Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
123456789
Bài viết: 170
Ngày: 06/06/09 21:16
Giới tính: Nam

Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni

Bài viết chưa xem gửi bởi 123456789 »

KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI HỘ CHƯ ĐỒNG TỬ ĐÀ LA NI
Hán Dịch: Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly Vâng chiếu dịch
Việt dịch: Sa môn Thích Thiện Thông


LỜI TỰA

Tất cả những Kinh chú trong Tam tạng Thánh giáo, do Đức Phật, chư vị Bồ tát nói ra, hàng đệ tử Phật, nếu đem thọ trì đọc tụng, thì Kinh chú nào cũng có công năng diệt tội, tăng phước, tăng thọ. Vì sao Kinh này lại có thêm cái tên Trường Thọ?

Bởi vì, Đức Phật với Nhứt thiết chủng trí, Ngài thấy rõ vào đời trược ác, chúng sanh phần nhiều tạo những nghiệp nặng, do đó bị mắc quả báo mạng sống ngắn ngủi, hoặc bị sa rớt vào tam ác đạo, do vậy Đức Phật, nhận lời thưa hỏi của Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Ngài nói Kinh này.

Tựa đề của Kinh còn nói mấy chữ nữa là: Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni, câu này có nghĩa là: Phương pháp và chân ngôn bảo vệ các trẻ thơ. Hợp chung tựa đề trên và dưới, sẽ thành ý nghĩa là: Lời dạy của Đức Phật về phương pháp trừ diệt tội nặng, mạng sống lâu dài, và bảo vệ những trẻ con khỏi bị chết non chết yểu.

Tựa đề trên đây, đã tóm tắt nói lên nội dung Kinh này, đủ cho thấy tính cách quý báu và giá trị của Kinh, đối với những ai muốn tìm hiểu vấn đề thọ, yểu của con người nói chung, của trẻ thơ nói riêng.

Một đặc điểm của Kinh này là nói về tội ác phá thai, Đức Phật dạy rằng, đó là một tội cực nặng, đồng với tội ác giết cha, hại mẹ, phải bị quả báo mạng sống hiện tại ngắn ngủi, sau khi chết đọa địa ngục A tỳ! Đức Thế Tôn đã đem chuyện tiền thân của Ngài Văn Thù Sư Lợi, vô biên kiếp xưa, làm một người nữ có tên là Điên Đảo, vì nghiệp phá thai mà bị đoản mạng và quả báo địa ngục, song nhờ đối trước Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến sám hối tội lỗi, phát đại thệ nguyện, cho nên tội ác tiêu trừ, và nhờ Kinh Trường Thọ Diệt Tội, cho nên được chứng Vô sanh Pháp nhẫn.

Đặc điểm thứ hai của Kinh, là nói đến chín điều “bất cẩn”, mà một người sản phụ, lúc mới sanh con thường hay mắc phải, do đó người mẹ bị chết, hoặc đứa con bị chết, hoặc chết cả hai v.v... Kinh lại dạy rõ, vì lý do nào mà những trẻ sơ sinh kể từ một tuổi cho đến mười tuổi, bị nạn chết yểu v.v... Sở dĩ có những nạn này, là do những người không biết tránh dữ làm lành, cho nên bị các loại quỉ ăn uống tinh huyết, ăn nuốt thai trứng, chúng biến hóa ra nhiều hình thức để đoạt mạng sống trẻ thơ. Đây là một điều mà người phàm phu không mấy ai biết đến, và qua lời tự thuật của các loài quỷ được nói trong Kinh này, những ai đọc tụng đến, mới thấy giựt mình kinh sợ.

Một đặc điểm nữa là, Đức Phật dạy về mười sáu trường hợp, bao gồm nhiều hành vi tội ác, khiến cho con người mắc báo đoản mạng, chết đọa ác đạo, nhưng nếu thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường Kinh này, tức được tiêu diệt các thứ tội nặng và được mạng sống lâu dài.

Trong khi nói đến thế giới hiện tượng vào thời ác trược, Đức Phật dạy rõ những nguyên nhân nào làm cho cõi nước bị nhiều bất an, như nạn binh đao, ôn dịch, lụt lội, hạn hán v.v... Muốn tránh những đại nạn này, Đức Phật dạy hàng đệ tử, hãy nên thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường lưu thông Kinh Trường Thọ Diệt Tội, để tự cứu mình và cứu chúng sanh.

Trong các Kinh Phật thường đề cập đến nhiều loại ma quân, hay tìm mọi cách phá hoại những người tu hành Phật Pháp, trong đó Thiên ma Ba Tuần là đáng ngại hơn hết. Nhưng trong Kinh Trường Thọ Diệt Tội này, ban đầu Thiên ma cũng muốn dùng thế lực mình, tìm mọi phương pháp ngăn cản, làm cho không được lưu thông, nhưng khi đến trước Đức Phật, Thiên ma hối hận rồi phát đại nguyện bảo vệ những người đọc tụng, thọ trì Kinh này. Các quỷ La sát cũng vậy, khi Phật chưa nói Kinh, thì những loài này, do nơi nghiệp ác mà mắc quả báo ăn nuốt thai nhi, và tinh huyết chúng sanh, nhưng khi được nghe Phật nói Kinh rồi, La sát đều nguyện “Thà chịu ăn hoàn sắt nóng, trọn chẳng thể ăn máu các “hài nhi...”. Như vậy đủ thấy oai lực của Kinh thật chẳng thể nghĩ bàn.

Kinh này nhiếp về bí tạng Bồ tát, vừa là hiển pháp, vừa là mật pháp, được những lực sĩ Kim cang Mật Tích hộ trì lưu thông để cứu hộ chúng sanh, được các đại sư Mật tông ở Đài Loan ấn tống truyền bá. Một cư sĩ đệ tử của các ngài là Như Đông Phật, từ Đài Loan gởi sang biếu tặng dịch giả. Sau khi xem qua nội dung, chúng tôi vô cùng phấn khởi, vì thấy có thể lợi ích cho mọi giới Phật tử Việt Nam, cho nên với sở học non kém, kiến văn cạn cợt, chúng tôi cũng cố gắng hết mình dịch ra Việt ngữ, giúp cho các vị chưa thấy chưa nghe, được có cơ duyên hiểu biết.

Việc làm của dịch giả, như thêm một hạt cát vào sa mạc, rót một giọt nước vào đại dương, nếu có chút công đức nào, nguyện hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh, đồng phát Bồ đề tâm, và được thọ mạng trường cửu, diệt các tội chướng.

Chắc chắn không sao chánh khỏi mọi sai sót, vụng về, mong chư vị thiện tri thức Từ bi chỉ giáo.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chùa Phước Quang

Trọng Thu năm Bính Tý – 1996

Dịch giả kính ghi

Tỳ kheo Thích Thiện Thông


QUY Y PHẬT LƯỠNG TÚC TÔN!
QUY Y PHÁP LY DỤC TÔN!
QUY Y TĂNG CHÚNG TRUNG TÔN!
Hình đại diện của người dùng
123456789
Bài viết: 170
Ngày: 06/06/09 21:16
Giới tính: Nam

Re: Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni

Bài viết chưa xem gửi bởi 123456789 »

KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI HỘ CHƯ ĐỒNG TỬ ĐÀ LA NI
Hán Dịch: Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly Vâng chiếu dịch
Việt dịch: Sa môn Thích Thiện Thông


Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật, ở thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, với sự câu hội, một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ kheo, các Đại Bồ tát, mười hai ngàn người, cùng tám bộ chúng, Trời, Rồng, quỷ thần, hạng nhân, phi nhân, nghe Phật nói pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn, từ trên gương mặt, phóng những ánh sáng, với năm màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, trong mỗi màu có vô lượng hóa Phật, hay làm Phật sự, chẳng thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi hóa Phật, đều có vô lượng Bồ tát hóa hiện, ca ngợi Phật đức. Ánh sáng nhiệm mầu, khó thể đo lường, trên đến cõi trời, Phi phi tưởng xứ, dưới hết chiếu đến, địa ngục Vô gián. Ánh sáng lan khắp, tám muôn địa ngục, nơi nào cũng có. Chúng sanh trong ngục, gặp ánh sáng Phật, tự nhiên niệm Phật, đều được phương tiện, niệm Phật tam muội.

Khi ấy trong chúng, có bốn mươi chín Bồ tát, vừa mới phát ý, muốn từ nơi Phật, cầu mạng trường thọ, nhưng họ không thể phát lời thưa hỏi.

Lúc đó, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, biết chỗ nghi ngờ của các vị kia, ngài liền đứng dậy, vén áo vai mặt, chắp tay hướng Phật và bạch lên rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con tấy chúng sanh, có điều nghi ngờ, nay muốn thưa hỏi, xin Đức Như Lai, cho phép con nói.

Đức Thế Tôn dạy:

- Lành tHay! Lành thay! Văn Thù Sư Lợi, ông nghi điều gì, cứ tha hồ hỏi.

Ngài Văn Thù thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh, nơi biển sanh tử, tạo các nghiệp ác, kiếp này kiếp nọ, luân hồi sáu đường, dẫu được thân người, nhưng mắc quả báo, tuổi thọ ngắn ngủi, làm sao cho họ, được mạng lâu dài, diệt các nghiệp ác? Cúi mong Thế Tôn, nói về phương pháp, tuổi thọ lâu dài.

Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi:

- Lòng đại Từ bi của ông vô lượng, xót nghĩ đến những chúng sanh tội khổ, hay hỏi việc trên. Nếu Ta nói đủ, thì khắp chúng sanh, khó ai tin nhận.

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật lần nữa:

- Kính bạch Thế Tôn! Đấng Nhứt thiết trí, Thầy của Trời người, che khắp chúng sanh, cha lành tất cả, vua trong các pháp, một tiếng của Ngài, diễn nói tất cả, cúi mong Thế Tôn, thương xót nói rộng.

Đức Phật mỉm cười, bảo khắp đại chúng:

- Các vị lóng nghe! Như Lai sẽ vì các vị mà nói.

Về đời quá khứ, có thế giới tên, Vô Cấu Thanh Tịnh, cõi đó có Phật, hiệu là Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, được vô lượng vô biên, các đại Bồ tát, lúc nào cũng thường, cung kính vây quanh. Trong pháp Phật ấy, có cận sự nữ, tên là Điên Đảo, cô này nghe Phật, xuất hiện nơi đời, muốn cầu xuất gia, buồn bã kêu khóc, bạch Đức Phật rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con có nghiệp ác, muốn xin sám hối, cúi mong Thế Tôn, cho con nói rõ:

- Con về trước kia, thân mang thai nghén, mới đủ tám tháng, cũng vì phép nhà, cho nên con chẳng ham muốn con cái, bèn uống thuốc độc, phá thai giết con, chỉ sanh đứa chết, đủ cả hình người. Có bậc trí giả đến bảo con rằng: “Nếu cố sẩy thai, người này hiện đời, mắc báo bệnh nặng, mạng sống ngắn ngủi, chết đọa A tỳ, chịu khổ não lớn”. Nay con suy nghĩ, rất sanh buồn sợ. Cúi xin Thế Tôn, đem sức Từ bi, vì con nói pháp, cho con xuất gia, để khỏi khổ ấy.

Lúc đó, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến bảo nàng Điên Đảo:

Trên thế gian có năm thứ ác nặng, sám hối khó diệt. Những gì là năm? Một là giết Cha, Hai là giết Mẹ, ba là giết Thai, Bốn là làm cho thân Phật chảy máu, Năm là phá sự hòa hợp của Tăng.

Khi ấy, người nữ có tên Điên Đảo, kêu khóc nghẹn ngào, nước mắt như mưa, năm vóc gieo xuống, lăn lộn trước Phật, và bạch lên rằng:

- Lạy Đức Thế Tôn, Từ bi rộng lớn, cứu hộ tất cả, cúi xin Thế Tôn, thương xót nói pháp.

Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo một lần nữa:

- Nghiệp ác của ngươi, rồi sẽ sa đọa, địa ngục A tỳ, không sao dừng ngớt. Trong địa ngục nóng, tạm gặp gió lạnh, tội nhân tạm mát, trong địa ngục lạnh, tạm gặp gió nóng, tội nhân tạm ấm. Địa ngục A tỳ, không có điều đó, lửa trên suốt xuống, lửa dưới suốt lên, bốn bề vách sắt, trên đặt lưới sắt, bốn cửa Đông Tây, có lửa nghiệp mạnh, nếu chỉ một người, thân cũng đầy ngục, thân to lớn đến tám vạn do tuần, nếu đông nhiều người, cũng đều đầy ngục. Khắp thân tội nhân, có rắn sắt lớn, khổ độc của nó, hơn cả lửa mạnh, lại có chim sắt, mổ thịt tội nhân, hoặc có chó đồng, nhai thân tội nhân, ngục tốt đầu trâu, tay cầm binh khí, phát tiếng hung tợn, như tiếng sấm sét, bảo tội nhân rằng: “Ngươi cố giết thai, phải chịu khổ này!”… Ta nếu nói sai, chẳng phải là Phật.

Nữ nhân Điên Đảo, nghe Phật nói rồi, té xỉu xuống đất, lần hồi tỉnh lại, tiếp bạch Phật rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Chỉ một mình con, chịu đau khổ này, hay chúng sanh nào, cũng chịu khổ ấy?

Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo:

- Con ngươi trong thai, hình người đầy đủ, ở giữa hai nơi, ruột non ruột già, giống như địa ngục, bị hai tảng đá, đè ép thân thể. Nếu mẹ ăn nóng, như địa ngục nóng; mẹ ăn thức lạnh, như địa ngục lạnh, trọn ngày khổ đau. Ở trong vô minh, ngươi còn ác tâm, cố uống thuốc độc! Nghiệp ác của ngươi, tự đọa A tỳ. Tội nhân địa ngục, chính ngươi đồng bọn.

Cô gái Điên Đảo, lại một lần nữa, khóc thưa Đức Phật:

Con nghe người trí, có nói lời rằng: “Nếu tạo điều ác, gặp Phật và Tăng, sám hối liền diệt. Giả như chết rồi, vào các đại ngục, tạo chút ít phước, trở lại sanh thiên”. Ý ấy thế nào, xin vì con dạy.

Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai bảo Điên Đảo rằng:

- Nếu có chúng sanh, tạo các tội nặng, gặp Phật hoặc Tăng, chí thành sám hối, không tạo lại nữa, tội được tiêu diệt. Giả sử mạng chung, vua Diêm Ma La, tra hỏi chưa định, mà những người sống, quyến thuộc kẻ mất, thỉnh Phật mời Tăng, trong vòng bảy ngày, chuyển đọc Kinh điển, Phương đẳng Đại thừa, đốt hương rải hoa, sẽ có Diêm sứ, kiểm lại thiện ác, cầm phang năm sắc, đến chỗ Diêm vương, trước sau phang đó, ca vịnh tán thán, phát tiếng vi diệu, hòa nhã thuận thiện, bảo Diêm vương rằng: “Người này chứa thiện”.

Hoặc nhiều người chết, nội trong bảy ngày, do lúc còn sống, tin theo tà đạo, nhận thức điên đảo, chẳng tin Phật pháp, Kinh điển Đại thừa, không lòng hiếu thảo, không tâm Từ bi, sẽ có Diêm sứ, cầm lá phan đen, trước sau phan đó, vô số ác quỷ, báo Diêm vương rằng: “Kẻ này chứa ác”.

Đang lúc bấy giờ, Diêm La pháp vương, thấy lá tần phan, năm sắc đưa đến, lòng rất vui vẻ, lên tiếng xướng rằng: “Nguyện tội thân ta, cũng đồng người lành”. Ngay trong lúc ấy, giữa các địa ngục, biến thành suối trong, núi đao rừng kiếm, như hoa sen mọc, tất cả tội nhân, đều hưởng vui sướng. Nếu thấy phan đen, Diêm vương tức giận, tiếng ác rung chuyển, đem các tội nhân, giao mười tám ngục, hoặc lên cây gươm, hoặc vào núi đao, hoặc nằm giường sắt, hoặc ôm trụ đồng, trâu sắt cày bừa, xay, nghiền, mài, giã, một ngày một đêm, muôn lần chết sống, cho đến lần lượt, đọa ngục A tỳ, chịu đau khổ lớn, kiếp này kiếp khác, không hề dừng nghỉ.

Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai nói chưa dứt lời, thì giữa hư không, có tiếng hung tợn, gọi lớn tiếng rằng: “Nữ nhân Điên Đảo! Người cố giết thai, mắc báo đoản mạng, ta là sứ quỷ, cố đến bắt ngươi!”.

Người nữ Điên Đảo, kinh ngạc buồn khóc, ôm chân Đức Phật, kêu cứu lên rằng:

- Cúi xin Thế Tôn, vì con nói rộng, nhân duyên diệt tội, trong kho giáo pháp, của các Đức Phật, dầu chết con cũng sẽ làm xong nguyện.

Bấy giờ, Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai, dùng thần lực Phật, bảo quỷ sứ rằng:

- Sát quỷ Vô thường! Nay ta muốn vì nữ nhân Điên Đảo, nói Kinh Diệt Tội, thọ mạng lâu dài, hãy đợi chốc lát, tự sẽ chứng biết.

Chánh Kiến Như Lai dạy bảo người nữ:

- Người hãy lóng nghe! Ta sẽ vì ngươi, y cứ hàng ngàn Đức Phật quá khứ, nói Kinh Trường Thọ, là pháp bí yếu, của các Đức Phật, khiến cho bọn ngươi, lìa khỏi đường ác.

Điên Đảo nên biết! Sát quỷ vô thường đây, lúc nào cũng thường, rình tìm bắt người, khó mong thoát khỏi. Dẫu có vô lượng, trăm ngàn vàng ngọc, lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, mà đem chuộc mạng, cũng không thể được. Giả sử vua chúa, thái tử, quan lớn, trưởng giả v.v….. cậy thế lực mình, nhưng rồi một khi, quỷ vô thường đến, cắt đứt mạng quý, không một người nào, có thể thoát khỏi. Điên Đảo nên biết! Chỉ một chữ Phật, mới có thể khỏi, cái khổ lớn này.

Hỡi này Điên Đảo! Trên đời có hai hạng người dõng mãnh, rất là hiếm có, như hoa Ưu đàm, khó thể gặp gỡ. Một là hạng người không làm điều ác. Hai là có tội liền hay sám hối. Hai hạng như vậy, rất là hiếm có. Ngươi đã dốc lòng, sám hối với Ta, Ta sẽ vì ngươi, nói Kinh Trường Thọ, khiến ngươi khỏi khổ, vì quỷ vô thường.

Điên Đảo nên biết! Trong đời sau này, lúc năm trược loạn, nếu có chúng sanh, tạo năm tội nặng: Giết Cha, hại Mẹ, thuốc độc trục thai, phá tháp hủy chùa, đập đổ tượng Phật, phá hòa hợp Tăng. Những chúng sanh nào, tạo các tội lỗi, ngũ nghịch như thế, nếu luôn thọ trì, Kinh Trường Thọ này, biên chép đọc tụng, tự mình biên chép,bảo người biên chép vẫn được diệt tội, sanh về Phạm Thiên, huống gì nay người được thân thấy Ta.

Lành thay Điên Đảo! Ngươi về vô lượng số kiếp xa xưa, gieo các căn lành, nay Ta nhân lời ngươi khéo thưa hỏi, ân cần sám hối, tức được chuyển thành, pháp luân Vô thượng, hay độ vô biên, biển khổ sống chết, có thể chiến đấu, với ma Ba Tuần, có thế xô ngã, tràng phan dựng lập, của ma Ba Tuần. Ngươi hãy nghe kỹ, Ta sẽ nương theo, chư Phật quá khứ, nói về giáo pháp, Mười hai nhân duyên.

Vô minh duyên Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên cho Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não….

Nếu Vô minh diệt, ngay đó Hành diệt, Hành diệt tức Thức diệt. Thức diệt tức Danh sắc diệt. Danh sắc diệt tức Lục nhập diệt. Lục nhập diệt tức Xúc diệt, Xúc diệt tức Thọ diệt, Thọ diệt tức Ái diệt, Ái diệt tức Thủ diệt. Thủ diệt tức Hữu diệt. Hữu diệt tức Sanh diệt. Sanh diệt tức Lão, tử ưu bi khổ não diệt.

Điên Đảo nên biết! Tất cả chúng sanh, vì chẳng nhận ra, mười hai nhân duyên, do đó trôi lăn, trong biển sanh tử. Nếu có người nào, nhận ra diệu lý, mười hai nhân duyên, chính là thấy Pháp, thấy Pháp cũng chính là thấy Đức Phật, thấy Phật chính là thấy được Phật tánh. Tại sao vậy?

Bởi vì chư Phật, lấy đó làm tánh. Nay ngươi được nghe, Ta nói pháp mười hai nhân duyên đây, là ngươi đã được, Phật tánh thanh tịnh, kham làm pháp khí. Ta sẽ vì ngươi, nói đạo Nhứt thừa, ngươi hãy tư duy, giữ gìn nhứt niệm. Nhứt niệm là nghĩa của tâm Bồ đề, và tâm Bồ đề, gọi là Đại thừa, chư Phật Bồ tát, vì chúng sanh mà phân biệt nói ba, ngươi hãy từng niệm, thường siêng giữ gìn, tâm Bồ đề ấy, chớ để quên mất.

Giả sử có các rắn độc bốn đại, quỷ dữ năm ấm, ba độc tham sân si, giặc cướp sáu nhập, tất cả các ma, tìm đến khuấy nhiễu, chẳng thể biến đổi tâm Bồ đề này. Nhân vì được tâm Bồ đề như thế, mà thân như Kim cang, tâm như hư không, không gì trừ ngại, chẳng thể hư hỏng. Do chẳng hư hỏng, cho nên liền được, Vô thượng Bồ đề, sẵn đủ bốn đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, bèn hay xa lìa, sát quỷ vô thường, cùng những nổi khổ, sanh, già, bệnh chết, hoặc các địa ngục….

Khi Đức Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai ở giữa đại chúng, nói pháp này thì trong khoảng không gian, sứ quỷ vô thường, nói lên lời rằng: “Con nghe Đức Phật, nói giáo pháp này, địa ngục thanh tịnh, biến thành ao sen. Nay con hiện bỏ cảnh giới sứ quỷ”. Quỷ lại nói thêm: “Hỡi này Điên Đảo! Khi ngươi đắc đạo, xin tế độ tôi”.

Bấy giờ, Đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến lại bảo cô gái có tên Điên Đảo:

- Ta đã vì ngươi, nói về mười hai nhân duyên xong rồi, lại vì ngươi nói sáu Ba la mật. Sáu Ba la mật là: Trí tuệ Ba la mật, Thiền định Ba la mật, Tinh tấn Ba la mật, Nhẫn nhục Ba la mật, Trì giới Ba la mật, Bố thí Ba la mật, Sáu Ba la mật này, ngươi nên thọ trì.

Lại vì ngươi nói bài kệ thành Phật, của các Đức Phật về thời quá khứ, bài kệ đó là:

Các hành đều vô thường,

Vì là pháp sanh diệt,

Sanh diệt nếu diệt rồi,

Tịch diệt là an vui.

Ngay trong lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo, nghe pháp vui mừng, tâm bừng sáng lặng, tỉnh ngộ tỏ rõ. Do thần lực Phật, bèn bay lên không, cao hàng trăm thước, an tâm lặng rồi.

Bấy giờ, có một vị Bà la môn, thuộc giòng tộc lớn, trong nhà rất giàu, không ai sánh kịp, bỗng mang bệnh nặng. Thầy thuốc xem bệnh, cần tròng mắt người, hòa với thuốc tốt, trị liệu mới lành. Đại trưởng giả này, liền sai tôi tớ, đi khắp các đường, lớn tiếng rao rằng: “Người nào có thể, nhẫn chịu đau đớn, bán đôi tròng mắt, sẽ trả ngàn vàng, kho tàng quý giá, mặc tình sử dụng, không hề lẫn tiếc…”

Nữ nhân Điên Đảo, nghe lời nói này, lòng rất mừng rỡ và tự nghĩ rằng: “Nay ta từ nơi Đức Phật, được nghe Kinh Trường Thọ mà dứt trừ nghiệp ác, tâm đã tỏ rõ, ngộ ra Phật tánh, lại được lìa khỏi, sát quỷ vô thường, và khổ đại ngục, ta nên nghiền thân, đáp đền ơn Phật…”. Nghĩ xong lớn tiếng, xướng lên lời rằng: “Tuổi ta nay đã được bốn mươi chín, theo Phật nghe pháp, tên Kinh Trường Thọ, nay muốn nát thân, không tiếc xu mệnh, chép Kinh Trường Thọ, bốn mươi chín quyển, muốn cho chúng sanh, thọ trì đọc tụng. Ta cần bán mắt, để tả Kinh này, mắt ta vô giá, mặt tình cho người, tùy ý trả giá”.

Lúc ấy, vị trời Đế Thích, với các Thiên tử, đồng hóa ra bốn mươi chín người đời, đến chỗ Điên Đảo, nói với người rằng: “Ta nguyện vì ngài, biên chép Kinh ấy, ngài xem xong rồi, tha hồ bán mắt”.

Nữ nhân Điên Đảo, lấy làm may mắn, mừng rỡ vô hạn, chẻ xương làm viết, xẻ thịt tay chân, lấy máu làm mực, cung cấp người viết, trong vòng bảy ngày, biên chép Kinh xong. Mọi người chép rồi, thưa Điên Đảo rằng: “Trước đây người hứa, bán đôi tròng mắt, công chúng tôi xong, xin giao đôi ngươi, chúng tôi đem bán cho Bà la môn”.

Lúc ấy, nữ nhân Điên Đảo ra lệnh kẻ Chiên đà la moi con ngươi ra, đem giao cho bốn mươi chín người và chia y một phần. Gã Chiên đà la, theo cách muốn khoét, thì bốn mươi chín người, đều xướng lên rằng:

- Hiếm có! Hiếm có! Chẳng thể nghĩ bàn! Vị nữ Điên Đảo, chẻ xương lấy máu, ghẻ lở nhơ uế, mà vẫn hay nhẫn, biên chép Kinh này, chúng ta nỡ nào lấy đôi tròng mắt!

Rồi các vị này, do lòng Từ bi, bạch Điên Đảo rằng:

- Chúng tôi trọn chẳng ham tròng mắt ngài, để đem bán cho người Bà la môn, mong ngài đắc đạo, sẽ độ chúng tôi. Nguyện cho cho chúng tôi, bất cứ nơi nào, trong kiếp lai sanh, thường được cùng ngài, đồng chung một chỗ, làm thiện tri thức, tuyên nói Kinh này, cứu độ tất cả, chúng sanh tội khổ.

Bấy giờ, Long vương nan đà v.v… dùng oai lực lớn, hóa các huyễn thuật, lấy trộm Kinh của nữ nhân Điên Đảo, để trong Long cung, thọ trì cúng dường.

Nữ nhân Điên Đảo, chỉ trong phút chốc, chợt chẳng thấy Kinh, rơi lệ nghẹn ngào, bèn bạch Đức Phật:

- Kính bạch Thế Tốn! Con xẻ thân ra, chép Kinh Trường Thọ, muốn khiến lan rộng, tất cả chúng sanh, nay con bỗng nhiên, chẳng biết tại đâu! Lòng con bối rối, buồn rầu khó nhẫn.

Phổ Quang Như Lai bảo với Điên Đảo:

- Những Kinh của ngươi, tám bộ Long vương, thỉnh về Long cung, thọ trì cúng dường, ngươi nên vui mừng, chớ nên buồn bã. Lành thay Điên Đảo! Ngươi sẽ nhờ sức công đức này mà, hết tuổi thọ rồi, sanh lên cõi trời, thuộc Vô sắc giới, hưởng mọi vui sướng, mãi mãi chẳng còn, làm thân nữ nhân.

Khi ấy, Điên Đảo bạch lên Đức Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Sở nguyệnn của con, chẳng muốn sanh về cõi trời Vô sắc, chỉ nguyện đời đời kiếp kiếp, luôn luôn được gặp Thế Tôn, tâm Phật chẳng thoái, bất cứ chỗ nào, cũng vì tất cả chúng sanh tội khổ, mà tuyên dương pháp này.

Phật Phổ Quang bảo:

- Lời ngươi gian dối.

Điên Đảo lại thưa:

- Nếu con nói dối, thì xin như trước, bị quỷ vô thường, đến bắt bức ngặt. Nếu con thật tâm, xin những lở lói, trong thân của con, đối trước Đức Phật, đều trừ lành hết.

Ngay đó Điên Đảo, do sức thệ nguyện, lành lại như cũ.

Phổ Quang Như Lai bảo Điên Đảo rằng:

- Ngươi hãy một lòng niệm Phật, thì sẽ từ một Phật quốc, đến Phật quốc khác, ngươi liền có thể, nhìn thấy vô lượng, vô biên thế giới, của các Đức Phật, chẳng thể nghĩ bàn, mà chẳng cần đến, văn tự lời lẽ.

Lúc đó Điên Đảo, chỉ trong khoảnh khắc, liền chứng được tâm Vô thượng Bồ đề, Vô sanh Pháp nhẫn.

Đức Thế Tôn bảo ngài đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

- Văn Thù nên biết, Phổ Quang Như Lai chính là thân Ta, nữ nhân Điên Đảo là thân ông vậy, bốn mươi chín người, là những Bồ tát, vừa mới phát ý. Ta về quá khứ, vô lượng vô biên, kiếp xưa trở lại, vì sự hộ thân, mà Ta luôn luôn, cùng với các ông, tuyên nói Kinh này, khiến cho tất cả chúng sanh, người nào có những nghiệp ác, nghe lọt vào tai, dù nửa bài kệ, của Kinh Trường Thọ trên đây, đều được diệt tội, nay lại nói thêm.

Bấy giờ, vua Ba Tư Nặc, ngay trong đêm ấy, tại giữa vương cung, nghe một người nữ, lớn tiếng khóc ròng, tiếng khóc não nề, người nghe khó nhẫn, buồn không kể xiết. Vua tự nghĩ rằng: “Thâm cung của ta, chưa bao giờ có sự việc như vầy, vì sao có tiếng bi ai thế kia?”. Lúc vừa sáng sớm, sai các quan chức, đi nhiều ngã đường, tìm người nữ ấy.

Sứ vâng lệnh vua, tìm được đưa về, người nữ kinh ngạc, ngất xỉu trước vua, vua lấy nước lạnh, rưới lên trên mặt, hồi lâu tỉnh dậy, ngài mới hỏi rằng:

- Đêm qua kêu khóc, có phải ngươi chăng?

Người phụ nữ đáp:

- Vì tôi nhức tai.

Nhà vua hỏi tiếp:

- Cớ gì oán khóc, ai xâm phạm ngươi?

Nữ nhân đáp rằng:

- Tôi tự ân hận, không ai xâm phạm. Cúi xin nhà vua cho phép tôi nói.

Tôi mười bốn tuổi, đã làm vợ lớn, của bên nhà chồng, qua ba mươi năm, sanh ba mươi con, dung mạo đẹp lạ, tóc màu xanh biếc, tay đỏ như son, răng trẳng như ngọc, thân thể đầy đặn như hoa mùa xuân. Tôi luyến mến chúng dường như tủy não, như gan ruột mình, hơn cả tánh mạng. Chúng vừa lớn lên, chẳng hơn một tuổi, vào lúc Thu, Hè bỏ tôi mà chết. Đứa con sau cùng, hơn cả mạng tôi, hiện nay nó lại đang bị nguy khốn, mạng sắp sửa mất, cho nên đêm qua, tôi mãi kêu khóc, nhức cả lỗ tai.

Vua Ba Tư Nặc, nghe được lời ấy, ông rất buồn bã, thầm tự xét rằng: “Thứ dân trăm họ, nương nhờ nơi ta, nếu chẳng cứu giúp, sao gọi là vui?”. Liền nhóm các quan, cùng nhau bàn luận. Nhà vua có sáu vị quan đại thần. Một là Kiến Sắc. Hai là Văn Thinh. Ba là Hương Túc. Bốn là Biện Tài. Năm là Tùy Duyên. Sáu là Dị Nhiễm. Họ tâu với vua:

- Trẻ nít mới sanh, nên bày sắm lễ, Thần Đàn diên mạng, bảy vị tinh quân, hai mươi tám vị sao, mới khỏi nạn khổ, cúi xin nhà vua ra lệnh khắp nước…

Khi ấy, có một vị quan sáng suốt, đã từng ở chỗ vô lượng Đức Phật, vun trồng căn lành, tên là Định Huệ, ra thưa với vua:

- Đức vua nên biết, lời sáu vi quan, chẳng thể cứu khổ. Nay có Đại sư, họ là Cù Đàm, hiệu Tất Đạt Đa, không Thầy tự ngộ, đã được thành Phật, hiện ở Linh Thứu, nói Kinh Trường Thọ, cúi xin đức vua, qua đó nghe nhận. Nếu nghe Kinh này, nửa kệ qua tai, không một tội nào, mà chẳng tiêu diệt. Tất cả trẻ con, nghe lọt vào tai, dầu chưa ngộ hiểu, do công đức Kinh, tự nhiên sống lâu.

Vua Ba Tư Nặc nói:

- Trước đây ta từng nghe lục sư nói: “Sa môn Cù Đàm, học hỏi cạn cợt, mặt còn trẻ trung, tuổi tác còn nhỏ. Trong những kinh của lục sư nói rằng: “Người hay làm trò huyễn hóa yêu mị, là Cù Đàm vậy, nếu ai tôn sùng, phần nhiều bỏ mất, con đường chơn chánh”.

- Vị quan Định Huệ, dùng kệ thưa vua:

Thích Ca mâu Ni, Thầy trời người

Từng vô lượng kiếp tu khổ hạnh

Nay được thành Phật, chuyển pháp luân

Lại nương chư Phật quá khứ nói

Chẳng trái nguyện của khắp chúng sanh

Sức Từ bi lớn cứu loài mê

Gặp Phật khó như rùa gặp bọng

Cũng như gặp hoa mẫu Ưu đàm

Cúi xin nhà vua qua nghe pháp

Chớ tin lời lục sư ngoại đạo.

Đại thần Định Huệ, nói kệ ấy rồi, do sức thần thông, vọt khỏi mặt đất, bay lên hư không, cao hàng trăm thước, liền ở trước vua, làm các chú thuật, trong khoảng một niệm, khiến núi Tu di và nước biển lớn, vào hết trong tâm, an nhiên vô ngại.

Vua Ba Tư Nặc, thấy việc này rồi, khen rất hiếm có: “Đây mới đúng là, chơn thiện tri thức”, liền lạy Định Huệ, thưa với người rằng:

- Thầy ông là ai?

Ngài Định Huệ đáp:

- Thầy tôi là Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện nay ở tại, đại thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, đang nói về Kinh Trường Thọ Diệt Tội.

Vua nghe lời này, lòng rất mừng rỡ, liền đem việc nước, tạm giao Định Huệ, vua cùng quyến thuộc, các quan, trưởng giả, xe báu bốn ngựa, trước sau vây quanh, và người phụ nữ, với con của bà, cầm những tràng hoa, trăm thứ cúng dường, đến thành Vương Xá, vào núi Linh Thứu. Vua bỏ Vương phục, quanh Phật bảy vòng, chắp tay cúi lạy, rãi hoa cúng dường, đem hết câu chuyện, của người phụ nữ, bạch lên Đức Phật.

Đức Thế Tôn bảo vua Ba Tư Nặc:

- Người phụ nữ này, về đời quá khứ, thân làm mẹ ghẻ, tâm sanh ganh tỵ, hòa hợp thuốc độc, giết con vợ trước đến ba mươi đứa, những đứa bị giết đều phát thề rằng: “Nguyện ta đời đời kiếp kiếp sau này, thường làm con bà, bèn chia ly ngay, khiến bà khỏ sở, một cách đau đớn”. Bây giờ người nữ, đến đây được nghe, Như Lai nói Kinh Trường Thọ Mạng lâu dài, bài kệ vào tai, oan gia trái chủ, từ đây dứt hẳn.

Bấy giờ, Đức Phật bảo khắp đại chúng:

- Khi một người nữ nào đó thọ thai, thì ma Ba Tuần, thả bốn rắn độc, thuộc về bốn đại, giặc ác sáu trần, vào thân người ấy. Một đại chẳng điều, mạng căn liền diệt. Như Lai có Đà la ni thần chú, có thể tăng thêm, mạng sống tuổi thọ, cho các trẻ con, nếu ai lo khổ, nghe chú của ta, qua tai một lần, thì không bệnh gì, mà chẳng trừ lành, hay khiến quỷ dữ, bỏ chạy tứ tán.

Đức Thế Tôn liền nói thần chú rằng:

BA ĐƠ MI BA ĐƠ MI ĐÊ QUI, CƠ SÌ NI CƠ SÌ NI CƠ SÊ MI, CHU RÊ CHU RA CHU RI, HU RA HU RA, CHU RI CHU RA CHU RI, BU RA BA RI MUN GIA, CHIN ĐÊ BIN ĐÊ, BA GI MA ĐÊ, CHIN NA CA RÊ, SÔ HA

Đức Phật nói tiếp:

- Văn cú của chú Đà la ni này, nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng, vì tất cả những trẻ thơ bệnh hoạn, lúc còn trong thai, sau khi ra thai, mà đem diễn nói, bảy ngày bảy đêm, đốt hương, rải hoa, biên chép cúng dường, hết lòng nghe nhận, thì những bệnh nặng, nghiệp chướng thân trước, đều được tiêu diệt.

Bấy giờ, có ngài Bồ tát y vương – vua trong ngành thuốc, tên là Kỳ Bà, đối trước Đức Phật, bạch với Ngài rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con là một bậc, Thầy thuốc đại tài, chữa trị các bệnh, những đứa trẻ thơ, có chín loại bệnh, làm chúng đoản mạng. Thế nào là chín?

. Một là những kẻ, làm cha làm mẹ, chung chạ trái lúc.

. Hai là trong lúc, mới sanh đẻ con, để máu dơ đất, thần đất bỏ đi, ác quỷ tiện dịp.

. Ba là mới sanh, chẳng bỏ trùng độc, bé nhỏ trong rún.

. Bốn là chẳng lấy bông mịn chùi sạch máu dơ trong thai.

. Năm là giết hại sanh mạng, để làm yến tiệc ăn mừng.

. Sáu là mẹ của đứa bé, ăn nhiều trái cây tạp chất lạnh.

. Bảy là hài nhi có bệnh, cho ăn cá thịt tạp nhạp.

. Tám là mới sanh, mẹ con chưa an, để cho những người chẳng lành, nhìn thấy chỗ nơi sanh đẻ. Chưa phân an nguy, có thể làm cho, người mẹ bị chết.

. Phân an nguy rồi, có thể làm cho, đứa con bị chết.

Thế nào gọi là, những người chẳng lành? Nếu như có người, mắt vừa nhìn thấy, thấy chết nào đó, hoặc là thấy những tai biến quái dị, mắt họ bất tịnh, cho nên gọi là, hạng người chẳng lành. Gặp trường hợp này, nếu dùng vị thuốc Ngưu hoàng, Châu sa, nghiền thành ra bột, trộn với mật ong, đặt ngay tại tim đứa bé, có thể khỏi điềm chẳng lành.

. Chín là ban đêm ẵm trẻ tới lui, bị quỷ dữ đánh.

Những trẻ sơ sinh, nếu luôn cẩn thận, chín việc như trên, thì chúng trọn chẳng đến đổi chết mất.

Giữa lúc bấy giờ, thiên ma Ba Tuần, có Tha tâm thông, ở trong cung ma, biết Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội và Đà la ni, cứu độ trẻ thơ, thì lòng tức giận, phát tiếng dữ dội, lo buồn chẳng vui. Ma vương có ba con gái tuyệt đẹp, ra thưa cha rằng:

- Chẳng hay vua cha, cớ gì buồn rầu?

Ma vương liền đáp:

- Sa môn Cù Đàm, ở thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, đang vì vô lượng, vô biên chúng sanh, nói Kinh Trường Thọ, lan rộng cho khắp tất cả chúng sanh, được vui sống lâu, xâm cảnh giới ta, ta khởi ác tâm, nay muốn đem các quyến thuộc binh ma, đến nơi dẹp trừ. Giả sử chẳng thể ngăn cản Cù Đàm, thì oai lực ta, có thể cản ngăn, bịt tai tất cả, chư Thiên đại chúng, chẳng để cho họ nghe Phật nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội.

Khi ấy, ba người con gái, con của Ba Tuần, dùng kệ can cha:

Ba con của thiên ma ba Tuần,

Cúi đầu trước mặt, thưa với cha,

Sa môn Cù Đàm, Thầy trời người,

Chẳng phải sức ma hay ngăn cản,

Ngày trước, dưới gốc cây Bồ đề,

Khi Ngài mới ngồi tòa kiết tường,

Ba đứa chúng con rất xinh đẹp,

Đệ nhứt trong các hàng thiên nữ,

Trăm cách cử chỉ gợi dục tình,

Bồ tát đều không ý đắm nhiễm,

Xem ba chúng con như mụ già,

Nay thành bực Thầy Vô thượng giác,

Vua cha giương cung toan hù dọa,

Gậy gộc, binh khí bủa hư không,

Bồ tát xem như trò trẻ nít,

Không một chút tâm sợ thoái lui,

Ngày thành đạo làm vua pháp,

Cúi xin vua cha dứt ác tâm.

Lúc ấy, thiên ma Ba Tuần, nghe con nói kệ, liền đem quyến thuộc, lén bàn nhau rằng: “Ta với các ngươi đồng đến chỗ Phật, dùng phương tiện khéo, giả vờ thua cuộc, chịu quy hàng Phật, để Phật tin dùng. Nếu được tin rồi sẽ làm mọi cách ma sự, chướng ngại Kinh này”.

Ngay đó thiên ma, cùng với quyến thuộc, đồng đến chỗ Phật, quanh Phật bảy vòng, rồi bạch lên rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp, không mỏi mệt chăng? Nay con lãnh đạo, các quyến thuộc ma, đến đây nghe Kinh Trường Thọ Diệt Tội, làm đệ tử Phật, cúi mong Thế Tôn, chớ trái nguyện con.

Bấy giờ, Đức Phật quở trách Ma vương:

- Ngươi ở cung ma, tâm sanh giận tức, dầu được đến đây, cũng chỉ giả vờ, rút lui quy hàng. Trong giáo pháp Ta, chẳng chấp nhận sự lừa dối của ngươi.

Thiên ma Ba Tuần, lấy làm xấu hổ, gương mặt thất sắc, rồi bạch Phật rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con tính kế ngu, làm điều dối trá, xin Đức Phật Thế Tôn, với lòng đại bi, tha thứ tội lỗi. Nay con được nghe, Kinh chú Trường Thọ Bảo Vệ Trẻ Thơ, con xin phát nguyện:

Nếu đời sau này, người nào thọ trì, Kinh Trường Thọ đây, biên chép đọc tụng, bất cứ chỗ nào, con cũng ủng hộ, không để ác quỷ, rình tìm tiện lợi. Dầu ở địa ngục, nếu tội nhân nào, trong khoảng giây lát, nhớ nghĩ Kinh này, con sẽ sử dụng, thần lực vĩ đại, lấy nước biển lớn, tưới xuống tội nhân, khiến địa ngục lớn, biến thành ao sen.

Bấy giờ, lại có La sát, ăn thịt con nít v.v… làm bậc thủ lãnh, cùng các quyến thuộc, đồng loại với mình, từ trên không xuống, đi quanh bên hữu Đức Phật nhiều vòng, rồi bạch lên rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Con từ vô lượng kiếp trở lại đây, chịu thân La sát, quyến thuộc của con, nhiều như hàng sa, người nào cũng bị, đói khát ép ngặt, chỉ ăn thai non, trong bốn đại châu và ăn máu thịt, con nít mới sanh. Quyến thuộc chúng con, rình chờ chúng sanh, vợ chồng giao hợp, rồi ăn tinh họ, khiến không thọ thai. Hoặc trong bào thai, con cũng theo vào, làm cho sẩy thai, rồi ăn tinh huyết. Mới sanh bảy ngày, chúng con chuyên rình, tìm dịp tiện lợi, dứt mạng căn chúng, cả đến trẻ con, mười tuổi cũng vậy. Quyến thuộc chúng con, biến làm những thứ, vi trùng độc hại, vào trong thai nhi, ăn tinh huyết trong tạng phủ đứa bé, khiến cho hài nhi ọc sữa, tiêu chảy hoặc bị bụng lớn hoặc bị nóng lạnh, tròng mắt có mủ, cho đến lần lần, dứt mạng của chúng.

Nay đây chúng con, nghe Đức Thế Tôn, nói Kinh Trường Thọ, diệt các tội chướng, bảo vệ trẻ thơ. Vâng theo những lời, Đức Thế Tôn dạy, thì quyến thuộc con, bị đói bức ngặt, chẳng dám ăn nuốt.

Phật bảo La sát:

- Các ngươi nên thọ, cấm giới của Ta, sẽ khiến các ngươi, bỏ thân La sát, sanh về cõi trời, hưởng sự vui sướng.

Đức Thế Tôn bảo toàn thể đại chúng:

- Nếu có trẻ nít, bị mắc bệnh khổ, bảo mẹ đứa bé, chia sữa nhiều giọt, cho giữa khoảng trống, thí các La sát và nên thanh tịnh, trì Kinh Trường Thọ Diệt Tội Đà La Ni, biên chép cúng dường, thì bệnh trừ lành.

Khi ấy, số đông các quỷ La sát, rất là mừng rỡ, bạch Đức Phật rằng:

- Ví được sanh thiên, quyến thuộc chúng con, trọn chẳng xâm tổn, sữa các trẻ thơ. Thà ăn hoàn sắt, trọn chẳng thể ăn máu các hài nhi.

Sau Phật diệt độ, nơi nào có thể, đọc tụng thọ trì, Kinh Trường Thọ này, nếu có kẻ ác, quấy rối Pháp sư, hoặc có ác quỷ, phá các trẻ thơ, chúng con dẽ cầm, những chày Kim cang, để bảo vệ trẻ, chẳng cho các quỷ, được dịp tiện lợi.

Bấy giờ, tất cả vua lớn các trời, và quyến thuộc mình, tất cả chúa rồng, các vua Da xoa, vua A tu la, vua Ca lầu la, vua Khẩn na la, vua Ma hầu la già, vua Bế lệ da, vua A tỳ xá giá, vua Phú đơn na, cho đến vua Ca tra Phú đơn na… Tất cả các vua, mỗi vị cùng với, toàn thể quyến thuộc, lễ lạy Đức Phật, đồng lòng chắp tay, nói lên như vầy:

- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay, bất cứ chỗ nào, có Thầy Tỳ kheo, hay Tỳ kheo ni, các cận sự nam, hay cận sự nữ, hễ ai thọ trì, Kinh Trường Thọ này, hoặc chỉ biên chép, quyến thuộc chúng con, thường sẽ bảo vệ. Các vua chúng con, xua đuổi ác quỷ, có quỷ dữ nào, khuấy rối chúng sanh, khiến mắc bệnh khổ, nếu hay thanh tịnh, viết trì Kinh này, các vua chúng con, cấm chỉ các quỷ, chẳng cho gây hại, bi khổ chết ngang.

Khi đó, có vị địa thần Kiên Lao, từ tòa đứng dậy, bạch Đức Phật rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu đệ tử Phật, thọ trì bổn Kinh Trường Thọ Diệt Tội, hộ các trẻ con, địa thần chúng con, thường cho chất đất, thấm nhuần nơi ấy, khiến trong thân họ, tăng thêm thọ mạng. Chúng con thường đem, các thứ vàng bạc, các thứ của báu, những loại thóc gạo, cung cấp đầy đủ, cho người có lòng tin, không thể thiếu thốn, thân được an ổn, không hề rầu lo, tâm thường vui vẻ, được ruộng phước tốt, không để ác quỷ, dứt mạng căn họ. Nếu các hài nhi, mới sanh bảy ngày, địa thần chúng con, sẽ ủng hộ chúng, không để mất mạng.

Bấy giờ trong chúng, lực sĩ Kim cang, bạch lên Đức Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói về Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Các Đồng Tử Đà La Ni đây rồi, các đại thí chủ, và quyến thuộc mình, ai cũng phát tâm, thọ trì đọc tụng, biên chép Kinh này, cung cấp vật dùng, không để thiếu thốn. Con có được nghe, một đấng Thế Tôn, oai đức cao cả, nói đại thần chú, có oai lực lớn, chương cú kiết tường, nếu chúng sanh nào, nghe lọt vào tai, trăm kiếp ngàn đời, trọn chẳng đoản mạng, tuổi thọ không lường, chẳng các bệnh khổ, dẫu có bốn ma, cũng chẳng nghịch loạn, thọ mạng thêm lớn, sống lâu đến một trăm hai mươi tuổi, chẳng chết nửa chừng, chẳng bị thoái đọa. Tất cả Phật tử, khổ vì bệnh nặng, nghe đến chú này, liền khỏi các quỷ, đến đoạt mạng sống.

Lực sĩ Kim cang liền nói thần chú:

TA ĐI DA THA, CHAN ĐƠ RÊ CHAN ĐƠ RA ĐI ĐÊ, CHAN ĐƠ RA RÀ MA HÙM, CHAN ĐƠ RA QUA TÊ, CHAN ĐƠ RA BU RÊ, CHAN ĐƠ RA CHA DÊ, CHAN ĐƠ RA TI RÊ, CHAN ĐƠ RA ĐI MÊ, CHAN ĐƠ RA ĐU RU, CHAN ĐƠ RA BƠ RA BÊ, CHAN ĐƠ RA ÚT TA RÊ, CHAN ĐƠ RA BA TI DÊ, CHAN ĐƠ RA BA MÊ, CHAN ĐƠ RA KHA ĐƠ GÊ, CHAN ĐƠ RA LÔ CÊ, SÔ HA

Đức Thế Tôn dạy:

- Lành thay, Lành thay! Lực sĩ Kim cang! nay ông có thể, nói về thần chú kiết tường, hộ các trẻ con, ông sẽ trở thành, vị đại đạo sư, của khắp chúng sanh. Văn Thù nên biết, thần chú vừa rồi, được các Đức Phật quá khứ nói ra, dựng lập bảo vệ, khéo có thể tăng thọ mạng trời người, hay trừ tất cả, tội nhơ ác kiến, hay hộ tất cả, những người trì Kinh, kéo dài tuổi thọ.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, đấng Pháp vương tử rằng:

- Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có tỳ kheo, phá hỏng giới cấm, gần Tỳ kheo ni, hay những gái trinh, hoặc Sa di ni, uống rượu ăn thịt, gian dâm lẫy lừng, bị hàng bạch y, chê bai khinh rẻ, hủy diệt pháp Phật, kinh doanh những việc, bất tịnh của đời, không lòng hổ thẹn, giống như khúc gỗ. Nên biết hạng này, là kẻ ngũ nghịch, chẳng phải đệ tử của Ta, mà là quyến thuộc của ma, là bọn lục sư. Hạng Tỳ kheo ấy, ngay trong hiện đời, mắc báo đoản mạng, hạng Tỳ kheo ni, lại cũng như vậy. Nếu luôn sám hối, chẳng tái phạm lại, thọ trì Kinh này, liền được sống lâu.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có Bồ tát, phỉ báng người khác, tự khen mình giỏi, chẳng trao truyền Kinh Phương Đẳng cho người, hạng Bồ tát này, là bạn của ma, chẳng phải là hạn Bồ tát chân thật. Nếu luôn hết lòng, thọ trì Kinh này, biên chép đọc tụng, tức được Pháp thân chơn thường của Phật.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có vua chúa, giết cha hại mẹ, tru lục sáu thân, không theo phép vua, dấy binh khắp nơi, xâm chiếm nước khác, tôi trung can gián, bị giết oan uổng, dâm dục lẫy lừng, trái phép tiên vương, phá tháp đập chùa, thiêu đốt kinh tượng, mưa nắng chẳng đều… Do vua vô đạo, cõi nước đói kém, ôn dịch chết chóc, diễn ra khắp nơi. Hạng vua chúa này, hiện đời đoản mạng, chết vào địa ngục, đọa đại A tỳ. Nếu như có thể, biên chép Kinh này, lưu thông cúng dường, chí thành sám hối, theo phép vua trước, liền được sống lâu.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có quan lớn, hay các quan chức, thân hưởng lộc vua, không lòng hổ thẹn, siểm nịnh bất trung, chuyên làm lừa dối. Do hạng “tặc thần”, nên nước chẳng yên. Dẫu đến chỗ nào, cũng chẳng thi hành, pháp luật của nước, xâm lấn trăm họ, buông ý tham tàn, giết người vô tội, chiếm tài sản người, khing lờn Kinh điển, ngăn chướng Đại thừa… Những hạng như trên, hiện đời đoản mạng, đọa ngục A tỳ, không hẹn kỳ ra. Nếu như có thể, sám hối tội lỗi, thọ trì Kinh này, biên chép đọc tụng, liền được sống lâu, hưởng mãi lộc trời.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, kẻ cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào, tin theo tà giáo, thấy biết điên đảo, chẳng tin Chánh pháp, Kinh điển đại thừa, chúng sanh như vậy, dù có vô lượng, trăm ngàn vàng bạc, nhưng lòng tham tiếc, chỉ cầu tài lợi, chẳng hay cấp thí, cứu ngặt bất cứ kẻ nghèo khổ nào, chẳng hay biên chép, mười hai phần giáo, thọ trì đọc tụng, cầu khỏi vô thường và khổ đường ác. Hạng người như thế, nhà cửa hư hao, chim quái xuất hiện, rắn vào nhà nằm, chó lên mái nhà, trăm tiếng chuột kêu, các loài dã thú, tranh nhau đến ngõ, nhiều quỷ ly mị, vọng lượng, v.v… Đó gọi là quái. Do gặp quái nên, tâm bị buồn rầu, do nhân buồn rầu, chuốc lấy đoản mạng. Nếu hay thọ trì, biên chép Kinh này lưu thông đọc tụng, ngay đó có thể, phá dẹp những thứ, quái gỡ như trên, được mạng sống lâu.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, tất cả những kẻ, trai gái lớn lên, (kẻ làm cha mẹ) vì sự thương xót, mà bị tâm bệnh. Tại vì sao thế?

Hoặc có thanh niên, bị sung quân dịch, luật vua như thế, không sao thoát khỏi, cha mẹ nhớ nhung, đó là tâm bệnh. Hoặc gái trưởng thành, gả về nhà người, nhưng bị khinh rẻ, trái đạo phu thê, cha mẹ nhớ thương, đó là tâm bệnh. Vì tâm bệnh nên, sầu lo khổ sở, buồn rầu nhóm bệnh, hiện đời mạng ngắn. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, được mạng sống lâu. Do oai lực Kinh, hôn nhân hòa thuận, tâm bệnh tiêu trừ.

Lại nữa Văn Thù! ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, không tâm Từ bi, sát sanh hại mạng, ăn mười thứ thịt, thân của mọi loài. Văn Thù nên biết, đó không khác gì, giết cha giết mẹ, ăn thịt bà con hoặc vì giết mạng, mà lại phá thai, làm việc ấy nên hiện đời đoản mạng. Giả sử những lúc, vợ chồng chăn gối, bị La sát dữ, ăn nuốt bào thai, khiến không con cái. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, liền khỏi khổ ấy.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, chẳng biết kiếp trước, tạm được làm người, cho là sung sướng, bèn phỉ báng nhau, hoặc cậy quyền hào, đủ thứ ác tâm, xem nhẹ mạng người, chẳng tin Kinh điển, ngạo mạn Đại thừa. Người như thế đó, hiện đời đoản mạng. Nếu hay dốc lòng, tha thiết sám hối, điều phục tâm mình, biên chép Kinh này, thọ trì đọc tụng, do sức thiện căn, được mạng sống lâu. Giả sử có bệnh, cũng chẳng chết ngang.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, có nhiều chúng sanh, hoặc vâng lệnh vua, hoặc cha mẹ dạy, mà ở nước khác, hoặc nơi đường hiểm, để lo buôn bán, tìm kiếm của tiền, vì tài lợi mà, ngã mạn cống cao, đánh cờ đánh bạc, gần gũi điếm đàng, giao thiệp bạn ác, chẳng tuân lệnh vua, lời cha mẹ dạy, uống rượu ham dâm, táng thân mất mạng. Dẫu được tiền của, nhưng bị rượu mê, chẳng biết đường sá, thông nghẽn thế nào, sau phải bị lũ giặc ác cướp của, do đó hại mạng. Nếu hay biên chép, thọ trì Kinh này, phát thệ nguyện rộng, thì đến nơi nào, giặc ác cũng lui, sanh tâm vui mừng, những thú độc dữ, chẳng thể nhiễu hại, thân tâm an ổn, được nhiều hàng quý, do lực của Kinh, được mạng sống lâu.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, vì nghiệp ác nên chết vào địa ngục, từ địa ngục ra, chịu thân súc sanh, dẫu được làm người, sáu ăn chẳng đủ, mù điếc, câm, ngọng, lùn xấu lưng gù, chịu thân người nữ, chẳng biết chữ Kinh. Nếu là thân nam, nhưng vì nghiệp ác, cho nên ngu si, căn tánh chậm lụt, chẳng thể chuyên đọc, Kinh Trường Thọ này, lòng sanh buồn rầu. Bởi buồn rầu nên gọi là tâm bệnh, do tâm bệnh nên, hiện đời mạng ngắn. Nếu có thể nhờ, bậc thiện tri thức, biên chép Kinh này, tự đem Kinh về, từ trước đến sau, một lòng tôn thờ, nhờ chí thành nên công đức vô lượng, nghiệp ác như trước, chẳng còn chịu lại, người này hiện đời, được mạng sống lâu.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, nếu có chúng sanh, sau khi chết mất, từ một ngày đến bốn mươi chín ngày, nếu vì người mất, mà gây dựng phước, công đức bảy phần, thì người mất chỉ hưởng được một phần. Nếu có thể khi người kia còn sống, trong bảy tuần nhựt, đình chỉ việc nhà, biên chép Kinh này, hoa hương cúng dường, thỉnh Phật hoặc Tăng, sắm sanh trai phạn, được những công đức, như cát sông Hằng, người ấy hiện đời, được dài thọ mạng, lìa hẳn nỗi khổ, trong ba đường ác. Nếu đã chết rồi, thì nhờ nơi phước, của cải chính thân người ấy gầy dựng, mà được bảy phần.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, rất nhiều chúng sanh, bất hiếu ngũ nghịch, không lòng nhân từ, đối với cha mẹ, không tình âu yếm, chỉ thờ bà con. Bấy giờ trên không, bốn vị Thiên vương, quanh khắp bốn châu, nhiều thứ âm nhạc, đem theo quyến thuộc, vào ba tháng chay, đến cõi Diêm phù, nếu có chúng sanh, bị ngang các bệnh, Thiên vương đi đường, vì trừ ác quỷ, khiến bệnh được lành. Song những con người, bất hiếu ngỗ nghịch, ganh tỵ tạo ác, Quỷ vương hành bệnh, liền lấy hơi độc, hà hơi cho bệnh, khiến bị các thứ, ôn dịch trầm trọng, hoặc nóng hoặc lạnh, sốt rét hằng ngày, bị độc tà ma, hoặc bị phong cùi. Nếu như có thể, một ngày trong năm, đốt hương rải hoa, thanh tịnh thân tâm, biên chép Kinh này, cho đến bảy ngày, thỉnh Phật, mời Tăng, trai tịnh đọc tụng, nhờ căn lành này, trọn không bệnh dịch không bị tật dịch, nên được trường thọ.

Lại nữa Văn Thù! ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, chúng sanh phước mỏng, bảy mặt trời hiện, giả sử không có, bảy mặt trời hiện ra, thì cũng có những vua chúa vô đạo, khiến trời nắng hạn, bao nhiêu cỏ thuốc, bụi rậm rừng già, trăm giống lúa má, mía nho hoa quả, từ đất có ra, đều bị khô chết. Nếu quốc vương nào hay các chúng sanh, có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này, thì các Long vương Nan đà và Bạt nan đà v.v… thương xót chúng sanh, từ nước biển lớn, xối xuống mưa ngọt, tất cả rừng già, trăm giống lúa mạ, cây cối thảo mộc, đều được tươi tốt, chúng sanh nhờ nơi, oai lực Kinh này, được dài thọ mạng.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, vào thời trược ác, hầu hết chúng sanh, đong lường dối trá, được của vô nghĩa, do tội nghiệp đó, chết vào địa ngục, từ địa ngục ra, chịu thân súc sanh, như loài trâu, lừa, voi, ngựa, heo, chó, dê, gà, chim, chóc, muỗi, ruồi, rận, kiến… Nếu có Bồ tát Ma ha tát, đem lòng Từ bi, đối với cầm thú, ruồi, kiến v.v… chuyên đọc Kinh này, qua tai của chúng, do oai lực Kinh, tùy loại giải thoát, những súc sanh đó, bỏ thân kia rồi, được vui sanh thiên. Nếu Bồ tát nào, không lòng Từ bi, chẳng thể diễn nói, về Kinh điển này, người ấy chẳng phải, đệ tử của Phật, là bạn của ma.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, về đời năm trược, hầu hết chúng sanh, lòng dạ khinh mạn, chẳng tin Kinh điển, chê bai Phật pháp, nếu những nơi nào, có người nói pháp, họ không lòng nghe. Do tội nghiệp đó, hiện đời đoản mạng, đọa các địa ngục. Nếu những chỗ nào, giảng nói Kinh này, những chúng sanh nào, có thể đến nghe, hoặc khuyên người khác, chia chỗ cho ngồi, người ấy chính là, rường cột của Phật, được vui trường thọ, chẳng qua đường ác. Vị Bồ tát muốn chuyển đọc Kinh này, thì nên thanh tịnh, thiết lập đàn tràng, tùy thất lớn nhỏ, đều được tất cả.

Lại nữa Văn Thù! Ta diệt độ rồi, tất cả người nữ, thân mang thai nghén, mà giết sanh mạng, ăn các trứng chim, vì không lòng từ, nên hiện đời bị, mạng sống ngắn ngủi, đến khi sắp sanh, lại bị sản nạn, do khó sanh mà có thể mất mạng, hoặc là oan gia, sanh đến báo thù. Hạng người nữ thọ, nếu phát nguyện rộng, biên chép Kinh này, liền khiến dễ sanh, không các tai chướng, mẹ con an vui. Muốn cầu con trai, muốn cầu con gái, tùy nguyện được sanh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi:

- Khi Ta nói Kinh Trường Thọ Diệt Tội, mười hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ, mà các Đức Phật quá khứ chung nói, nếu có chúng sanh, thọ trì đọc tụng, được nhiều phước lợi, hết tuổi của họ, sẽ đầy một trăm hai mươi, khi bỏ thân này, chẳng bị khổ vì, phong đao xẻ thân. Do vì Phật tánh, được thân thường hằng, Kim cang bất hoại, lóng trong thanh tịnh, của các Đức Phật, niệm niệm vững chắc, thường có Bồ tát, là Quan Thế Âm, và Đại Thế Chí, nương mây năm sắc, voi trắng sáu ngà, cầm đài hoa sen, đón người niệm Phật, sanh về cõi nước, của Phật A Súc, tự nhiên vui sướng, chẳng qua tám nạn.

Văn Thù nên biết, chúng sanh ngu si, chẳng biết chẳng hay, thọ mạng ngắn ngủi, như lửa nháng đá, như bọt trên nước, như ánh điện chớp. Sao lại trong ấy, chẳng kinh chẳng sợ? Sao lại trong ấy, ham nhiều tài lợi? Sao lại trong ấy, sanh lòng ghen tỵ, để rồi trôi dạt, trong biển sanh tử? Chỉ có chư Phật, các vị Bồ tát, mới đến bờ kia, chúng sanh phàm phu, quyết sẽ trầm luân. Quỷ vô thường đến, bất cứ lúc nào, dầu có vô lượng, vô biên vàng bạc, tiền tài châu báu, muốn đem chuộc mạng, không thể nào được. Chúng sanh cần phải, quán xét thân mình, rồi nghĩ như vầy:

Thân này cũng như, bốn con rắn độc, thường bị vô lượng, vi trùng rúc rỉa. Thân này hôi thúi, bị trói buộc trong, lao ngục tham dục. Thân này đáng ghét, dường như chó chết. Thân này chẳng sạch, chín lỗ thường chảy. Thân này như thành, La sát trong đó. Thân này chẳng bền, sẽ bị diều quạ, chó đói ăn nuốt. Hãy bỏ thân nhơ, cầu tâm Bồ đề.

Nên quán thân này, lúc bỏ mạng sống, mồ hôi toát ra, hai tay trống rỗng, đau đớn khó nhẫn. Lúc mạng căn dứt, một ngày, hai ngày cho đến năm ngày, sình chướng bầm tím, máu mủ chảy ra, cha mẹ vợ con, chẳng ưa nhìn thấy. Đến khi xương thân, rã ra trên đất, thì các lóng đốt, rơi rớt bừa bãi, xương tay, xương đùi, xương sườn, xương sống, xương đầu, xương sọ, mỗi cái mỗi nơi, da thịt ruột rà, gan, thận, tim, phổi, bị dòi rúc rỉa… Sao lại trong ấy, chấp càng có ngã? Bấy giờ, tất cả vàng bạc, ngọc ngà, tiền của, kho đụn, trong lúc sanh tiền, đâu còn quan hệ gì với ta nữa?

Nếu chúng sanh nào, muốn khỏi khổ ấy, thì chớ nên tiếc, nước thành vợ con, đầu mắt tủy não, biên chép Kinh này, thọ trì đọc tụng. Mười hai nhân duyên, là tạng bí yếu, của các Đức Phật, lưu thông cúng dường, thì trong mỗi niệm, sẽ thành tựu tâm Vô thượng Bồ đề, không một điều gì, có thể phá hoại, trọn chẳng chết non, vì nạn hoạnh tử.

Khi Đức Thế Tôn, ở giữa đại chúng, nói về giáo pháp “Mười hai nhân duyên, Phật tánh thường trụ” thì cả đại hội, các vị Tỳ kheo, và Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ, tám bộ trời rồng, hạng nhân phi nhân, vua Ba Tư Nặc, cùng các quyến thuộc, vô số đại chúng, đều giác ngộ tâm Vô thượng Bồ đề, chứng Vô sanh nhẫn, tất cả đều khen, là chưa từng có, một lòng đảnh lễ, hoan hỷ thực hành.

ĐỨC PHẬT NÓI KINH TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI HỘ CHƯ ĐỒNG TỬ ĐÀ LA NI

HẾT


QUY Y PHẬT LƯỠNG TÚC TÔN!
QUY Y PHÁP LY DỤC TÔN!
QUY Y TĂNG CHÚNG TRUNG TÔN!
trungtamtutam
Bài viết: 525
Ngày: 05/08/10 20:36
Giới tính: Nam
Đến từ: Tâm
Nghề nghiệp: “Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”

Re: Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni

Bài viết chưa xem gửi bởi trungtamtutam »

(GNO )LTS: Là một trong những bậc tôn túc dụng công hành trì và nghiên cứu chuyên sâu về giới luật, HT.Thích Minh Thông vừa được cung thỉnh làm Tuyên luật sư Đại giới đàn Huệ Lưu PL.2552 - DL.2008 của BTS THPG TP.HCM. Giác Ngộ đã có buổi tiếp chuyện Hòa thượng về những vấn đề liên quan đến giới trường, sự đắc giới và việc vâng giữ giới luật của Tăng Ni trẻ hiện nay.

PV: Khi sắp tịch diệt, Đức Phật đã khẳng định với hàng đệ tử rằng "Giới luật còn là Phật pháp còn”, phải chăng Ngài tiên liệu được sự hành trì của người xuất gia ở tương lai?

- Thực ra Đức Phật tiên liệu rất nhiều vấn đề trong các kinh luật liên quan đến giới luật chứ không chỉ riêng câu nói trong kinh Di Giáo. Có một thời gian, lúc vào trong cung thọ trai nhân lễ cúng cho vua cha của Ba Tư Nặc, Đức Phật có bảo La Hầu La rửa bình bát. Khi rửa, La Hầu La làm bình bát rơi và vỡ ra làm năm phần. Nhân sự kiện này, Đức Phật tiên đoán rằng sau khi Ngài nhập Niết bàn, giới luật chia ra năm bộ: Thập tụng, Tứ phần, Ngũ phần, Giải thoát giới và Ma tăng kỳ v.v.... Và sau này Ngài còn nói đến những vấn đề khác về mười điều phi pháp, về thời mạt pháp thông qua sự kiện A Nan thất mộng.

Riêng với câu nói trên, Đức Phật ngoài việc nhắc nhở người xuất gia xem trọng giới luật vì giới luật vẫn mãi là người thầy vĩ đại, Ngài còn cho thấy viễn cảnh phạm giới của một bộ phận Tăng Ni. Đây là một điều có thật và cần phải gióng lên một tiếng chuông cảnh tỉnh.

- Hòa thượng nhận xét ra sao về thực trạng hành trì giới luật của người xuất gia trẻ hiện nay?

- Đa số Tăng Ni trẻ hiện nay rất ham tu, hiếu học và tha thiết giữ giới nhưng vẫn thiếu môi trường tốt để nuôi dưỡng điều đó. Qua đó cho thấy trách nhiệm của chư tôn túc lãnh đạo Giáo hội và những người đi trước là rất quan trọng. Tôi luôn tha thiết mong muốn xây dựng lại một giới trường mà ở đó Tăng Ni trẻ phải được nuôi dưỡng tu tập để khỏi rơi vào cảnh "Tăng ly chúng Tăng tàn..." mà chư Tổ đã cảnh báo. Ngày xưa có Phật học viện nội trú và đã làm tốt công tác này, xây dựng cho người xuất gia một đời sống phạm hạnh đúng chuẩn mực.

l Phải chăng xã hội hiện đại làm cho người xuất gia trẻ khó nghiêm trì giới luật?

Hoàn cảnh của cuộc sống hiện nay làm cho người trẻ có xu hướng chạy theo học vị mà quên đi giới luật và các nếp sống thiền môn.
Do vậy, muốn vượt qua những cám dỗ, người xuất gia trẻ phải dụng công hết mực trong tu tập và luôn tâm niệm quay về các khuôn phép vốn có.

Nếu cùng ở trong các tu viện và nơi nội trú tập trung trẻ thì Tăng Ni sẽ hạn chế rất nhiều điều.

Ngoài ra người xuất gia trẻ cũng cần được dạy điều nào nên giữ miên mật, điều nào có thể được linh động mà theo thuật ngữ luật: khai, giá, trì, phạm.

- Tinh thần của giới luật ngày nay được hiểu như thế nào để phù hợp với trào lưu xã hội?

- Trong quyển 22 Bộ luật Ngũ phần, Đức Phật nói rất rõ những gì mà hiện nay thấy không phù hợp thì có thể lược bỏ đi, những gì thấy cần thiết thì có thể thêm vào. Nếu hiểu đúng tinh thần giới luật thì rất thoải mái đối với người hành trì. Có nhiều quan điểm cần thay đổi giới luật, theo tôi không quan trọng mà vấn đề hiện nay là phải hiểu cho phù hợp với hoàn cảnh và xem đó như gương soi của cuộc sống tu tập.

-Đâu là những yếu tố đảm bảo cho người cầu pháp được đắc giới trong một giới trường?

Điều quan trọng nhất vẫn là làm sao cho vô tác giới thể được phát sinh.

Có ba điều kiện mà bất cứ giới đàn nào cũng phải vun bồi để minh chứng cho sự thành tựu trong nhiệm vụ thiêng liêng này:

- Giới sư thanh tịnh,
- Dàn tràng trang nghiêm,
- Giới tử phải thể hiện sự phát tâm dõng mãnh, khát ngưỡng giới pháp.

Một khi trọn vẹn các phương diện này thì lúc đó vô tác giới thể sẽ hiển hiện với công năng làm tăng trưởng các điều thiện và dừng các điều ác (nhậm vận hành thiện, nhậm vận chỉ ác). Còn ngược lại, nếu không có vô tác giới thể thì bản thể Tỳ kheo sẽ không đủ điều kiện phát sinh.

Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến các thủ tục trong quá trình truyền giới. Theo ngài Trí Húc, khi truyền giới Tỳ kheo, có hai điều không thể sửa được:
Thứ nhất, chỉ cho tối đa ba giới tử vào một lần tấn đàn vì nếu 4 giới tử là đã thành Tăng;
Thứ hai, phải bạch Tứ yết ma.

Đối với truyền giới Sa di thì bao nhiêu giới tử vào tấn đàn vẫn không sao. Có thể nói đây là một quy định mà giới sư phải biết rõ.

- Giới tử cần phải làm những gì sau khi thọ giới?

- Trong Luật có dạy: thọ - học - hành trì. Do vậy khi thọ giới xong, tự thân mỗi giới tử cần phải học để biết điều nào là tánh giới, giá giới mà hành trì cho đúng. Tánh giới là vùng đất chết, phạm rồi thì không thể cứu được nên tuyệt đối phải giữ. Trong khi đó giá giới có thể linh động cho phù hợp với những thay đổi của xã hội. Chúng tôi cũng cần thông tin thêm là sau Đại giới đàn này, các Tăng Ni trẻ sẽ được giữ lại một tuần để chúng tôi hướng dẫn những điều cơ bản nhất về giới luật.

-Lời nhắn nhủ của Hòa thượng đối với các giới tử sắp đăng đàn thọ giới?

- Tôi tha thiết mong giới tử đã phát tâm thọ giới cần phải vâng giữ, xem giới như là một của báu. Chỉ có vâng giữ giới luật mới làm nên hình ảnh của người xuất gia, đóng góp vào việc xây dựng Giáo hội nói chung và cho bản thân nói riêng. Đức Phật luôn khẳng định một khi chư Tăng còn giữ giới luật thì Phật pháp sẽ mãi trường tồn.

-Chân thành cảm ơn Hòa thượng!


[color=#0000FF][b]“Tâm hiếu là tâm Phật,
Hạnh hiếu là hạnh Phật”
http://trungtamtutam.com/diendantuthien/[/b][/color]
Hình đại diện của người dùng
123456789
Bài viết: 170
Ngày: 06/06/09 21:16
Giới tính: Nam

Re: Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni

Bài viết chưa xem gửi bởi 123456789 »

Trích đoạn Kinh Trường Thọ Diệt Tội Chư Đồng Tử Đà La Ni:
Lành thay Điên Đảo! Ngươi về vô lượng số kiếp xa xưa, gieo các căn lành, nay Ta nhân lời ngươi khéo thưa hỏi, ân cần sám hối, tức được chuyển thành, pháp luân Vô thượng, hay độ vô biên, biển khổ sống chết, có thể chiến đấu, với ma Ba Tuần, có thế xô ngã, tràng phan dựng lập, của ma Ba Tuần. Ngươi hãy nghe kỹ, Ta sẽ nương theo, chư Phật quá khứ, nói về giáo pháp, Mười hai nhân duyên.

Vô minh duyên Hành, Hành duyên cho Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên cho Thọ, Thọ duyên cho Ái, Ái duyên cho Thủ, Thủ duyên cho Hữu, Hữu duyên cho Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não….

Nếu Vô minh diệt, ngay đó Hành diệt, Hành diệt tức Thức diệt. Thức diệt tức Danh sắc diệt. Danh sắc diệt tức Lục nhập diệt. Lục nhập diệt tức Xúc diệt, Xúc diệt tức Thọ diệt, Thọ diệt tức Ái diệt, Ái diệt tức Thủ diệt. Thủ diệt tức Hữu diệt. Hữu diệt tức Sanh diệt. Sanh diệt tức Lão, tử ưu bi khổ não diệt.


Điên Đảo nên biết! Tất cả chúng sanh, vì chẳng nhận ra, mười hai nhân duyên, do đó trôi lăn, trong biển sanh tử. Nếu có người nào, nhận ra diệu lý, mười hai nhân duyên, chính là thấy Pháp, thấy Pháp cũng chính là thấy Đức Phật, thấy Phật chính là thấy được Phật tánh.
Mười Hai Nhân Duyên
Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

Hình ảnh
Một đoạn trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh "... không vô mình hay diệt tận vô mình, cho đến không già chết hay diệt tận của già và chếr (vô vô mình diệc vô vô mình tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận.)" là nói đến Mười Hai Nhân Duyên. Mười Hai Nhân Duyên là lý do con người ờ trong chu kỳ sanh từ bất tận. Chuỗi Mười Hai Nhân Duyên bao gồm: Vô Minh là duyên (tạo điều kiện) cho Hành (hành động), Hành là duyên cho Thức, Thức là duyên cho Danh Sắc, Danh Sắc là duyên cho Lục Nhập (tức là sáu giác quan), Lục Nhập là duyên cho Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái (ưa thích, ham muốn), Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão Tử.

"Vô Minh" là gì? "Vô Mình" là sự thiếu hiểu biết . Trong ngôn ngữ hàng ngày thi gọi là " bị lẫn lộn". Nghĩa là quý vị không hiểu rõ cái thật. Vì quý vị bị lẫn lộn và không hiểu rõ nên mới có những sinh hoạt mê lầm sai trái. "Sinh hoạt sai lầm" trong ý nghĩa này là quý vị làm những điều mà đáng lý không nên làm. Những sinh hoạt sai lầm này đưa đến nhận thức giả tạo hay là ý thức. Ý thức dẫn đến lầm lẫn danh và sắc. Lầm lẫn danh sắc đưa đến lầm lẫn lục nhập. Bởi con người có sáu giác quan, dữ kiện bên ngoài đưa vào cơ thể và trí óc qua sáu giác quan này. Từ lầm lẫn thâu nhận của giác quan, khởi sanh lầm lẫn tiếp xúc. Khi có lầm lẫn tiếp xúc thì người ta muốn lầm lẫn cảm thọ. Từ lầm lẫn cảm thọ sanh ra lầm lẫn yêu thương hay ham muốn. Từ lầm lẫn ham muốn, nảy sanh lầm lẫn nắm bắt. Một khi có lầm lẫn nằm bất, thì có lầm lẫn thành. Từ lầm lẫn thành, người ta lại sanh. Từ sanh mà có già và chết.

Những nhân duyên này khởi đầu từ vô mình hay lầm lẫn. Vì con người mê lầm từ đầu, nên mê lầm đến cuối; họ mê lầm trôi lăn từ đời này đến đời kế, và đến đời kể họ vẫn lầm mê. “Mười Hai Nhân Duyên” bắt đầu từ trạng thái tâm mê muội, và giải thích nguyên nhân làm chúng ta mê muội. Tiếc thay, người đời thường không hiểu được đạo lý này. Trong khi thật sự “Mười Hai Nhân Duyên” dạy chúng ta rằng: "Chúng ta chết như thế nào là tùy thuộc vào cách sống của chúng ta.”. Không may, vì người đời không hiểu rõ, họ đã làm ngược lại đạo lý này. Kết quả là những vấn đề rắc rối của họ càng ngày càng lớn hơn đến nỗi họ mang thai. Lúc đó vấn để sẽ càng rắc rối hơn nữa khi thay vì sanh đẻ đứa bé, họ lại phá thai khi thai nhi chỉ mới được vài tháng.

Các dục vọng của con người, dù đó là ham muốn về thức ăn hay tình dục, do đâu mà ra? Tất cả đều là sản phẩm của vô mình. Vô mình chỉ là một tên khác của mê lầm. Khi niệm tưởng phát khởi, một mong muốn hành động liền theo sau. Vì có vô minh, nên có sinh họat tình dục. Những sinh họat tình dục mê lầm bắt nguồn từ trạng thái bị mê lầm, đây là "Vô Minh duyên Hành". Khi có hoạt động mê lầm thì ý thức mê lầm khởi sanh, và khởi sự tạo nên sự phân biệt mê lầm. Ý thức này còn được gọi là "thân trung ấm" (là thân hiện hữu trong khoảng giữa từ lúc chết đến khi có thân kể tiếp). Khi người đàn ông và đàn bà quan hệ tình dục, nếu thân trung ấm này có những nhân duyên liên hệ gia đình với hai người này, thì thân trung ấm này sẽ tìm cách sanh trở lại làm con của họ. Mối duyên ràng buộc giữa ý thức của thân trung ấm và hai người đang quan hệ tinh dục đó mạnh đến nỗi dù xa cả hàng ngàn hay hàng vạn dậm, và dù chỉ có một đốm sáng nhỏ nhoi phát ra bởi hai người lúc quan hệ tình dục, thân trung ấm sẽ thấy ánh sáng đó và sẽ đến chỗ hai người đó để trở thành bào thai trong lòng mẹ. Do đó mới nói rằng "Hành duyên Thức".

“Thức duyên Danh Sắc ". Câu này có nghĩa khi bào thai trở nên hiện hữu thì có "danh xưng và hình tướng". "Danh" chỉ bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức, trong khi sắc là nói đến sắc uẩn. Bốn trong năm uẩn (tức là thọ, tưởng, hành, thức) hiện hữu từ lúc trong lòng mẹ nhưng chỉ là những danh xưng; chưa thành hình. Khi hài nhi được sinh ra, tất cả năm uẩn (tức là danh và sắc) đều đầy đủ, sáu giác quan hay nơi để cảm nhận (mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác và ý) cũng vậy.

Đây gọi là “Danh Sắc duyên Lục Nhập". Sáu cơ quan cảm nhận nầy cùng với sáu đối tượng của cảm nhận (hình sắc, âm thanh, mùi vị, cảm giác xúc chạm, và đối tượng tâm thức) là khởi sanh ý thức về cái thấy, cái nghe, mùi, vị, xúc chạm và ý nghĩ. Khi tất cả sáu cơ quan cảm nhận hiện hữu đầy đủ, đứa bé bắt đầu biết liên hệ tiếp xúc với ngọai cảnh Vì thế, nên mới nói: "Lục Nhập duyên Xúc". Sau khi có sự tiếp xúc, đứa bé bắt đầu có cảm giác thọ nhân tiếp xúc; ví thế "Xúc duyên Thọ". Khi có cảm thọ, lòng yêu thích phát khởi (như là ưa thích hoàn cảnh vui sướng dễ chịu, và ghét hoàn cảnh không vừa ý). Vì thế, "Thọ duyên Ái (ưa thích)”. Sau khi sự ưa thích khởi sanh, đứa bé mong muốn để tìm kiếm và nắm bắt những gì nó thích. Vì thế " Ái duyên Thủ (nắm bắt)". Sau khi đã sở hữu cái mình ham muốn, việc nắm bắt sở hữu nầy đưa đến sự hình thành (trong dục giới, sắc giới hay vô sắc giới). Vì thế gọi là "Thủ duyên Hữu". Bước kế tiếp là " Hữu duyên Sanh "; nghĩa là do sự nắm bắt và bám chấp, lại có sự tiếp tục tái sinh. Sau cùng " Sanh duyên Lão Tử (già và chết)". Sau khi Sanh thì sẽ đến Già và Chết . Toàn bộ diễn trình này là vòng quay "Mười Hai Nhân Duyên”.

Nếu không có Vô Minh thì sẽ như thế nào? Thì sẽ không có Hành (sinh hoạt). Nói một cách khác, khi Vô Minh bị tiêu diệt, thi Hành bị tiêu diệt. Khi Hành bị tiêu diệt thì Thức bị tiêu diệt. Khi Thức bị tiêu diệt thi Danh Sắc bị tiêu diệt. Khi Danh Sắc bị tiêu diệt thì Lục Nhập bị tiêu diệt. Khi Lục Nhập bị tiêu diệt thi Xúc bị tiêu diệt. Khi Xúc bị tiêu diệt thi thì Thọ bị tiêu diệt. Khi Thọ bị tiêu diệt thì Ải bị tiêu diệt. Khi Ải bị tiêu diệt thị Thủ bị tiêu diệt. Khi Thủ bị tiêu diệt thì Hữu bị tiêu diệt. Khi Hữu bị tiêu diệt thì Sanh, Lão và Tử đều bị tiêu diệt. Đó là cách để chấm dứt chu kỳ Mười Hai Nhân Duyên. Do đó mới nói rằng: “Không vô minh tận vì tự tánh không”.

Khi tất cả mười hai nhân duyên liên hệ lẫn nhau nầy ngưng hiện hữu thì giống như bầu trời trong vắt xa thắm vạn dậm, giống như ánh trăng vằng vặc phản chiếu trên mặt nước trong. Nếu quý vị thật sự hiểu thấu đáo “Mười Hai Nhân Duyên” thì sẽ thấy giống như uống nước, khi quý vị khát nước và uống nước vào, thì quý vị sẽ tự mình biết được là nước đó nóng hay lạnh. Nếu quý vì không thật sự dụng công để tu hành và tỉnh ngộ hiểu được đạo lý “Mười Hai Nhân Duyên” thì thật vô dụng dù cho quý vị có nói rằng “Ồ, Mười hai nhân duyên là tất cả đều không, không, không!".


QUY Y PHẬT LƯỠNG TÚC TÔN!
QUY Y PHÁP LY DỤC TÔN!
QUY Y TĂNG CHÚNG TRUNG TÔN!
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.18 khách