Tịnh Độ Tập Yếu

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(31/7/2018) (1) Hết T1

13. Đại sư Ấn Quang - Tổ Liên Tông thứ mười ba cuối đời Thanh- Dân Quốc
Ấn Quang Ðại Sư, húy Thánh Lượng, biệt hiệu Thường Tàm, người khoảng cuối nhà Thanh sang kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Thiểm Tây. Thuở bé ngài học Nho, lớn lên lấy việc duy trì đạo Khổng làm trách nhiệm, nên theo thuyết của Hàn Dũ, Âu Dương Tu bài bác Phật pháp. Ngài từng bị đau mắt khi sanh ra vừa sáu tháng, sau tuy lành bệnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi đỏ thì chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ. Khi bị bệnh, tự xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước. Niên hiệu Quang Chữ thứ bảy đời Thanh, vừa sang hai mươi mốt tuổi, căn lành thành thục, ngài xuất gia với Ðạo Thuần Hòa Thượng tại chùa Liên Hoa Ðộng ở núi Chung Nam. Tại đây, Sư chuyên cần nghiên cứu kinh điển, hiểu sâu thông suốt pháp môn Tịnh độ, nhiếp hóa hết thảy các căn cơ, tự gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp phổ độ quần sanh. Sư đi du hóa khắp nơi, có lúc ở Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Đà… Ít lâu sau, lại được duyên thọ Ðại Giới nơi chùa Song Khê, huyện Hưng An với luật sư Ấn Hải Ðịnh. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và viết chữ khéo nên được cử làm chức thư ký. Do viết chữ quá nhiều, đôi mắt lại phát đỏ như huyết. Lúc trước nhân khi phơi kinh được xem bộ Long Thơ Tịnh Ðộ, biết rõ công đức niệm Phật, nên kỳ thọ giới này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ, ngài vẫn ngồi niệm Phật. Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng không rời Phật. Nhờ đó tuy đôi mắt phát đỏ, vẫn có thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn, bệnh đau mắt cũng được lành. Do đây, ngài biết công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân duyên này cũng là đầu mối khiến ngài quy hướng Tịnh Ðộ và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Ðại Sư tiến bước trên đường tu học trải qua các danh lam: Tư Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự và sau cùng đến chùa Pháp Võ ở Phổ Ðà Sơn. Năm Dân Quốc thứ mười chín, Sư đến Tô Châu sáng lập đạo tràng Tịnh Độ Linh Nham. Vì thấy chư Tăng có người không như pháp, nên Sư phát nguyện không trụ trì chùa viện, không thu đồ chúng, không hóa duyên, cũng không mở hội niệm Phật. Thường ngày, Sư không giao tiếp với hàng cư sĩ hay quan quyền, không cười hay nói, không phô trương công việc, không trước tác kinh sách hay sám hối công đức, mà chí khí Sư vẫn cao, hạnh vẫn tinh khiết. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn ba mươi năm xuất gia, Ðại Sư trước sau mai danh ẩn tích, không thích cùng người tới lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội. Có những hôm, Sư đóng cửa tịnh thất để viết thư phúc đáp, trả lời những điều vấn nạn cho bốn chúng học Phật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, ý nghĩa sâu xa, Sư đã để lại trăm vạn lời tốt đẹp cho hàng hậu học. Nhờ vậy, ngày nay chúng ta có tác phẩm Ấn Quang Đại Sư Văn Sao hành thế, với lời văn và ý nghĩa biểu đạt chơn thành, dạy người sống theo luân thường đạo lý, lấy tịnh tâm làm gốc, niệm Phật cầu sanh Tây phương làm mục đích. Mỗi mỗi lời đều hợp với ý Phật ý Tổ, khéo thích hợp tùy theo từng loại căn cơ, dù cho hạng sơ cơ đọc tụng cũng có thể thông hiểu. Pháp ngữ của Sư lưu truyền khắp nơi, ấn vào tâm khảm con người. Cuối năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ngày 24 tháng 10, Ðại Sư dự biết kỳ vãng sanh, cho triệu tập chư Tăng và cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi hội đàm, ngài suy cử Diệu Chơn Hòa Thượng kế nhiệm trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn Niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”. Qua ngày mùng 4 tháng 11, Ðại Sư cảm bệnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Ðà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi đây. Ðại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già, chắp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Ðại Sư tăng lạp được sáu mươi, thế thọ tám mươi tuổi. Rằm tháng Hai năm sau, nhằm thánh tiết Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Ðại Sư vãng sanh được một trăm ngày. Hàng đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ. Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Ðạt Hòa Thượng cầm đuốc cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc. Hôm sau Diệu Chơn Hòa Thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất cả đều cứng như khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng trong thanh. Ðại chúng lựa chia thành sáu phần: 1. Nha xỉ xá lợi: gồm ba mươi hai cái răng. 2. Ngũ sắc xá lợi châu: nhiều hạt tròn sáng. 3. Ngũ sắc tiểu xá lợi hoa: hình như các đóa hoa nhỏ. 4. Ngũ sắc đại xá lợi hoa: hình như những đóa hoa lớn. 5. Ngũ sắc huyết xá lợi: do huyết nhục hóa thành. 6. Ngũ sắc xá lợi khối: gồm những khối có nhiều hình dáng, màu sắc Tất cả đều để vào lồng kiếng, trân tàng tại bản sơn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(01/8/2018) (12) T2

1. Đại sư Hám Sơn (trích soạn theo Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện)
Đại Sư Hám Sơn (1546-1623) tự là Đức Thanh, họ Thái người đất Kim Lăng, là một đại sư Phật giáo trong Thiền tông và Tịnh Độ tông. Ngài được mệnh danh là một trong 4 vị “Thánh Tăng” đời nhà Minh (Trung Hoa). Ba vị còn lại là ngài Tử Bá hiệu Đạt Quán, ngài Liên Trì và ngài Ngẫu Ích. Sư Hám Sơn là người để lại rất nhiều bài giảng dành cho mọi tầng lớp người trong xã hội bấy giờ. Xuất gia từ lúc 19 tuổi, ngài chuyên tâm niệm Phật. Có một đêm, đại sư năm mơ thấy đức Phật A Di Đà hiện thân giữa hư không. Từ đó về sau, ngài thấy tượng Phật dường như phảng phất trước mặt. Đại sư tham thiền gần mười năm, khi được tỏ ngộ liền vào ẩn trong núi Lao Sơn. Trước kia, dân chúng chung quanh vùng ấy chưa nghe chánh pháp, nhưng khi ngài về ở không bao lâu, trẻ thơ ba tuổi đều biết niệm Phật. Từ Thánh Thái Hậu nghe danh, xin quy y làm đệ tử và cúng dường rất hậu. Có kẻ ganh ghét gièm pha chuyện ấy, vua giận biếm truất Đại Sư đến miền Lôi Châu. Nơi đây, ngài lại trùng hưng đạo tràng Tào Khê. Sau vua xuống chiếu ân xá triệu về, Đại Sư bèn ở Lôi Sơn chuyên tu tịnh nghiệp. Sau đó ngài về lại Tào Khê niệm Phật mà thác hóa, thọ 78 tuổi. Sau khi nhập diệt, Sư đã để lại toàn nhục thân không bị hư thối. Nhục thân của Sư được đặt tại Tào Khê cùng với nhục thân của thiền sư Huệ Năng và thiền sư Đan Điền hiện nay thuộc chùa Hoa Nam huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Đại sư dạy: “Điều cần yếu nhất trong sự tu hành là tâm tha thiết về việc luân hồi sanh tử. Tâm sanh tử không thiết tha, làm sao dám gọi là niệm Phật thành một khối? Nếu người quả vì sự luân hồi mà tha thiết, thì mỗi niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e mất thân người, muôn kiếp khó được. Lúc ấy quyết giữ chắc câu niệm Phật, quyết đánh lui vọng tưởng, trong tất cả thời tất cả chỗ, hiệu Phật thường hiện tiền, không bị vọng tình ngăn che lôi kéo. Dùng công phu khổ thiết như thế, lâu ngày niệm sẽ thuần thục, tâm được tương ứng, tuy không hy cầu mà niệm lực tự nhiên sẽ thành một khối.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(02/8/2018) (13) T2

Đại lão Hòa thượng Hư Vân (nhasachtinhlien. com)
Hư Vân thiền sư (1840-1959) húy Diễn Triệt, tự Đức Thanh, hiệu Hư Vân, là một trong tứ đại danh tăng cuối triều Thanh, đầu thời Dân Quốc tại Trung Hoa. Khi chưa xuất gia, họ tục của ngài là Tiêu, quê ở tỉnh Hồ Nam huyện Tương Hương. Thân phụ là Ngọc Ðường từng làm Tri phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến, làm quan thanh liêm, được dân ái mộ. Trong lịch sử Phật giáo hiện đại, ngài là bậc cao tăng kiên trì tu tập khổ hạnh hơn một trăm năm, trải qua 15 đạo tràng và trùng hưng 6 đại tổ đình của Phật giáo Trung Quốc. Lấy một thân kiêm gánh vác sự nghiệp của thiền môn Ngũ Tổ, pháp tự tín đồ lên đến số hàng trăm vạn (trong đó có đại sư Tuyên Hóa) được tôn xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu chốn cửa thiền. Thuở nhỏ, ngài học đạo Nho. Có lần ngài than: “Đạo này chẳng đưa đến cứu cánh”, liền chuyển sang học Phật, từ đó ý niệm xuất gia canh cánh bên lòng. Năm 18 tuổi, ngài sáng tác bài ca “Bì đại” lưu hành ở đời. Sau đó, ngài đến tỉnh Phúc Kiến, lễ trưởng lão cao tăng Thường Khai cầu xuất gia. Năm sau, ngài y chỉ Hòa thượng Diệu Liên ở chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn thọ giới Cụ túc, rồi ẩn tu trong hang sâu ở phía sau núi, lạy kinh Vạn Phật sám hối. Được ba năm, ngài xuống núi đi tham vấn thiện tri thức ở các nơi. Năm 43 tuổi, để báo ân dưỡng dục của mẹ cha, ngài phát tâm tam bộ nhất bái từ núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài. Năm 60 tuổi, ngài tham gia thiền thất tại chùa Cao Mân ở Dương Châu. Sau đó, ngài giảng pháp độ sanh, xây chùa, truyền giới, tu sửa hơn 30 chốn tòng lâm, như chùa Vân Thê ở Vân Nham, chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn - Phúc Kiến, chùa Nam Hoa ở Khúc Giang - Quảng Đông, chùa Đại Giác ở núi Vân Môn - Nhủ Nguyên, chùa Chân Như ở núi Vân Cư - Giang Tây. Lúc 120 tuổi, ngài bảo đại chúng: “Sau khi trà-tì nhục thân của ta, các ông hãy nghiền xương tro thành bột, rồi rải xuống sông làm thức ăn cho cá.” Ngày 13 tháng 10 năm 1959 dương lịch, ngài nằm thế kiết tường an nhiên thị tịch. Sau khi trà-tì được vô số xá lợi năm màu, hạt lớn như mắt rồng, trong suốt óng ánh. Tháp thờ ngài an trí tại núi Vân Cư. Môn đồ xuất bản bộ Niên Phả và Pháp ngữ của ngài để lưu hành ở đời.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(03/8/2018) (14) T2

Đại Lão Hòa Thượng Quảng Khâm (trích trong Cẩm Nang Tu Đạo)
Hòa thượng Quảng Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn Lai, quê ở Phúc Kiến, Trung Hoa. Gia đình ngài rất nghèo, năm ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng ngài, cha mẹ ngài phải đem ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn Giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt. Năm ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ ngài cũng nối gót từ trần, khiến ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến cho ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu ngài nảy sinh ý niệm thoát trần. Ngài đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới chùa Thừa Thiên ở Phúc Châu xin xuất gia. Bấy giờ, phương trượng chùa Thừa Thiên là Hòa Thượng Chuyển Trần, dạy ngài quy y, tu khổ hạnh với thầy Thụy Phương. Ðến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, ngài đã qua Nam Dương và sống ở đó gần 16 năm. Năm 35 tuổi, ngài về lại chùa Thừa Thiên, chính thức xuống tóc, lạy Hòa Thượng Thụy Phương làm thầy. Pháp danh của ngài là Chiếu Kính, tự Quảng Khâm. Sau khi xuất gia, ngài chuyên tu khổ hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian ngài giữ trách nhiệm Hương đăng và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi. Năm 1933, sau sáu năm làm Sa di tu khổ hạnh, bấy giờ ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ khưu nơi Hòa Thượng Diệu Nghĩa, chùa Từ Thọ, Phủ Điền. Thọ giới rồi, ngài liền xin phép Phương Trượng Chuyển Trần đi ẩn tu; lúc ấy ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo, ngài nhắm núi Thanh Lương, tỉnh Tuyền Châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu đạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý ngài. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gũi với ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi ngài là Phục Hổ Hòa thượng. Bấy giờ, ngài ở sơn động ngày ngày tọa thiền, niệm Phật; chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường ngài nữa! Hòa thượng thường hay nhập định. Có lần ngài nhập định đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa thượng đã ở trên núi Thanh Lương được 13 năm. Bấy giờ đã 54 tuổi (1945), ngài trở về chùa Thừa Thiên. Hai năm sau, 1947, ngài rời Ðại Lục, đáp thuyền tới Ðài Loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng pháp của ngài: - 1948, ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài Bắc, tên là Quảng Minh Tự. - 1951, xây Quảng Chiếu Tự. - 1952, ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành Phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, ngài đặt tên là Nhật Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước, song từ khi ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy. - 1955, tín đồ ở Ðài Bắc cúng dường ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên ngài bèn xây Thừa Thiên Tự ở đó. - 1963, ngài hưng kiến Tường Ðức Tự; xây Quảng Long Tự ở núi Long Tỉnh, v.v... Hằng ngày, ngài chỉ ăn một bữa và chỉ ăn trái cây; ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi ngài là Thủy Quả Hòa Thượng - Ông Thầy Ăn Trái Cây. Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm ngài đều ngồi tọa thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của ngài. Năm ngài 80 tuổi, có lần ngài biểu thị cho đại chúng biết ý định “Xả báo - nhập định” - của ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập định, tiếp tục công cuộc độ sinh. Ðến năm 84 tuổi, ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa Thiên trên núi Thanh Lương không còn xuống núi nữa. Năm 94 tuổi (1985), ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng, Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài Loan lúc bấy giờ. Cuối năm 1985, ngài trở về chùa Thừa Thiên. Ngài thị hiện có bệnh, cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men cũng không tiếp kiến tín đồ. Ngày Tết Nguyên đán năm 1986, ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật. Vào hai giờ chiều hôm ấy, ngài bảo đại chúng: “Vô lai vô khứ, một hữu sự!” (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi. Nhìn lại cả đời ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia, ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghị. Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu tình đến vô tình... Và, nhất là sự viên tịch vô cùng tự do tự tại của ngài - một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thực hành.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(04/8/2018) (15) T2

Thiền sư Thiên Như Duy Tắc
Sư họ Đàm, hiệu Thiên Như, người Cát An, Giang Tây. Thuở nhỏ, Sư xuất gia với ngài Hòa Sơn, sau du phương đến núi Thiên Mục đắc pháp và kế thừa Thiền sư Trung Phong Minh Bổn. Năm 1341, Sư trụ ở Sư Tử Lâm thuộc Tô Châu. Năm sau, môn nhân hợp sức dựng chùa Bồ Đề Chánh Tông, thỉnh Sư thuyết pháp, xiển dương tông phong Lâm Tế. Ngoài ra, Sư còn nghiên cứu sâu giáo nghĩa của ngài Vĩnh Minh, tông Thiên Thai, xiển dương Tịnh độ, soạn Tịnh độ Hoặc Vấn để trừ nghi và sách tấn hành giả tu tập. Sư được Thuận đế nhà Nguyên ban hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện Thiền sư và y kim lan. Tác phẩm do Sư trước tác gồm: Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải 20 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển, Tịnh độ Hoặc Vấn, Thiền Tông Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết. Sư thị tịch vào năm Hồng Võ nguyên niên đời nhà Minh (năm 1354), khi tịch điềm lành rất nhiều, thọ 71 tuổi, không rõ Tăng lạp bao nhiêu. Đại Sư dạy: “Người đời nay tuy dễ tinh tiến song cũng dễ thoái lui, khi nghe lời khuyên nhắc thì dõng mãnh siêng năng, lúc gặp việc gì chướng ngại lại giãi đãi thoái lui ngả theo hướng khác. Phần đông bọn họ đều nói: “Kết quả của sự niệm Phật có lẽ đợi sau khi chết rồi mới thấy, còn hiện tại chỉ thấy nhọc nhằn mệt mỏi mà chẳng thấy lợi ích thiết thực gì cả.” Thực đáng thương thay cho những kẻ nông nổi mông muội này. Trong Kinh Tịnh độ có viết: Người nào hiện đời chí tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười điều thắng lợi như sau: 1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực thần tướng và hằng sa quyến thuộc ẩn hình ủng hộ. 2. Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như đức Quán Thế Âm và tất cả Bồ Tát theo thủ hộ bên mình. 3. Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức A Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người ấy. 4. Tất cả ác quỷ như Dạ xoa, La sát đều không thể làm hại. Tất cả rồng độc, rắn độc và thuốc độc đều không thể xâm phạm. 5. Không bị những tai nạn như: nước trôi, lửa cháy, giặc oán, đao tên, gông xiềng, tù ngục, hoạch tử. 6. Những nghiệp ác về trước lần lượt đều tiêu diệt. Những oan mạng bị đương nhân giết, nhờ công đức niệm Phật, đều được giải thoát, không còn theo báo thù phục hận nữa. 7. Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành hay thấy sắc thân thắng diệu của đức Phật Di Đà. 8. Tâm thường an vui, nhan sắc nhuận khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp. 9. Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc hoan hỷ lễ bái cũng như kính Phật. 10. Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được thấy Phật A Di Đà cùng các thánh chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(05/8/2018) (15) T2

Đại sư Thiên Thai Trí Giả
Đại sư Trí Khải khi chưa xuất gia là con nhà họ Trần, tự là Đức An, tổ tiên trước kia là người vùng Dĩnh Xuyên (nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam) nhưng ngài sinh ra vào năm 538 ở Hoa Dung, Kinh Châu, (nay thuộc Hồ Bắc). Từ nhỏ ngài đã có lòng tin Phật. Năm 17 tuổi, gặp lúc nhà Lương suy mạt, binh loạn khắp nơi, ngài phải lưu lạc đây đó. Năm 18 tuổi đến chùa Quả Nguyện ở Tương Châu xuất gia, đủ 20 tuổi thì thọ Cụ túc giới. Vào niên hiệu Thiên Gia thứ nhất đời Trần Văn Đế (560), ngài đến núi Đại Tô, Quang Châu (nay là Hoàng Xuyên, Hà Nam) theo ngài Huệ Tư học Tứ an lạc hạnh, tu chứng được Pháp Hoa Tam-muội. Niên hiệu Quang Đại thứ nhất đời Trần Phế Đế (567), ngài đến Kiến Khương giảng dạy pháp Thiền, ở chùa Ngõa Quan trong 8 năm, giảng Đại Trí Độ luận và thuyết Thứ đệ thiền môn, cùng giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa và nhiều kinh điển khác. Đến niên hiệu Thái Kiến thứ 7 đời Trần Tuyên Đế (575), ngài vào núi Thiên Thai (cũng gọi là Thiên Đài) ẩn cư tu tập. Cho đến niên hiệu Chí Đức thứ 3 (585), Trần Hậu Chủ ban sắc chỉ thỉnh ngài trở về Kiến Khương giảng kinh Nhân vương Bát-nhã và một số kinh khác. Năm sau đó (586), thái tử nhà Trần đến xin thọ giới với ngài. Năm 587, ngài ở chùa Quang Trạch giảng kinh Diệu Vị Năng Liên Hoa, đệ tử là ngài Quán Đỉnh ghi chép tất cả lời giảng, soạn lại thành sách Pháp Hoa văn cú. Từ sau khi nhà Trần bị nhà Tùy diệt, ngài đến ở Lư Sơn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ 11 đời Tùy Văn Đế (591), Tấn Vương Dương Quảng (con Tùy Văn Đế) thỉnh ngài đến Dương Châu để thọ giới với ngài, ban tôn hiệu là Trí Giả, nhân đó đương thời tôn xưng ngài là Trí Giả Đại sư. Năm 592, ngài đến Kinh Châu xây dựng chùa Ngọc Tuyền, thuyết giảng Pháp Hoa huyền nghĩa và Ma- ha chỉ quán, đệ tử là Quán Đỉnh cũng chép lại thành sách lưu truyền. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ 15 (595), ngài lại vì Tấn Vương Dương Quảng mà soạn bộ Tịnh Danh kinh sớ (Sớ giải kinh Duyma-cật). Năm sau đó (596), ngài từ biệt trở về núi Thiên Thai, trùng tu tự viện. Sang năm sau nữa (597) thì viên tịch. Suốt một đời ngài đã kiến lập đến 36 ngôi chùa, truyền giới độ tăng đến 14.000 vị, đệ tử nối pháp có 32 người, đứng đầu là ngài Quán Đỉnh. Trước tác các sách luận giải chú thích có đến 29 bộ, 151 quyển. Ngay cả trước lúc lâm chung còn khẩu truyền bộ Quán tâm luận, cũng là một quyển luận được người sau xem trọng. Đó là chưa kể còn có rất nhiều sách khác vẫn được cho là của ngài nhưng chưa dám xác quyết, vì còn ngờ là do người đời sau nhầm lẫn. Quả thực là một vị danh tăng xưa nay ít có!


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(06/8/2018) (17) T2

Hòa thượng Tuyên Hóa
Hoà thượng vốn họ Bạch, tên tục là Ngọc-Thư, Pháp danh là An Từ, tự Ðộ Luân, và Tuyên Hóa là pháp hiệu do Lão Hòa thượng Hư Vân đặc biệt tặng cho khi ngài thọ lãnh sứ mạng làm người kế thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song Thành, tỉnh Tùng-Giang, Ðông Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Thân phụ ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông; thân mẫu thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được tám người con, năm trai ba gái, và ngài là út. Thân mẫu ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy Ðức Phật A-Di-Ðà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng khắp thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh ngài. Ngài vừa ra đời liền khóc suốt ba ngày đêm, chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta-bà này vậy. Năm ngài mười một tuổi, một hôm cùng chúng bạn dạo chơi, ngài chợt trông thấy một em bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết nên liền nói: “Ðứa bé đã chết rồi!” Song Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy: “Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả!” Ngài lại thưa: “Như vậy, có cách gì thoát sự chết chăng?” Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu Ðạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòng luân hồi, thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh.” Tuy lúc đó ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất gia tu Ðạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy: “Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý! Song, nay ta đã già, mà các anh chị con đều đã tự lập; vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chưa muộn.” Ngài vâng lời cha mẹ. Sau đó, hằng ngày thường theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha me. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên Ngài hướng về trời, đất, vua, sư trưởng mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã làm. Nhận thấy những người ác thực đáng thương, Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của họ được giảm bớt và sớm biết hối cải. Mỗi ngày ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày ngài đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối. Ngày lại ngày, ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Ðức Phật vậỵ. Chẳng bao lâu tiếng hiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều gọi ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch). Năm ngài mười chín tuổi thì gặp phải tang thân mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, ngài đến Chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa thượng Thường Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau đó, ngài về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà. Rất nhiều lần ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng. Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày. Song, khi tới nơi mọi người thấy túp lều tranh vẫn bình lặng, và ngài thì an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh! Có lần ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy ngài rằng trong tương lai ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, ngài mới choàng tỉnh, sực nhớ rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, khoảng 1.200 năm về trước! Năm 1946, sau khi Thế Chiến thứ hai kết thúc, tình trạng giao thông trong nước đã bắt đầu dễ dàng trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để đến Chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Ðông, đảnh lễ Lão Hòa thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Ðà để thọ Cụ túc giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, Ngài đã được bái kiến Lão Hòa thượng Hư Vân, bậc Ðại Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ. Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, lão Hòa thượng nói: “Như thị, như thị!” và Ngài cũng đáp lại “Như thị, như thị!” Biết Ngài là bậc “pháp khí”, Lão Hòa thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng. Sau đó, Lão Hòa thượng dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật Chùa Nam Hoa. Năm 1949, Ngài từ giã Chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Ðại Lục qua Hương Cảng tị nạn và cần sự giúp đỡ của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, sáng lập Phật giáo Giảng Ðường, Chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu Ðạo, vì Pháp quên mình. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp. Hòa thượng Tuyên Hóa vốn nuôi chí nguyện đem Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm 1961, ngài sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên dương Ðạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống). Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, ngài nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm ấy, ngài chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn, v. v.. Năm 1971, ngài giảng bộ Kinh tối cao của Ðại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm. Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Mỹ Quốc. Tại Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng Ni học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc Tông. Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam Ðàn Ðại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Ðại Thừa và Tiểu Thừa hợp lực chủ trì. Năm 1980, Ngài thành lập Trung Tâm Cứu Tế Nạn Dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn nghệ và Anh ngữ, đồng thời giúp tái định cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Campuchia. Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ. Với tinh thần “Vì Pháp quên mình,” Hòa thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật Pháp. Ngài được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống khổ hạnh và nghiêm trì Giới Luật của ngài. Trong thời Mạt Pháp mà nhiều người không tôn trọng Giới Luật này, ngài đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ không nằm. Bình sanh, ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng sanh. Mặc dầu tuổi Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết Pháp và giảng luận kinh điển Phật giáo, giương cao ngọn đèn rực rỡ của trí huệ để soi đường cho chúng sanh đang chìm đắm trong đêm tối của thời đại Mạt Pháp này. Chính trong lúc ngài đang bệnh để gánh chịu khổ nạn cho chúng sanh, ngài vẫn kiên trì tiếp tục đại nguyện diễn dịch kinh điển Phật giáo. Ngày 7 tháng 6 năm 1995, Hòa thượng Tuyên Hóa thị hiện viên tịch tại Los Angeles, Mỹ Quốc; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu: (1) tiếp tục hoằng dương Phật Pháp, (2) phiên dịch kinh điển Phật giáo, và (3) hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.
(Còn tiếp)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(07/8/2018) (19) T2

Hòa thượng Tuyên Hóa (tt)

Vâng theo di huấn của ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật giáo Pháp Giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm ngài viên tịch. Ngày 12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6, Kim quan của ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thành. Tại đây Ðại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7, tro cốt của ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di giáo của ngài: “Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư không!” Dù cho ngài không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này, nhưng công đức hoằng Pháp tại Tây phương, phiên dịch kinh điển, thiết lập đạo tràng và học đường của ngài lúc còn tại thế đã gieo hạt giống Bồ Ðề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các từng lớp dân chúng Tây phương. Những dấu ấn đó của ngài sẽ không bao giờ phai mờ với thời gian! Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa thượng Tuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng Hội Phật giáo Pháp Giới long trọng tổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa thượng về các Ðạo Tràng. Hòa thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn của ngài: “Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả các tướng!” Mười Tám Ðại Nguyện của Lão Hòa thượng Tuyên Hóa Năm Hòa thượng Tuyên Hóa mười chín tuổi thì thân mẫu Ngài tạ thế. Sau khi lo liệu chu toàn việc mai táng. Ngài tới Chùa Tam Duyên ở Hợp Nhĩ Tân lạy Hòa thượng Thường Trí làm Thầy, chính thức xuất gia. Ít lâu sau, ngài tới trước mộ phần của thân mẫu để thủ hiếu. Năm đó, nhân ngày vía Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, 19 tháng 6 âm lịch, ngài đối trước chư Phật và chư Bồ Tát mười phương phát Mười Tám Ðại Nguyện: “Kính lạy mười phương chư Phật, cùng Tam Tạng Pháp với chư Hiền Thánh Tăng trong đời quá khứ và hiện tại, Nguyện rũ lòng chứng giám: Ðệ tử là Ðộ Luân, Thích An Từ, con nay phát tâm, Chẳng vì cầu phước báu của hàng Trời, Người, cùng Thanh Văn, Duyên Giác, Hay của hàng Bồ Tát Quyền Thừa mà phát Bồ Ðề Tâm. Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong Pháp Giới đồng thời chứng đắc, A-nậu-đa-la Tam-miệu Tambồ-đề. 1. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Bồ Tát ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 2. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Duyên Giác ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 3. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Thanh Văn ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 4. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Trời, Người ở trong Tam Giới, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 5. Nguyện rằng nếu còn một Người ở trong mười phương thế giới chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 6. Nguyện rằng nếu có một vị Trời, Người hay A-tu-la, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 7. Nguyện rằng trong thế giới loài Súc sanh mà còn một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 8. Nguyện rằng trong thế giới loài Ngạ quỷ mà còn một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 9. Nguyện rằng nếu trong thế giới loài Ðịa ngục, mà còn một kẻ chưa thành Phật hoặc địa ngục chưa trống không, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 10. Nguyện rằng trong Tam Giới, nếu còn một ai đã từng quy y với con-dù là Trời, Người, A-tu-la, các loài bay, lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng, súc sinh, quỷ, hoặc thần mà chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi Chánh Giác. 11. Nguyện hồi hướng, bố thí khắp nơi mọi phước lạc mà con đáng được hưởng, cho tất cả chúng sinh trong Pháp Giới. 12. Nguyện rằng một mình con sẽ nhận chịu hết tất cả khổ nạn của chúng sinh trong toàn Pháp Giới. 13. Nguyện rằng con sẽ phân linh thành vô số để phổ nhập vào tâm của những chúng sinh nào không tin Phật Pháp, làm cho họ bỏ ác hướng thiện, sám hối tội lỗi, biết tự sửa mình, quy y Tam Bảo, rồi cuối cùng đều được thành Phật. 14. Nguyện rằng chúng sanh nào thấy mặt con, hoặc chỉ nghe tên con, đều phát tâm Bồ-đề, chóng đắc thành Phật Ðạo. 15. Nguyện rằng luôn tôn kính điều Phật dạy và thực hành mỗi ngày ăn một bữa vào lúc giữa trưa. 16. Nguyện giác ngộ loài hữu tình, nhiếp thọ rộng khắp các loài căn cơ. 17. Nguyện trong đời này con sẽ đắc Ngũ nhãn, Lục thông, phi hành tự tại. 18. Nguyện rằng tất cả nguyện trên đều được thành tựu viên mãn. Và cuối cùng: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(08/8/2018) (20) T2

Hòa thượng Diệu Liên
Ngài là con một nhà nghèo, tu lúc nhỏ. Năm 1949 ngài chạy nạn đi Hồng Kông. Một vị Hòa thượng ở Hồng Kông đáng lẽ cho ngài bế quan chỉ có 6 tháng thôi, nhưng ngài xin bế quan đến khoảng 20 năm. Sau đó ngài về Đài Loan, nhiều minh tinh Hồng Kông ủng hộ ngài nên ngài bắt đầu xây dựng Linh Nham Sơn Tự. Ngài có phát nguyện 48 lời nguyện giống đức Phật A Di Đà, nhưng có thêm một lời nguyện nữa là “Nếu ai gặp tôi thì tôi sẽ độ về Tây phương Tịnh độ.” Ghi chú: Người soạn không thể tìm thấy chi tiết hơn về “Tiểu sử của Hòa thượng Diệu Liên.” Nếu bậc thức giả nào để tâm và thu thập được nhiều hơn, kính xin chia sẻ.

Thiền sư Lai Qủa
Sư tên Diệu Thọ tự Lai Quả, hiệu là Tịnh Như, con nhà nông họ Lưu, quê ở huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Năm lên bảy, Sư nghe vị Tăng bên cạnh tụng câu “Vô trí diệc vô đắc” trong Tâm Kinh, Sư tỉnh ngộ. Năm 12 tuổi, Sư có chí thoát trần, trốn đi xuất gia, bị người anh tìm bắt trở về. Năm 15 tuổi, Hòa thượng Đại Trí dạy lấy niệm Phật để liễu thoát sanh tử, Sư bèn niệm Phật thành phiến, cho đến ngủ chiêm bao cũng vẫn lớn tiếng niệm Phật. Hòa thượng nói: “Đây là chân thực niệm Phật. Vậy niệm Phật là người nào? Ông biết không?”. Sư không đáp được. Hòa thượng nói: “Đợi ông tìm ra người niệm Phật, ta sẽ nói chuyện với ông.” Năm 18 tuổi, Sư cắt gan trị bịnh cho cha. Năm Ất-Tỵ (1905 TL), Sư 25 tuổi đi hành hương ở núi Phổ Đà, gặp một vị tăng khổ hạnh, Sư cảm kích bèn xuống tóc ở núi Bảo Hoa, Sư bị chư Tăng trong chùa hành hạ khổ sở chẳng xiết, trốn đến bờ sông, nhiều ngày bị nhịn đói, cùng với chó hoang ở chung, muốn đâm đầu xuống sông tự vận, bỗng gặp vị Tăng ở chùa Di Đà, Kinh Khẩu cứu kịp. Sư theo vị Tăng ấy đến chùa Kim Sơn, song vì chưa thông thuộc quy củ nên một hôm bị đánh hơn bốn trăm hương bản. Ngày 26-9 năm Quang Tự thứ 34 (1908 TL), Sư nghe tiếng mõ khai tịnh sau thời khóa công phu buổi chiều tối, hóat nhiên thoát lạc như buông gánh nặng ngàn cân, đánh mất cái mũi mẹ sanh, khóc to chẳng nín, hư không trên trời, nước chảy dưới đất, tất cả trệ ngại hoàn toàn tiêu hết, cơ dụng hiện tiền có hỏi liền có đáp. Hòa thượng, Ban Thủ đến tận nơi khen ngợi. Một hôm Từ Bản lão nhân đưa cái khăn tay ra làm thế rửa mặt, hỏi Sư: “Là cái gì?” Sư nói: “Đã dư chiếc khăn tay rồi.” Từ lão nhân chẳng đáp mà lui. Sư từ đấy càng thận trọng. Sư từng được sung chức phạn đầu, hết sức phụng sự nhà chùa một cách tiết kiệm. Thủ Tọa khuyên Sư đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư tự thấy mình còn kém bèn trốn sang chùa Cao Mân, cũng bị đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư bỗng có ý du phương đi ẩn tu ở núi Chung Nam, gặp cư sĩ Cao Hạc Niên hối thúc trở về Nam. Sư trở về chùa Cao Mân, Tổ Nguyệt Lãng sai Minh Hiên lão nhân chọn ngày truyền pháp cho Sư. Lúc lâm chung, Tổ nắm tay buộc Sư phải phát nguyện: “Sống làm người Cao Mân, chết làm quỷ Cao Mân”. Sau khi nhậm chức trụ trì, Sư khôi phục lại quy chế cũ, lấy việc kiến thiết sửa sang bảo tháp, đại điện, thiền đường, Diên Thọ đường, Như Ý liêu, năm công trình lớn nầy làm chí nguyện, song cho đến khi tịch mà chưa viên mãn. Sư mong ước thừa nguyện lực tái lai để tiếp tục công trình cho hoàn tất. Chỉ có Cổ Lương Đình là làm xong, phong cảnh thanh u, làm tăng thêm pháp hỷ cho người. Sư thuận theo lời khẩn thiết thỉnh cầu của các nơi, y theo lệ trước của Triệt Tổ Thiền Tuệ soạn quyển Tự Hành Lục ghi lại đầy đủ hành trạng cả một cuộc đời khôi-vĩ dị thường của Sư. Quyển sách nầy đã được ấn hành trong bộ Ngữ Lục. Sư thân hình cao lớn trắng trẻo, mắt nhỏ, tiếng to. Từ 50 tuổi về sau, Sư hành hạnh đầu đà, và nếu chí mình chưa toại thì chẳng cạo bỏ râu tóc để đau đáu nhớ mãi chí nguyện của mình, nhưng nghi biểu lại càng oai nghiêm, tánh tình cứng cỏi chân thực, gặp việc thì cố gắng hết sức làm, khiến cho ý không tốt của người tự tiêu tan. Cả đời Sư chỉ lấy hoằng pháp, ngộ đạo làm nhiệm vụ, đánh hét đều dung, chuông trống xen nhau, chưa từng có chút lười mỏi. Đương thời, Hòa thượng Hư Vân là người được sự trọng vọng trong Tông Môn, tuy lớn tuổi hơn Sư mà cùng với Sư khế hợp không gián cách. Có một lần, nhà chùa cần muốn hóa duyên để sửa tháp, Sư nhóm họp đồ chúng lại luận bàn, trong số chúng có mấy người phát nguyện lãnh trách nhiệm đi các nơi hóa duyên. Có một vị Tăng đến Vũ Hán cảm động sự phát tâm của thí chủ bèn tự chặt cánh tay để đền đáp, mọi người xa gần đều kinh ngạc ngợi khen. Sư sanh vào giờ Dần, ngày 2-7 năm Tân-Tỵ (1881 TL) nhằm năm Quang Tự thứ bảy, diệt độ vào giờ Dần, ngày 17-10 năm Quý Tỵ (1953 TL). Sư thọ 75 tuổi, tăng lạp 49 xuân, giới lạp 49 hạ, pháp lạp 39 thu, trụ trì 35 đông. Ngày mùng một tháng 11, linh cữu từ tinh thất ở Thượng Hải được đưa về chùa, ngày mùng 8 tháng Chạp trà tỳ, bốn chúng vân tập đau buồn thương tiếc như đưa đám ma cha mẹ. Xá-lợi rất nhiều, sáng như lưu ly năm màu chói lọi. Giờ Thìn ngày 4-4 năm sau nhập tháp rồi cất đình ở bổn tự (Cao Mân) để thờ tháp Xá Lợi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(09/8/2018) (21) T2

Lão Pháp sư Tịnh Không
Thượng Nhân thượng Tịnh hạ Không, tục danh là Từ Nghiệp Hồng, sinh năm 1927 tại huyện Lư Giang, tỉnh An Huy, Trung Quốc nhưng lúc nhỏ sống tại huyện Kiến Ngõa tỉnh Phước Kiến. Năm 1949, Sư đến Ðài Loan, dạy học tại Thực Tiễn Học Xã. Ngoài việc giảng dạy, Sư gia tâm nghiên cứu kinh sử, cổ văn. Ðể mở rộng tầm kiến văn, trong suốt 13 năm Sư đã theo học với các bậc danh sĩ thạc học thời đó là các vị Phương Ðông Mỹ, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam v.v… Ngoài ra, Sư còn theo học Mật Giáo Tây Tạng với Chương Gia Ðại Sư. Tuy thế, vị thầy Sư kính phục nhất và học hỏi được nhiều nhất vẫn là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Sư nể phục cụ Lý sâu xa đến nỗi hầu như bất cứ khi nào giảng pháp, dù bất cứ đề tài nào, Sư đều nhắc đến Lý lão cư sĩ với lòng biết ơn vô hạn. Dưới sự giảng dạy, dìu dắt của những vị trên, Sư thấu hiểu sâu xa, thâm nhập kinh điển Phật học. Năm 1959, 32 tuổi, Sư thế phát xuất gia tại chùa Lâm Tế thuộc Viên Sơn, thành phố Ðài Bắc, pháp danh là Tịnh Giác, pháp tự là Tịnh Không. Sau khi thọ Cụ Túc giới, Sư tích cực hoằng dương Phật pháp cả trong nước lẫn hải ngoại. Ðề tài giảng thuật của Sư rất phong phú: Trong suốt 30 năm, chưa hề gián đoạn lúc nào, Sư liên tục giảng rộng đến mấy mươi loại kinh, luận Ðại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lục Tổ Ðàn Kinh; nhưng kinh Sư tâm đắc nhất là Tịnh Ðộ Ngũ Kinh (A Di Ðà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, chương Ðại Thế Chí Niệm Phật của kinh Lăng Nghiêm và phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện). Sư học rộng, hiểu nhiều, thâm nhập Kinh Tạng, hiểu rõ Thiền lẫn Mật, nhưng lại chuyên chú nơi Tịnh Nghiệp. Sư chủ trương đại chúng học kinh điển để lãnh hội sâu rộng Phật pháp, nhưng hạnh phải chuyên nhất. Vì thế, đạo tràng Tịnh Ðộ các nơi của Sư sớm tối chỉ tụng kinh Di Ðà hoặc kinh Vô Lượng Thọ. Mỗi tháng đều cử hành Phật thất nghiêm nhặt. Các đạo tràng không làm gì khác ngoài việc chuyên trì hồng danh, hoằng dương Tịnh Ðộ. Các pháp hội mang tính chất cầu an, giải hạn, hay thiền thất tuyệt nhiên chẳng cử hành. Sư tuân thủ triệt để đường lối chuyên tu của Tổ Ấn Quang: nhất tâm trì danh, vạn thiện đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh Ðộ. Khi giảng pháp, Ðại Sư dùng những lời lẽ đơn giản, dễ hiểu, chú trọng những ý chính để người học dễ lãnh hội và vận dụng trong cuộc sống. Tuy được coi là bậc Thái Sơn Bắc Ðẩu trong Phật giáo Ðài Loan hiện tại, lúc nào Sư cũng khiêm cung, điềm đạm. Trong các bài giảng pháp, khi mở đầu Sư luôn xin phép vị Tăng trụ trì trung tâm và chỉ xưng là “học nhân”, không bao giờ tự xưng là “lão tăng” hay “sư phụ” chi cả. Khác với các đạo tràng của những giáo hội khác như Phật Quang Sơn, Pháp Cổ…, đạo tràng của Ðại Sư không trần thiết hoa mỹ, cầu kỳ, mà mang nặng tính thiết thực, thuận tiện cho tứ chúng vân tập niệm Phật cộng tu. Các tự viện không được phép kinh doanh dù chỉ là bán các pháp khí, kinh sách. Các tăng ni thường trú tại các tự viện thuộc hệ thống Tịnh Tông Học Hội chỉ lo hướng dẫn đại chúng tu tập, mọi việc quản trị đã có ban hộ tự lo liệu. Ða số các Tăng sĩ thuộc hệ thống Tịnh Tông Học Hội đều được đào tạo kỹ lưỡng. Các vị Pháp Sư đều khiêm tốn, đạm bạc, khắc kỷ, giữ gìn giới luật, chăm tu Tịnh nghiệp, phong thái nhàn tản, ung dung. Những ai tìm đến đạo tràng ngài nếu không thực tâm tu học sẽ chán nản, bỏ cuộc vì ngoài thời khóa Tịnh Ðộ sớm tối, không hề có bất cứ một hình thức pháp hội nhương tai, giải hạn, lễ sám nào khác. Ðể đào tạo tầng lớp giảng sư có đủ trình độ hoằng dương Phật pháp, Sư đã thành lập những ban bồi dưỡng công tác giảng huấn tại các trung tâm lớn như trung tâm Tịnh Tông tại Los Angeles, Singapore… Dù tuổi tác đã cao, năm nay đã ngoài 86 tuổi, Sư vẫn tích cực hoằng pháp, rất minh mẫn


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(10/8/2018) (22) Hết T2

Hòa thượng Thích Thiền Tâm (1925-1992)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người con thứ 10 trong số 13 anh em gồm 4 trai, 9 gái. Xuất thân từ gia đình Nho giáo kính tín Tam Bảo. Sáu tuổi, ngài đã cắp sách đến trường học quốc ngữ song song với Nho học. Lúc thiếu thời, ngài đã bộc lộ thiên tư tài hoa văn nhã, bẩm chất cao khiết, và là người con chí hiếu với cha mẹ. Do vì thấy mẹ đau yếu triền miên, năm 12 tuổi, ngài ra đi tìm thầy học thuốc để mong trị lành bệnh cho thân mẫu. Nhân tạm trú học thuốc tại chùa Vĩnh Tràng - Mỹ Tho, ngài có dịp nghiên tầm Phật điển và nuôi dần ý chí xuất gia tu học. Năm 19 tuổi, ngài đến tu tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột, và được thế phát xuất gia vào năm Ất Dậu (1945) làm đệ tử của Đại lão Hòa thượng Thành Đạo. Năm 1948, Ngài thọ giới Sa Di và học ở Phật học đường Liên Hải cùng Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang cho đến năm 1951 để hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật học. Thời gian đó, Ngài được thọ Tỳ Kheo giới tại Đại giới đàn Ấn Quang, tổ chức năm 1950. Từ năm 1951 đến năm 1954, ngài hoàn tất chương trình Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Năm 1954, tốt nghiệp lớp Cao đẳng xong, ngài lui về nhập thất tịnh tu trong mười năm tại trụ xứ Cái Bè và Vang Quới. Dù nhập thất tinh tấn chuyên tu, song Hòa thượng không xa rời bi nguyện độ sanh. Trong mười năm ấy, Ngài đã phiên dịch các loại kinh sách chuyên hướng xiển dương pháp môn Tịnh độ, như: kinh Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh Học Tân Lương, Lá Thơ Tịnh độ, Hương Quê Cực Lạc, và giảng dạy cho Ni chúng khắp nơi đến thọ học. Năm 1968, Hòa thượng chính thức về trụ hẳn ở Đại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ. Ngài không câu nệ vào việc nhập thất, mà sẵn sàng tiếp hóa chư Tăng Ni Phật tử đến tham vấn học đạo. Ngài còn soạn thuật: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni. Năm 1970, Ngài xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện, biến đạo tràng thành một vùng chuyên tu Tịnh độ, cũng là trung tâm xiển dương pháp môn này ở miền Nam. Tăng Ni tín đồ quy tụ về lập am thất trụ lại tu học rất đông. Danh đức của Ngài được lan truyền rộng và Phật tử đến quy ngưỡng ngày càng nhiều. Đặc biệt, ở Hương Nghiêm Tịnh Viện này tâm Tịnh độ là nguồn cảm hứng để ngài sáng tác rất nhiều thơ văn đượm chất đạo vị, thanh thoát. Thơ văn liễu ngộ tâm cảnh Cực Lạc của ngài cảm hóa được không biết bao nhiêu đồ chúng hướng về pháp môn này. Từ năm 1975, ngài viễn ly mọi sự nghe thấy bên ngoài, lặng lẽ nhiếp tâm tu niệm gia trì hai pháp môn Mật Tịnh song hành. Suốt một thời gian dài, ngài kiên trì nhập thất chăm chắm giải quyết việc lớn sanh tử, song ngài vẫn soạn dịch bộ: “Mấy điệu sen thanh” và “Tam bảo cảm ứng lục” để lợi lạc nhân sinh khuyến tu Tịnh độ. Những ngày cuối cùng cuộc đời ẩn tu hành đạo, ngài 112 THÍCH NỮ MINH TÂM vương chút thân bệnh, trước đó ngài đã giao phó mọi việc của Tịnh viện Hương Nghiêm lại cho Tăng đồ quản lý điều hành. Ngài cố gắng khắc phục thân bệnh, nỗ lực dụng công trì danh hiệu Phật. Cho đến khi cảm nhận thời khắc vãng sinh, ngài bảo đồ chúng vây quanh trợ niệm, rồi đến 9 giờ sáng ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức ngày 14-2-1992), Ngài an nhiên thoát hóa, vãng sinh hưởng thọ 68 tuổi, hạ lạp 42. Các tác phẩm của Hòa thượng để lại: • Kinh quán vô lượng thọ. • Tịnh học tân lương. • Lá thơ Tịnh độ. • Hương quê cực lạc. • Tịnh độ thập nghi luận. • Kinh đại bi tâm đà la ni. • Niệm phật thập yếu. • Tây phương nhựt khóa. • Tịnh độ pháp nghi. • Kinh phật đảnh tôn thắng đà la ni. • Mấy điệu sen thanh. • Tam bảo cảm ứng lục, v.v


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Tịnh Độ Tập Yếu

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tịnh Độ Tập Yếu
(11/8/2018) (23) T3

Trưởng Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam
hiệu Tuyết Lư Lão Nhân (theo Lý Công Tuyết Lư Lão Cư Sĩ Lược Sự) Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Lư hay Tuyết Tăng, người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Từ bé, ông đã đỉnh ngộ, hiếu học. Ông chuyên học về pháp luật, chính trị và học cả Trung y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Lữ, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay. Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông là Ấn Quang Đại Sư, được ban hiệu là Đức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ nhiệm quản trị nhà thờ phụng Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư (Khổng Tử), sau đó theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc, nhưng mỗi sáng sớm, ông đều lên chùa Vân Đảnh để lễ tụng, niệm Phật. Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Đài Loan, ngụ tại Thành phố Đài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa để làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí Y Hội v.v... để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh nghiệp. Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v... Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Đài (Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Độ phổ độ chúng sanh. Mỗi năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú Kinh Di Đà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên ngành Phật học) gồm sáu quyển: Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn, v.v... hóa độ nhân gian. Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, già dặn, chắc thật niệm Phật. Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận: “Ta sắp đi đây!” Đến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch. Thọ chín mươi bảy tuổi. Sau khi trà tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.19 khách