Thích-ca Mâu-ni Văn Phật

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

trungtamtutam
Bài viết: 525
Ngày: 05/08/10 20:36
Giới tính: Nam
Đến từ: Tâm
Nghề nghiệp: “Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”

Thích-ca Mâu-ni Văn Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi trungtamtutam »

Phật Tổ Đạo Ảnh

Hòa Thượng Tuyên Hóa 

Mục Lục



book Giới thiệu:

Chư Tổ, tuy Ấn, Hoa có khác, nhưng cùng vẻ thiên dung đạo mạo, rờ rỡ sáng ngời, khiến người chiêm ngưỡng, vơi sạch lòng trần, thấy tướng liền ngộ tâm. Chỉ trong sớm tối, ngàn năm cùng quay về với chư Tổ trong đại quang minh tạng. Chẳng có đạo ảnh thì lấy gì làm nên chuyện đó? Khoảng đời Hồng-Vũ, một số ham thích đạo, cả tăng và tục, cùng nhau miêu họa đạo ảnh Phật và Tổ, từ tôn giả Đại Ca Diếp đến các vị tôn túc cổ sơ trong nước, tính ra là 120 vị, rồi tàng trữ tại núi Ngưu-Thủ phía nam kinh đô. Nét bút tinh thần, phong độ cao khiết, nếu chẳng do sự kỳ diệu của tâm tư, cảm ứng đến chỗ u linh thì dễ gì có được bút pháp như vậy !


Hình ảnh


Phiên âm :

Phật thị sanh ư trung Thiên Trúc quốc, vi Tịnh Phạn vương chi tử. Tầm xả Chuyển Luân Thánh Vương vị xuất gia, thành vô thượng đạo, chuyển đại pháp luân. Kỳ hậu thất thập cửu tuế, thùy bát-niết-bàn. Nãi dĩ chánh pháp nhãn tạng, phó kỳ cao đệ đệ tử Ma-ha Ca-Diếp, tịnh sắc A-Nan, phó nhị truyền hoá. Phục dĩ kim lũ tăng-già-lê y, lịnh đại Ca-Diếp chuyển phó đương lai bổ xứ Di-Lặc Phật. Kỳ thuyết kệ viết : Pháp bổn vô pháp, vô pháp pháp diệc pháp ; kim phó vô pháp thời, pháp pháp hà tằng pháp ?

Dịch :

Phật thị sanh tại miền trung nước Thiên Trúc, làm con đức vua Tịnh Phạn. Ngài sớm từ bỏ ngôi vị Chuyển luân Thánh vương để xuất gia, rồi thành tựu đạo vô thượng chuyển bánh xe pháp lớn. Về sau, năm bẩy mươi chín tuổi, khi sắp sửa vào niết-bàn, Phật giao chánh pháp nhãn tạng cho cao đệ Ma-ha Ca Diếp, đồng thời bảo A-Nan phải phụ giúp để truyền bá chánh pháp. Phật còn đem áo tăng-già-lê vàng đưa cho Ma-ha Ca Diếp giữ để ngày sau giao lại cho đức Di-Lặc tức vị Phật tương lai. Phật nói bài kệ như sau : Pháp bổn lai chẳng pháp, cái pháp chẳng pháp đó cũng là pháp, nay giao cái pháp chẳng pháp, pháp đó chẳng pháp gì ?



Tán

Vạn đức trang nghiêm

Nhất trần bất lập

Tứ thập cửu niên

Thái sát lang tạ

Mạt hậu niêm hoa

Tiếu đảo Ca-Diếp

Chánh pháp nhãn tạng

Thiên thánh bất thức

Dịch :

Vạn đức trang nghiêm

Chẳng bợn nhiễm ô

Bốn chín năm ròng

Công lao khó nhọc


Cầm hoa mỉm cười

Truyền thừa Ca-Diếp


Chánh pháp nhãn tạng

Thánh Trời chẳng hay



Kệ :

Đâu Suất giáng sanh đế vương gia

Tứ môn du tất khí phồn hoa

Thuyết pháp diễn giáo hóa quần phẩm

Từ bi hỷ xả độ chúng hiệp

Vạn đức trang nghiêm phước huệ tu

Nhất trần bất lập tịnh tự tha

Phật tăng truyền thừa mãn thiên hạ

Nhiếp thọ hữu tình sổ đạo ma

(Tuyên Công thượng nhân tác)

Dịch :

Đâu Xuất giáng sanh làm hoàng tử





Giảng thoại



Phật thị sanh ư trung Thiên Trúc quốc, vi Tịnh Phạn vương chi tử : Phật thị sanh tại thành Xá-vệ, miền trung nước Thiên Trúc, tức Ấn-độ ngày nay, là thái tử, con vua Tịnh Phạn.

Tầm xả Chuyển Luân Thánh Vương vị xuất gia, thành vô thượng đạo: Chữ 'tầm' ở đây bao hàm ý nghĩa là chẳng bao lâu. Phật sanh ra từ chốn cung vàng, nhưng đối với 5 món ham thích của thế gian như tiền tài, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, Phật không màng tới, cho nên, chẳng bao lâu, Phật từ bỏ luôn địa vị của Chuyển Luân Thánh Vương, bởi nếu không xuất gia thì vương vị đó là của Phật trong tương lai. Ngài bỏ lại hết, ra đi tu hành, đạt đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, theo tiếng Phạn gọi là a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Chuyển đại pháp luân : Sau khi thành đạo, Phật giảng kinh thuyết pháp, chuyển bánh xe pháp lớn để giáo hóa chúng sanh.

Kỳ hậu thất thập cửu tuế, thùy bát-niết-bàn : Về sau, tới bảy mươi chín tuổi, Phật nhập diệt, hay gọi là viên tịch.

Nãi dĩ chánh pháp nhãn tạng, phó kỳ cao đệ đệ tử Ma-ha Ca Diếp : Cao đệ nghĩa là đệ tử nhiều tuổi. Phật giao chánh pháp nhãn tạng cho vị đệ tử nhiều tuổi nhất là Ma-ha Ca-Diếp, tuy tôn giả chưa hẳn là đại đệ tử của Phật. Vậy người được truyền pháp chính là Đại Ca Diếp, vị tôn giả tu hạnh đầu đà.

Tịnh sắc A-Nan phó nhị truyền hóa. Chữ 'sắc' nghĩa là dặn bảo; 'phó' là phụ vào; 'nhị' là hai. Phật đồng thời bảo tôn giả A-Nan phụ giúp tôn giả Ca-Diếp trong việc hoằng dương Phật pháp.

Phục dĩ kim lũ tăng-già-lê y, lịnh đại Ca-Diếp chuyển phó đương lai bổ xứ Di-Lặc Phật. Tăng-già-lê là áo của Tổ, là y bát của Phật. Phật dặn dò tôn giả Ca-Diếp vào núi Kê Túc ở Vân Nam nhập định cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời để giao lại y bát cho đức Di Lặc.

Kỳ thuyết kệ viết : Kế đó, Phật đọc cho tôn giả Ca-Diếp nghe một bài kệ truyền pháp.

Pháp bổn pháp vô pháp : Thế nào gọi là pháp ? Pháp bổn lai là không có pháp nào để nói.

Vô pháp pháp diệc pháp : Tuy nhiên, trong cái không pháp, chúng ta nói tới cái pháp đó.

Kim phó vô pháp thời : Nay, truyền lại y bát này là truyền pháp tâm ấn, tức là pháp chẳng có hình tướng.

Pháp pháp hà tằng pháp ?: Cái pháp ở trong pháp, là cái pháp gì ? Chẳng có gì hết ! 'Bổn lai chẳng có vật gì, còn chỗ nào là bám bụi ?'



Tán



Vạn đức trang nghiêm, nhất trần bất lập : Có câu nói : 'tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo', Phật tu phước, tu huệ, tu đến hàng vạn đức hạnh, mt chút bụi nhơ cũng không bợn.

Tứ thập cửu niên, thái sát lang tạ : Trong thời gian bốn mươi chín năm, công lao khó nhọc không sao kể siết, bởi cứu độ chúng sanh chẳng phải là điều dễ dàng.

Mạt hậu niêm hoa, tiếu đảo Ca-Diếp : Về sau, một hôm Phật cầm bông sen vàng giơ lên, đối trước đại chúng mỉm cười. Hết thảy đệ tử không một ai nói lên điều gì, chỉ riêng có tôn giả Ca-Diếp nở mặt, rạng rỡ mỉm cười. Thấy vậy Phật biết tôn giả Ca Diếp đã hiểu ý Phật. Ngài bèn bảo đại chúng : 'Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, ta đã giao cho Ma-ha Ca Diếp !', ý nói pháp mầu đó đã được Phật truyền lại cho tôn giả.

Chánh pháp nhãn tạng, thiên thánh bất thức : Chánh pháp nhãn tạng là loại pháp quý báu vô cùng cho đến các thánh hiền cũng không nhận ra được.



Kệ

Đâu Suất giáng sanh đế vương gia : Đức Phật Thích-ca giáng trần từ nội viện của cung trời Đâu Suất. Đây là bổ xứ của Phật. Bất cứ ai, muốn thành Phật cũng phải trú ở ở đây một thời gian trước khi xuống thế. Vậy, từ nội viện cung trời Đâu Suất, Phật đã giáng sanh trong một gia đình đế vương, đó là gia đình vua Tịnh Phạn nước Xá-vệ.

Tứ môn du tất khí phồn hoa : Một hôm Ngài dạo chơi ngoài bốn cổng thành, mắt chứng kiến các cảnh khổ của sanh, già, bệnh, chết, nhận ra rằng cuộc sống thế gian chẳng có gì là hay ho. Do sẵn túc căn, Phật quyết ý xuất gia, bỏ lại hết các thứ vinh hoa phú quý của người đời.

Thuyết pháp diễn giáo hóa quần phẩm : Để giáo hóa hết thảy chúng sanh Phật thuyết pháp trong bốn mươi chín năm, giảng kinh trong ba trăm pháp hội

Từ bi hỷ xả độ chúng hiệp : Phật dùng 'tứ vô lượng tâm', tức là bốn loại tâm lượng rộng lớn để giáo hóa hết thảy các chúng sanh có duyên với pháp. Tứ vô lượng tâm là từ vô lượng tâm, bi vô lượng tâm, hỷ vô lượng tâm và xả vô lượng tâm.

Vạn đức trang nghiêm phước huệ tu : Phật có vạn đức trang nghiêm, trải qua 'tam kỳ tu phước huệ'. Ngài tu trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp, tu phước và tu huệ. A-tăng-kỳ kiếp nghĩa là vô lượng số kiếp, tức là bao nhiêu kiếp không thể kể hết số lượng. Đại a-tăng-kỳ kiếp là vô số lượng kiếp trong cái vô số lượng. Trong suốt thời gian đó, Phật đã tu phước, tu huệ, ý nói không có phước nhỏ nào mà Ngài không tu, không có loại trí huệ nhỏ nào mà không tập. Phật lại có 'bách kiếp chủng tướng hảo', bởi trong thời gian cả trăm đại kiếp Ngài vun trồng tướng tốt sáng rực, trí huệ sáng rực, bởi vậy mới nói Phật có vạn đức trang nghiêm. Tóm lại, công đúc tu phước của Ngài đến chỗ viên mãn, huệ đến chỗ viên mãn, cả phước lẫn huệ đều đầy đủ.

Nhất trần bất lập tịnh tự tha : Ở nơi Phật, không những một chút ô nhiễm cũng không bợn, các dục niệm hoàn toàn thanh tịnh, mà Ngài còn giáo hóa mọi người đến chỗ được thanh tịnh.

Phật tăng truyền thừa mãn thiên hạ : Phật truyền lại y bát cho tăng, tức là giữa hai bên đã có sự tiếp nối. Điều này nói lên ý nghĩa là sự truyền thừa giáo pháp là điều bắt buộc, chớ không phải ai muốn làm sao thì làm, mà còn phải truyền pháp lại cho đời sau. 'Mãn thiên hạ' nghĩa là đệ tử của Phật ở khắp các nơi trong thiên hạ, chỗ nào cũng có.

Nhiếp thọ hữu tình sổ đạo ma : 'Nhiếp thọ' là dạy bảo, ý nói giáo hóa chúng sanh, cứu độ chúng sanh đến chỗ thoát cảnh sanh tử. Số lượng chúng sanh được cứu độ thì nhiều lắm, kể ra thì đông như hạt mè, hạt thóc vậy !

 

Bài giảng ngày mồng 2 tháng 3 năm 1984

Tuyên Công Thượng Nhân

http://www.dharmasite.net/PhatToDaoAnh_ ... aMauNi.htm


[color=#0000FF][b]“Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”
http://trungtamtutam.com/diendantuthien/[/b][/color]
trungtamtutam
Bài viết: 525
Ngày: 05/08/10 20:36
Giới tính: Nam
Đến từ: Tâm
Nghề nghiệp: “Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”

Re: Thích-ca Mâu-ni Văn Phật

Bài viết chưa xem gửi bởi trungtamtutam »

N G H I Ệ P L Ự C


Đức PHẬT dạy:

“Chúng sanh là chủ tạo Nghiệp và thừa kế cái Nghiệp mà mình đã tạo”.

Để biết Nghiệp Lực là cái gì và ở đâu, trước tiên chúng ta nên biết chữ Nghiệp được dịch từ chữ Phạn KARMA. Nghiệp có 3 thứ : Nghiệp Thiện, Nghiệp Ác và Nghiệp Vô Ký (không thiện không ác).

Nghiệp Lực là sức mạnh của Nghiệp, các nhà khoa học gọi đó là NĂNG LỰC (Power, Force). Sức mạnh của Nghiệp chính là động cơ khiến chúng sanh dính mắc với sinh tử Luân hồi, khó mà thoát ra khỏi Tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới).

Trong Kinh thường diễn tả Nghiệp là “Cái mà lớn cũng không ngoài, nhỏ cũng không trong. Nếu Nghiệp mà có hình tướng vật chất, một con người từ vô thỉ đến nay đã tạo tác ra nghiệp, dầu Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cũng không đủ chỗ chứa !?” Lời giải thích nầy cũng không có gì cao siêu khó hiểu, chỉ cần người nghe được ý quên lời.

Thực ra, Nghiệp là Năng Lực có chính, có phụ, nó chi phối chúng ta trong một đời hay nhiều đời về họa phước, thọ yểu, vinh thông, được mất v.v... Để cho dễ hiểu hơn, tôi xin dẫn bài Kinh sau đây, để các bạn thấy :

Có người ngoại đạo đến hỏi Phật :
*Thưa Thế Tôn, cái gì định đặt cho con người, sinh ra kẻ thì nghèo nàn khổ sở, người thì giàu sang sung sướng, kẻ thì sống lâu, người thì chết yễu, kẻ thì yếu đau, người thì khỏe mạnh, kẻ thì ngu tối, người thì thông mính ?

Đức Phật đáp :
**Tất cả sự sai biệt giữa con người và con người là do Nghiệp mà họ đã tạo định đặt ra, nên có người ưu kẻ liệt.

*Do tạo nghiệp gì khiến cho người sống lâu và do tạo nghiệp gì khiến cho người chết yễu ?

**Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh, thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh, nên thọ mạng yễu.

*Do tạo nghiệp gì mà thân người được khỏe mạnh, và do tạo nghiệp gì mà thân hay đau yếu bệnh tật?

**Do nghiệp ác làm cho người đau khổ, nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu. Và do tạo nghiệp lành như an ủi giúp đở người qua khỏi những tai nạn khốn khó nên được thọ thân khỏe mạnh vui tươi.

*Do tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình giàu sang sung sướng và do tạo nghiệp gì mà sinh trong gia đình nghèo đói khốn khổ?

** Do đời trước biết tu làm lành, biết bố thí cúng dường, biết giúp đỡ người nghèo đói bịnh tật, nên đời nay được sinh thân trong cảnh giàu sang sung sướng. Người ở đời trước vì không biết bố thí cúng dường, không biết giúp đở người nghèo khó, lại còn tham lam rút rĩa của những người khác, nên đời nầy sanh thân trong cảnh nghèo đói thiếu thốn.

*Do nghiệp gì người sanh ra được thông minh sáng suốt và do nghiệp gì người sanh ra lại ngu dốt tối tăm?

** Người đời trước do siêng năng học hỏi tìm hiểu chân lý, ưa thích giúp người học hỏi hiểu biết nên đời nầy được thông minh. Còn người ở đời trước do lười biếng học, không chịu tìm hiểu chân lý, cản ngăn sự học hỏi của người, nên đời nầy bị tối tăm mê mờ.

Có thể nói, sống ở trên thế gian nầy, nếu không hiểu biết gì về Nghiệp, sẽ có rất nhiều thắc mắc đến độ nan giải. Bởi lẽ, nhân quả nhiều đời nhiều kiếp, chồng chất lên nhau mang tính trùng trùng duyên khởi, nên có nhiều kết quả hết sức đa dạng và phức tạp (do nhân sai biệt giữa hình thức và nội dung tạo các quả sai biệt tương đương). Chẳng hạn như có nhiều kẻ diện mạo xinh đẹp mà trong lòng độc ác hơn rắn độc, còn người có tướng mạo xấu xí mà giàu có muôn vàn... Dĩ nhiên, thực tế nầy khiến cho đa số người chưa thể hội sâu sắc, đầy đủ về NHÂN-DUYÊN-QUẢ sẽ rất hoài nghi về giáo lý cao cả nầy.

Nhưng ở đây, vấn đề chúng ta đặt ra là để nghiên cứu thảo luận xem coi làm thế nào để có thể chuyễn hóa tất cả những cái xấu xa tệ hại của Thân và Tâm do Nghiệp lực tạo ra, để trở nên tốt đẹp một cách nhanh chóng, chứ không cần phải chờ đợi đến kiếp lai sinh mới thay đổi được.

Để làm cho được công việc hết sức quan trọng nầy, trước hết các bạn phải tĩnh giác giữ Chánh niệm, tập luyện làm chủ cho được chính mình, để cho 3 nghiệp (Thân Khẩu Ý) được thanh tịnh (xem lại bài “Tĩnh giác giữ chánh Niệm”). Kế đó, các bạn phải hiểu biết cho thật rõ Nghiệp Lực hay Năng Lực là cái gì và ở đâu.

Ở trên có nói, Nghiệp lực không có hình tướng, nhưng không vì thế mà chúng ta không thể không thấy không biết được nó. Ngay lúc các bạn nhắm hai con mắt thịt lại, quan sát bên trong thân (tâm), liền thấy đủ thứ hết, nào là sơn hà đại địa, mặt trời trăng sao, cười nói, nghĩ bậy tưởng bạ, thì thì thầm thầm, rối rối rít rít. tầng tầng lớp lớp đổi dời biến hóa : đó chính là HOẶC, là NGHIỆP, là KHỔ, và tất cả đều do Tạp niệm (vọng tưởng) chuyển hóa, tạo tác ra mà thành.

Hoặc+Nghiệp+Khổ tuy ba mà một, tuy một mà tạo thành ba. Chắc hẳn, các bạn thường nghe những người tụng kinh hay tụng câu: "Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền nảo” (Nguyện diệt ba chướng trừ phiền nảo) chứ ?. Khi hỏi họ ba chướng là gì ? Họ đều rập khung theo kinh điển trả lời: Nghiệp chướng, Báo chướng và Phiền nảo chướng. Thí như các bạn hỏi tiếp:“Làm sao để tiêu ba chướng?”, thì họ sẽ chẳng trả lời câu hỏi của các bạn đâu. Tại sao thế ? Tại vì, họ đâu có biết ba chướng chính là những thứ Tạp niệm(vọng tưởng) ở ngay trong tâm của họ.

Chính vì thế cho nên, nếu các bạn trừ sạch những Vọng Tưởng (tạp niệm), thì mới có thể tiêu được Nghiệp!. Nếu, Nghiệp không còn, thì Hoặc và Khổ cũng theo đó mà tiêu vong.

Nếu như, Nghiệp Lực là động cơ dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong 3 cõi 6 đường, nay đã bị tiêu diệt không còn nữa, thì thử hỏi lấy cái gì để ràng buộc chúng ta trong vòng Luân hồi nữa chứ? Thế là chúng ta được Tự Tại và Giải Thoát lớn, có phải không nào?

Tuy nhiên, muốn tiêu diệt sạch hết NGHIỆP LỰC hay những thứ Tạp Niệm (vọng tưởng) ở trong Tâm Linh, quả thật là một việc làm hết sức khó khăn và không đơn giản chút nào. Có thể nói, từ xưa cho đến nay, đã có vô số người cũng vì vấn đề nầy mà mất ăn mất ngủ hoặc kéo cờ trắng đầu hàng!

Theo chỗ thấy của tôi, nếu như các bạn tìm ra được nguồn gốc chính của muôn vật (Pháp Thân), là cái nút hay cái khâu trọng yếu nhất, là giải quyết được tất cả mọi vấn đề.

-Nguồn gốc chính tức ĐIỂM XOAY nầy ở đâu?

-Có lẽ là các bạn muốn nhanh chóng biết, phải không?

Không khó lắm đâu, các bạn chỉ cần lưu ý một chút là thấy nó ngay. Trong Vũ Trụ, chỗ nào mà ngày cũng như đêm đều xuất hiện bóng dáng đổi thay của muôn vật, đó chính là ĐIỂM XOAY của muôn vật.(=Chỗ mà Tạp niệm khởi lên=Cửa Ra Vào vòng Luân Hồi)

Như vậy, ngoài cái TÂM LINH của các bạn ra, sẽ không thể nào tìm thấy ở chỗ khác được, dù tìm khắp cả không gian trong và không gian ngoài của Vũ Trụ.

Tóm lại, chúng ta chỉ cần làm sao để công phu ngay tại điểm xuất phát nầy ở trong Tâm, và có cách nào đó để làm cho sạch và làm cho đẹp ở chỗ nguồn gốc nầy, chắc chắn là chúng ta sẽ dễ dàng chuyễn hóa tất cả những gì xấu xí của Thân Tâm, để trở thành đẹp đẻ đáng ưa hơn.

Nhưng, để khỏi mất thì giờ quý báu của các bạn, tôi thành thực mà nói với các bạn rằng, ở vào thời buổi hiện nay chỉ và chỉ có NHIẾP HÓA PHÁP hay GIẢI THOÁT PHÁP mới có thể giúp cho các bạn được toại nguyện mà thôi. Tin hay không tin đó việc của các bạn.

@

Thiền sư: THÍCH THANH PHƯỚC

GHI CHÚ:

Dùng Giải Thoát Pháp để tu cần phải lưu ý các điểm sau đây: :

1.-Phải nắm bắt cho được pháp tu. Đặc biệt là về mặt kỹ thuật dụng công. Đừng thêm hay bớt những gì ở nơi pháp tu. Mà chỉ nên đúng y theo sự hướng dẫn mà hạ thủ công phu.

2.-Kinh nghiệm cho biết, nhiều người tự học tự tu, không có người hướng dẫn cách thức dụng công, nên ít có người đạt được kết quả tốt. Thậm chí có người đạt được mục đích : Tâm Thể Vô Niệm, mà cũng không hay không biết?

3.-Phải thể hội sâu khắc QUAN NIỆM VỀ THÂN XÁC hay KHU XÁC QUAN NIỆM mà trước đây gọi là THÂN CHÍNH GIÁC cũng như cách thức đặt câu hỏi để phát khời KỲ TÌNH, mới có thể tiêu diệt được Tạp Niệm.


http://phatgiaovnn.com/upload1/bz/showt ... 9#post9039


[color=#0000FF][b]“Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”
http://trungtamtutam.com/diendantuthien/[/b][/color]
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]29 khách