã Nhân Sơn đến đất Tân Nhai và Ngõa Thành. Sư bị nhiễm độc sơn lam chướng khí, đêm ngày phát nóng. Tuy nhiên, cố gượng lê thân đến chùa Quán Âm, đất Liêu Đông. Vị tăng trụ trì chùa nay là người Trung Quốc, tên Định Như.

Sư làm lễ, ông không để ý gì đến, Sư bèn xuống dưới điện ngồi tĩnh tọa.

Đến chiều, ở khóa tụng, Sư giúp ông đánh chuông trống.

Sau khi đọc kinh sám hối xong, ông nói lên ba tiếng: "Giết! Giết! Giết!" rồi lạy ba lạy.

Sáng hôm sau, lên chánh điện, sau khóa tụng ông cũng nói lên như thế.

Hư Vân lấy làm lạ về cử chỉ này, nên cố ý ở lại chùa xem xét rõ nguyên do. Mỗi ngày, sáng, trưa, chiều, tối, lúc dùng cơm, ông ta ăn lộn xộn nào hành, tỏi, nào sửa bò. Sư thì tuyệt đối không mó đến, cũng không nói gì, chỉ uống nước thôi. Thấy thế, mấy bữa độ phạn sau, ông không để hành tỏi, sữa vào chén cơm. Bây giờ Sư mới ăn.

Đến ngày thứ bảy, tự nhiên ông mời Sư uống trà.

Sư bèn hỏi nguyên cớ gì ông lạy và nói ba tiếng: "Giết! Giết! Giết!"

Ông bảo: "Đấy là tôi bảo giết quỷ đấy".

Có như thế vì ông là người nguyên quán đất Bảo Khánh, cha ở Vân Nam làm quan võ rồi chết. Ông bèn xuất gia ở chùa Phổ Đà thuyết pháp. Về sau theo ngài Trúc Thiên hòa thượng trên mười năm ở Hương Cảng, rồi Tân Gia Ba. Lúc ở trên tàu, ông bị người Tây phương ngược đãi và hành hạ lắm điều, chịu không nổi, nên trọn đời căm thù, oán giận bọn người bạch quỷ này.

Hiện nay ở đây ông bán tranh vẽ của ông, và tranh của ông được nhiều người hâm mộ, nên lương thực của ông ở chùa không thiếu.

Ông lại không ngại tâm tình với Hư Vân: "Gần mười năm trở lại đây, các vị tăng đã đi qua đất này thường làm bộ tịch kiểu cách này khác, rất kỳ quặc, cổ quái, ít có người đức hạnh như ông đây. Do đó, tôi không ngại nói sự thực để ông rõ".

Sư khuyên ông: "Lấy ân báo oán! Xét ân oán bình đẳng!" Nhưng ông vẫn chưa nguôi cơn giận.

Bệnh của Hư Vân thuyên giảm lần. Ông xin cáo từ. Ông cố giữ Sư lại. Sư cho ông biết mục đích của Sư đi đây là mộ hóa để trung tu và củng cố lại các chùa và lập lại quy củ tu hành ở Kê Túc Sơn. Ông tặng Sư lộ phí, lương thực và đánh điện tín đến Ngưỡng Quang dặn dò ông Cao Văn Bang cư sĩ ra tận bến xe đón Sư.

Tới Ngưỡng Quang, Sư được ngài Tánh Nguyên Giám viện chùa Long Hoa và trọn gia đình Cao cư sĩ đến đón rước về tư thất Cao cư sĩ tiếp đãi rất ân cần.

Cao cư sĩ cho biết mười năm qua, không lúc nào Lão hòa thượng Diệu Liên không nghĩ nhớ đến Hư Vân. Tin tức vắng bặt. Nay nghe tin Hư Vân dến thì người rất vui. Nhưng lại phải về Trung Quốc để sửa chữa chùa Qui Sơn ở Ninh Đức nên Hòa thượng không đến gặp nhau được.

Mấy ngày liền, Cao cư sĩ đưa Sư đi viếng chùa Đạo Kim Tháp và tham quan các thắng cảnh ở đây. Sau đó Sư cáo từ đi ngay, gắp rút đến gặp ngài Diệu Liên hòa thượng vì e người đi Trung Quốc mất.

Cao cư sĩ liền đánh điện tín tới đảo Tân Long để báo cho chùa Cực Lạc biết để đón Sư.

Khi thuyền đến bến, vì trong thuyền có người chết vì bệnh dịch, nên toàn thể hành khách bị đưa lên núi xa để khám nghiệm. Hơn một ngàn người đi lên núi. Chỗ ở không đủ chứa, ngày nắng đêm mưa, thật là khổ sở. Thêm nỗi ăn uống rất cơ cực, mỗi ngày mỗi người chỉ được lãnh một chén gạo nhỏ, một củ cải và tự nấu lấy mà ăn. Thầy thuốc đến khám bệnh mỗi ngày hai lần. Sau bảy ngày, phân nửa số được ra khỏi trại. Mười hôm sau tất cả đều được ra, trừ Hư Vân.

Lòng Sư rất nóng nảy, bồn chồn. Rồi bệnh lại dồn dập. Đến ngày thứ mười tám thì Sư vẫn mê man, không ăn uống gì cả. Khi chợt tỉnh thì thấy mình nằm trong một căn nhà yên tĩnh, sạch sẽ và thoáng mát, không có một ai cùng ở. Sư mừng thầm.

Trong đám người canh gác, có một ông lão gốc ở Tuyên Châu. Ông lão buồn rầu bảo Sư:

- Đây là phòng dành cho người sắp chết. Nay Sư được đưa đến đây, tôi lấy làm e ngại cho Sư lắm lắm.

Hư Vân bèn đem việc mình muốn đến chùa Cực Lạc ra nói.

Ông lão bảo:

- Vậy để tôi đi bốc thuốc cho Sư uống.

Hai lần uống thuốc của ông lão mang cho, Sư thấy trong người đỡ nhiều.

Ông lão lại căn dặn:

- Lúc nào bác sĩ tới, tôi sẽ giả ho báo hiệu thì Hòa thượng ngồi dậy chấn chỉnh tinh thần hẳn hòi. Nếu ông ta có đem thuốc cho ông uống thì nhứt quyết ông không nên uống nhé.

Một chập sau, bác sĩ tới hỏi, Hư Vân làm đúng như lời ông lão dặn.

Bác sĩ mở một chai thuốc và cố ép Sư uống. Không cưỡng được, Hư Vân phải uống. Khi bác sĩ đi rồi, ông lão đến. Hay việc tôi đã uống thuốc, ông lão bắt đầu bứt cổ la:

- Chết rồi! Chết rồi! Hòa thượng khó mà sống nổi. Nay việc đã lỡ rồi, vậy để tôi kiếm thuốc khác cho Hòa thượng uống. Nguyện cầu đức Phật từ bi gia hộ cho Hòa thượng.

Sáng hôm sau, ông lão đến thật sớm. Thấy Sư đang ngồi dưới đất, đôi mắt mờ mệt, không trông thấy gì hết. Ông lão lật đật đỡ Hòa thượng dầy thì ra Hòa thượng đã thổ huyết mãn địa. Ông lão liền cho Sư uống thuốc của ông mang đến, gấp rút thay quần áo cho Sư và rửa ráy lau chùi sạch sẽ nền gạch. Ông lão lầm nhẫm bảo: "Chính thuốc của bác sĩ đã gây nên nỗi này, Phật hiển linh thật, không thì Hòa thượng đã chết mất".

Rồi ông lão căn dặn Sư: Đến chín giờ hễ thấy thầy thuốc đến, tôi ho lên, thì Hòa thượng cố gắng tỉnh táo, xốc mạnh tinh thần lên.

Sư làm đúng như lời, khi bác sĩ đến.

Bác sĩ nhìn Sư chỉ trỏ một hồi, cười nói ba hoa một hồi rồi bỏ đi ra.

Sư hỏi ông lão:

- Bác sĩ bảo gì?

- Nó cười ông chẳng đáng chết đó.

Nhìn ông lão, cảm động Sư nói:

- Khi tôi sang đây, Cao cư sĩ có biếu tôi chút ít tiền, xin ông giúp tôi đem dâng cho quan thầy để thả tôi ra.

Bèn trao cho ông lão bốn chục đồng, và riêng hai chục đồng nữa tặng ông để tạ ơn chiếu cố và săn sóc Sư.

Ông lão lắc đầu nói:

- Tôi không nhận tiền của Hòa thượng đâu. Thầy thuốc hôm nay là người Hồng Mao, khó nói chuyện lắm. Thầy thuốc trực ngày mai là người Cát Lãnh, tôi có thể nói chuyện điều đình được.

Tối hôm đó, ông già mừng rỡ đén cho Sư hay:

- Tôi đã cùng người Tây nói chuyện xong và đã biếu nó hai mươi bốn đồng. Còn dư lại bao nhiêu, Hòa thượng cất để ăm đi đường. Ngày mai, người ta có thể thả Hòa thượng đi vậy.

Sáng hôm sau, sau khi khám bệnh Sư lại, bác sĩ cho thuyền chở đưa Sư qua bờ sông bên kia. Tội nghiệp, ông lão theo đưa Sư và khi cặp bến, ông đỡ Sư lên bờ rồi từ giã. Sư liền thuê một chiếc xe nhỏ đưa mình đến Chùa Quảng Phước, chỗ ở của Diệu Liên hòa thượng (tức là sư phụ của Sư).

Ông Tri khách của chùa, thấy hình hài của Sư có dáng lạ lùng, nên không tiếp để cho Sư ngồi chờ hơn hai tiếng đồng hồ mà không hỏi han gì đến. Trước cảnh, Sư không cầm được giọt lệ buồn thương. Sư mừng là chẳng phải chết trong tay người khác nước, mà buồn cho ông Tổng Tri khách không biết trách nhiệm của mình.

Sau cùng, một lão tăng bước đến, Sư biết đó là Thủ tọa Giác Không. Ông nhìn Sư, Sư nhìn ông và thưa: "Đệ tử là Hư Vân đây!" Nói xong cúi xuống làm lễ. Lạy xong thì Sư nằm quỵ luôn không đứng lên nổi.

Lão tăng đỡ Sư lên và bảo:

- Cao cư sĩ đánh điện đã hai mươi ngày mà chẳng biết tin tức ông ra sao. Lão Hòa thượng cùng đại chúng rất nóng dạ. Ông làm sao đến nỗi này.

Bây giờ thì cả chùa lớn nhỏ đều chạy đến bu quanh Sư.

Diệu Liên Hòa thượng cũng đi tới và bảo:

- Ngày ngày ta trông tin của ông. Ta nghĩ ông đang mắc kẹt điều gì, hay lại gặp chuyện chẳng may chăng? Ta muốn trở về Phước Kiến sửa sang chùa Qui Sơn. Nghe ông sắp đến nên còn nán lại đây.

Sư thưa: "Đệ tử thật có tội". Bèn sơ lước thuật lại sự việc mình đã trải qua.

Lão nhân và mọi người vừa mừng vừa sợ, đồng chắp tay niệm Phật. Vị Thủ tọa khuyên Hư Vân nên uống thuốc thật mạnh. Hư Vân từ chối và tin rằng từ nay đã trở lại với cảnh già lam, thì tĩnh tọa ít lâu là khôi phục sức khỏe.

Từ đó, Sư lưu lại chùa này. Lão Hòa thượng thấy Sư mỗi lần tĩnh tọa đến mấy ngày thì bảo:

- Ở đất Nam Dương này trời nóng bức, không như ở Trung Quốc. Ngồi tĩnh tọa lâu ngày, e sắc thân sẽ bị hại. Ông ở lại đây, giảng cho hết bộ kinh Pháp Hoa để kết duyên. Còn ta trở về nước. Sau khi giảng xong kinh Pháp Hoa, ông không nên trở về Vân Nam mà phải chuyển lên chùa Cổ Sơn, ở đó tôi sẽ có việc cần nói với ông.

Thế là sau khi đưa Lão nhân lên tàu, Sư bắt đầu khai giảng kinh Pháp Hoa. Người đến quy y rất đông. Liền đó thành phố Mã Lục Giáp (ở Mã Lai) các vị hộ pháp lại mời Sư đế Thanh Vân Dình giảng kinh Dược Sư.

Tiếp đó đến Cát Long Pha (Kualumpur), các cư sĩ Diệp Phật Hựu, Hoàng Văn Pha mời Sư đến chùa Linh Sơn giảng kinh Lăng Già..

Ở các nơi này, sau khi giảng xong, số người quy y lên đến cả vạn.

Mùa Đông, tăng chúng Vân Nam đánh điện tín cho hay là chánh phủ trưng dụng chiếm hữu tất cả sẩn nghiệp của chùa. Đồng thời Sư Ký Thiền (tức Bát Chỉ Đầu Đà) cũng đánh điện ước hẹn cùng Sư trở về giàn xếp cứu vãn tình thế này.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

1. VỀ NƯỚC:

Hư Vân sáu mươi bảy tuổi (Năm Quang Tự 32): Triều đình Mãn Thanh ra lệnh bỏ khoa cử.

Mùa Xuân, Hư Vân xuống tàu từ Nam Dương về nước, trải qua Đài Loan và Nhật Bổn.

Sư ghé qua Đài Loan viếng chùa Linh Tuyền. Qua Nhật lưu lại một thời gian tham quan chùa chiền các nơi và có ý vận động một cuộc Liên Hiệp Trung Nhật Phật Tử, nhưng gặp lúc có chỗ dòm ngó ngấm ngầm nhau giữa hai nước, nên Hòa thượng ôm hoài bão trở về.

Sang đầu tháng Ba, Sư về Trung Quốc, đến Thượng Hải cùng với sư Ký Thiền, đến Bắc Kinh thỉnh nguyện về các ruộng đất của chùa. Ở Bắc Kinh hai Sư trụ trì chùa Hiền Lương, được các sư Pháp An, Đạo Hưng ở chùa Long Tuyền và sư Giác Quan ở chùa Quán Âm tiếp đãi.

Các thân vương Thiên Kỳ và các vị vương công đại thần trước kia theo hộ giá vua năm Canh Tý cũng biết Hư Vân đều đến thăm Sư và bàn tính giúp đỡ Sư các việc trong vấn đề đất cát nhà chùa này. Sự việc được tâu trình lên vua. Và không bao lâu có kết quả tốt đẹp. Nhà vua xuống chỉ ra lệnh các quan địa phương phải bảo hộ tất cả sản nghiệp của chùa, am Phật giáo, bất luận lớn nhỏ. Thế là từ đó, ngọn gió xâm chiếm đất nhà chùa im bặt.

Sư lại bàn cùng với các nhà Hộ pháp ở Bắc Kinh, mà phần đông là các vị thân vương, vương công quen biết là từ triều nhà Thanh khai quốc, ở địa phương tỉnh Vân Nam chưa được ban pháp cho Long Tạng Kinh. Nay xin nhờ lòng thành của các vị này giúp tâu xin vua ban cho tỉnh Vân Nam bộ kinh này để cho Phật pháp ban rải ân huệ tới những nơi xa xăm. Thế là, năm Quang Tự thứ 32, ngày rằm (15) tháng bảy năm 1906, nhà vua chấp thuận xuống chiếu.
  • - Nay tỉnh Vân Nam, núi Kê Túc, Bát Vu Phong, chùa Nghinh Tường được sắc phong là "Hộ Quốc Chúc Thánh Thiên Tự", ban cho Long Tạng (Tạng Kinh của triều đình), toàn bức xe loan. Lại ngự tứ một cà sa màu tía, một bình bát, một ngọc ấn và một tích trượng như ý, và đồng thời phong Hòa thượng Hư Vân hiệu "Phật Từ Hồng Pháp Đại Sư", vĩnh trấn Kê Túc Sơn, để hóa độ dân chúng.
Sau đó, một bức thư của sư phụ Diệu Liên Hòa thượng ở chùa Cổ Sơn gởi đến đặn Sư:

"Khi bắt đầu khởi rước Tạng Kinh thì trước hết đi tới Hạ Môn, rồi từ Nam Dương trở về Vân Nam. Tạng Kinh tạm thời để ở Hạ Môn, ông trở về găp chùa Cổ Sơn để gặp tôi, có chút việc muốn bàn".

Năm Sư sáu mươi tám tuổi (Năm Quang Tự thứ 33): Việc thỉnh kinh khởi hành theo lộ trình Bắc Kinh, Thượng Hải, Hạ Môn, rồi từ đó đưa xuống tàu thủy sang Nam Dương để lên Vân Nam.

Lần đem Tạng Kinh về phương Nam này, ở tại kinh đô, các vị hộ pháp giúp đỡ rất nhiều công của, đầy nhiệt tình tin tưởng và cảm mến.

Nhưng vừa tới Hạ Môn, Sư được tin báo Diệu Liên Lão hòa thượng viên tịch tại Qui Sơn. Cùng các Trưởng lão và tăng chúng ở Hạ Môn, Hư Vân cấp tốc về tham gia lễ trà tỳ tại chùa Cổ Sơn và lo việc xây tháp cũng lo đủ mọi nghi tiết đưa linh cốt người vào tháp. Ngày nhập tháp đưa vào mồng 10 tháng 4.

Trước ngày nhập tháp, mưa dầm dề suốt nửa tháng. Mọi người đều lo lắng. Nhưng đến ngày mồng tám, khi truyền Bồ tát giới xong thì trời bắt đầu tạnh và nắng lại. Các quan chức, thân hào, tín đồ, dân chúng đến rất đông, nối đuôi nhau trên các nẻo đường.

Khi lễ chánh thức nhập tháp, có cả một trăm bàn đồ chay cúng trước sân chùa. Đại chúng tụng kinh vừa xong, đến lúc niệm biến thực chân ngôn thì một trận gió lốc cuốn các đồ cúng tế bay lượn ở trên không quay mòng. Riêng ở dỉnh linh kham của ngài Diệu Liên một làn ánh sáng xông thẳng lên đầu tháp. Toàn chúng tăng tục đều tán thán.

Khi làm lễ xong trở về chùa, mưa lại đổ xuống dầm dề.

Linh cốt của Diệu Liên hòa thượng đưa chia ra làm hai phần: một nửa nhập tháp, một nửa đem về Nam Dương để thờ tại chùa Cực Lạc. Hư Vân phụng thỉnh phần thứ hai này trở về Hạ Môn, rồi xuống tàu thủy đem về Tân Lang (Penang) một lượt với Tạng Kinh.

Tại đây cả ngàn tăng chúng chùa Quán Âm ra nghinh đón. Niệm kinh xong và đến lúc tụng bài chú biến thực, thì lạ thay, một lần nữa gió lốc nổi lên cuốn tất cả bông hoa chưng cúng lên trên không rồi tỏa rơi xuống, y như một cuộc tán hoa. Rồi cũng một lần nữa, từ chót linh kham (chỗ để linh cốt) một đạo hào quang xẹt ra, nối liền với đầu ngọn tháp, cách đó đến hai dặm đường.

Về hai điềm lạ xảy ra ở đây và ở Cổ Sơn nói trên, Sư Hư Vân ghi lại như sau:

"Mọi việc xảy ra chính trong lúc thân tay tôi làm, mắt tôi thấy, tai tôi nghe".

Phật có nói: "Mật hành nan tư nghì" (Kết quả của sự tu hành trong chỗ âm thầm, không nghĩ bàn được).

Về sự tu hành bình sanh của Diệu Liên hòa thượng thì chưa từng được biết, Hòa thượng cũng chưa bao giờ chủ trương việc tu trì theo Thiền hay theo Tịnh, mà chỉ kiên cố ở nơi tự viện, lấy việc tiếp chúng kết duyên làm nhiệm vụ, thế mà đến ngày cùng, lại có những điểm lạ lùng như thế này.

Tôi từ khi xuống tóc đến nay, trôi dạt bốn phương chưa hề được hầu Hòa thượng lâu ngày, lại thêm đã mười năm không tin tức gì của Hòa thượng cả, quả đã phụ ân sâu của Thầy quá nhiều. Nhưng cũng may là đến lúc tối hậu nhân duyên, tôi lại liệu lý được quan quách, tháp vũ, phân chia linh cốt. Nhớ lại mấy lời dặn dò của Hòa thượng (Xem lại đoạn trên về bức thư của ngài Diệu Liên dặ dò Hư Vân "khi đưa Tạng kinh, tạm để ở Hạ Môn, gắp trở về chùa Cổ Sơn, để có chút việc cần bàn"), tôi thấy tựa hồ như mỗi việc Hòa thượng đều biết trước hết.

Lấy cái ngu của tôi mà dò lóng cũng không thể được, tôi xin ghi lại đây những sự thật, đợi tương lai sẽ chứng.

2. LẠI SANG XIÊM:

Từ Tân Lang (Penang) Hư Vân phụng Tạng Kinh xuống thuyền sang Đơn Na(?), và lưu lại đây mấy hôm giảng Tạng Kinh, theo lời mời của chùa Quán Âm Đình, rồi sang tàu đi Xiêm.

Trên tàu này, không có rau cải gì hết cũng không có thức ăn chay nên trọn ngày Sư nhịn đói, ngồi kiết già nhập định. Chợt người Anh, qua lại chỗ Sư ngồi, để ý hỏi:

- Hòa thượng là người ở đâu? Có thể nói tiếng Trung Hoa được không?

Biết ông này nói và hiểu được tiếng Tàu, Sư đáp:

- Tôi ở chùa Nghinh Thường, núi Kê Túc.

- Thế à! Chùa này tốt lắm, rất có quy củ.

- Vậy là ngài đã từng đến đó? Và đến để làm gì?

- Tôi là Lãnh Sự Anh ở Côn Minh, cho nên lâu lâu có đến thăm chùa.

Vị Lãnh sự bèn hỏi thăm Sư xuất ngoại có việc gì?

Hư Vân cho biết đang thỉnh kinh về Vân Nam, nhưng vì lộ phí khiếm khuyết, nên ghé Tân Lang hóa duyên.

- Hòa thượng có công văn về vấn đề đó không?

Sư đưa cho ông xem giấy tờ, luôn cả số hóa duyên. Xem xong ông ghi tên và tặng một số tiền ba ngàn đồng.

Đúng là một chuyện lạ bất ngờ.

Ông Lãnh Sự liền mời Sư ăn cơm rang chay. Rồi cùng chuyến tàu ấy, ông ấy và chúng tôi đến Xiêm La. Khi lên bờ mới chia tay.

Đếm Xiêm La, Hư Vân ở chùa Long Truyền khai giảng kinh Đại Tạng. Ông Lãnh Sự này đến chùa thăm Sư và tặng cho Sư một tấm chi phiếu (chèque) ba ngàn đồng. Rồi kiếu từ.

(Phải biết: Sau khi về Vân Nam, tôi sẽ có bao nhiêu công việc xây sửa chùa, phòng ốc, kiến thiết Điện để Tạng Kinh, phải dùng một số tiền rất lớn. Nếu không có những nhà hảo tâm hộ pháp như thế này, thì làm sao? Chuyến đi này đem lại kết quả rất tốt vậy).

Sau khi giảng xong kinh Địa Tạng, Sư liền giảng tiếp kinh Phổ Môn. Người đến nghe rất đông.

Một hôm, đang ngồi giảng kinh, Sư nhập định lúc nào không hay, quên cả giảng kinh và nhập định như vậy luôn suốt chín ngày, làm cho toàn kinh đô chấn động.

Quốc vương, đại thần, thiện nam, tín nữ đều đến lễ bái.

Khi xuất định, Sư giảng tiếp Phổ Môn xong, và sau đó được nhà vua mời vào cung tụng kinh và thọ lễ cúng dường rất hậu. Sư làm lễ quy y cho trong cung vua, sĩ thứ có ngàn người.

Lần này, sau khi xuất Thiền và liên tiếp nói kinh, Sư lâm bệnh, trước hết hai chân phát chứng tê bại, kế đó toàn thân không cử động được, thậm chí ăn uống cũng phải có người đút cho. Các nhà hộ pháp rước cả lương y Trung, Tây chăm cứu, chữa trị, đầy đủ thuốc men, rất tận tình, nhưng vô hiệu.

Bệnh càng nặng, miệng không nói được, mắt mờ không còn trông thấy gì cả.

Lương y đều bó tay. Tuy thế Sư không thấy đau đớn khổ sở gì cả. Tâm cũng vẫn như ở... vẫn yên lặng, mát mẻ như thường. Thật là lạ! Hết thảy mọi sự việc Sư đều buông xả. Có một điều làm cho Sư ngại là tấm chi phiếu ba ngàn đồng còn để trong túi áo mà không ai hay biết. Mà nay nói cũng không được, viết cũng không được, nếu vạn nhất hóa thân, bị thiêu mất thì Tạng Kinh ắt không về đến Vân Nam. Điện các ở Kê Túc Sơn cũng không mong gì được trùng tu.

Nghĩ đến đó, Sư chảy nước mắt chan hòa và thầm nguyện Ca Diếp tôn giả gia hộ.

Lúc ấy có Sư Diệu Viên là vị Sư trước kia cùng chung ở với Sư tại núi Chung Nam, thấy miệng Sư mấp máy liền dến áp tai vào miệng để nghe. Nhưng không nhận ra một tiếng nào cả. Nhưng tự nhiên Sư bảo đi lấy nước trà cúng ngài Ca Diếp, cho Sư uống trà ấy. Uống xong, Sư thấy trong lòng mát mẻ hơn. Một chập sau, Sư ngủ ngay, và thấy một vị lão tăng, dáng mạo giống như pho tượng Ca Diếp ngồi trên bàn thờ, dùng tay vò đầu Sư và nói:

- Tỳ kheo ơi! Phàm là kẻ xuất gia thì y bát chớ lìa thân. Ông không nên lo gì cả. Cứ lấy y bát làm gồi là lành bệnh ngay.

Nghe xong, Sư tự nhiên vói tay lấy y bát gối đầu, và vị lão tăng biến đâu mất... Ngay lúc ấy, toàn thân toát mồ hôi. Sư thấy thơi thới nhẹ nhàng không sao tả được. Và nói được chút ít.

Sư liền nhờ Diệu Viên đến trước bàn thờ Tổ Hoa Đà cầu xin phương thuốc trị bệnh. Ngài ứng chỉ cho hai vị là: Tùng thiết (mắt cây thông) và dạ minh sa (phẩn con dơi) đem sao vàng sắc uống.

Lạ thay! Chỉ uống xong hai vị ấy là đôi mắt tỏ lại, miệng nói như thường.

Lại một phen cầu nữa. Phen này, Tổ không cho thuốc mà dạy lấy đậu đỏ (thứ nhỏ hột = xích tiểu đậu) nấu cháo mà ăn. Ăn như thế hai ngày, bệnh lui đi nhiều. Lại tái cầu, ngài cũng bảo xích tiểu đậu.

Thế là từ lúc đó Hư Vân ăn đậu làm cơm và đường tiểu, đại tiêu đều thông, xổ ra phẩn hôi tanh, đen như mực. Lần lần hết đau nhức, ngứa ngáy và dậy đi được. Tính ra Sư đau suốt hai mươi hôm.

Sư bèn lên điện lại tạ đức Ca Diếp, ngài Hoa Đà và nguyện khi trọn xong cảnh Già lam ở Kê Túc Sơn sẽ lập linh vị để thờ cúng.

Sau khi lành bệnh, Sư tiếp tục giảng Khởi Tín Luận.

Khi giảng xong có hai Sư Thiện Khâm và Bảo Nguyệt từ chùa Cực Lạc ở Tân Lang (Penang) đến thỉnh.

Hay tin, cung nội, chư vương, đại thần, hộ pháp, cư sĩ tín đồ đến tống hành rất nhiều tặng vật và một số tiền khá to. Ngoài ra Xiêm Hoàng lại tặng cho Sư ba trăm mẫu đất ở Động Lý mà Sư tặng lại cho chùa Cực Lạc giao cho Sư Thiện Khách hòa thượng ở địa phương này dựng nên xưởng cao su.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hư Vân sáu mươi chín tuổi (năm Quang Tự thứ 34, Mậu Thân): Sư vào đất Tuyết Lan Nga, ở Quán Âm Các rồi đi tham quan các nơi đất Di Bản, Đại Tiêu, Tích Lịch... và về chùa Cực Lạc giảng Khơi Tín Luận, Hạnh Nguyện Phẩm. Người đến quy y rất đông.

Hư Vân bảy mươi tuổi tuổi (Tuyên Thống năm đầu, Kỷ Dậu): Hư Vân hòa thượng thỉnh kinh từ Tân Lang sang Ngưỡng Quang (Pangane - Miến Điện).

Con cư sĩ Cao Văn Bang và rất nhiều thiện tín ra đón rước Sư về tư thất Cao cư sĩ ở hơn một tháng. Sau đó, Cao cư sĩ thân hành đưa Sư cùng Tạng Kinh đến Ngõa Thành. Tại đây, Cao xư sĩ cúng một pho tượng Phật nằm bằng ngọc.

Khi đến Tân Nhai, Hư Vân vào trú đình Quán Âm. Từ đó phải mướn ngựa kéo về đến Kê Túc Sơn. Đồ đạc quá nhiều, phải chia ra vào thùng và dùng đến ba trăm con ngựa chở. Riêng pho tượng bằng ngọc quá nặng, ngựa không chở xuể, mướn người khiêng cũng không được nên đành tạm gởi ở Quán Âm đình, mãi đến năm sau mới chuyển về chùa được. Cao cư sĩ lưu tại đậy suốt bốn mươi ngày lo liệu công của cực nhọc, thật đáng khen kính.

Người và ngựa đi đến cả tuần. Trải qua các trấn Đằng Việt, Hạ Quan, mỗi nơi đều được dân chúng địa phương nghinh tiếp tận tình giúp đỡ nên suốt mấy chục ngày đi đường, người và ngựa đều được bình yên.

Riêng từ Đại An đến Đại Lý, phải gặp một cơn giông lớn, sấm sét, mây giăng đầy trời, nước sông Nhĩ Hà dâng lên cao, sóng nổi ba đào, nhưng không mưa, phong cảnh biến đổi. Khi đã đến chùa qui định, Sư tăng làm lễ rước Kinh xong thì trời đổ mưa xuống ào ào đến ngày hôm sau mới tạnh.

Ai cũng tán thán Phật pháp vô biên và đồng bảo: "Lão tăng già sông K... đến đó tiếp Tạng Kinh đó vậy".

Lúc đó Tổng đốc tỉnh Vân Nam Quý Châu là Lý Kinh My phụng chỉ dẫn dắt quan chức thân hành đến nghinh đón Tạng Kinh, đã tận tai mắt chứng kiến việc này.

Ở phủ Đại Lý nghỉ ngơi mười hôm, rồi đoàn phụng kinh tiếp tục hành trình qua Hạ Quan, Triều Châu, sang huyện Tân Xuyên rồi thẳng đến chùa Chủ Khánh.

Suốt cuộc hành trình, nhất lộ bình an, trời quang mây tạnh, không một hạt mưa nào làm ướt các hòm chứa kinh.

Tạng Kinh đến chùa đúng vào ngày ba mươi tháng Chạp, ngày hội dâng hương Phật, muôn vạn công chúng, tín đồ vui mừng, cho là việc xưa nay chưa từng có.

Việc thỉnh kinh, đưa kinh đến đây là hoàn tất viên mãn.
  • Phụ ký:
Trong dịp này, lúc đi ngang Đằng Việt, có một việc lạ nên ghi:

Khi ngụ ở chùa Vạn Thọ, Hư Vân đang cùng ngồi nói chuyện với quan Đề Đốc Trương Tòng Lâm, bỗng có một con bò từ ngoài chạy vào, đến cửa phòng khách quỳ xuống, đôi mắt rơi lụy. Phía sau nó, có chủ nó là Dương Thắng Xương và một đám đông người đuổi theo. Anh họ Dương ở đây là tay chuyên nghề đập đầu bò bán thịt.

Hư Vân nhìn Bò bảo:

- Ngươi muốn khỏi chết, nên quy y Tam Bảo.

Dường như hiểu biết, bò gật đầu. Hòa thượng liền thuyết tam quy rồi, dạy nó đứng lên. Bò hiền lành nghe lời đứng lên như người ta. Sư day qua thương lượng với chủ và lấy tiền mua mạng cho bò. Nhưng anh họ Dương không nhận mà rất cảm động trước cảnh tượng ấy. Anh sụp xuống lạy Hòa thượng, thề quyết không làm nghề sát sanh này nữa và xin Sư được quy y phát nguyện trường chay từ đây. Trương Đề Đốc xúc cảm chứng kiến cảnh này, liên thu nhận anh Dương về phục vụ ở phủ.

Hòa thượng Hư Vân bảy mươi mốt tuổi (1910): Sau khi ba việc lớn làm xong, vâng hành viên mãn chỉ thị nhà vua, giữ gìn trọn vẹn sản nghiệp của chùa chiền, Tạng Kinh được đưa về chùa tỉnh Vân Nam, lúc bấy giờ lòng Hòa thượng mới được rảnh rang, thanh thản và toàn thể tăng già mới được yên vui.

Quan Đô Đốc tỉnh Vân Nam lúc ấy là Nguyên Súy họ Lý cho người đến chùa vấn an và thăm hỏi, đồng thời cũng cho người trong gia quyến đến quy y, cúng dường.

Sau đó, Hòa thượng thỉnh Sư Giới Trần đi khắp nơi, khuyên nhủ các vị tăng chúng khắp các chùa nên tuân giới luật và đề xướng cách thức thực hiện giáo dục thanh niên, trừ bỏ những tập quán hư lậu.

Hòa thượng gây cho Kê Túc Sơn nền đạo phong khiến huyện Trương Tân Xương phải kính nể, Hòa thượng cũng thương nghị với quan huyện xin phóng thích các tăng bị phạm lỗi và thỉnh khinh tội.

Lần tay tính lại, Hòa thượng thấy thời gian đi qua mau! Năm mươi đã trôi năm qua! Xúc cảm, Sư làm ba bài thơ. Xin ghi lại vài câu trong số:
  • Chỉ sử nhất sanh thanh bạch nghiệp
    Cánh vô dư sự ký tâm điền.
    (Chỉ có một nghiệp trong trắng một đời này
    Mà không còn gì ghi nhớ ở ruộng tâm
    ).

    Cửu kỷ hồn vong trần thế sự
    Mạc tương dư tập đáo vân biên.
    (Lâu rồi, quên hết việc trần thế
    Chớ đem những thói quen còn sót lại đến bên mây
    ).
BẮT ĐẦU MỘT GIAI ĐOẠN MỚI: Buổi giao thời giữa hai nền Quân Chủ và Dân Quốc rồi Xã Hội Chủ Nghĩa.

Hòa thượng Hư Vân bảy mươi hai tuổi (Năm Tuyên Thống thứ ba, 1911): Một cuộc hòa giải êm thắm.

Sau khi đưa Tạng Kinh về Vân Nam, Hư Vận hòa thượng lo việc hoằng pháp lợi sinh. Tăng chúng các nơi đều theo quy củ của nhà chùa tu hành. Tín đồ Phật tử đều yên lành, làm ăn sinh sống.

Mùa Xuân năm nay, sau khi truyền giới, Hư Vân kết Thiền mười chín ngày. Kế đó đề xướng việc tọa hương, Kiết Hạ an cư và mọi pháp thức khác.

Đến tháng chín, Cách Mạng nổi lên ở thành phố Vũ Hán do Tôn Văn lãnh đạo, rồi lan tràn đến tỉnh Vân Nam. Đại loạn bùng lên, thành Tân Xuyên bị bao vây. Tình hình hết sức rắc rối, chết sống trong nháy mắt.

Lúc bấy giờ, viên Tri Huyện Tân Xuyên họ Trương người tỉnh Trường Sa có tài, nhưng tánh rất hung hăng. Khi ấy huyện Tân Xuyên rất nhiều trộm cướp. Huyện quan thẳng tay trừng trị, lính bắt gắt gao, giết chóc rất nhiều. Nhưng biện pháp càng cứng rắn, càng hung bạo, thì thế lực của cướp càng mở rộng, càng đoàn kết thành đảng hội rất nguy hiểm. Các nho sĩ, thân hào muốn được yên ổn giữ gìn gia sản, có lúc cũng lén lút nộp tiền cho cướp và cũng được ghi tên vào sổ đảng hội, để tránh bị bọn này làm khó dễ. Biết được, Huyện quan bắt ngay, không chút thương tình trị tội rất nặng.

Những vị tăng ở Kê Túc Sơn không giữ chánh pháp cũng bị Huyện bắt giam hàng chục vị. Riêng đối với Hư Vân thì Tri Huyện rất kính trọng.

Cách Mạng Tân Hợi bùng nổ, huyện Tân Xuyên hưởng ứng trước tiên, xếp thành bầy lũ tấn công rất mãnh liệt huyện thự. Trương Tri Huyện phòng thủ rất kiên cố. Nhưng không có ngoại viện bên ngoài, Huyện quan tự nghĩ: "Trước sau gì rồi cũng bị chết mà thôi".

Trước tình thế, Hư Vân xuống núi di ngay đến Huyện. Những người bao vây huyện thấy ngài đến thì xúm quanh đón tiếp, mừng rỡ và bạch:

- Tri Huyện họ Trương hết sức hung ác. Yêu cầu Hòa thượng dụ cho nó ra để chúng tôi hạ sát cho rồi hầu thỏa mãn sự phẩn nộ của mọi người.

Sư không trả lời. Khi gặp được người chỉ huy bọn này, ngài đưa ý kiến: "Giết Tri Huyện họ Trương không phải là việc khó. Nhưng, những lời đồn đãi và tin tức chưa có gì xác đáng, mà mình giết ông ta đi và nếu lại có một đạo binh của chánh phủ đến cứu viện. Tôi e các ông khó liệu sức mình còn đủ chống không? Lúc bấy giờ cảnh hổn loạn và chết chóc sẽ nặng nề thêm.

Người chỉ huy thưa:

- Nếu vậy thì phải làm sao bây giờ?

Hòa thượng nói:

- Theo ý tôi, với tuổi già này tôi nghe nói phủ Đại Lý chỉ cách đây có hai ngày đường, quan Bố Chánh tỉnh Tứ Xuyên hồi trước là ông họ Vương vâng mệnh đến trấn ở đó. Chúng ta nên tới đó tố cáo tên Tri huyện này, thì họ Trương sẽ chết vì pháp luật mà chúng ta cũng phủi tay, không có gì liên quan trong vấn đề.

Viên chỉ huy không nghe, cứ giữ thế đóng binh bao vây Huyện.

Bấy giờ Hư Vân đi ngay vào Huyện, thấy Tri huyện cầm súng đi ra, sắp sửa đối phó với địch bên ngoài. Thấy ngài Hư Vân đi vào, ông liền nắm tay nói:

- Tôi nay đi làm nghĩa vụ, sẽ đem hài cốt này làm lụy đến ngài. Xin ngài vì tôi, cho tôi một nắm mồ ở núi Kê Túc, bên cạnh chùa là đủ.

Sư đáp:

- Tri Huyện không nên nói thế. Chuyện chưa đến mức nào. Tôi nghe biết ở đây có một vị thân sĩ là Trương Tỉnh Hiền được nhiều người kính trọng. Ông nên mời người ấy đến đây để hòa giải đôi bên.

Khi ông Tỉnh Hiền đến. Cuộc hòa giải bắt đầu và thành công mỹ mãn.

Đám người vậy Huyện rút đi, Ông Tỉnh Hiền cũng đi ngay đến phủ Đại lý để gặp ông quan họ Vương thì ông này cũng vừa kéo quân ra khỏi chốn này.

Lúc bấy giờ huyện Tân Xuyên được giải tỏa và Trương Tri huyện cũng ra khỏi chốn này.

Tỉnh Vân Nam tuyên bố độc lập.

Ông Thái Ngạc lên làm Đô Đốc tỉnh Vân Nam, con trai Trương Tri huyện làm Trưởng Ty Phòng Ngoại Giao, vì ông ta là bọn đồng song cùng Thái Ngạc.

An ninh được lập lại ở đây. Mọi người đều thở nhẹ, yên ổn!

Trương Tri huyện viết thơ cho Hòa thượng có đoạn: "Chẳng những cứu mạng sống cho tôi, ngài lại tạo được cái phúc cho toàn huyện Tân Xuyên này. Nếu không thế thì cái thù giết cha, con tôi làm thế nào mà không báo? Như thế oán thù sẽ kéo mãi không thôi!"

Lại hai cuộc hòa giải nữa khá gay go:

(1) Sau khi Dân Quốc thành lập, đức Phật sống vua xứ Tây Tạng (Tibet) ỷ thế nước mình xa xôi hiểm trở, nên chẳng chịu thay đổi quốc kỳ, hàng phục Trung Quốc.

(2) Chánh Phủ Trung Ương thay đổi chánh quyền tỉnh Vân Nam đem binh hai sư đoàn để đánh Tây Tạng, cử ông Ưng Thúc Hoàn làm Tổng Tư Lệnh. Đội quân tiền phong đã tới huyện Tân Xuyên.

Ngài Hư Vân cho rằng: Nếu cuộc chiến tranh ở biên giới này xảy ra thì tai họa cho toàn vùng không biết bao giờ mới chấm dứt. Bèn thân đến gặp tướng chỉ huy quân đội tiền phong này cùng hiệp nhau đến phủ Đại Lý để bàn bạc lại với quan Tư Lệnh họ Ưng.

Ngài Hư Vân đề nghị: Người Tây Tạng vốn tin tưởng Phật pháp, nay ta nên cho một người đại diện thông thạo hoạt bát về Phật pháp đến du thuyết, ắt có thể khỏi phải vất vả nguy hiểm về binh đao khí giới.

Hòa thượng đáp:

- Tôi là người Trung Quốc, e đi không công hiệu lắm đâu. Nay xin đề cử một nhân vật ở đất Lê Xuyên, là đức Lạt Ma Đông Bảo, tuổi cao và đức hạnh thâm dầy mà người Tây Tạng rất kính vì. Ông này đã được phong chức Tứ Bảo Pháp Vương. Nếu ông ấy chịu nhận lời và đi, thì việc ắt thành.

Thế là quan Tư Lệnh họ Ưng viết ngay văn thư phái người cùng Hư Vân đến yết kiến Lạt Ma Đông Bảo.

Ban đầu, ngài Đông Bảo lấy cớ già yếu, khước từ.

Ngài Hư Vân bảo:

- Cái tai họa gieo rắc của tướng Triệu Nhĩ Phong trước kia, ngài đã quên rồi sao?(1)

Cho đến nay, nhắc lại việc này, người Tây Tạng còn phải run sợ trước cảnh chết hàng muôn ngàn và tài sản bị tàn phá vô kể. Ông nay lại tiếc ba tấc lưỡi mà để nước lâm nguy nữa ư!

Đông Bảo liền đứng lên cầm tay Hư Vân và nói cương quyết:

- Tôi xin đi! Tôi xin đi! Nhận mệnh lệnh.

Đông Bảo đem thêm một nhà sư già làm phó sứ vào đất Tây Tạng thương thuyết và lập xong điều ước trở về.

Tỉnh Vân Nam liền bãi binh.

Cuộc diện Dân Quốc thành thống nhất.

CHÚ THÍCH:

(1) Tướng Triệu Nhĩ Phong, đời nhà Thanh mang quân hỏi tội Tây Tạng về chỗ ương ngạnh không chịu cống sứ xưng thần, đã giết người Tây Tạng không biết cơ man nào.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Sau khi thỉnh và đưa Tạng Kinh về Vân Nam, ngài Hư Vân hết lòng cung kính và tinh tiến làm tròn Phật sự "Bố Hóa" (Bố thí pháp và hóa độ chúng sanh). Các quan viên sở tại, các cấp, các ngành, toàn thể dân chúng địa phương đều thấm nhuần ân đức hiền lành của ngài. Dù là hàng buôn gánh bán bưng, từ phụ nữ đến trẻ con... không ai là không biết ngài Hư Vân Lão hòa thượng.

Cách Mạng Tân Hợi 1911 thắng lợi. Vua nhà Thanh nhường ngôi, chính quyền dịa phương các tỉnh đuổi sư, phá hủy chùa chiền, chiếm đoạt tài sản. Phong trào làm rúng động khắp nước. Lúc bấy giờ người nắm quyền chỉ huy đạo quân cách mạng là quan Hiệp Thông Lý Căn Nguyên rất ghét sư sãi, vì xưa ông vẫn gặp toàn hạng sư tăng chẳng giữ giới luật, nên ông có thành kiến rất sâu đậm, không hay đối với Phật giáo.

Thế cho nên, khi đến địa phương (Kê Túc Sơn) chính ông sắp sửa thân hành đôn đốc quân sĩ đến các chùa lục soát và đuổi hết sư tăng. Nhưng ông còn phân vân suy nghĩ: "Hư Vân là một Hòa thượng già làm sao được lòng dân chúng như thế. Âu cũng có một việc lạ ở đó. Bèn xuống lệnh cho quân đội, phải bắt ngay Hư Vân hòa thượng.

Tai họa sắp đến không sao đo lường nổi.

Các sư tăng ở các chùa đều trốn chạy. Ngay hai trăm tăng ở chùa ngài Hư Vân cũng đều run sợ. Có kẻ khuyên ngài nên "dĩ đào vi thượng sách".

Nhưng ngài đáp:

- Các ông muốn đi thì cứ đi. Riêng tôi, nếu đúng giờ nghiệp báo đến, tránh đi cũng chẳng ích gì. Tôi đem thân tôi để chết theo pháp vậy.

Nghe thế, tăng chúng đều ở lại chùa hết, không một ai bỏ đi cả.

Ít lâu sau, quan Hiệp thống Lý Căn Nguyên quả nhiên đem quân vào núi, đóng binh ở chùa Tất Đàm, phá hủy hình tượng của ngài Kê Túc Đại vương nơi chùa Kim Định, đập nát luôn điện thờ Phật và điện chư Thiên.

Thấy việc gấp rút và nguy ngập đến nơi, ngài Hư Vân liền một mình thân hành xuống núi, đến trước quân môn, đưa danh thiếp xin vào yết kiến quan Tư Lệnh.

Lính gác và người giữ cửa đều biết ngài Hư Vân, cố khuyên ngài nên mau trốn đi vì tai họa sắp giáng xuống đầu ngài. Bọn họ cố khuyên ngài Hư Vân chạy trốn, một mặt thà chịu chết chớ không thông báo sự có mặt của ngài Hư Vân nơi đây. Nhưng Hòa thượng không đồng ý, không ngó ngàng gì lời khuyên của những binh sĩ tốt bụng này, mà cứ lầm lì xông đến đi thẳng vào dinh.

Thấy ông Lý Căn Nguyên và ông Thiện Phiên, là quan Bố Chánh tỉnh Tứ Xuyên trước đây, cùng ngồi nơi sảnh đường. Hư Vân bước tới làm lễ.

Ông Lý làm ngơ, không ngó ngàng gì đến khách, ông Triệu là chỗ quen biết xin đứng lên chào đón và bảo từ đâu đến, có việc gì.

Hư Vân liền tỏ bày cặn kẻ nguyên do. Lúc ấy ông Lý sắc mặt hầm hầm, hất hàm, hằn học hỏi:

- Phật giáo dùng để làm gì? Có ích gì cho nhân sinh?

Hòa thượng khiêm tốn chậm rãi đáp:

- Thánh nhân lập tôn giáo cốt là cứu đời, lợi sinh. Còn nói về cái gốc ban đầu của Phật giáo là làm lành lánh dữ. Từ xưa đến nay, chánh trị và tôn giáo đều thực hành song song với nhau.

Chánh trị thì tề dân. Tôn giáo dùng để hóa dân.

Phật giáo dạy người trị tâm. Tâm là nguồn gốc của vạn vật. Gốc một khi được chánh ngay thẳng thì muôn vật nhờ đó mà an định, thiên hạ nhờ đó mà thái bình
.

Ông Lý hơi nguôi, nhưng vẫn còn hằn học hỏi:

- Cần gì những pho tượng gỗ đất kia mà làm tổn phí tiền bạc của quần chúng đóng góp?

Hòa thượng ôn tồn đáp:

- Phật nói pháp tướng. Lấy tướng tượng trưng cho pháp. Nếu không lấy tướng để tiêu biểu cho pháp thì pháp không được mở mang. Tướng là để giúp cho người phát khởi lên lòng kính và sợ vậy thôi (Vì vậy không nên lấy tướng làm trọng).

Lòng người ta, nếu không kính sợ thì còn việc ác nào mà chẳng làm, và không có việc làm nào mà chẳng ác. Tai họa, rối loạn mà gây mãi mãi.

Tục ngữ có câu "Núi Ni đắp thánh. Đinh Lan chạm mộc" Cha me đức KHổng Tử lên Ni Sơn cầu đảo mà sanh ra ngài. Ông Đinh Lan, mẹ chết sớm quá thương nhớ nên lấy gỗ chạm hình để ra vào trông thấy và phụng thờ cúng quải.

Ở Trung Quốc ta, Từ đường của các Họ cũng như đồng tượng đá các nước phương Đông, phương Tây đều bất quá cũng chẳng qua là để làm cho tâm người ta có chỗ quy ngưỡng quay về và khởi niềm kính tôn. Công hiểu chẳng thể nghĩ bàn được.

Nói đến chỗ nguyên tắc cùng cực của các pho tượng này là khi có thấy được cái phi tướng của các tướng (tức là cái tướng không phải là tướng) thì đó mới là thấy Như Lai.

Nói đến đây, ông tướng họ Lý hiện ra sắc mặt vui vẻ, bèn gọi người hầu cận mang trà và các món điểm tâm đến, rồi hỏi tiếp:

- Tại sao các sư chẳng vị nào làm các việc tốt, mà trái lại làm nhiều việc quái đản để bị người đời xem cho là những phần tử vô dụng, phế vật của quốc gia?

Ngài Hư Vân đáp:

- Hòa thượng là một tiếng thông thường ở cửa miệng người đời để gọi các sư. Có sự sai biệt Thánh hay phàm, chẳng thể nào thấy một vài vị sư không tốt mà bỏ toàn tăng đi. Ha vì một vài ông Tú Tài bất mãn, không hay mà trách móc đức Khổng Tử.

Như ngày nay, ông là một vị tướng thống lĩnh biên, nghiêm minh kỷ luật, nhưng đâu phải vì đó mà quân sĩ nhứt nhứt đều như tiên sinh thông minh, chánh trực!

Biển chẳng bỏ loài tôm cá, cho nên biển mới được nói là biển cả.

Phật pháp lấy tánh làm biển. Cho nên, không gì là không dung nạp, không có chỗ nào là chẳng bao dung.

Tăng là bậc hộ trì Tam Bảo, nắm giữ sự hóa độ của Phật, cầm đuốc soi đường cho thế nhân, âm thầm mà giáo hóa, ảnh hưởng rất to, công dụng kín đáo thâm sâu, mầu nhiệm, lại càng sáng tỏ
, không phải hoàn toàn là phế nhân, đồ bỏ đâu.

Sắc mặt ông tướng họ Lý bây giờ hiện vẻ vui mừng, cùng mời Hư Vân ngồi gần để đàm đạo. Chốc chốc mà sắc mặt tươi tắn lên, mất hết vẻ cau có. Rồi lại tiếng cười..., rồi cúi đầu lộ vẻ kính quí, rồi ân cần lưu Hòa thượng lại dùng cơm tối, bỉnh chúc thân đàm.

Thế là dưới ánh sáng đèn, ba người cũng tiếp bàn luận sâu xa hơn vào thuyết nhân quả phân minh, lưới nghiệp báo chằng chịt, rồi từ nghiệp quả nhân duyên đối với thế giới nối tiếp nhau, chúng sanh tương tục. Hư Vân càng nói lời càng thông suốt, lý càng sâu xa thâm thẩm.

Ông Lý có lúc dùng lời ôn tồn tiếp Hòa thượng, lắm khi lấy dung mạo để kính ngài.

Sau rốt, ông tướng buồn rầu than thở:

- Phật pháp rộng rãi bao la như thế, mà từ lâu nay tôi đã phá chùa, đập tượng, giết sư, nghiệp tôi quá nặng, biết làm sao bây giờ đây?

Hòa thượng đáp:

- Đây là phong trào một lúc, nóng giận một cơn khiến ra như vậy, đâu phải hoàn toàn là lỗi của ông. Tôi chỉ xin ông từ đây trở về sau hết lòng bảo vệ Phật pháp thì công đức không còn gì hơn nữa.

Ông tướng rất vui mừng. Hôm sau, cho lịnh rút quân và đi theo ngài Hư Vân về chùa Chúc Thành chung ở với chư tăng, ăn chay luôn mấy ngày.

Sau khi về Vân Nam, Hư Vân gặp lại ông Thái Ngọc tổ chức chi bộ Phật giáo ở đó và ở tỉnh Quý Châu lại sáng lập Học Viện nơi bố thí thuốc men và đạo tràng bố thí giáo lý.

Bao nhiêu công đức này đều được ông tướng Lý Căn Nguyên tán trợ và giúp đỡ hết lòng.

Trong khoảng bốn mươi năm sau đó, Ông Lý là một cư sĩ rất nhiệt tình, đắc lực. Ông dùng tự lực rất nhiều, giảng thuyết giáo lý và nói chuyện về Thiền, tôn chỉ rất vi diệu... Hiện nay ông là bậc cư sĩ già thuyết giáo đem thiền hoạt bát, sâu xa rất có tiếng và được người người kính mến.

Năm Dân Quốc thứ (Nhâm Tý) - Hư Vân bảy mươi ba tuổi:

Tháng tám ngày mười chín âm lịch, tức 10-10 dương lịch, Quốc Dân cách mạng khởi nghĩa tại Vũ Xương, chiếm được thành Nam Kinh.

Một chuyện nhỏ đáng ghi xảy ra ở chùa Chúc Thành. Có một người nhà quê chất phác đem một con chim "Bát Ca" đến chùa để phóng sanh. Chim biết nói tiếng người rất giỏi. Trước kia nó ăn thịt sâu bọ, trùng dế. Nhưng sau khi quy y và dạy nó niệm Phật, nó trở nên hiền lành, không ăn thịt trùng dến nữa và biết ra vào nơi chánh điện, thường ngày nó niệm Mô Phật và thánh hiệu Quán Thế Âm.

Một hôm, nó bị chim ưng xớt bắt tha đi. Chim ưng bay trên trời mà người đứng dưới đất vẫn nghe tiếng nó niệm Phật.

Như thế, nhìn chim trong cơn hoạn nạn, chết giữa trời cao mà vẫn không quên niệm Phật, mà nghĩ đến ta và tự hỏi: "Người thua vật ư?"

Năm Dân Quốc thứ hai (Quý Sửu) - Hư Vân bảy mươi bốn tuổi:

Tháng giêng ngày mồng một, ông Tôn Trung Sơn ở Nam Kinh tựu chức lâm thời Đại Tổng Thống.

Tháng hai vua Tuyên Thống tuyên cáo thoái vị. Nhà Thanh mất.

Đô Đốc Tứ Xuyên là Doãn Xương định đưa quân vào đánh Tây Tạng. Tình hình Tây Tạng lại rối bời. Ông Thái Tùng Pha, Đô đốc tỉnh Vân Nam, có đứng ra hòa giải nhưng không kết quả.

Phật sống và các hội viên mời Hư Vân đến Bắc Kinh để dàn xếp.

Đến nơi Hòa thượng Hư Vân gặp được Hoàng Hy Linh, Tổng Lý nội các giúp đỡ và có kết quả tốt. Rồi từ đó, bao việc có liên quan đến Phật giáo đều nhờ Hư Vân lo liệu, dàn xếp.

Năm Dân Quốc thứ ba (Giáp Dần) - Hư Vân bảy mươi lăm tuổi:

Quay về Kê Túc Sơn ngơi nghỉ một thời gian, sửa chữa chùa, được Trưởng Bổn ở chùa Hạc Khánh mời đến chùa Long Hoa giảng kinh. Rồi sang luôn chùa Kim Sơn ở Lê Giang để giảng kinh nữa, theo lời mời của Hòa thượng Chánh Tu.

Nhân dịp này, đến triều bái Tuyết Sơn Thái Tử động, rồi đến đất Duy Tây, Trung Diệu, A Đôn Tử du lãm các nơi thắng cảnh có Phật tích. Cũng lại đến biên giới Tây Tạng tham qua mười ba cảnh chùa Lạt Ma giáo.

Khi ở chùa Long Hoa giảng kinh, bốn huyện thuộc phủ Đại Lý bị động đất mà riêng phủ Đại lý bị thiệt hại nặng nhất, nhà cửa, thành, tường đều sụp đổ, chỉ có chùa tháp thì đứng yên. Lúc động đất, đất rung chuyển dữ dội, nứt ra từng lỗ dài, rộng và phun lửa ngập trời, lan tràn đốt cháy khắp nơi. Mọi người dành nhau chạy trốn. Khi chạy, gặp đất dưới chân nứt ra thì thân xác tụt mất. Có kẻ thân xác đứt ra từng mạnh, có người bị đất khép lại chỉ còn ló ra một cái đầu, in hệt như lúc còn sông mà bị hãm vào địa ngục Hỏa Diệm.

Ôi! Thảm cảnh này trông vào sao ta không đau xót!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách