Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Nhu Thuận
Bài viết: 180
Ngày: 22/01/08 18:57

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Nhu Thuận »

binh đã viết:nghiên cứu chưa tới nơi tới chốn, hỏi lăng nhăng những điều mà ai cũng biết.
Học hỏi về đạo Phật thêm nữa đi rồi hãy hỏi.
Đừng nên nói lời như vậy.
Người không biết hoặc biết sai thì mới hỏi, mới nói theo suy nghĩ bộc phát tự nhiên, nếu mình biết thì trình bày ra, sao cho người hỏi chuyển hóa tư tưởng, suy nghĩ hoặc khai mở những điều xưa nay chưa từng biết hoặc biết sai lệch.
Có một người hỏi hoặc trình bày vấn đề sai lệch, thì mới có dịp, có cơ duyên "Pháp Thí", như có người "xin" thì mới có cơ hội để "cho", mà cơ hội này chẳng phải dễ kiếm, dễ có. Huống gì đây là D/Đ Phật Pháp, tại sao người ta không vào diển đàn "ăn chơi . com" hay d/đ "Nhậu nhẹt . com" mà lại vào đây? Đấy là người đã từng trồng căn lành nơi các Vị Phật quá khứ đã nhiều đời nhiều kiếp, mới thường thích nghe Phật Pháp.

Lại nửa, nếu nghiên cứu tới nơi tới chốn thì thành Phật rồi, lúc đó cần gì làm mất thì giờ diển đàn.
Ngay như tôi, là một Phật Tử củng không biết gì cả. Huống hô ...


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đ/h Nhu Thuận mến
Vì nick "Trungthuc" vào đây chủ yếu là để đả phá Phật pháp chứ không phải để học hỏi nên tôi mới nói như vậy vì không muốn tranh cãi mất thì giờ và vô ích. Hay xem "Trung thuc" viết cái gì :
Em thấy càng nghiên cứu về Phật em lại thấy càng ngày nó lại càng rối và càng vô lý vì đã tin rằng không có thượng đế thì tại sao nhà chùa lại đúc tượng cho nhiều, cho to, xây chùa cho hoành tráng để tín hữu thờ phượng Phật? Đã không tin có thượng đế, đã không tin Phật có quyền năng thưởng phạt đời này và đời sau thì ta đến chùa vái lạy Phật, cầu khẩn Phật để mong cái gì, được cái gì vì tất cả việc làm ấy đều vô bổ nếu điều ta mong từ Phật sẽ không bao giờ được, vì Phật không có cái quyền năng phổ độ cho ta.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Nhu Thuận
Bài viết: 180
Ngày: 22/01/08 18:57

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Nhu Thuận »

Em trung_thuc mến !
Tôi không phải là người "gì cũng biết" (nhứt thiết trí), tôi chưa phải là bậc "Toàn Trí, Toàn Giác"(nhứt thiết chủng trí), nay tôi chỉ xin trả lời cái gì (có giới hạn) tôi biết mà thôi, hy vọng rằng với cái "thấy, biết" của tôi sẻ làm em phát tâm Tin Phật, kính Phật và học theo hạnh lành của Phật, phát khởi Bồ Đề Tâm "độ" cho Em, Tôi, và tất cả chúng sanh đều Kính Phật, Tin Phật, hoc và làm tất cã hạnh lành của Phật để từ từ viên thành quả vị Phật.

Em trung_thuc mến !
Trước hết, chúng ta cùng thỏa thuận với nhau một điều. Đó là, muốn thu nạp vào cái mới điều cần thiết là bỏ cái củ sang một bên. Dù cái cũ có đúng, có sai, có vừa đúng vừa sai, phải "tạm thời" dẹp sang một bên, có như vậy mới dung nạp cái mới, thảo luận cái mới mới thật là "Trung Thực", mới bình đẳng, và tinh anh nhất. Đồng ý ? :-?


Chánh Tín
Bài viết: 171
Ngày: 22/12/13 02:17
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Đại địa

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Chánh Tín »

trung_thuc đã viết: Còn luân hồi là ta bị hóa kiếp thì "hóa kiếp" ấy phải có người điều khiển, mà người điều ấy không ai ngoài thượng đế. Phật đã không tin có thượng đế nhưng lại tin có kiếp luân hồi. Như vậy có phải là Phật đã mâu thuẫn với chính Phật không?
Bạn không đọc kỹ comment của tôi, xin được nhắc lại:
Chánh Tín đã viết:Vậy theo ĐH thì có Thượng đế thì mới có luân hồi hay sao? Nhân Quả Nghiệp Báo và Luân hồi là quy luật tự nhiên khách quan trong pháp giới mà không cần đến một "đấng phụ trách" nào hết.
Mỗi khi nghe thấy sấm, nhìn thấy sét, bạn đều nghĩ phải có người điều khiển sấm sét à? Rồi chắc bạn lại kết luận vậy thì phải có Thượng đế để tạo ra sấm sét chứ gì?
trung_thuc đã viết:Phật đã không tin có thượng đế, Phật không phải là đấng cứu rỗi, Phật không có quyền năng để phổ độ, vậy thì tất cả tăng ni, tín hữu xây dựng chùa chiền, đúc tượng để cúng vái, thờ lạy, để xin Phật phù trì có phải là chuyện hoang đường không?
Ở trên, tôi đã trích dẫn bài giảng của HT. Thích Thiện Hoa và HT. Thích Thanh Từ giải thích vấn đề này rồi. Bạn không đọc hay cố tình không hiểu?
trung_thuc đã viết:Và chúng ta lại còn làm lễ cầu siêu sau khi chết để mong ước kiếp sau được đưa đến cõi Vĩnh Hằng (hoặc Niết Bàn) có phải tất cả đều là những điều làm vì mê tín không, vì cõi Phật chính là ở tâm ta chứ không có những thứ mà các sư ni và tín hữu mê hoặc thờ cúng. Em nói như vậy có đúng không bác?
Một lễ cầu siêu đúng nghĩa thì chính là một buổi giảng pháp để tăng trưởng tâm thiện, tâm hướng Phật cho chính hương linh đó. Nhờ vậy mà họ sẽ gieo duyên với Phật Pháp và được tái sinh vào một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Không ai cầu siêu để cho hương linh được đến cõi Vĩnh hằng hay Niết Bàn cả
trung_thuc đã viết:Khi mà bác nói Phật là "tuệ tri" em hơi có nhiều thắc mắc. Một trong những thắc mắc của em là Phật dậy cho ta muốn thành chánh quả là phải "Diệt dục". Dục là "muốn", "lòng muốn", "lòng ham muốn". Dục giống như quả bong bóng hơi, ta nhấn ép chỗ này thì nó phình ra chỗ khác. Lòng muốn của ta không bao giờ có thể diệt được. Như Như Lai khi tìm ra chân lý theo quan điểm của Phật. Đức Như Lai cũng ham muốn (lòng dục) truyền thụ lại cái trí tuệ mà mình đã nghiệm ra để truyền lại cho chúng sinh. Phật có thể diệt được lòng ham muốn tầm thường của thế nhân như không thích ăn uống nhậu nhẹt, không thích xe hơi nhà lầu, hay không mê gái gú,... nhưng Phật lại "lòng dục" mơ ước những thứ khác về tinh thần. Như em là kẻ thất phu mà em còn biết là "dục" không bao giờ diệt được, vậy mà Phật lại nói là "diệt dục" để giải thoát thì chuyện ấy làm sao có thể đạt được vì ngay chính Phật Như Lai cũng không hề diệt được dục. Thành ra khi bác nói Phật có tuệ tri làm em sinh ra khó nghĩ!
Bạn lẫn lộn giữa tham dục của kẻ ác với lý tưởng của người tu hành lòng từ bi-vị tha tuyệt đối của Chư Phật. Cái "muốn" nào vì mục đích ích kỷ cho bản thân, dựa trên cơ sở còn bản ngã thì mới được gọi là "tham dục". Cái "muốn" nào vì mục đích đem lại lợi ích cho chúng sinh, cho Đạo Pháp, dù người đó chưa hết bản ngã thì được gọi là lý tưởng. Còn Chư Phật thì đã sạch hết bản ngã, đoạn trừ hoàn toàn các kiết sử lậu hoặc nên cái "muốn" của các Ngài chính là lòng từ bi-vị tha tuyệt đối, tất cả là vì lợi ích an lạc cho chúng sinh mà thôi.

Chư Phật dạy "diệt tham dục" chứ không bảo diệt những lý tưởng cao đẹp và lòng từ bi-vị tha tất cả vì lợi ích cho chúng sinh đâu bạn! 8->

Trong mục thông tin cá nhân bạn trung _thuc nhận là Phật tử xuất gia, vậy mà những kiến thức cơ bản bạn không những không biết mà còn có những nhận định rất sai trái về Phật Pháp. Bạn trung thực hơn có được không?


Nhu Thuận
Bài viết: 180
Ngày: 22/01/08 18:57

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Nhu Thuận »

Thưa Trung Thực.
1/ Điều TT trình bày về chuyện di truyền nòi giống. Tạm thời chấp nhận, nhưng về Luân Hồi thì có nhiều điễm cần bàn. Thứ nhất, đó là "riêng từng cá thể" không dính gì chuyện di truyền nòi giống. Thứ hai, Luân Hồi do "nghiệp thức" của chính cá thể ấy định đoạt "con đường phải đi đến đâu", chớ không có một đấng Thần Linh hay Thượng Đế nào cả, thí dụ như anh chàng nghiện rượu đi ra chợ, lòng vòng thế nào thì cũng kiếm cho được "Quán nhậu" tấp vô, hay anh chàng ghiền đọc báo thì nếu có sạp báo là tấp vô mua, hành động của cã hai anh chàng nầy đâu có Thần Linh hay Thượng Đế nào bắt buộc, ép uổng gì nhưng cã hai vì "Nghiện", một thì nghiện rượu, một nghiện đọc báo.
Củng như vậy, đời sống con người trên trần gian này, tất cả những chuyện của từng người làm, hoặc thiện, hoặc ác, tích tụ ngày một ít lâu dần thành nghiệp thức, khi bỏ xác thân này theo "Nghiệp Lực", (sức lôi kéo của nghiệp), để thọ thân mới, không có Phật, Trời, thần linh hay Thượng đế nào điều khiển cã.
Vậy, Luân hồi (luân = bánh xe, Hồi = trở lại, luân hồi = bánh xe quay, vòng quay của bánh xe một điễm trên bánh xe đi và trở lại) là một vòng xoay của sinh, sống, chết, tái sinh nhưng không chỉ là loài người mà có tất cả 6 đường, là Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sinh, Người, A tu la, Trời. Tùy theo Nghiệp dẩn.
Vì vậy, từng cá thể nếu chưa Giác Ngộ, thì cũng không chắc chắn rằng mình sẽ lại có "kiếp người" trong kiếp tái sinh.


trung_thuc
Bài viết: 22
Ngày: 01/04/14 07:25
Giới tính: Nam
Phật tử: Xuất gia
Đến từ: VietNam

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi trung_thuc »

Chánh Tín đã viết:
trung_thuc đã viết: Còn luân hồi là ta bị hóa kiếp thì "hóa kiếp" ấy phải có người điều khiển, mà người điều ấy không ai ngoài thượng đế. Phật đã không tin có thượng đế nhưng lại tin có kiếp luân hồi. Như vậy có phải là Phật đã mâu thuẫn với chính Phật không?
2) Bạn không đọc kỹ comment của tôi, xin được nhắc lại:
Chánh Tín đã viết:Vậy theo ĐH thì có Thượng đế thì mới có luân hồi hay sao? Nhân Quả Nghiệp Báo và Luân hồi là quy luật tự nhiên khách quan trong pháp giới mà không cần đến một "đấng phụ trách" nào hết.
3) Mỗi khi nghe thấy sấm, nhìn thấy sét, bạn đều nghĩ phải có người điều khiển sấm sét à? Rồi chắc bạn lại kết luận vậy thì phải có Thượng đế để tạo ra sấm sét chứ gì?
trung_thuc đã viết:Phật đã không tin có thượng đế, Phật không phải là đấng cứu rỗi, Phật không có quyền năng để phổ độ, vậy thì tất cả tăng ni, tín hữu xây dựng chùa chiền, đúc tượng để cúng vái, thờ lạy, để xin Phật phù trì có phải là chuyện hoang đường không?
Ở trên, tôi đã trích dẫn bài giảng của HT. Thích Thiện Hoa và HT. Thích Thanh Từ giải thích vấn đề này rồi. Bạn không đọc hay cố tình không hiểu?
trung_thuc đã viết:Và chúng ta lại còn làm lễ cầu siêu sau khi chết để mong ước kiếp sau được đưa đến cõi Vĩnh Hằng (hoặc Niết Bàn) có phải tất cả đều là những điều làm vì mê tín không, vì cõi Phật chính là ở tâm ta chứ không có những thứ mà các sư ni và tín hữu mê hoặc thờ cúng. Em nói như vậy có đúng không bác?
Một lễ cầu siêu đúng nghĩa thì chính là một buổi giảng pháp để tăng trưởng tâm thiện, tâm hướng Phật cho chính hương linh đó. Nhờ vậy mà họ sẽ gieo duyên với Phật Pháp và được tái sinh vào một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Không ai cầu siêu để cho hương linh được đến cõi Vĩnh hằng hay Niết Bàn cả
trung_thuc đã viết:Khi mà bác nói Phật là "tuệ tri" em hơi có nhiều thắc mắc. Một trong những thắc mắc của em là Phật dậy cho ta muốn thành chánh quả là phải "Diệt dục". Dục là "muốn", "lòng muốn", "lòng ham muốn". Dục giống như quả bong bóng hơi, ta nhấn ép chỗ này thì nó phình ra chỗ khác. Lòng muốn của ta không bao giờ có thể diệt được. Như Như Lai khi tìm ra chân lý theo quan điểm của Phật. Đức Như Lai cũng ham muốn (lòng dục) truyền thụ lại cái trí tuệ mà mình đã nghiệm ra để truyền lại cho chúng sinh. Phật có thể diệt được lòng ham muốn tầm thường của thế nhân như không thích ăn uống nhậu nhẹt, không thích xe hơi nhà lầu, hay không mê gái gú,... nhưng Phật lại "lòng dục" mơ ước những thứ khác về tinh thần. Như em là kẻ thất phu mà em còn biết là "dục" không bao giờ diệt được, vậy mà Phật lại nói là "diệt dục" để giải thoát thì chuyện ấy làm sao có thể đạt được vì ngay chính Phật Như Lai cũng không hề diệt được dục. Thành ra khi bác nói Phật có tuệ tri làm em sinh ra khó nghĩ!
4) Bạn lẫn lộn giữa tham dục của kẻ ác với lý tưởng của người tu hành lòng từ bi-vị tha tuyệt đối của Chư Phật. Cái "muốn" nào vì mục đích ích kỷ cho bản thân, dựa trên cơ sở còn bản ngã thì mới được gọi là "tham dục". Cái "muốn" nào vì mục đích đem lại lợi ích cho chúng sinh, cho Đạo Pháp, dù người đó chưa hết bản ngã thì được gọi là lý tưởng. Còn Chư Phật thì đã sạch hết bản ngã, đoạn trừ hoàn toàn các kiết sử lậu hoặc nên cái "muốn" của các Ngài chính là lòng từ bi-vị tha tuyệt đối, tất cả là vì lợi ích an lạc cho chúng sinh mà thôi.

Chư Phật dạy "diệt tham dục" chứ không bảo diệt những lý tưởng cao đẹp và lòng từ bi-vị tha tất cả vì lợi ích cho chúng sinh đâu bạn! 8->

1) Trong mục thông tin cá nhân bạn trung _thuc nhận là Phật tử xuất gia, vậy mà những kiến thức cơ bản bạn không những không biết mà còn có những nhận định rất sai trái về Phật Pháp. Bạn trung thực hơn có được không?
Thưa bác Chánh Tín
1) Sở dĩ em chọn "xuất gia" vì trong khi thành lập nhân-khoản, điều lệ bắt em phải lựa chọn một trong hai hoặc tại gia, hoặc xuất gia. Em không lựa một trong hai thì coi như em không được "đăng đàn" nên bắt buộc em phải lựa "xuất gia" vì em có tính hay đi lang bang ít ở nhà. "Xuất gia" chỉ có nghĩa đơn giản là ít ở nhà hay đi ra ngoài như vậy thôi! Nếu có lựa chọn thứ 3 là "phàm tục" thì chắc là em đã lựa cái option thứ 3 rồi bác ạ.

2) Tại sao bác lại so sánh "nhân nghiệp quả báo" với "luân hồi". Nhân nghiệp quả báo là luật tự nhiên ai cũng hiểu, làm ác thì đương nhiên lãnh cái hậu quả ác báo. Ông bà mình vẫn nói: "cha mẹ hiền lành để đức cho con", hoặc "ở hiền gặp lành", hoặc "rau nào sâu đấy"... tất cả đều nói lên cái nhân quả thì nó là cái luật tự nhiên. Luân hồi là sau khi ta chết thì ta lại được tái sinh thành một kiếp sinh vật khác. "Quy luật" luân hồi đối với sự hiểu biết của mọi người thì chết coi như là hết, chỉ có Phật mới chế ra cái thuyết này thôi chứ còn những ai không biết về Phật đâu có ai tin là sinh vật chịu kiếp luân hồi. Luân hồi có thực sự xảy ra không? Thí dụ bây giờ có một vật thể nào hay một tinh tú nào lạc quỹ đạo đụng phải quả đất gây ra chấn động mạnh khiến trái dất vỡ tung ra thì tất cả các sinh vật trên trái đất đều bị hủy diệt, sự sống của các sinh vật không còn thì làm gì có kiếp luân hồi nào nữa hở bác?

3) Sấm sét là chuyện tự nhiên của vạn vật. Tại sao bác lại so sánh sấm sét với kiếp luân hồi là cái thuyết mà chỉ có những người nào tu theo Phật mới tin?

4) Phật dậy cho chúng sinh ăn ngay ở lành thì điều này đúng với luân lý xã hội, mọi người nên tập nếp sống thiện tâm ăn ngay ở lành. Còn triết lý nhà Phật có thực sự mang lại hạnh phúc không khi chúng ta làm trái luật tự nhiên cố tình diệt Dục? Phật vốn là Thái Tử con vua, là cành vàng lá ngọc sống trong nhung lụa suốt đời Phật được đầy tớ hầu hạ, cung phụng, chẳng bao giờ phải vất vả đụng đến móng tay móng chân làm bất cứ công việc gì nặng nhọc. Bởi vậy khi Phật lần đầu tiên được vua cha cho phép tham quan ngoài hoàng thành, thấy nhân gian có đời sống không nhung lụa được như Phật, Phật đã nhìn đời bằng ánh mắt bi quan và đã thốt lên kiếp nhân sinh chỉ toàn là "sinh, lão, bệnh, tử" mà Phật không biết rằng cuộc sống của những người "tay làm hàm nhai", hạt cơm được tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt có giá trị, có ý nghĩa và hạnh phúc hơn là cuộc sống nhung lụa vô nghĩa của Phật. Cho nên quan niệm "Sinh, lão, bệnh tử" của Phật ngay từ bước đầu đã là khập khểnh không đúng vì chúng sinh rất yêu đời và ham sống chứ không buồn chán kêu ca, đời là bể khổ như Phật. Bởi vậy cái triết lý "diệt Dục", theo Phật, sẽ được giải thoát chẳng có ai diệt nổi. Bởi cái chủ trương diệt Dục của Phật đi ngược lại với quy luật tự nhiên nên (Cái Duyên) thường nó hay bị phản ứng ngược. Bằng chứng là lẽ ra những đệ tử của Phật gồm các tín hữu và tăng ni nếu đã "diệt dục" (Cái Nhân) theo triết lý của Phật dậy thì đệ tử của Phật sẽ bớt tham lam sân si, nhưng (Cái Quả) đi các nhà chùa VN ngày nay chỗ nào có tượng là chỗ đó để hộp "Cúng Dường Tùy Hỷ" để quyên góm tiền góp bạc. Phật tử ngày nay đa số đến chùa cúng vái vì lợi lộc chứ đâu có đến với Phật bằng cái lòng thành tâm đâu. Sư sãi ngày nay đua đòi đi xe láng, xài iphone (tha hồ tự do xem sex) theo thời trang hơn nhiều người phàm tục chứ có thấy "thầy" diệt được dục chỗ nào đâu...!


Như ý Cát Tường
Bài viết: 499
Ngày: 13/03/13 20:24
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Được cảm ơn: 1 time

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Như ý Cát Tường »

Nick Trúng Thực (trung_thuc) dừng viết lại những điều trên đi, tội lỗi lắm! Sao lại quơ đũa cả nắm, thời gian trôi qua nhanh lắm người như thế nào sẽ thấy rõ thôi, tự làm tự chịu. Phật tu bao lâu mới thành Phật, KHỔ như thế nào mới đạt quả vị Phật, Trúng Thực cũng biết rồi sao nói những lời tội lỗi vậy, dù biết rằng Phật rất từ bi không gián tội một chúng sanh nào có gây ra tội nặng, nhưng sau này chúng sanh đó trên đường tu sẽ tự trả quả những gì đã làm. Thầy dạy Cát Tường mồ côi cha mẹ từ nhỏ và xuất gia năm 7 tuổi đến giờ Thầy lớn tuổi lắm rồi, hồi tết Thầy cũng dặn dò bảo mấy huynh đệ của Thầy cũng thản nhiên tịch hết rồi cũng đến lượt Thầy. Thầy tu ở một thất nhỏ, thỉnh thoảng đi khất hóa duyên, những ai có duyên gặp Thầy sẽ rõ, Tam Y Nhất Bát, một xu gia đình Cát Tường cúng dường Thầy cũng mua gạo phát cho người nghèo, giúp các chùa ở quê nghèo trùng tu, thất Thầy tu trời mưa gió mái tôn bay tróc nóc, nước ngập mà Thầy có đòi hỏi cúng dường gì đâu, lúc nào Thầy cũng cười hề hề, lâu lâu Cát Tường mới gặp Thầy, Thầy chỉ thường dạy vài lời ngắn gọn. Thầy cũng chỉ nhận một đệ tử duy nhất. Cát Tường đã nói nhiều xin dừng và nick trung_thuc cũng nên ngừng lại nhìn chính bản thân trung_thuc trước. NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT....


Sau các Phật diệt độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật đạo.
(Trích Kinh Pháp Hoa)
Chánh Tín
Bài viết: 171
Ngày: 22/12/13 02:17
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Đại địa

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Chánh Tín »

trung_thuc đã viết:1) Sở dĩ em chọn "xuất gia" vì trong khi thành lập nhân-khoản, điều lệ bắt em phải lựa chọn một trong hai hoặc tại gia, hoặc xuất gia. Em không lựa một trong hai thì coi như em không được "đăng đàn" nên bắt buộc em phải lựa "xuất gia" vì em có tính hay đi lang bang ít ở nhà. "Xuất gia" chỉ có nghĩa đơn giản là ít ở nhà hay đi ra ngoài như vậy thôi! Nếu có lựa chọn thứ 3 là "phàm tục" thì chắc là em đã lựa cái option thứ 3 rồi bác ạ.
Điều này bạn lại sai rồi. Mọi người muốn bạn cho biết bạn là "Phật tử xuất gia" (đã xuống tóc làm lễ thế phát) hay là "Phật tử tại gia" chứ không cần biết bạn có hay ở nhà không làm gì cả. Qua những gì bạn viết cho thấy bạn có hiểu nghĩa từ "xuất gia" nhưng bạn cố tình áp đặt mọi người phải hiểu theo ý của riêng bạn. Điều này chứng tỏ cái "tôi" của bạn khá lớn. Khi đối thoại bạn không chịu lắng nghe ý của mọi người mà muốn áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên người khác.

Tôi có lẽ là một trong những người kiên nhẫn chịu lắng nghe bạn nhất, sẵn sàng thảo luận thẳng thắn với bạn về Phật pháp, nên tôi cũng hy vọng bạn cũng sẽ có tinh thần thảo luận như vậy.

Tôi sinh ra và lớn lên ở một tỉnh thuộc miền Bắc VN, có lẽ địa phương tôi cư trú là một trong những "vùng trũng" nhất của Phật giáo nước nhà. Những kiến thức về Phật học tôi chủ yếu thu lượm ở sách vở và trên internet, nên chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót nông cạn. Sau này nếu có duyên, bạn sẽ được giải đáp tường tận hơn bởi các vị cao tăng. Còn bây giờ, nếu bạn thực sự có tinh thần cầu thị thì trong thời buổi nối mạng toàn cầu này, việc tìm hiểu những kiến thức cơ bản của Đạo Phật là khá dễ dàng, miễn là bạn phải chịu lắng nghe.

Trước tiên, tôi xin trích dẫn một số bài giảng của các vị thầy, mong bạn cứ bình tâm kiên nhẫn tham khảo, không cần phải vội vàng làm gì. Sau đó tôi sẽ lần lượt thảo luận với bạn từng phần một trong comment trên của bạn nhé.


Chánh Tín
Bài viết: 171
Ngày: 22/12/13 02:17
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Đại địa

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Chánh Tín »

ĐỜI LÀ MỘT BIỂN KHỔ ĐẦY MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT


Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái lạc vật chất.

Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát.

Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế! Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp son bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ Diệu Ðế.

I.- ĐỊNH NGHĨA CHỮ KHỔ ĐẾ (DUKKHA)

Khổ đế, do chữ Dukkha mà ra. "Du", nghĩa là khó; "kkha" là chịu đựng, khó kham nhẫn. Dukkha nghĩa là đắng; nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, sợ hãi v.v..

"Ðế" là một sự thật vững chắc, đúng đắn, hoàn toàn, cao hơn cả.

Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc cao hơn cả về sự khổ ở thế gian. Sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được.

Dưới đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ của thế gian.

II.- LUẬN VỀ KHỔ ĐẾ CỦA THẾ GIAN

Kể cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng. Song căn cứ theo kinh Phật, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ (bát khổ).

1.- Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.

a.- Khổ khổ:

Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ".
Thật thế, mỗi một chúng sanh, tự mình đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa; thân thể là một bầu thịt xương dơ bẩn, nếu một vài ngày, không săn sóc, rửa ráy, thì thối tha không thể chịu đựng được. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắn, mà trái lại rất mong manh: khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm một số vi trùng độc...thế là mạng vong.
lại trên cái khổ sống chết bất ngờ mà con người không làm chủ được, còn nhiều cái khổ khác nữa chất chồng, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v... Vì thế nên gọi là "khổ khổ".

b.- Hoại khổ:

Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt". Thực thế, vạn vật trong vũ trụ đều bị luật vô thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá, lâu năm cũng mục nát; to lớn như trái đất, mặt trăng, mặt trời lâu ngày cũng tan rã. Yếu ớt, nhỏ nhen như thân người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du! Cái búa tàn ác của thời gian đập phá tất cả; mỗi phút mỗi giây ta sống, cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hủy hoại. Và dù ta có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế bao nhiêu, giàu có bao nhiêu cũng không thể cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời ta. Ta hoàn toàn bất lực trước thời gian. Thật là khổ sở, tủi nhục, đớn đau!

c.- Hành khổ:

Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại; còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề tự chủ, yên ổn, tự do được. Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vặt, lôi kéo, thúc đẩy từng phút từng giây. Tư tưởng ta cũng luôn luôn biến chuyển nhảy vọt lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghỉ. Thật là đúng như lời Phật dạy: "tâm viên, ý mã".

Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta sẽ thấy tâm hồn ta còn bị cái phần bên trong kín sâu, nằm dưới ý thức, là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách vô cùng mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều là do tiềm thức ta sai sử, ra mệnh lệnh.

Nói tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành khổ".

2.- Tám khổ: nếu chúng ta phân tích tỉ mỉ hơn, thì cái khổ của thế gian có thể chia ra làm tám loại. Tám loại này tựu trung cũng ngoài ba khổ kia.

Tám loại khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Dưới đây chúng ta hãy nói rõ về tám nỗi khổ ấy.

a.- Sanh khổ:

Sự sanh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc sanh, khổ trong đời sống.

- Khổ trong lúc sanh. Người sanh và kẻ bị sanh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất thần... Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Ðến khi gần sanh, sự đau đớn của người mẹ không sao nói xiết. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu dơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn nhiều nữa. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật suốt đời.

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sanh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a! Khổ a!". Thật đúng như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:

Thảo nào lúc mới chôn nhau,
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

- Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất, hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.

Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải cần lao kham khổ, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo. Về nhà ở, thì có khi suốt đời vất vả làm lụng, vẫn không đủ sức tạo được một ngôi nhà nho nhỏ.

Nhưng chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ; ăn uống thất thường, thiếu thốn cũng đã là khổ rồi. Chẳng đợi phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa, cũng đã là khổ rồi. Nhưng nào phải chỉ có những người nghèo hèn mới khổ đâu? Người giàu có cũng cứ khổ như thường: muốn có tiền, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được, chứ đâu phải tiền bạc ở trên hư không rơi xuống cho đâu! Ðó là còn chưa nói dến những nỗi khổ vật chất bất thường khác nữa mà không ai có thể tránh khỏi được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ nhục, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Không nói gì nhiều, chỉ xin đơn cử ở đây một thí dụ về nỗi khổ trong sự học hỏi.

Muốn tìm lẽ phải, chơn lý, đạo đức, tất phải gia công học hỏi nhiều năm cả về phương diện lý thuyết lẫn thực nghiệm. Về lý thuyết ta học trong sách vở với thầy với bạn hay tự học. Về thực nghiệm, ta học giữa đời trong lúc tiếp xúc với mọi người. Nhưng dù lý thuyết hay thực nghiệm ta cũng gặp lắm điều khổ sở, khó khăn. Như học lý thuyết với thầy ở trường, lắm khi gặp bài khó, lại thêm thầy giảng dạy quá cao, học trò không thu nhận được gì hết, thế là người giận kẻ buồn, khổ tâm quá ! Còn tự học ở nhà với quyển sách trơn, có lúc gặp đoạn văn mắc mỏ, lại không đủ tài liệu tra cứu thêm, bị bít lối ra, rồi khởi tâm tức giận buồn phiền, cũng là khổ. Về sự học thực nghiệm ở đời, lắm khi cũng phải trả một giá rất đắc. Ta sẽ bị người này phỉnh gạt, người kia áp bức, kẻ nọ oán thù, kẻ kia khinh bỉ... bao nhiêu hạng người là bấy nhiêu tâm tánh. Và hiểu đời được một phần nào là ta đã phải chịu đựng biết bao nhục nhã, khổ đau.

Tóm lại, về vật chất hay tinh thầnh, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sanh khổ là thế.

b.- Lão khổ:

Ca dao có câu:

Già nua là cảnh cảnh điêu tàn,
Cây già cây cỗi, người già người si.

Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, tinh thần suy kém, nên khổ thể xác lẫn tinh thần.

- Khổ thể xác: Càng già, khí huyết càng hao mòn. Bên trong, ngũ tạng, lục phủ càng ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt; bên ngoài các giác quan dần dần hư hoại, như mắt mờ, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, việc gì cũng nhờ vả kẻ khác.

Ðã vậy, mỗi khi thời tiết xoay trở thì cảm nhiễm theo khí hậu mà đau, như trời mới nắng thì đã sốt, trời mới mưa thì đã rét v.v.. không chút gì gọi là vui thú cả!

- Khổ tinh thần: Người xưa có nói: "Ða thọ, đa nhục". Thật thế, tuổi nhiều, nhục lắm! Càng già thân thể càng suy kém thì trí tuệ cũng càng lu mờ. Do đó, sanh ra lẫn lộn, quên trước, mất sau, hành động như kẻ ngây dại: ăn dơ, uống bẩn; nói năng giống người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi; có khi lại còn chửi bới, nói nhảm nhí làm trò cười cho lũ trẻ. Thật đúng là "Lão khổ".

c.- Bệnh khổ:

Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở không gì hơn là cái đau! Ðã đau, bất luận là đau gì, từ cái đau lặt vặt như đau răng, nhức đầu, đến cái đau trầm trọng như phung, lao v.v... đều làm cho con người phải rên xiết, khổ sở, khó chịu. Nhất là những bệnh trầm kha (lâu ngày khó chữa), thì lại càng hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống không được, cầu chết cũng không, oan oan, ương ương, thật là khổ não.

Thân đã đau, mà tiền lại hết. Có nhiều người sau một trận đau, chỉ còn hai bàn tay trắng! Cho nên ngạn ngữ có câu: "Không đau làm giàu biết mấy". Ngoài ra, bệnh tật lại còn làm cho lục thân quyến thuộc buồn rầu, lo sợ. Mỗi lần trong nhà có người đau, thì cả gia quyến đều rộn rịp, băn khoăn ngồi đứng không yên, quên ăn quên ngủ, biếng nói, biếng cười, bỏ công ăn việc làm. thật đúng là "Bệnh khổ".

d.- Tử khổ:

Trong bốn hiện tượng của vô thường; sanh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái làm cho chúng sanh kinh hãi nhất. Con người sợ chết đến đổi ở trong hoàn cảnh sống thừa, đáng lẽ không nên sống làm gì nữa, thế mà nghe nói đến cái chết, cũng sợ không dám nghĩ đến. Những người xấu số bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống mà thôi.

Cái chết làm khổ con người như thế nào mà ai cũng sợ hãi thế?

- Về thân xác: Có mục kích một người bệnh khi hấp hối bị hành xác rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt ngột không ngằn, trợ mắt, méo miệng, giựt gân chuyển cốt, uốn mình, giăng tay, bẻ chân... Trong lúc ấy tai hết nghe, mắt hết thấy, mũi hết thở, miệng hết nói. Rờ thử vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân cứng đơ như gỗ. Xác chết dần dần sình lên, trong rất ghê tởm; nếu để lâu ngày lại nứt ra, chảy nước tanh hôi khó chịu vô cùng.

- Về tinh thần: Khi sắp chết, tâm thần rối loạn, sợ hãi vô cùng: phần xót thương cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái từ đây đoạn tuyệt, phần lo mình một thân cô quạnh, bước sang thế giới mịt mù xa lạ. Thật không còn gì đau khổ bằng phút chia ly vĩnh viễn này!

Tóm lại, cái chết làm cho thân thể tan rã, thần thức theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật là "Tử khổ".

e.- Ái biệt ly khổ:

Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

- Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã, bão lụt... làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc mỗi nơi: kẻ đầu này trông đợi, người góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ! Người đời thường nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh!". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".

- Tử biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi bao thuở được vum vầy! Vì vậy, đứng trước cảnh chết, là một sự biệt ly vĩnh viễn, con người không ai là chẳng khổ đau. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, tuyệt vọng đến nỗi toan chết theo người quá cố. Ðó là cái khổ của "Tử biệt".

f.- Cầu bất đắc khổ (thất vọng):

Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ thất bại bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.

- Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạnh người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công. Thật đúng như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia Thiều đã nói:

Gót danh lợi, bùn pha sắc xám,
Mặt phong trầng nắng nám mùi dâu!

- Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!

- Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu bất đắc khổ".

g.- Oán tắng hội khổ:

Con người ở trong cảnh thương yêu, chẳng ai muốn chia ly; cũng như ở trong cảnh hờn ghét, chẳng ai mong gặp gỡ. Nhưng oái oăm thay! Ở đời khi mong muốn được hội ngộ, lại phải chia ly; cũng như khi mong ước được xa lìa, lại phải sống chung đụng nhau hằng ngày! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng. Ðịnh tuyệt giao hẳn, ngặt vì còn phải ăn chung ở lộn một nhà, dầu cố sức trốn tránh, song lắm lúc cũng phải giao thiệp lấy lệ. Thật là khổ. Ðấy là bà con cật ruột, có tình cốt nhục, có nghĩa đồng bào, mà sự hờn ghét còn thúc đẩy con người hết muốn thân mến, không mong gặp gỡ nhau thay! Huống chi đối với người dưng, nước lã, khác giống, khác nòi, một khi đã thù ghét nhau rồi mà phải sống bên cạnh nhau thì thế nào cũng có một ngày xảy ra đại họa. Ðó là ý nghĩa của "Oán tắng hội khổ".

h.- Ngũ ấm xí thạnh khổ:

Cái thân tứ đại của con người cũng gọi là thân ngũ ấm (năm món che đậy): sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Với cái thân ngũ ấm ấy, con người phải chịu không biết bao nhiêu là điều khổ. Giữa ngũ ấm ấy luôn luôn có sự xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau. Vì sự xung đột, mâu thuẫn ấy, nên cái thân con người mới chịu những cái khổi sau đây:

- Bị luật vô thường chi phối không ngừng, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ đau đến chết, luôn luôn làm cho con người phải lo sợ, buồn phiền.

- Bị thất tình, lục dục lôi cuốn, làm cho con người phải đắm nhiểm sáu trần, phải khổ lụy thân tâm.

- Bị vọng thức điên đảo chấp trước, nên con người nhận thấy một cách sai lầm: có ta, có người, còn mất, khôn dại, có không, và sanh ra rầu lo, khổ não. Ấy là "Ngũ ấm xí thạnh khổ."

III.- ĐỨC PHẬT NÊU RÕ NHỮNG NỖI KHỔ ẤY ĐỂ LÀM GÌ?

Có người sẽ băn khoăn, thắc mắc tự hỏi: Ðức Phật nêu lên một cách rốt ráo những nỗi khổ của thế gian để làm gì? Cuộc đời đã đau khổ như thế, thì nên che dấu bớt đi chừng nào hay chừng ấy, chứ sao lại lột trần nó ra làm gì cho người ta càng thêm đau khổ? Ta cố gắng tạo nên một ảo tưởng tốt đẹp về cuộc đời để sống an ổn trong ấy, có hơn không? Ðứa trẻ nít sống một cách hồn nhiên, yên ổn trong hạnh phúc, vì nó không biết đến những nỗi đau khổ, xấu xa của cuộc đời. Tại sao ta lại không cố bắt chước như chúng, đừng tìm biết gì cả về những sự xấu xa, khổ sở của cõi đời, để sống một cuộc sống có hạnh phúc hơn? Ðức Phật là một đấng thường được gọi là đấng từ bi, sao lại làm một việc nhẫn tâm như thế?

Những câu hỏi thắc mắc trên, mới nghe thì hình như có lý, nhưng nếu suy xét một cách rốt ráo, sẽ thấy chúng là nông cạn. Ðức Phật không nhẫn tâm khi nêu lên những nỗi khổ căn bản của cõi đời; chính là vì lòng từ bi mà ngài làm như thế. Ðức Phật muốn cho người đời biết rõ những nỗi khổ của trần gian, vì những lợi ích lớn sau đây:

1.- Gặp cảnh không khủng khiếp:

Những nỗi khổ mà đức Phật nói ra ở trên là những nổi khổ căn bản, không ai tránh khỏi được. Ðã sống, tất phải gặp chúng. Có ai không ốm, không già, không chết? Có ai suốt đời không gặp chia ly với người thân thuộc, không bị chung sống với những kẻ thù nghịch? Có ai đạt được tất cả những điều mình mong ước? Cho nên dù có muốn tạo ra một ảo tưởng đẹp đẽ về cuộc đời để sống cho yên ổn, thì ảo tưởng ấy, sớm hay muộn gì cũng sẽ bị thực tế phủ phàng xé tan đi mất! Và khi ấy, cuộc thế trần truồng, xấu xí, ghê tởm sẽ hiện ra một cách vô cùng đột ngột, trước mắt những kẻ thường quen sống trong ảo tưởng đẹp đẽ. Bấy giờ những kẻ thiếu chuẩn bị để sống một cuộc sống đau khổ, sẽ hoảng lên, vô cùng tuyệt vọng và có nhiều khi không đủ can đảm để sống nữa.

Trái lại, khi chúng ta biết rõ cảnh Ta Bà này có nhiều điều khổ, thì gặp cảnh khổ, chúng ta không đến nỗi khủng khiếp, tán loạn tinh thần, mà trái lại, chúng ta sẽ điềm tĩnh nhẫn nại để tìm phương giải thoát. Tỷ như nhà nông, biết bổn phận mình là phải vất vả với nghề cày sâu cuốc bẫm, tay lấm chân bùn, mới có lúa gạo để sống, nên gặp cảnh mưa tuôn, nắng táp cũng không nao núng chút nào. Trái lại, một kẻ quyền quí, quen sống trong nhung lụa, trong cảnh đền đài nguy nga, rủi gặp thời cuộc hổn loạn, đôi thay bất ngờ, đâm ra kinh hãi và liều mình tự tử.

2.- Không tham cầu nên khỏi bị hoàn cảnh chi phối:

Khi chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít buồn nhiều, và hễ càng ham muốn nhiều thì lại càng đau khổ lắm, khi biết rõ như thế, chúng ta sẽ tiết chế dục vọng của chúng ta và sẽ "biết đủ". Do đó, chúng ta không bị hoàn cảnh chi phối, không bị sóng đời lôi kéo, vùi dập chúng ta xuống vực thẳm mênh mông của cõi Ta Bà đen tối. Tỷ như người trí, rủi bị giam cầm, biết lo nghĩ phương kế để thoát ly lao ngục, chứ không như kẻ dại, trong khi ngồi tù, chỉ lo tranh giành những món cơm thừa, canh cặn mà quên rằng mình sẽ bị đem xử tử, nếu mình không sớm tìm kế thoát thân.

3.- Gắng sức tu hành để thoát khổ:

Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra.

IV.- BIẾT KHỔ PHẢI TÌM NGUYÊN NHÂN SANH RA KHỔ ĐỂ DIỆT TRỪ

Chúng ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không an, ví như nhà lửa". Tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân.

Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xa lánh nó. Biết khổ để tìm cách thoát ly, chứ không phải biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng. Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.

Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của Tứ Diệu Đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong chương thứ ba của tập sách này.

(Trích từ "Tám quyển sách quý"- HT. Thích Thiện Hoa)


Vô Đạo
Bài viết: 20
Ngày: 10/04/14 04:51
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Biết chết liền!

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi Vô Đạo »

Đọc dài quá thấy khổ!


trung_thuc
Bài viết: 22
Ngày: 01/04/14 07:25
Giới tính: Nam
Phật tử: Xuất gia
Đến từ: VietNam

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi trung_thuc »

Chánh Tín đã viết: Điều này bạn lại sai rồi. Mọi người muốn bạn cho biết bạn là "Phật tử xuất gia" (đã xuống tóc làm lễ thế phát) hay là "Phật tử tại gia" chứ không cần biết bạn có hay ở nhà không làm gì cả. Qua những gì bạn viết cho thấy bạn có hiểu nghĩa từ "xuất gia" nhưng bạn cố tình áp đặt mọi người phải hiểu theo ý của riêng bạn. Điều này chứng tỏ cái "tôi" của bạn khá lớn. Khi đối thoại bạn không chịu lắng nghe ý của mọi người mà muốn áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên người khác.
Xuất gia là xuống tóc đi tu em hiểu chứ bác. Có điều trong khi lập ngân khoản để trở thành thành viên, luật diễn đàn bắt em lựa chọn một trong hai, hoặc là tu tại gia, hoặc là xuất gia; nếu em không chọn một trong hai thì nhân khoản sẽ không được thiết lập thì bắt buộc em phải hiểu xuất gia theo nghĩa trần tục, xuất gia là ra khỏi nhà cho nó nhẹ gánh đặng lựa chọn cho nó dễ vậy ấy mà.


Chánh Tín đã viết:
ĐỜI LÀ MỘT BIỂN KHỔ ĐẦY MỒ HÔI VÀ NƯỚC MẮT


Có một số người cho rằng đời là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó, họ không để lỡ một dịp nào có thể đem lại cho họ những khoái lạc vật chất.

Nhưng họ không ngờ rằng những khoái lạc ấy điều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì cái khoái lạc mong manh của người khát mà uống nước mặn, càng uống lại càng khát; và cổ họng, sau cái phút uống vào, lại thêm đắng chát.

Khế kinh có câu: "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển". Thật thế! Cõi đời không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp son bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi lội, hụt lặn, chìm nổi, trôi lăn. Ðó là sự thật. Nhưng sự thật ấy, không ai nhìn thấy một cách tường tận và nói lên một cách rõ ràng như đức Phật đã nói trong khổ đế, phần thứ nhứt của Tứ Diệu Ðế.

I.- ĐỊNH NGHĨA CHỮ KHỔ ĐẾ (DUKKHA)


3.- Gắng sức tu hành để thoát khổ:

Khi đã biết thân người nhiều khổ và cảnh Ta Bà ít vui, con người mới mong ước được thoát ly ra khỏi cảnh giới đen tối của mình và sống ở một cảnh giới tốt đẹp hơn. Cũng như lũ trẻ đang chơi mê mẩn trong cảnh nhà đang cháy, may nhờ đấng cha lành báo động, chúng mới biết và gấp rút tìm đường thoát ra.

IV.- BIẾT KHỔ PHẢI TÌM NGUYÊN NHÂN SANH RA KHỔ ĐỂ DIỆT TRỪ

Chúng ta đã được đức Phật từ bi chỉ rõ cho thấy rằng cõi Ta Bà này, cũng như tam giới đều là biển khổ. Kinh Pháp Hoa cũng nói: "Ba cõi không an, ví như nhà lửa". Tiếc vì chúng sinh mê muội, lấy khổ làm vui mà không tự biết, nên phải bị trầm luân.

Nay chúng ta đã biết rõ mặt thật xấu xí của đời rồi, đã biết nó là một biển khổ mênh mông luôn luôn dậy sóng, thì ta phải nhàm chán nó, xa lánh nó. Biết khổ để tìm cách thoát ly, chứ không phải biết khổ để rồi chán đời, nản chí, buông xuôi tay ngồi khóc than. Nhưng làm thế nào để thoát ly nó, nếu chúng ta chưa rõ biết ngành ngọn, đường đi nước bước, chưa biết rõ vì đâu phát sinh đau khổ? Nhà lương y giỏi muốn trừ bênh, phải tìm căn nguyên của bệnh. Một viên tướng giỏi muôn trừ diệt tận gốc bọn phiến loạn, phải cho điều tra kỹ lưỡng sào huyệt, tổng hành dinh của chúng ở đâu, nhiên hậu mới có thể bao vây, đánh bắt chúng nó đầu hàng một cách dễ dàng. Cũng vậy, biết khổ chưa đủ để diệt khổ. Muốn diệt khổ tận gốc phải tìm nguyên nhân phát sanh ra khổ.

Nguyên nhân phát sanh ra khổ, đức Phật đã thuyết trong đoạn thứ hai của Tứ Diệu Đế là Tập đế, mà quý độc giả sẽ đọc trong chương thứ ba của tập sách này.

(Trích từ "Tám quyển sách quý"- HT. Thích Thiện Hoa)
* Theo em thấy thì ngay cái định nghĩa của Khế Kinh "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" là em thấy nó sai toét tòe loe rồi. Nước mắt chúng sinh cả đời của mỗi người may ra được vài bát, người hay nhè thì được vài gallons nước mắt, còn người không khóc bao giờ thì làm gì có nước mắt. Nếu cái định nghĩa của Khổ Kinh "Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển" là trung thực thì cái đại dương mực nước đã lên gấp đôi thì trái đất đã bị ngập lụt bởi nước biển mất rồi, con người đâu còn đất để sống. Ngay từ đầu cái định nghĩa của Khổ Kinh đã sai thì cái nhìn của một người bi quan thấy đời là bể khổ làm sao đúng được bác?

* Một người gắng sức tu hành tụng niệm cả cuộc đời, phải sống khổ hạnh trái với tự nhiên là đã tự chuốc khổ vào thân rồi. Bỏ một giờ tụng niệm không là em đã thấy chán nản lắm rồi huống hồ bây giờ cả đời phải ăn chay tụng niệm cả ngày suốt cuộc đời để diệt khổ thì còn gì là khổ hơn. Em nghĩ sống như vậy thà tự tử chết đi cho đỡ khổ.

Phật thì khuyên chúng sinh diệt Dục để bớt khổ. Mà diệt Dục dễ bị tẩu hỏa nhập ma vì phải đè nén quá sức chịu đựng tự nhiên của con người. Quan niệm của em khác với đức Phật. Muốn tự giải thoát diệt Khổ thì không gì bằng "Bác ái với tha nhân để quên mình và tìm được hạnh phúc đích thực cho chính mình". Bác Chánh Tín có tin như vậy không? Bây giờ chúng ta đi ra ngoài làm việc thiện giúp đỡ tha nhân. Chẳng hạn vào nhà thương săn sóc bệnh nhân, hoặc đến trại cùi săn sóc người cùi hủi chúng ta sẽ thấy mình không bao giờ nhớ mình là ai mà sẽ thấy chúng ta rất sung sướng hạnh phúc khi chúng ta mang tiếng cười lại cho những người tật nguyền khổ đau. Bác Chánh Tín có coi cuốn Paris By Night số 90 mang chủ đề "Chân Dung Người Phụ Nữ VN" nói về cô Tim Aline Rebeaud chưa? Tim là cô gái tây Phương du lịch qua VN tình cờ một đêm cô lang thang và gặp một đứa trẻ mồ côi. Tim đã đem đứa trẻ về nuôi và sau đó cô thiết lập một nhà tình thương để giúp những đứa trẻ bất hạnh khác. Cô Tim đã quên mình lấy niềm vui của người làm niềm vui cho mình và cô đã được giải thoát vì không còn nhớ mình là ai mà chỉ nhớ là những người bất hạnh cần đến tình thương của mình. Những người như Tim quên mình không hề than đời là bể khổ mà lúc nào cũng yêu đời chẳng bao giờ tham lam, sân si bất cứ cái gì cho mình vì chính bản thân cô Tim còn không màng kia mà!

Còn chúng ta nhìn hình ảnh một người tụng niệm, diệt Dục hằng mấy chục năm theo Phật như cao tăng Thích Nhất Hạnh coi Thích Nhất Hạnh lòng có sân si, Dục có diệt nổi hay không:

Hình ảnh
Sửa lần cuối bởi trung_thuc vào ngày 13/04/14 08:23 với 1 lần sửa.


trung_thuc
Bài viết: 22
Ngày: 01/04/14 07:25
Giới tính: Nam
Phật tử: Xuất gia
Đến từ: VietNam

Re: Phật giáo và quan niệm về Thượng đế

Bài viết chưa xem gửi bởi trung_thuc »

Như ý Cát Tường đã viết:Nick Trúng Thực (trung_thuc) dừng viết lại những điều trên đi, tội lỗi lắm! Sao lại quơ đũa cả nắm, thời gian trôi qua nhanh lắm người như thế nào sẽ thấy rõ thôi, tự làm tự chịu. Phật tu bao lâu mới thành Phật, KHỔ như thế nào mới đạt quả vị Phật, Trúng Thực cũng biết rồi sao nói những lời tội lỗi vậy, dù biết rằng Phật rất từ bi không gián tội một chúng sanh nào có gây ra tội nặng, nhưng sau này chúng sanh đó trên đường tu sẽ tự trả quả những gì đã làm. Thầy dạy Cát Tường mồ côi cha mẹ từ nhỏ và xuất gia năm 7 tuổi đến giờ Thầy lớn tuổi lắm rồi, hồi tết Thầy cũng dặn dò bảo mấy huynh đệ của Thầy cũng thản nhiên tịch hết rồi cũng đến lượt Thầy. Thầy tu ở một thất nhỏ, thỉnh thoảng đi khất hóa duyên, những ai có duyên gặp Thầy sẽ rõ, Tam Y Nhất Bát, một xu gia đình Cát Tường cúng dường Thầy cũng mua gạo phát cho người nghèo, giúp các chùa ở quê nghèo trùng tu, thất Thầy tu trời mưa gió mái tôn bay tróc nóc, nước ngập mà Thầy có đòi hỏi cúng dường gì đâu, lúc nào Thầy cũng cười hề hề, lâu lâu Cát Tường mới gặp Thầy, Thầy chỉ thường dạy vài lời ngắn gọn. Thầy cũng chỉ nhận một đệ tử duy nhất. Cát Tường đã nói nhiều xin dừng và nick trung_thuc cũng nên ngừng lại nhìn chính bản thân trung_thuc trước. NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT....
Người ta nói nhìn con mà biết cha, nhìn trò mà biết được thầy. Em không biết thầy của bác Cát Tường là ai nhưng cái nick của em là trung_thuc mà bác chơi ác trù ẻo nó thành ra Trúng Thực thì mặc dù chưa từng gặp thầy của bác thì em cũng đã đoán ra được con người ấy như thế nào rồi bác Cát Tường ạ! Trò như vậy thì em gặp thầy để làm gì.

Nếu những điều em đưa ra trong tranh luận đúng sai chỗ nào thì mời bác cứ việc giảng giải cho em hay. Bác không giảng giải mà lại nhè cá nhân miệt thị, trù ẻo thì em thấy đây không phải là tranh luận đâu!


Đã khóa

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.15 khách