Tự tánh trọn đủ, sáng suốt, trùm khắp, bất động, xưa nay vẫn vậy, tại sao phải nghiên cứu Kinh Giáo, tạo sao phải ngồi Thiền, sổ tức, tùy tức, biết vọng không theo, giữ nghi tình, tham cứu cho thủng khối nghi, tạo sao phải tốn công lặn núi trèo đèo tham học Thiện Tri thức?Ma Ha Bát Nhã đã viết:Thế sao lại có Pháp Môn Tịnh Độ chi thế? Nếu như vậy thì ở đây (Ta bà) chứ cần chi niệm Phật vãng sanh?binh đã viết:Ma Ha Bát Nhã đã viết:@ Bác Bình:
Vậy hỏi bác cõi Tây Phương Cực Lạc có sắc tướng, có chúng sanh , có Phật, có nghiệp ... thì nơi đó là Thật hay giả? Cái này hỏi ngoài lề chút (vì nhiều người tu cứ cho là cõi Tây Phương là giả).
Cũng như cõi Ta-Bà
Cùng một lý do với chuyện Tín Nguyện niệm Phật cầu vãng sanh: nương duyên tu hành mới có thể ngộ thập, thường trụ, phát dụng của chỗ không cần tu, chỗ hằng hữu, chỗ trọn đủ, chỗ "ở phàm chẳng giảm ở Thánh chẳng tăng".
Con sâu kiến, trùn dế, heo chó,... hay kẻ điên khùng, kẻ cuồng sát,...cũng trọn đầy đủ Chân tâm Phật tánh, mà ai dám nói chúng hoàn toàn không sai biệt, đồng đẳng với chư Phật, chư Đại Bồ Tát, với chư Tổ sư, Thiền sư???
Trọn có mà không nhận được, không dùng được thì uổng lấy chỗ không tịch mà bị cuốn theo diệt sanh, uổng lấy chỗ giải thoát mà chịu trầm luân đau khổ và ngu muội, uổng lấy chỗ "kho báu nhà mình" mà cam phận ngu si đần độn làm cùng tử ăn xin! Phật, Thánh gọi hạng này là "hạng đáng thương xót" là vậy!
Lại nữa, một pháp chẳng thể nói là có, chẳng thể nói là không, nhưng cũng là không, cũng là có, ly tứ cú mà tức tứ cú, Chân Tục nhị đế không hai, nên người đạt Tánh thì mỗi điểm trần đều là Tam Muội hiện tiền, đều thuyết Căn Bản chi Diệu Pháp.
Nhưng, tác dụng sai biệt thì như trời với vực!
Đồng là từ nơi Vô tác Chân thân hiện thành Diệu dụng, nhưng làm ác chiêu ác báo, làm thiện hưởng phước lực, tu hành thì hưởng Tam thừa Thánh quả, liễu không tu mà hằng tu, vô tác mà hằng tác, thì liễu tri Nhất thừa Vô thượng, mỗi mỗi rõ ràng, mỗi mỗi biện phân, chẳng lạm mảy may!
Vì vậy, tạm mượn lời của Thiền sư Triệt Ngộ, cũng đồng thời là Tổ sư Tịnh Độ Tông để kết về chỗ tại sao Ta Bà và Cực Lạc đồng là huyễn, đồng là mộng mà KẺ NGU THÌ TRỤ TA BÀ, NGƯỜI TRÍ CẦU SANH CỰC LẠC.
"Hỏi: Ta Bà và Cực Lạc đều là mộng, vì lý do gì riêng bỏ Ta Bà cầu về Cực Lạc? Chẳng phải bỏ từ mộng này đi nắm mộng khác ư?
Đáp: Không phải thế đâu!
Ta Bà và Cực Lạc tuy luận về lý đồng là mộng, nhưng TA BÀ LÀ TỪ MỘNG VÀO MỘNG, CÒN CỰC LẠC LÀ TỪ MỘNG VÀO GIÁC, nên phải bỏ Ta Bà mà cầu sanh Cực Lạc!!!"
Ta Bà bị duyên khổ não, duyên ái nhiễm, duyên bè lũ tà ma, "tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng", "xác suất được gặp Đại Thiện Tri Thức dẫn dắt tu hành đúng Chánh pháp cũng như 1 người ở tận cõi trời Hữu Đảnh ném 1 hạt cải xuống mà hạt cải đó cắm ngay trên cây kim may nhỏ được cắm trên mặt đất này", nên thật sự khó tu trì, tiến thì khó mà lùi thì dễ, chân dễ lún bùn mà đã lún càng thêm lún, khó mong có ngày ra, nên Phật mới nói ở cõi này "hàng Sơ phát tâm Bồ Tát nhiều như bông xoài trứng cá mà khó có 1 người được giải thoát", "thời Mạt pháp ức ức người tu hành cũng khó có 1 người đạt đạo", Tổ sư thì nói: "thời sau người nói lý thì nhiều mà người ngộ lý thì ít, người ngộ lý cũng còn nhiều mà người thực sự được giải thoát lại càng tuyệt ít",... là nghĩa này vậy!
Cực Lạc thì thuần vui không khổ, vui của Cực Lạc lại thường nghe pháp, tiếp xúc với pháp, thường tu Phật pháp nên đã chẳng sanh tâm đắm nhiễm mà ngày càng giải thoát tự tại, lại có vô số Phật, Bồ Tát thường được duyên gặp gỡ mà tham học, những vị mà khó có mấy vị Tổ, Thiền sư được đồng hàng, nên nói là "từ mộng dần vào giác", đúng ra phải nói nữa là người nào đã giác thì giác càng sâu, hiển dụng càng lớn, thường trụ càng dài, Lý và Sự cực kỳ nhanh chóng được viên mãn, được song dung, nên nói người Đại Trí cầu sanh Cực Lạc, nên Thiên Như Duy Tắc Thiền sư nói: "SỞ DĨ CÓ KẺ PHỈ BÁNG HOẶC KHÔNG TIN TU TỊNH ĐỘ LÀ VÌ KẺ ĐÓ CHƯA NGỘ ĐẠO, NẾU THẬT SỰ NGỘ TRIỆT THÌ CHẮC CHẮN TÂM CẦU SANH TỊNH ĐỘ CỦA ÔNG MUÔN TRÂU KÉO CŨNG KHÔNG LẠI!!!" Lời xưa sâu sắc lắm, xác đáng lắm mà cũng nhói lắm!!!
Đương nhiên câu "KẺ NGU THÌ TRỤ TA BÀ, NGƯỜI TRÍ CẦU SANH CỰC LẠC" chỉ ngoại trừ một hạng là hàng công phu "Tu vô tu tu, hành vô hành hạnh, chứng vô chứng chứng" đã đạt gần viên mãn, là những Pháp thân Đại sĩ lấy hư không, pháp thân làm thân, đủ sức rống tiếng rống Sư tử chúa, cầm kiếm Kim Cang Trí Tuệ phá dẹp ma quân, thậm chí phải từ hàng "Bất Động Địa Bát Địa Bồ Tát" trở lên thì mới kham nhận, hứa khả cho thường trụ Ta Bà chuyển vận Đại pháp, NGOÀI RA ĐỀU LÀ HẠNG VỌNG TƯỞNG KHÔNG THỰC TẾ, KHÔNG ĐỦ TRÍ TUÊ, KHÔNG ĐỦ PHƯỚC DUYÊN KHI BÁC BỎ KHÔNG CẦU SANH CỰC LẠC TÂY PHƯƠNG!!! VẬY AI TRONG CHÚNG TA DÁM ĐỨNG RA VỖ NGỰC TỰ NÓI ĐÃ NGANG HÀNG CHỖ THẤY, CHỖ ĐỨNG, CHỖ DÙNG CỦA HÀNG BÁT ĐỊA BỒ TÁT?
Dù được như thế thì CŨNG ĐỪNG QUÊN CHUYỆN PHẬT THÍCH CA DẠY DI LẶC BỒ TÁT ĐÃ LÀ HÀNG ĐẲNG GIÁC, NHẤT SANH BỔ XỨ MÀ CÒN PHẢI QUYẾT ĐỊNH PHÁT TÂM DÕNG MÃNH CẦU SANH CỰC LẠC, HOẶC NHƯ TRONG HỘI HOA NGHIÊM 41 VỊ PHÁP THÂN ĐẠI SĨ CHỖ CHỨNG GẦN BẰNG PHẬT NHƯ THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ CÒN THEO LỜI GIÁO HUẤN CỦA PHỔ HIỀN ĐẠI BỒ TÁT PHÁT THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CẦU GẶP PHẬT DI ĐÀ, CẦU VÃNG SANH CỰC LẠC, ĐẠI TRÍ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT CŨNG PHÁt NGUYỆN VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG!!!
Lý thì toàn thông nhưng Sự phải không hoại, lấy bỏ trong chỗ không lấy bỏ, nuôi dưỡng Đại nguyện mà vô cầu, khắp hành chư hạnh mà vô tác, bỏ Ta Bà sanh Lạc Quốc mà không thật đến đi, đó là hành nghi của hàng Chân thật trí tuệ, Chân thật Thánh nhân!
NGHIỆM KỸ, XÉT KỸ! ĐỪNG ĐỂ "MẠT VÀNG RƠI VÀO MẮT CŨNG THÀNH BỆNH"!!!
Nguyện tất cả dù mê hay ngộ, dù trí hay ngu, dù phàm hay Thánh, dù Thánh cao hay Thánh thấp đều nghĩ cho kỹ mà phát nguyện nương Chân thân Vô tướng, trùm khắp mà lìa bỏ Ta Bà, đi thẳng về Tây, thọ thân trong Bảo Quang Liên, diện kiến chư Đại Thánh, MỚI KHÔNG UỔNG MỘT ĐỜI TU HỌC, KHÔNG UỔNG DANH CON CHÁU DÒNG GIỐNG NHƯ LAI!!!
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI, QUANG TRUNG CỰC TÔN, VẠN PHẬT CHI VƯƠNG, ĐẠI TỪ ĐẠI BI, TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT