Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHỈ PHÁP THÂN CHƠN PHẬT BÌNH ĐẲNG BẢN TẾ
Có 7 phần

1 - ĐẠI HUỆ THƯA HỎI VỀ 6 CHỖ NGHI

Bồ tát Đại Huệ lại bạch Phật :
- Thế Tôn! Thế Tôn thọ ký cho A La Hán được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cùng chư Bồ tát không sai biệt ?
- Tất cả pháp chúng sanh không đến Niết bàn, ai đến Phật đạo ?
- Từ khi mới thành Phật cho đến vào Niết bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp ?
- Vì Như Lai thường định, cũng không suy nghĩ, không xét nét, do hóa Phật làm Phật sự ?
- Cớ sao biết hoại tướng sát na lần lượt ?
- Kim Cang lực sĩ thường theo hộ vệ, tại sao chẳng chỉ thẳng bản tế, mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo ác nghiệp, Chiên giá Ma nạp, con gái Tôn đà Lợi, không bát mà về, ác nghiệp chướng hiện . Tại sao Như Lai được nhất thiết chủng trí mà chẳng lìa các lỗi ấy ?



Ý hỏi có sáu nghi vấn. Quyển kinh này cùng các kinh khác nói pháp thân Phật nói cùng hóa thân Phật nói dường như có khác nhau, nên muốn phát minh.
- Nghi thứ nhất là nhị thừa tự mình Niết bàn, không thể thành Phật, cớ sao Như Lai lại vì nhị thừa thọ ký cùng Bồ tát không khác ?
- Nghi thứ hai : Chúng sanh do bởi vọng tưởng nên chẳng giác tự tâm hiện ra, tại sao Như Lai nói “Tất cả chúng sanh đã Niết bàn rồi, không lại Niết bàn”, đã thành Phật rồi thì ai đến Phật đạo ?
- Nghi thứ ba : Như Lai phân bộ tam thừa, cớ sao lại nói đêm ấy thành Phật, đêm ấy vào Niết bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói, không dạy?
- Nghi thứ tư : Như Lai nếu thường ở trong định không suy nghĩ, không xét nét , do các hóa Phật làm những việc gì ?
- Nghi thứ năm : Tất cả chúng sanh đã thành Phật rồi,cớ sao lại nói thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng phải nhơn Niết bàn sát na lần lượt hoại ?
- Nghi thứ sáu : Như Lai lập tự thông, an trụ bản tế không có chướng ngại, lìa các lỗi lầm, cớ sao lại nói Kim Cang hộ vệ, sao chẳng chỉ thẳng bản tế mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo, các thứ lỗi lầm ?

GHI CHÚ
Ma là : Phật ngồi đạo tràng, ma quân đến quấy nhiễu
Ma nghiệp là : Phật thị hiện trong cung mười năm thọ dục
Chiên giá Ma nạp là : con gái Bà la môn dùng chậu gỗ úp lên bụng cột lại để vu báng Phật tư thông với thị
Con gái Tôn đà Lợi là :Tôn đà Lợi giết con gái đem chôn trong đất già lam để vu báng Phật phạm dâm sát.
Ác nghiệp chướng hiện là :Ở trong thôn Bà Lợi Na, Phật khất thực ôm bát về không và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau, cây đâm ở chân, hầm lửa, cơm độc, các thứ báo hiện


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2 - TRỪ NGHI THỌ KÝ A LA HÁN

Phật bảo Đại Huệ : Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói.
Đại Huệ bạch Phật : Lành thay Thế Tôn! Xin vâng thọ giáo.
Phật bào Đại Huệ : Vì vô dư Niết bàn nói dẫn dụ tiến lên hành hạnh Bồ tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu Bồ tát hạnh ưa Niết bàn của Thanh văn thừa, vì khiến lìa Thánh văn thừa tiến đến Đại thừa, nên hóa Phật thọ ký cho Thanh văn, chẳng phải pháp Phật.
Đại Huệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác chư Phật Như Lai phiền não chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt.
Đại Huệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngã, thù thắng y thanh tịnh. Phiền não chướng là trước tập thấy nhơn vô ngã dứt, thất thức diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng tập khí cứu cánh thanh tịnh.


Đây là nghi vấn thứ nhất về thọ ký A La Hán. Thọ ký A la Hán có ba nghĩa
- Một là sách tiến nhị thừa được vô dư Niết bàn
- Hai là dẫn dụ nhị thừa phát tâm Bồ tát
- Ba chỉ Bồ tát cõi này, cõi khác chẳng rơi vào thiền lạc của nhị thừa.
Đây là hóa Phật quyền dẫn, chẳng phải Phật pháp nói. Lại phân biệt nhị thừa, Bồ tát khác cùng chẳng khác ; Vì trí chướng chưa đoạn nên cùng Bồ tát khác. Nhị thừa không thấy pháp vô ngã, nên trí chướng chẳng đoạn; mà tập khí đã khởi kiến phần của thức thứ bảy (chấp ngã), ở trong tam giới, tánh nhiếp thủ đã lìa, nên phiền não chướng đoạn; mà chỗ nương của thất thức là tập khí nội ngã vẫn chưa trừ diệt. Ngã này một phen diệt thức tàng tập khí thân chuyển, liền được cứu cánh thanh tịnh. Cho nên biết tam muội lạc trụ của Thanh văn sẽ được thân tối thắng của Như Lai.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3 - TRỪ NGHI CHẲNG NÓI MỘT CHỮ :

Vì bởi pháp bản trụ trước sau vô tánh.


Đây là cái nghi thứ ba: không nói một chữ.
Bản trụ là bản tánh thường trụ, có Phật hay không có Phật, pháp nhĩ như thế, không có xưa nay, không có nói dạy, nên nói “trước sau phi tánh”. Chữ tánh tức là pháp. Nghĩa là trước sau chỉ một bản trụ, không một pháp có thể được.

4 - TRỪ NGHI KHÔNG SUY NGHĨ, KHÔNG XÉT NÉT

Vì bổn nguyện vô tận, Như Lai không nghĩ, không xét, mà diễn nói pháp, vì chánh trí hóa, vì niệm chẳng vọng, nên không nghĩ không xét. Vì tứ trụ địa và vô minh trụ địa tập khí đã đoạn, hai thứ phiền não đoạn, lìa hai thứ tử, giác nhơn, pháp và ngã vô hai chướng đoạn.


Đây đáp nghi thứ tư, không nghĩ không xét. Như Lai không nghĩ không xét mà diễn nói pháp, do chánh trí hóa, chẳng phải vọng niệm hóa. Cho nên tuy hóa Phật làm ra mà đều lìa nghĩ, xét, nên nói “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loại, mỗi loại được hiểu. Song Như Lai thật không có tâm tùy loài, ấy là do các loài có duyên khác mà mỗi loài thấy khác”.
Ngũ trụ, hai tử, hai phiền não, hai chướng, năm thứ tập này Như Lai đã đoạn từ lâu, nên được thường định, không nghĩ. Chỉ do bổn nguyện thị hiện có hóa tác,tùy chỗ cảm hiện, như trăng trong nước.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5 - TRỪ NGHI : CHÚNG SANH THÀNH PHẬT TỨC SÁT NA HOẠI

Đại Huệ! Tâm ý, ý thức, nhãn thức v.v… có bảy là nhơn tập khí sát na, lìa phẩm thiện vô lậu, chẳng lại luân chuyển.
Đại Huệ! Như Lai tàng là luân chuyển, là nhơn khổ vui Niết bàn, kẻ huệ không loạn ý mà phàm phu ngu si không thể giác được.


Đây là tổng đáp nghi thứ hai : chúng sanh thành Phật, và nghi thứ năm : thức sát na hoại.
Tâm ý, ý thức + (nhãn, nhĩ, tỵ thiệt, thân) thức, sở dĩ nói sát na vì lấy vô minh tập khí làm nhơn, trái với vô lậu giác, vọng chấp là ngã thể. Thể này chẳng thật, sát na biến diệt, chẳng theo lưu chuyển. Thế nên tất cả chúng sanh tuy ở trong sinh tử mà không có sinh tử khá được. Nếu đứng về Như Lai tàng mà nói, tuy hiện lưu chuyển mà có nhơn khổ vui, Niết bàn. Phàm phu chấp trước bị khổ vui che đậy, chẳng biết hay thọ khổ vui cùng chứng Niết bàn, tánh nó không hai. Nhị thừa đối trị phàm phu diệt cái thọ khổ vui, lại bị cái “không” làm loạn, bỏ nhơn khổ vui, riêng thủ Niết bàn, mà chẳng biết tự tánh niết bàn, đồng gọi là bất giác.
Giác thì liền đó chứng biết, lại không riêng có, thất thức sát na, chúng sanh thành Phật vốn chẳng ngại nhau.

(Bản dịch này nói tâm ý, ý thức và năm thức thân. Còn bản dịch đời Đường nói ý, ý thức và năm thức thân, đều nói bảy thức không lưu chuyển. Song bản dich này nói kèm tâm là riêng để hiển bày Như Lai tàng không hoại chơn tướng, nên nói “chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt, vì chỉ si diệt tâm, tướng theo đó mà diệt” cũng chẳng phải không có ý chỉ).

Tóm lại thức thứ bảy vốn chấp kiến phần của thức thứ tám làm thể, nên nói bảy thức sát na thì phải nghĩ đến tâm tướng của tám thức sát na.
Nói Như Lai tàng phi sát na mà bảo nhơn khổ vui. Phàm thọ khổ vui hẳn do phân biệt. Thế thì sáu thức sát na cũng tức có nghĩa phi sát na.
Mới biết mê thì chỉ vọng giác làm sát na, nên nói “thất thức chẳng luân chuyển”. Ngộ thì chỉ chơn tướng phi sát na, nên nói “Như Lai tàng là nhơn khổ vui, niết bàn”. Song mà, thất thức tức là bát thức, bát thức tức là ngũ thức, lục thức. Đây hoại và chẳng hoại chung nhau làm nhơn, thảy do mê ngộ, chẳng phải thật có nhiều thể.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

6 - TRỪ NGHI KIM CANG HỘ VỆ VÀ TẤT CẢ NGHIỆP BÁO

Đại Huệ! Kim Cang lực sĩ theo hộ vệ ấy là hóa Phật, chẳng phải chơn Như Lai. Đại Huệ! Chơn Như Lai lìa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc, vì trụ vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim cang lực sĩ hộ vệ.
Tất cả hóa Phật chẳng từ nghiệp sanh. Hóa Phật là : chẳng phải Phật, chẳng lìa Phật. Nhơn thợ gốm, bánh xe v.v… chúng sanh tạo ra hình tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông, nói cảnh giới tự giác
.

Đoạn này và đoạn sau đều đáp nghi thứ sáu : Kim cang hộ vệ và tất cả nghiệp báo bệnh chung. Chơn Phật dựng lập tự thông, chỉ thẳng cảnh giới tự giác cho chúng sanh, lìa tất cả căn lượng phàm phu, nhị thừa , được hiện pháp lạc trụ, trí nhẫn vô gián, chẳng phải chỗ Kim cang hộ vệ.
Kim cang hộ vệ là chỉ hóa Phật. Hóa Phật duy nương bi nguyện đối hiện sắc thân , như trăng trong nước, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải từ nghiệp sanh nên không có lỗi của nghiệp, tất cả thị hiện chỉ vì chúng sanh.
Thợ gốm dùng bánh xe (bàn xoay), đất, nước tạo thành các món đồ, mỗi món thích hợp với chỗ dùng, là để dụ tùy cơ ứng hiện, chẳng có tâm tạo.

Lại nữa Đại Huệ! Kẻ ngu thất thức thân diệt rồi khởi đoạn kiến, vì chẳng giác thức tàng khởi thường kiến, vì tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế.
Tự vọng tưởng huệ diệt nên được giải thoát . Vì tứ trụ địa, vô minh trụ địa tập khí đoạn hết nên tất cả lỗi đoạn.


Đây cũng đáp về cái nghi thứ sáu, đặc biệt nói rõ bản tế không có lỗi lầm, vì phàm phu chẳng giác, vọng thấy sai biệt mà thôi. Thất thức thân nếu diệt liền hay liễu đạt bản tế, chẳng khởi đoạn kiến. Đây nói thất thức diệt chính là quán sát lưu trú niệm niệm chẳng dừng, chẳng giác tự tâm nên khởi đoạn kiến. (Bản dịch đời Ngụy, đời Đường đều nói “lục thức” cũng đồng ý này). Nhơn mê Như Lai tàng mà có tàng thức, nếu lìa thức tìm tâm liền thuộc nhị thừa thiên chơn (chơn chênh lệch), nếu tức nơi thức cho là tâm lại rơi vào ngoại đạo chấp tác giả. Đây do chẳng rõ thức tàng, làm là chơn thật, tự vọng tưởng thấy, chẳng biết bản tế.
Vọng tưởng nếu diệt thì ngũ trụ tập khí một lúc liền đoạn, tức là tất cả lỗi dứt, đâu còn có các thứ nghiệp báo. Cho nên biết, mê Như Lai tàng làm thức tàng liền tùy thuận vọng tưởng là bản tế sanh tử, chẳng giác, chẳng biết. Nếu rõ thức tàng tức Như Lai tàng thì tùy thuận chánh trí là bản tế niết bàn, không nhiễm, không nhơ. Đã có thị hiện đều vì chúng sanh, chẳng phải dựng lập tự thông, cảnh giới tự giác.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

7 - KỆ TỔNG ĐÁP

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :

Tam thừa cũng phi thừa …………………Như Lai chẳng diệt mất
Tất cả Phật đã ghi…………………………Nói lìa các lỗi ác
Vì các trí vô gián…………………………..Và vô dư niết bàn
Dẫn dụ các hạ liệt…………………………Thế nên nói ẩn náu.
Trí chư Phật đã khởi …………………….. Tức phân biệt nói đạo
Các thừa chẳng phải thừa………………. Kia ắt phi niết bàn
Dục sắc hữu và kiến………………………Nói là tứ trụ địa
Chỗ khởi của ý thức……………………… Nhà thức chỗ ở ý.
Ý và nhãn thức thảy……………………… Đoạn diệt nói vô thường
Hoặc khởi chấp niết bàn………………… Mà vì nói thường trụ


Tam thừa cũng phi thừa, Như Lai chẳng diệt mất, chính hai câu này đã đáp hết sáu cái nghi. Nghĩa là Như Lai tự giác không có tướng thừa, chẳng vào niết bàn, vốn tự thanh tịnh, không có các cấu ác. Nếu hay liễu đạt lại không có nói gì khác.
Chúng sanh hạ liệt không tin được chỗ này, nên Như Lai nói có chánh trí, nói có niết bàn, trước vì dẫn dụ họ tiến lên, về sau mới chỉ mật ý này. Nghĩa là Như Lai đã được nhất thiết chủng trí phân chia diễn nói, lại không có ý riêng. Chỉ nói chẳng phải thừa và chẳng phải niết bàn khiến họ tự tin, tự chứng mà thôi.
Nếu chỉ đoạn diệt tứ trụ nói là niết bàn thì đây không phải thường trụ. Như Lai nói chẳng phải thừa, chẳng phải niết bàn, bản tánh thanh tịnh thường tự tịch diệt, nên nói thường trụ.
Ý thứ bảy y thức thứ tám mà khởi, tức do thức thứ tám mà trụ, chẳng lấy thức thể chuyển biến làm cứu cánh, mà lấy ý, ý thức và năm căn thức tam thấy dừng diệt, khởi tưởng niết bàn, đồng với đoạn diệt, chỉ tăng trưởng tà kiến.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NHƯ LAI CHÁNH NHƠN CHÁNH QUẢ, CỨU CÁNH THANH TỊNH.
Có 4 phần.

1 - ĐẠI HUỆ THỈNH HỎI TỘI PHƯỚC ĂN THỊT VÀ CHẲNG ĂN THỊT

Bồ tát Đại Huệ dùng kệ hỏi Phật :

Chư Bồ tát kia thảy………………………. Chí cầu Phật đạo ấy
Rượu thịt cùng với hành………………… Ăn uống là thế nào ?
Cúi mong Vô thượng tôn………………… Thương xót vì diễn nói.
Kẻ ngu chỗ tham đắm…………………….Nhơ hôi không tốt đẹp
Chỗ ưa thịt, cọp sói………………………. Làm sao mà nên ăn ?
Kẻ ăn sanh các lỗi……………………….. Chẳng ăn là phước lành
Cúi xin vì con nói…………………………. Tội phước ăn, chẳng ăn.


Bồ tát Đại Huệ nói kệ rồi lại bạch Phật : Cúi mong Thế Tôn vì chúng con nói lỗi ác ăn thịt và công đức chẳng ăn thịt. Con và chư Bồ tát ở hiện tại, vị lai sẽ vì chúng sanh có các thứ hy vọng ăn thịt phân biệt nói pháp, khiến chúng sanh kia từ tâm đến nhau, được từ tâm rồi mỗi người trụ địa thanh tịnh sáng tỏ, chóng được cứu cánh Vô thượng Bồ đề. Hàng Thanh văn, Duyên giác nơi địa vị của mình dừng nghĩ rồi cũng được chóng thành Vô thượng Bồ đề. Các chúng ngoại đạo pháp ác, tà luận, tà kiến, đoạn - thường, điên đảo chấp trước, còn có pháp ngăn không cho ăn thịt, huống là Như Lai cứu hộ thế gian, chánh pháp thành tựu mà ăn thịt sao ?

Theo cổ chú nói “Như Lai ở trong cung quỉ vương nói pháp, các chúng dạ xoa v.v… nhớ giờ ăn đã đến, chẳng phải thịt thì không ăn được. Đại Huệ vì muốn các quỉ vương sanh từ tâm, nhơn đó thỉnh Như Lai nói lỗi ăn thịt”. Đây vẫn tùy căn cơ chúng sinh, song dùng con đường chơn chánh của Như Lai. Ở trong kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm, nghĩa ba thứ lớp rất nên lẫn nhau chứng minh.
“Năm mươi ấm ma cho đến chấy sắc ấm tiêu, thọ ấm minh bạch, ở trong minh ngộ được tánh hư minh, trong ấy bông nhiên hướng về chỗ hằng diệt, bác không nhơn quả, một bề vào không, không tâm hiện tiền thì không có ma vào trong tạng phủ, bèn che người trì giới là Tiểu thừa”. Bood tát ngộ không có gì là trì là phạm. Người ấy thường đến nhà tín tâm đàn việt uống rượu, ăn thịt, làm việc dâm uế. Bởi sức của ma nhiếp phục người ở trước nó chẳng sanh nghi ngờ, chê bai. Quỉ nhập tâm đã lâu, hoặc ăn phẩn uế cùng rượu thịt như nhau một loại đồng là không, phá luật nghi của Phật, lầm vào tội lỗi, mất hết chánh định, sẽ theo trầm luân”.
Lời răn dạy của Phật rất thâm nghiêm, người biết pháp phải kinh sợ. Ngày nay đã suy muốn xem thường lời dạy ấy. Lại có người cho thừa gấp giới hoãn để mặc tình miệng dùng, các thứ phá hoại chẳng dừng ăn thịt , là đáng thương vậy. Lại trong Bồ tát giới nói “Khởi một niệm sân làm chướng chúng sanh, hay đoạn chủng tánh, cũng như giết ăn”. Người có chí với đạo phải hộ chánh kiến, chớ bị tà mê.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2 - CHỈ ĂN THỊT NHIỀU LỖI

Phật bảo Đại Huệ : Lành thay! Lành thay! Lắng nghe, lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, tôi sẽ vì ông nói.
Đại Huệ bạch Phật : Xin vâng thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ : Có vô lượng nhơn duyên không nên ăn thịt. Nay ta sẽ vì ông lược nói.
Tất cả chúng sinh từ trước đến nay, nhơn duyên lần lượt làm lục thân, vì tưởng người thân, không nên ăn thịt
.

Thường làm lục thân là đức Phật khuyên chúng ta từ hiếu, răn nhắc thiết tha. Là Phật tử vì hiểu sâu muôn vật một thể, tuy ở trong loài khác còn nghĩ độ thoát, đâu thể vì thân mạng mình, buông lung miệng, bụng phóng ý giết hại, đã nghe đời trước mà không thể động lòng thương xót ư ? Chính hiện tại đồng loại rất thiết tha hòa kính, sao chưa nghĩ về sau mà xem hiện nay ?
Pháp thời gần cuối, nhóm người học Phật phần nhiều thấy theo quyến thuộc của ma. Rất mong cùng thiên hạ đủ chánh tri kiến, kính giữ lời dạy của Phật để làm mẫu mực cho đời sau. Dùng một niệm này ngưỡng đối ba đời Như Lai ở trong đại quang minh.
( từ vô thỉ đến nay chúng sinh thường làm lục thân tức là làm cha mẹ, con cháu, vợ chồng của nhau, nay vì nhơn duyên sanh vào loài khác, nỡ nào ăn thịt lẫn nhau).

Thịt lừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v… vì người hàng thịt bán lẫn lộn, chẳng nên ăn thịt.
Vì phần hơi chẳng sạch được sanh trưởng , chẳng nên ăn thịt, vì chúng sanh ngửi mùi thảy kinh sợ như Chiên đà la và Đàm bà v.v… chó thấy oán ghét, sợ hãi sủa vang, chẳng nên ăn thịt.


Bán lẫn lộn là : vì không phân biệt được thịt người hay thịt thú , máu thịt giống nhau.
Chẳng sạch là máu mủ chẳng sạch. Những người sạch sẽ còn chẳng gần gũi ô uế, huống là ăn nuốt.
Đến như tâm sợ chết thì người vật nào khác nhau. Người quân tử còn có tâm không nỡ làm chúng sanh sợ sệt. Nếu có lòng sát hại thì còn không bì kịp người ngoài đời, huống là có thể xưng pháp khí gánh vác đạo lý sao ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lại vì khiến người tu hành từ tâm phát sanh, chẳng nên ăn thịt.
Kẻ phàm ngu tham đắm đồ ăn hôi hám, bất tịnh, không được tiếng tốt, chẳng nên ăn thịt.
Vì khiến chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt
Vì người sát sanh thấy hình, khởi thức đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt.
Vì người ăn thịt kia chư thiên bỏ đi, không nên ăn thịt
Vì khiến miệng hôi hám, không nên ăn thịt.
Vì nhiều mộng dữ, không nên ăn thịt
Vì ở rảng rang trong rừng, cọp sói ngửi mùi, chẳng nên ăn thịt
Vì khiến ăn uống không tiết độ, không nên ăn thịt.
Vì khiến người tu hành chẳng sanh nhàm lìa, không nên ăn thịt.
Ta thường nói rằng : phàm có ăn uống nên khởi tưởng như ăn thịt con, khởi tưởng như uống thuốc, không nên ăn thịt.
Cho ăn thịt hẳn là vô lý vậy
.

Thấy hình khởi thức đó, hình là hình thịt, thức là thức tâm. Nghĩa là tập lâu khiến thức tâm biến đổi, chìm sâu trong ô nhiễm.
Chư thiên bỏ đi là chư thiên không còn hâm mộ, bỏ đi
Khiến người tu hành chẳng sanh nhàm lìa là : Đệ tử trong pháp của ta, nếu chẳng dứt ăn thịt mà hay khiến tất cả phát tâm tu hành, thì họ không sanh tưởng nhàm lìa.
Phàm có ăn uống là: đối với sự ăn uống khác xa lìa tham đắm, còn phải khởi tưởng ăn thịt con, khởi tưởng uống thuốc, chẳng nên ăn thịt.
Chẳng nên ăn thịt đâu lẽ lại cho ăn thịt, vô lý.

Lại nữa, Đại Huệ! Thuở xưa có ông vua tên Sư tử Tô Đà ta ăn các thứ thịt cho đến thịt người, thần dân chịu không nối liền sắp mưu phản, dứt hết bỏng lộc. Bởi ăn thịt có những lỗi như thế, chẳng nên ăn thịt.

Phàm người sát sanh chịu quả báo ở địa ngục. Ở đây nói hiện đời vẫn thuộc về hiện báo.

Lại nữa Đại Huệ! Các người sát sanh là vì tài lợi, kẻ hàng thịt sát sanh buốn bán, những chúng sanh ngu si ăn thịt kia lấy tiền làm lưới mà bắt các thứ thịt. Người sát sanh hoặc do tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt những chúng sanh thủy, lục, không hành, các thứ, giết hại đem bán cầu lợi.
Đại Huệ! Cũng không có chẳng dạy, chẳng cầu, chẳng tưởng mà có thịt cá. Bởi những nghĩa ấy chẳng nên ăn thịt
.

Không có chẳng dạy, chẳng cầu, chẳng tưởng là :
Ở đời có người ăn thịt mới có người bán thịt , tức là dạy người khác giết.
Dùng tiền của để lưới các thứ thịt là cầu,
Thấy hình khởi thức là tưởng
Chưa bao giờ có, trừ ba thứ ấy mà được thịt cá, nên chẳng ưng ăn thịt


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3 - CHỈ THẬT NGHĨA KINH NÀY TẤT CẢ ĐỀU DỨT.

Đại Huệ! Ta có khi nói ngăn năm thứ thịt, hoặc cấm mười thứ. Nay ở kinh này tất cả thứ, tất cả thời mở bỏ phương tiện, tất cả thảy đều dứt.
Đại Huệ! Như Lai ứng cúng Đẳng chánh giác còn không có ăn, huống là ăn thịt, cũng không dạy người. Bởi vì lòng đại bi đi trước nên xem tất cả chúng sanh ví như con một, thế nên chẳng cho được ăn thịt con
.

Năm thứ thịt là : Chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng nghi, chim ăn còn dư, tự chết.
Cấm mười thứ là : Thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chồn, heo, chó, sư tử, khỉ.
Hai thứ này khai hay ngăn ?Khi đức Thế Tôn mới thành Phật, vì cơ duyên chưa thành thục, vì lòng thương xót, nên tạm cho ăn, song đều do thần lực hóa ra, không có sanh mạng. Đến trong kinh này mới bày nghĩa thật, tất cả đều dứt vậy. Xem tất cả chúng sinh như con một nên chẳng cho ăn thịt con.
Thế Tôn dạy người lấy đồng thể làm thiết yếu , đáng gọi là đến cùng tột. Song dùng lý luận thì đồng một bản trụ , hình mạo tuy khác mà tri giác là đồng.Người chẳng đến nỗi mê say nên xem xét kỹ.

4 - TỔNG KẾT : CHỈ RÕ LỖI TU HÀNH

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :

Thảy từng làm thân thuộc………………. Thô nhơ lẫn bất tịnh
Do bất tịnh sanh trưởng…………………. Nghe mùi thảy kinh sợ
Tất cả thịt cùng hành…………………….. Và các thứ tỏi, nén
Các thứ rượu buông lung……………….. Tu hành thường xa lìa
Cũng thường lìa dầu mè………………… Cùng các giường thủng lỗ
Bởi các trùng nhỏ kia……………………. Ở trong rất sợ hãi.


Hành, hẹ, tỏi, nén ăn sống thì sanh sân, ăn chín thì tham dâm, nên phải đồng dứt. Cổ chú nói “Phong tục ngoại quốc đâm mè chờ đến có trùng, cùng Trung Hoa khác vậy”.
Giường có lỗ hở có nhiều trùng ẩn, nằm ngồi nó kinh sợ. Phật từ bi đến thế, ta đâu không sanh hổ thẹn ?

Ăn uống sanh buông lung ……………… Buông lung sanh vọng giác
Từ giác sanh tham dục………………….. Thế nên chẳng ưng ăn
Do ăn sanh tham dục……………………. Tham khiến tâm say mê
Say mê lớn ái dục ……………………….. Sanh tử không giải thoát.


Đây xét các thứ ăn uống khác, nếu tham đắm mùi vị đều hay khiến người thân tâm buông lung, nhiều thứ giác tưởng, tột đến tham dục say mê, triền miên sanh tử. Chỉ do miệng, bụng một niệm theo tình nhơn nhỏ mà quả to, đâu không nên dè dặt ?

Vì lợi giết chúng sanh……………………. Dùng của lưới các thịt
Cả hai đều ác nghiệp……………………. Chết đọa ngục khiếu hô.
Nếu không dạy tưởng cầu ……………… Ắt không ba tịnh nhục
Kia đâu không nhơn có………………….. Thế nên chẳng ưng ăn.
Các người tu hành kia ………………….. Do đó thảy xa lìa
Mười phương Phật Thế Tôn……………. Tất cả đều quở trách.
Lần lượt lại ăn nhau……………………… Chết sanh loài hổ lang
Hôi nhơ đáng chán ghét…………………. Chỗ sanh thường ngu si.
Nhiều đời làm chiên đà………………….. Giống thợ săn Đàm bà
Hoặc sanh Đà di ni………………………. Và các dòng ăn thịt.
La sát, mèo, chồn thảy………………….. Khắp trong ấy sanh ra
Phược tượng cùng Đại vân…………….. Ương Quật , Lơi ma la
Và kinh Lăng Già này……………………. Ta đều cấm ăn thịt.


Đà di ni là tên La sát nữ.
Phược tượng, Đại Vân Ương Quật, Lợi ma la đều là tên kinh.

Chư Phật và Bồ tát………………………..Thanh văn chỗ quở trách
Ăn rồi không hổ thẹn………………………Đời đời thường si tối
Trước nói thấy, nghe, nghi……………….Đã dứt tất cả thịt
Vọng tưởng chẳng giác biết…………….. Nên sanh chỗ ăn thịt
Như lỗi tham dục kia ……………………..Chướng ngại giải thoát thánh
Rượu thịt, hành, tỏi, nén…………………Thảy là chướng thánh đạo
Chúng sanh đời vị lai……………………. Nơi thịt ngu si nói
Rằng đây tịnh không tội…………………. Phật cho chúng ta ăn
Ăn tưởng như uống thuốc………………. Cũng như ăn thịt con
Biết đủ sanh nhàm chán………………… Tu hành hạnh khất thực
Người an trụ từ tâm……………………… Ta nói thường chán lìa
Cọp sói các thú ác……………………….. Hằng nên cùng đi ở.
Nếu ăn các máu thịt……………………… Chúng sanh ắt kinh sợ
Thế nên người tu hành…………………...Từ tâm chẳng ăn thịt
Ăn thịt không từ huệ……………………….Hằng trái chánh giải thoát
Và trái biểu tướng thánh………………….Thế nên chẳng ăn thịt.
Được sanh dòng Phạm chí……………… Và các chỗ tu hành
Nhà giàu sang trí tuệ…………………….. Đây do chẳng ăn thịt
.

Chướng ngại giải thoát thánh đều là chướng thánh đạo. Ăn thịt không từ tâm, hằng trái chánh giải thoát. Như Lai đến ba phen thiết tha răn nhắc đều vì người tu hành, nghiêm huấn dạy bảo. Bởi vì ngài thương đời sau “Nói là đại thừa vô ngại” vọng buông những tà luận và vu khống Như Lai là cho ăn tịnh nhục, làm hoặc loạn kẻ sơ tâm. Một bọn như thế phần nhiều ưa buông lung, không có tâm hổ thẹn, thật là cặn bã ở địa ngục.
Được sanh dòng Phạm chí và các người tu hành, nhà giàu sang trí tuệ còn do không ăn thịt thay, phương chi đệ nhất nghĩa giải thoát của Như Lai ?
Phật, ở trong kinh này chỉ thẳng thức tàng tức Như Lai tàng, chỉ một phen liễu đạt thì toàn vọng là chơn. Chẳng phải cảnh giới của tất cả nhị thừa và huyền vị Bồ tát, mà đối với giới đức rất thiết tha răn dạy.
Cho nên biết , Vô lâu Chơn tịnh không dung vật khác, trước sau, gốc ngọn, cứu cánh rõ ràng không còn dư sót. Mười phương ba đời tất cả Như Lai đồng một bí mật, đại đạo sáng tỏ như mặt trời, không nên nghi ngờ

HẾT


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Cám ơn Bác Bình,

Nhờ Bác khổ công đánh máy nguyên cuốn sách Kinh Lăng Già, mà tôi đã có tài liệu để điều chỉnh lại những bài kệ đăng trong cuốn sách Tự Gia Bảo (lỗi của người đánh máy), trong bài giảng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ về đề tài "THIỀN TÔNG VỚI CÁC KINH ĐẠI THỪA" ở phần đầu nói về: "Kinh Lăng Già".

Kính. tangbong


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.20 khách