Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Kính mời các bạn góp sức bảo tồn tất cả các tài liệu lịch sử Phật giáo Việt Nam và thế giới, tiểu sử tăng ni, và Phật tử có công trong việc hoằng truyền Phật pháp.
Nội qui chuyên mục
- Trong quá chứ ban quản trị diễn đàn đã chịu rất nhiều phiền toái, do những kẻ giả mạo chùa và đoàn thể từ thiện để kêu gọi giúp đỡ. Một lần nữa chúng tôi yêu cầu tất cả các thành viên không được gởi thư kêu gọi từ thiện lên diễn đàn và chúng tôi không chịu trách nhiệm nội dung đăng tải bởi thành viên.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

ĐỨC HẠNH CỦA NGÀI HƯ VÂN
Từ lúc xuất gia đến nay đã ngoài một trăm tuổi, Hư Vân chẳng trụ tri những chùa đã xây cất sẵn, chẳng nhận lãnh sự cúng dường riêng tư cho mình

Bốn chúng đệ tử trước sau được ngài thọ giới và độ cho có đến hàng muôn người. Tín đồ xin ngài thọ giới và quy y có đến mười vạn.

Tự tay sửa sang, chấn hưng, xây dựng các chùa chiền lớn nhỏ có hơn mấy chục cảnh. Phí tổn cho các chùa lớn lao như Vân Thê ở Vân Nam, trang nghiêm như chùa Nam Hoa ở phía Bắc tỉnh Quảng Đông, lên đến mấy ngàn vạn đồng, mà riêng ngài dù chỉ có một chiếc áo cà sa tùy thân, một chiếc nón lá, một cây phất trần, một cái bàn sản với một cái bao đeo sau lưng.

Ngài đi hành cước khắp cả trong nước.

Khi xây dựng chùa Vân Thê, lúc ngài đến như thế nào thì ra đi cũng như thế thôi. Khi đến chùa Nam Hoa, lúc lên núi, khi xuống núi, ngài cũng như vậy.

Xây dựng xong chùa Nam Hoa, đến năm Dân Quốc thứ ba mươi hai (1943 , khi ngài 104 tuổi) tháng chạp, ngài đem chức trụ trì chùa Nam Hoa giao phó cho đệ tử là Phục Nhân kết tiếp. Rồi một nón lá, một cà sa, một phất trần, một bàn sản, một bao đeo lưng, ngài thẳng đến Nhũ Nguyên, sửa sang, chấn hưng lại chùa Vân Môn, sau khi làm bài ký để lại.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi ba (Giáp Thân - 1944) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ năm tuổi:

Sau khi trùng kiến đạo tràng của Lục Tổ (chùa Nam Hoa) ở Tào Khê, Hư Vân hòa thượng cùng một vị tăng người Quảng Đông tên là Phước Quả đến Khúc Giang và Nhũ Nguyên để hỏi thăm tìm Linh Thọ đạo tràng. Mục đích chưa đạt được, lại đến núi Vân Môn, thấy trong một rừng táo gai một ngôi chùa cổ nhỏ, tàn phế trong có nhục thân của Lục Tổ.

Đây là nơi đạo tràng khai tông của Lục Tổ.

Trước cảnh tổ đình luân lạc mà hai sư bỗng nhiên đến gặp, Hư Vân cảm động đến sa nước mắt! May thấy một vị tăng tên là Minh Không còn ở đó thanh khổ tu trì, một thân tựa nơi núi non lạnh lẽo, lo việc đèn hương thờ Tổ. Theo lời vị tăng này, nơi đây thiếu thốn đủ thứ, muôn điều khốn khổ, nếu chẳng lo kịp chấn hưng lại, chùa sẽ tiêu mất.

Hòa thượng liền trở về chùa Nam Hoa, thì hôm sau có ông Lý Tế Thâm chủ tich tỉnh Quảng Đông và ông chủ tịch Lý Hán Hồn đến chùa cũng nói chuyện về chùa Vân Môn này.

Chính trong một cuộc tuần sát đất Nhũ Nguyên, đường đi qua sau chùa Vân Môn, ông chủ tịch Lý Hán Hồn cũng thấy qua cảnh hoang phế đau lòng này, cũng như chùa Nam Hoa trước kia. (Thảo nào mà Lục Tổ đã chẳng mấy lượt kêu gọi thúc hối Hư Vân).

Ông bèn mời các người danh tiếng trong địa phương, yêu cầu cùng hợp nhau sửa chữa và chấn hưng lại ngôi Phật tự này.

Hư Vân hòa thượng bèn giao quyền trụ trì chùa Nam Hoa cho đệ tử Phục Nhân, rồi lập tức sang ngay nhận lãnh trách nhiệm trùng tu chùa Vân Môn.

(... Đoán biết trước được rồi đây thế nào chùa Nam Hoa cũng sẽ có sự biến cố xảy ra, nên sau khi đến Vân Môn, Hư Vân âm thầm dưa chân thân Lục Tổ và ngài Hám Sơn về đây, rồi lần chuyển các pháp bảo và kinh tạng. Nhờ đó mà sau này tránh được tai biến phá hủy).

Lúc Hư Vân mới đến, chùa Vân Môn chìm trong cảnh tàn phế não nùng: vách phên đổ nát, nhà cửa, liêu phòng, điện thờ.... nhất nhất đều hư sập, rêu phong, phủ đầy gai góc, chi còn có Tổ điện, mà cũng phải gấp rút sửa chữa, nếu không thì cũng đổ nát ngay.

Hòa thượng bèn ở nơi một góc nhỏ sau Quán Âm đường, tính toán mọi công việc sửa sang.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi bốn (Ất Dậu - 1945) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ sáu tuổi:
  • Bầy ong đầu người[:
Cuối mà Đông 1944, chùa Nam Hoa dựng Thủy Lục đạo tràng, chuẩn bị sang Xuân 1945 làm lễ. Trước đó một tháng, có một bầy ong bay đến chùa làm ổ. Loại ong này lớn bằng ngón tay cái. Đầu tiên chúng đến xây tổ hai lần bên hành lang Pháp đường. Tổ ong lớn như chiếc đèn lồng treo nơi đại điện. Lối tổ chức của đàn ong giống như một bức vẽ gợn sóng nước muôn ngàn lớp điệp trùng, không thấy một chỗ nào ra, lại có đủ bốn màu trông rất đẹp.

Sau lại, ở ngoài cửa chùa, trên cây cao chúng cũng đóng một ổ, lớn hơn ổ này nhiều. Bầy ong không châm đốt ai, và lại còn biết giữ kỷ luật rất nghiêm. Lúc bấy giờ tứ chúng tụ tập rất đông để xem các tổ ong này, đều bảo là bầy ong thần đến chầu Phật.

Kịp khi ấy, Hư Vân hòa thượng được rước từ chùa Vân môn về để chủ tọa cuộc Thủy Lục đạo tràng mùa Xuân này.

Ngài cùng Thủ tòa Quan Bổn, tri khách Duy Nhàn và các cư sĩ Sầm Học Lữ, Lâm Viễn Phàm, Lý Chấp Trung, Lý Toàn Thành đến xem tổ ong. Sau khi xem xét hồi lâu, Hòa thượng bảo:

- Đây là loại ong đầu người, lúc bình thường thì làm ở trong núi sâu, hang đá. Nơi đô thị không dễ gì thấy loại ong này. Nay chúng đến đây tôi e sẽ có biến động gì đây chăng? Ngài đứng yên lặng hồi lâu, như suy niệm một điều gì, rồi quay sang ông Sầm Học Lữ bảo:

- Bốn phương rúng động, nơi đây rồi ắt sẽ có nạn binh đao. Nhưng không có gì lo ngại lắm. Nếu có gì xảy ra, tôi sẽ phái người đến đón các ông.

Sau khi đạo tràng viên mãn, Hư Vân trở về chùa Vân Môn lo việc tu sửa.

Đến tháng chạp, ngày 12, quân Nhật vây hãm đất Khúc Giang.

Ngày 18 sắp sửa về đêm, bọn thổ phỉ dòm ngó những hành khách giàu có lanh nạn binh đao ở chùa, xông vào cướp phá chùa Nam Hoa. Bọn này chuyên chở của cải ra ngoài nhà, nhưng chưa kịp phân tán đưa đi, thì các tăng trụ trì người chùa Vân Môn đã đến kịp lúc, bọn cướp bỏ chạy hết. Thế là thoát nạn.
  • Chùa Vân Môn cũng hoạn nạn lây:
Trong khoảng Xuân Hè, giặc Nhật tràn tới phía Bắc tỉnh Quảng Đông. Các huyện bị vây hãm, thành Nhũ Nguyên cũng hoàn cảnh khốn đốn. Người lánh nạn đều chạy vào chùa Vân Môn. Cơm gạo không đủ ăn, phải nấu cháo và dùng bột cây khoai để ăn đỡ.

Chỗ khó nhất cho chùa là đối với số thầy thợ, thợ mộc, thợ hồ, thợ nung ngói gạch, thợ hầm vôi v.v... để sửa chùa. Số thầy thợ trên cả trăm, nhưng họ lại tốt bụng tình nguyện không nhận tiền công mà chỉ xin được cho ăn cơm để làm việc mà thôi và họ làm việc rất chuyên, gắng sức làm nhiều hơn. Nhờ đó mà công việc tiến rất mau.

Lại thêm quân đội của Chánh phủ di chuyển ngang qua vùng chùa bị bọn thổ phỉ lưu động phục kích, đánh úp lấy rất nhiều lương thực, làm tổn thất nặng nề. Khi đại quân của chánh phủ đến, định lùng bắt phá hết hang ổ của thổ phỉ ẩn nấp trong bốn mươi xóm làng, nam phụ lão ấu toàn vùng này nghe tin, cấp tốc dẫn trâu, mang cày khuân vác quần áo đồ đạc vào trốn trong các hang núi. Số có cả mấy ngàn người. Một số kỳ lão đến chùa yêu cầu Hòa thượng tìm phương giải cứu.

Hòa thượng liền thân dến đại bản doanh gặp người chỉ huy, xin vào giải thích tình cảnh mọi việc... và điều đình xin hẹn ba ngày sẽ bồi thường các vật của quân đội đã bị thổ phỉ cướp đoạt.

Thế là dân chúng được an toàn... Từ đó họ, trong toàn vùng, thương mến Hòa thượng như một bà mẹ hiền.
  • Quái vật rồng đen xin thọ giới U Minh
Tỉnh Giang Tây, quận Nam Xương, có cô con gái họ Từ, chưa chồng, người xuân xanh đẹp đẽ.

Có một người tên Tạ Song Hồ ở đất Thanh Giang làm nghề thầy thuốc tuổi đã ngoài năm mươi mà chưa có vợ. Nghe tiếng cô gái này, anh chàng muốn cưới.

Được biết Song Hồ là người sùng đạo Phật, nên cô ấy bằng lòng. Cưới xong, đêm hợp cẩn thì chẳng thể nào nằm chung một giường được.

Truy nguyên thì biết cô này lúc tuổi đang cập kê, bỗng nhiên một con quái vật đang đêm, phụ đính vào thân cô, bắt ép chuyện hoan lạc. Vô vẫy vùng chống cự, kêu la... không đồng ý, thì quái vật quấn chặt vào thân cô, dùng cái mũi xịt nước làm cho cô ngộp, rồi đè cô, khiến cô bất tỉnh để cho nó mặc sức làm gì thì làm.

Từ đó, quái vật đêm đêm lui tới làm việc dâm ô cưỡng hiếp.

Cô gái đem chuyện này thuật lại cho chồng nghe. Và ông họ Tạ cũng không biết làm sao để gỡ rối.

Một hôm cô này đến Am Thanh Tịnh, thuộc huyện Thanh Giang cúng và lễ Phật. Cô bạch với am chủ là Ni sư Thường Khai câu chuyện rắc rối của mình và xin ni sư cho phương giải tỏa. Ni sư bảo:

- Nghe nói Hư Vân Lão hòa thượng làm chủ hoằng hóa ở Lãnh Nam (tỉnh Quảng Đông) là một vị cao tăng đạo đức, sao con không đến đó lạy ngài?

Bèn cũng chồng đến chùa Nam Hoa xin thọ giới.

Một hôm, lên thiền đường lạy Phật, cô con gái này bỗng nhiên té xỉu nằm mê man dưới đất, hồi lâu mới tỉnh.

Sau khi cô đã thọ giới xong, một hôm con quái vật hiện lên bảo cô:

- Mày nay đã thọ giới được rồi, tao không còn có thể nào trêu khuấy mầy được nữa. Tao chỉ chực chờ những lúc sơ hở của mầy mà thôi. Nếu mầy không muốn như thế thì mấy phải vì ta, xin cho ta cùng được thọ giới đi.

Cô bảo:

- Muốn thọ giới thì phải có tên họ, dung mạo mới được, chớ nhà ngươi thì không hình không tướng, đi lại không tung tích, không tên không tuổi, thì biết truy nguyên từ đâu mà xin thọ giới.

Quái vật nói:

- Tên tao là Hắc Long Giang, còn tướng mạo hình hài tao thì tao xin mầy làm ra nó.

Cô gái bảo:

- Tôi không biết, cũng không biết vẽ thì làm sao?

- Không ngại, mầy cứ biên ra giấy. Viết mực cho sẵn đi, rồi mầy cầm lên là tự khắc vẽ ngay được liền.

Cô gái van vái. làm y theo lời nó dặn.

Khi cầm viết lên, thì tự nhiên cô ta gục đầu xuống như ngủ, tay thì vẽ vẽ lên giấy... trong chốc lát thì thành một cái đầu rồng, toàn thân đều có vảy, râu, chân, móng đều đầy đủ.

Cô gái bèn bưng lấy bức vẽ đó đến quỳ trước mặt ngài Hư Vân, thuật lại đầu đuôi câu chuyện và xin Hòa thượng vì rồng này mà thuyết U Minh giới. Từ đó cô gái không còn tai nạn, vợ chồng ăn ở bình yên.

Bức đầu rồng dưa về chùa Nam Hoa để nơi Công Đức Đường (chỗ thờ các vong linh). Đến khi giặc Nhật đếm chiếm, bức hình này mới bị thiêu hủy.
  • GHI CHÚ:
Câu chuyện trên làm cho soạn giả nhớ lại cách đây ngoài sáu mươi năm, lúc tôi chín, mươi tuổi (1920, ở miền quê Lục tỉnh Nam Kỳ của tôi, tỉnh Sadec), người phụ nữ thường hay mắc phải loại bệnh này. Đêm đêm thường nghe có tiếng cồn của các pháp sư lập đàn khiển đồng chữa cái bệnh mà người ta gọi là "bệnh mắc đàng dưới". Cái bệnh này thuốc men không làm sao chữa hết. Người bệnh thì buổi sáng chỏi hỏi, trưa một chút, nhứt là về chiều héo xào, buồn bã. Bệnh nhân không đau gì nhiều mà ngày càng ốm, xanh xao vàng vọt. Nhất là ban đêm, ngủ thì hay nói làm xàm, rù rì trong mùng như đôi trai gái tư tình sáng đêm và lắm khi tinh xuất dầm dề. Nếu không chạy chữa, lâu ngày cô gái liệt giường rồi chết luôn.

Thầy pháp chữa, khiển đồng, nhập lên xưng danh thường là "thằng bô" đã kết làm vợ chồng với cô gái này từ lâu, và lắm khi lại bảo là đã ăn ở có con cái rồi nữa.. Lúc nhỏ ấy, tôi thích đi xem nhưng cuộc khiển đồng như thế này lắm. Khi đồng lên nó cười hả hả "chào sư, chào sư" rồi đòi "Hồ" (uống rượu). Sư cũng chào hỏi, rót rượu trắng mời và hỏi tên họ, từ cõi nào đến.

Quỉ uống rượu, lỗ mãng, cười hả hả và bảo: "Ta... ta... từ Đông Tây Nam Bắc dến đây sư à..." rồi cười ngất ngất, lớn tiếng, toàn giọng hơi lên, nghe lành lạnh.

Sư cười bảo: "Phải, ai lại không từ Đông Tây Nam Bắc đến... nhưng riêng một người từ đâu đến chứ? Hãy nói đàng hoàng. Cõi nào, trên hay dưới, tên gì?"

Vừa nói, tay pháp sư vừa bắt ấn ngón chân cái vừa bấm xuống đất, cầm nhang quơ quơ trên không.

Đồng lại cười hắc hắc, nói: "Sư định bắt ta à? Ta đâu có sợ. Coi đây nè". Nói xong, đồng đang ngồi xếp bằng, bỗng nhảy dựng lên, rồi ngã ngửa ra sau nằm xuống đất một cái đụi...

Pháp sư tay bắt ấn đánh bóng xuống và kêu: Tam vị thánh tổ và am binh nã trốc, rồi đọc thần chú và đồng thời cầm nhang đốt khói nghi ngút vẽ bùa bóng trong không khí. Một chút, đồng bỗng bật mạnh ngồi lên gọn hơ, cũng vẫn ngồi xếp bằng nguyên vẹn nhảy cà từng cà tửng.

(Giai đoạn này xem rất cụp lạc lắm và lúc ấy tôi thích lắm). Đồng bảo: "Ta đi". Sư trục lại không cho. "Vậy sư muốn gì?"

- Nói rõ tên họ. Quỷ hay yêu? Ở cõi nào?

Đầu trùm chiếc khăn đỏ, mình trần, đồng lắc lư, hất hàm bảo: "Quỉ, cõi dưới. Bố là ta đây! Thôi, Hồ đi... rồi ta đi"

Sư rót rượu cho quỉ uống. Nó kê chén vào miệng, xuyên qua cái khăn đỏ thưa ực một hơi, buông chén rồi nhảy đùng, ngã ngửa ra sau lưng, nằm im lìm.

Pháp sư đánh bồi lên người nó hai tay ấn, vẽ thêm một lá bùa nhang trên mặt nó và bảo: "Trở lại cho mau".

Tức tốc đồng nhảy dựng lên, ngồi xếp bằng lại gọn hơ và nói: "Sư đánh ta đau quá! Ta nói xong, ta đi, sư không cho, sư muốn gì?

- Gia chủ có người bệnh. Ta biết là chính ngươi đã làm ra bệnh này. Tại sao nhà ngươi làm ra như vậy? Nói cho ta biết.

- Không. Ta đâu biết. Và chẳng hề làm bệnh ai.

Pháp sư bảo:

- Láo! Chính người là thủ phạm. Nếu ngươi không nói sự thật, ta sẽ thẳng tay trừng trị. Nếu ngươi nói thiệt ta sẽ nhẹ tay cho, và nếu lỡ đã làm quấy, ta khuyên ngươi nên bỏ đi, cho người bệnh mạnh, ta sẽ nói với chủ gia đình đền ơn đáp nghĩa cho ngươi đó.

Quỉ lắc đầu bảo:

- Thật ta không biết và cũng chẳng phá khuấy làm bệnh gì.

- Không! Ngươi phải nói thật. Ngươi gặp bệnh nhân trong hoàn cảnh nào, lúc nào và hành bệnh ra sao? Nói rõ cho ta biết. Và nghe lời ta khuyên, ta sẽ tha cho.

Nói xong pháp sư bắt ấn toan đánh. Nhưng quỉ dường như sợ, la quẩy quẩy, bảo:

- Thật à sư! Ta không biết, không làm mà.

Pháp sư cương quyết: "Chính mi đã làm. Không nói thật ta dánh đây".

Nói xong ông thầy pháp đánh mạnh tay ấn xuống. Quỉ ngã ra nằm dài bất tỉnh một hồi rất lâu. Pháp sư đọc thần chú, ngậm một chút rượu phun lên mặt quỉ, tay cầm nhang vẽ bùa bóng lên mặt nó, đánh nhẹ một tay ấn lên mặt nó.

Một chặp sau, quỉ hú lên một tiếng làm lạnh mình rởn óc, rồi nhảy vụt lên ngồi xếp bằng, gục gặt đầu bảo: "Sư đánh ta, ta không quên thù này. Hồ cho ta đi".

Pháp sư bảo: "Được! Ta sẽ cho ngươi hồ thật nhiều, nhưng phải khai sự thật nhé".

Quỉ đáp: "Ta sợ gì ai mà dấu. Hồ đâu?"

Pháp sư rót rượu cho quỉ uống. Nó uống luôn mấy chén rượu đế to. Uống xong quỉ cười hắc hắc và bảo: "Bố là ta đây. Ta biết sư nhiều mà! Có lần ta gặp sư đi trên cầu tre, ta muốn bẻ giò sư đó, nhưng có mấy ông tướng đi theo sau sư nên ta chưa làm được đó. Sư liệu lấy, việc của ta, mặc ta. Sư can thiệp làm gì?"

Pháp sư bảo:

- Không được! Âm là âm, dương là dương, phân cách rõ ràng. Làm loạn như vậy, Ngọc Hoàng sẽ đánh ngươi. Và ta sẽ vâng lênh trời làm việc ấy! Ngươi nói thật, khai hết sự thật và làm cho bệnh nhân mạnh, ta sẽ nói gia chủ đền ơn cho ngươi. Bằng không, ngươi coi đây.

Nó xong, ông thầy pháp dắt ba cây nhang lên đầu tóc, lột chiếc khăn đỏ đang bịt trên đầu, xả ra và sửa soạn bắt ấn.

Quỉ lật đật nói mau:

- Thôi, thôi! Pháp sư ngưng tay. Ta nói sự thật đây, mà sư nói thì nhớ lời nghe! Một "ột" nhe! Ba hũ to nhe!

- Được! Gia chủ sẽ cho ngươi một con heo lớn và ba hũ rượu ngon đấy.

Quỉ nói:

- Ta đã làm sợ gì ai mà không nhận. Đã làm được rồi, thì phá hay sửa đổi gì mà chẳng được. Đúng! Nữ của nhà nay, bổn mạng nằm trong tay ta đây. Không có sư chen vào thì trong vòng một trăng nữa, ta sẽ đem nó về động của ta đó. Như vậy là số nó còn. Năm trăng trước, ta đi trên sông này, thấy nữ đang vọc nước trên cầu. Thấy nó đẹp có duyên, ta lại cần người nên ta đã theo bắt nó. Năm trăng rồi, thường mỗi khi mặt Ông xế là ta đến ăn nằm với nó, chớ không làm gì đến người khác trong nhà. Khi mặt Ông trở lại là ta đi ngay.

Pháp sư nói:

- Thôi cho ta xin đi vậy. Người âm kẻ dương thế nào mà cùng chung nhau được? Làm như thế, luật trời sẽ không dung cho ngươi đâu.

Qui đáp:

- Khó lắm sư! Vì ta và nữ đã ăn ở với nhau quen rồi, xa nhau sao được? Nhớ lắm!

Ông thầy pháp cắt ngay:

- Không được cũng phải được. Nhà ngươi đã phạm luật trời, làm loạn thế gian đó. Con gái người ta ai lại gả cho ngươi mà lấy ngang như vậy. Một phải trả, hai phải thôi. Ta sẽ tha cho. Bằng không... ta bắt ngươi ngay.

Ông thầy pháp liền bảo mang ngay ra một cái hũ thật to bên trên miệng hũ có đậy một tấm vải đỏ có viết chữ bùa vàng để trước mặt quỉ.

Thấy hũ, quỉ như sợ sệt, né qua tránh lại rồi nói:

- Thôi, thôi! Ta chịu sư. Nhưng gia chủ có giữ lời hứa không?

Pháp sư nói:

- Ngươi nghe ta thì mọi việc đều tốt. Vậy trong mấy nhựt, ngươi làm cho bệnh hết? Bệnh hết dứt, ta bảo đảm cho ngươi một ột lớn và ba hồ to ngon... thơm đó, y như lời hứa và gia chủ sẽ ứng tiền vàng thêm cho ngươi nữa, cũng như bánh trái và thức ăn khắc.

Quỉ đáp: "Trong ba nhựt".

Nói xong quỉ ực luôn một hơi mấy chén to, cười hả hả rồi nhảy dựng lên, ngã ngửa ra sau và thăng luôn.

Đúng như lời hứa, ba hôm sau cô gái mạnh.

Chủ nhà cho làm heo, mua rượu và làm một bữa cơm thinh soạn cúng đốt rất nhiều giấy tiền vàng bạc.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • Làm biếng bị đòn:
Một hôm. Hư Vân hòa thượng đi vắng, ngài sang chùa Nam Hoa chủ tọa lễ truyền giới, chùa Vân Môn lúc bấy giờ có hai vị tăng ở lại giữ, một pháp danh Cỗ Căn, một đạo hiệu Truyền Chân cùng ở chung một cái cốc.

Một hôm, sư Cỗ Căn vì có bệnh, ban đêm không lên Pháp đường dâng hương và niệm Phật. Sư Truyền Chân lại làm biếng, quấn mền thẳng giấc không lên chùa.

Đến khuya, cánh cửa cốc này mở ra, rồi một bàn tay to tướng thò vào, làm bít cả cửa cốc. Một bóng đen nắm lấy vị sư Truyền Chân quăng xuống đất và mắng:

- Bồ tát mở đạo tràng thành tựu cho chúng mầy, nay làm biếng không ra ruộng cày cấy, không lên khóa đường tụng niệm, không biết hổ thẹn, nên tao đánh mầy.

Nói xong liền đánh vào đít sư mấy bảng. Sư Truyền Chân kinh sợ, tỉnh dậy rờ đít, thấy đau như dần!

Mọi người xúm lại, xem thấy chỗ sư bị đánh, máu đen tụ lại sưng phù lên. Phải thuốc thang chữa trị hơn một tháng mới lành, da thịt đều tróc hết.

Đêm sau, khi sư Truyền Chân bị đánh, có một vị tăng nguyên xuất thân trong quân đội, võ nghệ giỏi, ngỏ ý không tin chuyện dị đoan, xách một cây gậy sắt đến ngủ trên giường của sư Truyền Chân, định cự chiến với ma quỷ nếu có.

Không bao lâu bóng đen này lại đến. Vị tăng kia định ngồi dậy lấy gậy sắt chiến đấu, thì toàn thân liền bị trói gô lại, không sao nhúc nhích được. Rồi nghe tiếng nói: "Tên bất lương này! Mầy đã xuất gia làm Phật tử thì phải bỏ cái thói quen hung hãn của quân nhân võ biền đi. Tao nay không đánh mầy đâu, đợi mầy sám hối đó! Nếu còn tái phạm tao sẽ trừng trị".

Bóng đen đi rồi thì sư dứng dậy, lui tới như thường.

Bốn tháng sau, hòa thượng Hư Vân trở về chùa. Đêm khuya ngồi kiết già, ngài chợt thấy một ông lão râu bạc phơ, mặc bào xanh, tới kính lễ thưa:

- Đệ tử ở sau núi này đã sáu mươi năm rồi. Lúc Đại sư sang Nam Hoa, thì đệ tử cũng vừa hay đi khỏi. Các cháu của đệ tử ngỗ nghịch, đã có chuyện quấy rầy các tăng thanh tu ở đây. Đệ tử đã răn dạy chúng rồi, nay đến Đại sư xin tạ tội.

Hư Vân dáp:

- Tôi cùng ông khác loại, nhưng vốn sống yên ổn với nhau. Khuyên chớ hiện hình ra nhiều, làm xao xuyến lòng người.

Ông lão liền từ tạ ra đi. Từ đó về sau, không có chuyện gì quấy rầy nữa. Các kỳ lão trong làng bảo: Phía sau núi trong đám rừng già, có một bầy chồn lâu năm đã thành tinh (ảnh hưởng của Bồ Tùng Linh chăng? - Soạn giả).

Năm Dân Quốc thứ ba mươi lăm (Bính Tuất - 1946) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ bảy tuổi:

Quần dảo của Nhật (Hiroshima) bị bom nguyên tử. Nhật đầu hàng vô điều kiện. Mùa Xuân, chùa Nam Hoa vẫn truyền giới giảng kinh. Sang Thu, chánh phủ ra lệnh các chùa chiền trong toàn quốc thiết lễ tụng kinh cầu siêu cho các người chết.

Các quan chức, nhân sĩ thành Huệ Châu mời Hòa thượng đứng chủ pháp hội tại chùa Tịnh Tuệ (tức Lục Dung Tự).

Trong khi đàn tràng đang diễn, lễ bái, tụng kinh, cây phi đào ở trước chùa bỗng nhiên nở hoa. Những cành hoa tung ra rực rỡ, sáng lạn chưa từng thấy bao giờ.

Ông hồ Nghi Sinh viết bài ký "Phi đào thoại ứng ký" (cây phi đào ứng điềm lành) như sau:

Năm Trung Hoa Dân Quốc thứ ba mươi lăm, mồng bảy tháng bảy là ngày kỷ niệm mười năm kháng chiến, Quốc Dân chánh phủ ra lệnh các chùa trong toàn quốc tụng kinh siêu độ cho trận vong chiến sĩ và toàn thể người dân chết vì nạn chiến tranh.

Một cuộc lễ rất quan trọng.

Phật giáo hội tỉnh Quảng Đông phái đại biểu đến chùa Vân Môn nghênh đón ngài Hòa thượng Hư Vân tới thành Huệ Châu đứng chủ pháp hội này.

(Ông chủ tịch Quảng Đông lúc bấy giờ là La Trắc Anh cũng có phái nhân viên mang thơ đến yêu cầu ngài đến làm Phật sự này).

Trời đang nắng gắt, ngài Hư Vân vẫn lên đường, đi bộ thôi.

Tháng chín, ngày mười bảy, chùa Tịnh Tuệ thiết lập Thủy Lục đạo tràng trong bảy ngày đêm. Trong lúc kết đàn, một cây phi đào bỗng nhiên nở hoa. Cánh oa rực rỡ, đẹp vô cùng chưa bao giờ thấy. Trước kia, nghe nói ngài Hư Vân hoằng pháp ở tỉnh Vân Nam thì cây mai đã khô héo lại ra hoa. Khi ngài trụ trì chùa Nam Hoa thì cây Bá trồng từ đời Tống, khô chết đã từ lâu, bỗng sống trở lại, nhú tược xanh um.

Nay lại thấy điềm lành này...., rõ thật là hai cõi trời người xem nhau mà vui mừng vậy.

Hoa nở ngót mười ngày chưa tàn. Người đến chiêm ngưỡng làm nghẽn cả đường lối; và ngài Hư Vân vẫn lặng lẽ tới đất Sơn Đầu, đem nước cam lồ của Nam Tông rưới khắp phía Đông tỉnh Quảng Đông! Công đức độ sinh của ngài thật vô bờ bến.

Ngài Hư Vân có nguyện chấn hưng lại chùa Quang Hiếu, rừng Ma Ha vui mừng tươi tốt, ngày ấy sẽ trở lại không còn xa nữa. Các bậc Long Tượng ở cõi trời phía Nam chắc sẽ ủng hộ ngài.

Viết xong bài ký này, xin điểm xuyết thêm vào tám câu thi:
  • Pháp Hội nghiễm vi tán
    Phi đào hoa mãn chi
    Như hà, hoàng lạc hậu
    Thúc biến diễm dương thì
    Thủy mọc thượng linh cảm
    U minh tùng khả tri
    Hạ lâm cữu vu uế
    Hà nhật dữ gia trì.
Dịch:
  • Pháp Hội nghiễm nhiên chưa tan
    Cây phi đào, hoa nở đầy cành
    Làm sao, sau khi hoa vàng rụng
    Bỗng nhiên biến lại thời kỳ tươi tốt
    Loài cây cỏ còn có linh cảm
    Thì chốn U Minh theo đó có thể mà biết được
    Rừng Ma Ha đã lâu đời hoang vu tàn rụi
    Biết ngày nào, lại có thể gia trì chốn này.
Sư Thang Anh lại cũng có bài kệ:
  • Như thị ngã văn, nhất hồi Phật tại, tình dữ vô tình, sự lý vô ngại.
    Nhữ khán phi đào, giá bạn kỳ đặc, thị y hội giả, vô ngôn mặc mặc.
    Tuy phi nhân thân, nhi sinh Trung Quốc, phục ngộ Đại Đức, tự Vân mệnh bạc.
    Uất uất hoàng hoa, đồng cụ Phật tánh, tương đối khai phu, thuyết pháp dĩ cảnh.
Dịch:
  • Ta nghe như vầy: Một thời Phật ở, tình với vô tình, sự và lý không gì ngại nhau.
    Anh xem phi đào, lạ lùng đặc biệt, là cây có thể biết, mặc dù im lặng chẳng thốt một lời.
    Nó chẳng phải là thân người, nó sinh tại Trung Quốc, lại gặp Đại Đức, thì sao có thể số nó là mệnh bạc?
    Mơn mởn hoa vàng, đầy đủ Phật tánh, đối nhau tung cánh, hồi thuyết pháp đã xong!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ ba mươi sáu (Đinh Hợi - 1947) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ tám tuổi:

Mùa Xuân, ngài Hư Vân vẫn sang chùa Nam Hoa truyền giới giảng kinh. Ở đây, Hòa thượng tiếp Chính Trụ và cùng ông thảo luận về Thiền tông. Chu cư sĩ hỏi:

- Ở dưới pháp tòa của Lão hòa thượng, kẻ tu hành có tâm đắc cứu cánh được mấy người?

Sư than thở đáp:

- Hiện nay, ngay đến tìm một người gác cửa chứ đừng nói nhập thất, cứu cánh còn chẳng thể được thì nói gì đến cái khác nữa! Chùa Nam Hoa đến nay, chức Phương trượng còn bỏ trống, đại khái là thế đó.

Chu cư sĩ lại hỏi:

- Tri huyễn liền lìa, năng và sở hai cái đều quên. Chính lúc bây giờ phải chăng cùng với Lục Tổ bào cho Thượng tọa Minh: Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính lúc bây giờ cái đó là bổn lai diện mục của Minh thượng tọa khế hợp với nhau chăng?

Sư đáp: Đây là lời khám nghiệm hỏi của Lục Tổ. Biết huyễn liền lìa còn có cái sở, có nghĩa là năng và sở đều quên hết vậy.

Lại hỏi:

- Tông Thiên Thai nghĩa Tam Quán, phải chăng cùng nghĩa với Tam Tính (pháp tướng) hợp nhau?

Sư đáp:

- Tông Thiên Thai đặt ra pháp tam quán để làm sự dụng công lần lượt, nhưng Thiền tông thì không có thứ lớp.

Sau cùng bàn đến kinh Kim Cang, sư cười và nói:

- Kinh Kim Cang chú thích nhiều đến mấy trăm thứ.

Chu cư sĩ nói:

- Đúng như vậy, nhưng đệ tử đọc kinh từ xưa đến nay chưa đọc chú thích.

Sư đáp:

- Không đọc chú thích cũng tốt. Đọc lỹ có thể sinh ra sự xảo diệu. Chỉ cần sự khoa phán rõ ràng, đọc lâu rồi có thể liễu ngộ. Còn như đọc chú thích, trái lại dễ bị nhưng lời này làm cho hiểu theo kiểu nước đôi. Bấy giờ cư sĩ mới biết hết thảy sự suy nghĩ luận bàn đều là lý luận. Nếu chưa chứng mà nói ra thì mở miệng đều là sai lầm.

Chu cư sĩ nghe xong, mình rơm rớm mồ hôi vì sợ hãi, tự mình sám hối rất sâu.

Ngài Hám Sơn đại sư nói: Y theo kinh mà giải nghĩa là tam thế Phật oan. Lìa kinh một chữ, tức là đồng ma thuyết. Ôi! Sự khó khăn của việc thuyết pháp là như thế.

Năm Dân Quốc thứ ba mươi bảy (Mậu Tý - 1948) - Hòa thượng Hư Vân một trăm lẻ chin tuổi:

Mùa Đông năm này, một phụ nữ Mỹ tên là Ananda Jennings (Thiêm Ninh) đến xin thọ giới với Hư Vân hòa thượng. Vì hâm mộ thiền đức của Hư Vân, Thiêm Ninh không ngại đường xa muôn dặm, ngồi máy bay đến Trung Hoa để xin Hòa thượng quy y cho.

Việc vào Trung Hoa để thọ giới với Hư Vân hòa thượng của Thiêm Ninh đã được nhà đương cuộc hai nước Trung - Mỹ đồng ý chấp thuận và Hòa thượng cũng bằng lòng.

Bà Thiêm Ninh ngồi máy bay riêng sang. Lúc bấy giờ Hòa thượng đang ở thành Huệ Châu. Gặp Hư Vân, Thiêm Ninh thuật nguyên nhân tu hành của bà: Cha là một mục sư đạo Thiên Chúa. Chồng cũng là một tín đồ Thiên Chúa. Tự bà nghiên cứu đạo Thiên Chúa trong hai mươi năm. Vì thấy giáo lý của đạo này chẳng liễu nghĩa, nên đi du lịch khắp nơi tìm câu giáo lý của Phật.

Sau đó bà đến Ấn Độ, đóng cửa bốn năm thì có chỗ được tỏ ngộ, nhưng còn nghi ngờ chưa quyết định. Nay chẳng ngại đến tận Trung Hoa tìm Hư Vân Lão hòa thượng.

Hư Vân bèn đưa bà Thiêm Ninh đến chùa Nam Hoa lễ Lục Tổ. Sau khi quy y xong, đặt pháp danh cho bà là Khoang Hoàng. Rồi vì bà, Hòa thượng thiết lập một thiền thất. Các chùa ở chung quanh tới chiêm lễ rất đông.

Lúc bấy giờ có người đệ tử của Hòa thượng là Khất sĩ (Họ Đàm, pháp danh là Liễu Nghĩa, người đất Quý Châu, làm chủ biên tập tờ báo chuyên môn của chùa Nam Hoa), hỏi chuyện bà Thiêm Ninh:

- Đại sĩ từ nơi biển xa thâm thẩm tới đây, phải gian nan vất vả rất nhiều. Như vậy là vì cái gì?

Bà Thiêm Ninh đáp: "Vì học Phật".

Khất sĩ:

- Học Phật ắt phải liễu sanh thoát tử. Đại sĩ ở trên phần rốt ráo sanh tử ra sao?

Thiêm Ninh:

- Vốn không có sống chết, dùng liễu thoát làm gì?

Khất sĩ:

- Đã không có sanh tử thì cần gì học Phật?

Thiêm Ninh:

- Vốn không có Phật, người học Phật là Phật vậy.

- Phật đầy đủ ba mươi hai tướng, ngón chân ấn xuống đất, dấu vết chân ngài phát ra ánh sáng. Đại sĩ có khả năng được như thế không?

- Có khả năng hay không có khả năng đều là hý luận.

- Hiểu thấu một cách huyền diệu, nói ra lời đều rất đúng. Tuy nhiên như thế, nói ăn mà bụng chẳng no, rốt một câu: lại làm cái gì?

- Rốt ráo không có câu nào cả. Nói ra vốn cũng không có. Nếu chẳng lộn xộn, bép xép thì Giác tánh không thể nào suy nghĩ đo lường được. Nó (giác tánh) tức là mẹ của muôn vật.

- Việc này nói đó đã rõ ràng. Còn câu hợp với ý Tổ. Chỉ có một chữ TRI là cửa của mọi tai họa. Đại sĩ phải từ Giải nào mà vào. Vậy xin hỏi: Lìa lời nói, dứt câu nói, thế nào là Bản Lai Diện Mục?

- Kinh Kim Cang có nói: A nậu đa là tam miệu tam Bồ đề tức chẳng phải là A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

- Cũng gần giống như vậy, nhưng mạng căn chẳng dứt, hết thảy thuộc về Tri Kiến. Hy vọng Đại sĩ phát ra sự tỉnh ngộ.

- Tôi rất ít có cơ hội xem kinh. Trước đây đóng cửa bốn năm; sau khi mở cửa ra ngoài với người khác đàm đạo, mọi người đều bảo là tôi "nói Phật pháp".

Tôi bảo: Chẳng phải từ trong kinh mà được, giống như là chẳng phải hết thảy thuộc về Tri Kiến.

- Chẳng từ trong kinh mà luận được, hay trong lúc tĩnh tọa mà được, mở phát ra cái Tuệ từ kiếp trước, thì cái Tuệ từ kiếp trước này cũng là Tri Kiến.

- Phật pháp trọng thực chứng, chẳng tại nơi tri kiến rốt ráo là thế nào?

- Chẳng câu nệ trong kinh luận, chẳng cố chấp tánh tướng, đầu nào cũng là Đạo, chỗ nào cũng là chân lý, miễn cưỡng nói cái này (giả cả)... cũng là quyền thiết.

Bà Thiêm Ninh lại theo ngài Hư Vân đến chùa Vân Môn, Ở đó nửa tháng rồi mới về Mỹ. Bà bảo: "Trở về Mỹ, bà sẽ làm hết sức để chấn hưng Phật giáo".

Nên ghi nhớ:

Trước hết bà Jennings là một phụ nữ nữ đẹp, có học thức rộng, tâm hồn cao thượng, giàu có, tìm cầu Phật pháp hết sức sâu xa..., tuy có chỗ tu chứng, nhưng ngôn ngữ bất đồng, nên có phần trì chậm.

Nhưng may mắn, khi trên đường từ Mỹ sang Hương Cảng, ở đây mọi người đều đề cử cư sĩ tu thiền là Nham Thế Lương, pháp danh Nhẫn Tâm làm thông dịch viên cho bà.

Vị cư sĩ này làm bạn đường với bà đến thành Huệ Châu, rồi cùng theo ngài Hư Vân đến chùa Nam Hoa.

Trong lúc thiền thất, mỗi lần có khai thị, là bà nhờ ông này phiên dịch cho, rất sát và đúng, chẳng sai một câu, chẳng khuyết một nghĩa, vừa hay, vừa văn chương, tốt đẹp, hàm hết ý của ngài Hư Vân.

Đó là một thắng duyên vậy.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Dân Quốc thứ ba mươi tám (Kỷ Sửu - 1949) - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười tuổi:

Tuổi tuy cao, Hư Vân hòa thượng vẫn hăng say trong Phật sự, dù có cực khổ thế nào cũng vui vẻ tinh tiến. Suốt năm này ngài vừa lo sửa sang, sơn phết vàng lại hết các pho tượng của chùa Vân Môn, lớn nhỏ hơn tám chục pho.

Ngoài ra, Phật sự đại khái có bốn việc lớn:

1. Canh cải sơn hướng: Thấy hướng cũ không hạp với phong thủy, theo Địa lý, Hòa thượng khi xây sửa chùa chính, đã đổi hướng, ban bằng, đắp cao, lấp hố vũng, đào ao... điều chỉnh địa thế, chỉnh đốn mọi việc, khiến cho toàn cảnh có vẻ quang đãng hơn xưa, dương khí vượng lên.

1. Trang nghiêm pháp tướng: Ngoài việc xây cất điện vũ, liêu tháp... còn tu sửa sơn phết các pho tượng, thỉnh kinh, luật, luận, an phụng vào kinh để mọi người khảo duyệt.

3. Cứu tế nông thôn: Cho hay: "Núi có ngọc, cây cỏ ắt tươi. Suối có rồng ắt nước chẳng hết. Chỗ ở có Tam bảo, rễ lành ắt ngày thêm lớn".

Công việc hòa thượng trung hưng Vân Môn cùng các chùa chiền lớn nhỏ khác, thiệu long Phật Tổ hoằng pháp lợi sinh, giúp ích không nhỏ cho nước nhà, cho nhân dân... thật nói không cùng. Riêng một việc cứu tế nông thôn, sự thực hiển nhiên khó mà chối cãi. Thật vậy, trong công cuộc xây cất đạo tràng, tân tạo điện đền, liêu thất, tháp miếu, đúc chuông, đắp tượng, đào ao, khơi suối, nung vôi, hầm gạch..., bới đất, đốn cây, lập vườn, trồng trà, làm công nghệ v.v... ròng rã mấy chục năm, ngoài số kỹ thuật gia, thợ chuyên môn, còn có số dân phu gồng gánh, đào bới, khuân vác... mỗi ngày từ một trăm đến hai trăm người, phần đông là kẻ thất nghiệp chốn đồng quê.

Nhờ Hòa thượng mà số đông người này, luôn cả những miệng ăn của gia dình họ đều có phương tiện sinh sống. Lại nữa, thời ly loạn, dân chúng thường bị nghi oan là giặc cướp mà bị bắt giam cầm thì chính ngài, không nệ tuổi cao, sức yếu lên xuống Nha môn minh oan, xin phóng thích. Công đức ấy, dân nước mang ơn, nhớ nghĩa là đúng vậy.

4. Sản xuất kiến thiết: Hòa thượng Hư Vân theo dõi phương chước của ngài Bách Trượng xưa kia, gẫm trước mặt thì xem xét hoàn cảnh xã hội.

Hòa thượng hiểu rằng: Phật giáo ngay nay và mai hậu, nếu không muốn bị đào thải, thì tăng già phải chịu nhọc làm việc, lao động, phải sản xuất để tự cung, tự cấp.

Thế cho nên, ngay tại Vân Môn, Sư cho lập: "Đại Giác Nông Trường" đặt lệ cho mọi người cộng trú ở chùa phải ra công khẩn hoang, trồng trọt với nông cụ và hạt giống do chùa cung cấp. Đến mùa gặt hái, hội tất cả huê lợi thu hoạch phân chia đồng đều. Hòa thượng còn cho lập xưởng dệt, ướp trà, khiến tứ chúng, ngoài việc công phu tu hành, còn hướng về công nông ra sức sản xuất, tạo nên một nguồn kinh tế mới cho tăng già, thích ứng với đời sống trong hoàn cảnh chánh trị và xã hội đời này.

Tóm lại, trước kia cũng như sau này, từ năm Dân Quốc ba mươi hai, khi Hư Vân một trăm lẻ bốn tuổi từ Tào Khê sang với quyết tâm trùng hưng Đại Giác Thiền Tự, phục chấn Vân Môn Tông phong, hòa thượng đêm ngày cần khổ, không lúc nào dừng. Kể việc xây cất điện đường, gác, liêu, sảnh, lầu, kho, tháp v.v... cộng trên một trăm tám mươi ngôi, choán một diện tích hai mươi mẫu, xóa mất cảnh điêu tàn hoang phế trước kia. Thêm vào đó công lao lấy đức hóa dân, thân sơ thuyết pháp, cởi mở không biết bao nhiêu người. Vì thế, bậc trí thức, như hàng thường dân mười phương kéo về chiêm bái đông không kể xiết.

Ai cũng bảo: Sau Tào Khê là Vân Môn (sau Lục Tổ là Hư Vân), không còn nơi nào cẩm tú và được quy ngưỡng hơn.

Chùa Vân môn, ở cuối đời nhà Thanh, tuy có sửa sang, nhưng quy mô rất nhỏ, cung điện rất ít. Kịp đến năm Dân Quốc, trải qua một thời gian mấy chục năm, chùa càng ngày càng đi đến đỗ nát. Cảnh điêu tàn trông thật áo nảo! Tường vách, rào rạo đổ sập, cây cỏ um tùm, gai gốc dây leo chằng chịt, là sào huyệt của cáo chồn, rắn rết!

Với tinh thần cương quyết trong nguyện lực lớn lao duy nhất của đời Minh, Hư Vân cố xây dựng lại Đại Giác Thiền Tự, chấn hưng tông phong Vân Môn, không nài gian lao khổ cực đêm ngày chồng chất lên tuổi già.

Thế cho nên, ngài rất xứng đáng tự viết câu liễn:
  • Lưỡng thủ tướng sơn hà đại địa, niết liễu noa viên,
    Đạo tuế liễu, biến tảng hư không, hồn vô sắc tướng.
    Nhất bổng bả thiên cổ nghiệp ma, đả tử cứu hoạt,
    Hoán tỉnh lai phóng nhập vi trần, công tác Đạo trường.
Tạm dịch:
  • Hai tay đem núi sông rất lớn, bóp dẹp vo tròn,
    Xé vụn đi, rải khắp hư không, không còn sắc tướng.
    Một gậy đánh chết nghiệp ma ngàn khổ, cứu sống lại,
    Kêu tỉnh lại, thả vào hạt bụi nhỏ, cùng tạo lại Đạo trường.
Nhưng, rồi trong chỗ thanh tao mỹ lệ... trang nghiêm, .... đạo hạnh, cũng vẫn ẩn đám mây sầu ảm đạm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

BIẾN CỐ Ở VÂN MÔN
Năm Tân Mảo (1951) - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười hai tuổi:

Năm Nhâm Dần 1950, chính cuộc Trung Hoa thay đổi lớn. Chế độ Dân Quốc chấm dứt ở Trung Hoa lục địa. Cánh ông Tưởng bay ra Đài Loan. Phe ông Mao lên nắm chính quyền. Hư Vân Hòa thượng đã một trăm mười một tuổi, vẫn trụ ở Vân Môn với đồ chúng, lo cầy cày cấy sinh hoạt, thủ giới tu hành.

Đám mây vần vũ lần đến. Lạnh lùng! Đau buồn! Oan trái chăng? Nhân quả nghiệp chướng tiền kiếp chăng?

Báo nghiệp riêng hay cộng nghiệp phải gánh? Cứ để cho mây đen vần vũ phủ che.

Xin ghi lại một chuyện đáng ghi trước đó.

Bên cạnh Thiên Vương Điện của chùa Vân Môn có một cây chương cổ, không biết đã mọc từ thuở nào mà nay cành lá rườm rà, chiếm lấy đất một vùng rất rộng. Gốc rễ của nó không biết mấy người ôm cho giáp. Nó to lớn dị thường, mà trọng lực của thân cây lại nghiêng về phía Tổ điện.

Cây này nếu để nó đó thì một ngày nào sẽ đè nhẹp chùa, và cũng là một chướng ngại không nhỏ cho công cuộc sửa sang, xây dựng kiến thiết mới. Đốn nó đi, làm sao đây? Toàn thể thân cây chần vần này, phần lớn đều ngã nằm trên mái chùa, ngay nơi chánh điện. Mé bớt nhánh ư? Làm sao? Nhánh nào cũng to tướng, làm cách nào mé cho xong? Đốn, mé cành thân... gốc của cây sẽ làm hư nát hết phía bên dưới. Chỉ có hướng Tây Nam là khoảng trống, cây có thể đốn cho ngã trọn về hướng ấy là không gây tổn hại gì cả. Nhưng làm sao được, vì toàn thể trọng lượng của thân cây lại nghiêng hẳn về hướng trái với hướng Tây Nam kia.

Nhưng đốn nó là ai ai cũng đồng ý, và nhất quyết phải như vậy.

Công việc bắt đầu mé lần nhánh của cây. Làm việc gần nửa tháng, càng chặt, càng mé, thân cây càng nghiêng đổ về phía Đông Bắc. Các nhà cửa, chánh điện, điện Tổ càng cảm thấy nguy hiểm. Đại chúng đếu sợ sệt, rối rít... đề nghị phương cứu vãn; kẻ bảo nên dùng dây sắt lòi tói, dây xích thật to cột rôi từ hướng Tây Nam kéo nó về. Kẻ thì đề nghị nên dùng nhiều thân cây to chống đỡ nó. Kẻ thì nói: kế vẹn tàn và hay nhất là cấp tốc dỡ nhà, điện liền là hơn.

Hòa thượng Hư Vân chỉ mỉm cười mà không trả lời, cũng không có ý kiến gì. Và cứ chiếu theo kế hoạch đã định: chặt mãi, mé mãi chẳng thôi, không một chút nghi ngờ, lo lắng và trù trừ nào. Một ngày, trước khi công nhân nghỉ làm việc chặt mé thì Hòa thượng cũng thân hành vác búa chặt, đốn một chập.

Chặt lâu ngày, cây càng nghiêng hẳn về phía chánh điện. Nguy hiểm sắp đến rồi!

Sáng hôm ấy, khi ăn ngọ xong, đang khi dẫn dắt tăng tục thường nhật nơi chánh điện niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, khi đi vòng quanh Phật xong. Hòa thượng Hư Vân ngồi kiết già trên chiếc ghế dài, phía trước hướng Đông Bắc. Ngài ngồi yên lặng, đi sâu vào cõi tịnh. Bỗng có tiếng gió lớn thổi đến, dữ dội làm chấn động hết ngôi điện, nóc nhà. Ai nấy đều lo sợ và biết chắc rằng cây lớn thế nào cũng đổ và đè xuống, và lo sợ cho Hòa thượng đang ngồi yên ở đó.

Tuy nhiên Hòa thượng vẫn yên tĩnh như không có gì xảy ra, ngồi kiết già ngay ngắn như thường, không một chút động đậy nào.

Một chập sau, theo một cơn gió mạnh dữ dội hơn, một tiếng ầm vang lên làm chấn động hết ngôi chùa, đất rung chuyển, lung lay, cát bụi tung bay ngập trời, mọi người đều hú hồn... và xem ra thì cây chương đã đổ, mà lại đổ ngay về hướng Tây Nam, trái hẳn với hướng Đông Bắc mà nó đã nghiêng hẳn và uy hiếp nặng nề.

Mái chùa, nhà, chánh điện ,không một chút gì hư hao cả.

Mọi người nhìn nhau lạ lùng, và cũng niệm Phật, bảo nhau: Đúng là Sư cụ có thần lực không sao nghĩ bàn được!

Trận gió dữ dội, cây chương khổng lồ, chùa chiền và sư tăng, ai có phận nấy, không ai phá quấy gì được ai. Nhưng đám mây đen trên kia vẫn vần vũ và lần di đến... rồi mọi việc không lành trút đổ xuống Vân Môn mà chư tăng, nhứt là Hòa thượng Hư Vân phải gánh chịu hết mọi phũ phàng, ốm đau, đói khát, bệnh tật, chết chóc!!!

Và cũng nên nhớ: Cơ sự này hoàn toàn đổ xuống Vân Môn Tự dưới thời Mao Trạch Đông cầm quyền ở Trung Quốc, không có liên quan gì đến các trào lưu cải cách đang xảy ra ở Trung Hoa lục địa.

Xin nhắc lại một chút việc trước đây:

Năm 1949, Hư Vân hòa thượng có nhận lời mời của ông họ Phương, từ chùa Vân Môn đến Hương Cảng, và một ngày kia đến thăm ông Sầm Học Lữ tại nhà một người bạn của ông ta.

Trong câu chuyện hàn huyên. Thời nay, có biến đổi như thế này tôi biết về đâu cho yên được? (Lúc bấy giờ Trung Cộng đã chiếm Trung Hoa lục địa rồi).

Ngài Hư Vân im lặng, suy nghĩ, ngó ông Sầm Học Lữ rồi nói:

- Người học đạo đến bất cứ nơi nào cũng đều là quê hương nhà cửa của mình. Buông bỏ xuống, tức đó là đạo tràng tu hành của mình vậy. Cư sĩ cứ yên tâm! (Học đạo nhân tùy xứ đô thị gia hương. Phóng hạ tiện thị đạo tràng. Cư sĩ an tâm bãi).

Ông Sầm Học Lữ nói:

- Chùa chiền trong nước khó tránh khỏi sự bất ổn. Ngài chẳng tạm thời lưu lại Hương Cảng để hoằng dương Phật pháp, làm lợi chúng sanh.

Hư Vân đáp:

- Việc hoằng dương Phật pháp, tự nó đã có người rồi. Đến như riêng tôi đây, hình như lại có một thứ trách nhiệm khác nữa. Chứ đem cá nhân tôi ra mà nói, dù có đi hay ở, trong lòng tôi không một chút trở ngại gì cả. Nhưng vì trong nội địa, các chùa am điện đường hiện nay đang trong lúc bàng hoàng sợ hãi, không yên. Nếu tôi cứ lưu lại Hương Cảng, thì trong nước này, mấy chục ngàn tăng ni sẽ thiếu người đứng ra hộ trì đang lúc gặp khó khăn. Như vậy, e rằng gian nan khổ sợ lại vàng tăng thêm, thì lòng Hư Vân này có chỗ chẳng được an vậy. Tôi ắt phải trở về chùa Vân Môn thôi.

Thế là ngày hôm sau, Hòa thượng liền quay vào nội địa nước Tàu.
  • Đây mây đen bao phủ chùa Vân Môn
Mùa Xuân Tân Mão (1951) Hòa thượng Hư Vân khai đàn truyền giới tại Vân Môn như thường lệ. Bốn chúng khắp nơi tụ về đông đảo. Trong chùa lúc ấy có khoảng một trăm hai chục người.

Ngày 24 tháng 2, bỗng có trên một trăm người, không biết từ đâu xuất phát đến bao vây chùa và cấm không cho xuất nhập. Trước tiên, chúng đem Hòa thượng vào giam trong một gian phòng, và cắt người gìn giữ. Còn gia dư tăng chúng thì chúng chia ra từng nhóm nhỏ, nhốt hết vào Thiền đường, Pháp đường..., rồi chia nhau đi lục soát khắp nơi chốn, từ mái ngói đến xuống nền gạch, tượng Phật, pháp khí, kinh tạng, không chỗ nào là chúng không moi móc.

Suốt hai ngày lục soát, tìm kiếm, đào bới từng nơi, khắp chỗ mà chúng không tìm lấy được gì. Chúng bèn bắt thầy Giám viện và các chức sự trong chùa đem giam một nơi khác. Đồng thời thu góp tất cả sổ sách và những bản thảo kinh chú trọn một đời một trăm năm của Hòa thượng, bỏ vào mấy bao lớn mang đi mất. Chúng quy buộc nhà chùa vô số tội trạng mà kỳ thực chúng nghe người mách Hòa thượng có của chôn dấu, vàng trăm trăm lượng, bạc ngàn ngàn cân... Tìm không thấy gì, chúng bắt hai mươi sáu vị trong tăng chúng đem ra tra tấn, bảo phải chỉ chỗ Hòa thượng dấu của. Nhưng ai cũng bảo là chẳng có vàng bạc và cũng không hề dấu cất gì cả. Chúng gia hình đánh đập tàn nhẫn, khiến có người chết, nhiều người bị trọng thương, gãy tay, gãy chân, chưa kể một số tăng bị thủ tiêu mất tích.

Cuối cùng như cọp đói phát xung, chúng quay sang Hòa thượng.

Hôm ấy là ngày mồng một tháng ba, chúng đem Hòa thượng giam vào một nhà riêng, đóng bít tất cả cửa sổ, ngày đêm chỉ chong một ngọn đèn leo lét như ở địa ngục. Lại cấm không cho ra ngoài đại tiện, tiểu tiện.

Qua ngày mồng ba, mười tay lực lưỡng tung cửa vào, bức bách Hòa thượng phải chỉ chỗ chôn dấu vàng bạc, súng ông. Hòa thượng bảo là chẳng có gì hết. Chúng bèn hạ độc thủ đánh ngài bằng hèo đã, rồi dùng đến côn sắt, đánh thôi đầu, mặt mình mấy đều huyết lưu, gân cốt đứt gãy..., chúng vừa đánh vừa hỏi. Hòa thượng thu thần nhập định, mặc cho côn hèo lên xuống, qua lại, nhắm mắt, miệng ngậm, không thấy, không nghe, cũng không la một tiếng nào. Trọn ngày ấy chúng lại tái diễn trò tra khảo dã man này đến bốn lượt. Thấy Hòa thượng tứ nằm sóng soài dưới đất, tình trạng nguy kịch, đầy mình máu me, chúng tưởng là chết nên hè nhau bỏ đi.

Đến khuya, các thị giả lẻn vào phòng, đỡ Hòa thượng lên giường.

Ngày mồng năm, nghe tin Hòa thượng chưa chết, bọn côn đồ trở lại. Thấy Hòa thượng ngồi ngay ngắn nhập định như trước, chúng nổi xung thiên, lấy hèo côn hất Hòa thượng xuống đất, rồi dùng chân đeo giày da đá đạp bất kể mắt, tai, mũi, miệng. Năm khiếu Hòa thường đều chảy ra máu và ngài nằm dài trên đất, mặc cho chúng đạp, đá, dậm, chà... Chuyến này chúng đinh ninh Hòa thượng không sao còn sống nổi, nên lại bỏ ra đi.

Đợi đến khuya, các thị giả mới dám lẻn vào đỡ Hòa thượng lên giường, và ngài lại ngồi ngay ngắn tọa thiền như trước, luôn mấy ngày đêm không ăn uống.

Đến sáng ngày mồng mười. Hòa thượng lần lần nằm xuống theo thế cát tường, tức là theo lối Phật nhập Niết Bàn = mình nằm nghiêng qua phía tay phải, tay mặt gối đầu, tay trái bỏ xuôi theo thân, hai chân thật ngay. Ngài nằm yên như thế trọn một ngày một đêm, không nhúc nhích. Tưởng ngài đã thị tịch, thị giả dùng tim bấc để lên lỗ mũi ngài, chẳng thấy chút động đậy gì, hơi thở đã tắt, mạch tay cũng hết nhảy, nhưng xem kỹ lại thì thân mình phía trên còn nóng, nhan sắc như thường.

Sáng ngày mười sáu, nghe tiếng ngài rên nho nhỏ, rồi mắt chớp chớp mở, thị giả đỡ ngài dậy và bạch cho ngài biết là ngài đã nhập định hơn chín ngày rồi!

Ngài bảo: "Ta cảm thấy chỉ có mấy phút thôi".

Rồi ngài day qua thị giả Pháp Vân dạy:

- Hãy mau lấy giấy viết, vì ta, ghi chép điều này. Nhưng chớ có nhẹ dạ, hãy giữ kín đừng nói cho ai biết. E rồi họ sẽ tạo ra sự nghi ngờ làm nẩy lên lời phỉ báng, dị nghị không tốt của người đời.

Dặn xong, Hòa thượng ung dung nói:

- Mới hồi nãy, ta nằm mơ thấy đi đến nội viện cung Đâu Xuất trang nghiêm, mỹ lệ, không nơi nào ở thế gian sánh bằng. Ta thấy đức Di Lặc ngồi trên pháp tòa thuyết pháp. Người nghe pháp có trên mười người. Trong số thính giả, ta nhìn được Chí Thiền hòa thượng ở chùa Hải Hội tỉnh Giang Tây, ngài Dung Cảnh pháp sư ở núi Tiên Đài thuộc Ngũ Đài Sơn, ngài Hằng Chí Công ở núi Kỳ Sơn, ngài Bảo Ngộ hòa thượng ở chùa Bách Tuế Cung, ngài Thanh Tâm hòa thượng ở chùa Bảo Hoa, ngài Độc Thể Luật sư, ngài Quán Tâm hòa thượng ở chùa Kim Sơn và tôn giả Tử Bá đời nhà Minh.

Ta chấp tay kính lễ, các vị ấy trỏ tay chỉ cho ta ngồi vào ghế phía bên Đông, hàng đầu, chỗ thứ ba lúc ấy còn trống.

Ngài tôn giả A Nan đang làm Duy Na (Duy Na là người trợ giúp trong khi đức Di Lặc thuyết pháp) ngồi cách ta không xa.

Ta nghe Bồ tát giảng "Duy Tâm Thức Định".

Bài giảng còn đương chưa xong, đức Di Lặc chỉ tay bảo ta: "Ông nên về đi".

Ta bạch: "Nghiệp chướng của đệ tử rất sâu nặng, con không muốn về nữa".

Ngài bảo: "Nghiệp duyên chưa xong, phải trở về rồi sau sẽ đến đây. Đồng thời ngài đọc cho ta một bài kệ:
  • Thức trí hà phân
    Ba, thủy nhất cá
    Mạc muôi bình bồn
    Kim vô hậu bạc
    Tánh lượng tam tam(1)
    Ma thằng oa giác
    Nghi, thành cung ảnh(2)
    Bệnh duy khử hoặc
    Phàm thân mộng trạch
    Huyễn sở trước
    Tri huyễn tức ly
    Ly huyễn tức giác
    Đại giác viên minh
    Cảnh giám sum la
    Không hoa phàm thánh
    Thiện ác an lạc
    Bi nguyện độ sanh
    Mộng ảnh tư tác
    Kiếp nghiệp đương đầu
    Cảnh tích phổ giác
    Khổ hải từ hàng
    Vô sanh thối khước
    Liên khai nê thủy
    Đoan tạ Phật đà.
Dịch:
  • Thức, trí khác nhau sao?
    Song, nước cùng một thể
    Chớ lầm bình và chứa
    Vàng chứa không mỏng, dày
    Tánh chứa đủ ba "định"
    Thật dây gai, sừng ốc
    Hễ ngờ thành bóng cung
    Bệnh, duy bỏ mê hoặc
    Thân phàm nhà mộng trung
    Giả dối không nên dính
    Biết giả ắt lìa giả
    Lìa giả lòng đã tĩnh
    Tĩnh thật sẽ sáng tròn
    Như gương chiếu vạn vật
    Phàm, thánh thật "không hoa"
    An vui trong thiện ác
    Xót thương nguyện độ sanh
    Quả việc làm trong mộng
    Nghiệp kiếp đang hồi gặp
    Cảnh giác khá đề phòng
    Bể khổ chống thuyền từ
    Chớ sinh lòng lùi trốn
    Tuy nở trong bùn bẩn
    Trong sen có Phật Đà.

    (Chánh Trí Mai Thọ Truyền dịch - Từ Quang số 112)
Xưa kia ngài Hám Sơn Từ Bá chịu hình phạt một cách dữ dội, cũng cùng chung một cảnh như Hư Vân hòa thượng hiện nay... và đây chẳng phải là chỗ mà kẻ chưa chứng ngộ, có thể thấy thế mà nói ra được vậy.

Mấy ngày hôm sau, bọn người côn đồ hành hung này chính mắt chúng nhìn thấy cái hạnh của ngài Hư Vân, thì như có điều gì lạ lùng, thắc mắc, rồi lần lần sanh nghi và đâm ra có gì nể, sợ, kính... chúng xì xồ to nhỏ với nhau. Rồi ngay tên đầu xỏ ác ôn của chúng lại hỏi một sư trong chùa:

- Tại sao thằng cha già kia ta đánh nhừ tử mà không chết!

Sư đáp:

- Ngài Hòa thượng già ấy vì chúng sanh mà hứng chịu mọi tai nạn, khổ đau, và cũng vì các ông, để tiêu tai nạn, nên đã bị đánh đập tàn khốc mà không chết vậy. Huyền bí của trời đất, rồi sau này các ông sẽ tự biết.

Nghe thế, nó có vẻ sợ hãi, và từ đó chẳng còn một tên nào dám rớ đến Hòa thượng nữa.

Việc bao vây chùa, moi móc bới tìm, phá tượng, tóm thâu đồ đạc, đánh giết sư tăng... không còn dấu diếm bưng bít được nữa, mà đích nhắm vàng bạc của bọn chúng không đạt được gì, chúng càng lo sợ tiết lộ, đổ bể về mưu đồ đen tối, nên chúng càng bao vây chùa gắt gao hơn và tiếp tục bươi móc, bới đào khắp chốn. Đồng thời cấm hẳn không cho các sư nói chuyện với nhau, tuyệt đối không cho ai ra khỏi chùa, ngay đến việc ăn uống cũng bị hạn chế.

Lúc bấy giờ, những vết thương trên người Hòa thượng trở nên trầm trọng, bệnh tình trở nên nguy kịch. Mắt ngài không còn trông thấy gì. Tai ngài không còn nghe biết gì. Sợ ngài có mệnh hệ nào, các đệ tử xúm nhau yêu cầu ngài thuật lại bằng miệng sơ lược lịch sử đời sống của ngài. Nhờ đó mà có được một bản thảo khá đầy đủ về niên phả của Hòa thượng.

Mãi đến tháng tư, tin biến cố ở Vân Môn mới lần lần được truyền đến Thiều Châu. Rồi từ đó, các đệ tử của Hòa thượng mới báo tin lần đến Khúc Giang, rồi Bắc Kinh... Và các môn đồ của ngài ở ngoài nước cũng xao xuyến về vấn đề này.

Cuộc vây khổn chùa Vân Môn nhờ đó mới được giải tỏa. Tuy nhiên, bao nhiêu lương thực, tài sản của chùa, quần áo chút ít của chư tăng đều bị bọn vô lương này cướp đoạt mang đi hết. Ngài Hư Vân, từ khi bị trọng thương, không ăn cơm cháo gì được, mỗi ngày chỉ uống nước lã mà thôi.

Khi hay tin chùa hết sạch lương thực, Hòa thượng hội hết chúng tăng, bảo:

- Lão Tăng nghiệp nặng, lại làm lụy đến các vị. Nay đến nông nổi này, các vị nên chia ra mỗi người một nơi để cầu sự sống, không nên bắt chước và vì lão tăng mà uống nước thay cơm. Như vậy, may ra mới tiếp nối được sinh mạng của mình.

Nhưng toàn thể chư tăng đều không ai chịu rời chùa, không ai khứng bỏ Hòa thượng mà đi. Họ chia nhau vào rừng hái rau, moi củ, đốn củi bó từng gánh đi ngoài mười, hai mươi dặm bán lấy tiền mua gạo, sống lây lất. Mua được gạo, họ mang về chùa nấu cháo cùng chia nhau ăn. Tuy nhiên sớm chiều hai thời công phu không bao giờ nản mà luôn luôn đều đều, nghiêm mật.

Đến thượng tuần tháng năm, chánh phủ Bắc Kinh mới phái chuyên viên mấy người đến Quảng Đông, hội đồng với nhan viên nơi đây, mở cuộc điều tra. Đến ngày hai mươi hai, phái đoàn mới đến huyện Nhũ Nguyên xem xét tình hình Vân Môn tự (!). Vào ngày hai mươi ba, tức ngày 28-6-1951, phái đoàn mới đến tại chùa điều tra xác thực mọi việc tại chỗ.

Hư Vân hòa thượng lúc này nằm bệnh trên giường, tai điếc, mắt mờ, không hay biết gì là có phái đoàn điều tra đến. Nghe tiếng người hỏi: Có bị đả thương không? Có mất của cải gì không? Hòa thượng lắc đầu, không muốn nói gì hết.

Sau, ngài biết có phái đoàn Bắc Kinh đến, Hòa thượng chỉ yêu cầu một việc là sự thật điều tra rồi về Kinh báo cáo.

Phái đoàn có mang theo các nhân viên kỹ thuật, máy chụp ảnh, thu băng v.v... Trước hết họ an ủi, hỏi han về pháp thể của Hòa thượng, lúc ấy còn bệnh, nằm im trên giường, tai điếc, mắt mờ, vì bị dánh đập quá tàn nhẫn!

Toàn thể sư tăng đều được giải thoát. Tín đồ lần lượt mới được đến chùa.

Tính ra, chùa Vân Môn lâm nạn từ hai mươi bốn tháng hai đến hai mươi lăm tháng năm mới thoát khỏi cảnh khổ (ròng rã ba tháng). Từ đó, Hòa thượng mới được nằm yên để chữa trị, trong khi chư tăng hơn một trăm người vẫn lấy việc đốn củi, trồng cây và làm các nghề thủ công để sống qua ngày. Dân chúng các nơi nghe tin Vân Môn thoát nạn, kéo về thăm Hòa thượng rất đông.

Riêng các đệ tử của Hòa thượng trong ngoài Bắc Kinh thì sắp đặt để đưa Hòa thượng ra khỏi Vân Môn.

CHÚ THÍCH:

(1) Tam tam: Tức tam muội là ba thứ chánh định: Không tam muội, Vô tướng tam muội và Vô ngại tam muội.

(2) Mắt ngờ nghệch thấy sợi dây gai hay cái sừng của ốc hương, tưởng lầm là cây cung, ý nói: kẻ phàm phu còn bị vọng hoặc chi phối, thường lấy giả làm thiệt. (Thành ngữ: Bôi cung xà ảnh).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

LẠI LÊN BẮC KINH
Năm Nhâm Thìn - 1952 - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười ba tuổi:

Trải qua một tai nạn ác liệt, khủng khiếp, Hư Vân hòa thượng vãn không chết mà lần lần hết bịnh và mỗi ngày bắt đầu dắt dẫn các vị tăng tọa thiền, hành đạo và thu xếp dọn dẹp mọi chỗ điêu tàn mà chùa vừa bị phải.

Từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch, chánh phủ Bắc Kinh bốn lượt đánh điện tín cho tỉnh Quảng Đông thỉnh Hòa thượng và phái người về hộ tống.

Tăng chúng đều khuyên ngài nên cẩn thận, đề phòng đừng đi là hơn.

Nhưng ngài bảo:

- Ngày nay tăng già toàn quốc đều nơm nớp lo sợ, ai lo giữ chùa nấy. Như thế là giống như một nấm cát rời rạc. Thiếu người lãnh đạo. Nếu chẳng đoàn kết với nhau thành một cơ sở có thực lực thì còn ai đâu lo gìn giữ mối giềng của Phật? Ta e rồi một ngày nào đó sẽ có một tai họa chung cho toàn thể; sự biến sẽ không dừng bước ở Vân môn thôi đâu! Ta vì đó phải lên Bắc Kinh, không còn chần chừ hay chờ đợi gì nữa,

Ngài bèn chọn một bậc lão thành trong tăng chúng giao việc hộ viện và quyết định ngày lên đường. Trước khi đi ngài viết một câu đối:
  • Tọa duyệt ngũ đế tứ triều, bất giác thang thương kỷ độ,
    Thụ tận cửu ma thập nạn, liễu tri thế sự vô thường.
Tạm dịch:
  • Trải qua năm vua bốn triều mà chẳng biết có bao lần biển dâu biến đổi,
    Chịu đựng tận hết chín lần mài dũa, trải triệt mười lần tai nạn, mới biết rõ đời là vô thường
    .
Ngày bốn tháng tư âm lịch (27-4-1952), ngài Hư Vân cùng với các vị thị giả Phật Nguyên, Giác Dân, Khoan Độ và Pháp Vân cùng phái đoàn lên đường đi Bắc Kinh.

Dân chúng các thôn đua nhau tiễn đưa rất dông. Từ đây, Hòa thựng ly khai Vân Môn là nơi mà Hòa thượng đã phí mười năm công phu làm cho phái Vân Môn được trùng chấn Tông phong.

Nhân sĩ và đệ tử quy y với Hòa thượng ở Thiều Châu nghe tin ngài đến, kéo nhau đi đón rước có cả ngàn, đi dài non mười dặm. Hòa thượng vào trú chùa Đại Giám. Mỗi ngày, người đến tham lễ, đi chật đường chứng tỏ tín tâm của người tín đồ không vì thời cuộc đổi xoay mà suy giảm. Ngài mồng mười, Hòa thượng đáp xe lửa Việt Hán đi Bắc Kinh. Hôm sau tới Vũ Xương (nơi tỉnh hội của Hán Khẩu), ngài lưu trú tại chùa Tam Phật. Đi đường mệt nhọc, vì tuổi già sức chịu đựng kém sút, Hòa thượng phát bệnh trở lại.

Hòa thượng chủ trì và cư sĩ Trần Chân Như tận tình lo liệu thuốc men cả tháng. Hư Vân mới lần lầm bình phục. Hơn mười ngàn tín đồ ở đây đã đến viếng thăm ngài. Một lần nữa, sự kiện này cho ta thấy chẳng vì thời thế và hoàn cảnh thay đổi mà đánh mất được lòng tín ngưỡng của quần chúng.

Bệnh vừa giảm, thì được biết Thượng tọa Đại Kim đứng ra dựng thất "Quán Âm" gồm bảy ngày hành trì, có ý muốn thỉnh Hòa thượng chứng đàn, nhưng chưa dám ngõ lời. Biết thế, Hư Vân chấp nhận ngay đứng ra khai đàn. Người đến quy y có cả hai ngàn người.

Sau đó, tăng chúng ở chùa Tam Phật cùng chung với Hòa thượng chụp một tấm ảnh kỷ niệm. Ngài có lưu niệm một bài thơ:
  • Nghiệp phong sũy tống đáo Vũ Xương
    Lão bệnh trì khu lụy chúng man
    Tam nguyên yêm lưu Tam Phật tự
    Nhất trường tai nạn nhất tàm hoàng
    Vô tâm dục khóa lâu đầu hạc
    Hữu nguyện đồng đăng tuyển Phật trường.
    Thượng đường Ngọc Tuyền quan tráng liễu
    Năng ư ngôn hạ ngộ chân thường.
Dịch:
  • Gió nghiệp thổi đưa đến Vũ Xương
    Bệnh già làm cực đến chúng tăng
    Ba tháng tịnh lưu an dưỡng chùa Tam Phật
    Một tràng tai nạn, khiến tâm trí bàng hoàng xấu hổ và sợ hãi
    Tôi chẳng có lòng nào muốn leo lưng hạc, lưu ở lầu hạc của Vũ Xương
    Tôi chỉ có nguyện cùng người ở đây vào trường thi tuyển Phật (nhập thất)
    Tôi hãy còn tưởng tới danh thắng Ngọc Tuyền với cái cửa quan hùng tráng và mỹ lệ
    Tôi có thể ở dưới lời nói mà giác ngộ chân thường.
Đến ngày hai mươi tám tháng bảy, Hòa thượng cùng tùy tùng đáp xe lửa Kinh Hán tiếp tục đi Bắc Kinh. Đến nơi, chư Sơn Trưởng Lão và các đoàn thể cư sĩ, tín đồ đến đón rất đông đảo. Hòa thượng được đưa về chùa Quảng Hóa an nghỉ. Nhưng vì quá đông người đến thăm viếng, làm cho sức khỏe không tiếp nổi, ngài lại được đưa sang trú chùa Quảng Tế, yên tịnh hơn.

Trước khi Hòa thượng về đến Bắc Kinh, tại đây nơi chùa Quảng Tế, trong khoảng tháng năm hay tháng sáu, đã có cuộc vận động trù bị cho việc thành lập một Hiệp Hội Phật giáo Trung Quốc. Khi Hòa thượng Hư Vân về tới là trên một trăm đại biểu xuất tịch thỉnh ngài là Hội Trưởng. Nhưng viện lý lẽ già yếu, ngài khước từ.

Hội Đồng bèn cử Pháp sư Viên Anh là Chánh Hội trưởng, Hỹ Nhiêu Gia Tá, Triệu Bộc Sơ v.v... làm Phó Hội trưởng, và suy tuyển Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma, Nhan Nhỉ Đức Ni, Hư Vân làm Hội trưởng danh dự.

Liền đó, Hòa thượng dâng thơ lên chánh phủ Trung Ương xin ban bố cương lĩnh chung cho cả nước về Phật Giáo Hội, quy định nhân dân quyền tự do tín ngưỡng, yêu cầu chánh phủ gấp rút quyết định biện pháp cần thiết để bảo tồn và quản lý các chùa chiền trong nước. Trước mắt, Hòa thượng xin cho thi hành mấy điều khẩn trương:
  1. Bất cứ ở địa phương nào, chẳng được phá hủy chùa chiền, tượng Phật, kinh sách.
  2. Chẳng được cưỡng bách tăng ni hoàn tục.
  3. Những sản nghiệp của chùa, sau khi bị tịch thu, phải xét lại số người ở các chùa để phân phối lại số mẫu ruộng, để họ có thể tự lực cày cấy mưu sinh.
Mọi đề nghị trên đều được chấp thuận và thi hành.

Tháng tám ngày mười ba, Hòa thượng đại diện cho toàn quốc Phật giáo đồ tiếp nhận, nhân một cuộc lễ long trọng, ba báu vật của phái doàn Phật giáo Tích Lan tặng Phật giáo Trung Quốc ,gồm có: Ngọc xá lợi Phật Tổ, một bộ kinh Bối Diệp và một cây Bồ đề.

Tháng mười, thể theo lời mời của các nhân sĩ, cư sĩ ở Thượng Hải, Hòa thượng xuống hải cảng này chủ lễ Pháp Hội Cầu Nguyện Hòa Bình Thế Giới. Sang đây, Hòa thượng lưu ở chùa Ngọc Phật và dự lễ suốt bốn mươi chín ngày.

Rất đông đảo người đến cúng bái và xin quy y, số đến cả chục ngàn. Và số tiền dâng cúng vào quỷ của chùa trên ba ức một vạn đồng (hơn 70 ngàn đô la Hoa Kỳ). Mọi người đều đồng thanh dâng số tiền này cho Hư Vân Hòa thượng tùy ý tiêu dùng, chữa bệnh. Hòa thượng khước từ và xin chia số tiền này cho các chùa có danh trong nước dùng vào việc trùng tu sửa chữa. Như: bốn ngôi chùa lớn và danh tiếng nhất xưa nay là (Tứ đại danh sơn):
  • - Chùa Phổ Đà tỉnh Triết Giang.
    - Chùa Ngũ Đài tỉnh Sơn Đông.
    - Chùa Cử Hỏa tỉnh An Huy.
    - Chùa Nga My tỉnh Tứ Xuyên.
    (Bốn chùa này là trụ xứ của bốn vị Bồ tát Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền và Địa Tạng).
Và tám ngôi chùa khác có danh là (Bát đại danh sách), tức là:
  • 1. Chùa Thiên Đồng ở tỉnh Ninh Ba.
    2. Chùa A Dục Vương ở Ninh Ba.
    3. Cùa Cao Mân ở tỉnh Dương Châu.
    4. Chùa Linh Nham ở Tô Châu.
    5. Chùa Cổ Sơn ở tỉnh Phước Châu.
    6. Chùa Quảng Tông ở tỉnh Ninh Ba.
    7. Chùa Thất Tháp cũng ở tỉnh Ninh Ba.
    8. Chùa Địa Tạng ở tịnh Phước Châu.
Ngoài đó ra, các chùa lớn nhỏ trọn nước Trung Hoa có tới hai trăm năm mươi sáu ngôi.
  • Thượng đường thuyết pháp:
Pháp hội cầu nguyện hòa bình thế giới bắt đầu khai lễ. Diện Châu Hòa thượng phải thượng đường thuyết giảng. Nhưng người lại nhún nhường khách khí xin ngài Hư Vân thuyết cho. Không từ chối được Hòa thượng phải tuân hành.

Sau đây, xin ghi lại đại cương buổi thuyết pháp của Hư Vân Hòa thượng:

Chúng ta sống trong cõi Ta Bà, y như sống trong biển khổ! Vì thế, ai là người chẳng muốn thoát ly. Nhưng muốn thoát ly biển khổ sanh tử, thì phải dùng Phật pháp.

Chân đế của Phật pháp, nói một cách khác, là không có pháp nào có thể nói ra, Như vậy làm gì có hình tướng ngôn ngữ? Trong kinh Lăng Nghiêm có nói: "Đản hữu ngôn thuyết do vô thực nghĩa" = chỉ có ngôn thuyết thì đều là không có nghĩa thật.

Nhưng tại sao lại nói thuyết? Vì muốn tiếp dẫn tất cả chúng sanh mà căn cơ trình độ không giống nhau, nên phải có "pháp môn vô lượng, phương tiện vô biên". Nhiều người chia các pháp môn và phương tiện ấy làm năm phái:

  • Thiền - Giáo - Luật - Tịnh và Mật Tông.
Người hành thiền thâm sâu và lâu dài, có học vấn đầy đủ, thì không có gì đáng nói. Vì rằng họ nhận rõ chân lý của Phật giáo quyết nhiên không có gì sai khác: "Tất cả là một, một là tất cả".

Chỉ có người sơ cơ, mới vào đường đạo là có nhiều vấn đề, nhiều ý kiến, chia ra Tông, Giáo này nọ..., đồng thời khen chê, hay dở, cao thấp v.v..., thế là có chỗ không hay, không tốt cho việc hoằng hóa Phật pháp.

Phải biết rằng: Một câu thoại đầu, một câu Phật hiệu đều là phương tiện mà thôi, chớ không phải là cứu cánh.

Tại sao? Vì người hành giả công phu chính chắn, tới nơi tới chốn thì không dùng những cái này làm chi. Họ hiểu rằng: Động và tịnh là một, như bóng mặt trăng in vào muôn ngàn con sông, chỗ nào cũng sáng tỏ, không chút gì chướng ngại.

Nếu có chướng ngại, nghĩa là nước có bùn nhơ khuấy trộn, mặt sông xao động vì sóng gió ba đào, bị bóng cây rườm rà che khuất v.v... thì trăng kia dù có sáng cũng không hiện ra được.

Người hành giả nếu thấu hiểu lý đạo này thì nhận được tâm mình như mặt trăng mùa Thu, chẳng còn quay về phía ngoài tìm cầu, mà quay ánh sáng rọi trở lại bên trong mình, một niệm không sanh, hiểu rõ Sở và Đắc... thì làm gì có danh tướng sai biệt?

Chính chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, vọng tưởng chấp trước, thói quen đã sâu nặng, khiến cho đức Thích Ca phải thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, nói kinh ước ngoài ba trăm hội, mà mục đích rất lớn của các pháp môn dạy này không cái nào là chẳng để chữa trị các bệnh Tham - Sân - Si - Mạn chẳng giống nhau của chúng sanh.

Những thói quen và bệnh tật xấu này, nếu ta lìa được chúng, các ông tức thị là Phật rồi đó. Như vậy làm gì có sự sai biệt giữa chúng sanh và Phật.

Người xưa nói: Phương tiện tuy có nhiều cửa, mà truy nguyên thì không có hai đường.

Đạo lý Phật là thế đó!

Phật pháp ngày nay, thịnh hành hơn hết là Tịnh Độ và Thiền Tông. Nhưng một số tăng chúng đều quên đi và bỏ sót Giới Luật. Đó là một việc không hợp lý. Vì căn bản của ý nghĩa Phật pháp là: Giới - Định - Huệ. Như cái vạc ba chân, mà thiếu đi một là không thể được. Hễ là hành giả thì phái nhớ lấy.

- Thiền Tông:

Là do việc đức Thế Tôn, từ trên hội Linh Sơn, cầm nhánh hoa đưa lên cho đại chúng xem. Ngài chẳng nói gì mà nhìn khắp pháp hội. Không ai hiểu ý ngài thế nào, duy một mình ngài Ca Diếp tôn giả chúm chím mỉm miệng cười.

Đó là "Tâm tâm ấn nhau, giáo ngoại biệt truyền". Là mạng mạch của Phật pháp, và pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật, xem kinh, trì chú v.v... tất cả đều là Phật pháp để liễu sanh thoát tử.

Có người bảo Thiền tông là vượt lên một cách mau chóng (Đốn). Còn niệm Phật, trì chú (Tịnh Độ) chỉ là phương pháp lần lần (Tiệm). Nói thế cũng đúng, nhưng chẳng qua là sự sai khác ở trên danh tướng, còn trên thực tế thì không hai.

Lục Tổ đại sư nói: "Pháp không có đốn tiệm, sự thấy chậm hay mau".

Hư Vân tôi nhận ra mỗi một pháp môn đều có thể tu hành. Mình cùng với pháp môn nào thích hợp thì tu theo pháp môn đó. Lại cũng chớ khá khen pháp môn này, chê pháp môn kia. Quan trọng là phải giữ gìn Giới Luật.

Gần đây có nhiều người xuất gia, chẳng những tự mình không giữ gìn Giới Luật một cách nghiêm chỉnh, mà lại bảo: "Giữ Giới Luật là chấp trước". Luận điệu này thật là nguy hiểm!

Thiền tông là tâm địa pháp môn, từ sau khi ngài Ca Diếp lần truyền xuống, từ Ấn Độ đến Trung Quốc, rồi Lục Tổ Huệ Năng. Đó là chấp pháp lưu truyền hết sức thịnh hành trong một thời.

- Luật Tông:

Lấy tôn giả Ưu Ba Ly làm Thượng thủ. Ông nối tiếp, chịu sự dặn dò của đức Thế Tôn muốn cho chúng sanh đời mạt thế lấy Giới làm Thầy.

Về sau, ngài Cúc Đa tôn giả mở mang ra năm bộ Luật.

Ở Trung Quốc, ngài Nam Sơn Lão nhân, ngài Đạo Tuyên Luật sư, noi theo Bộ Đàm Vô Đức, chế ra Sớ và phụng hành. Đó gọi là Tổ trùng hưng Luật Tông.

Ngài Bắc Tề Lão nhân ở núi Thiên Đài, quán cuốn Trung Quán Luận của ngài Long Thọ, phát minh ra Tâm Địa. Ngài Đỗ Thuận Lão nhân lấy kinh Hoa Nghiêm làm chủ tể, xây dựng môn Hiền Thủ Tông. Ngài Tuệ Viễn chủ xướng Tịnh Độ, rồi chín vị Tổ nối tiếp ngài.

Kể từ sau ngài Vĩnh Minh, các vị Tổ Sư, từ đời này qua đời khác, phần nhiều đều lấy Thiền Tông để hoằng dương Tịnh Độ (như nước với sửa hòa với nhau).

Tóm lại các Tông rối rít nổi lên, bành trướng, nhưng rõ lại thì chẳng Tông nào lìa khỏi mạng mạch: "Cầm cành hoa đưa lên ở pháp hội Linh Sơn ngày ấy!" (tức là Thiền Tông).

Như vậy đủ cho chúng ta thấy sự quan hệ mật thiết giữa Thiền vài Tịnh cùng laasylongf cứu độ của cổ nhân hoằng dương Phật pháp.

Đến Mật Tông là do các ngài Bất Không tôn giả, Kim Cương Trí v.v... truyền vào Trung Quốc và phải trải qua ngài Nhất Hạnh Thiền sư gắng sức mới phát dương ra ánh sáng huy hoàng, lớn lao.

Những cái này (chớ nên cho là dị đoan), đều là Phật pháp, phải nên cùng nhau phát dương hoằng hóa, không nên phân biệt chia rẽ môn bộ, tự mình tồi tàn lẫn nhau.

Tôn giáo mà chống đối nhau, công kích lẫn nhau, tức thị liền đó là chẳng hiểu rõ tâm và ý của Phật Tổ.

Người xưa thuyết pháp, phần nhiều đều giống như lượm những lá vàng để dỗ cho con nít nín khóc. Triệu Châu Lão nhân bải: "Một chữ Phật, ta không ưa nghe". Lại nói: "Niệm một câu danh hiệu Phật, phải súc miệng ba ngày"

Như thế, theo nghĩa đen văn tự và ý nghĩ, trí thông minh phàm nhân của mình, một số người nông nổi, không thấu rõ nỗi khổ tâm của người xưa, lại nói: "Niệm Phật là của mấy bà già ăn trầu". Hoặc lại cho tham thiền là "Không vong ngoại đạo".

Tóm lại họ chỉ nói cái phải của mình, khơi lên cái quấy của kẻ khác, tranh luận mãi không thôi. Như thế chẳng những là trái với tấm lòng vàng son vốn có của Phật Tổ dùng phương tiện thuyết giáo, và ngược lại họ làm cho người khác có cơ hội để công kích Phật giáo, làm trở ngại đường tu hành để tiến tới Chân - Thiện - Mỹ, liễu sanh thoát tử.

Thấu triệt sâu xa chỗ chân lý của Đạo rồi, thì mặc ai bảo sao cứ bảo. Thiền cũng tốt, Tịnh cũng tốt. Phương Đông đi cũng được, phương Tây tới cũng xong. Cho nên nói "Có" cũng có thể được, nói "Không" cũng có thể được. Đến lúc này thì một màu sắc, một mùi hương, không cái nào chẳng phải là Trung Đạo liễu nghĩa. Tự Tánh Đi Đà, Duy Tâm Tịnh Độ, và ngay lúc bấy giờ tức là "Như vậy" (Như thị), thì làm gì còn có nhiều dây mơ rễ má, rối rít, lăng xăng?

Kinh Lăng Nghiêm nói: "Đản tận phàm tâm, biệt vô thánh giải" (chỉ hết phàm tâm rồi thì không có Phật Thánh thuyết giải gì nữa). Dứt vọng tâm tức là Bồ tát, là Phật rồi đó.

Người niệm Phật chẳng nên chấp trước. Nếu còn chấp, chấp quá đáng, thì niệm Phật trở thành một liều độc dược. Chúng ta niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà là vì thói quen từ vô thỉ rất sâu dày. Vì vọng tưởng khó trừ, nên mượm danh hiệu Phật để làm chiếc gậy chống đi. Niệm niệm chẳng quên, lâu ngày chầy tháng, vọng niệm sẽ bớt dần và tiêu mất đi một ngày nào đó mà ta không hay, không ngờ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

SAU ĐÂY LỜI GHI VỀ MỘT BUỔI THUYẾT PHÁP CỦA HƯ VÂN HÒA THƯỢNG
Ở NGÀY GIỖ KỶ NIỆM ẤN QUANG ĐẠI SƯ NGÀY 21 THÁNG CHẠP NĂM NHÂM THÌN (1952)

THÀNH THẬT NIỆM PHẬT
Đệ tử làm lễ kỷ niệm ngày viên tịch của Sư Phụ là Ấn Quang Đại sư, Hư Vân hòa thượng tham lễ và thuyết pháp:

Đạo lý Phật pháp bảo: "Sư Phụ là Pháp thân Phụ Mẫu (tức là cha mẹ của Pháp thân mình chớ không phải nhục thân như cha mẹ đã sanh đẻ mình).

Uống nước nhớ nguồn! Kỷ niệm ngày Thầy (Sư phụ), tức là đối với Pháp thân Phụ Mẫu tỏ lòng Hiếu, sánh với việc hiếu nhỏ ở thế gian lại còn có ý nghĩa hơn.

Nhớ lại: Lần thứ nhất, Hư Vân tôi với ngài Ấn Quang Lão Pháp sư gặp nhau vào năm Quang Tự thứ hai ở Phổ Đà Sơn. Lúc ấy ngài Hóa Văn Hòa thượng mời ngài Ấn Quang ở chùa trước giảng kinh A Di Đà.

Sau khi giảng kinh này, ngài Ấn Quang ở luôn trong chùa suốt hai mươi năm, đọc bộ Đại Tạng, không ra khỏi chùa một bước. Chỉ là việc đóng cửa tu hành kín đáo, cho nên đối với giáo nghĩa kinh tạng ngài hết sức tinh thâm. Tuy ngài hiểu rất sâu xa giáo nghĩa, mà trái lại, ngài duy lấy một câu "A Di Đà Phật" làm sự tu hành thường lệ. Tuyệt nhiên ngài chẳng thấy tự mình được thông hiểu sâu xa kinh giáo mà coi nhẹ pháp môn niệm Phật.

Chỗ thuyết pháp của Phật, không một pháp nào là chẳng để trị lành bệnh khổ của chúng sanh.

Pháp môn niệm Phật có tên gọi là vị thuốc A Gia Đà, bao gồm chữa hết thảy các chứng bệnh. Tuy nhiên, có điều này, người tu hành phải nhớ và luôn phải có một cách chắc chắn, vững vàng: Chẳng kể tu một pháp môn nào, hành giả đều phải có một lòng tin (đức tin - Foi), nắm cho được vững vàng, thực hành đúng mức sâu xa mới có thể được lợi ích viên mãn.

Lòng tin có vững chắc thì niệm chú cũng có kết quả. Tham thiền cũng có thể thành, niệm Phật mới có lợi ích viên mãn. Cả thảy đều giống như thế.

Nếu đức tin không sâu, mà duy dựa vào chỗ thiện căn nhỏ bé của mình, học vấn của trí thông minh mỏng manh của mình, hoặc nhờ được mấy cái danh tướng, một mớ công án mà nói tướng, nói thánh, cao đàm hùng biện tứ tung, rồi loạn bàn cho cái này là phải, luận cho cái kia là sai...., thì chỉ làm lớn thêm nghiệp và thói quen, để rồi lần đến chỗ sanh tử, thì vẫn như cũ theo nghiệp mình lưu chuyển. Như vậy, há chẳng buồn sao?

Hôm nay các ông là đệ tử của ngài Ấn Quang Lão Pháp sư, làm lễ kỷ niệm ngài. Đó là kỷ niệm sự tu hành chân chính của ngài. Ngài Ấn Quang dẫm chân vào chỗ chân thật mà tu hành, một cách chân thực. Ngài thật là đủ để theo dõi dấu vết của cấc bậc Cổ Đức. Ngài hiểu rõ lý sâu mầu của chương "Phật Viên Thông của Đại Thế Chí Bồ tát", noi theo đó bắt đầu tu hành, được niệm Phật Tam muội mà hoằng dương một ngày. Chẳng từ bỏ sự khổ cực, mệt mỏi! Ngày nay, đích xác là không có người nào làm được như thế.

Người tu hành chân chính thì chẳng nổi dậy sự thấy phân biệt Nhân Ngã, chỉ lấy một câu danh hiệu Phật làm chỗ nương tựa để tu hành, làm cây gậy chống vững vàng mà đi.

Thế là: Buổi sáng niệm, buổi tối cũng niệm, lúc ngồi cũng niệm, làm việc cũng niệm, ngay lúc ăn uống cũng niệm, tiểu tiện cũng niệm...., trong khoảng thời gian niệm niệm chẳng quên, niệm niệm mật mật (khít khao, không gián đoạn).

Khi chỗ công phu của mình làm đã thuần thục thì cảnh giới Di Đà trong sạch hiện ngay trước mắt. Đây là Hư Vân nói lên trọn vẹn yếu chỉ của pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ) cũng như pháp môn Trì Chú (Mật Tông) đến chỗ cứu cánh rốt ráo vậy.

Sự lợi ích bấy giờ thật là không bờ bến, mà tự mình có thể thân chứng được.

Chỉ cần phải có đức tin kiên cố nhất định. Nếu lòng mình chẳng kiên cố thì muôn việc chẳng thể thành.

Nếu ngày nay người ta bảo Tham thiền là tốt, bèn bỏ công phu niệm Phật đi Tham thiền. Ngày mai lại nghe nói học về Giáo lý tốt, lại bỏ Tham thiền đi nghe Giáo lý. Học Giáo lý chưa thông, lại niệm chú... Ô hô! Đầu nào cũng không xong đầu nào!

Món nợ nào cũng chẳng trả xong, tâm mình chẳng định, rồi bảo cho là Phật Tổ lừa dối chúng sanh, báng Phật, báng Pháp, tạo nghiệp không lành.

Ấy vậy, chúng ta phải kiên cố vững tin, tin chắc sự lợi ích của pháp môn Tịnh Độ, noi theo ngài Ấn Quang Pháp sư học chỗ "Thành Thật Niệm Phật", lập chí kiên cố, phát tâm dũng mãnh lấy Tây phương Tịnh Độ làm việc với đời mình.

Tham thiền cũng với Niệm Phật ở người mới phát tâm thì xem thấy là hai việc khác nhau. Nhưng ở người tu hành lâu ngày, đi sâu vào thì chỉ là một thôi.

Tham thiền là xách lên câu "thoại đầu", dứt ngay dòng sống chết. Đó cũng là lòng tin kiên cố nhất định mà tới. Nếu thoại đầu nắm chẳng vững chắc thì Thiền tâm, Tham thiền cũng chẳng thành.

Trái lại, nếu lòng tin kiên cố, nhất định ôm chắc, ôm chết một câu thoại đầu, chí đến chỗ uống trà không biết là trà, ăn cơm chẳng biết là ăn cơm, tới công phu thuần thục, thì căn trần thoát lạc, sự dụng lớn hiện ra, thì cùng với chỗ công phu niệm Phật thuần thục đến chỗ cảnh sạch hiện ra, là một thứ giống nhau, không gì sai khác của đôi bên pháp môn: Tham thiền và Tịnh Độ hay Thiền - Tịnh đó vậy.

Đến cảnh giới này rồi, lý và sự viên dung, tâm và Phật chẳng hay, Phật cũng "như" và chúng sanh cũng "như", chớ không có hai chữ "Như" nào có sai biệt đâu?

Kết luận, xin khuyên tất cả ở đây đều là người Niệm Phật của pháp môn Tịnh Độ, chúng ta nên luôn giữ lấy một câu danh hiệu "A Di Đà Phật" làm chỗ nhờ cậy trọn đời của tự mình. Cứ thành thật tin tưởng, tinh tiến, vững vàng mà niệm: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật!

Niệm Phật yếu như tế thủy trường lưu, niệm niệm bất đoạn, tâm cảnh nhất như, nó tựa thị tham thiền (Hư Vân Hòa thượng). (Niệm Phật phải yếu như giọt nước tuôn chảy dài không dừng, một mạch niệm niệm không gián đoạn, cho đến tâm bất loạn, thì bấy giờ cảnh bên ngoài, tâm bên trong là một vậy. Như thế là Tham thiền đó, có gì khác đâu").

Thiền Tịnh song tu cũng là thế đó thôi!


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Quý Tỵ (1953) - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười bốn tuổi:

Tháng năm, Hòa thượng dắt theo hai thị giả lìa Bắc Kinh đi Sơn Tây rồi vào núi Lư Sơn an dưỡng.

Tháng sáu, mấy vị Thiền sư ở núi Vân Cư đến ra mắt và trình bày sự việc: Lúc quân Nhật xâm chiếm Trung Quốc, vì núi Vân Cư cao và hiểm trở dễ bề cho du kích ẩn nấp, có nhiều điểm ổ chiến lược phục quân, nên chúng đưa quân đến hủy diệt hết toàn bộ chùa Chân Như ở đó. Hiện nay chỉ còn thấy tượng Phật Tỳ Lô Giá Na lớn, bằng đồng ở giữa khoảng tro tàn, cỏ mọc hoang rậm mà thôi.

Hư Vân nghe được rất thương xót và đau đớn. Suy nghĩ, Hòa thượng nhớ rằng: Chùa Chân Như núi Vân Cư kiến thiết từ đời nhà Đường và từ đó đến nay là nơi đạo tràng tối thắng của các vị Tổ. Từ ngài Đạo Dung cổ sơ khai sơn từ năm Ngươn Hòa Đường, rồi ngài Hoằng Giác Đạo Ứng nối tiếp. Sau đó, các vị như: Tế Thiền sư, Dung Thiền sư, Lão Phu Thuấn, Phật Ấn, Liễu Nguyên, Viên Ngộ, Khắc Cẩn, Đại Tuệ, Tông Cảo... đều trụ trì chùa này. Mà những vị khác thanh hóa dến đây thì có ngài Triều Châu Nộm, ngài Vân Môn Yển, ngài Cổ Tháp Chủ, ngài Đông Sơn Thông, ngài Viên Thông Tú, ngài Chân Tịnh Văn... Còn các bậc cư sĩ thì có các ông Bạch Cư Dị, Bì Nhựt Hưu, Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc, Tần Thiếu Du, Lữ Cự Nhân... và nhiều vị khác nữa.

Nay đạo tràng đã lâm vào tình thế điêu tàn này, nếu không trùng tu tái thiết thì mọi việc sẽ chìm đắm hết.

Hòa thượng bèn phát đại nguyện đến đó sửa sang lại hoang cảnh này.
  • Ở chuồng trâu, trùng tu Chân Như Tự Vân Cư
Tháng bảy ngày mồng năm, Hư Vân Hòa thượng đến Chân Như Tự Vân Cư. Chùa chiếm một diện tích dài hơn ba trăm dặm, thuộc huyện Vĩnh Tu. Núi có nhiều tầng, nhiều ngọn xếp lên nhau. Từ xa nhìn vào trông giống như là đá cắm lên trên không, đẹp vô cùng, huyền diệu vô cùng. Mà khi trèo lên đỉnh thì lại là đất bằng. Rồi một dãy núi khác bao bọc chung quanh làm ra một thành quách thiên nhiên . Nơi đó có ruộng vườn, bờ mẫu. Trên trời mây trắng xếp bay. Dòm xuống xa xa, trong các lùm cây nghe có tiếng chó sủa văng vẳng nhỏ... Một ít đền, điện, lầu, gác trải bao nhiêu thời đại được sắc phong xây dựng, chạm trổ, sơn son phết vàng rất tinh xảo, đẹp đẽ còn sót lại. Đây là thời kỳ rất thịnh của đời Đường và Tống.

Tháng chín, các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, đệ tử, cư sĩ ở thành phố Quảng Đông hay tin ngài Hư Vân đã đến Vân Cư, bèn tìm đến thăm. Họ đi đường bộ, đường thủy, lặn lội ngót mười lăm hôm mới đến nơi, cực nhọc lên đường dốc đứng vách đá sừng sững cao ngút trời, cỏ mọc lút đầu. Vì rằng, con đường cũ mà lên dễ dàng được nơi đây trước kia, thì nay không thể nào người ngựa đi nổi nữa, mà phải đi vòng quanh núi hơn hai mươi dặm mới đến được cửa Thạch Môn. Cửa này mở ra sáng sủa. Nhưng, khi đến đây rồi chỉ thấy tường đổ nát từng đóng vụn, hoang tàn, bụi rậm gai gốc ngổn ngang.

Gặp một vị thiền sư, hỏi Lão Hòa thượng ở đâu, thì người ấy chỉ vào một lùm cây. Nhìn kỹ lại, đó là một cái chuồng trâu (Ngưu bằng). Cỏ mọc um tùm, lâu ngày kết chặt nhau, lớn ra làm thành như một tấm vách. Phải cúi rạp mình xuống mới vào được.

Chun vào được rồi, nhìn quanh quất cũng chẳng thấy ai. Đứng yên một lát, nhìn kỹ lại thì bấy giờ mới nhận thấy ngài Hư Vân ngồi trên một chiếc giường nhỏ bằng ván thô, như đang nhập định. Một chập lâu, ngài mở mắt nhìn và bảo: "Các ông cực khổ đến đây làm gì?"

Mỗi người đến lễ Hòa thượng và nói lên tấm lòng của mình.

Hư Vân nói:

- Tôi hồi mới đến đây, chỉ có bốn vị tăng, vốn đồng một ý là che một am nhỏ ở chúng. Nhưng chưa được mấy hôm lại có đến gần năm mươi người tới nữa. Thế nên ngoài cái chuồng trâu này còn có cái nhà mát rộng mấy căn, chắc quí vị đã thấy khi đi ngang qua đó. Nay các ông lại đến, thì có thể ở tạm đó vài hôm. Chuồng trâu này vốn ở phía góc Tây Bắc của chùa xa lối nửa dặm thôi. Chỗ này vắng vẻ thanh tịnh, nên Hư Vân tôi thích ở đây hơn.

Đến tháng mười, số tăng ở mọi nơi đến càng đông. Sự ăn uống nay có được cư sĩ Ngọc Giai ở Thượng Hải cúng dường cho một số tiền nong đủ cho đến tàn Đông.

Trong lúc ấy, ngài Hư Vân trù tính vừa thực hiện ngay công việc khai quang, mở rộng việc trồng cấy, vừa sửa sang xây dựng lại cung điện, đền, liêu...

Công việc làm suốt ngày quần quật, không một ai rảnh tay.

Năm Giáp Ngọ (1954) - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười lăm tuổi:

Chánh điện chùa Chân Như được xây dựng lại. Vì pho tượng đồng Tỳ Lô Giá Na Phật cao hơn một trượng, từ đời nhà minh, khoảng năm trào Vạn Lịch, do Thánh Tử Hoàng Thái Hậu khiến đúc cúng vào chùa nên sơn thếp vàng ròng (tráng kim). Do đó, chánh điện phải kiến thiết cao nhiều hơn. Lại nữa, là vì ở trên dỉnh núi cao, gió quá mạnh, ngói bằng đất nung thì dễ bay mất, nên phải dùng sắt lợp mái điện. Vậy muốn xây chánh điện, trước hết phải đúc những tấm ngói bằng sắt (thiết ngõa). Thế là tăng chúng họp lại xây lò rèn, tự lực chế ngói sắt, đồng thời đúc luôn bốn cái vạc nấu cơm rất lớn và hai cỗ đại hồng chung bằng đồng rất to.

Lúc bấy giờ số tăng ở chùa rất đông, hơn bốn trăm người, vừa sốt sắng sửa chữa chùa, vừa hăm hở chăm lo việc tu hành. Và một số khác hăng say trong công việc gieo trồng lúa, bắp, rau, đậu... và làm công nghệ.

Các vị tăng tục và đạo hữu trong, ngoài nước nghe được tin này, lại thường về cúng dường những số tiền rất to lớn.

Đã có người, nhân công đủ mọi ngành, đất đai, địa thế, tiền bạc, sự ủng hộ tích cực của tín đồ, nên không mấy chốc mà chùa đã sửa chữa, xây dựng thành tựu chu đáo nguy nga, lộng lẫy về mọi mặt.

Tuy nhiên, Hư Vân hòa thượng vẫn ở trong chuồng trâu như xưa. Nhiều sư tăng, đệ tử yêu cầu ngài về ở phương trượng, nhưng ngài bảo: "Tôi thích cái chuồng trâu vì nó "xưa" và "u nhã" hơn nữa tôi có nhiều kỷ niệm ở nó.

Một hôm chuồng trâu phát hỏa, ngài cũng cương quyết không đổi ý kiến theo lời yêu cầu tha thiết của mọi người chung quanh, mà cố sửa chữa lại chuồng trâu này, bằng cách đan tre làm phên, dậu và lợp nó lại bằng cỏ như cũ, trông rất tao nhã.

Trong khi trùng tu xây dựng chùa, lúc dời pho tượng Tỳ Lô Giá Na Pật và đào đất ở đó, thì phát hiện ra một tòa nhà bằng đá có cung điện xây ngầm dưới đất. Đồng thời cũng gặp được ba tấm bia bằng đá, hai cái hộp bằng đá cũng còn nguyên vẹn.

Khảo xét kỹ thì biết rõ một cái thuộc về triều đại nhà Tống đời vua Thiệu Hưng do Pháp Hư thiền sư chế tạo, một cái ở vào triều nhà Minh nhằm năm Vạn Lịch do Hồng Đoạn thiền sư tạo. Trong hộp đá này có một số pháp bảo để trấn ếm cho pháp tòa này:
  • - Một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao hai tấc.
    - Một lư hương nhỏ bằng đồng.
    - Ba cái kiếng đồng hình chữ nhật dài hai tấc (thuở xưa dùng đồng dánh bóng để soi mặt, chứ không tráng thủy ngân như ngày nay).
    - Một cái kiếng khác kiểu bằng đồng, chung quanh có khắc hình giống như đóa hoa.
    - Tiền đồng thời đại nhà Minh (bốn mươi tám đồng).
    - Một bát sứ dùng đựng nước trong năm Vạn Lịch đời Minh.
    - Một cục đá khá to, hình tròn, trong suốt như thủy tinh.
    - Một cái nghiên mực bằng đá hình vuông dài.
    - Một cái nghiên mực bằng đá nhỏ hơn để trong một cái hộp có nắp đậy kỹ lưỡng.
    - Một cục giáng hương rất thơm.
    - Một cái hộp bằng đồng, hình tròn, thời đại nhà Minh.
    - Một bình vàng đựng ngọc Xá lợi và hai hột ngọc Trân châu lớn.
    - Một cái chậu nhỏ dát vàng.
    - Một hộp đá mài sơ sơ, gồm luôn cả nắp.
Tất cả đều là những pháp bảo trấn ếm cho Pháp tòa này.

Năm Ất Mùi (1955) - Hòa thượng Hư Vân một trăm mười sáu tuổi:

Công việc xây dựng chùa vẫn tiếp tục. Các nhà cửa, điện đường càng thâm, nào Hương Tích Trù (nhà bếp), Thiền quán, Khố phòng (kho chứa), Khách đường, Thiền đường, liêu phòng, lầu, gác...

Các vị tu hành mọi nơi quy tụ, cầu xin Hư Vân hòa thượng truyền giới. Số tăng đến chùa càng đông hơn về rất đông hơn, gần đến số ngàn. Lương thực không đủ, chỗ ở thiếu, gây nên tình trạng khó khăn cho chùa.

Lại nữa, gần đây Thiên Chúa giáo đường đất Thượng Hải phát sinh sự biến động không tốt. Phật giáo Thanh niên Hội cũng nẩy lên biến cố không hay. Rồi Kim Cang đạo tràng cũng có biến lộn xộn.

Cái biến trọng đại hơn nữa là chánh phủ tỉnh Cam Túc đánh điện cho chánh phủ Giang Tây (mà chùa Chân Như ở Vân Cư sơn thuộc nơi này quản lý), cho hay rằng có nhiều đầu mục ngoại đạo trá hình mặc áo nhà tu đến chùa Chân Như cầu thọ giới. Nắm được tin này, ngài Hư Vân hết sức thận trọng, cùng thảo luận với cơ quan an ninh địa phương để đề phòng và làm việc.

Lúc bấy giờ những người cầu thọ giới đã đến và vào ở trong chùa rồi. Nếu cự tuyệt, không tiếp họ là trái với quy chế của Phật, vì cánh cả Phật mở rộng cho tất cả mọi người. Và ở đây, tùy hoàn cảnh, ngài Hư Vân đưa kinh Phạm Võng ra giảng là: "dùng phương tiện tự mình thệ nguyện mà thọ giới". Rồi ngài thuyết minh các pháp Thập giới, Cục túc giới, Tam tự giới.

Ngài Hư Vân phải trải qua ngót mười ngày hết sức mệt nhọc, nói đếm miệng khô, lưỡi cuốn, khuyên mọi người nên trở về chùa của mình, noi theo thủ tục truyền giới, tự mình thệ nguyện mà thọ giới lấy. Thế là mọi chuyện ồn ào rúng động ở chùa được thu xếp xong.

Tuy nhiên, thâm tâm Hòa thượng cũng còn thắc mắc không yên, và luôn luôn nghĩ đến cảnh những người thật tâm đến chùa mà không được ngài chiếu cố "thọ giới" cho.

Liền đó là chùa mở một "Thiền thất".

Lúc bấy giờ chùa đã vỡ được một trăm bốn mươi mẫu ruộng trồng lúa và những huê lợi khác như trà, cây ăn trái, cũng khá nhiều cung cấp đầy đủ cho chùa. Công việc mồ hôi đổ xuống biến rừng hoang thành đất mầu mỡ khiến cho có nhiều con mắt dòm ngó.

Rồi một hôm cơ quan cai trị địa phương lấy danh nghĩa khai khẩn đất hoang, tăng gia sản xuất ở núi này, làm lợi cho đất nước, tuyên bố thiết lập sổ Nông Lâm, lấy cơ sở ruộng vườn vừa khai phá của chùa làm cơ sở.

Ngài Hư Vân và các chư tăng đều ẩn nhẫn chịu đựng. Được thế, được trớn họ lấn luôn chút đất ít ỏi còn lại quanh chùa và đuổi luôn Hòa thượng ra khỏi chuồng trâu để thi hành triệt để một cuộc sáp nhập toàn diện của chánh sách.

Không còn làm thinh nhẫn nhịn được nữa, Hư Vân hòa thượng phải đem hết sự tình trước sau đầy đủ đánh điện về Bắc Kinh báo cáo tình cảnh của ngài đang mắc phải với chánh quyền dịa phương.

Chánh phủ Trung Ương được tin này, liền xuống lịnh bắt cơ quan địa phương phải lập tức trao trả chuồng trâu và tất cả đất đai của chùa đã khai phá để cho chùa quản lý.

Tuy chẳng dám trái lệnh Trung ương, nhưng từ đó địa phương mang trong lòng mối bất mãn và căm hờn. Họ bảo ngài Hư Vân cậy thế lực thượng cấp áp bức cơ quan địa phương, rồi từ đó họ gây ra bao nhiêu chuyện bực mình và khó khăn cho chùa.

- À lũ ma vương đang nổi dậy. Mặc cho ma làm việc ma, chùa vẫn tiến hành công việc của chùa: dọn dẹp, sửa sang, xây dựng, trồng trọt, sản xuất và công phu tu hành đều không thối chuyển.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Năm Kỷ Hợi (1959) - Hòa thượng Hư Vân một trăm hai mươi tuổi:

Từ năm Ất Mùi (1955), ngài Hư Vân tiếp tục ở núi Vân Cư, sau khi sửa sang, xây dựng chánh điện, Đại Hùng Bảo Điện, Tàng Kinh Lâu, Thiền đường, Ngũ quán đường, Tăng liêu.... Hương Tích trù, Khố phòng kho, nhà Tiếp khách, Hải Hội tháp và khai hoang thêm diện tích trồng trọt lên đến hai trăm mẫu, tự túc lương thực cho tăng chúng và thập phương đến tham học về Thiền chế tại chùa Chân Như.

Đến đầu Xuân 1959, các Tung lâm, chùa chiền trong nước và ngoài nước cùng toàn thể đệ tử của ngài Hư Vân biết rằng năm nay ngài hưởng thọ một trăm hai mươi tuổi, cùng tuổi thọ với ngài Triệu Châu lão nhân thuở xưa, nên cùng với các đoàn thể Phật giáo Trung Quốc bàn định rối rít với nhau tổ chức một cuộc lễ long trọng để chúc thọ ngài.

Trong thời gian đó, Hòa thượng nhận được rất nhiều thơ từ, điện tín khắp nơi gởi đến chùa Chân Như chúc thọ và ngỏ ý cho ngài biết công cuộc buổi lễ trên.

Ngài liền ra lệnh ngừng tất cả mọi ý định trên và viết thư phúc đáp:

- "... Vân này chưa biết sống chết lúc nào. Được biết hảo ý của Lão cư sĩ họ Ngô định tổ chức một cuộc lễ chúc thọ đối với Vân này, tôi lấy làm xấu hổ, không dám nhận vinh dự đó. Vì tự nghĩ: Nghiệp mình còn sâu dày, với xác thân bệnh hoạn! Phương chi hiện nay sóng gió đang nổi lên khắp nơi trên thế giới, ngọn lửa chiến tranh mới vừa tàn trên đất nước, mà sự tình chưa phải là kết liễu. Mỗi khi nghĩ lại chuyện đã qua, Hư Vân tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng vì tự thân mình vẫn còn lầm lạc, chuốc vào người bao hư danh trống rỗng.

Sống trên đời một trăm năm như sống trong khoảnh khắc của một giấc mộng huyễn mà thôi. Có gì mà phải tham luyến với nó. Huống nữa, đã sinh ra là đã có đầu mối của cái chết chực chờ sẵn rồi.

Bậc trí giả chân chính luôn phải cảnh tỉnh và giác ngộ. Một lòng tinh tiến với đạo, không nề gian khổ mà lùi bước. Lúc nào cũng như cứu lửa cháy ngay trên đầu mình vậy. Chúng ta không nên có thái độ và tình cảm như người thế tục. Vân nầy xin cảm tạ tất cả thiện ý của quý vị bằng tấm lòng của mình và xin từ tạ mọi tổ chức diễn lễ chúc thọ. Vì các điều ấy chỉ tăng thêm tội cho lão nhân này và gây những tổn phí, công lao vô ích thôi
".

Sau đó mấy tháng, một phu nhân tỷ phú người Hoa kiều ở Bắc Mỹ trở về nước, có ý định đưa ra một số tiền xây dựng một "Lưu Vân Thiền Viện" nhân chúc Sư được trường thọ, trụ thế mới lợi ích phổ hóa chánh pháp cho mọi người. Nhưng Hòa thượng cũng biên thơ lễ phép, dịu hiền khéo léo từ chối, tự cho mình chưa xứng đáng nhận lấy món quà này. Ngày mồng ba tháng tám Kỷ Hợi, sau khi dặn dò các công việc phải làm về sau và phân phát kỷ vật cho các đệ tử thân tín như:

- Tặng sư Khoan Định một pho tượng ngọc Phật và Đạo Hồng Tổ Y, cùng một khối hổ phách màu đỏ để bôi vào mắt cho sáng. Ngài cũng lưu niệm cho cư sĩ Sầm Học Lữ một Đại Hồng Tổ Y v.v...

Sau đó quay lại mọi người trong chùa nói lời khai thị rất có ý nghĩa sau này:
  • Hiểu rõ thì sống cũng tốt, chết cũng tốt! Và làm con trai, làm con gái cũng đều tốt cả! Bởi vì thực ra không có các tướng sanh, tử, tướng nam, nữ gì cả. Nếu không minh bạch thì chẳng được "tự nhiên như nhiên" vậy.

    Cho nên, phải biết rằng tướng pháp của thế gian đều là huyễn hóa, như hoa đốm hư không, như bóng trăng trong nước chảy, không có gì là chân thật. Duy có điều là hãy "Nhứt tâm niệm Phật" và lấy đó làm tư lương cho sự vãng sanh của mình vậy
    .
Ngày bảy tháng mười 1959 (tức mồng sáu tháng chín năm Kỷ Hợi) bệnh tình của ngài Hư Vân càng lúc càng thêm trầm trọng.

Ngài lại tiếp được điện tín từ Bắc Kinh cho hay ông Lý Tế Thâm đã từ trần.

Ngài bảo:

- Nhậm Trào sao lại đi sớm trước ta? Ta cũng nên đi cho rồi vậy.

Thị giả nghe nói, rất kinh ngạc. Từ mấy ngài nay Hư Vân không rời khỏi sàng Thiền, hơi thở khi dài khi ngắn, phần lớn đều ở trong trạng thái như ngủ. Thị giả luôn hầu bên cạnh ngày đêm. Mỗi khi mở mắt ra nhìn thấy, ngài đều khiến những người này đi ra ngoài. Ngài bảo: "Không sao, Ta có thể tự lo liệu được...."

Ngày mười hai tháng chín, vào giờ ngọ, Hòa thượng ra lệnh đem cái khám thờ Phật đưa vào trong biệt thất để thờ phượng.

Thị giả thấy ngài có vẻ khác lạ, chạy đi cấp báo khắp nơi trong chùa. Mọi người đều hướng về ngài để vấn an, đến cung thỉnh ngài vì pháp mà ở lại trường trụ tại thế gian. Hòa thượng bảo: "Sự tình như đến ngày nay, chớ nên làm như người thế tục. Chỉ nên vì ta, mọi người hãy lên Đại điện thành tâm niệm Phật".

Đại chúng xin ngài cho một lời khai thị tối hậu và di chúc.

Ngài đáp: "Về thân hậu sự, mấy ngày trước đây, ta đã hướng về các ngươi mà khai thị rồi. Bất tất phải rườm rà nhiều lời chi nữa. Bây giờ các ngươi hỏi ta lời tối hậu sau cùng, thì đây:
  • Chỉ cần nên có đủ Giới, Định, Huệ, tức trừ diệt Tham, Sân, Si.
Rồi ngài lại bảo: Nên chánh niệm, chánh tâm, để phát ra từ đáy lòng tinh thần Đại Vô Úy, và nên cứu giúp người khác, cùng toàn thể Nhân loại. Các người đã khổ cực với ta nhiều rồi, nên đi nghỉ sớm".

Mọi người đều chắp tay cáo từ ngài.

Núi Vân Cư địa thế rất cao. Thời tiết đã vào quá Thu. Các ngọn gió lanh thổi từng luồng như cắt vào da. Cây cỏ ngã rạp, âm thanh ầm ĩ sắc cạnh. Vài cây cổ thu đứng thẳng như chọc trời. Vạn vật đều bị đảo lộn, quay cuồng, lên xuống, rung động theo từng chiều gió trong màn đêm.

Trong thất chỉ có một ngọn đèn mờ ảo, nhỏ như hạt đậu.

Ngoài cửa chùa, sương tuyết nhỏ từng giọt, lóng lánh như hạt minh châu. Nhìn vào trong cái cốc chuồng trâu (Ngưu bằng) chỉ thấy một ông lão đang tĩnh tọa trên sàng.

Ngoài ra, từ nơi Đại điện ở quãng xa, vẵng nghe tiếng Đại hồng chung ngân từng chấp đi vào trong đêm sương lạnh. Và tiếng kinh thì thầm cầu nguyện, tiễn đưa.
  • Ngày mười ba tháng mười năm 1959 (12 tháng 9 năm Kỷ Hợi)
Hai người thị giả tiến vào thất, thấy ngài Hư Vân đang ngồi kiết già tĩnh tọa như thường lệ. Chỉ có hai gò má ngài ửng hồng như mấy ngày trước.
Họ không dám làm kinh động ngài, tháo lui ra ngoài để thủ hộ như cũ.

Đến mười hai giờ, từ cửa sổ nhìn vào, họ thấy ngài đứng lên, ra khỏi sàng tọa, tự lấy nước uống. Rồi lại đứng lên như làm lễ Phật.

Các thị giả e ngài thân thể bệnh đã lâu, sợ ngài có thể ngã xuống đất, nên lật đật đẩy cửa tiến vào đỡ ngài. Nhưng ngài vừa ngồi xuống thong thả nói:

- Ta vừa khoảnh khắc thấy một con trâu đạp gãy cây cầu đá Phật Ấn. Rồi lại thấy nước Bích Khê ngưng chảy!

Đoạn ngài nhắm mắt lại không nói gì nữa!

Đến mười hai giờ ba mươi, ngài gọi thị giả mời hết mọi người đến đông đủ. Ngài mở mắt nhìn hết mọi người, chốc lác, rồi nói:

- Quý vị theo hầu ta trong nhiều năm, cực khổ đã lắm! Ta cảm thán! Những chuyện về trước, không cần nói nữa. Trong vòng mười năm trở lại đây, ta gặp nhiều cảnh đắng cay, nhiều nguy hiểm. Nhưng nghĩ ra, đều có thần Hộ pháp trợ giúp. Bị người phỉ báng, dèm siểm, nhưng ta vẫn cam tâm nhẫn chịu. Duy chỉ còn nghĩ đến việc nước mà bảo tồn các đạo tràng của Phật Tổ.

Vì thủ hộ, giữ gìn các chùa chiền, am viện thanh quý của Tổ Quốc, và cũng vì mọi người xuất gia mà bảo vệ "cái áo cổ lớn" (áo tràng và cà sa của thầy tu) của người tu hành, đã đã từng tranh biện thắng lợi.

Các người đến với ta ngày nay, được xem như là đệ tử nhập thất của ta. Việc đạo đã trải qua rất nhiều rồi vậy.

Các người từ đây về sau, có cất am cốc để tu hành, hoặc đi tứ phương tùy duyên hóa độ, đều nên kiên trì giữ gìn cái "áo cổ lớn" đó.

Nói xong, ngài chắp tay lại rồi nói: "Trân trọng".

Ngài bèn ngồi ngay ngắn, nhắm mắt lại. Mọi người đều rơi lệ, êm thắm lui ra ngoài. Đến khoảng một giờ, hai người thị giả vào phòng, thấy ngài đã nằm nghiêng về phía hữu theo thế kiết tường. Ngài đã thị tịch rồi.

Mọi người đều tề tựu đông đủ, tụng kinh tiễn đưa Giác linh ngài. Rồi ngày đêm, tăng ni và đại chúng luân lưu niệm Phật.

Ngày mười tám, liệm ngài vào khám.

Ngày mười chín làm lễ trà tỳ... một mùi hương thơm nhẹ thoảng đưa khắp nơi. Từ lúc bắt đầu châm lửa, một làn khói trắng bay thẳng lên không trung.

Sau đó, mở lò thiêu, được xá lợi có màu ngũ sắc trên một trăm hột. Còn những hột nhỏ thì vô số, mà hột màu trắng chiếm đa số.

Ngày hai mươi mốt, đem hết tro của ngài vào Vân Cư Hải Hội Tháp để thờ. Ngài trụ thế một trăm hai mươi tuổi, tuổi tăng lạp được một trăm lẻ một.

Để kết luận soạn giả xin ghi nguyên đoạn văn của ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền viết ở Từ Quang số 113, 114:
  • "Lược thuật lịch sử của ngài, chúng tôi lắm lúc ngậm ngùi và luôn kính phục. Đây mới là một gương tự độ, độ tha.

    Tự độ thì trên đường Thiền đã đi đến Chánh Định, tâm cảnh đô vong, xa chơi miền Đâu Suất.

    Độ tha, thì quy y khai thị cho không biết mấy vạn người, kiến tạo trùng tu không biết bao nhiêu pháp tướng để làm nơi quy ngưỡng cho công chúng, nhưng trước sau chỉ có một bình bát, ba cà sa, không bao giờ có chùa riêng, chúng riêng, đừng nói đến tư tài.

    Hy hữu, hy hữu!
    "
    • (15-09-1984)
      Thanh Lan Võ Ngọc Thành Soạn
(Ở báo Từ Quang số 113, 114, ông Chánh Trí Mai Thọ Truyền nhắc: Hòa thượng Hư Vân đã viên tịch ngày ba mươi tháng chín Kỷ Hợi, nhằm ngày 21 tháng 19 năm 1959).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHỤ LỤC
1. THƠ VĂN CỦA HƯ VÂN HÒA THƯỢNG

Trong lịch sử về thơ của Trung Quốc, có những thi nhân sống lâu, nhưng đến ngoài một trăm tuổi như Hư Vân hòa thượng thì rất hiếm.

Sống một trăm hai mươi tuổi mà vẫn khỏe mạnh, trí óc minh mẫn sáng suốt, và từ nhỏ đến già buông bỏ thoát ly hết mọi việc thế trần, lấy khổ hạnh làm lẽ sống, điều vui thú lấy thân mình thờ phụng Phật làm điều vinh quang, dù một trăm năm như một ngày, thì trong lịch sử cao Tăng của Trung Quốc cũng là rất ít có được vậy.

Dấu chân Hư Vân in vết từ trên khắp nẻo đường Trung Quốc, đến vô số danh sơn thắng cảnh giáp đến Tây Tạng, vượt qua Hy Mã Lạp Sơn, triều lễ năm xứ Ấn Độ, rẽ đường đến Nam Dương quần đảo... khiến cho ta nghĩ đến ngài Pháp Hiển đời Tấn sang Ấn Độ du học, ngài Huyền Trang đời Đường "đi thỉnh kinh", và ngài Từ Hà Khách ở Minh triều.

Nguyện lực của ngài rất lớn, mà học lực của ngài cũng rất sâu rộng.

Nay, căn cứ vào chỗ biên tập cả thảy có ba trăm chín mươi bài, toàn đầy đủ chất trong sáng, thâm thúy, huyền diệu.

Để thưởng thức. soi xét và hiểu rõ công phu chân thật của ngài trong công việc tu hành xuyên qua văn thơ, xin đưa ra một ít vậy.
  • Táp tải tha hương khách
    Nhất củng cố quốc xuân
    Hàn yên lung tế vũ
    Sơ trúc bạn u nhân
    Sa kiến nghi vi mộng
    Thâm đàm giác bội nhân
    Khả kham lương dạ nguyệt
    Nhứ nhứ thoại tiền nhân.
Dịch:
  • Ba mươi năm khách tha hương
    Một cây tre mùa xuân quê hương cũ
    Khói lạnh lồng vào cơn mưa nhỏ
    Trúc xưa làm bạn người u tịch
    Chợt thấy nhau, ngờ là trong giấc mộng
    Nói chuyện sâu xa càng cảm thấy thân thiết bội phần
    Có thể thức suốt đêm trăng mát đẹp
    Nói chuyện người xưa không thôi.
Đây là bài thơ làm khi Hòa thượng trở về chùa Cổ Sơn gặp sư Cổ Nguyệt. Bài thơ này cho ta thấy ngài đã siêu thoát, mùi vị thật đậm đà. Nếu đem thơ này đặt vào lớp thơ cuối đời Đường trước Tống, thật không có gì là quá đáng.

Thơ ngũ ngôn từ xưa đến nay rất khó làm. Trong tập thì của ngài Hư Vân, loại này có hơn tám mươi bài, chất vị cũng gần như thơ của ông Lâm Bồ, ngang hàng nhau.

Lại nữa, xem ra Hòa thượng cũng không khác gì là Đào Uyên Minh tái thế, mặc dù phương thức sinh hoạt không giống nhau, mà cái chỗ "xuất khẩu thành chương" thì như một vậy. Xin đưa ra một bài:
  • Sơn cư ý hà viễn
    Phóng khoáng liễu vô nha
    Tùng căn tự gác trẩm
    Thụy khởi tự phanh trà.
Dịch:
  • Ở núi ý tứ sao xa xăm
    Phóng khoáng, rồi không có bến bờ
    Lấy gốc rễ tùng tự làm gối
    Ngủ dậy, tự mình nấu nước pha trà uống.
Trừ những bài thơ này ra, thơ của Hòa thượng phần nhiều là thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ cú.

Đây là bài tứ tuyệt vịnh Cục đá lạ lùng ở chùa Vân Thê, núi Nga My:
  • Thạch hác vân đào cao tứ thiên
    Hồn luân hoàn thị tái sơ tiên
    Pha tiền độc tử mê quy lộ
    Dẫn nhập phương phong thứu bạch liên.
Dịch:
  • Hang đá sang mây cao vút trời
    Cuộn vẫn là trước đời Thái Sơ
    Trên bờ, trẻ mục đồng mê không biết đường về
    Dẫn vào gió thơm dẫm lên hoa sen trắng.
Câu "Dẫn nhập phương phong thứu bạch liên" đọc lên, thấy hay là dường nào!

Câu này tuy là hiện thành tự nhiên mà ý vị hết sức sâu xa. Trong thơ của ông Vương Ngư Vương (người phê bình Liêu Trai Chí Dị) có câu "Môn ngoại dã phong khai bạch liên" (gió đồng ngoài cửa hoa sen trắng nở). Ngài Hư Vân thoắt chốc đổi xướng câu thơ trên, bài cũng tự mình thành ra Diệu Đế.

Chẳng những thơ ngũ ngôn, tứ tuyệt, ngài làm rất hay, thơ tám câu cũng xuất sắc, như bài "Qua núi Không Đồng".
  • Tạc phá vấn căn nhất kình thông
    Thiền thê viễn tại bích hà trung
    Nhan xuyên tuyết khiếu thiên phong lãnh
    Nguyệt đáo thiền tâm ngũ uẩn không,
    Ngoan thạch phong yên hoàn Thái Cổ
    Tà dương nhập vũ sái Không Đồng
    Sơn tăng bất ký nhân gian sự
    Văn thuyết Quảng Thành hữu đạo phong.
Dịch:
  • Soi phá gốc mây một lối thông
    Ở đó tu Thiền xa nơi trong đám mây xanh
    Núi xuyên vào lỗ tuyết có ngàn ngọn lạnh lẽo
    Trăng đến với tâm thiền, ngũ uẩn đều không.
    Đá trơ phủ khói, vẫn là từ đời xa xưa
    Ánh dương soi vào giọt mưa núi Không Đồng
    Sư núi này không nhờ gì việc trần gian
    Nghe ông Quảng Thành có phong cốt đạo.
Đến như những bài tuyệt tác khác của hòa thượng thì có bài "Bì đại oa" (cái túi da) làm khi ngài mười chín tuổi. Bài này có câu ba chữ, câu bảy chữ xen lấn nhau. Lời thơ thông thường mà ý thâm sâu dài. Các nhà sư nên học nằm lòng.

Thơ của ngài lại mới xuất bản gần đây, nên ít có người đọc và phê bình, vì thời cuộc. Còn như chỗ tinh thần của ngài mà người ta nên lưu ý và chiêm ngưỡng khônG phải ở thơ mà ở Đạo thôi. Thế cho nên, Thơ đối với ngài chỉ là thứ du hí trong khoảng vui buồn. Những lời than nho nhỏ, sau khi ngài cônG phu tu hành, lại thành ra những bài thi này, trong lúc ngài không chăm chú để ý gì đến đó. Được những câu thơ như vậy thật ngoài cái cao hứng của ngài.

Cho nên, chẳng cần đến mà thơ tự đến, chẳng cần hay mà thơ tự hay, hay một cách tự nhiên như nhiên, và người đọc cảm thấy đáng yêu dường nào!

2. MỘT BỨC THƯ CẢM ĐỘNG CỦA NGƯỜI ĐỒNG TU, CAO HỌC NIÊN, GỞI HƯ VÂN ĐẠI SƯ:

Trên sông ngày trước, một lần xa cách. Ngày nay trên đất liền, lại gặp nhau. Lòng tôi vui buồn xen lẫn. Trong khoảng gảy móng tay mà đã hai mươi năm rồi! Thời gian qua mau, thật là đáng sợ! Lẽ ra, tôi phải cùng ngài nói chuyện một cách sướng khoái, nói chuyện "thương hải tang điền", những chuyện Tam tam(1). Vì ngài tuổi đã cao, đường xa vất vả mệt nhọc, lại gặp ngay Pháp Hội mới mở, mọi chúng sanh nương theo. Ngài hiện ra đại uy đức, lấy thần lực cảm hóa chúng sanh, cảnh và tướng ngũ dục(2) chẳng có thể trói buộc được ngài. Cửa quan danh lợi chẳng thể nào ràng rịt được ngài. Đây là diệu hạnh không thể nghĩ bàn.

Tôi rất lấy làm hổ thẹn là người tích tập nghiệp chướng, chưa làm sao cho nó tan mất được. Ơn Phật chưa báo. Tuy có tham thiền mà chưa thấu suốt. Học hỏi chưa thành tới thấy cái cảnh tướng, mà còn bị vật lay chuyển, nên vẫn còn là sự sống trong cái bóng huyễn hóa, chẳng được thọ dụng một cách chân thực.

Mấy chục năm trôi nổi nơi mây nước, bói cỏ đón gió (bát thảo chiêm phong), đi tìm nơi yên tĩnh để mà tu hành! Ở trong xóm năm ba nhà, tôi chẳng tránh mưa nắng, gió cay, ở trên đầu trăm ngọn núi nhọn như đao, tôi chẳng nệ đội sao mang trăng, bất chấp hoàn cảnh thuận nghịch, mà chẳng bao giờ thối lui. Trăm lần gãy, cũng chẳng quày đầu trở lại, chỉ nhắm cái việc lớn là sanh tử vô thường, nó mau chóng mà tới.

Nay còn chưa nắm vững được, nên tôi hết sức hổ thẹn!

Tôi chỉ còn trông mong ngài, ở trong ánh sáng định rực rỡ, đem cái hùng lực của ngài để nâng đỡ, giúp tôi vượt ra khỏi biển khổ, để thoát khỏi cửa Tam đồ Bát nạn.

Nay có thơ này đến ngài, kính chúc ngài: Mặt trời Phật rọi cao, làm lợi cho khắp cõi Trời và Người!

Người học hổ thẹn, tên là Cao Học Niên làm lễ.

Năm Quí Tỵ, ngày Nguyên Đán từ cốc Đại Giác biên thư này.

CHÚ THÍCH:

(1) Ba cái tính trước và ba cái tính sau đều là vô tính, tức là: Biến kế sở chấp, y tha khởi tính và viên thành thật tính.

(2) Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ say (tài, sắc, danh, thực, thùy).

3. LỜI BÌNH CỦA CÁC GIỚI SAU MỘT CUỘC TIẾP ĐÓN KHI HƯ VÂN HÒA THƯỢNG ĐẾN THƯỢNG HẢI
NGÀY 11 THÁNG CHẠP, NĂM NHÂM THÌN (1952) TẠI SÂN GA HỒI SÁU GIỜ CHIỀU


Ở một buổi chẳng bình thường, (vì là dưới chế độ Mao Trạch Đông), ở ga phía Bắc Thượng Hải, tôi lần thứ nhất thấy được Hòa thượng Hư Vân.

Buổi tối hôm đó, tôi mang tâm tình nghiêm trọng kính cẩn theo hơn một trăm vị đến sân ga rực sáng ánh điện, chực đón ngài, sáu giờ ba mươi phút! Tiếng còi vang lên. Đoàn xe lửa Bắc Kinh - Thượng Hải tiến vào sân ga.

Tình tự của các đám đông người hoan nghinh dâng cao tràn trề, cẩn thận, thành thật, chuẩn bị nghinh tiếp vị cao tăng Hư Vân Lão hòa thượng, một nhà tu hành danh tiếng nhất của Phật giáo Trung Quốc hiện nay, từ Bắc Kinh đến.

Khi xe vừa ngừng, đang lúc tôi suy nghĩ, Hòa thượng Hư Vân được người đại diện đỡ từ trên toa xe bước xuống. Hơn một trăm đại biểu đứng chực ở sân ga, đồng loạt chẳng ai bảo ai, trang nghiêm chắp tay tỏ lòng kính mến. Rồi tiếng niệm Phật vang rền khắp nơi.

Thì ra hàng ngàn quần chúng đón xe, hòa mình với Phật tử, với đoàn đại biểu, hoan nghênh Hòa thượng.

Chú ý nhìn ngài (tôi thấy) người vóc hơi cao, đạo mạo uy nghi đáng kính, đầu đội một cái mũ che gió màu đen, bít cả hai tai, nét Từ bi hiển lộ rõ ràng trên khuôn mặt hơi gầy.

Sau khi bước xuống xe, chẳng quan tâm đến sự mỏi mệt vì đường xa của mình, ngài liền giơ tay về mọi người vẫy chào. Con mắt từ bi nhiều lần chú tâm nhìn vào mọi người đang hoan nghinh ngài. Cử chỉ ấy, cái nhìn ấy chứng tỏ rằng pháp thể ngài còn khỏe, điều ấy khiến cho tôi là người hết sức ngưỡng mộ ngài, rất vui mừng. Còn đối với Phật giáo đồ thành phố Thượng Hải rộng lớn này thì quả thật là một niềm vui lớn! Sau khi ngài bước qua khỏi cái nạn khủng khiếp ở Vân Môn.

Khi ra khỏi sân ga rồi, tiếng niệm Phật, tiếng vỗ tay từng chập cũng chưa dứt. Mọi người đều cảm động, vui mừng, với những đôi mắt rướm lệ! Khung cảnh này đem lại cho tôi một sự khai thị hết sức đặc biệt.

Ngày nay, Hòa thượng Hư Vân đi tới chỗ tất thành làm cho Phật giáo chủ lưu, Ngài đáng tư cách là một bậc Long Tượng. Và chính đây, hôm nay, ngài lần dẫn dắt chúng tôi đường hoàng ra khỏi nhà ga. Việc này há chẳng phải là chỗ sở tại của Phật giáo chủ lưu ở Thượng Hải này ư? Thật ra, ngày nay Phật giáo cần phải có ngài lãnh đạo, Tứ chúng đệ tử lại cần yếu có ngài dẫn dắt hơn nữa. Lúc ấy, tôi đã đi theo ngài, dưới ánh từ quang chói lọi che chở của ngài, tôi cảm thấy vô cùng sung sướng và tôi tin rằng mọi người có mặt tại đây hôm nay cũng đều có cảm giác như tôi.

Ngài Hư Vân được đón đến chùa Ngọc Phật.

Hư Vân Lão hòa thượng là vị lão nhân đức cao, danh vọng lớn, đã được một trăm mười ba tuổi, thân thể cao lớn, râu tóc bạc phơ, không thường cạo nên dài mấy tấc..., chòm râu tóc bạc phơ, cử chỉ hòa ái, dáng dấp đạo mạo, cao lớn vững vàng, tuy hơi gầy so với hồi tôi thấy ngài lần trước, thì ngài giống như bức hình pháp tướng của Phật nơi núi Tuyết Sơn (Himalaya). Ngài nói tiếng Hồ Nam là quê hương của ngài. Khi mới nghe ngài nói, tôi chẳng hiểu được bao nhiêu. Nhưng âm điệu của ngài trầm trầm mà mạnh mẻ, tỏ rằng sức khỏe của ngài khá đầy đủ. Giọng nói của ngài rất già dặn, lòng cứu độ chúng sinh rất khẩn thiết, đức Từ, Bi, Hỷ, Xả rất cao.

Ngài khai thị rằng: Chẳng nên có chỗ phân biệt về môn hộ (như giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông). Ngài rất khéo, có thể ứng cơ thuyết giáo thu nhiếp các căn của tín chúng.

... Một sự giáo hóa không lời nói có thể cho người ta sự cổ võ hết sức lớn lao, có thể như một thứ đồng khí, một lực lượng khiến cho kẻ hèn yếu có thể đứng lên nổi, người tham lam trở thành liêm khiết.

Lúc khai thị, ngài đều cúi đầu, mắt hơi nhìn xuống, oai nghi tướng hảo, dù nói năng hay im lặng, động hay tịnh, giống như trọn vẹn ngài ở trong đại định, khiến cho người ta sau khi thấy rồi là phát ra tâm cung kính và một cảm tưởng hiếm có.

Tôi, mỗi lần gặp ngài, liền có cảm giác như đứa bé sơ sinh được nương tựa bên người mẹ hiền, thân tâm tôi nhẹ nhàng, yên ổn, không có chút gì sợ hãi, mà rất tự tại. Thứ thọ dụng này chỉ có giống như lúc tôi đang lạy Phật.

Được thân cận ngài là được thêm một lần hạnh phúc, tâm mình cũng được thêm một lần an ủi.

... Có một lần, người đến chùa Ngọc Phật yết kiến ngài đông nghẹt như nêm, trong ngoài kín mít, không còn chỗ qua lại nổi, rất khó duy trì trật tự. Nhưng mà ngài, ở trong đám người đông đảo này vẫn bình tâm thuyết pháp, tám ngọn gió chẳng lay động. Đúng là ở hoàn cảnh nào, ngài cũng vẫn yên tĩnh như vậy.

Tôi không có mắt tinh tường để có thể hình dung ngài Hư Vân Lão hòa thượng có tâm Từ Bi đến thế nào, nhưng thực tình là lúc đó tôi đã trào nước mắt vì tấm lòng từ ái của ngài. Ngài chẳng xả bỏ một ai, khiến lòng tôi vô cùng cảm động. Ngài là một bậc Long Tượng, thông cả Tông lẫn Giáo, đích xác là không sai rồi vậy.

Hôm ngày kỷ niệm lần thứ mười hai ngài Ấn Quang Lão sư sinh về Tây phương, khi ngài Hư Vân còn ở nơi phương trượng chùa Ngọc Phật, vì các đệ tử của ngài Ấn Quang, Hòa thượng đã khai thị: Ngài dạy người ta nên Thành Thật Niệm Phật.

Ngài nói: Niệm Phật yếu như tế thủy trường lưu, niệm niệm bất đoạn, niệm đáo nhất tâm bất loạn, tâm cảnh nhất như, ná tựu thị Tham thiền (Niệm Phật phải như giọt nước nhỏ chảy dài, niêm niệm chẳng dứt, niệm đến nhất tâm bất loạn, thì cảnh với tâm là một, như thế cũng tức là Tham thiền đó vậy).

Một vị Long Tượng rất lớn ở Thiền tông mà người dạy người ta niệm Phật, đây là thuyết minh ngài Hư Vân không có chỗ thấy khác biệt về môn hộ. Ngài khéo léo ở chỗ phương tiện nhiếp hóa. Vả lại, chỉ có mấy lời nói sơ sơ vắn tắt mà ngài đem đạo chúng của Thiền và Tịnh hợp nhất, nói ra được một cách viên dung vô ngại.

Nếu chẳng phải là người nắm vững và bao gồm được Thiền Tịnh một cách viên dung vô ngại, chẳng thể nào làm được như thế.

Có một điểm khiến tôi khâm phục, kính ngưỡng nữa là ngài hết sức nhiệt tâm cho sự nghiệp Hòa bình. Trong lời khai thị nơi Pháp Hội hôm đầu tiên, ngài đã khuyên Phật giáo đồ một cách rõ ràng là phải tích cực hơn lên vì thế giới hòa bình. Ngài bảo: "Giáo nghĩa Từ Bi của Phật, của Phật giáo là thuyết minh đầy đủ hai chữ Hòa bình, giữ gìn thế giới hòa bình là trách nhiệm phải làm trọn vẹn của Phật giáo đồ chúng ta, để giữ đúng lời Phật bảo là:
  • - Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giáo..."


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MỘT ÍT VỀ NHỮNG LỜI PHƯƠNG TIỆN
KHAI THỊ CỦA HƯ VÂN LÃO HÒA THƯỢNG

1. Phật Thích Ca thuyết pháp bốn mươi chín năm, hơn ba trăm hội, thu nhiếp Tam Tạng: Kinh, Luật, Luận. Chỗ dạy trong ba tạng chẳng ngoài ba môn: Giới, Định, Tuệ.

  • - Kinh thì dạy về môn Định.
    - Luật thì dạy về môn Giới.
    - Luận thì dạy về môn Tuệ.
Tóm tắt hai chữ Nhân - Quả là đem trọn vẹn chỗ Phật thuyết pháp bao quát còn dư nữa. Hai chữ Nhân Quả là hết thảy Thánh phàm, thế gian hay xuất thế gian chẳng có gì trốn khỏi nó được.

Nhân là duyên, Quả là quả báo. Như trồng lúa lấy một hột lúa làm nhân, lấy ánh sáng mặt trời, gió mưa, phân tưới làm duyên. Nhân duyên đầy đủ... thì cây lúa mọc, lớn, ra hột, chín... Thì rồi gặt hái không biết bao nhiêu hột nhỏ. Đó là Quả (là kết quả). Nếu không có nhân duyên thì không làm sao có kết quả.

Các bậc Thánh Hiền, sở dĩ được là Thánh Hiền, vì họ hiểu rõ Nhân, biết rõ Quả: "Biết hiểu rõ" có nghĩa là hiểu biết rõ ràng, sáng tỏ, thông suốt. Kẻ phàm phu sợ quả. Còn Bồ tát thì sợ nhân.

Phàm phu chỉ sợ quả ác, và họ chỉ biết quả ác nổi dậy ở nơi ác nhân. Nhưng thường thường họ vì cái sung sướng nhất thời mà sanh ra làm quấy, quên đi đó là nhân của sự khổ.

Bồ tát thì chẳng như vậy. Nhất cử nhất động giữ gìn, răn đe thận trọng, thì đã không có nhân ác, làm gì có quả ác. Nếu có thì đó là cái nhân từ kiếp trước đã lâu đời, khó tránh được.

Do đó ta thấy: Người hiền phải nạn! Bồ tát, Phật, Chúa cũng tai bay họa hoạn..., như Chúa Giê Su phải bị đóng đinh trên Thập Tự giá.

Cho nên lúc phải quả thì yên tâm chịu đựng một cách xuôi thuận, không một chút sợ hãi, rụt rè. Như thế, tức là hiểu rõ nhân, biết rõ quả.

Có vị Pháp sư tên là An Thế Cao, nhiều đời tu hành. Kiếp thứ nhứt, ông là một vị Thái tử nước An Tức (Ấn Độ), xa lìa ngũ dục, xuất gia tu hành, được túc mạng thông, biết được kiếp trước của mình có thiếu nợ mạng sống của một người ở tại Trung Quốc. Bèn vượt thuyền sang Trung Quốc, đi đến thành Lạc Dương. Khi đến một cánh đồng rộng, không người qua lại, bỗng gặp một chàng thanh niên đi đến. Thanh niên này cầm một con dao thiệt bén. Nhìn thấy Pháp sư, thanh niên này tự nhiên giận dữ, đến khi đi gần Pháp sư, không nói một lời, quơ dao chém người chết liền tại chỗ.

Sau khi chết, hồn Pháp sư vơ vẩn, lại trở về An Tức và cũng đầu thai là một vị Thái tử. Đến lớn cũng phát tâm xuất gia tu hành và vẫn được túc mạng thông như cũ. Lại cũng biết mình còn vướng víu một cái nợ mạng sống chưa trả. Chủ nợ cũng ở thành Lạc Dương (Trung Hoa).

Rồi ông cũng lần mò đi đến đó một lần nữa.

Ông đến nhà một người mà kiếp trước đã hạ độc thủ giết ông, xin ngủ nhờ một đêm. Sau khi được chủ nhà cho ăn cơm nước xong, ông mới hỏi chủ nhà: "Ông có nhận biết được tôi không?". Ông chủ nhà bảo là không.

Ông bèn nói:

- Tôi tức là vị tăng mà xưa kia ông đã chém tại một cánh đồng vắng vẻ, đúng vào ngày đó, tháng đó, năm đó....

Nghe xong, ông chủ nhà vô cùng sợ hãi, tự nghĩ: việc này không có một người thứ ba nào biết được. Vị tăng này chắc là hồn ma quỷ đến đây đòi mạng. Bèn muốn bỏ chạy. Vị tăng ngăn lại và hiền lành nói:

- Xin ông đừng sợ, tôi chẳng phải là ma quỷ gì đâu, mà cũng không đòi mạng đâu.

Bèn nói cho chủ nhà nghe về cái duyên nợ từ kiếp trước... Rồi bảo tiếp:

- Sở dĩ tôi đến đây là vì ngày mai này đây, tôi sẽ bị người ta đánh chết để đền cái sự kiếp trước mà tôi đã làm thiệt mạng người. Tôi chết là vì phải trả cái nợ mạng từ xưa, chớ người này không có ý gì giết tôi. Nếu quan chức ở đây có phân xử cho người này là "ngộ sát", cũng xin ông vì tôi, thuật lại lời này mà xin cho người kia khỏi tội vạ.

Hôm sau, hai người cùng đi ra phố. Vị tăng đi trước... thấy được trước mặt mình có một người dân quê gánh một gánh củi to tướng, rất nặng. Chính lúc ấy nhà sư bước trờ tới gần thì gánh củi đứt dây, củi nặng rơi xuống. chiếc đòn gánh day về phía sau đập mạnh vào đầu nhà sư té xuống đất và cả hai bó củi lại úp thẳng lên người nạn nhân. Thế là nhà sư chết ngay liền tại chỗ. Người nhà quê bị bắt đưa tới huyện. Sau khi tra xét, phạm nhân bị án ngộ sát.

Thấy việc quá linh ứng, dúng như lời nhà sư đã báo trước với mình, người chủ nhà thân hành đến huyện đường phủ phục thuật hết đầu đuôi sự việc và lời trối của vị tăng, và lạy cầu quan huyện tra xét lại.

Vốn cũng là người tu hành, và rất tin thuyết nhân quả một cách sáng suốt, quan bèn ân xá cho người nhà quê này để thi hành đúng theo lời di chúc của vị sư bạc mệnh.

Nay đến việc thứ ba, vị sư này chính là An Thế Cao pháp sư vậy.

Do đó, mà ta biết rằng: dù là thánh hiền cũng phải chịu lấy những ác quả.

Nếu hiểu rõ nghĩa này, lý này, thì trong sinh hoạt thường ngày mà gặp phải cảnh thuận nghịch, sướng khổ, vui buồn... ấy là cảnh giới có nguyên nhân của nó từ trước, ta chẳng nên vì cảnh ngộ đó mà sanh ra yêu ghét một cách vọng tưởng, thì tự nhiên có thể buông bỏ xuống hết được tất cả mọi điều, mọi việc.

2. Ngài Hư Vân bảo:

Ngày xưa vì việc lớn sống chết mà tìm Thầy, tìm bạn, chẳng ngại leo núi cao, qua sông rộng, vượt biển bao la, vất vả, bôn ba, gian khổ, hiểm nguy.

Chúng ta từ vô thủy bị vọng tưởng che lấp, bị trần lao (phiền muộn) trói buộc mà mất đi cái "bản lai diện mục" (tự tánh). Cũng như tấm gương tự nó vốn có ánh sáng, có thể soi thấy rõ đất trời, nhưng lại bị bụi dơ làm cho ô nhiễm, che lấp, nên không thấy ánh sáng.

Nay muốn khôi phục cái ánh sáng nguyên có sẵn của nó là chỉ cần một phen rửa, cọ, mài, xát công phu thì ánh sáng vốn có của nó tự nhiên sẽ hiển lộ ra.

Tâm tính ta cũng thế, ở trên cùng chư Phật không hai, không khác, không thiếu, không dư..., tại sao chư Phật vốn đã thành Phật mà các ông và tôi hiện nay vẫn là phàm phu ở trng biển khổ sanh tử?

Chỉ vì cái tâm của chúng ta bị vọng tưởng, phiền não, bao nhiêu thứ thói quen, bệnh tật chôn lấp đi. Thế cho nên cái tâm tính này, tuy nhiên cũng với chư Phật không khác, mà cũng không được thọ dụng.

Nay các ông và tôi đã xuất gia, cùng làm Phật tử, ai lại chẳng mong việc Minh Tâm Kiến Tánh, phản bổn hườn nguyên? Nếu chẳng một phen công phu quyết liệt thì không được. Người xưa muôn cay ngàn đắng (thiên tân vạn khổ) để tham hỏi các bậc thiện tri thức, tức là muốn hiểu rõ cái việc của tự thân mình. Hiện nay, đã là đời mạt pháp, cách thời các bậc thánh rất xa, Phật pháp không được nhiều người tin và biết rõ. Con người phần nhiều lười, cho nên sống chết chẳng liễu thoát.

Nay đã biết tự tâm mình cùng Phật giống nhau, nên cần phải phát tâm trường viễn, tâm kiên cố, tâm dũng mãnh, tâm tàm quý, trong khoảng ngày đêm sáu thời như cắt, như dũa, như đẽo, buổi sáng cũng thế, buổi chiều cũng thế, gắng sức làm việc đạo, tu học đạo, chớ nên bỏ qua. Thời gian qua đi rất uổng đó!


3. Người xưa bảo: Nhược luận thành đạo bổn lai dị, trừ vọng tưởng chân cá nan" (Bàn việc đạo thì vốn dễ, muốn trừ vọng tưởng thì thật là khó).

Đạo có nghĩa là lý. Lý có nghĩa là tâm. Tâm, Phật và chúng sanh, ba cái không sai khác. Người người vốn đầy đủ, mỗi mỗi đều hiện hành, ở thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt.

Đối với người biết được tâm mình ,thì đại địa không còn một tấc đất. Hết thảy thế gian, xuất thế gian, như phàm phu, như thánh hiền... thảy thảy vốn là Không, thì làm gì có sanh, tử. Cho nên nói thành đạo vốn dễ.

Thể của tâm này tuy nhiên là diệu minh (huyền diệu, sáng láng), nhưng bị bao nhiêu tức vọng tưởng che lấp, làm cho ánh sáng không từ đâu mà hiển hiện ra được. Muốn trừ vọng tưởng này liền chẳng phải là dễ dàng.

Vọng tưởng có hai thứ: vọng tưởng nhẹ (khinh) và vọng tưởng thô. Lại cũng có thứ vọng tưởng hữu lậu và vọng tưởng vô lậu.

  • - Hữu lậu: có nghĩa là cảm được quả báo nơi cõi trời người.
    - Vô lậu: có nghĩa là thành Phật, làm Tổ, liễu sanh thoát tử, vượt ra khỏi vòng tam giới.
    - Vọng tưởng thô: thì cảm quả khổ trong ba đường ác là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
    - Vọng tưởng nhẹ: là mưu tính làm bao nhiêu thứ việc lành như niệm Phật, tham thiền, tụng kinh, trì chú, lễ bái, giới sát, phóng sanh.
Vọng tưởng thô cùng với mười ác nghiệp ứng với nhau (Ý thì nổi dậy cái tham, sân, si. Miệng thì phát lời nói ác: ỷ ngữ, ác khẩu, vọng ngôn, lưỡng thiệt. Thân thì sát sanh, trộm cắp, dâm dục = Sát, đạo, dâm). Đó là chỗ thân, khẩu, ý tạo nên mười ác nghiệp. Nghiệp nếu nhẹ thì đưa vào đường súc sinh; vừa vừa thì vào đường ma thương, quỷ đói; nặng thì vào địa ngục!

Tóm lại chẳng kể là vọng tưởng nặng hay nhẹ, mà cả thảy đều là một niệm hiện ngang trước mắt chúng ta (hiện tiền); mà mười pháp giới cũng là đều do một niệm tạo nên mà có. Chỗ bao la cả thảy đó đều là do một tâm mà có thôi (nhứt thiết duy tâm tạo là thế).

Nếu đem cái thân phận vốn có của chúng ta ra mà nói thì bổn địa phong quang của chúng ta nguyên nó không thuộc về vướng mắc một sợi tóc nào, không ô nhiễm một tý xíu nào bợn nhơ.

Vọng tưởng thô trược, thôi thì chẳng cần nói. Ngay đến có, hoặc có một ít vọng tưởng nhẹ... thì đó cũng là cái mạng căn sống chết chưa dứt.

Hiện nay muốn trừ bỏ vọng tưởng, nghĩa là phải niệm một cách trịnh trọng một câu thoại đầu, hay niệm một câu danh hiệu Phật làm cục ngói gõ cửa, dùng cái vọng tưởng nhẹ để chế phục cái vọng tưởng thô, cũng như lấy thuốc độc tấn công chất độc. Vọng tưởng thô bị hàng phục rồi... còn dư lại vọng tưởng nhỏ nhẹ... sau rốt không còn.

Chúng ta ai cũng biết vọng tưởng là không tốt, cũng muốn dứt trừ.

Tuy nhiên biết rõ mà vẫn phạm, vẫn làm quấy, nói theo thói quen mà xoay chuyển. Buông bỏ nó xuống không được, là tại sao? Vì rằng từ vô thủy đến nay thói quen un nhuộm rất sâu dày đã thành tập quán. Như con chó ưa thích ăn phẩn một thứ vậy! Nuôi chó, thường người ta cho nó ăn tử tế, nhưng khi ngửi thấy mùi phẩn thì nó vẫn muốn ăn phẩn hơn. Đây là một tập quán lâu đời mà cố thành như một cái tánh tự nhiên của nó.

Vậy làm sao cắt đứt vọng tưởng?

    • - Phải tu Thiền thất, hay Tham thiền.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Sơ Lược Tiểu Sử Hư Vân Hòa Thượng

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

MỘT ÍT PHÁP NGỮ VỀ THIỀN CỦA NGÀI HƯ VÂN
Trước hết xin ghi lại đoạn văn của Chang Chen Chi (Trương Trừng Cơ) trong quyển "Thiền Đạo Tu Tập" (The Practice of Zen) của ông, do Như Hạnh dịch ra Việt văn, trang 124:

"Thiền sư Hư Vân là một vị thiền sư còn sống, danh tiếng nhất ở Trung Hoa.

Khi tôi viết những dòng này, ngài đã một trăm mười chín tuổi. Nhưng thân thể vẫn khỏe mạnh và tâm trí còn lanh lợi. Ngài đã chỉ dạy cho hàng ngàn đệ tử và trong mấy chục năm qua, đã dựng rất nhiều chùa ở rải rác khắp Trung Hoa. Đời ngài đầy những hồi kỳ dị và ngài được coi là uy tín, khuôn mẫu nhứt của Thiền ở Trung Hoa hiện tại..."
  • THAM THIỀN - ĐẢ THẤT:
Ngài Hư Vân bảo:

- Muốn cắt đứt vọng tưởng phải tu Thiền thấy hay Tham Thiền, (cũng gọi là: Đả thất, nhập thất, vào thất - Một nhập thất để tu như vậy gọi là Thiền đường, được thiết lập tùy hoàn cảnh và phương tiện có được của hành giả).

Thiền: Phạn ngữ (sanscrit) là Dhyana, người Tàu dịch âm là Thiền na, gọi tắt là thiền, cũng dịch là Tĩnh lự.

Xưa kia, Thế Tôn thuyết pháp ngót năm mươi năm, hoặc nói rõ (thiền thuyết), hoặc nói kín (mật thuyết), lời dạy góp lại thành mươi hai bộ Kinh, chia làm ba Tạng, thật là rất nhiều.

Nay Hư Vân tôi nói đây, chẳng qua chỉ là thu nhặt vài lời thừa của Phật và Tổ.

Sau đức Thế Tôn, lúc ở núi Linh Thứu, thăng tòa, tay cầm cành hoa Kim Đào Mộc do Đại Phạm Thiên Vương dâng cúng, đưa lên cho đại chúng xem. Toàn pháp hội, Nhân - Thiên, đại chúng không ai biết ý Phật như thế nào. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp nở mặt mỉm cười. Thế Tôn bèn nói với Ca Diếp: "Ta có chánh pháp Nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thực tướng vô tướng" nay trao truyền cho ông". (Ngô hữu chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, phó chúc ư nhữ).

Đó là pháp môn vô thượng, gọi là: "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực hạ thừa đương. (Truyền trao ngoài sự dạy dỗ thông thường, ngoài giáo điều, không dựa trên chữ nghĩa, ngó ngay xuống, nhìn ngay xuống là thấy).

Về sau người ta mơ hồ gọi pháp môn đó là Thiền. Nên biết rằng: Trong bộ Đại Bát Nhã đề ra có hơn hai mươi loại thiền... mà đều chẳng phải là cứu cánh.

Như: Đại thừa thiền, Tiểu thừa thiền, Hữu sắc thiền, Vô sắc thiền, Thanh văn thiền, Thiền phàm phu, ngoại đạo thiền v.v... Chỉ có thứ Thiền của Tông môn mà chúng ta tu tập đây mới là "Thứ thiền không thứ bậc, cứ đi thẳng vào nội tâm, thấy tánh thành Phật" (Bất lập giai cấp, trực hạ liễu đương, kiến tánh thành Phật). Đó là Vô thượng Thiền.

Như vậy thì làm sao nói được việc Nhập thất hay không nhập thất? "Nói rằng không có thấp cao hay thứ bậc, nghĩa là không có việc đi từ thấp đến cao, đi từ cạn đến sâu, từ gần đến xa... thì làm sao có việc Nhập thất, nghĩa là đi lần hồi từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy (mỗi thất bảy ngày)... và từ thất thứ nhất đến thất thứ bảy (49 ngày: 7x7=49)".

Như vậy thì có gì mà phải tu hay không tu Thiền thất? Sở dĩ có như vậy là vì căn khí chúng sanh càng ngày càng nhụt, vọng niệm đa đoan, nên chư Tổ đặc biệt để ra các phương tiện để nhiếp thụ họ.

Thiền tông nối tiếp nhau từ Ma Ha Ca Diếp đến nay đã trên sau, bảy mươi đời rồi.

Dưới đời nhà Dường, nhà Tống, gió thiền thổi khắp thiên hạ, hết sức xương thạnh. Đến nay thì rất suy vi...! Do vậy, nhân tài rất ít. Và trong hoàn cảnh này mà nói "Đả Thất", "Nhập Thất" thì không phù hợp với sự thật chút nào.

Số tu Thiền thất phần đông chỉ có danh vậy thôi!

Nếu trong Thiền đường mà có người tham thấu được nghi tình, cắt đứt được mệnh căn, vọng tưởng, thì như thế là đồng với Như Lai (thành Phật). Do đó mà nơi Thiền đường này cũng được gọi là "Tuyển Phật Trường" (trường thi tuyển chọn Phật) hay "Bát Nhã Đường".

Các pháp tu học ở đây thảy đều là vô vi. Vô vi là không có tác vi, tức là không có một pháp nào để đắc, không có một pháp nào để làm. Nếu là hữu vi, tất có sinh diệt.

Nếu có đắc thì phải có thất, cho nên Kinh nói:
  • Đản hữu ngôn thuyết (Nếu có lời nói)
    Đô vô thực nghĩa (Đều không thực nghĩa).
Tất cả việc tụng kinh, gõ mõ, lễ sám v.v... đều là hữu vi. Tất cả đều thuộc phương tiện quyền xảo trong tôn giáo.

Thiền chỉ dạy chúng ta: "Trực hạ thừa đương" (lập tức đảm nhận) chẳng nói nhiều lời, dài dòng.

Thoại đầu:

Nhưng nay, Hư Vân nói tiếp:

Các ông và tôi căn khí yếu kém, các đại Tổ Sư chẳng thể chẳng mượn phương tiện dạy chúng ta "Tham một câu thoại đầu".

Vì từ đời Tống về sau, người niệm Phật rất nhiều, vì thế các đại Tổ Sư dạy tham câu thoại đầu "Niệm Phật thị thùy?" (Ai là kẻ niệm Phật?) Câu này có nghĩa là: Ai niệm Phật? Kẻ nào niệm Phật?

Hiện nay, đâu đâu cũng đều dụng công theo pháp môn này mà tham cứu, kể ra rất đông, nhưng chưa mấy ai thông rõ một cách minh bạch.

Còn rất nhiều người chưa hiểu rõ, lại đem câu thoại đầu: "Ai là kẻ niệm Phật?" này mà niệm như người ta tu bên Tịnh Độ niệm "Nam Mô A Di Đà Phật", niệm đi niệm lại. Như vậy là hóa ra: niệm thoại đầu chứ không phải "Tham" thoại đầu.

Tham có nghĩa là tham khán, tức là nghiên cứu, nhìn thấu vào và quan sát cho tới thấy dược. Bởi lẽ này nên tại các Thiền đường đều có niêm yếu bốn chữ "Chiếu cố thoại đầu".

Chiếu là rọi ngược. Cố là nhìn rõ.

Rọi ngược là phải phản chiếu tự tánh, là xoay cái tâm chuyên hướng về ngoại cảnh, chạy theo những thích muốn bên ngoài, mà chiếu mà rọi trở lại vào trong.

Như thế mới gọi là khán thoại đầu. Thoại đầu ở đây là câu "Niêm Phật thị thùy" (Ai niệm Phật đấy?)

Trong trường hợp này ở đây, nên nói là "thoại vĩ" (đuôi câu chuyện mới đúng). Vì sao? Vì điều phải cố nhìn, tham khán là chữ "thùy" (là ai?), tức là tìm cho ra ai là người niệm Phật.

Thí dụ như tôi đang ngồi niệm Phật đây, hốt nhiên có người đến hỏi: "Ông ơi! Ai niệm Phật đó?" Dĩ nhiên là tôi đáp: "Tôi niệm Phật chớ ai". Người ấy lại hỏi:

- Nếu niệm Phật là Ông, vậy "ông" đây là cái miệng, hay là cái Tâm? Nếu nói miệng niệm thì sao lúc ông ngủ, miệng lại không niệm? Bằng nói tâm niệm, thì khi ông chết rồi, sao tâm không niệm?

Thật là rắc rối! Những câu hỏi như thế làm cho chúng ta có chỗ "Nghi".

Chúng ta phải đứng chỗ nghi này mà truy tầm, nghiên cứu xem coi thật ai niệm Phật (hay cái gì niệm Phật).

Xoay cái thấy của mình vào trong. Vi vi, tế tế, tinh diệu mà soi ngược lại. Xét xem câu nói ây nó như thế nào, từ đâu tới... quan sát nó kỹ lưỡng... Đó là xoay cái nghe của mình để nghe tự tánh của mình cậy (Phản văn văn tự tánh).

Như vậy, trong lúc "Hành hương" (cũng nói là Bảo hương hay Thiền), trong khi tu tập như vậy, cổ áo, thắt lưng phải chỉnh tề, đôi chân quỳ gối hay kiết già, bán già đoan trang, trước mặt dù có người chạy, tới lui, tâm vẫn bình, thân phải yên lặng ngay thẳng, mắt đừng liếc qua ngó lại, một lòng ghi nhớ thoại đầu (giai đoạn này có thể gọi là "điều thân").

Trong lúc chánh thức vào thiền, tức là "Ngồi hương" gọi theo nhà chùa, bụng không nên quá phồng lên, hơi thở không nên đi lên trên, ngực đừng ưởn lên quá. Hơi thở để cho nó tự nhiên, không nên đè khí lên, cũng không nên dằn nó xuống (giai đoạn này gọi là "điều tức").

Kế đó thu nhiếp (nắm giữ) mấy cửa của sáu căn (lục căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý); gạt bỏ, buông rơi hết muôn niệm (nhớ, nghĩ), nhất nhất một mạch đừng quên ngó rõ thoại đầu, đừng cho quên lãng.

Lại nữa, không nên thở quá mạnh, vì thở mạnh thì "phù" nổi dậy, (ý nói vọng tưởng nổi lên), rồi không đi sâu vào nội tâm được.

Cũng không nên thở quá nhẹ, vì thở quá nhẹ thì bị chứng "Hôn trầm" (tức mê man, không tỉnh gần như ngủ), và như thế rơi vào chỗ trống không.

Vậy thở mạnh (thô) hay thở quá nhẹ (tế) đều không đưa đến kết quả.

Cứ thở đều đều và một mạch quán thoại đầu, không được quên thoại đầu. Cũng không được cưỡng nặng cái tâm, vì làm như vậy thế nào nó cũng trôi nổi, không giữ nó trầm tĩnh lại được.

Cũng không thể để nó lâng lâng, vì như vậy ắt sẽ hôn trầm, và ta sẽ rơi vào cái "ngoan không"; đều chẳng lợi ích gì cả.

Nếu như lúc nào quán được thoại đầu, công phu tự nhiên thuần thục dễ dàng, các tập khí (những thói quen nhớ xằng, nghĩ sái) tự nhiên dứt bặt.

Đối với những người mới dụng công, ngồi thiền không dễ gì quán, hay chiếu cố thoại đầu một cách dễ dàng tốt đẹp, hay cho đúng được.

Tuy nhiên, chẳng nên ngại sợ, cũng đừng tưởng đến việc khai ngộ, hoặc cầu trí tuệ hay giác ngộ gì gì cả. Nên biết rằng: Tu Thiền thất là để cầu giác ngộ, để cầu trí tuệ. Nếu như mình lại đem một cái tâm nữa mà cầu, rồi bỏ cái thoại đầu đang cần soi sáng nghiên cứu để chạy theo nào khai ngộ, nào trí tuệ, thì thành ra mình đặt lên thoại đầu một thoại đầu khác rồi.

Đó là thêm đầu lên đầu! Hay "chấp đầu".

Như vậy là biết rằng: chỉ cần đề khởi một thoại đầu mà thôi để có thể đi đến chỗ cuối cùng của sự tham khán.

Nếu lúc mới tập, không làm sao cho thoại đầu nổi lên trong tâm mình được, thì ngàn muôn lần đừng hấp tấp, đừng nóng nảy, sốt ruột, và không ngớt quan sát, dài đăng đẳng không dứt quan sát một cách mật mật, cứ nắm chắt sự chiếu cố thoại đầu. Vọng tưởng có đến cứ để cho nó đến, ta không nên kiếm cách chôn vùi nó, đừng chú ý gì đến nó, rồi tự nhiên mà nó dứt bặt đi.


Đó là chỗ gọi:
  • Bất phạ niệm khởi: Không sợ vọng niệm khởi.
    Chỉ sợ giác trì: Chỉ sợ ánh giác đến chậm thôi.
Vọng tưởng đến, càng đến... chúng ta không cố xua đuổi chúng, mà nên gom hết sức mạnh của ánh sáng phản chiếu bám chặt, đóng đinh chặt thoại đầu lại, đừng để cho nó chạy. Nếu thoại đầu mất, thì tức tốc đuổi theo, bắt nó lại cho được.

Khi mới ngồi Thiền, tọa hương, chúng ta chẳng ngớt bị vọng tưởng. Nhưng lần lần, với thời gian, ánh sáng sẽ hiện bày, thoại đầu sẽ có đủ sức mạnh nổi lên (trong tâm chúng ta). Đó là lúc chúng ta có thể đề khởi thoại đầu dễ dàng, chỉ trong khoảng đốt một cây nhang đủ làm cho thoại đầu nổi lên suốt hằng giờ không chạy mất nữa. Và nhất là khi ta đã nắm được nó rồi, vì ta đã nắm đúng chỗ phải nắm rồi vậy.
  • Trực chỉ thừa đương (Lập tức đảm nhận):
Thiền dạy cho chúng ta như vậy, chẳng phải dùng nhiều lời, dài dòng văn tự.

Như bên trên đã nói, ở đây xin nói thêm cho rõ ràng đầy đủ.

"Đả thất" là tự đặt cho mình một hạn kỳ để nắm lấy và chứng nghiệm cho được cái tối hảo là "Nhất pháp". Nguyên văn chữ Hán: Khắc kỳ thủ chứng tối hảo đích Nhất pháp. Nhất pháp: cái một (Le Un) là thể duy nhất của vạn vật.

Người xưa căn khí mẫn lợi nên không chú ý đến pháp môn này lắm. Tới triều nhà Tống nó mới bắt đầu mở rộng rõ ràng. Đến triều nhà Thanh, đời vua Ung Chính pháp môn này (Đả thất) trở nên hưng thạnh to. Ung Chính hoàng đế, ngay trong cung vẫn thường tu nhập thất tham thiền. Nhà vua rất tôn trọng thiền tông, đồng thời biết rõ chỗ phải trái của Tông này và công phu thiền định của nhà vua cũng rất phi thường. Dưới sự chỉ dẫn của vua có hơn mươi người ngộ đạo. Chẳng hạn như Thiện Huệ thiền sư của chùa Cao Mân ở Dương Châu đã ngộ đạo trong pháp hội của Ung Chính, mà tất cả các quy củ pháp tắc của thiền môn đều do một tay vua tu chỉnh. Do đó mà Tông phong rất phát đạt, nhân tài xuất hiện rất nhiều. Pháp "Khắc Kỷ thủ chứng" giống như bên Nho giáo cử tử vào trường thi. Họ nương theo đề mục đưa ra mà làm văn múa bút (cũng như ngày nay học trò vào trường thi vậy).

Đề mục "Đả thất" ở đây cũng được gọi là "Nhập thất" hay "Tham thiền", "Ngồi thiền". Do đó, mà nơi Đả Thất gọi là "Thiền Đường" hay là "Tuyển Phật Trường" (trường thi tuyển Phật) cũng được gọi là "Bát Nhã Đường", tức là nhà trí tuệ.
__________________________________________________

(1) Ở Tây phương, vài chục năm gần đây, khuynh hướng nghiên cứu Thiền học (Zen) của Nhật Bổn và thuật Du già (Yoga) của Ấn Độ được nẩy nở và phát triển thành phong trào khá mạnh. Thiền hiện ra như một nguồn triết lý mới mẻ và quan trọng đối với học giả trí thức.

(2) Phần này, soạn giả có ghi tài liệu một số khác, không như nguyên văn của ngài Hư Vân.
__________________________________________________

Riêng Yoga, thì còn đi xa hơn nữa và đạt tới một mức độ khá phổ thông, thậm chí nhiều sách vở đã khai thác quá rộng, chẳng hạn như xem phép này như một môn thể thao rất có ích lợi cho việc sanh đẻ, cho việc bảo vệ sức khỏe, dung nhan và thân hình của người phụ nữ v.v...

Thiền là một quan điểm của Phật giáo về vấn đề Tri thứcGiải thoát. Nó xuất phát từ Ấn Độ, thành lập ở Trung Hoa và phát triển ở Nhật Bổn, Việt Nam. Từ một quan niệm siêu hình, Thiền học trở thành một triết lý nhân sinh có tính cách lý tưởng và toàn diện. Nhiều nhà tâm lý học hiện đại như Jung, Godel, Carlo Stuaris ... đã chú trọng khảo sát về các trạng thái và hiện tượng tâm lý trong Thiền học.

Chúng ta thường nghe những danh từ: Tọa thiền, Tham thiền, Thiền định, Nhã thiền, Rừng thiền (Thiền lâm) v.v..., người ta tưởng đâu là Thiền có cái hình tướng gì đặc biệt gọi là "Thiền".

Nói đúng ra, Thiền vừa là một thái độ triết lý, vừa là một phương pháp tu luyện, chứ không phải là một tín ngưỡng tôn giáo. Muốn hiểu thấu triệt Thiền, cần phải nghiên cứu thêm về Lão học, vì giữa Thiền và Đạo có những đặc tánh rất giống nhau. Đó cũng là một lý do giải thích cho ta thấy tại sao Thiền học phải sang đến Trung Hoa mới thực sự thành lập và phát triển.

Trước hết Thiền là do hai chữ "Thiền Na", lại do chữ "Dhyana" hoặc "Jhina" của Ấn Độ phiên âm ra. Còn dịch theo nghĩa là "Tư Duy", hoặc "Tịnh lự". Danh từ này có nghĩa là: Tập trung tư tưởng, lắng đọng tinh thần lại để quan sát sự vật. Chúng ta hay nói Ngồi thiền hoặc Thiền quán là nói về ý nghĩa đó.

Thiền, hoặc là Thiền tông là một pháp môn của đạo Phật, cốt lấy sự tĩnh tọa làm con đường vào Đạo.

Tuy nhiên cũng không hẳn là như vậy. Giữa sự "Ngồi thiền" và đạo Thiền gần như không liên lạc gì nhau. Ngược lại, có đôi khi Thiền Tổ còn dánh đổ phép ngồi nữa là khác. Đây chẳng hạn như Hòa thượng Mã Tổ Đạo Nhất có lần nói:
  • Nhữ học tọa thiền, vi học tọa Phật?
    Nhược học tọa Thiền, Thiền phi tọa ngọa
    Nhược học tọa Phật, Phật phi định tướng
    Nhữ nhược tọa Phật, tức thị sát Phật
    Nhược chấp tọa tướng, phi đạt kỳ lý.
Dịch:
  • Người học ngồi Thiền hay học ngồi Phật?
    Nếu học ngồi Thiền thì thiền không cần nằm ngồi
    Nếu học ngồi Phật thì Phật không định tướng
    Người học ngồi Phật tức là giết Phật
    Bằng chấp tướng mà ngồi ắt không đạt lý.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách