Cuộc Đời Của Tổ Sư Long Thọ

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Cuộc Đời Của Tổ Sư Long Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

Cuộc Đời Của Tổ Sư Long Thọ

Tuệ Uyển chuyển ngữ

Hình ảnh

Biography of Nagarjuna Alexander Berzin February 2006

Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi Vô Trước (cùng với Thiên Thân) truyền thừa những giáo nghĩa bao la của những sự thực hành bồ tát từ Di Lặc.

Long Thọ - Nagajuna sinh ra trong một gia đình bà la môn chắc chắn khoảng giữa đầu hay đầu thế kỷ thứ hai sau Tây lịch ở miền Nam Ấn Độ, trong vương quốc Vidarbha, ngày nay là vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngài đã được tiên đoán trước trong nhiều kinh điển khác nhau, như Kinh Lăng Già. Lúc sinh ra, một vị tiên tri dự đoán ngài sẽ chỉ sống trong bảy ngày, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường đến một trăm vị sa môn, ngài có thể sống đến bảy tuổi. Lo sợ cho sự sống của ngài, vào lúc bảy tuổi, cha mẹ Long Thọ-Nagajuna đưa ngài đến Đại học Tu viện Na Lan Đà ở miền Bắc Ấn, nơi ngài gặp vị đạo sư Phật giáo Saraha. Saraha nói với ngài rằng nếu trở thành một vị xuất gia và trì tụng mật ngôn A Di Đà, ngài sẽ sống trường thọ. Long Thọ-Nagajuna làm như thế và rồi thì gia nhập tu viện, nhận một tên là “Shrimanta.”

Tại Na Lan Đà, Long Thọ-Nagajuna học kinh điển hiển giáo và mật điển tantra với Ratnamati – một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi – và, với Saraha, đặc biệt Tantra Bí Mật. Thêm nữa, ngài học thuật giả kim với một vị Bà la môn, và đạt đến khả năng biến sắt thành vàng. Dùng khả năng này, ngài có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của Na Lan Đà trong nạn đói. Cuối cùng, Long Thọ-Nagajuna trở thành Viện trưởng của Na Lan Đà. Ở đấy, ngài đã tống xuất tám nghìn tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật xuất gia một cách thích đáng. Ngài cũng đánh bại năm trăm người không phải Phật tử trong tranh luận.

Hai người trai trẻ, là hóa thân của những đứa con của long vương, đến Na Lan Đà. Họ có trong họ những hương thơm tự nhiên của trầm hương. Long Thọ-Nagajuna hỏi làm thế nào như thế và họ thú nhận với ngài họ là ai. Long Thọ-Nagajuna rồi thì yêu cầu tinh dầu trầm hương cho bức tượng của nữ Bồ Tát Tara và sự giúp đở của dòng dõi rồng để dựng chùa chiền. Họ trở lại thế giới rồng và yêu cầu cha của họ, và ông nói rằng ông chỉ có thể giúp nếu Long Thọ-Nagajuna đến thế giới của họ dưới biển để giảng dạy cho họ. Long Thọ-Nagajuna đã đi, tiến hành nhiều lễ cúng dường, và dạy cho loài rồng.

Long Thọ-Nagajuna đã từng biết rằng loài rồng có bộ Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa và thỉnh cầu cho một bản. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, tuệ trí toàn thiện, hay tỉnh thức phân biệt sâu xa, loài rồng đã đem về long cung để bảo quản, chư thiên một bản khác, và những chúa dạ xoa của thịnh vượng một bản nữa. Long Thọ-Nagajuna đem về bản một trăm nghìn bài kệ, mặc dù long chúng giữ hai chương cuối cùng để bảo đảm rằng ngài sẽ trở lại để giảng dạy cho họ xa hơn. Sau này, hai chương cuối cùng được bổ xung vào với hai chương cuối cùng của Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là tại sao hai chương cuối cùng của hai văn kiện duyệt lại là giống nhau. Long Thọ-Nagajuna cũng đem về đất sét của rồng và xây dựng nhiều chùa chiền và tháp miếu với nó.

Một lần, khi Long Thọ-Nagajuna đang giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật Đa, sáu con rồng đã đến và làm thành một bảo cái phía trên đầu ngài để che ngài khỏi nắng mặt trời. Do bởi điều này, ngài có tên là Long-Naga. Và từ sự kiện khả năng thiện xảo của ngài trong giảng dạy Phật Pháp đi thẳng tới trọng điểm của vấn đề, giống như những mũi tên của nhà cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng của Ấn Độ cổ đại trong bộ kinh Ấn giáo Bhagavad Gita), ngài có tên là Arjuna. Vì thế, ngài trở thành được gọi là “Nagarjuna” hay Long Thọ.

Sau này Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa) để giảng dạy. Trên đường, ngài đã gặp một số trẻ con đang nô đùa trên đường. Ngài tiên tri rằng một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị vua. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé trong thực tế đã trưởng thành và trở thành vị vua của một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn. Long Thọ đã ở lại với vị vua trong ba năm, dạy dỗ ông, và sau đó dành những năm cuối cùng ở những nơi khác trong vương quốc ấy, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng liêng trông xuống ngày nay là Nagarjunakonda [1]. Long Thọ-Nagarjuna đã viết tác phẩm Quốc vương một Tràng Hoa Quý Báu – Bảo Hành Vương Chính Luận (Ratnavati). Đây cũng là vị vua mà Long Thọ viết tác phẩm Lá Thư Cho Một Người Bạn (Suhrllekha), vua tên là Udayibhadra.

Một số học giả phương Tây xác quyết Vua Udayibhadra với Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì 106- 130 sau Tây lịch) của triều đại Shatavahana (230 trước Tây lịch đến 199 sau Tây lịch), hiện nay là Andhra Pradesh. Một số xác quyết ông với vị vua kế là Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Tây lịch). Thật khó khăn để xác định vị vua này một cách chính xác. Những vị vua triều đại Shatavahana là những người bảo trợ bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật thuyết Mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra) lần đầu tiên và nó gần Shri Parata.

Quốc vương Udayibhadra có một người con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ chết, vì Long Thọ và Quốc vương Udayibhadra có cùng tuổi thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ cấp của ngài và vì Long Thọ là người rất bi mẫn, không nghi ngờ gì nữa ngài sẽ đồng ý ban cho ông. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu ngài với một thanh gươm. Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp, ngài đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ngài chỉ có thể cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế và Long Thọ lìa đời. Máu từ cái đầu bị cắt đứt biến thành sửa và thủ cấp nói, “Bây giờ ta sẽ đi đến Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần nữa.” Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể, nhưng như được kể lại rằng thủ cấp và thân thể đang đi đến gần lại với nhau mỗi năm. Khi chúng hợp lại, Long Thọ sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Nói chung, Long Thọ đã sống sáu trăm năm.

Trong nhiều tác phẩm trên chủ đề kinh điển mà Long Thọ đã viết là

- Tập Họp Lý Luận, Collections of Reasoning - Nhập Trung Luận, Madhyamakavata,

- Tập Họp Những Bài Kệ Tán, Collections of Praises.

- Tập Họp Những Giải Thích Mô Phạm, Collections of Explanations.

Sáu Tập Họp của Lý Trí hay Nhập Trung Luận là:

- Những Bài Kệ Căn Bản của Trung Quán Luận, Tỉnh Thức Phân Biệt - Discriminating Awareness - Prajna-nama- mulamadhyamaka-karika.

- Tràng Hoa Quý Báu – Precious Galand – Ratnavati.

- Hồi Tránh Luận Thích – Bác Bỏ Chống Đối – Vigrahavyavarti.

- Thất Thập KhôngTính Luận – Bảy Mươi Bài kệ Tánh Không – Sunyatasaptati.

- Quãng Phá Kinh Danh – Vaidalya sutra nama.

- Lục Thập Tụng Như Ý Luận – Yuktishashtika.

Bao gồm Tán Dương Kệ Tập là:

- Pháp Giới Tán – Dharmadhatu stava.

- Chân Đế tán – Paramartha stava.

- Siêu Thế Gian tán – Lokatita stava.

Bao gồm Mô Phạm Thích Tập là:

- Giác Ngộ Tâm Luận – Bodhicittavana.

- Tập Kinh Luận – Sutrasamuccaya.

- Lá Thư cho Một Người Bạn – Suhrllekha.

Cũng được cho là của Long Thọ là vài luận giải về mật điển Tantra Bí Mật, bao gồm:

- Phương tiện Thực chứng giản lược – Pindikrta sadhana.

- Phương pháp Thiền quán trên Tầng bậc Đầu tiên của Đại toàn thiện Bí mật tantra phối hợp với nguyên văn của nó - Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

- Năm Tầng bậc (Tầng bậc Hoàn tất) – Pancakrama.

Đệ tử nổi tiếng nhất của Long Thọ là Thánh Thiên (Aryadeva) tác giả của Bốn trăm Bài kệ Luận thuyết trên những Hành vi của Du già Bồ tát và vài luận giải của Tantra Bí mật.

--***--

[1] Nagarjunakonda (skt): Ðịa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Ðộ. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, người ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiện vào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trong quận Guntur. Ðây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di hài của Ðức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A Dục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri cùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầy được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổ nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một trung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện đã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ cho tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác từ nhiều nước đến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Người dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài, họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy. Ðiều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bản khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác có nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali, cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapalli một dặm về phía Ðông, là những địa điểm nổi tiếng vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong thời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận qua sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli, Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur. (Từ điển Phật học Thiện Phúc)

--***--

Biography of Nagarjuna

Alexander Berzin
February 2006

Tuệ Uyển chuyển ngữ

08-03-2010

http://www.berzinarchives.com/web/en/ar ... rjuna.html


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Cuộc Đời Của Tổ Sư Long Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

BỒ-TÁT LONG THỌ



Bồ- tát Long Thọ người Tây Thiên Trúc, nhân khi Tổ thứ mười ba (Ca-tỳ-ma-la) đến đây hoằng hóa, Ngài đến nghinh tiếp và thưa:

- Nơi núi sâu vắng vẻ, là chỗ hang động của rồng rắn, đại đức là bậc chí tôn, vậy chẳng là uổng công thần túc của Ngài sao? Tổ bảo:

- Ta chẳng phải chí tôn, ta đến là để thăm hỏi hiền giả.

Ngài Long Thọ nghĩ thầm (trong lòng). Tổ biết Ngài nghĩ gì. Ngài xin sám hối tạ tội. Tổ liền cho Ngài cùng năm trăm đồ chúng xuất gia, truyền giới cụ túc và truyền đại pháp cho Ngài. Sau khi đắc pháp Ngài liền du hóa đến Nam Ấn Độ. Dân chúng ở đây phần nhiều đều tin phước nghiệp, nên Ngài dạy về nghĩa Phật tánh, nghe xong họ đều tin theo. Thế rồi, Ngài trở lại ngay tòa hiện thân như trăng tròn. Bấy giờ, trong chúng có Ca-na-đề-bà nói: ‘Ngài hiện thể tướng của Phật tánh để chỉ dạy chúng ta’.

Về sau, Ngài phó pháp cho tôn giả Ca-na-đề-bà rồi nhập tam-muội Nguyệt luân, hiện nhiều thứ thần biến rồi an nhiên thị tịch.


Bài tán:

Nghĩa của Phật tánh

Chẳng tướng có, không

Hiện trăng tam-muội

Trăng đẹp lên cao

Để ngăn đồ chúng

Không lạc lối đi

Đôi mày vừa nhướng

Một nhát trúng hai

佛性之義

非有無相

現三昧輪

珊瑚月上
是克家兒

不落趣向

揭卻雙眉

一鎚兩當


Kệ rằng:

Tổ thứ mười bốn được truyền tâm

Long cung tìm báu được kinh thâm

Pháp giới là thể không ngằn mé

Hư không là dụng có chi tâm

Bao la vạn tượng nhiều vi diệu

Gồm thâu yếu chỉ thoát mê lầm

Nhà lửa hiểm nguy đừng lưu luyến

Phật tọa Bồ đề thấy sao mầu

或 說偈曰 ◎宣公上人作

天竺十四祖傳心

龍宮尋寶取大經
法界為體無邊際

虛空是用有何痕
包羅萬物含眾妙

捲藏一密迥根塵
火宅危險休留戀

世尊樹下見明星


GIẢNG:

Tôn giả người nước Tây Thiên Trúc: Vị Tôn giả này là Bồ-tát Long thọ(1), tức Tổ thứ mười bốn của Ấn Độ, người miền Tây Ấn.

Nhân lúc Tổ thứ mười ba hoằng hóa đến đây: Tổ thứ mười ba giáo hóa chúng sinh, đến nước Tây Thiên Trúc. Bồ-tát Long Thọ ra nghênh tiếp và thưa: “Nơi núi sâu vắng vẻ, là chỗ hang động của rồng rắn, đại đức là bậc chí tôn, vậy chẳng là uổng công thần túc của Ngài sao?: Tôn giả Long Thọ tu hành ở nơi này, nên ra nghênh tiếp Tổ và thưa: “Chỗ này non cao, núi thẳm, vô cùng vắng vẻ và trơ trọi, là hang ổ của loài rồng và mãng xà. Thưa Đại đức! Ngài là bậc cao thượng và tôn quý rất mực, vậy chẳng hay Ngài có đi lạc lối chăng ? Mà sao lại hoài công cất bước đến chỗ này?”. Chữ thần túc “神足” ở đây không có nghĩa là thần túc thông.

Tổ bảo: Ta chẳng phải chí tôn, ta đến là để thăm hỏi hiền giả: Tổ thứ mười ba nói: “Ta không phải là bậc tôn quý, ta đến đây để thăm hỏi người hiền đức.” Ngài Long Thọ nghĩ thầm: Nghĩ thầm tức là nói chuyện thầm trong lòng. Ngài Long thọ nói thầm, đại khái như nói: “Ngài nói dối nhé! Ngài vốn là một vị tổ sư, mà Ngài nói không phải là bậc chí tôn”. Tổ biết Ngài nghĩ gì: Tổ thứ mười ba biết trong lòng Ngài nghĩ gì.

Ngài xin sám hối tạ tội: Bởi thấy Tổ biết hết những gì mình nghĩ trong lòng nên Bồ-tát Long Thọ xin Tổ cho Ngài được sám hối tạ tội, tự nhận sự lỗi lầm! Như chúng ta thường nói bằng tiếng Anh câu “I am sorry! I am very stupid!” (Con xin lỗi! Con thực ngu xuẩn!)

Tổ liền cho Ngài cùng năm trăm đồ chúng xuất gia, truyền giới cụ túc và truyền đại pháp cho Ngài. Tổ thứ mười ba cho Ngài và năm trăm năm trăm người tu theo Ngài xuất gia, thọ giới cụ túc và truyền pháp tâm ấn cho Ngài(2). Sau khi đắc pháp Ngài liền du hóa đến Nam Ấn Độ. Sau khi đắc pháp, Bồ-tát Long Thọ du hóa đến Nam Ấn Độ. Dân chúng ở đây phần nhiều đều tin phước nghiệp: Con người nơi này, phần nhiều tu phước báo của trời người, không biết cầu học Phật pháp. Họ chỉ biết gieo phước, cầu phước. Ngài dạy nghĩa Phật tánh. Tổ thứ mười bốn dạy họ về Phật tánh, tự tánh, đầy đủ vô lượng công đức và tất cả phước báu. Nghe xong mọi người đều tin theo. Sau khi nghe xong, mọi người đều bỏ Tiểu thừa tu theo Đại thừa và hoàn toàn thay đổi tâm cầu phước trước kia của họ. Thế rồi, Ngài lại ngay tòa hiện thân như trăng tròn: Ở trên tòa Bồ-tát Long Thọ hiện thân như mặt trăng tròn, thân Ngài sáng như ánh sáng của mặt trăng.

Bấy giờ, trong chúng có Ca-na-đề-bà nói: ‘Ngài hiện thể tướng của Phật tánh để chỉ dạy chúng ta’: Trong đại chúng có Ca-na-đề-bà chính là Tổ thứ mười lăm, Ngài nói: “Đây là Tôn giả thị hiện thể và tướng của Phật tánh xưa nay, để giáo hóa chúng ta”.

Về sau, Ngài phó pháp cho Ca-na-đề-bà rồi nhập tam-muội Nguyệt luân, hiện nhiều thứ thần biến rồi an nhiên thị tịch: Về sau Bồ-tát Long Thọ truyền pháp cho Tổ thứ mười lăm- Ca-na-đề-bà, rồi nhập định Nguyệt luân, thị hiện thần thông, sau đó an nhiên thị tịch.


Bài tán:

Nghĩa của Phật tánh, chẳng tướng có, không: Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không.

Hiện trăng tam-muội, trăng đẹp lên cao: Hiện tam-muội như ánh sáng một mặt trăng bằng san hô.

Để ngăn đồ chúng, không lạc lối đi: Đúng là một bậc trượng phu con nhà Phật, chẳng theo lối nào khác, cũng chẳng lạc vào thứ bậc nào.

Đôi mày vừa nhướng, một nhát trúng hai: Đôi mày ấy đều không. Đánh một tiếng kiền chùy có hai âm thanh phát ra, vậy đánh thế nào?


Kệ rằng:

Tổ thứ mười bốn được truyền tâm: Tổ thứ mười bốn là Bồ-tát Long Thọ, người Thiên Trúc được truyền tâm ấn.

Long cung tìm báu được kinh thâm: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm của chúng ta chính là do Bồ-tát Long Thọ đến long cung trong biển lớn lấy đem về (3).

Pháp giới là thể không ngằn mé: Bộ kinh lớn này lấy Pháp giới làm thể, không có giới hạn.

Hư không là dụng có chi tâm: Hư không là dụng thì có dấu vết gì? Dấu vết gì cũng không có!

Bao la vạn tượng nhiều vi diệu: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm này bao la vạn vật, chứa đựng tất cả và có hết thảy diệu dụng.

Gồm thâu yếu chỉ thoát mê lầm: Thâu hết những điều bí mật, cũng không có sáu căn, sáu trần, mà xa lìa tất cả!

Nhà lửa hiểm nguy đừng lưu luyến: Nhà lửa tam giới là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới rất nguy hiểm, một khi mất thân người thì vạn kiếp khó được lại.

Phật tọa Bồ đề thấy sao mầu: Lúc xưa, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi bên cội cây bồ-đề, quyết không đứng dậy, đêm thấy sao sáng mà ngộ đạo. Chúng ta nên biết, Đức Phật Thích-ca Mâu- ni tu hành khổ hạnh thế nào mới thành Phật. Vì vậy, chúng ta tu hành cần phải có chút tinh thần khổ hạnh, phải xả bỏ hết tất cả, đừng sợ khổ. Quý vị nếu không xả được cái tử, tức không đổi được cái sanh; không xả được cái giả, tức không thể thành tựu được cái chơn; không chịu được khổ thì không thể hưởng được phước.

(Tuyên Công Thượng Nhân giảng ngày 20, tháng2, năm1979)


----------------------------------------------

Chú 1: Về nguồn gốc tên của Bồ-tát Long Thọ, trong Tuyền Pháp Chánh Tông Ký có ghi như sau:

Bồ- tát Long Thọ người nước Tây Thiên Trúc, nhưng không rõ Ngài họ gì. Có thuyết nói: Ngài xuất thân từ dòng Phạm chí, rất thông minh, tài giỏi và trí tuệ siêu việt hơn người, chẳng phải là người bình thường. Lúc trẻ, Ngài đã thuộc bốn bộ kinh điển Vệ-đà, lớn lên lại giỏi về thiên văn, địa lý, lại thông hiểu nghệ thuật[1] của các dân tộc và biết những điều thần kỳ. Xưa, nước Ngài có ngọn núi cao tên là Long Thắng, giống rồng thường trú ngụ nơi này. Trên núi có nhiều cây lớn, các loài rồng thường ở dưới bóng cây. Đến khi Bồ-tát giác ngộ, muốn xuất gia, liền vào núi đó tu hành và ở bên những gốc cây ấy. Về sau, khi đã thông hiểu nghĩa lý sâu xa của Tam tạng kinh điển, Ngài thuyết pháp cho loài rồng nghe, nên có hiệu là “Long Thọ”.

Chú 2: Bài kệ truyền pháp của Tổ thứ mười ba phó chúc cho Tổ thứ mười bốn thấy trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục và Chỉ Nguyệt Lục ghi:

Pháp chẳng ẩn chẳng hiện

Là bờ mé chân thật

Hiểu pháp ẩn hiện này

Chẳng ngu cũng chẳng trí

非隱非顯法

說是真實際
悟此隱顯法

非愚亦非智


Chú 3: Sự tích Bồ-tát Long Thọ vào long cung lấy kinh, nay căn cứ vào Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện, lược thuật như sau:

……Bồ-tát Đại Long dùng thần lực dẫn Bồ-tát Long Thọ vào long cung trong biển lớn, mở hòm bảy báu, lấy kinh Phương Đẳng Đại Thừa thậm thâm vi diệu và vô lượng diệu pháp cất giữ trong long cung trao cho Bồ-tát Long Thọ. Trong chín mươi ngày ở long cung Bồ-tát Long Thọ thông hiểu rất nhiều. Ngài lại đi sâu vào kinh tạng, lãnh hội được ý nghĩa vi diệu, được lợi ích lớn và thọ dùng vô cùng.

Long vương biết tâm niệm của Ngài, hỏi: “Ngài đọc hết kinh chưa?” Bồ-tát Long Thọ đáp: “Kinh điển trong kho tàng vô lượng vô biên, tôi không thể xem hết được, nhưng những gì tôi đã đọc thì đã vượt quá gấp mười lần kinh điển có ở Diêm-phù-đề”.

Long vương lại nói: “Kinh điển Thích-đề-hoàn-nhân cất giữ trên trời Đao-lợi nhiều hơn long cung của ta gấp trăm ngàn vạn lần; kinh điển của ta cất giữ nhất định không thể so sánh với trên ấy”.

Sau khi tụng đọc những kinh điển này, Bồ-tát Long Thọ hoát nhiên thông suốt, hiểu rõ pháp nhất tướng, thông đạt thật tướng, thấu triệt vô sinh, đầy đủ sinh nhẫn và pháp nhẫn. Long vương biết Ngài đã ngộ đạo liền đưa Ngài rời khỏi long cung……



[1] Nghệ thuật 藝術: như văn học, hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, vũ đạo, hý kịch, điện ảnh, khúc nghệ...

http://bodedaotrang.com/index.php?optio ... Itemid=102


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.14 khách