KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN VI

MỤC BỐN:

VIÊN THÔNG VỀ NHĨ CĂN

Kinh:

Khi ấy, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn, tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Quán Thế Âm, từ Đức Phật ấy tôi phát Tâm Bồ Đề. Đức Phật ấy dạy tôi, từ Nghe, Suy Nghĩ và Tu, thấu vào Tam Ma Địa.

Thông rằng: Chọn lựa chỗ Viên Thông thì căn Tai là bậc nhất. Vào sâu một cửa, sáu Căn liền thanh tịnh. Chỉ có chỗ chứng của Đức Quán Thế Âm rất là tròn đủ, nhiệm mầu. Âm thanh mà chẳng nói là nghe mà nói là Quán(), là dùng Trí chiếu soi, chẳng dùng Thức Tai mà nghe vậy. Sáu Căn dùng lẫn nhau, ở đây đủ làm chứng rồi. Theo sự Nghe, Nghĩ, Tu, thấu vào Tam Ma Địa. Nghe ở Tai, Nghĩ ở Tâm, Tu trong Sự Làm, thì sanh Thánh Huệ Vô Lậu, nên vào Chánh Định. Bèn văn sau nói: Vào dòng mất cái Sở theo thứ lớp vậy.

Tổ Bách Trượng gọi cả chúng ra cày ruộng. Bỗng một nhà sư nghe tiếng trống liền vác cày cười lớn mà bỏ về.

Tổ Trượng nói:

- Tài thay!

Đây là pháp môn Quán Âm Nhập Lưu vậy.

Tổ Trượng về viện, mới kêu nhà sư ấy, hỏi:

- Hồi nãy thấy cái đạo lý gì mà làm như thế?

Nhà sư nói:

- Hồi nãy bụng đói, nghe tiếng trống thì về kiếm đồ ăn.

Tổ Trượng cười xòa.

Như vậy thì cửa vào Đạo của vị tăng này nào có mượn đến Nghĩ và Tu mà đắc đâu?

Kinh:

- Ban đầu, ở trong cái Nghe, vào dòng mất đi tướng Sở (chỗ Nghe). Chỗ vào đã vắng lặng, hai tướng Động, Tịnh rõ ràng chẳng sanh ra. Như vậy tiến thêm lần, cái Nghe và chỗ Nghe đều hết. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe thì cái Giác và chỗ Giác đều Không. Không và Giác cùng tột tròn vẹn thì Năng Không và Sở Không đều diệt. Sanh Diệt đã diệt, Tịch Diệt hiện tiền (trước mặt). Tức thì vượt khỏi thế gian lẫn xuất thế gian, tròn sáng khắp mười phương, được hai điều tột bậc: Một là, trên hợp với Bản Giác Diệu Tâm của mười phương Chư Phật, cùng với Chư Phật Như Lai đồng một sức Từ; hai là, dưới hợp với tất cả mười phương chúng sanh trong sáu đường, cùng với các chúng sanh đồng một Bi Ngưỡng.

Thông rằng: Vào dòng mất Sở, cho đến cái Nghe và chỗ Nghe đều hết, tức là mới mở khỏi Căn, trước hết được Nhân Không vậy. Chẳng dừng lại nơi sự hết cái Nghe và chỗ Nghe, cái Giác và chỗ Giác đều Không, tức là Tánh Không tròn sáng, thành pháp Giải Thoát vậy. Không Giác cùng cực vẹn toàn, Năng Không và Sở Không đều diệt mất, tức là đã giải thoát khỏi pháp, cái Không cũng chẳng sanh vậy. Sanh diệt đã diệt, đó là Tịch Diệt hiện tiền, tức là vào Tam Ma Địa, đắc Vô Sanh Nhẫn.

Bài kệ trong kinh Pháp Hoa:

Chân quán, Thanh Tịnh quán,
Rộng lớn Trí Huệ quán.
Bi quán cùng Từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Chân Quán, đó là hai tướng Động Tịnh chẳng sanh ra. Thanh Tịnh Quán là hết cái Năng Sở của Nghe, Giác, Không vậy. Rộng lớn Trí Huệ Quán, đó là Không Giác cùng tột vẹn toàn, cho đến Tịch Diệt hiện tiền vậy. Đồng một lực Từ, đó là Từ quán. Đồng một Bi Ngưỡng, đó là Bi quán. Không Giác cùng tột tròn vẹn, đó là cái Giác quán ra khỏi tư duy vậy. Không và Sở không diệt mất thì thân tâm không thể đến được. Sanh diệt đã diệt, trọn cả hai bên sanh diệt đều lìa vậy. Tịch Diệt hiện tiền, đó là Thường Chân Thật vậy. Lấy kinh chứng minh cho kinh, ý nghĩa mùi vị tự đầy đủ vậy.

Ngài Tô Tử Do luận hai kinh Lăng Nghiêm và kinh Kim Cang, hợp với Đức Quán Thế Âm, là lấy Nghe, Nghĩ, Tu làm Viên Thông Đệ Nhất. Ngài nói:

- Ban đầu ở trong cái Nghe vào dòng mất Sở, cho đến chỗ Tịch Diệt hiện tiền. Nếu có thể như thế, thì trong khoảng khảy móng tay trải khắp ba cái Không liền cùng Chư Phật không khác. Ngài lại đọc chỗ kinh Kim Cang nói về bốn quả vị: Tu Đà Hoàn gọi là vào dòng, nhưng không có chỗ vào, chẳng vào Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, gọi là Tu Đà Hoàn. Mới than rằng: Chỗ chứng của Tu Đà Hoàn tức là chỗ Đức Quán Thế Âm gọi là ban đầu ở trong cái Nghe, vào dòng mất Sở đó ư? Vào dòng thì vong Sở, chỉ không vào sáu Trần, an nhiên thường trụ, ấy là vào dòng vậy. Đến Tư Đà Hàm, gọi là một lần đi lại, mà thật chẳng có gì đi lại. A Na Hàm, gọi là chẳng trở lại, mà thật không có sự chẳng trở lại, bởi vì đi thì nhập trần, lại thì về gốc. Tư Đà Hàm, tuy có thể trở lại, nhưng chưa thể không đi. A Na Hàm chẳng những không đi mà cũng không lại. Cho đến A La Hán thì cái ý đi-lại đều hết, không có pháp nào để đắc. Thế nên, cái gọi là bốn quả vị kỳ thật chỉ một pháp, nhưng trải qua ba cái Không mà về sâu cạn khác nhau. Lời của kinh, gốc vốn phù hợp, mà đời chẳng nêu rõ ra, nên nói cho tỏ hiểu.

Ngài Tử Do bởi thấy được thiện tri thức mà phát minh ý chỉ của hai kinh, tuy hình như mới lạ, mà chủ yếu từ trong ngực lưu xuất ra, cho đến chỗ gọi là: Trong khoảng khắc gảy móng tay, trải khắp ba cái Không, cùng chư Phật không khác.

Chẳng có đốn ngộ triệt để làm sao nói được lời này.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

I. DIỆU LỰC VÔ TÁC THÀNH TỰU BA MƯƠI HAI ỨNG THÂN

Kinh:

- Thưa Thế Tôn, do tôi cúng dường Đức Quán Âm Như Lai, nhờ Ngài truyền thụ cho tôi Như Huyễn Văn Huân, Văn Tu Tam Muội, cùng Chư Phật Như Lai đồng sức Từ, khiến Thân tôi thành tựu ba mươi hai Ứng Thân vào các cõi nước.

Thông rằng: Như Huyễn là người huyễn gây làm mà vốn không làm. Đó là để nói sự huân tu ứng với cơ, tức làm mà không làm, quên tình tuyệt hiểu, chẳng thể nghĩ bàn.

Gọi là Văn Huân, Văn Tu là huân tu, đều chẳng rời ngoài Tánh Nghe vậy. Nhân ngoài tánh Nghe mà huân tu, tâm thuần nhất thì bỏ cái Nghe, các sự ràng buộc lạc lầm hết ráo, Tam Muội hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Càn Huệ Địa vậy. Nói là Kim Cang vì phá nát các pháp mộng huyễn. Kim Cang thường trụ chẳng hoại, đó là cái Chân Thật thường hằng vậy. Đâu phải lìa ngoài Như Huyễn mà riêng có cái gọi là Chân Thật sao!

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn:

- Nơi tướng cái gì Chơn?

Tổ Sơn nói:

- Tức tướng tức Chơn.

Hỏi:

- Làm sao hiển bày?

Tổ Sơn dựng đứng cây phất tử.

Lại hỏi:

- Gốc Huyễn đâu Chơn?

Tổ Sơn nói:

- Gốc Huyễn nguyên Chơn.

Hỏi: Ngay khi Huyễn làm sao hiển bày?

Tổ Sơn nói:

- Tức Huyễn tức Hiển!

Hỏi:

- Như thế thì trước sau chẳng rời nơi Huyễn!

Tổ Sơn nói:

- Tìm cái tướng Huyễn không thể được!

Ông Cung Phụng Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa:

- Trong giáo pháp nói ý Huyễn, thấy có chăng?

Tổ Sa nói:

- Đại Đức nói cái gì thế!

Hỏi:

- Thế thì ý Huyễn là không có sao?

Tổ Sa nói:

- Đại Đức nói cái gì thế!

Hỏi:

- Thế thì ý Huyễn là chẳng có chẳng không hay sao?

Tổ Sa nói:

- Đại Đức nói cái gì thế!

Hỏi:

- Như tôi ba lần bày tỏ, trọn chẳng hiểu được chỗ ý Huyễn, Hòa Thượng rõ hiểu như thế nào cái ý huyễn trong giáo pháp?

Tổ Sa nói:

- Đại Đức có tin là tất cả pháp vốn chẳng thể nghĩ bàn chăng?

Đáp:

- Lời chân thật của Phật đâu dám chẳng tin.

Tổ Sa nói:

- Đại Đức nói tin, thì trong hai cái tin, đó là cái tin nào?

Đáp:

- Như chỗ tôi biết, trong hai cái tin, đó gọi là tin theo Duyên.

Tổ Sa nói:

- Theo giáo pháp nào mà sanh ra được cái tin nhờ Duyên?

Đáp:

- Kinh Hoa Nghiêm nói, Đại Bồ Tát trong Trí Huệ không chướng không ngại, tin rằng tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Lại nói, Chư Phật Thế Tôn biết suốt tất cả pháp thế gian cùng pháp Phật, tánh không sai biệt, quyết định không hai. Lại nói, Phật Pháp và thế gian pháp, như thấy được cái chân thật của chúng, tất cả đều không sai biệt.

Tổ Sa nói:

- Chỗ nêu ra trong kinh giáo về cái tin nhờ Duyên của Đại Đức chưa rốt ráo lắm. Hãy nghe lão tăng tỏ rõ cái ý Huyễn trong giáo pháp cho Đại Đức. Như người nào thấy Huyễn vốn là Chơn, đó gọi là người thấy Phật. Pháp pháp viên thông, không sanh, không diệt; Không Sanh Diệt đó là Phật Thân.

Thấy được như thế là đồng Phật Từ Lực. Từ tức Như Huyễn, ba mươi hai Ứng Thân, Ứng cũng Như Huyễn. Chốn chốn tịch diệt hiện bày trước mắt, đó là Kim Cang Tam Muội.

Kinh:

- Thưa Thế Tôn, nếu các Bồ Tát vào Tam Ma Địa, tiến tu Vô Lậu, cái hiểu biết siêu việt hiện ra tròn vẹn, tôi hiện ra Thân Phật, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.

Thông rằng: Đức Sơ Tổ Đạt Ma tức Hóa Thân của Quán Thế Âm Đại Sĩ vậy.

Thời ấy, trong nước có hai vị thầy, một tên là Phật Đại Tiên, thứ hai tên là Phật Đại Thắng Đa, vốn cùng Tổ học Tiểu Thừa thiền quán với Ngài Phật Đà Ba Đà. Thầy Phật Đại Tiên gặp được Tôn Giả Bát Nhã Đa La, bỏ Tiểu Thừa theo Đại Thừa. Cùng với Tổ truyền hoá, thời ấy gọi là hai Pháp cam lồ. Còn thầy Phật Đại Thắng Đa lại phân học trò làm sáu Tông: thứ nhất là Hữu Tướng, thứ hai là Vô Tướng, thứ ba là Định Huệ, thứ tư Giới Hạnh, thứ năm Vô Đắc, thức sáu Tịch Tịnh.

Tổ bùi ngùi than:

- Ông thầy của họ đã kẹt vào trong dấu chân trâu, lại còn chi ly phân thành sáu tông rối rắm. Nếu ta không trừ cho thì đời đời trói buộc trong tà kiến.

Nói rồi, hiện thần lực, đến chỗ tông Hữu Tướng, hỏi rằng:

- Tất cả các pháp, cái gì gọi là Thật Tướng?

Trong chúng kia có vị tôn trưởng là Tát Bà La đáp rằng:

- Ở trong các Pháp Tướng, các Tướng chẳng đổi lẫn nhau, đó là Thật Tướng.

Tổ nói:

- Tất cả các Tướng mà chẳng thay đổi ấy, nếu gọi là Thật Tướng phải định thế nào?

Người ấy nói:

- Trong các Tướng, thật không có định, nếu định các Tướng, sao gọi là thật?

Tổ nói:

- Các Tướng Bất Định thì gọi là Thật Tướng, nay ông dùng cái Bất Định để được cái gì?

Người ấy nói:

- Nãy tôi nói Bất Định là chưa nói đến các Tướng, nay nói các Tướng, thì nghĩa của chúng cũng như thế.

Tổ nói:

- Ông nói Bất Định cho là Thật Tướng, vậy thì Định mà Bất Định, tức chẳng phải là Thật Tướng.

Người kia nói:

- Định mà đã Bất Định, thì chẳng phải là Thật Tướng. Biết cái Ngã là chẳng có, thế nên bất định bất biến.

Tổ nói:

- Nay ông nói Bất Biến thì sao gọi là Thật Tướng? Còn có biến có đổi, nghĩa ấy cũng vậy thôi.

Người ấy đáp:

- Bất Biến thì còn, vì còn mà chẳng còn, nên biến đổi Thật Tướng, để định nghĩa này.

Tổ nói:

- Thật Tướng bất biến, có Biến là chẳng thật, trong Hữu và Vô nào gọi là Thật Tướng.

Thầy Tát Bà La biết Thánh Sư hiểu thâm sâu, liền lấy tay chỉ hư không nói:

- Đó là cái Hữu Tướng của thế gian mà cũng có thể trống không, hiện cái thân tôi đây, được giống thế không?

Tổ nói:

- Như rõ Thật Tướng bèn thấy chẳng phải Tướng; như rõ cái Chẳng Phải Tướng, thì cái Hình Sắc cũng vậy. Hiện ở trong Sắc, chẳng mất cái Thể của Hình Sắc, ở ngay trong cái chẳng phải Tướng mà chẳng ngại với cái Có. Rõ được như thế, ấy gọi là Thật Tướng.

Chúng kia nghe xong, tâm ý sáng láng, kính lễ tin nhận.

Tổ thoạt nhiên biến mất, đến chỗ tông Vô Tướng, hỏi rằng:

- Các ông nói không có Tướng, thì lấy gì làm chứng đó?

Trong chúng kia có thầy Ba La Đề đáp rằng:

- Tôi rõ không có Tướng, vì tâm kia chẳng hiện bày.

Tổ nói:

- Tâm ông chẳng hiện, lấy gì mà rõ?

Người ấy nói:

- Tôi rõ Vô Tướng, tâm không lấy bỏ, ngay khi rõ biết, cũng không có gì đảm đương.

Tổ nói:

- Nơi các thứ có thứ không, tâm không lấy bỏ, lại không có đảm đương thì những sự rõ biết không có vậy.

Người ấy nói:

- Vào Tam Muội của Phật còn không có chỗ đắc, huống chi là không có Tướng, mà muốn biết đó?

Tổ nói:

- Tướng đã chẳng có biết, cái gì gọi là Có-Không; còn không có chỗ đắc, lấy gì gọi là Tam Muội?

Người ấy nói:

- Tôi nói chẳng chứng là chứng cái không có chỗ chứng, chẳng phải Tam Muội, nên tôi nói Tam Muội.

Tổ nói:

- Chẳng phải là Tam Muội ấy, sao gọi tên đó? Ông đã chẳng chứng, chẳng phải chứng, sao chứng?

Ba La Đề nghe Tổ phân tách rõ rệt bèn ngộ Bản Tâm, lễ tạ Tổ sư, sám hối lỗi trước.

Tổ thọ ký rằng:

- Ông sẽ đắc quả, chẳng bao lâu chứng đó. Nước này có ngoại đạo, dẹp nó chẳng lâu gì.

Nói rồi, bỗng nhiên biến mất.

Tổ đến chỗ tông Định Huệ, hỏi rằng:

- Các ông học Định Huệ đó là một hay là hai?

Trong chúng kia có thầy Bà Lan Đà đáp rằng:

- Cái Định Huệ này của tôi chẳng phải một, chẳng phải hai.

Tổ nói:

- Đã chẳng phải một hay hai, sao gọi là Định Huệ?

Người ấy nói:

- Trong Định chẳng phải Định, nơi Huệ chẳng phải Huệ, một tức chẳng phải một, hai cũng chẳng phải hai.

Tổ nói:

- Đối một chẳng có một, đối hai chẳng có hai, đã chẳng phải Định Huệ thì bày ra Định Huệ nào?

Người ấy nói:

- Chẳng một, chẳng hai mà Định Huệ biết được; còn chẳng phải Định chẳng phải Huệ cũng lại như vậy.

Tổ nói:

- Huệ chẳng phải Định, làm sao mà biết? Chẳng một chẳng hai, cái gì là Định, cái gì là Huệ?

Ba Lan Đà nghe qua, tâm nghi liền tan mất.

Tổ đến chỗ thứ tư là tông Giới Hạnh , hỏi rằng:

- Cái gì là Giới? Thế nào là Hạnh? Là một hay hai?

Trong chúng ấy có một hiền giả đáp rằng:

-Một hai hai một, đều do đó sanh ra, y theo Giáo Pháp không có nhiễm trước, đó gọi là Giới Hạnh.

Tổ nói:

- Ông nói y theo Giáo, tức là có nhiễm ô, một với hai đều phá hết, sao nói y theo Giáo, hai cái này trái nghịch, chẳng đúng với Hạnh. Trong ngoài chẳng sáng tỏ, sao gọi là Giới?

Người ấy nói:

- Tôi có trong ngoài, kia đã biết hết. Đã được suốt hiểu, bèn đó là Giới Hạnh. Nếu nói trái nghịch, đó đều là phải là trái, còn nói đến chỗ trong sạch, thì tức Giới tức Hạnh.

Tổ nói:

- Đều là phải đều là trái, sao nói là trong sạch? Đã được suốt thông, sao nói đến trong ngoài?

Hiền giả nghe đó, bèn tự thẹn chịu phục.

Tổ đến chỗ tông Vô Đắc , hỏi rằng:

- Mấy ông nói là Không Đắc, Không Đắc thì đắc cái gì? Đã không có chỗ Đắc, lại cũng không đắc cái Không Đắc ư?

Trong chúng kia có thầy Bửu Tịnh đáp rằng:

- Tôi nói Không Đắc chẳng phải là không đắc cái Đắc, nay nói đắc cái Đắc, Không Đắc chính là Đắc.

Tổ nói:

- Đắc đã chẳng Đắc, Đắc cũng chẳng phải Đắc, đã nói là đắc cái Đắc, đắc cái Đắc là đắc cái gì?

Người ấy nói:

- Thấy Đắc chẳng phải Đắc, chẳng phải Đắc tức là Đắc, nếu thấy là chẳng Đắc, gọi là Đắc cái Đắc.

Tổ nói:

- Đắc đã chẳng phải Đắc, đắc cái Đắc là Không Đắc, được không có chỗ Đắc, hiện nào đắc cái Đắc?

Thầy Bửu Tịnh nghe qua liền trừ lưới nghi.

Tổ đến chỗ tông Tịch Tịnh , hỏi rằng:

- Sao gọi là Tịch Tịnh? Ở trong Pháp đây, cái gì là yên, cái gì là lặng?

Trong chúng ấy có vị Tôn Giả đáp rằng:

- Tâm này chẳng động, đó gọi là lặng; nơi pháp không nhiễm gọi đó là yên.

Tổ nói:

- Bổn Tâm chẳng lặng, mới cần mượn lặng yên. Xưa nay vốn lặng, nào cần dùng đến lặng yên?

Người ấy nói:

- Các pháp vốn Không, vì là Không Không, nên trong Không Không ấy, gọi là lặng yên.

Tổ nói:

- Không Không đã là Không, các pháp cũng thế, lặng yên Vô Tướng, nào còn lặng, nào còn yên?

Tôn giả ấy nghe Tổ chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ, nên cả sáu chúng đều nguyện quy y.

Do đó giáo hóa khắp miền Nam Thiên Trúc, tiếng khắp năm phương Ấn Độ. Cứ theo sáu phái kia, cũng biết lui bỏ để tu Vô Lậu, nên Tổ hiện thần lực, khiến cho giải thoát.

Đây là chỗ ứng hóa thứ nhất của Đức Quán Thế Âm vậy. Nguyện xưa là như thế.

Kinh:

- Nếu các hàng Hữu Học, tu Pháp lặng yên được mầu sáng, chỗ thắng diệu vẹn tròn hiển hiện, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Độc Giác, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát. Nếu các hàng Hữu Học, đoạn mười hai Nhân Duyên, duyên dứt thì Thắng Tánh nhiệm mầu trổi vượt hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước kẻ ấy, hiện thân Duyên Giác, vì họ thuyết pháp, khiến được Giải Thoát.

Thông rằng: Bậc Bích Chi Phật có hai loại: Một là sanh đời không Phật, xét thấu sự vật biến chuyển, tự giác Vô Sanh, gọi là Độc Giác. Hai là sanh đời có Phật, vâng theo Giáo Pháp của Phật, xét thấu Nhân Duyên mà ngộ Đạo, gọi là Duyên Giác. Lặng yên mầu sáng không phải là Bản Giác Mầu Sáng (Diệu Minh), mà nhân pháp tu Tịch Tịnh Lặng Yên mà đắc. Đoạn dứt mười hai Nhân Duyên, từ cái Vô Minh diệt cho đến Khổ Não diệt. Duyên đoạn thì Thắng Tánh hiện, do Diệt nên được Chứng, đều được chỗ Thắng Diệu hiện ra toàn vẹn. Đó là chỉ nhờ vào lý trí, riêng mình tỏ biết cái nhiệm mầu, riêng mình tỏ biết cái nhân duyên, chưa thể hồi tâm hướng về Đại Thừa, nên chưa thật Giải Thoát.

Thiền sư Ngưu Đầu Dung ẩn nương hang đá, có sự lạ lùng là trăm chim ngậm bông đến. Tứ Tổ xa thấy khí tượng, biết chỗ ấy có người, mới tự thân tìm hỏi. Tổ hỏi nhà sư ở chùa:

- Chốn này có đạo nhơn chăng?

Đáp:

- Người xuất gia, ai chẳng phải là đạo nhân?

Tổ nói:

- Vậy ai là đạo nhân?

Nhà sư không có lời đáp.

Một nhà sư khác nói:

- Từ đây vào núi khoảng mười dặm, có một ông thầy Dung lười biếng, thấy người chẳng đứng dậy, chẳng chắp tay chào, không phải là đạo nhân ư?

Tổ bèn vào núi, thấy thầy Dung ngồi thẳng tự nhiên. Tổ hỏi rằng:

- Ở đây làm gì?

Thầy Dung nói:

- Quán tâm.

Tổ nói:

- Quán là người nào, tâm là vật gì?

Thầy Dung không đáp được, liền đứng dậy làm lễ, nói:

- Đại Đức quý quán nơi nào?

Tổ nói:

- Bần đạo chẳng nhất định ở đâu hoặc Đông hoặc Tây.

Thầy Dung nói:

- Lại biết Đạo Tín thiền sư chăng?

Tổ nói:

- Hỏi kẻ khác ấy làm gì?

Thầy Dung nói:

- Bấy lâu hướng về thịnh đức, mong lễ ra mắt một phen.

Tổ nói:

- Đạo Tín là bần đạo vậy.

Thầy Dung nói:

- Nhân sao đến đây?

Tổ nói:

- Độc chỉ đến hỏi thăm nhau. Lại không có chỗ nghỉ chăng?

Thầy Dung chỉ phía sau, chỉ có một am nhỏ, bèn dẫn Tổ đến đó, chung quanh am chỉ thấy loài hổ, báo. Tổ bèn đưa hai tay làm vẻ sợ.

Thầy Dung nói:

- Dường còn cái ấy vậy.

Tổ nói:

- Cái ấy là cái gì?

Thầy Dung không nói được.

Chốc lát, Tổ trở lại chỗ tảng đá thầy Dung ngồi thiền, viết lên đó một chữ Phật. Thầy Dung xem thấy, giật mình.

Tổ nói:

- Dường còn cái ấy vậy.

Thầy Dung chưa hiểu, cúi đầu xin nói chỗ chơn yếu. Tổ trao cho pháp môn Đốn Giáo, sẵn đủ muôn Hạnh Bồ Tát.

Thầy Quật Đa Tam Tạng xứ Tây Vực khế ngộ nơi lời dạy của Lục Tổ. Sau ngao du Ngũ Đài, thấy một nhà sư lập am tĩnh tọa.

Thầy Tạng hỏi:

- Ngồi một mình làm gì?

Đáp:

- Quán Tịnh.

Thầy Tạng nói:

- Quán, đó là người nào? Tịnh đó là vật gì?

Nhà sư làm lễ, hỏi:

- Lý ấy thế nào?

Thầy Tạng nói:

- Ông sao chẳng tự quán tự tịnh?

Vị sư ấy ngẩn ngơ.

Thầy Tạng nói:

- Ông ở phái nào ra?

Đáp:

- Tổ Tú Thiền sư.

Thầy Tạng nói:

- Xứ Tây Vực của tôi, kẻ thấp nhất trong ngoại đạo còn chẳng sa vào cái kiến giải này, là trơ trơ ngồi không, đối với đạo ích gì?

Vị sư lại hỏi:

- Vị Tôn sư của thầy Tạng là ai?

Thầy Tạng nói:

- Thầy tôi là Lục Tổ. Sao ông chẳng sớm đến Tào Khê cho rõ chơn yếu?

Vị sư liền sang tham vấn Lục Tổ. Tổ dạy giống như thầy Tạng. Nhà sư liền ngộ nhập.

Nếu thầy Dung cùng nhà sư này chẳng gặp Tứ Tổ, Lục Tổ, thì đã chứng Độc Giác, Duyên Giác rồi vậy. Mong gì có ngày Giải Thoát ư?

Kinh:

- Nếu các hàng Hữu Học, đắc Tứ Đế Không, tu Đạo Đế, Nhập Diệt Đế, Thắng Tánh hiện ra tròn vẹn, tôi ở trước người ấy hiện thân Thanh Văn, vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.

Thông rằng: Pháp Tứ Đế là Biết Khổ, Đoạn Tập, Chứng Diệt, Tu Đạo. Cho đến vào Diệt Tận Định, ham mê cái vui Tịch Diệt, không có ý độ sanh, gọi đó là Thanh Văn, y vào tiếng dạy mà tu Đạo vậy.

Tổ Quy Sơn đang ngồi, thầy Ngưỡng Sơn đi vào.

Tổ Quy Sơn nói:

- Huệ Tịch nói mau, chớ sa vào Ấm, Giới!

Ngưỡng Sơn nói:

- Huệ Tịch đây chỗ tin hiểu cũng chẳng lập.

Tổ Quy nói:

- Ông chỗ tin hiểu chẳng có lập. Chẳng tin, chẳng lập.

Ngưỡng Sơn nói:

- Chỉ đó là Huệ Tịch, còn tin gì nữa?

Tổ Quy nói:

- Nếu như thế là Định Tánh Thanh Văn.

Ngưỡng Sơn nói:

- Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập.

Tổ Vân Cư Ứng sai thị giả đem cái khố cho một đạo giả ở am.

Đạo giả nói:

- Tự có cái khố của mẹ sanh rồi, chẳng nhận.

Tổ Ứng lại sai thị giả hỏi:

- Khi cha mẹ chưa sanh, thì mặc cái gì?

Đạo giả không lời đáp.

Về sau, tịch; có xá lợi đem đến Tổ Ứng.

Tổ Ứng nói:

- Dù cho được tám hộc bốn đấu, chẳng bằng khi ấy thốt được một lời chuyển ngữ.

Vị đạo giả này, quyết nhận cái khố mẹ đẻ, thật đó là định tánh Thanh Văn. Ngưỡng Sơn lại có thể nói một lời chuyển ngữ rằng, Huệ Tịch đây, Phật cũng chẳng lập. Thật là thấy mặt mày lúc chưa sanh.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Phạm Vương vì họ thuyết pháp, khiến cho Giải Thoát.

Thông rằng: Phạm Vương, Chúa trời cõi Sắc tên là Thi Khí, đây gọi là Đảnh Kế, ở đỉnh cõi Sơ Thiền. Bậc Độc Giác, Thanh Văn ở cõi trời Tứ Không. Ở dưới là Phạm Vương. Dưới cõi Phạm Thiên là Lục Dục Thiên. Chẳng phạm dục trần, chẳng những không muốn cái dục thanh sắc thô kệch của nhơn gian, mà cái vui của trời Tha Hóa Tự Tại cũng chẳng ưa, muốn tiến đến Tứ Thiền, do niệm xả nên trong sạch, muốn được cái thân trong sạch không hỉ, không lạc vậy.

Tổ Nam Dương Trung Quốc Sư hỏi thiền sư Tư Không Sơn Bổn Tịnh rằng:

- Ông từ đây về sau thấy lời lẽ kỳ đặc thì như thế nào?

Tổ Tịnh nói:

- Không một niệm tâm ham.

Quốc Sư nói:

- Đó là chuyện trong nhà ông.

Lại có nhà sư hỏi Trung Quốc Sư:

- Như sao là Giải Thoát?

Quốc sư nói:

- Các pháp chẳng đến nhau, ngay đây là Giải Thoát.

Nhà sư nói:

- Như thế là đoạn dứt đi vậy.

Quốc Sư nói:

- Đã nói với ông là các pháp chẳng đến nhau, đoạn cái gì?

Từ chỗ tự hiện thân Phật thuyết pháp, đến đây là năm Pháp Giải Thoát, đều chỉ rút về một đường hướng thượng. Từ chỗ Đế Thích về sau, chỉ khiến cho thành tựu mà thôi. Phật Pháp và thế gian pháp, nếu thấy được cái Chân Thật, cả thảy nào có khác nhau.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn làm Chúa cõi Trời, thống lãnh Chư Thiên, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đế Thích, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Đế Thích có nhiều tên: Một là Thích Đề Hoàn Nhân, hai là Kiều Thi Ca; ở đỉnh Tu Di, bốn phía, mỗi phía là tám cõi trời, hợp lại là ba mươi hai cõi trời, đều thống lãnh hết.

Tôn giả Tu Bồ Đề một hôm đang thuyết pháp, vua Đế Thích rải hoa xuống.

Tôn giả hỏi:

- Hoa này từ trời được ư? Từ đất được ư? Từ người được ư?

Đế Thích rằng:

- Chẳng phải vậy.

Tôn giả nói:

- Từ đâu mà được?

Đế Thích liền đưa tay lên.

Tôn giả nói:

- Như vậy, như vậy.

Xưa, Đức Thế Tôn dùng ngọc Ma Ni chỉ bày cho Vua Trời ở năm phương. Mỗi vị nói là xanh, vàng, đỏ, trắng. Thế Tôn đưa tay lên mà chỉ bày, thế mà đều không thấy. Thế Tôn nói:

- Ta lấy ngọc thật chỉ bày cho các ông, mà đều chẳng biết.

Vua Trời ở năm phương do đó ngộ nhập.

Đế Thích nay trước Tôn Giả đưa tay lên, cái dụng thật là thân thiết. Vua Đế Thích cũng tỏ hiểu Thiền vậy.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, đi khắp mười phương, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Trời Tự Tại tức Trời Tha Hóa Tự Tại. Mượn chỗ gây làm của kẻ khác, lấy làm cái vui riêng mình, đó là trên đỉnh Dục Giới. Hoặc nói có riêng chỗ ở của Ma Vương, thì cũng gồm trong Trời Tự Tại.

Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa hành hóa nhiều nơi, người được độ rất nhiều. Do đó, cung ma chấn động, Ba Tuần lo sợ, bèn dùng hết ma lực để phá chánh pháp. Tôn giả bèn nhập định, xem xét nguyên do. Ba Tuần được dịp, lén cầm chuỗi ngọc tròng vào cổ Ngài. Tôn giả xuất định, bèn lấy ba thây chết của người, chó và rắn, hóa làm tràng hoa, dỗ Ba Tuần rằng:

- Ông cho tôi chuỗi ngọc, thật rất đẹp quý. Tôi có tràng hoa để dâng đáp nhau.

Ba Tuần rất mừng, đưa cổ ra nhận, bỗng biến thành ba thứ thây chết, giòi bọ nhoi đục sình thối. Ba Tuần gớm ghét, dùng hết thần lực mà chẳng dời chuyển, bèn bay lên cõi trời Lục Dục, bảo các Chúa Trời, cùng xin Phạm Vương, cầu được thoát khỏi.

Mỗi vị đều nói:

- Đệ tử của Phật thập lực đủ mọi thần biến, chúng tôi là hạng phàm lậu làm sao trừ nổi?

Ba Tuần nói:

- Thế thì làm sao?

Phạm Vương nói:

- Ông nếu hồi tâm với Tôn Giả, liền có thể trừ dứt.

Bèn nói bài kệ, khiến cho hồi hướng:

Đã do đất trợt té,
Phải do đất đứng dậy.
Lìa đất cầu đứng dậy,
Làm gì có lý ấy.

Ba Tuần nghe dạy rồi, liền xuống khỏi cung trời, lễ dưới chân Tôn Giả, thiết tha sám hối.

Tôn giả nói:

- Từ nay trở đi, đối với Phật Pháp, ông không còn làm rối hại nữa chăng?

Ba Tuần nói:

- Tôi thề hồi hướng Phật Đạo, vĩnh viễn dứt lìa điều ác.

Tôn giả nói:

- Nếu như thế, ông có thể tự miệng mình xướng lên lời quy y Tam Bảo.

Ma Vương chắp tay, xướng ba lần. Tràng hoa dẹp hết. Bèn vui vẻ nhảy nhót, làm lễ tôn giả mà nói bài kệ rằng:

Kính lạy Đấng Tam Muội,
Đệ tử Thánh Mười Lực.
Tôi nay nguyện hồi hướng,
Chẳng còn sự yếu hèn.

Xem bài kệ Phạm Vương, thật là lý nhiệm mầu của hồi hướng. Chẳng phải là Hóa Thân Bồ Tát đó sao?

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn Thân Tự Tại, bay đi trên hư không, tôi ở trước người ấy, hiện thân Đại Tự Tại Thiên, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Trời Đại Tự Tại tức là Ma Hê Thủ La Thiên. Ba mắt tám tay, cỡi trâu trắng, cầm phất trắng, ở đỉnh cõi sắc, nên bay đi trên hư không.

Kinh Niết Bàn nói:

- Sao gọi là kho bí mật? Giống như chữ , ba điểm, chụm dính lại thì chẳng thành chữ Y, tản ra cũng chẳng thành; như Ma Hê Thủ La Thiên, trên mặt có ba mắt, mới thành được chữ Y. Ba điểm riêng nhau, cũng chẳng thành được. Ta cũng như thế, cái pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết Bàn. Thân của Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn. Ma Ha Bát Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp, mỗi cái khác nhau, cũng không phải Niết Bàn. Nay Ta an trụ ba pháp như thế, vì chúng sanh mà gọi là nhập Niết Bàn, giống như chữ Y của đời.

Tổ Nham Đầu thượng đường, nói:

- Ta thường nghiên cứu kinh Niết Bàn, trong bảy, tám năm thấy hai ba đoạn nghĩa, giống như lời nói của nhà Thiền.

Rồi lại nói:

- Thôi! Thôi!

Khi ấy, có một nhà sư bước ra làm lễ, xin thầy nói ra.

Tổ Đầu nói:

- Giáo ý của ta như chữ Y ba điểm. Thứ nhất, hướng về phương Đông hạ một điểm, điểm khai mắt của các Bồ Tát. Thứ hai, hướng về phương Tây hạ một điểm, điểm mạng mạch của các Bồ Tát. Thứ ba, hướng phương trên hạ một điểm, điểm đảnh của các Bồ Tát. Đây là đoạn nghĩa thứ nhất. Lại nói, giáo ý của ta giống như banh mở cửa trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên, dựng đứng một con mắt lẻ. Đây là đoạn nghĩa thứ hai. Lại nói, giáo ý của ta như trống tẩm độc, đánh một tiếng xa gần nghe đến đầu chết ráo. Đây là đoạn nghĩa thứ ba.

Khi ấy, Thượng Tọa Tiểu Nghiêm hỏi:

- Như sao là trống tẩm độc?

Tổ Đầu hai tay đặt trên gối, thẳng thân, nói:

- Hàn Tín lâm triều vậy.

Thầy Nghiêm không có lời lẽ.

Tổ Phù Sơn Viễn thượng đường:

- Chư Phật ra đời dựng nên giáo pháp chẳng lìa Trí Nhãn Ba Thân, cũng như ba con mắt của trời Ma Hê Thủ La. Vì sao? Một con thì giọt nước rỉ chẳng thông, tăng tục khó biện. Một con thì đại địa vẹn mở, mười phương suốt khắp. Một con thì cao thấp trong một cái nhìn, muôn loại xem bằng. Tuy nhiên như thế, bổn phận nhà sư ở chỗ đường lối ngăn trở nhau phải có Chánh Nhãn thông thiên mới được. Bởi thế mới nói ba đời Chư Phật chẳng biết có. Loài hồ ly cái, trâu trắng đực lại biết có. Hãy nói hồ ly cái, trâu trắng đực biết có là có cái gì? Am hiểu ư?

Đêm Thu mưa giăng ngàn nhà vắng,
Ngày lụn tựa đài một tiếng tiêu.

Ba mắt trên mặt của Ma Hê Thủ La Thiên như ba điểm nếu chữ Y. Tông môn mượn đó xướng lên lẽ huyền. Chớ nói là không lời, Âm Thanh ấy như sấm!

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh Quỷ Thần, cứu hộ cõi nước, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Thiên Đại Tướng Quân thống lĩnh Quỷ Thần, làm Thượng Tướng của Đế Thích.

Ngài Thiên Thai Trí Giả ban đầu trụ ở Ngọc Tuyền.

Quan Công Đại Tướng Quân ứng mộng, nói:

- Tôi cùng con là Quan Bình cai trị núi này lâu rồi vậy.

Ngài Trí Giả thuyết cho giới ba Quy Y.

Quan Công thề nguyện làm Hộ Pháp. Đến nay vẫn cứu hộ cõi nước, vẫn rất linh hiển.

Thầy Truyền Sơn Phổ đến Tổ Hoàng Long thỉnh ý chỉ, hỏi rằng:

- Ông A Nan hỏi Tổ Ca Diếp: Ngoài áo cà sa, Thế Tôn phó truyền pháp gì?

Tổ Ca Diếp gọi lớn:

- A Nan!

A Nan ứng tiếng:

- Dạ.

Tổ Ca Diếp nói:

- Ngã rồi cây cột phướn trước cửa!

Ý chỉ thế nào?

Tổ Nam Công nói:

- Ông ra khỏi đất Thục từng đến Ngọc Tuyền chăng?

Đáp:

- Đã từng đến.

Lại hỏi:

- Từng ở lại chăng?

Đáp:

- Một đêm rồi đi.

Tổ Nam Công nói:

- Đạo tràng của Trí Giả, Quan Tướng Quân dâng cúng, cùng kết duyên nhau lúc nào mà ngại.

Thầy Phổ lặng im. Giây lâu hỏi lý trước. Tổ Nam Công cúi đầu.

Thầy Phổ bước ra rất hãi hùng, nói:

- Nghĩa hổ Tây Xuyên không làm tiêu một cái khạc nhổ của lão này.

Còn Tổ Thúy Nham Chân thượng đường:

- Tiên Đức nói, Việc này như đốt mai rùa. Đốt bèn thành điềm bày ra tốt xấu, không đốt thành không biết. Đốt cùng chẳng đốt, liền là hoa mắt. Thượng Lam thì chẳng thế, không cố chấp, không nhất định. Hư không cỡi ngựa, đất hạn đi thuyền. Núi Nam khởi mây, núi Bắc mưa xuống!

Bèn cầm cây gậy lên, nói rằng:

- Cây gậy hóa làm Thiên Đại Tướng Quân đi khắp bốn thiên hạ. Có giữ tiết hay chẳng giữ tiết, có giới hạnh hay chẳng giới hạnh, nhất thời tâu cùng trời Đế Thích.

Bèn hét, nói:

Trượng phu tự có chí xông trời,
Chẳng hướng đường đi Như Lai đi.
Dịch:
Trượng phu tự hữu xung thiên chí
Mạc hướng Như Lai hành xứ hành.

Liền đánh vào bàn một cái.

Hai vị tôn túc đây, đều đem Đại Tướng Quân mà thuyết pháp. Tức là vì Đại Tướng Quân mà thuyết pháp vậy.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Tứ Thiên Vương ở giữa núi Tu Di. Mặt trời mặt trăng đi qua vòng trước cung. Đó là thần của Đế Thích bảo hộ cho bốn cõi thiên ha.

Quan Lục Đại Phu hỏi Tổ Nam Tuyền:

- Thiên Vương ở địa vị nào?

Tổ Tuyền nói:

- Nếu là Thiên Vương, thì chẳng phải địa vị.

Ông Lục nói:

- Đệ tử nghe nói Thiên Vương ở Sơ Địa.

Tổ Tuyền nói:

- Đáng dùng thân Thiên Vương để được độ, liền hiện thân Thiên Vương, vì đó thuyết pháp.

Thử nói xem Nam Tuyền nói Giáo hay nói Tông?

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn sanh nơi Thiên Cung, sai khiến Quỷ Thần, tôi ở trước người ấy, hiện thân Thái Tử của Tứ Thiên Vương, vì họ thuyết pháp khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Theo phẩm Phổ Môn, có thần Chấp Kim Cang không có Quốc Thái Tử. Nhưng sai khiến Quỷ Thần là Thần Chấp Kim Cang tức là một loại Quốc Thái Tử vậy.

Thái Tử Na Tra, con Tỳ Sa Môn Thiên Vương, mỗi nửa đêm theo hầu Tuyên Luật Sư, hoặc đỡ chân cho khỏi té, hoặc đàm luận thắng cảnh Ngũ Đài Sơn. Đó là chỗ Nhị Thừa không biết nổi. Đây là ghi chép lại rõ ràng trong truyện Luật Sư.

Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư:

- Thái Tử Na Tra lóc thịt trả lại cho mẹ, chẻ xương trả lại cho cha. Sau đó hiện lại bổn thân, vận dụng đại thần lực, ở trên tòa sen, vì cha mẹ thuyết pháp; chưa rõ như thế nào là thân Thái Tử?

Đáp rằng:

- Mọi người đều thấy Thượng Tọa hỏi.

Nhà sư ấy hỏi:

- Như thế tức cõi Đại Thiên đồng một Chân Tánh vậy.

Quốc Sư nói:

- Phảng phất tựa khúc đàn mới nghe, lại bị gió thổi thành điệu khác.

Ngẫm nghĩ chỗ này thì thân Thái Tử, thân Bồ Tát mọi thứ chọn xét đều chẳng có ra được.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn làm Vua cõi người, tôi ở trước người ấy, hiện thân Vua, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Từ Vua Kim Luân, cho đến Vua Túc Tán đều là Vua của loài người vậy. Kinh Pháp Hoa chỉ nói đến Tiểu Vương, đều là chỉ Vua trong loài người.

Vua Văn Tông nhà Đường rất thích con sò. Quan Sử miền duyên hải lúc trước thường chuyển dâng, người phải nhọc mệt. Một hôm, trong ngự cổ có con chẻ chẳng mở ra. Vua lấy làm lạ, liền đốt hương cầu khẩn; bèn mở ra, thì thấy hình dung của vị Bồ Tát, tướng thanh tịnh đầy đủ. Vua bèn lấy hộp bằng cây hương đàn đỏ mà đựng, gấm tốt bao trên, hiến cho chùa Hưng Thiện, để cho chúng tăng chiêm ngưỡng, lễ bái. Vua hỏi quần thần đây là điềm lành gì? Bèn tâu ở núi Thái Nhất chỉ có thiền sư Chính, rõ sâu Phật pháp, xin chiếu mời hỏi. Vua liền xuống chiếu mời sư đến để hỏi việc ấy.

Tổ Chính nói:

- Đáng dùng thân này để được độ, liền hiện thân này, vì đó thuyết pháp.

Vua nói:

- Thân Bồ Tát đã hiện mà chưa nghe thuyết pháp.

Tổ Chính nói:

- Bệ hạ thấy đấy là thường ư? Là phi thường ư?

Vua nói:

- Sự lạ ít thấy, Trẫm rất tin vậy.

Bệ Hạ đã nghe thuyết pháp rồi vậy.

Lòng vua vui vẻ, ra chiếu cho chùa chiền trong thiên hạ, mỗi nơi đều lập tượng Quan Âm, để đền đáp việc tốt lành đặc biệt ấy.

Con sò đó dùng cái không nói mà nói, Tổ Chính dùng lời nói mà nói; đều là Hóa Thân đó vậy.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, tôi ở trước người ấy, hiện thân Trưởng Giả, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Bậc Trưởng Giả có đủ mười đức là dòng dõi sang quí, địa vị cao, giàu lớn, oai thế mạnh mẽ, trí sâu xa, tuổi thọ, hạnh trong sạch, đầy đủ lễ nghi, trên khen, dưới phục, giống như bậc nguyên lão của quốc gia.

Ông Lý trưởng giả tên là Thông Huyền, người Đông Bắc Thái Nguyên, hoặc gọi là bậc Tôn Thất nhà Đường. Năm Thứ Bảy Khai Nguyên, ở ẩn nơi Thổ Khám núi Phương Sơn, làm bộ Hoa Nghiêm Hiệp Luận gồm bốn mươi pho. Cọp quỳ đội kinh, rồng thần hóa suối. Ngày có Thiên Nữ hầu phụng, đêm thì ánh sáng của trăng thay đuốc. Ngày thị tịch, chim thú buồn kêu, khí sáng tột trời. Tuổi thọ chín mươi sáu.

Ông Trương Vô Tận cho là Đức Văn Thù, Phổ Hiền hiện huyễn thân, đâu biết chẳng phải Đức Quan Âm hiện huyễn thân vậy ư?

Kinh:

- Nếu các chúng sanh thích đàm luận những danh ngôn, giữ mình trong sạch, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Nghe rộng hiểu nhiều, chẳng cần quan tước, của cải giàu có, giữ chí liêm khiết, gọi là Cư Sĩ.

Ông Bàng Uẩn, hiệu Đạo Huyền, người xứ Hành Dương sớm ngộ sự mỏi nhọc của đời, chí tìm cầu chân lý.

Ban đầu, ra mắt Tổ Thạch Đầu, hỏi rằng:

- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?

Tổ Đầu lấy tay bịt miệng.

Hoát nhiên tỉnh ngộ.

Ngày nọ, Tổ Đầu hỏi:

- Từ khi gặp lão tăng đến nay, việc hàng ngày của ông thế nào?

Cư sĩ đáp:

- Nếu hỏi việc dùng hàng ngày, tức không có chỗ mở miệng.

Bèn trình kệ:

Việc hàng ngày không khác,
Riêng ta tự an bằng.
Mỗi mỗi không nắm, bỏ,
Chốn chốn chẳng chống ngăn.
Lộn xộn ai bày nhỉ?
Non Khưu bặt bụi trần,
Gánh nuớc cùng vác củi,
Đó: diệu dụng, thần thông.

Tổ Đầu bằng lòng, hỏi:

- Ông dùng áo đen hay trắng?

Cư sĩ nói:

- Nguyện theo chỗ thích.

Bèn chẳng cạo, nhuộm.

Sau đến tham vấn Đức Mã Tổ, hỏi rằng:

- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn lứa, ấy là người nào?

Ngài Mã Tổ nói:

- Đợi ông hớp một ngụm hết nước Tây Giang, ta sẽ vì ông nói!

Cư sĩ ngay lời nói nhận liền huyền chỉ. Bèn ở lại tham học hai năm.

Có bài kệ rằng:

Có trai chẳng cưới,
Có gái chẳng gả.
Cả nhà sum vầy lại,
Cùng nói lời Vô Sanh.

Từ đó cơ phong nhanh lẹ, các nơi đều hướng về.

Cư sĩ xứ Đông Độ, phải lấy họ Bàng làm đầu. Vợ chồng, trai gái đều lên Vô Thượng Giác. Đó là hậu thân của Duy Ma, Kim Túc rộng nói Pháp Môn Bất Nhị. Cũng chẳng là xưa cũ vậy.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh muốn trị cõi nước, chia rõ bang ấp, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tể Quan, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Như Lai dùng bốn việc để dẫn dắt chúng sanh, cùng họ đồng sự. Lời dễ hiểu, cơ dễ hợp. Nhưng Tể Quan ấy, đều ỷ tài nghệ, đều chấp nghị luận, chẳng phải đồng bực thì khó thể nói cùng. Nên hiện thân Tể Quan ở đời để cùng loại vậy.

Ông Hiến Công Biện Triệu Thanh ngoài bốn mươi tuổi dẹp bỏ thanh sắc, chí tâm vào Tông Giáo. Gặp Tổ Phật Huệ ở Nam Thiền. Ngày ngày ông đều lân la đến, Tổ Huệ chẳng thốt một lời. Sau giữ Thanh Châu, ngoài việc chánh quyền, phần nhiều tĩnh tọa. Bỗng sét nổ lớn kinh hồn, liền khế ngộ.

Làm bài kệ rằng:

Công sở lặng ngồi yên trên ghế,
Nguồn tâm chẳng động như nước trong.
Một tiếng sét ầm, khai cửa đảnh,
Kêu lên xưa trước tự nhà mình.

Tổ Huệ nghe được, cười rằng:

- Ông Triệu ưa nói văn vẻ vang rân, nhỉ.

Có Ông Phú Trịnh Công Bật ban đầu đối với tông môn chưa có chỗ hướng vào, ông gắng khuyên, viết thơ rằng:

- Trộm nghĩ, như Ngài, cực kỳ giàu sang như thế, dư dật đạo đức như thế, đầy đủ phước thọ an vui như thế, cao quý nhàn hạ hư ẩn như thế, chỉ có chỗ chưa lưu ý sâu xa, là một chuyện đại sự nhân duyên của Như Lai mà thôi. Nếu hay thành thật chuyên cầu chỗ chứng ngộ, ắt có ngày xin làm môn hạ chúc mừng.

Trịnh Công nhờ ông thức tỉnh khuyến khích, ngày đêm chẳng bỏ, tinh tấn trong đạo. Nghe thiền sư Ngung, chủ Đầu Tử, bèn đến gạn hỏi chỗ nghi. Gặp Tổ Ngung đang lên tòa, thấy Ngài nhìn lại như voi chúa quay đầu, hơi tỉnh ngộ, bèn giữ lễ đệ tử. Tổ bảo thị giả cho vào thất.

Tổ Ngung liền nói:

- Tướng Công đã vào, Phú Bật còn ở ngoài!

Ông nghe qua, mồ hôi toát ướt lưng, bèn đại ngộ.

Viết bài kệ gởi Viên Chiếu:

Vừa gặp Ngung Công, ngộ nhập thâm,
Được truyền lén lút lão sư tâm.
Đông Nam chớ nói non sông cách,
Ngày đối linh quang với diệu âm.

Đây là dùng thân Tể Quan, vì Tể Quan thuyết pháp mà được chứng vậy. Thật đủ làm khuôn mẫu cho đời.

Kinh:

- Nếu các chúng sanh thích những số thuật, nhiếp giữ thân tâm, tôi ở trước người ấy, hiện thân Bà La Môn, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Bà La Môn đây gọi là Tịnh Hạnh, rất tôn sùng ngoại đạo, như thờ Lửa, Nước, tức là hạng số thuật, nhiếp tâm, vệ sanh để tự an vậy. Số thuật hòa hợp với xem tướng, phương pháp thiên văn xem sự thịnh suy.

Tổ Cưu Ma La Thập dòng dõi Bà La Môn, nên xem bói họa, phước nhiều điều đúng kỳ lạ, số thuật của Ngài kể ra không hết.

Ông Thị Lang Lý Hạo lúc nhỏ xem Thủ Lăng Nghiêm, như về đất cũ; sau đến Minh Quả Đầu Thành nhập thất.

Tổ Ứng Am vỗ vào ngực, nói:

- Ông Thị Lang chết rồi đi đâu, nhỉ?

Ông hãi hùng toát mồ hôi.

Tổ Am quát đuổi ra.

Công rút lui tham cứu. Chưa bao lâu thì đến chỗ áo diệu, làm bài kệ gởi cho Ông Nghiêm Khương Triều, bạn đồng tham, rằng:

Cửa có quán Tôn Tẩn,
Nhà có vợ Cam Chí.
Đêm ngủ rồi sáng dậy,
Ai ngộ với ai mê.

Tổ Am khen tốt.

Có thầy Dục Yên Chi cũng học đã lâu với Tổ Ứng Am, có hơi tự phụ.

Ông tặng bài kệ rằng:

Chẳng cần son phấn tự phong lưu,
Đường thiền mấy nỗi đến đây thôi.
Qua suốt xưa nay chuồng cũi nhốt,
Đến đi trong ấy chịu ăn đòn.

Xem sự giao du của Ông Lý, đó là lấy hạnh Bà La Môn mà được chứng. Thường thường đều có, đâu chỉ một mình Cam Chí có Tịnh Hạnh thôi đâu.

Kinh:

- Nếu có người trai muốn học xuất gia, giữ các Giới Luật, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Đại Sư Tăng Già, người xứ Tây Vực, từng nằm nghỉ ở nhà Bà Hạ Bạt, thân bỗng lớn cao hơn giường chõng phải đến ba thước, làm người người đều kinh hãi. Kế đó hóa ra hình Quan Âm mười một mặt. Trong nhà càng thêm tin trọng, bèn sửa nhà thành chùa.

Vua Trung Tông sai sứ thỉnh vào đạo tràng, tôn làm Quốc Sư. Thường ở riêng một thất, trên đỉnh đầu có một cái lỗ, vẫn dùng nùi chỉ tơ nhét lại. Đêm thì mở ra, hương thơm từ trong lỗ ấy bay ra, đến sáng, hương thơm trở lại trong đảnh, rồi lại lấy nùi tơ nhét bít lại. Khi thị tịch, vua đưa đến xứ Lâm Hoài, xây tháp cúng dường.

Vua Trung Tông hỏi thầy Vạn Hồi rằng:

- Đại Sư Tăng Già là người nào thế?

Thầy Hồi đáp:

- Đó là hóa thân của Đức Quan Âm vậy. Phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa nói: Đáng dùng thân Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni để được độ, liền hiện thân, mà nói pháp cho. Chỗ này là như vậy đó.

Khi sư đến Trường An, thầy Vạn Hồi lạy ra mắt rất tôn kính.

Sư vỗ vai thầy, nói:

- Ông nhỏ sao ở lại lâu, đi được rồi đó.

Sư tịch chưa trọn tháng, thầy Hồi cũng tịch luôn.

Thầy Tiệm Nguyên làm thị giả nơi Tổ Đạo Ngô. Một hôm theo Tổ đến nhà đàn việt phúng điếu.

Thầy Nguyên vỗ trên quan tài, nói:

- Sống ư, chết ư?

Tổ Ngô nói:

- Sống cũng không nói, chết cũng không nói!

Thầy Nguyên nói:

- Vì sao mà không nói?

Tổ Ngô nói:

- Không nói! Không nói!

Về đến giữa đường, thầy Nguyên nói:

- Hôm nay Hòa Thượng phải nói ra cho tôi. Nếu không nói, thì đánh Hòa Thượng.

Tổ Ngô nói:

- Đánh thì cứ đánh, nói thì không nói.

Thầy Nguyên bèn đánh.

Tổ Ngô về chùa nói:

- Ông nên rời chốn này, sợ rằng thầy Tri Sự biết được thì không tiện.

Thầy Nguyên bèn lạy từ giã, ẩn nơi chùa trong làng.

Trải qua ba năm, bỗng nghe đồng tử tụng kinh Quan Âm đến chỗ, Đáng dùng thân Tỳ Khưu để được độ, tức hiện thân Tỳ Khưu, hốt nhiên đại ngộ. Liền đốt hương, ở xa mà lạy: Mới biết lời Tiên Sư để lại chẳng hư lầm. Chính tôi tự chẳng hiểu, lại hờn oán Tiên Sư.

Bèn đến Tổ Thạch Sương, bày cúng trai sám hối.

Thế là một câu Tỳ Khưu... này đủ rồi giải thoát. Trí lực Quan Âm nhiệm mầu, thế nên chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Kinh:

- Nếu có người gái muốn học xuất gia, giữ các Cấm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Tỳ Khưu Ni, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Giới Luật Tỳ Khưu có hai trăm năm mươi điều. Cấm Giới của Tỳ Khưu Ni phàm là năm trăm điều. Rõ ràng là hơn Tỳ Khưu, vì tánh nữ kém phần cao sáng, nên dùng Cấm Luật làm Giới vậy.

Ni Lưu Thiết Ma đến Tổ Quy Sơn.

Tổ nói:

- Trâu nái già, ngươi đến ư?

Ni Ma nói:

- Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng?

Tổ Quy Sơn duỗi chân nằm.

Ni Ma liền lui ra.

Có nhà sư hỏi Tổ Phong Huyệt:

- Tổ Quy Sơn nói Trâu nái già, ngươi đến ư? Ý chỉ như thế nào?

Tổ Huyệt nói:

- Chốn sâu rồng vàng múa mây trắng.

Nhà sư hỏi:

- Còn như Lưu Thiết Ma nói Ngày mai ở Đài Sơn có hội trai lớn, Hòa Thượng có đi chăng? Ý chỉ như thế nào?

Tổ Huyệt nói:

- Trong tâm xanh sóng, ngọc thỏ kinh.

Nhà sư hỏi:

- Quy Sơn bèn bày ra thế nằm, ý chỉ như thế nào?

Tổ Huyệt nói:

Lè phè già nghỉ ngày vô sự,
Rảnh ngủ cao nằm đối núi xanh.

Tổ Tuyết Đậu tụng rằng:

Từng ngồi ngựa sắt nhập bao thành
Lệnh xuống nghe rằng sáu nước trong
Đường về, như nắm roi vàng hỏi
Đêm sâu hành ngự với ai cùng.

Tổ Thiên Đồng tụng rằng:

Trăm chiến công thành lão thái bình,
Hơn thua ai chịu nhọc đo tranh.
Ngựa vàng roi ngọc nhàn suốt buổi,
Gió trong trăng sáng một đời sang.

Về các Tỳ Khưu Ni, cơ duyên ngữ cú rất nhiều, đều bày chuyện hướng thượng, nào thuật hết được, nên lục ra để làm khuôn mẫu.

Kinh:

- Nếu có người trai thích giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Năm Giới tức là giới Sát, Đạo, Dâm, Vọng Ngữ và Uống Rượu. Cư sĩ nam tức là cận sự nam, giữ sự trong sạch, hay giúp việc cho Tỳ Khưu vậy.

Vị đạo nhân Thứ Mười Ba ở Tiên Châu Sơn Ngô thường hỏi đạo các vị thiền đức, đến quy y Ngài Khai Thiện. Rồi kết am ở bên trái, dâng cấp hầu hạ. Đêm mồng Tám tháng Ba, đời Thiện Hưng, bỗng nhiên tỏ ngộ, làm bài kệ trình Ngài Thiện rằng:

Xưa nay không nứt, vá,
Chạm đến rỡ ràng ngay.
Đã là ngàn vàng báu,
Nào phải động dụng gì.

Ngài Thiện đáp lại bài kệ:

Đất nứt nẻ rồi vui khoái thay,
Tử sanh, phàm thánh sạch liền ngay.
Dưới núi Tiên Châu cười ha hả,
Chẳng phụ cùng nhau tâm xưa rày!

Cư sĩ nam này cũng là Giải Thoát.

Kinh:

- Nếu có người gái tự giữ năm Giới, tôi ở trước người ấy, hiện thân Cư Sĩ Nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Cư sĩ nữ gọi là cận sự nữ, giữ sự trong sạch, thường giúp việc cho Tỳ Khưu Ni vậy.

Cô Du Đạo Bà, người xứ Kim Lăng, làm nghề chiên bánh dầy ở chợ, theo chúng tham hỏi Tổ Lang Gia Khởi. Tổ Khởi lấy chỗ Vô Vị Chơn Nhơn của Tổ Lâm Tế nói mà bày chỉ. Một hôm, nghe người ăn xin ca bài Liên Hoa Lạc rằng Chẳng nhờ Liễu Nghị truyền thơ tín, duyên đâu đến được Động Đình Hồ, bỗng đại ngộ, bưng mâm bánh dầy ném xuống đất.

Chồng cô là Bàng Nghệ nói rằng:

- Bà điên ư?

Cô Bà vỗ tay, nói:

- Chẳng phải cảnh giới của ông.

Bèn đi ra mắt Tổ Khởi.

Tổ xa trông, biết chỗ sở đắc, hỏi:

- Cái gì là Vô Vị Chơn Nhơn?

Cô Bà nói:

Có một Vô Vị Chơn Nhơn,
Sáu tay ba đầu nỗ lực sân.
Một nẻo Hoa Sơn phân hai lối,
Muôn năm nước chảy chẳng hay xuân.

Từ đó, danh tiếng nổi lên. Cô thường tụng bài Bất An Nhân Duyên của Mã Tổ.

Cô nói:

- Mặt trời mặt trăng, hư không chớp nháng. Tuy là dứt yên đầu lưỡi nạp tăng trong thiên hạ, nhưng rõ ràng chỉ nói được một nửa.

Không ngờ cô cư sĩ mà thuyết pháp như vậy, há không có trăm ngàn ức Hóa Thân ư?

Kinh:

- Nếu có người nữ lập thân Nội Chính, để sửa sang nước nhà, tôi ở trước người ấy, hiện thân Nữ Chúa hay thân Quốc Phu Nhân, đại gia mệnh phụ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Lập thân trong Nội Chính để sửa sang nước nhà, dùng món ngon quý làm việc cúng tế, các việc này chẳng có gì không là Phật sự.

Tổ Chí Công nói:

- Kinh đô, huyện đô mênh mông lại là Bồ Đề Đại Đạo.

Lại nói:

- Đại Đạo chỉ là trước mắt, vậy mà trước mắt khó thấy. Muốn biết chân thể của Đại Đạo, nào lìa sắc thanh ngôn ngữ.

Đạo gần đến như vậy đó. Há cho người nữ là chẳng sẵn đủ ư?

Phu nhân Ông Mân Súy là Thôi Thị Phụng Đạo. Bà tự xưng là Luyện Sư.

Sai sứ đưa y phục đến Tổ Trường Khánh, nói rằng:

- Luyện Sư sai đến, xin hồi tin.

Tổ Khánh nói:

- Bảo Luyện Sư lãnh nhận hồi tin.

Giây lát, sứ đến trước mặt Tổ dạ lớn, rồi liền trở về.

Hôm sau, Tổ Khánh vào phủ.

Luyện Sư bung mở cả hai tay.

Ông Súy hỏi Tổ Khánh rằng:

- Luyện Sư vừa trình tin, đại sư vừa ý chăng?

Tổ Khánh nói:

- Gần gần chút ít.

Luyện Sư hỏi:

- Chưa rõ đại sư ý chỉ thế nào?

Tổ Khánh im lặng giây lâu.

Luyện Sư nói:

- Chẳng thể nghĩ bàn, Phật pháp đại sư thật sâu xa.

Đoạn công án này thật giống pháp môn Bất Nhị của Đức Duy Ma Cật.

Phu nhân nước Tần, Bà Kế Thị Pháp Chân, tự ở góa, xa lánh phồn hoa, thường ăn chay, học tập pháp hữu vi. Nhân Tổ Đạo Huệ bảo thị giả Khiêm đến hỏi thăm con của Ngụy Công. Công giữ thầy Khiêm lại, thầy dùng đạo Tổ mà dạy cho.

Bà Chân ngày nọ hỏi thầy Khiêm:

- Kính Sơn Hòa Thượng bình thường dạy người thế nào?

Thầy Khiêm nói:

- Hòa Thượng chỉ dạy cho người khán Con chó không có Phật Tánh, cùng với lời nói, Cái lược tre. Chỉ không được mở lời, không được nghĩ lường, không được hướng về chỗ khởi ra mà hiểu, không hướng về chỗ mở lời mà nhận lãnh. Con chó lại có Phật Tánh không? Không! (Vô!) Chỉ như vậy dạy người khán.

Bà Chân liền tin chân thành. Trong đêm ấy, ngồi ra sức nghiệm cứu lời nói ấy, bỗng nhiên rỗng suốt không ngại.

Thầy Khiêm từ giã trở về.

Bà Chân tự mình viết Kệ nói trường hợp vào đạo trình Tổ Huệ.

Bài chót viết:

Suốt ngày xem kinh văn,
Như gặp người quen cũ.
Chớ nói còn có ngại,
Mỗi cữ, mỗi lần tân (mới).

Những đại gia mệnh phụ được chứng không ít. Ai mà không được sự gia hộ lặng lẽ của Đại Sĩ, khiến có chỗ thành tựu ư?

Kinh:

- Nếu có chúng sanh không phá nam căn, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nam, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Tôn giả Vi Đà mười đời đồng chơn. Đồng tử Thiện Tài từ Nam tham hỏi trở về, qua tám chín chục tuổi, cũng có tên đồng tử. Đó là vì nam căn chưa hư vậy.

Thầy Phật Nhựt Bổn Không ban đầu đến Thiên Thai, nói rằng:

- Nếu có người đoạt được cơ của tôi, tức là thầy tôi vậy.

Tìm đến ra mắt Tổ Vân Cư, hỏi rằng:

- Hai rồng tranh châu, con nào được ấy?

Tổ Cư nói:

- Trút hết nghiệp thân đi, thì cùng ông tương kiến.

Thầy Không nói:

- Nghiệp thân đã trút.

Tổ Cư nói:

- Châu ở chốn nào?

Thầy Không chẳng đáp được, mới thành thật xin nhập thất, lúc ấy tuổi mới mười ba.

Bốn năm sau, viếng Tổ Giáp Sơn, vừa vào cửa gặp thầy Duy Na.

Thầy Duy Na nói:

- Chốn này chẳng chứa kẻ hậu sanh.

Thầy Không nói:

- Tôi đây chẳng tìm chỗ ở trú, tạm đến làm lễ ra mắt Hòa Thượng.

Duy Na bạch lại Tổ Giáp Sơn. Tổ Sơn cho gặp.

Thầy Không chưa bước lên thềm, Tổ Sơn liền hỏi:

- Ở đâu tới?

Thầy Không đáp:

- Vân Cư đến.

Tổ Sơn nói:

- Bèn nay ở tại chốn nào?

Thầy Không đáp:

- Tại trên chót đảnh Giáp Sơn.

Tổ Sơ nói:

- Lão tăng hành niên ở Khảm, Ngũ Quỷ lâm Thân.

Thầy Không định lên thềm.

Tổ Sơn nói:

- Ba Đạo thềm báu theo chỗ nào bước lên?

Thầy Không rằng:

- Ba Đạo thềm báu ngay khúc ngoặt này, một đường hướng thượng, xin thầy trực chỉ.

Tổ Sơn bèn đón chào. Thầy Không mới bước lên thềm lễ bái.

Tổ Sơn hỏi:

- Thầy Xà Lê cùng đi với người nào?

Đáp:

- Mộc Thượng Tọa.

Tổ Sơn nói:

- Sao chẳng đến cùng gặp lão tăng?

Đáp:

- Hòa Thượng thấy y đôi phần.

Tổ Sơn hỏi:

- Tại chốn nào?

Đáp:

- Tại trong nhà giảng.

Tổ Sơn bèn cùng đến trong nhà giảng. Thầy Không liền cầm cây gậy ném trước mặt Tổ Sơn.

Tổ Sơn nói:

- Chẳng phải Thiên Thai đắc ư?

Đáp:

- Chẳng phải Ngũ Nhạc sanh.

Tổ Sơn nói:

- Chẳng phải Tu Di đắc ư?

Đáp:

- Cung trăng cũng chẳng gặp.

Tổ Sơn nói:

- Như thế tức từ người được vậy?

Thầy Không nói:

- Tự mình còn là oan gia, từ người nhận được mà làm gì?

Tổ Sơn nói:

- Trong tro nguội có một hột đậu nổ.

Tổ gọi thầy Duy Na sắp xếp nơi chỗ cửa sổ mở.

Thầy Không nói:

- Chưa rõ cửa sổ mở lại nói được không?

Tổ Sơn nói:

- Đợi cửa sổ mở nói được, thì nói cho ông.

Hôm sau, Tổ Giáp Sơn thượng đường, hỏi:

- Ông khách đến hôm qua ở đâu?

Thầy Không bước ra, lên tiếng dạ.

Tổ Sơn nói:

- Thầy trước khi chưa đến Vân Cư, thì ở đâu?

Đáp:

- Tại Thiên Thai Quốc Thanh.

Tổ Sơn nói:

- Ta nghe Thiên Thai có nước chảy róc rách, sóng biếc lặng trong. Cám ơn thầy ở xa đến. Ý này như thế nào?

Đáp:

- Ở lâu hang núi, chẳng mang chùm gởi.

Tổ Sơn nói:

- Đó còn là Xuân ý, Thu ý thì làm sao?

Thầy Không im lặng giây lâu.

Tổ Sơn nói:

- Xem ông chỉ là đứa chống ghe. Rốt cuộc chẳng phải người giỡn sóng.

Hôm sau, nhóm chúng cắt việc. Thầy Duy Na khiến thầy Không vận tải trà.

Thầy Không nói:

- Tôi vì Phật Pháp mà đến, chẳng phải vì vận tải trà mà đến.

Thầy Duy Na rằng:

- Đó là vâng lời sự phân định của Hòa Thượng.

Thầy Không nói:

- Tôn lệnh của Hòa Thượng thì được.

Mới đem trà đến chỗ làm việc, khua chén trà gây ra tiếng.

Tổ Sơn quay ngó lại.

Thầy Không nói:

- Trà đậm năm ba chén, ý tại bên vạc trà.

Tổ Sơn nói:

- Bình có thế rót trà, trong giỏ bao nhiêu chén?

Thầy Không nói:

- Bình có thế rót trà, trong giỏ không một chén.

Bèn rót trà. Chúng đều đưa mắt nhìn.

Thầy Không nói:

- Đại chúng ngóng cổ trông mong, xin Thầy một lời.

Tổ Sơn nói:

Rắn chết giữa đường đừng đánh giết,
Giỏ không đáy ấy đựng mang về.

Thầy Không nói:

- Tay cầm bùa soi đêm, mấy ai hay trời sáng.

Tổ Sơn nói:

- Này đại chúng, có người rồi! Về thôi! Về thôi!

Liền bỏ công việc làm chung, trở về chùa. Chúng đều khen ngợi, ngưỡng mộ.

Ôi, đồng tử giác ngộ thật có vậy. Như Phật Nhật cùng Tổ Giáp Sơn gõ xướng, thật lạ lùng.

Kinh:

- Nếu có người xử nữ thích thân xử nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, tôi ở trước người ấy, hiện thân đồng nữ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Người không dâm trong tạo vật thì có thể đếm được vậy. Vì từ chỗ chẳng sạch, thì chẳng sạch chẳng đáng ham thích. Bị người xâm bạo, thì xâm bạo chẳng đáng ham thích. Vì ham vui bao nhiêu, thì càng tiều tụy bấy nhiêu. Huống gì gây nghiệp quả sanh tử, không có lúc ngừng nghỉ sao?

Ông Bàng Cư Sĩ, con gái là Linh Chiếu, trinh tiết vượt đời, nêu cốt cách cho người, thường cung cấp cháo rau sớm tối.

Ông Bàng đang ngồi, hỏi Cô Chiếu rằng:

- Người xưa nói, Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư, hiểu thế nào đây?

Cô Chiếu nói:

- Già cả rồi mà lời lẽ như thế!

Ông Bàng nói:

- Theo cô thì sao?

Cô Chiếu đáp:

- Rành rành trăm ngọn cỏ, rành rành ý Tổ Sư!

Bàng cư sĩ liền cười.

Ngày nọ, cư sĩ nhân xuống cầu bị ngã. Cô Chiếu thấy, liền đến nằm bên cha.

Cư sĩ nói:

- Ngươi làm gì vậy?

Cô Chiếu đáp:

- Thấy cha ngã xuống đất, con đến đỡ dậy.

Tổ Đơn Hà đến thăm cư sĩ, gặp Cô Chiếu đang rửa rau.

Tổ Hà hỏi:

- Cư sĩ có nhà chăng?

Cô Chiếu thả rổ rau xuống, khoanh tay đứng sững.

Tổ Đơn Hà lại hỏi:

- Cư sĩ có nhà chăng?

Cô Chiếu bưng rổ mà đi. Tổ Hà bèn trở về.

Chốc lát, cư sĩ về đến, Cô Chiếu nói lại chuyện trước.

Cư sĩ nói:

- Thầy Đơn Hà còn đây ư?

Cô Chiếu đáp:

- Về rồi.

Cư sĩ nói:

- Đất đỏ bôi trâu nái.

Cư sĩ sắp nhập diệt, bảo Cô Chiếu rằng:

- Xem mặt trời gần trưa, đúng Ngọ thì báo.

Cô Chiếu bèn nói:

- Mặt trời đúng Ngọ rồi, nhưng có nguyệt thực.

Cư sĩ ra cửa xem. Cô Chiếu liền lên chỗ ngồi của cha, chắp tay ngồi tịch.

Cư sĩ cười, nói:

- Con gái ta lanh lợi quá.

Ông bèn hoãn lại bảy ngày sau mới tịch.

Đời truyền rằng Cô Linh Chiếu là Cổ Phật hóa thân ở trong cõi đời này chứng Như Lai, cùng Long Nữ không khác, đều là không thể nghĩ bàn vậy.

Kinh:

- Nếu có Chư Thiên muốn ra khỏi bậc trời, tôi hiện thân trời, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Từ Đế Thích trở lên các Thiên Chủ, đều là bậc Bồ Tát Sơ Địa hiện thân để giáo hóa các vị trời vậy, cho nên không nói là Ra Khỏi. Các vị trời thuần lạc, ít tâm tinh tấn, tất là sanh nơi nhân gian, Không được năm trược mới có thể chứng quả. Cho nên thích làm người, muốn làm người cũng không nói được là: Ra khỏi. Chỉ có hạng Trời, Rồng, Tám Bộ, hẳn phải thoát khỏi loài mình, sau mới thành tựu. Nếu phân thân biến hoá, chẳng ở trong vòng luật lệ này.

Khi ấy, trong nhà Đức Duy Ma Cật, có một vị Thiên Nữ thấy các trời, người đến nghe thuyết pháp, bèn hiện thân dùng hoa trời rải lên các vị Bồ Tát và các đại đệ tử. Hoa đến Bồ Tát đều liền rơi xuống, đến các đại đệ tử thì dính chẳng rớt. Tất cả đệ tử, dùng thần lực phủi hoa mà chẳng phủi được.

Khi ấy, Thiên Nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất:

- Vì sao phủi hoa?

Đáp rằng:

- Hoa này chẳng như Pháp, vì thế phủi đi!

Thiên Nữ nói:

- Chớ nói hoa này chẳng như Pháp, vì sao thế? Vì hoa này không có chỗ phân biệt. Nhân giả tự sanh tướng phân biệt đó. Nếu theo Phật Pháp xuất gia mà có chỗ phân biệt, thế là chẳng như Pháp. Nếu không có chỗ phân biệt, đó là như Pháp. Hãy nhìn các vị Bồ Tát, hoa chẳng dính bám, vì đã dứt lìa tất cả tưởng phân biệt. Thí như khi người sợ, ma quỷ mới được dịp. Cũng thế, vì đệ tử sợ sanh tử, cho nên Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc được thừa dịp vậy. Đã lìa sợ sệt, tất cả năm dục chẳng thể làm gì. Sự kết tập chưa hết, thì hoa dính thân. Sự kết tập dứt hết, hoa chẳng dính vậy.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Thiên Nữ ở nhà này đã được bao lâu?

Đáp rằng

- Tôi ở nhà này như sự giải thoát của Ngài.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Ở đây lâu thế sao?

Thiên Nữ đáp:

- Sự Giải Thoát của Ngài cũng là lâu sao?

Xá Lợi Phất lặng thinh chẳng đáp.

Thiên Nữ nói:

- Bậc Đại Trí kỳ cựu như sao mà lặng im?

Đáp rằng:

- Sự Giải Thoát không có lời để nói, cho nên đối trong ấy, tôi chẳng biết nói sao.

Thiên Nữ nói:

- Lời nói, văn tự đều là tướng Giải Thoát. Vì sao như thế? Giải Thoát ấy là chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Văn tự cũng chẳng trong chẳng ngoài, chẳng ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ lìa văn tự mà nói Giải Thoát. Vì sao như thế? Tất cả các pháp chính là tướng Giải Thoát.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Chẳng phải vì lìa Dâm, Nộ, Si là Giải Thoát sao?

Thiên Nữ nói:

- Phật vì người tăng thượng mạn, nói lìa Dâm Nộ Si là Giải Thoát. Nếu người không có tăng thượng mạn, Phật nói tánh Dâm Nộ Si tức là Giải Thoát.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Lành thay! Lành thay! Thiên Nữ! Cô đắc chỗ gì, chứng được pháp gì, biện luận đến như thế?

Thiên Nữ nói:

- Tôi không đắc, không chứng, nên biện luận như vậy. Vì sao như thế? Có đắc, có chứng tức trong Phật Pháp là người tăng thượng mạn.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ:

- Đối nơi Ba Thừa, chí cô cầu gì?

Thiên Nữ đáp:

- Cần pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh nên tôi làm Thanh Văn. Cần pháp Nhân Duyên giáo hóa chúng sanh, nên tôi làm Bích Chi Phật. Cần pháp Đại Bi giáo hóa chúng sanh, nên tôi là Đại Thừa. Ngài Xá Lợi Phất, như người vào rừng Chiêm Bặc, chỉ ngửi hương Chiêm Bặc, chẳng ngửi hương nào khác. Cũng thế, như vào nhà này, chỉ nghe hương công đức Phật, chẳng thích nghe hương công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Bấy giờ Đức Duy Ma Cật nói với Ngài Xá Lợi Phất:

- Vị Thiên Nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Chư Phật, đã hay du hý Bồ Tát Thần Thông. Chỗ nguyện đầy đủ, đắc Vô Sanh Nhẫn, trụ bậc Chẳng Lui Sụt. Vì bổn nguyện nên tùy ý thị hiện, giáo hóa chúng sanh.

Đây là Quan Thế Âm chăng? Chẳng phải Quan Thế Âm chăng?

Kinh:

- Nếu có các Rồng muốn ra khỏi bậc Rồng, tôi hiện thân Rồng, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Loài Long Thần rất biết kính trọng Tam Bảo, nên kho tàng dưới biển ở Long cung chứa đầy Phật Pháp. Họ nghe Pháp mà được Giải Thoát cũng dễ dàng. Như trong kinh Pháp Hoa, Đức Bồ Tát Văn Thù dạy Cô Long Nữ.

Khi ấy, Ông Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng:

- Cô nói là chóng đắc Đạo Vô Thượng, việc ấy khó tin. Vì sao như thế? Thân nữ dơ bẩn, chẳng phải là Pháp Khí, làm sao có thể đắc Bồ Đề Vô Thượng? Đạo Phật tót vời mênh mông, qua vô lượng kiếp cần khổ bồi hạnh, tu đủ các ba la mật, rồi sau mới thành. Lại thân người nữ còn năm chướng ngại. Một là chẳng được làm Phạm Thiên Vương; hai là Đế Thích; ba là Ma Vương; bốn là Chuyển Luân Thánh Vương; năm là thân Phật. Làm sao thân nữ chóng đắc thành Phật?

Lúc ấy, Long Nữ có một ngọc báu giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Phật. Phật liền nhận ngọc.

Long Nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và Tôn Giả Xá Lợi Phất rằng:

- Tôi dâng ngọc báu, Thế Tôn thu nhận, việc ấy nhanh chăng?

Đáp rằng:

- Rất nhanh.

Long Nữ nói:

- Dùng thần lực, Ngài xem tôi thành Phật còn nhanh hơn thế.

Chúng hội đương thời đều thấy Long Nữ trong khoảng khắc hốt nhiên biến thành ra trai, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu Nam Phương ngồi tòa sen báu, thành Đẳng Chánh Giác, ba mươi hai tướng, tám chục thứ tốt, khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn thuyết diệu pháp.

Khi ấy, nơi thế giới Ta Bà, Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, Rồng, tám bộ, người cùng Quỷ Thần đều xa thấy Long Nữ ấy thành Phật.

Đó là chỗ thuyết pháp thành tựu của Đức Văn Thù.

Biết đâu chỗ thành tựu của Đức Quan Âm chẳng lại như thế ư?

Kinh:

- Nếu có Dược Xoa muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Dược Xoa, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Dược Xoa gọi là nhanh nhẹ, cũng gọi là dò xét, tức là để giữ thành trì cửa Trời vậy.

Thầy Thích Thanh Hư tụng Kim Cang Bát Nhã, ba nghiệp đều chuyên nhất, thường trì tụng nơi núi rừng, có điềm lành bảy con nai thuần lành thuận theo. Khi thầy nhập hạ tại Thiếu Lâm, trên đỉnh núi có một cái thất thờ Phật, không ai dám đến, cho là nhà của Quỷ Thần.

Từng có một thầy Luật Sư ỷ vào Giới Hạnh, đêm nọ đến tụng Luật thì thấy một người cao lớn cầm giáo đâm mình, lê lết khốn khổ xuống núi, đi không nổi, mất hết khí lực.

Lại còn có nhà sư trì chú Hỏa Đầu Kim Cang, ai cũng tôn trọng. Đại chúng nói với thầy rằng:

- Chú lực của thầy vô song, có thể ở nơi đó được chăng?

Đáp rằng:

- Đây há sợ ư?

Liền cầm hương đèn và ngồi trì chú. Chốc lát, vị thần xuất hiện, lấy tay nắm cẳng lôi đi, ném xuống khe nước. Suốt bảy ngày chẳng nói được, tinh thần hôn mê đảo lộn.

Thầy Thanh Hư nghe được, nói rằng:

- Hạ thú, quỷ vật dám thế ư?

Liền sang đó tụng kinh như thường. Đêm nghe trên không dường như có tiếng rất hung ác, liền niệm chú Quan Âm Thập Nhất Diện. Lại nghe trong điện như có tiếng hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều rung rinh. Chú cũng đã mất hiệu nghiệm. Trở lại trì tụng kinh Kim Cang, tương tự như một cái gút vững chắc, thì ảnh hưởng đều dứt.

Từ đó, người ở không còn lo sợ. Há cũng là nghe tứ cú kệ mà chóng được Giải Thoát đó ư?

Có nhà sư hỏi Tổ Đạo Ngô Chơn:

- Thế nào là thể Chân Như?

Đáp:

- Dạ Xoa quỳ gối, con ngươi đen thui.

Hỏi:

- Thế nào là dụng Chân Như?

Đáp:

- Gậy Kim Cang đập bể núi Thiết Vi.

Tức đây là chỗ dẫn ra Thần Kim Cang, quỷ Dạ Xoa, cũng đủ phát minh việc hướng thượng. Há đâu chẳng phải Chân Như sao?

Kinh:

- Nếu có Càn Thát Bà muốn thoát loài mình, tôi ở trước người ấy, hiện thân Càn Thát Bà, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Càn Thát Bà gọi là Tầm Hương, là Thần Nhạc của Đế Thích.

Nhân dịp Vua Càn Thát Bà hiến nhạc cho Đức Thế Tôn, khi ấy núi sông đất đai, hết thảy đều khởi tiếng đàn.

Ngài Ca Diếp đứng lên nhảy múa.

Vua hỏi:

- Ca Diếp há chẳng phải là A La Hán, các lậu đã hết, sao còn sót tập khí cũ?

Phật rằng:

- Thật không còn tập khí cũ, chớ phỉ báng pháp.

Vua lại gảy đàn ba phen thì Ngài Ca Diếp cũng ba phen nhảy múa.

Vua nói:

- Không phải Ca Diếp nhảy múa sao?

Phật rằng:

- Thật chẳng từng nhảy múa.

Vua nói:

- Thế Tôn sao có vọng ngữ?

Phật rằng:

- Chẳng có vọng ngữ. Ông đánh đàn, núi sông đất đai gỗ đá hết thảy đều nổi tiếng đàn, chẳng phải sao?

Vua nói:

- Thật vậy.

Phật rằng:

- Ông Ca Diếp cũng lại như thế. Vì thế thật chẳng từng nhảy múa.

Vua bèn tin nhận.

Cổ đức tụng rằng:

Nhè nhẹ gảy lên một tiếng đàn,
Vang tiếng Tam Thiên với Đại Thiên.
May có Ẩm Quang hay ý ấy,
Mới dùng tay (áo) lụa rước khói xuân.

Tổ Huyền Sa hỏi nhà sư:

- Thành Càn Thát Bà, ông hiểu thế nào?

Đáp:

- Như mộng như huyễn.

Tổ Pháp Nhãn riêng gõ vật chỉ bày đó.

Hai tắc công án này thịnh hành. Thật là Thần Càn Thát Bà còn ở đây nói pháp.

Kinh:

- Nếu có A Tu La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân A Tu La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: A Tu La gọi là Phi Thiên, lại gọi là Vô Tửu, vì sân mà chẳng do uống rượu. Lại gọi là Không Đoan Chánh, vì nữ đẹp mà nam xấu vậy.

Tổ Lâm Tế nói:

- Ông nói Phật có sáu thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả Chư Thiên, Thần Tiên, A Tu La, Đại Lực Quỷ cũng có thần thông, có phải là Phật chăng? Kẻ học đạo chớ lầm! Như A Tu La cùng Trời Đế Thích đánh nhau, thua trận, dẫn tám vạn bốn ngàn quyến thuộc chun trốn trong lỗ cọng sen, không là Thánh ư?

Như chỗ nêu ra của sơn tăng, đó đều là Nghiệp Thông, Y Thông(). Phàm như Lục Thông của Phật, thì vào Sắc Giới chẳng bị Sắc lầm gạt; vào Thanh Giới chẳng bị Tiếng lầm gạt; vào Hương Giới chẳng bị Hương lầm gạt; vào Pháp Giới chẳng bị Pháp lầm gạt. Vì lẽ thông đạt sáu thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là Không Tướng, làm sao trói buộc. Đạo nhơn Không chỗ nương này tuy là xác phàm năm Ấm, chính là bậc Địa Hành Thần Thông.

Khiến cho A Tu La nghe được pháp này mà đem hồi hướng lục thông, chẳng có tự ỷ vào cái Thần Thông Nương Dựa vậy. Thì sao có sự không thể Giải Thoát ư?

Kinh:

- Thêm vào rằng: Nếu có Ca Lâu Na muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Ca Lâu Na, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Theo bản dịch kinh Pháp Hoa, Bích Chi Phật tuy gồm hai ý Độc Giác, Duyên Giác mà thật chỉ là một Bích Chi vậy. Kinh này đối với Độc Giác, Duyên Giác chia làm hai, mới thiếu một loài Ca Lâu Na, đối với phẩm Phổ Môn chẳng phù hợp, nay bổ khuyết thêm. Ca Lâu Na gọi là Kim Xí Điểu, cánh màu vàng, dương ra dài ba trăm ba mươi sáu vạn dặm, xem rồng biển nào mạng sắp hết thì dùng cánh quạt tách nước biển, bắt lấy mà ăn.

Thuở Ông Xá Lợi Phất sáng lập vườn Cấp Cô Độc, cùng với Lao Độ Sai tranh thắng. Thầy Sai hóa rồng dữ muốn hại Ông Phất. Ông Phất hóa ra chim Diệu Xí chụp xé mà ăn.

Về sau có nhà sư hỏi Tổ Hưng Dương Phẩu rằng:

- Ta Kiệt xuất biển, Càn Khôn sạch. Đối mặt trình nhau sự thế nào?

Tổ Phẩu nói:

- Diệu Xí Điểu Vương trùm vũ trụ. Trong kia ai kẻ ló đầu ra?

Nhà sư hỏi:

- Bỗng gặp lúc ló đầu, lại làm thế nào?

Tổ Phẩu nói:

- Như (chim) cắt, bắt (chim) cưu, ông chẳng rõ. Trước lầu ngự nghiệm mới hay Chân.

Nhà sư nói:

- Như thế ắt khoanh tay ngay ngực, lui thân ba bước!

Tổ Phẩu nói:

- Dưới núi Tu Di con rùa đen ngu ngốc. Chẳng đợi dạy lại chuyện Điểm dấu trên trán.

Tổ Thiên Đồng tụng rằng:

Chiếu chỉ xuống, hiệu lịnh phân,
Trong cõi: Thiên Tử; ngoài ải: Tướng Quân.
Chẳng chờ sấm chớp nở sâu,
Ai hay gió tạt mây đi.
Cơ quan ấy liên miên, hề, tự có kim vàng chỉ ngọc
Trước mặt ấn rộng không, hề, nguyên không dấu điểu vết trùng.

Đây là dùng Kim Xí Điểu phát minh việc hướng thượng, thì không đối thủ, nên Kim Xí Điểu hẳn là Thuyết Pháp Đệ Nhất.

Kinh:

- Nếu có Khẩn Na La muốn thoát loài mình, tôi ở trước vị ấy, hiện thân Khẩn Na La, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Khẩn Na La gọi là Nghi Nhân, vì thân người mà có sừng, thấy đó đâm nghi. Đây là Thần Pháp Nhạc của Thiên Đế. Càn Thát Bà tấu nhạc thế gian. Khẩn Na La thì tấu nhạc xuất thế gian. Tấu pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, sáu Ba La Mật thì nhạc phàm tục không thể sánh.

Hiện đời này, thần Già Lam chùa Thiếu Lâm từng hiện thần lực, hai chân nhảy vượt hai hòn núi Thái Thất và Thiếu Thất, cầm gậy đuổi giặc. Giặc sợ, vỡ tan chẳng dám vào chùa. Sư trong chùa vì lẽ ấy nên phần nhiều học quyền bổng. Mỗi khi điều động dẹp giặc, chỉ tụng danh hiệu Khẩn Na La Vương Bồ Tát, do đó không khiếp sợ, thường thường thắng địch. Hoặc nói rằng: Tức là Quan Âm Bồ Tát hóa thân vậy.

Thầy Phong Huyệt làm người coi vườn ở Tổ Nam Viện. Một hôm, Tổ Nam Viện đến vườn, hỏi rằng:

- Một gậy phương Nam làm sao thương lượng?

Thầy Huyệt rằng:

- Thương lượng kỳ đặc!

Chập lâu, thầy Huyệt lại hỏi:

- Nơi đây Hòa Thượng làm sao thương lượng?

Tổ Nam Viện dơ gậy lên, nói:

Dưới gậy: Vô Sanh Nhẫn,
Đang cơ: chẳng thấy Thầy.

Thầy Huyệt ngay ấy hoát nhiên đại ngộ.

Pháp bổng của Tổ Lâm Tế ít có truyền lại, mà pháp bổng của Khẩn Na La cho đến nay thương lượng cũng chưa rồi. Có khác ư? Không khác ư?

Kinh:

- Nếu có Ma Hô La Già muốn thoát loài mình, tôi ở trước họ, hiện thân Ma Hô La Già, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Ma Hô La Già gọi là Đại Mãng[15](), bò đi bằng bụng, cũng gọi là Rồng Đất gìn giữ Già Lam vậy.

Tổ Thứ Mười Ba là Tôn Giả Ca Tỳ Ma La, đi trong núi chừng vài dặm đường, gặp một con trăn lớn. Tổ đi thẳng chẳng để ý đến, trăn mới quấn quanh thân Tổ. Tổ nhân đó truyền cho pháp Tam Quy Y. Trăn nghe xong mà lui đi.

Tổ đến hang đá, một ông già mặc áo trắng bước ra, chắp tay chào hỏi.

Tổ hỏi:

- Ông ở chốn nào?

Đáp rằng:

- Xưa tôi từng làm Tỳ Khưu, rất thích sự lặng yên. Có nhiều kẻ mới tu đến học đạo, tôi bực chuyện ứng đáp, khởi tưởng sân hận. Mạng hết, đọa làm thân trăn, ở trong hang này đã ngàn năm nay. Vừa rồi gặp được Tôn Giả, được nghe Giới Pháp, nên cảm tạ vậy.

Tổ hỏi rằng:

- Núi này còn có ai ở không?

Đáp:

- Cách đây mười dặm, có cây lớn che năm trăm con rồng lớn, Thọ Vương ấy tên Long Thọ, thường vì chúng rồng nói pháp. Tôi cũng được nghe.

Tổ bèn đến đó.

Long Thọ bước ra đón, nói:

- Núi sâu cô tịch, rồng rắn ở đầy, Đại Đức Chí Tôn, việc gì phải đến đây?

Tổ nói:

- Tôi chẳng phải bậc Chí Tôn, đến thăm hiền giả đó.

Long Thọ nghĩ thầm rằng:

- Thầy này đắc đạo nhãn quyết định tánh minh chăng? Là Đại Thánh kế tục Chân Thừa chăng?

Tổ nói:

- Tuy ông nói trong lòng, tôi đã biết ý. Chỉ việc xuất gia, lo gì tôi chẳng Thánh?

Ông Long Thọ nghe xong, ăn năn tạ lỗi. Tổ liền độ thoát cho. Đến năm trăm chúng Rồng, đều thọ Giới Cụ Túc.

Bài kệ truyền pháp rằng:

Pháp chẳng ẩn chẳng hiển,
Nói đấy Chân Thật Tế.
Ngộ pháp ẩn hiển này,
Chẳng ngu cũng chẳng trí.

Chỉ cái chẳng ngu chẳng trí này thì rồng rắn cũng đều có thể độ thoát vậy.

Kinh:

- Nếu có chúng sanh thích loài người, tu làm người, tôi hiện thân người, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Ở trước, nào là vua chúa, tể quan, trưởng giả, cư sĩ, trọn bốn chúng, chẳng phải là người ư? Sao còn có kẻ muốn tu làm loài người? Ấy là chỉ hạng sĩ, nông, công, thương, là nói những người không để ý đến Tam Thừa. Họ vẫn sẵn đủ Phật Tánh, suốt ngày từng thuyết pháp mà chẳng tự hay biết vậy.

Thiền sư Bàn Sơn Tích nhân đi dạo chơi phố chợ, thấy một người khách mua thịt heo nói với người hàng thịt rằng:

- Thứ ngon, cắt cho một cân.

Người hàng thịt ném dao xuống, khoanh tay nói:

- Thưa Ngài, có cái nào chẳng phải thứ ngon đâu?

Sư nơi đây có chỗ tỉnh ngộ.

Lại ngày nọ ra cửa, thấy người ta xúm khiêng đám táng, phường ca đánh chuông ca rằng:

- Vầng hồng quyết định về Tây lặn. Chưa rõ hồn linh đến chốn nao?

Dưới trướng, đám con hiếu khóc lên ai oán.

Sư bỗng nhiên thân tâm bay bổng, về nói lại với Đức Mã Tổ. Tổ ấn khả cho.

Hòa Thượng Bửu Thọ ban đầu ở Tổ Bửu Thọ làm chủ cúng dường.

Tổ Thọ hỏi:

- Trước khi cha mẹ sanh ra, đưa đây cái bổn lai diện mục ta xem!

Sư đứng đến khuya, đáp lời chẳng khế hợp, sáng ngày từ giã ra đi.

Tổ Thọ hỏi:

- Ông đi đâu?

Sư đáp:

- Hôm qua, nhờ Hòa Thượng hỏi, con chẳng hiểu được, nên sang phương Nam tham học thiện tri thức.

Tổ Thọ nói:

- Phương Nam cấm Hạ chẳng cấm Đông, ta ở đây cấm Đông chẳng cấm Hạ. Ông hãy kiết hạ ngay chốn phố phường. Thật là Phật Pháp thì trong chỗ đô hội, bụi trần dầy đẫy thường thuyết chánh pháp!

Sư chẳng dám bỏ đi.

Một hôm, giữa ngã tư thấy hai người đang cãi nhau. Một người hoa nắm tay, nói:

- Mày thật là đồ không mặt mũi!

Sư ngay đó đại ngộ. Chạy về ra mắt Tổ Bửu Thọ, chưa kịp mở lời, Tổ đã nói:

- Ông hiểu rồi, khỏi cần nói!

Sư bèn lễ bái.

Hai tắc này, chỉ hiện thân người, bèn hay thuyết pháp, há phải Đại Sĩ hiện ra rồi sau mới có thành tựu ư?

Kinh:

- Nếu có các Phi Nhơn, Vô Hình hoặc Hữu Hình, Hữu Tưởng hoặc Vô Tưởng, muốn thoát loài mình, tôi ở trước kẻ ấy, đều hiện thân họ, vì họ thuyết pháp, khiến cho thành tựu.

Thông rằng: Trời, Rồng nói là Xuất (Ra). Trời hay chán sự vui, Rồng hay sợ khổ, vì tự có con đường xuất thân, rất dễ độ vậy. Loài Càn Thát Bà, nói là Thoát (Khỏi), vì nghiệp báo ràng buộc, rất khó giải thoát. Phi Nhơn, Dược Xoa nói là Độ (Qua) vì đã chìm trong sự khổ sở tối tăm, như đắm trong biển lớn, ắt cần bè cứu vớt, đều gọi là độ thoát, nhưng trong ấy khó dễ chẳng đồng như thế. Loài vô hình, vô tưởng là loài thần quỷ, tinh linh vậy. Loài hữu hình vô tưởng là đất, cây, kim, đá vậy.

Kinh Du Già Diệm Khẩu, Tiêu Diện Quỷ Vương tức là Đức Quan Âm Đại Sĩ hóa hiện ra vậy.

Ở Trung Nhạc, có Hòa Thượng Phá Táo Đọa lời lẽ việc làm không thể lường được. Trũng núi có cái miễu rất linh, trong điện chỉ để một cái bếp, xa gần cúng kiến chẳng ngớt.

Sư một ngày kia dẫn thầy đạo hầu đi vào miếu, lấy gậy gõ bếp ba cái, nói:

- Ối chà! Cái này chỉ là đất sét nhồi thành, Thánh từ đâu đến, linh từ đâu ra mà nấu nướng sinh mệnh thế!

Lại đánh ba cái. Bếp bèn bể ra rớt xuống.

Chốc lát, có một người áo xanh mũ cao hiện ra, làm lễ trước mặt sư.

Sư nói:

- Người nào đây?

Đáp:

- Tôi vốn là thần bếp miễu này, đã lâu chịu nghiệp báo. Ngày nay nhờ thầy nói pháp Vô Sanh, được thoát khỏi chốn này, sanh ở cõi trời, riêng đến tạ ơn.

Sư nói:

- Đó là cái Tánh vốn có của ông, chẳng phải ta gượng nói.

Vị thần lại làm lễ rồi biến mất.

Chút sau, thầy đạo hầu hỏi rằng:

- Chúng con hầu Hòa Thượng đã lâu, mà chẳng được bày dạy, thần bếp được yếu chỉ vắn tắt nào mà liền được sanh cõi trời?

Sư đáp:

- Ta chỉ hướng về người ấy nói: Đó là đất sét hòa thành. Không có đạo lý gì riêng cho ông ta.

Thầy đạo hầu không có lời nào để nói.

Sư hỏi:

- Hiểu chăng?

Đạo hầu nói:

- Chẳng hiểu.

Sư nói:

- Cái Tánh sẵn có, vì sao chẳng hiểu?

Thầy đạo hầu liền bèn lễ bái.

Sư nói:

- Rớt rồi! Rớt rồi! Bể rồi! Bể rồi!

Về sau, thiền sư Nghĩa Phong kể lại với An Quốc Sư. Tổ An than rằng:

- Vị ấy hiểu trọn vật-ngã nhất như, khá nói như trăng sáng giữa không, không đâu chẳng thấy. Thật khó có ra cái ngữ mạch của người ấy.

Sư Phong hỏi:

- Chưa rõ người nào có được ngữ mạch ấy?

Tổ Am nói:

- Người chẳng biết thì gọi là Phá Táo Đọa!

Không biết là ai, há cũng chẳng phải là sự hóa hiện của Đức Quan Âm ư?

Kinh:

- Đó gọi là ba mươi hai Ứng Thân Diệu Tịnh, vào các cõi nước. Đều là Diệu Lực Vô Tác của Văn Huân Văn Tu Tam Muội mà tự tại thành tựu.

Thông rằng: Hiệp Luận nói, chỗ nói cái Diệu Lực Vô Tác tự tại thành tựu, là chỗ trong kinh Tạp Hoa xưng là Phổ Hiền Đối Hiện Sắc Thân, Kinh Pháp Hoa xưng là Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội, vậy. Bởi vì âm thầm xông khắp pháp giới, là cái căn lực từ thiện, chân tế bất động, ứng hiện khắp mười phương. Lấy cái Từ Bi của Thánh Hạnh ứng với cơ Không, thì giữ lấy hình thể bất tịnh, hình trạng dường như dễ sợ. Lấy cái Từ Bi của Thiên Hạnh ứng với cơ Trung, thì như ngựa hay thấy bóng roi, chạy đường thẳng lớn, không gì ngại sợ. Lấy cái Từ Bi của Phạm Hạnh ứng với cơ Giả, thì ngồi tòa sư tử, để chân ghế báu, như người buôn bán giỏi, qua khắp các nước, vào ra đều lời lãi, không đâu chẳng có. Đó là ba thứ cơ Không, Giả và Trung, nói ra khiến cho chúng sanh thấy sự việc như thế, đây là Sắc Thân Tam Muội của kinh Pháp Hoa vậy.

Thần dụng Như Lai khắp mười phương, tùy căn mà đối hiện. Dùng nguyện lực đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh, nên trong một niệm là toàn khắp mà không có gây làm. Như địa vị Diệu Giác, chỗ lợi lạc cho chúng sanh thảy đồng pháp giới, tùy căn tùy thời, Đối Hiện Sắc Thân, chẳng làm mà dụng, chẳng gây mà ứng. Dùng Trí sáng rỡ khắp nơi, chẳng thuộc nơi chốn, đồng tâm chúng sanh, tùy vật hiện hình, không đến không đi, đây là Đối Hiện Sắc Thân của Kinh Tạp Hoa vậy. Đây là tùy duyên mà thị hiện, đều tức là Như Huyễn, nên dùng Như Huyễn Tam Muội, Văn Huân Văn Tu tự tại thành tựu.

Tổ Lâm Tế nói:

- Chỗ nói của sơn tăng, chỉ là cái nghe pháp độc sáng rỡ ràng hiện giờ trước mắt quý vị. Người này chốn chốn chẳng ngưng trệ, tự tại thông suốt mười phương ba cõi. Vào tất cả cảnh sai biệt mà chẳng hề thay đổi, trong khoảng sát na thấu nhập pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La Hán nói La Hán, gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ. Dạo chơi tất cả quốc độ mà giáo hóa chúng sanh, chưa từng lìa Nhất Niệm, tùy chốn mà trong sạch, ánh sáng thấu suốt mười phương, muôn pháp Nhất Như. Này quý vị! Hàng đại trượng phu ngày nay mới biết bổn lai vô sự, Chỉ vì các ông tin chẳng đến, niệm niệm chạy cầu, bỏ đầu mà kiếm đầu, tự mình chẳng thể dứt!

Chỗ thuyết pháp của Tổ Lâm Tế được cái Chánh Pháp Nhãn của Đức Quan Âm. Nếu tin được rằng xưa nay vô sự thì ba mươi hai Ứng Thân từ Diệu Lực Vô Tác liền được hiện tiền.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

II. BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY

Kinh:

- Bạch Thế Tôn, tôi lại dùng Diệu Lực Vô Tác của Kim Cương Tam Muội Văn Huân Văn Tu này, cùng tất cả lục đạo chúng sanh mười phương ba đời đồng một bi ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, nơi thân tâm tôi, được mười bốn thứ công đức Vô Úy.

Thông rằng: Từ là nói về Lực, Lực đủ ứng khắp, nên gọi là Đại Từ. Bi là nói sự Ngưỡng, đáp ứng với ngưỡng vọng, nên gọi là Đại Bi. Chúng sanh sợ là sợ sanh tử vậy. Dùng cái Diệu Lực Vô Tác chẳng sanh chẳng diệt mà cứu vớt cho, để đến bờ bên kia, công đức ấy nói sao cho cùng!

Kinh Duy Ma Cật, Đức Văn Thù Sư Lợi hỏi:

- Sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải nương chỗ nào?

Đức Duy Ma Cật nói:

- Bồ Tát trong chỗ sợ sanh tử, phải y vào lực công đức của Như Lai.

Đức Văn Thù Sư Lợi lại hỏi:

- Bồ Tát muốn y vào lực công đức Như Lai, nên trụ vào đâu?

Đáp rằng:

- Bồ Tát muốn nương vào lực công đức của Như Lai, phải trụ vào việc độ thoát tất cả chúng sanh.

Lại có cô cư sĩ Hưu Xá tự nói đắc An Ồn Tràng của Bồ Tát:

- Vì chúng sanh chưa lìa sanh tử, nên Bồ Tát chẳng tự mình giữ lấy an ổn. Nếu hay vào sanh tử giáo hóa chúng sanh, thấu đạt sanh tử cho đến chúng sanh mà vẫn thường giáo hoá, thảy đều là hạnh Niết Bàn. Không khởi ra, không chìm mất, mới gọi là: Tràng an ổn, lìa lo.

Nên Văn Huân Văn Tu, dùng đó tự độ, cũng dùng đó độ tha, chính là sự an ổn.

Kinh:

- Một là, do tôi không tự quán cái Âm Thanh, mà quán cái Tánh Quán, nên khiến cho chúng sanh khổ não mười phương kia quán Âm Thanh ấy liền được Giải Thoát.

Thông rằng: Cái tâm bức bách đau khổ của chúng sanh, tức là tâm của Bồ Tát. Cái Âm Thanh mà chúng sanh xưng hô danh hiệu tức là cái Âm Thanh của Quan Âm vậy. Nếu quán Âm Thanh ấy thì chưa lìa Thanh Trần, bèn tựa như có khổ não. Nếu quán cái Tánh Quán, chỗ mà các khổ chẳng đến, liền đây Giải Thoát. Đây là cái Cơ Phản Văn Đệ Nhất vậy.

Có nhà sư hỏi Trương Châu Lịch Thôn Hòa Thượng:

- Như sao là Quán Âm Thanh ấy mà liền Giải Thoát?

Tổ Thôn lấy đũa gắp than gõ cây củi, nói:

- Ông nghe chăng?

Đáp:

- Nghe.

Tổ Thôn nói:

- Nào chẳng giải thoát?

Thật là khéo nói chỉ thú vi diệu mầu sâu của Lăng Nghiêm vậy thay!

Kinh:

- Hai là, cái Thấy Biết đã xoay lại, khiến các chúng sanh dầu vào lửa lớn, lửa chẳng thể đốt.

Thông rằng: Cái Thấy Biết thuộc Hỏa. Thấy Biết quay về sự trong lặng, tánh trong lặng tròn đầy, nên Lửa chẳng đến được.

Thầy Linh Nhuận từng cùng bạn đạo lên núi dạo cảnh. Lửa ma trơi bốn phía hợp lại. Chúng bạn đều chạy tán.

Thầy Nhuận một mình yên bước trèo lên, kêu bạn đạo rằng:

- Ngoài tâm không có lửa, lửa thiệt tự tâm. Cho là có lửa để tránh, làm sao khỏi lửa?

Lửa đến thầy Nhuận thì lập tức tắt mất.

Kinh:

- Ba là, quán cái Nghe được xoay trở lại, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn trôi, nước chẳng thể chìm.

Thông rằng: Nghe tiếng thuộc về Thủy. Nhà y học cũng cho lỗ tai thuộc Thận. Cái Nghe xoay trở lại thì nước trở về nguồn, nên nước chẳng thể chìm.

Ông Cần Na Bạt Đà, nghĩa là Công Đức Hiền, người Trung Thiên Trúc. Năm Thứ Mười Hai hiệu Nguyên Hy đến xứ Kiến Nghiệp, được Nam Tiều Vương Nghĩa Tuyên kính trọng. Vương có mưu nghịch, ông can gián đến chảy nước mắt mà chẳng nghe. Bị bại ở Lương Sơn, rớt xuống dòng sông, ông một lòng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, tay nắm được cành trúc. Nhìn thấy đồng tử kéo lấy áo, nói: Đứa con nít này hay vậy ư? Lên đến bờ, muốn cởi áo khoác tặng cho, nhưng đồng tử bỗng biến mất tại chỗ.

Có nhà sư hỏi Tổ Bảo Phước:

- Như sao là vào lửa chẳng cháy, vào nước chẳng chìm?

Tổ Phước nói:

- Nếu là nước lửa, liền bị cháy, chìm.

Đây thật là được cái mầu nhiệm của việc xoay trở lại, nên lời nói chặt gọn như vậy.

Kinh:

- Bốn là, diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sanh vào các nước Quỷ, Quỷ không thể hại.

Thông rằng: Yêu tinh, quỷ quái chẳng có thể gặp. Từ xưa, chỗ gọi là quỷ phương cũng là nhiều, nhưng chỉ có nước quỷ La Sát ở biển là hại hơn hết. Người đi biển bị hắc phong trôi dạt đến xứ ấy, thì có nam nữ xinh đẹp đem thức ăn uống đến ủy lạo, khiến cho người vui mà quên trở về. Thuyền sau tới thì bắt người trong thuyền trước ăn thịt hết. Ngày đầu tháng, ngày giữa tháng thì có Mã Vương đến độ thoát đoàn chúng ấy. Nương theo ngựa mà thoát, hoặc ở đầu hoặc ở đuôi, chỉ cần nhất tâm chẳng nhớ đến sự vui kia, thì về nước cũ. Hễ còn chút ít vướng niệm thì rớt xuống biển.

Thầy Chân Tây Sơn làm lời bạt kinh Diệu Pháp Liên Hoa rằng:

- Tôi thuở nhỏ đọc phẩm Phổ Môn, tuy chưa rõ sâu ý nghĩa, nhưng dùng ý cho rằng, Đây là ngụ ngôn của nhà Phật.

Xưa, Ông Lý Văn Công, đời Đường, hỏi thiền sư Dược Sơn rằng:

- Thế nào là Gió dữ thổi ghe trôi lạc vào nước Quỷ?

Sư nói:

- Thằng nhỏ Lý Cao, hỏi chuyện ấy làm gì.

Văn Công bỗng chợt phát sân lên mặt.

Sư cười nói:

- Phát tâm sân nộ thế, đó là: Gió dữ thổi ghe trôi vào nước Quy, vậy!

Ôi chao, Tổ Dược Sơn đáng gọi là khéo khai mở cho người vậy. Từ đó suy ra thì biết Lợi Dục bừng bừng đó là hầm lửa. Tham Ái chìm đắm, đó là biển khổ. Một niệm trong sạch, lửa mạnh thành ao mát. Một niệm tỉnh thức, thuyền đến bờ kia. Tai nạn buộc ràng, tùy chỗ mà an. Ta không kinh sợ, gông cùm tự mở. Kẻ dữ xâm lấn, đối đãi ngang ngược, ta không giận ghét, như thú tự bỏ chạy. Người đọc kinh này, hành Quán như thế, ắt biết Đức Đại Sĩ tại núi Phổ Đà chân thật vì người. Chẳng phải lời nói suông.

Căn cứ theo Truyền Đăng Lục thì có câu Này cái lão Vu Khoảnh, hỏi điều đó làm gì?, thuộc về lời nói của thiền sư Tử Ngọc. Câu truyện không giống hẳn, chỉ cốt hiểu được cái ý.

Kinh:

- Năm là, nơi cái Nghe huân tu thành tựu trong Tánh Nghe, sáu Căn tiêu về bản tánh, đồng như cái tiếng, cái nghe, hay khiến chúng sanh đang khi bị hại, dao gãy từng khúc, khiến cho binh khí, dường như chém nước, như thổi ánh sáng, tánh không chao động.

Thông rằng: Tánh Nghe Viên Thông, nào có hình trạng. Huân tu nơi cái Nghe, thành tròn vẹn nơi Tánh Nghe, ắt sáu Căn tiêu về bản tánh, hóa thành Tánh Nghe. Ngoại vật được chạm xúc, đều đồng như cái nghe, cái tiếng. Dầu cho binh khí cũng như chặt nước, thổi ánh sáng vậy. Tánh Nghe bất động, bèn không kinh sợ. Đã không kinh sợ, ắt cái người chẳng-thể-hoại ở tại ta, mà dao kiếm gãy từng khúc vậy.

Vua nước Kế Tân, mang gươm đến chỗ Tôn Giả Sư Tử, hỏi rằng:

- Thầy đắc uẩn không chăng?

Tổ nói:

- Đã đắc uẩn không.

Vua hỏi:

- Lìa sanh tử chăng?

Tổ đáp:

- Đã lìa sanh tử.

Vua nói:

- Đã lìa sanh tử, có thể cho tôi cái đầu!

Tổ đáp:

- Thân chẳng phải tôi có, nào tiếc gì cái đầu.

Vua liền hươi gươm chặt đứt đầu Tôn giả, sữa trắng vọt cao mấy thước. Cánh tay phải của vua liền rớt xuống đất, bảy ngày sau thì chết.

Pháp sư Triệu, khi lâm hình nói bài kệ:

Tứ Đại nguyên chẳng có,
Ngũ Uẩn hẳn đều không.
Đưa đầu cho gươm sáng,
Dường giống chém gió Xuân.

Đây có thể nói là Thuần Giác quên thân, tánh không chao động.

(Xét bộ Xuân Thu Thập Lục Quốc, sư Triệu đời Tấn niên hiệu Nghĩa Hy Thứ Mười, ở Trường An diệt độ trong điềm lành, không có việc bị hình).

Đời truyền rằng kinh Cao Vương Quan Âm, tụng đến gông cùm đều thoát sạch, rất là linh ứng, nhưng có người cho là ngụy kinh.

Kinh:

- Sáu là, huân tu theo Tánh Nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới ắt các tối tăm chẳng có thể còn, khiến cho chúng sanh tuy có Dược Xoa, La Sát, quỷ Cưu Bàn Trà, cho đến Tỳ Xá Già, Phú Đơn Na... ở gần bên cạnh cũng chẳng thể thấy.

Thông rằng: Quỷ Thần lấy sự tối tăm thành tánh. Nhờ nơi tối tăm mà được dịp, còn ở nơi sáng suốt thì không thể hiện ra dấu vết, cho nên nói "Chẳng thể còn". Huống gì cái tối tăm kia là hữu hạn, mà ánh sáng ta thì vô biên. Ánh sáng thuần túy sáng rỡ, chói rực nơi tối tăm, làm lòa con mắt, nên chẳng thể thấy.

Sư Ngộ Bổn nhậm giữ ở Động Sơn hai mươi năm. Thần Thổ Địa chẳng nhận thấy được.

Thần bạch thầy Chủ Sự:

- Làm sao biết được mặt Hòa Thượng một lần?

Thầy Chủ Sự nói:

- Hòa Thượng đang dùng bữa tại trai đường, ông lật úp mâm cơm, Hòa Thượng kêu lên, thì ngươi sẽ thấy.

Hôm sau, thần lật úp mâm cơm.

Sư kêu lên rằng:

- Đáng tiếc vật thường trụ!

Thần mới biết mặt sư một phen.

Ở chỗ Ngài Diêm Quan, có một thầy Chủ Sự, một hôm bỗng thấy một quỷ sứ đến tìm bắt.

Nhà sư ấy nói:

- Tôi lãnh chức Chủ Sự, chưa rãnh tu hành. Xin khất bảy hôm, được chăng?

Quỷ sứ nói:

- Đợi tâu với Diêm Vương, nếu chịu cho thì bảy ngày sau sẽ đến, còn không thì chốc nữa sẽ lại.

Nói xong biến mất. Bảy ngày sau lại đến, tìm mãi nhà sư chẳng được!

Người đời sau nêu hỏi một vị tăng:

- Như khi bị kiếm bắt, làm sao nghĩ định để hắn bỏ đi?

Tổ Động Sơn thay thế nói:

- Bị hắn kiếm được rồi!

Chỗ này cũng giống chuyện Tổ Nam Tuyền đến trang trại. Thần Thổ Địa báo trước cho trang chủ, ông này thiết trai cúng dường rất đầy đủ.

Thị giả hỏi:

- Đã là đại thiện tri thức, vì sao lại bị Quỷ Thần rình thấy?

Tổ Tuyền nói:

- Trước mặt Thổ Địa, lại thêm một phần cúng dường!

Thật đáng cùng tham!

Kinh:

- Bảy là, tiếng tăm tiêu trọn, Thấy-Nghe xoay lại nhập vào, lìa các vọng trần, có thể khiến cho chúng sanh gông cùm, xiềng xích chẳng thể trói buộc.

Thông rằng: Có Tiếng, có Trần, chưa vào Tánh Nghe, bèn bị Trần trói. Giờ tiếng tăm tiêu trọn, hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Cái Thấy Nghe xoay lại nhập vào, đến chỗ chẳng sanh diệt, liền lìa các trần hư vọng, đó gọi là Chân Giải Thoát vậy. Như đảm đương đại pháp, riêng cần sẵn đủ một con mắt lẻ!

Tổ Vân Môn đến trang trại Tổ Tuyết Phong, gặp một nhà sư bèn hỏi:

- Thượng Tọa hôm nay lên núi đó ư?

Nhà sư đáp:

- Phải.

Tổ Vân Môn nói:

- Xin gởi một tắc nhân duyên, hỏi Hòa Thượng trụ trì, chỉ chẳng được nói là lời của người khác.

Nhà sư nói:

- Được.

Tổ Môn nói:

- Thượng Tọa lên tới núi, thấy Hòa Thượng thượng đường, chúng vừa tụ tập, liền bước ra nắm đứng lại nói rằng: Lão già này mang gông sắt trên cổ, sao chẳng cởi ra?

Nhà sư y theo lời của Tổ Môn.

Tổ Tuyết Phong thấy nhà sư nói thế, liền xuống tòa túm ngực nắm đứng, nói:

- Nói mau, nói mau!

Nhà sư không đáp được.

Tổ Phong buông ra, nói rằng:

- Chẳng phải lời ông!

Nhà sư đáp:

- Chính lời của tôi.

Tổ Phong nói:

- Thị giả! Đem gậy lại đây!

Nhà sư rằng:

- Chẳng phải lời của tôi, mà là của một vị Thượng Tọa người Triết Giang ở xóm trên dạy tôi đến nói.

Tổ Phong nói:

- Đại chúng đến xóm trên rước vị thiện tri thức của năm trăm người đến!

Cũng lại Tổ Vân Môn, đến Nga Hồ, nghe thượng đường rằng:

- Chớ nói chưa rõ người ấy, vẫn hằng nổi nghẹt đầy đất! Giả sử rõ được đó, rành rành biết có chỗ đi, cũng là nổi nghẹt đầy đất!

Tổ Môn bèn hỏi thầy Thủ Tòa:

- Vừa rồi ý Hòa Thượng ra làm sao?

Thầy Thủ Tòa đáp:

- Nổi nghẹt đầy đất!

Tổ Môn nói:

- Thầy Thủ Tòa ở đây đã lâu, đầu bạc răng vàng mà nói lời thế ấy.

Đáp rằng:

- Thượng Tọa lại như thế nào?

Tổ Môn nói:

- Muốn nói bèn được, thấy bèn tiện thấy, nếu không thấy chớ nói loạn.

Đáp rằng:

- Chỉ như nổi nghẹt đầy đất, lại là thế nào?

Tổ Môn nói:

- Trên đầu mang gông, dưới chân mang cùm!

Hỏi:

- Thế thì chắc không có Phật Pháp vậy?

Tổ Môn nói:

- Đó là cảnh giới Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát.

Hai tắc này đáng để xem lẫn nhau.

Kinh:

- Tám là, dứt cái tiếng, tròn vẹn cái Nghe, khắp sanh sức Từ, có thể khiến cho chúng sanh đi qua đường hiểm, giặc không thể cướp.

Thông rằng: Cảm và Ứng là một Cơ, đây và kia là một Tâm vậy. Trong chẳng ứng, ngoài chẳng làm gì được. Nên tâm không có sự sát hại thì quỷ chẳng thể xâm phạm. Khắp sanh sức Từ, ắt giặc không thể cướp. Bởi vì, diệt cái tiếng thì trọn không có đối đãi. Tròn vẹn cái Nghe tức đồng một Thể, nên không thành thù địch để bị cướp vậy.

Thiền sư Đại Đồng ở Đầu Tử Sơn gặp ổ cướp làm loạn.

Có bọn cuồng cầm dao chỉa vào Tổ mà nói rằng:

- Ở đây làm gì?

Tổ bèn tùy nghi thuyết pháp, tên đầu đảng nghe xong bái phục, cởi áo dâng cho mà lui đi.

Am chủ Pháp Ngộ ở Tam Giác Sơn, nhằm thời ly loạn, có tên đầu đảng vào núi, hỏi:

- Hòa Thượng có của báu gì?

Tổ Ngộ nói:

- Cái báu của nhà sư chẳng hợp với ông.

Đầu đảng hỏi:

- Là của báu gì?

Tổ Ngộ hét lên một tiếng.

Đầu đảng chẳng ngộ, cầm dao đâm tới.

Một đàng lãnh nhận, một đàng chẳng lãnh nhận, há chẳng phải định nghiệp ư?

Tổ Nham Đầu thường nói với chúng rằng:

- Lão già này khi đi, rống lớn một tiếng rồi đi.

Ở Trung Nguyên giặc cướp nổi lên, đại chúng đều tìm nơi lánh trốn. Tổ Đầu đàng hoàng ở yên. Một hôm giặc đến đông, trách rằng không dâng biếu, bèn lấy dao đâm. Tổ Đầu thần sắc tự nhiên, hét lớn một tiếng mà tịch. Tiếng hét nghe vang cả mười dặm.

Đây là định nghiệp nên chẳng tránh khỏi. Nhưng cái của báu của Tổ Tâm Giác và Tổ Nham Đầu há bọn cướp có thể cướp được sao?

Kinh:

- Chín là, huân tu theo Tánh Nghe, lìa các trần tướng, sắc không thể cướp níu, có thể khiến cho chúng sanh nhiều dâm lìa xa tham dục.

Thông rằng: Huân tu theo Tánh Nghe ắt dục ái khô khan. Bởi do nước về căn nguồn, nên lửa chẳng thể đốt vậy. Tiếng trần đã tiêu tan, các trần khác đều thoát. Căn và Cảnh chẳng cướp lẫn nhau, nên hình sắc chẳng mê hoặc được.

Cổ đức nói:

Lâu trồng sâu căn lành,
Ở trần, trần chẳng xâm.
Nào giữ Trần khỏi xâm,
Vốn bởi ta vô tâm.

Ngài Cưu Ma La Thập bỗng nghe trên vai có hai đứa con nít khóc.

Tổ Thập nói:

- Đây là dục chướng vậy.

Ngài nói với vua Tần ban cấp cho bốn người cung nữ, một lần giao hợp mà sanh hai con trai. Dục chướng liền dứt.

Đệ tử thấy vậy, chẳng gìn giữ Giới Luật.

Tổ Thập bèn túm nắm kim nhai nuốt mà nói:

- Có thể như ta nuốt kim, mới có thể hành dục.

Do đó, hết thảy chúng sợ hãi mà phụng trì Giáo Pháp.

Kinh:

- Mười là, thuần Âm không trần, Căn Cảnh viên dung, không năng sở đối, có thể khiến cho tất cả chúng sanh căm giận lìa lòng oán giận.

Thông rằng: Sân so với Tham lại càng vi mật, rất khó nhổ khỏi. Nên lìa Trần thì có thể dứt Tham, còn Sân thì phải không có Trần rồi sau mới dứt được vậy. Bên ngoài không có chỗ Sở Đối thì dễ, trong không có cái Năng Đối thì khó. Chẳng được Căn Cảnh viên dung, thuần lại càng thuần, khó nói lời này. Tuy nhiên, cũng có thể dùng sân giận mà làm Phật sự.

Như thầy Từ Minh, ở Tổ Phần Dương hai năm, chưa được nhập thất, mỗi lần gặp là bị mắng nhiếc, hoặc chê bai các nơi khác, đến khi dạy bảo thì đều là chuyện phàm tục thô bỉ.

Một đêm nọ, thầy than rằng:

- Từ khi đến học pháp đã hai hạ, chẳng được chỉ bày, chỉ tăng thêm trần lao thế tục; thầm nghĩ năm tháng trôi mau, việc mình chẳng rõ, mất đi sự lợi ích xuất gia.

Lời chưa dứt, Tổ Dương quắc mắt, nói:

- Ác tri thức! Dám nói thêm nói bớt cho ta!

Rồi nổi giận cầm gậy rượt.

Thầy Minh định kêu cứu. Tổ Dương bịt miệng, bèn đại ngộ, nói:

- Mới biết đạo của Lâm Tế vượt khỏi thường tình.

Từ đó, phục dịch bảy năm mới ra đi.

Sau, ở Từ Minh, thầy Hoàng Long Nam thiết tha cần cầu khai thị.

Tổ Minh nói:

- Ông học thiền Vân Môn ắt rành yếu chỉ. Như nói, Tha Động Sơn ba gậy, là có hợp phần ăn gậy hay không hợp phần ăn gậy?

Thầy Nam đáp:

- Có hợp phần ăn gậy.

Tổ Minh nghiêm sắc mặt, nói:

- Từ sáng đến chiều cắt réo quạ kêu lẽ ra đều phải ăn gậy!

Tổ Minh lại hỏi:

- Triệu Châu nói "Lão bà Đài Sơn, ta đã vì ông khám phá rồi vậy. Thế đâu là chỗ Triệu Châu khám phá Lão bà?

Thầy Nam toát mồ hôi chẳng đáp được.

Ngày sau lại tới, Tổ Minh mắng nhiếc không dứt.

Thầy Nam nói:

- Chửi mắng há là từ bi thí pháp ư?

Tổ Minh nói rằng:

- Ông cho là chửi sao?

Thầy Nam ngay lời đại ngộ. Nhân trình kệ rằng:

Kiệt xuất tùng lâm thiệt Triệu Châu,
Lão bà khám phá, mất nguyên do.
Giờ đây bốn biển trong như kính,
Người đi chớ giận oán con đường.

Tổ Minh gật đầu.

Các thứ giận dữ này thì không xa lìa lại càng tốt.

Kinh:

- Mười một là, tiêu tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh, pháp giới thân tâm như ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại, có thể khiến cho tất cả các kẻ u mê ám chướng lìa xa vĩnh viễn si tối.

Thông rằng: Tánh Nghe chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại nói chữ Minh? Minh tức là Giác vậy. Giác và Sở Giác đều không, nên sáng khắp pháp giới. Không-Giác cùng tột tròn vẹn, nên pháp giới, thân tâm như ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại. Mới là sáu Căn dùng lẫn nhau, thấy tức là nghe, nên nói rằng tiêu tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh vậy.

Nghiệp bên trong có mười thứ làm che mất Pháp Thân, trong đó Dâm, Nộ, Si là lớn nhất. Ngài Thiên Thai giải thích ba cái độc thông cả trong ngoài. Bên trong gọi là Tư Hoặc, bên ngoài gọi là Vô Minh. Bậc Nhị Thừa thích khoái Niết Bàn là Tham; chán ghét Sanh Tử là Sân; không biết Trung Đạo là Si. Bậc Bồ Tát thì rộng cầu Phật Pháp là Tham, la đuổi Nhị Thừa là Sân, chưa rõ Phật Tánh là Si. Đều là ba độc, mà Si là gốc rễ, nên rất khó trừ nghiệp Si vậy thay!

Tổ Bách Trượng nói:

- Pháp đục là Tham, Sân, Ái, Thủ, cả thảy nhiều tên vậy. Pháp trong là Bồ Đề, Niết Bàn, Giải Thoát cả thảy nhiều tên vậy. Chỉ như nay soi tỏ nơi hai thứ trong đục, các pháp phàm thánh trọn chẳng có được chút tơ hào nào ái thủ. Đã chẳng ái thủ, mà nương trụ cái chẳng ái thủ cho là đúng, đó là Sơ Thiện, là trụ tâm điều phục, là người Thanh Văn, là người yêu thích bè chẳng bỏ, là đạo của Nhị Thừa, là quả của thiền na. Đã chẳng ái thủ, cũng chẳng nương trụ cái chẳng ái thủ, đó là Trung Thiện, là Giáo Pháp nửa chừng, còn là Vô Sắc Giới, tuy khỏi sa vào đạo Nhị Thừa, khỏi sa vào dân Ma, vẫn còn là bệnh của thiền na, đó là chỗ trói buộc của Bồ Tát. Đã chẳng nương trụ cái chẳng ái thủ, chẳng khởi tri giải chẳng-nương-trụ, đó là Hậu Thiện, là Giáo Pháp toàn mãn, khỏi sa vào Vô Sắc Giới, khỏi sa vào bệnh thiền na, khỏi sa vào Bồ Tát Thừa, khỏi rớt vào vị Ma Vương, là các thứ Trí Chướng, Địa Chướng và Hành Chướng. Cho nên thấy Phật Tánh chính mình, như đêm thấy sắc.

Như nói Phật Địa đoạn dứt cả hai thứ ngu: một là Vi Tế Sở Tri Ngu; hai là Cực Vi Tế Sở Tri Ngu. Thế nên mới nói, Có người đại trí phá bể hạt bụi, mở ra cuốn kinh. Nếu thấu qua: Ba cú, chẳng bị Ba đoạn giam. Hàng giáo điển nêu ví dụ là như nai nhảy ba cái ra khỏi lưới, gọi là người ngoài ràng buộc, không có vật gì móc ràng được hắn. Đó là thuộc về Nhiên Đăng Hậu Phật, là Tối Thượng Thừa, là Thượng Thượng Trí, là địa vị cao thượng trong Phật đạo. Người này là Phật, có Phật Tánh, là Đấng Đạo Sư, là người khiến sử được ngọn gió không chỗ ngại, là Trí Huệ Vô Ngại. Về sau có thể sử dụng được nhân quả, phước trí tự do, làm cái xe chở chuyên nhân quả. Ở nơi sanh chẳng bị sanh lưu giữ, ở nơi tử chẳng bị tử ngăn ngại, ở nơi năm ấm như cửa mở hoác, đi ở tự do. Bằng có thể như thế thì chẳng luận giai cấp, yếu mạnh, chỉ có thể như thế thì cho đến thân kiến trùng thảy là quốc độ diệu tịnh, chẳng thể nghĩ bàn. Đây vẫn là lời nói mở trói. Vốn tự không ghẻ nhọt, chớ làm ra thương tích! Dù là ghẻ Phật hay ghẻ Bồ Tát các thứ. Hễ nói các pháp có, không v.v... thì đều là thương tích cả.

Ôi! Tổ Bá Trượng từ bi, tận lực bày rõ chướng ngại vi tế của Tâm Tánh. Cần mỗi mỗi thấu qua, mới gọi là vĩnh viễn đoạn dứt si ám.

Kinh:

- Mười hai là, viên dung hình tướng, trở lại Tánh Nghe, là đạo trường bất động, thấm vào cõi đời mà không hoại thế giới, hay khắp mười phương, cúng dường Chư Như Lai như số vi trần, bên mỗi mỗi Phật làm bậc Pháp Vương Tử, có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con trai, sanh được con trai trí huệ phước đức.

Thông rằng: Đây là Tánh Chân Như thấm nhập thế gian, tùy làm Sắc-Không, khắp mười phương cõi, ấy là Bất Không Như Lai Tạng vậy. Quan Âm Đại Sĩ vốn là Pháp Vương Tử của Đức A Di Đà, mà bên mỗi mỗi vị Phật giúp việc không nhàm mỏi, thật là con giỏi vậy. Cho nên cầu con trai liền ứng.

Tổ Thứ Hai Mươi Ba là Tôn Giả Hạc Lặc, người nước Nguyệt Thị, cha tên là Thiên Thắng, mẹ là Kim Quang. Vì không có con, nên cúng cầu nơi đền Phướn Vàng Thất Phật, bèn mộng thấy trên đỉnh núi Tu Di có một thần đồng cầm chiếc kim hoàn nói rằng: "Ta đến vậy". Tỉnh dậy thì có thai.

Năm Ngài bảy tuổi, đi dạo xóm làng thấy dân gian thờ cúng Dâm Thần, mới vào miếu la rằng:

- Ngươi bày đặt chuyện họa phước, dối gạt người ta, hao tiền tốn mạng, làm hại quá lắm.

Lời dứt, hình tượng trong miếu bỗng nhiên đổ sập.

Do đó, người làng gọi là ông Thánh Con. Năm hai mươi hai tuổi, xuất gia, ba mươi tuổi gặp Tổ Ma Nả La tôn giả, được phó pháp nối ngôi Tổ.

Kinh:

- Mười ba là, sáu căn Viên Thông, sáng chiếu không hai, trùm mười phương cõi, thành Đại Viên Kính Không Như Lai Tạng, thừa thuận pháp môn bí mật của mười phương vi trần Như Lai, lãnh nhận không sót, có thể khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con gái, sanh được con gái đoan chánh, phước đức, dịu hiền, tướng tốt, mọi người yêu kính.

Thông rằng: Một Căn về nguồn, sáu Căn dùng lẫn, đó là Viên Thông. Chỉ bởi tròn vẹn mà sáng chiếu không hai, nên thành Đại Viên Cảnh Trí. Chỉ bởi thông suốt mà trùm mười phương cõi, nên là Không Như Lai Tạng. Thừa thuận Như Lai, nhận lãnh không sót, là đều có cái đạo của người nữ, nên cầu gái được gái.

Cô Nguyệt Thượng Nữ() [3]tướng tốt đoan nghiêm, mọi người yêu kính; kẻ cầu hôn nối gót đến, cô hiện thần dị; chí cầu xuất gia.

Ông Xá Lợi Phất nhân đang vào thành gặp cô đi ra. Thầm nghĩ, chị này ra mắt Phật, chẳng biết đắc nhẫn hay chưa đắc nhẫn, ta phải hỏi xem.

Vừa đến gần, bèn hỏi:

- Chị đi đâu thế?

Cô đáp:

- Như Xá Lợi Phất đi vậy.

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Tôi mới vào thành, cô mới ra thành, sao lại nói: Như tôi đi vậy?

Cô hỏi:

- Các đệ tử Phật phải nương đâu trụ?

Ông Xá Lợi Phất nói:

- Các đệ tử Phật y nơi Đại Niết Bàn mà trụ.

Cô nói:

- Các đệ tử Phật đã y nơi Đại Niết Bàn mà trụ, nên tôi cũng như chỗ đi của Xá Lợi Phất vậy.

Lại Ngài Văn Thù, hỏi Cô Am Đề Già rằng:

- Sanh lấy gì làm nghĩa?

Cô đáp:

- Sanh lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm nghĩa sanh.

Ngài Văn Thù:

- Như sao là lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm Nghĩa Sanh?

Cô đáp:

- Nếu hay rõ biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ hòa hiệp mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa sanh.

Ngài Văn Thù hỏi:

- Tử lấy gì làm nghĩa.

Cô đáp:

- Tử lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử.

Ngài Văn Thù hỏi:

- Như sao là tử lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử?

Cô đáp:

- Nếu hay biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ lìa tan, mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa Tử.

Cô Am Đề Già hỏi Ngài Văn Thù rằng:

- Rõ biết cái lý sanh là chẳng sanh, thì vì sao lại bị sanh tử trôi vần?

Ngài Văn Thù nói:

- Vì sức lực chưa đủ.

Hai cô gái này, sanh đời có Phật, không chỉ đầy đủ phước đức, hiền dịu, mà còn phát minh việc hướng thượng. Cũng là kiếp xưa nhận lãnh Pháp Môn Bí Mật mà thị hiện đó ư?

Kinh:

- Mười bốn là, trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trăm ức mặt trời, mặt trăng này, các Pháp Vương Tử hiện ở thế gian có đến sáu mươi hai hằng sa số, tu Phật Pháp, nêu gương mẫu, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, trí huệ phương tiện, mỗi mỗi chẳng đồng. Do tôi đã được bổn căn Viên Thông phát ra diệu tính của căn Tai, sau đó Thân Tâm vi diệu trùm chứa cùng khắp pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu của tôi, so với những người trì niệm danh hiệu của sáu mươi hai hằng sa số Pháp Vương Tử ấy, hai đàng phước đức bằng nhau không khác.

Bạch Thế Tôn, một danh hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác, là do tôi tu tập được Chơn Viên Thông. Đó gọi là mười bốn sức Thí Vô Úy, phước sẵn đủ khắp cho chúng sanh.

Thông rằng: Ban đầu, hết quán cái Âm Thanh liền được Giải Thoát là để tiếp bậc thượng thượng căn, chỉ soi thấy năm uẩn đều Không tức vượt hết thảy khổ ách. Dùng cái quán Tự Tánh, nếu chẳng phải là Quán Hạnh vi diệu thì không thể hành được vậy.

Chót là chỉ trì niệm danh hiệu, phước sẵn đủ khắp cho chúng sanh, là để tiếp bậc trung hạ căn.

Nói rằng phước sẵn đủ khắp là khỏi bị Nước Lửa, cho đến được trai, có gái, không gì cầu chẳng được. Cho nên trong ba mươi hai Ứng Thân, nói Giải Thoát tức là chứng ngộ, còn lại là thành tựu, chỉ đầy cái phước mà thôi.

Chúng sanh phương này, căn Tai lanh lợi, nhiều người nhận lãnh được Đạo, bởi thế sự giáo hóa của Đức Quan Âm trổi bật. Các Căn khác chậm lụt, người được Đạo ít, cho nên sự giáo hóa của các vị Thánh khác kém hơn. Viên Thông so với chẳng Viên Thông, như một ngày sánh với một kiếp, nên tự thầm chọn căn Tai làm cái giáo thể phương này vậy.

Thiền sư Hoa Lâm Thiện Giác thường cầm tích trượng, ban đêm ra khoảng rừng dưới chân núi, mỗi lần bảy bước dộng gậy một cái mà xưng lên danh hiệu Quan Âm.

Sư Giáp Sơn hỏi:

- Ở xa nghe Hòa Thượng niệm Quan Âm, có phải chăng?

Tổ đáp:

- Phải.

Thầy Sơn nói:

- Khi cỡi được đầu thì thế nào?

Tổ nói:

- Ló đầu thì cho ông cỡi, chẳng ló đầu cỡi cái gì?

Thầy Sơn hết lời đối đáp.

Quán Sát Sứ Bùi Hưu đến thăm, hỏi rằng:

- Thầy có thị giả không?

Tổ nói:

- Có một cặp, chỉ là không thể gặp khách.

Ông Hưu hỏi:

- Ở đâu?

Tổ bèn gọi:

- Đại Không, Tiểu Không!

Hai con cọp từ sau am liền đi ra. Ông Bùi thấy thế kinh hãi.

Tổ nói với hai con cọp rằng:

- Có khách, hãy lui.

Hai con cọp rống lên mà lui vào.

Ông Hưu hỏi:

- Thầy giữ hạnh nghiệp gì mà cảm hóa được như vầy?

Sư mới im lặng chập lâu, hỏi:

- Am hiểu chăng?

Ông Bùi đáp:

- Dạ, không hiểu.

Tổ nói:

- Sơn tăng thường niệm Quan Âm vậy.

Biết được chỗ nín lặng của Hoa Lâm, và chỗ chẳng ló đầu tức là khéo quán Tánh vậy. Nếu không, hãy niệm Quan Âm.

Kinh:

- Bạch Thế Tôn, do tôi đã được Viên Thông Đạo Vô Thượng Tu Chứng ấy, nên lại khéo được bốn đức mầu vô tác không nghĩ bàn.

Một là, do tôi ban đầu được Tánh Nghe Chí Diệu, cái Tâm thuần túy không còn Tướng Nghe; các sự Thấy, Nghe, Hay, Biết chẳng còn phân cách mà thành một Bảo Giác viên dung thanh tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình dung mầu nhiệm, có thể nói ra vô biên Thần Chú bí mật.

Trong ấy, hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu, tám vạn bốn ngàn đầu Kim Cang như thế; hoặc hiện hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay, vạn tay, tám vạn bốn ngàn tay bắt ấn như thế; hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, cho đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn mắt, tám vạn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh như thế; hoặc Từ hoặc Oai, hoặc Định, hoặc Huệ, cứu độ chúng sanh được đại tự tại.

Thông rằng: Đồng Từ Lực Phật, nên có ba mươi hai Ứng Thân, đồng Bi Ngưỡng với chúng sanh, nên bố thí mười bốn sự Vô Úy, đã là Diệu Lực Vô Tác không thể nghĩ bàn; lại còn có bốn Diệu Đức Vô Tác không thể nghĩ bàn, là do tu chứng Vô Thượng Đạo. Cái Đạo Vô Thượng này thần diệu càng chẳng thể đo lường.

Ở trước, thuyết pháp cùng xưng danh hiệu, còn có thể suy lường được. Đến đây thì hình dung và thần chú, khiến chúng sanh đắc Đại Tự Tại quả là cảnh giới rất khó nghĩ bàn vậy. Tất cả cũng từ Tánh Nghe Chí Diệu lưu xuất.

Ban đầu, mất hết Căn, Trần, tâm yên định mầu nhiệm, nhưng cái mầu nhiệm đối với thô này chưa phải là cái mầu nhiệm tuyệt mọi đối đãi. Kế đó, Trí, Cảnh đều vong, Năng-Sở tịch diệt, nên nói là Chí Diệu. Ban đầu là xoay cái Nghe lại, không còn cái Cảnh. Đến đây tâm thuần túy không còn cái Nghe, cái Nghe đã bỏ mất, sáu Căn đều hóa. Bởi thế, Thấy, Nghe, Hay, Biết không còn phân cách, mà thành một Bảo Giác viên dung thanh tịnh, tức chỗ gọi là Tịch Diệt Hiện Tiền vậy.

Vốn viên dung thanh tịnh nên ứng hóa không ngằn. Đầu là chỗ tóm gồm của sáu dụng. Tay thể hiện lòng Bi tiếp đỡ. Mắt biểu hiện cái Trí soi tỏ. Đầu, tay, mắt, đều tám vạn bốn ngàn là đối với tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao mà hiển pháp môn đối trị vậy.

Đức Lục Tổ nói:

- Pháp môn này của ta, từ một Trí Huệ Bát Nhã sanh tám vạn bốn ngàn Trí Huệ. Vì sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu không có trần lao thì Trí Huệ thường hiện, chẳng lìa Tự Tánh.

Quan Đại Phu Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền:

- Đức Bồ Tát Đại Bi dùng bấy nhiêu tay, mắt làm chi?

Tổ Tuyền nói:

- Chỉ như quốc gia lại dùng Đại Phu làm chi?

Tổ Ma Cốc hỏi Tổ Lâm Tế:

- Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, cái nào là Chánh Nhãn?

Tổ Lâm Tế nắm đứng, nói:

- Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, thế nào là Chánh Nhãn? Nói mau, nói mau!

Tổ Cốc kéo Tổ Tế xuống thiền sàng, mà lên ngồi.

Tổ Tế xá chào, nói:

- Chẳng rõ.

Tổ Cốc định nói. Tổ Tế bèn hét, kéo Tổ Cốc xuống thiền sàng rồi lên ngồi.

Tổ Cốc bèn bỏ đi.

Lại Tổ Ma Cốc hỏi:

- Đức Quan Âm mười hai mặt, cái nào là mặt chánh?

Tổ Tế xuống thiền sàng, nắm đứng, hỏi:

- Quan Âm mười hai mặt hiện ở chốn nào? Nói mau, nói mau!

Tổ Cốc xoay mình định ngồi. Tổ Tế liền đánh. Tổ Cốc bắt cứng cây gậy, cùng kéo nhau về phương trượng.

Hai vị tôn túc đây, mỗi vị đều hiển lộng thần thông đại bất khả tư nghì. Thấy được cái cơ đoạt nhau đó mới cho là đủ tay mắt Quan Âm.

Kinh:

- Hai là, do sự Nghe, Nghĩ của tôi thoát khỏi sáu Trần, như tiếng suốt qua bức tường, chẳng hề ngăn ngại, nên tôi có thể diệu dụng hiện ra mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi Chú. Hình ấy, Chú ấy có thể dùng Vô Úy Thí cho chúng sanh. Thế nên mười phương cõi nước như vi trần đều gọi tôi là bậc Vô Úy Thí.

Thông rằng: Nghe, Nghĩ viên thông, như tiếng qua tường. Vì vượt thoát sáu Trần, chẳng hề chướng ngại, nên hiện hình tụng Chú, hiện diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn. Tánh Nghe chẳng thể nghĩ bàn, nên sức Chú chẳng thể nghĩ bàn.

Trước thì dùng một Bảo Giác viên dung thanh tịnh cứu hộ chúng sanh được Đại Tự Tại, ấy là dùng toàn lực mà dẫn dắt cho lên bờ Đạo, nên đầu, tay, mắt hoặc Từ hoặc Oai, hoặc Định hoặc Huệ đều đầy đủ, khiến cho giải thoát. Ở đây, chỉ hiện mỗi mỗi hình dạng, tụng mỗi mỗi Thần Chú, khiến cho chúng sanh không sợ hãi, nghĩa là chỉ không sợ sự khổ sanh tử chứ chưa đến Đại Tự Tại vậy.

Xưa, có người bị bẫy để tế cho quỷ ăn, bị trói vào cột trong miếu. Nửa đêm có con mãng xà to lớn đến, sắp sửa ăn. Người ấy ngày thường chỉ thuộc mỗi một Chú Đại Bi, liền trì tụng không ngớt. Mãng xà chẳng thể đến gần, như có vật gì ngăn trở, rốt cuộc bỏ đi. Trời sáng, mở khóa thấy người ấy không bị gì cả. Mọi người làm lạ, hỏi duyên cớ. Người đó nói vì tụng Chú Đại Bi mà được khỏi. Từ đó, cái miếu tà bị bỏ phế.

Năng lực Thần Chú có thể ban cho sự không sợ hãi, khái quát là vậy.

Thầy Trương Tăng Diêu vẽ tượng hình Ngài Bửu Chí, mới hạ bút, chưa biết định liệu sao. Ngài Bửu Chí liền dùng ngón tay vạch trên mặt, phân ra thành mười hai mặt Quan Âm diệu tướng tốt đẹp, hoặc Từ hoặc Oai. Thầy Tăng Diêu rốt cuộc chẳng vẽ được.

Có nhà sư hỏi thiền sư Văn Thù rằng:

- Vì sao Tăng Diêu vẽ chân dung Tổ Chí Công chẳng được?

Tổ Thù đáp:

- Không chỉ Tăng Diêu, mà Chí Công có vẽ cũng chẳng được.

Nhà sư hỏi:

- Vì sao Chí Công vẽ cũng chẳng được?

Tổ Thù nói:

- Màu, vải chẳng đem đến được.

Nhà sư hỏi:

- Hòa Thượng lại vẽ được hay không?

Tổ Thù nói:

- Ta cũng chẳng vẽ được.

Nhà sư hỏi:

- Vì sao Hòa Thượng vẽ chẳng được?

Tổ Thù nói:

- Hắn chẳng màng nhan sắc của ta, bảo ta vẽ như thế nào?

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

Thân quang rờ rỡ, tướng nguy nguy (sừng sững),
Tay khéo làm sao thể hiện y.
Thôi hỏi Tăng Diêu, Ngô đạo tử,
Chí Công kia tự chẳng năng tri.

Ngay Chí Công cũng chẳng hay biết thì có thể rõ là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Kinh:

- Ba là, do tôi tu tập cái Bổn Căn Thanh Tịnh, vốn diệu viên thông, nên qua mọi thế giới đều khiến cho chúng sanh xả bỏ thân cùng của báu, cầu tôi thương xót.

Thông rằng: Cái Bổn Căn Thanh Tịnh vốn diệu viên thông, tức là căn Tai vậy. Xa lìa trần cấu, vốn không phiền não, nên gọi là thanh tịnh. Nhưng chúng sanh trong thế giới khổ vì phiền não, không thể giải thoát, nên thương xót khẩn thiết cứu vớt.

Lục Độ mà Bồ Tát tu, thì Bố Thí là trước hết, nên dạy làm Bố Thí, bỏ tham bỏ tiếc, lấy đó làm Nhân Tu. Một Pháp Bố Thí ấy, tức chẳng thấy người cho, chẳng thấy người nhận, cũng chẳng thấy có vật bố thí, thế gọi là Bố Thí Ba La Mật. Nếu chẳng được Viên Thông trong sạch thì chẳng thể rõ sự mầu nhiệm này vậy. Cho nên Quan Thế Âm Bồ Tát nhận chuỗi ngọc báu của Bồ Tát Vô Tận Ý[5]() lại hiến dâng Phật. Ban đầu chẳng nhận, có thể thấy Giới Hạnh. Phụng sự Phật không mỏi mệt, có thể thấy sự Tinh Tấn. Chẳng tự thọ dụng, có thể thấy cái Nhẫn. Cho và nhận đều vô tình, có thể thấy Thiền Định. Chỉ cầu phước đầy đủ cho chúng sanh, có thể thấy cái Trí Huệ. Nêu ra một việc Bố Thí mà sáu Ba La Mật đủ hết trong đó vậy. Há chỉ dạy một phép Bố Thí thôi đâu!

Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng:

- Như nay hết thảy Sa Môn đều nói rằng Tôi y theo Giáo Pháp Phật, học mỗi một Kinh mỗi một Luận, mỗi một Thiền mỗi một Luật, mỗi một hiểu biết, mỗi một tỏ thông, mà lãnh nhận bốn việc cúng dường của đàn việt, thì có tiêu được chăng?

Tổ Trượng nói:

- Chỉ như giờ đây soi dùng (chiếu dụng) mỗi một Thanh mỗi một Sắc, mỗi một Hương mỗi một Vị, nơi tất cả các Pháp Hữu Vô, trong mỗi mỗi Cảnh đều không có mảy bụi giữ nhuốm (thủ nhiễm), cũng chẳng nương trụ tri giải. Cái người ấy mỗi ngày ăn vạn lượng vàng ròng cũng tiêu hết được. Chỉ như nay soi chiếu tất cả các pháp hữu vô, nơi cửa sáu căn quét ráo mọi tham ái. Có chút mảy lông chẳng xong thì dầu có nhận của thí chủ một hột gạo, một sợi chỉ đều là mang lông đội sừng, kéo cày chở nặng, mỗi mỗi phải bồi thường lại hết mới được. Vậy là chẳng y theo Phật. Phật là người không bám dính, người không cầu kiếm, người không dựa nương. Giờ mà bôn ba tham lam tìm kiếm Phật, đều là nghịch lại vậy.

Tin lời này, ắt gọi là tu tập Bổn Căn Thanh Tịnh, mới nên nhận bố thí của người.

Kinh:

- Bốn là, tôi đắc Tâm Phật, chứng đến rốt ráo, nên có thể dùng đủ thứ quý báu cúng dường mười phương Như Lai. Cả đến chúng sanh sáu đường trong pháp giới, người cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu Tam Muội được Tam Muội, cầu sống lâu được sống lâu, như thế cho đến cầu Đại Niết Bàn được Đại Niết Bàn.

Thông rằng: Chứng đến rốt ráo, Trí Huệ tròn đủ vậy, nên có thể ban cho người cái vui xuất thế. Cúng dường Như Lai, phước ấy tròn đủ, nên có thể ban cho người cái phước thế gian. Đều từ trong cái chẳng thể nghĩ bàn mà thành tựu. Nếu thấy có cầu, có đắc, thì chỗ cho ra cũng là nhỏ hẹp. Được phước chẳng bằng được Quả Vị, được Quả chẳng bằng được Cực Quả, nên đắc Đại Niết Bàn là tột bậc.

Tổ Bá Trượng nói:

- Chỉ như nay có người lấy bốn việc phước trí cúng dường bốn trăm vạn ức a tăng kỳ chúng sanh trong sáu đường thế giới, tùy theo chỗ thích cho đến hết tám mươi năm, lại nghĩ rằng: nhưng các chúng sanh này đều phải già yếu, ta nên dùng Phật Pháp mà dẫn dạy cho, khiến họ đắc quả Tu Đà Hàm cho đến đạo A La Hán. Thí chủ ấy chỉ bố thí cho chúng sanh tất cả vật ưa thích, công đức đã là vô lượng. Huống là khiến cho đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến đạo A La Hán thì công đức vô lượng vô biên. Vậy mà chẳng bằng công đức người thứ năm mươi nghe kinh mà vui theo.

Kinh Báo Ân nói rằng:

- Ma Da phu nhân sanh năm trăm thái tử đều đắc Bích Chi Phật, mà đều diệt độ, mỗi vị đều được dựng tháp cúng dường. Mỗi một lần lễ bái, phu nhân than rằng: Chẳng bằng sanh một đứa con đắc Vô Thượng Bồ Đề, đỡ bớt tâm lực ta. Chỉ như nay trong trăm ngàn vạn chúng sanh, có một người đắc Đạo, thưởng bù ngay cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới!

Than ôi! Đức Quan Thế Âm đã đắc Tâm Phật, mà khiến cho chúng sanh đều đắc Tâm Phật, bi nguyện ấy thật chẳng thể nghĩ bàn.

Kinh:

- Phật hỏi về Viên Thông, tôi do theo cửa Tai, tròn soi Tam Muội, nhân Tâm được tự tại, duyên theo tướng Nhập Lưu, đắc Tam Ma Địa, thành tựu Bồ Đề, đó là Đệ Nhất.

Bạch Thế Tôn, Đức Phật Như Lai ấy khen tôi khéo được Pháp Môn Viên Thông, ở trong đại hội thọ ký cho tôi hiệu là Quan Thế Âm. Do tôi thấy nghe thấu suốt mười phương nên danh hiệu Quán Âm cùng khắp mười phương thế giới.

Thông rằng: Kinh Thư nói rằng "Sáng bốn mắt, thông bốn tai", là nói lấy tai mắt của bốn phương làm tai mắt vậy. Lại nói rằng "Trời thấy tức là tự dân ta thấy. Trời nghe là tự dân ta nghe". Đó là nói cái Thấy Nghe của trời vốn không thể thấy mà thấy được ở nơi dân vậy.

Đức Quan Âm đã lấy cái Thấy Nghe của mười phương làm cái Thấy Nghe, nên cái Thấy Nghe của mười phương tức là Quan Âm vậy. Danh ấy sao chẳng khắp mười phương ư?

Tổ Bảo Phước hỏi nhà sư:

- Ở đâu lại?

Đáp:

- Quan Âm.

Tổ Phước nói:

- Vậy thấy Quan Âm chăng?

Đáp:

- Thấy.

Tổ Phước nói:

- Thấy bên trái hay thấy bên phải?

Đáp rằng:

- Thấy thì chẳng trải qua trái phải.

Tổ Pháp Nhãn riêng nói rằng:

- Như Hòa Thượng thấy.

Phù Thượng Tọa dự pháp hội Kính Sơn, một ngày nọ trước đại điện Phật, có nhà sư hỏi:

- Thượng Tọa từng đến Ngũ Đài chưa?

Đáp:

- Từng đến.

Hỏi:

- Lại thấy Văn Thù chăng?

Đáp:

- Thấy.

Hỏi:

- Thấy ở chỗ nào?

Đáp:

- Thấy trước điện Phật Kính Sơn.

Tổ Tuyết Phong nghe lời ấy lấy làm lạ.

Tổ Lâm Tế nói:

- Có một loại học nhơn, hướng trong núi Ngũ Đài tìm Văn Thù, thật sớm hiểu lầm! Ngũ Đài không Văn Thù. Ông muốn biết Văn Thù ư? Chỉ là cái chỗ dùng trước mắt ông, trước sau chẳng khác, chốn chốn chẳng nghi, ấy là Văn Thù sống. Ông một niệm tâm không có ánh sáng sau biệt thì xứ xứ thảy là chân Phổ Hiền. Ông một niệm tâm tự nhiên mở trói, tùy chốn giải thoát, đây chính là Quan Âm Tam Muội Pháp, đắp đổi chủ bạn. Ra thì lập tức ra, một là ba, ba là một. Hiểu được như thế mới xem kinh điển.

Ôi! Lời này của Tổ Lâm Tế nói ngay tông giáo, thảy không sai biệt.

*****

MỤC NĂM:

CHỈ PHÁP VIÊN TU

I. PHÓNG HÀO QUANG HIỆN ĐIỀM LÀNH

Kinh:

- Bấy giờ Đức Thế Tôn nơi tòa sư tử, từ trong năm vóc đồng phóng quang báu, rọi xa trên đảnh mười phương Như Lai số như vi trần cùng các vị Pháp Vương Tử và các Bồ Tát. Các Đức Như Lai kia cũng từ năm vóc đồng phóng quang báu, từ các thế giới số như vi trần đến rọi trên đảnh Phật, rót vào đảnh các vị Đại Bồ Tát và A La Hán trong hội; rừng cây ao hồ đều diễn pháp âm, ánh sáng giao nhau trùng trùng, như lưới tơ báu. Thảy trong đại chúng được cái chưa từng có, tất cả đều được Kim Cương Tam Muội. Liền khi ấy, trời mưa hoa sen trăm báu, xanh, vàng, đỏ, trắng xen nhau lẫn lộn, mười phương hư không thành sắc bảy báu. Núi sông, đất đai cõi Ta Bà này đồng thời chẳng hiện, chỉ thấy cõi nước vi trần mười phương hợp thành một cõi, phạm âm ca ngợi tự nhiên nổi khắp.

Thông rằng: Các vị Bồ Tát, A La Hán chứng Viên Thông đều đã nhập vào cảnh giới bất khả tư nghì, cho nên Đức Phật từ trong cái Bất Tư Nghì hiện khởi điềm lành, ứng ra quang báu. Cả hai Chánh Báo và Y Báo đều hiển Viên Thông. Chánh Báo là năm vóc phóng quang, Phật Phật chẳng khác, hiển thị hai mươi lăm chỗ viên thông, thảy thảy là Đạo. Mỗi người ai cũng đủ hình vóc, nhưng Phật mới được toàn thể. Y Báo là ánh sáng giao nhau trùng trùng, như lưới tơ báu, cho đến mười phương hư không thành sắc bảy báu, hiển bày mười tám giới, bảy Đại đều là Như Lai Tạng Chân Như Diệu Tánh, giao nhau hòa lẫn, đồng một Biển-Không Sáng Báu (Bửu Minh Không Hải) vậy. Cõi Ta Bà này hợp thành một cõi, là cái tượng "Trần tiêu, trở lại Tánh Nghe (Trần tiêu Văn phục)" vậy. Rừng cây ao hồ đều diễn pháp âm, là cái tượng "Thuần Âm, không Trần" vậy. Cái Bảo Giác tròn sáng cùng khắp pháp giới, đã âm thầm xem sự Phản Văn xoay về Tánh Nghe làm Đệ Nhất Cơ vậy.

Sư Động Sơn đến Tổ Ngụy Sơn, hỏi rằng:

- Từng nghe Trung Quốc Sư có việc vô tình thuyết pháp, tôi chưa rõ thấu chỗ vi diệu ấy.

Tổ Ngụy nói:

- Ta trong ấy cũng có, chỉ thật khó được người.

Sư nói:

- Xin thỉnh Hòa Thượng nói.

Tổ Ngụy nói:

- Cái miệng cha mẹ sanh, rốt chẳng vì ông nói.

Hỏi rằng:

- Lại có ai mộ đạo cùng thời với Thầy chăng?

Tổ Ngụy rằng:

- Thạch thất cách liền đây, có Vân Nham đạo nhân. Nếu có thể tìm đến ra mắt thì hẳn thỏa mãn ý nguyện của ông.

Sư đến Tổ Vân Nham, hỏi rằng:

- Vô tình thuyết pháp, kẻ nào được nghe?

Tổ Nham đáp:

- Vô tình được nghe.

Hỏi:

- Hòa Thượng lại nghe chăng?

Tổ Nham nói:

- Tôi nếu nghe, ắt thầy chẳng nghe tôi thuyết pháp vậy.

Hỏi:

- Tôi đây vì sao chẳng nghe?

Tổ Nham dựng đứng phất tử, nói:

- Lại nghe chăng?

Đáp:

- Chẳng nghe.

Tổ Nham nói:

- Ta thuyết pháp ông còn không nghe huống là vô tình thuyết pháp.

Hỏi:

- Vô tình thuyết pháp, kinh giáo nào nói?

Tổ Nham nói:

- Há chẳng thấy kinh Di Đà nói: nuớc, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, cây cỏ vô tình hòa tấu vui ca.

Thầy Động Sơn ngay đó tỉnh ngộ, mới thuật bài tụng:

Thật lạ lùng, thật lạ lùng!
Vô tình thuyết pháp, chẳng nghĩ bàn,
Nếu đem tai ngóng càng không hiểu.
Nhãn xứ nghe thanh mới tỏ thông.

Thiền sư Vân Cư Hựu thượng đường:

- Tất cả Âm Thanh là Thanh Phật!

Gõ thiền sàng, nói:

- Phạm Âm trong xa khiến người thích nghe!

Lại nói:

- Tất cả Sắc là Sắc Phật!

Bèn đưa phất tử lên, nói:

- Nay Phật phóng quang minh, chiếu rõ thiệt tướng nghĩa. Người đã thấu đáo, đỉnh đội vâng làm. Người chưa thấu đáo, hợp như thế rõ, hợp như thế tin!

Rồi gõ thiền sàng, xuống tòa.

Các vị tôn túc đây đích thân đến dự Viên Thông Hội Thượng mà đi lại, nên trùng trùng diễn thuyết như thế.

*****

II. PHẬT BẢO NGÀI VĂN THÙ CHỌN CĂN VIÊN THÔNG

Kinh:

- Khi ấy, Đức Như Lai bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:

- Ông nay xét xem trong hai mươi lăm vị Vô Học Đại Bồ Tát và A La Hán đây, mỗi vị trình bày phương tiện thành đạo lúc ban đầu, đều nói tu tập chỗ Viên Thông chân thật, chỗ tu hành của các vị thật không có hơn, kém, trước, sau sai khác. Nay Ta muốn khiến cho Ông A Nan khai ngộ, thì trong hai mươi lăm pháp tu hành, pháp nào hợp căn cơ ông ấy. Lại sau khi Ta diệt độ, chúng sanh cõi này vào Thừa Bồ Tát, cầu đạo Vô Thượng thì pháp môn phương tiện nào được dễ thành tựu?

Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử vâng ý chỉ lành của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thừa oai thần Phật, nói kệ đáp lời.

Thông rằng: Chỗ tu hành của các vị thật không hơn kém, trước sau, sai khác, đều đã ngộ nhập Vô Thượng Bồ Đề, được Phật ấn chứng.

Tổ Hoàng Bá nói:

- Từ Đức Như Lai phó pháp cho Ngài Ca Diếp đến nay, là dùng tâm ấn tâm, tâm tâm không khác. Ấn vào hư không thì ấn chẳng thành văn. Ấn vào vật thì ấn chẳng thành pháp. Nên dùng tâm ấn tâm, tâm tâm chẳng khác. Năng ấn, sở ấn đều khó khế hội, nên người được ít ỏi. Nhưng tâm tức vô tâm, đắc tức vô đắc.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

III. LỰA RA NHỮNG CĂN KHÔNG VIÊN

Kinh:
Tánh Biển Giác lặng khắp,
Toàn trong (lặng), Giác nguyên diệu.
Nguyên minh, chiếu sanh sở,
Sở lập, tánh chiếu vong.

Thông rằng: Tánh Giác nguyên diệu vốn nhiệm mầu mà hằng sáng vậy. Vì phân biệt tiền cảnh, nên nói là nguyên minh. Đã rơi vào đất ý thức, tức là Tự Lượng. Tự Lượng lập thì cái Hiện Lượng tròn sáng mất. Ở trước, Đức Thế Tôn nói, vô thủy Bồ Đề Niết Bàn nguyên là thể trong sạch, cái năng sanh các duyên, theo duyên thì bỏ mất. Đây là từ trùng tụng mà ra.

Hòa Thượng Phổ Minh dạy chúng rằng:

- Tâm Pháp của Tổ Sư rỗng suốt mười phương, xưa nay hằng nhiên, Pháp vốn như thế. Cái Pháp như thế không mượn tu tập, mà tự thành tựu; chẳng cần đắc, mà tự viên mãn. Tất cả hiện thành, gọi là Địa Bất Động. Dùng mà chẳng phải có, không dùng chẳng phải không, thể mầu nhiệm trong lặng như nhiên, thường hằng chẳng biến. Thể hợp diệu dụng, ứng khắp vô vi, ảnh hiện trùng trùng, vô biên sắc tướng. Tâm không tự tánh, gặp sự trọn bày rực rỡ, đạo tràng bất động, khắp mười phương cõi. Như cảnh giới này, chỉ sơ lược tạm cái hồi quang; bỏ trần hiệp Giác, chẳng làm việc bóng dáng. Cái ý sự này như ngự trên đường lớn. Hành (đi) lấy thì tức là. Giả sử chẳng hành, cũng tại trên đường. Luận bàn như vậy, vẫn còn là lời thuyết của pháp môn dạy dỗ. Nếu mà cử xướng tông thừa, chỉ là nhất thời giải tán đi là tốt.

Nếu giải tán đi bèn là vô sự, bao nhiêu cái Giác Hải trừng viên kia cũng đoạn dứt. Bằng không, còn ngồi trong hang ổ vô vi.

Kinh:
Mê vọng, có hư không,
Nương Không, lập thế giới.
Tưởng đọng thành cõi nước,
Hay Biết thành chúng sanh.
Không sanh trong Đại Giác,
Như một bọt nổi biển.
Cõi hữu lậu vi trần,
Đều nương Không sanh khởi.
Bọt diệt, Không (vốn) chẳng có,
Huống là có ba cõi.

Thông rằng: Giác nói là Đại Giác, là để phân biệt với cái giác của sự hiểu biết vậy. Đại Giác như biển, không có bến bờ. Cái Tánh vốn Không, chẳng thể lấy Giác đặt tên. Có tướng thì ngay bày, không có tướng thì ẩn. Chân Tánh mà ẩn, cái Không cái Giác bèn phân. Vừa khởi cái Không Kiến, liền sanh ra tướng phần, nên cõi nước trong tam giới đều nương Không mà lập. Hễ nhận cái Giác Minh bèn sanh kiến phần, nên cái hữu lậu của chúng sanh đều chạy theo hư vọng mà có ra. Tướng chẳng phải lìa kiến mà thành tướng, chính là do tưởng lắng đọng mà kết thành. Kiến chẳng phải lìa tướng mà thành kiến, mà là cái trôi xoay trong ba cõi hiệp với Trần mà có vậy. Cái tướng đó, cái kiến đó, sanh ra trong Đại Giác, như một bọt nước trong biển cả. Nếu trở về chỗ tột cùng của căn trôi dạt, đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt thì bọt nước tan mất trong biển, y nhiên một Đại Giác mầu sáng. Tìm hư không còn chẳng thể được, huống là các cõi nước vi trần ba cõi hữu tình, vô tình an lập trong hư không ư?

Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng:

- Hư không sanh ra trong Đại Giác như một bọt nước khởi trong biển là sao?

Tổ Trượng đáp:

- Hư không thí dụ cho cái bọt, biển thí dụ cái Tánh. Tự Tánh linh giác chính mình, vượt cả hư không, nên nói Không sanh trong Đại Giác. Như bọt nổi trong biển.

Thiền sư Mộc Bình Đạo hỏi Tổ Lạc Phổ rằng:

- Khi một bọt nước chưa sanh, làm sao rõ mạch nước?

Tổ Phổ nói:

- Dời ghe rành thế nước. Giở chèo biết sóng mòi.

Thầy Bình không khế hiểu, đến tham hỏi Tổ Bàn Long, hỏi lại lời trước.

Tổ Long nói:

- Dời ghe chẳng rõ nước. Giở chèo tức mê nguồn!

Liền ngộ nhập.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

Mặt trời mặt trăng cùng sáng tỏa,
Soi thuở Oai Âm chưa động lay.
Như nói trời xanh riêng có lối,
Y xưa, người gỗ nhíu đôi mày.

Đại để, chỗ thấy (kiến xứ) của Tổ Bàn Long là chỗ ẩn thân thì không dấu vết. Chỗ thấy của Tổ Lạc Phổ là chỗ không dấu vết, chẳng ẩn thân. Rõ được, chỉ là một đường, chẳng hề có khác.

Về sau, có nhà sư hỏi:

- Như sao là Mộc Bình?

Đáp:

- Chẳng nhọc búa rìu.

Nhà sư nói:

- Vì sao chẳng nhọc búa rìu?

Đáp:

- Mộc Bình.

Quả là soi rõ một đoạn đại sự của thuở Oai Âm chưa máy động.

Kinh:
Về nguồn, Tánh không hai,
Phương tiện có nhiều cửa.
Thánh Tánh, đâu cũng thông,
Thuận nghịch đều phương tiện.
Sơ Tâm vào Tam Muội,
Chậm nhanh bậc chẳng đồng.

Thông rằng: Trước nói Mười phương Như Lai, nơi mười tám giới mỗi mỗi tu hành đều đắc viên mãn Vô Thượng Bồ Đề, tức ở đây nói Cái Thánh Tánh này không đâu mà chẳng thông, thuận nghịch đều là phương tiện vậy. Lại nói Như ngay đây ngộ căn viên thông liền nghịch lại cái dòng vọng nghiệp thêu dệt từ vô thủy. Được tùy thuận viên thông thì so với cái chẳng viên thông cách nhau như ngày với kiếp. Tức ở đây nói Cái Sơ Tâm này vào Tam Muội thì có nhanh chậm chẳng đồng.

Tổ Hoàng Bá nói:

- Về nguồn Tánh không hai, nghĩa là thật tánh của Vô Minh tức là Tánh Chư Phật. Phương tiện có nhiều cửa, nghĩa là người Thanh Văn thấy Vô Minh diệt, chẳng thấy Vô Minh sanh, niệm niệm chứng tịch diệt, Chư Phật thấy chúng sanh suốt ngày sanh mà không sanh, suốt ngày diệt mà không diệt. Không sanh không diệt tức là quả Đại Thừa. Bởi thế đạo quả mãn, Bồ Đề tròn, hoa nở thế giới sanh.

Thiền sư Khô Mộc Thành thượng đường: Về nguồn Tánh không hai. Phương tiện có nhiều cửa. Chỉ ngộ Tánh Về Nguồn, lo gì cửa phương tiện. Các ông muốn rõ Tánh Về Nguồn ư?

Lộ trụ lấy làm chuôi Bắc Đẩu, người đời chẳng nhận theo như thế. Muốn rõ cửa phương tiện ư? Chuôi Bắc Đẩu lấy làm lộ trụ, chống trời đỡ đất cũng vừa nên. Hãy nói một câu chẳng rơi vào cửa phương tiện, nói làm sao? Ba mươi năm sau chớ có nêu ra lầm lẫn!

Hai vị tôn túc đây, mỗi vị đều theo chỗ thấy mà phát huy đối với ý chỉ về nguồn thật là không hai.

Kinh:
Sắc Tưởng kết thành trần,
Hay Biết không thể thấu.
Không thấu suốt như vậy,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Theo pháp Quán Thập Tưởng mà vào, kết thành nội trần, nên cái tinh minh hay biết thật chẳng thể biết thấu suốt, vì bị pháp buộc vậy.

Tổ Thạch Đầu hỏi khách mới đến:

- Từ đâu tới?

Đáp rằng:

- Giang Tây.

Tổ Đầu nói:

- Thấy đại sư Mã Tổ chăng?

Đáp:

- Có thấy.

Tổ Đầu bèn chỉ một khúc củi, nói:

- Mã đại sư đâu giống như cái đó?

Nhà sư không đáp được. Rồi trở về đem nói lại y vậy với Ngài Mã Tổ.

Ngài Mã Tổ nói:

- Ông thấy khúc củi lớn hay nhỏ?

Đáp rằng:

- Lớn quá cở.

Ngài Tổ nói:

- Ông rất có sức!

Nhà sư hỏi:

- Sao vậy?

Ngài Mã Tổ nói:

- Ông từ núi Nam Nhạc vác một khúc củi đến đây, há chẳng mạnh sao?

Nếu nhà sư này là Kẻ Ấy, bèn bỏ quách là phải ngay.

Kinh:
Âm Thanh trộn ngữ ngôn,
Chỉ là vị danh cú.
Một chẳng gồm tất cả,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Ngộ Thanh Trần đối với người nhập theo căn Tai thì chẳng đồng. Thanh là lời của Phật, Căn mới là tự Tâm. Nhận Thanh Trần ắt bám níu danh cú kia. Xoay lại cái Nghe ắt rõ thấu nguồn Tánh mình. Danh cú trệ vướng vào một mối, còn Nguồn Tánh không đâu chẳng bao quát khắp. Cho nên nghe Tiếng ngộ Đạo cũng không chọn được.

Tổ Vân Cư Ứng thượng đường:

- Hết thảy các ông, dầu cho học được chuyện bên Phật, thì cũng đã sớm dụng tâm lầm! Há chẳng thấy người xưa giảng kinh được hoa trời rụng, đá gật đầu. Cũng chẳng nhầm gì chuyện tự kỷ. Những kẻ khác nhàn rỗi làm sao mà định lấy cái thân tâm hữu hạn này hướng vào trong vô hạn mà sử dụng ? Như lấy gỗ vuông tra vào lỗ tròn, thế nào cũng sai hở. Nếu không có cái chuyện ấy dầu ông có thêu hoa dệt gấm cũng là vô dụng, chưa lìa khỏi thức tình. Hết thảy mọi sự phải hướng về trong-ấy cùng dứt hết. Nếu còn một mảy lông phủi bỏ chẳng sạch, bèn bị trần trói buộc, huống chi là nhiều? Sai một hào li, lỗi lầm như núi.

Há chẳng nghe người xưa nói: Chỗ học chẳng sâu mầu, đều trôi theo thế tục. Sự vật trong chốn lầu son gác tía bỏ chẳng được, đều là rỉ chảy. Cần thẳng vào trong ấy, nào nắm, nào đến, nào đi đều sạch dứt mọi sự mới là không lỗi. Như người việc việc đều rõ, vật vật đều thông, chỉ gọi là người rõ việc, rốt cuộc chẳng gọi là người tôn quý. Hãy biết rằng tôn quý tự riêng một đường. Há chẳng nghe nói: Theo cửa bước vào chẳng phải là của báu, cây gậy chẳng thành rồng, ư?

Chỗ này có ý vị thay! Danh cú sáng rỡ thấu suốt!

Kinh:
Hương, hợp lại, mới biết,
Lìa ắt vốn không có.
Chỗ biết chẳng thường hằng,
Làm sao được Viên Thông?
Tánh Vị chẳng bổn nhiên.
Cần nếm mùi mới có,
Sở Giác chẳng hằng nhất,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Hương, Vị thì sự ly hợp chẳng thường hằng, thể chẳng cùng khắp. Bám níu Hương Vị cho là cửa vào, rốt chẳng tương tự gì với Thể viên dung, cho nên đều không chọn được.

Nhà sư hỏi Tổ Vân Cư Ứng:

- Cơm của Phật Hương Tích người nào được ăn?

Tổ Ứng nói:

- Phải biết người được ăn, vào miệng rồi cũng nên phải ói ra!

Lại có nhà sư hỏi Tổ Thủ Sơn Niệm:

- Như sao là đường chánh tu hành?

Tổ Sơn nói:

- Nghèo mà chẳng ăn tạp.

Nhà sư nói:

- Buông tay về nhà vậy.

Tổ Sơn nói:

- Thơm thúi chẳng từng nghe.

Tổ Phật Ấn thượng đường:

- Ta có một cái rỡ ràng ấy, người người trong miệng nhai, nhai bể được rồi, cần mửa cả ra. Nhai chẳng bể được, chuyển thành thuốc độc.

Rồi gọi:

- Các vị thiền đức, cái vị ngon bổ ấy là sao, hãy nói ra xem.

Im chập lâu, nói:

Y Vương đâu chẳng không phương nghĩa,
Ngàn dặm tô hương, tượng chẳng quày.

Tổ Phật Ấn cùng hai vị tôn túc trùng trùng chú nghĩa. Nếu nghe Hương này, biết Vị này tức hằng nhất cái Sở Giác.

Kinh:
Xúc, do chỗ chạm, biết,
Không chỗ, chẳng rõ Xúc.
Hợp lìa, Tánh chẳng định,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Xúc tất phải có chỗ, nên chẳng phải là nghĩa Viên. Huống là có hợp mới có Xúc, lìa thì chẳng phải Xúc. Xúc vì lìa cái Biết, tánh nó chẳng định. Tự tánh chẳng định, sao được Viên Thông?

Hòa Thượng Thủy Lạo ban đầu ra mắt Ngài Mã Tổ, hỏi rằng:

- Như thế nào là rõ ràng ý chỉ Tây lai?

Thầy Lạo liền lễ bái, Ngài bèn tống cho một đạp, thầy đại ngộ, đứng dậy vỗ tay ha hả cười lớn rằng:

- Rất lạ lùng, rất lạ lùng! Trăm ngàn Tam Muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ hướng trên đầu một mảy lông liền rõ thấu căn nguồn!

Về sau, dạy chúng rằng:

- Từ lúc lãnh một đạp của Mã đại sư, mãi đến nay cười chẳng dứt!

Tuy nhiên, chỗ xúc chạm ngày xưa dường vẫn còn, nào giống như chỗ thoát thẳng của Tổ Lâm Tế.

Tổ Lâm Tế nói:

- Tôi ở với tiên sư Hoàng Bá hai mươi năm, ba lần hỏi đại ý Phật Pháp, ba lần bị Ngài thưởng gậy, như ngọn sào phủi sạch. Như nay lại nhớ được một gậy, có ai vì ta thi hành được?

Khi ấy có một vị tăng bước ra khỏi chúng, nói:

- Tôi thi hành được.

Tổ Tế cầm gậy trao cho.

Vị tăng định tiếp lấy, Tổ Tế liền đánh.

Kiếm rớt xa rồi, ông mới khắc nghe!

Kinh:
Pháp gọi là Nội Trần,
Nương Trần ắt có Sở.
Năng Sở chẳng dung nhập,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Pháp Trần chẳng có tướng, tiềm ẩn trong Ý căn; đã sa vào Năng-Sở bèn có phương chỗ nhất định, nên chẳng dung nhập khắp. Tuy là pháp không toàn khắp mười phương, nhưng chẳng thể cùng khắp cái phi không, nên chẳng thể viên thông. Phi nghĩa là Năng chẳng dung nhập Sở, Sở chẳng dung nhập Năng, mà hai bên cùng tồn tại.

Tổ Lâm Tế nói:

- Các pháp thế gian và xuất thế gian, đều không có tự tánh, cũng không có tánh sanh, chỉ có cái danh trống trơn, danh tự cũng không, ông chỉ nhận cái danh trống trơn kia cho là thật, lầm lớn vậy thay. Cho là có, đều là cảnh của Y, Biến, mới có Bồ Đề để y theo, Niết Bàn để y theo, Giải Thoát để y theo, Tam Thân để y theo, Trí Cảnh để y theo, Giác để y theo, Phật để y theo. Ông hướng về trong cõi nước Y, Biến ấy tìm vật gì? Cho đến ba Thừa, mười hai phần giáo, đều là giấy cũ chùi đồ dơ.

Phật là thân huyễn hoá, Tổ là lão thầy tu, ông lại cho là mẹ sanh mình ư? Ông nếu cầu Phật, liền bị Phật-Ma hớp hồn; ông nếu cầu Tổ, liền bị Tổ trói chặt. Ông mà có cầu đều là khổ, chẳng bằng vô sự.

Tin chăng? Nương y cái Trần tất có Sở, chẳng thể được Viên Thông vậy. Trên là chọn sáu Trần để nhập, chẳng thích hợp với người Sơ Tâm.

Kinh:
Cái Thấy tuy rỗng suốt,
Rõ trước chẳng rõ sau.
Bốn bề thiếu một nửa,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Cái Thấy của con mắt, rõ trước chẳng rõ sau. Cái Thấy của Tâm chẳng phải là mắt, gọi là thấy trong thấy. Vì sao cũng thiếu nửa phần? Chỉ vì lọt vào Kiến Phần, bèn mất Viên Thường. Cho nên căn mắt không được chọn.

Tổ Nam Tuyền tham kiến Trung Quốc Sư.

Quốc sư hỏi:

- Chốn nào lại?

Đáp rằng:

- Giang Tây lại.

Hỏi:

- Lại đem được chơn Mã Tổ đến chăng?

Đáp rằng:

- Chỉ cái ấy là phải.

Quốc sư nói:

- Cái phù trừ quỷ sau lưng!

Tổ Tuyền liền im luôn.

Tổ Trường Khánh Lăng nói:

- Thật giống như chẳng biết.

Tổ Bửu Phước nói thêm rằng:

- Xét chẳng đến cái yên ổn này của Hòa Thượng.

Tổ Vân Cư Tích nói:

- Hai vị tôn túc đây đều nâng đỡ cái sau lưng. Chỉ như Nam Tuyền im luôn là vì nâng đỡ cái trước mặt hay nâng đỡ cái sau lưng?

Tổ Huyền Sa chỉ vị tăng qua đời nói:

- Trước mặt chạm mắt là Bồ Đề, thần quang muôn dặm: Tướng sau đảnh.

Nhân có kệ rằng:

Vạn dặm thần quang tướng đảnh sau,
Khi mà không đảnh ngóng về đâu?
Sự đã thành, ý đã thôi,
Tin tức trong kia trọn khắp nơi.
Người trí trong liêu bèn nắm lấy,
Chẳng thoáng so đo bị mất rồi.

Hai tắc này hỗ tương bày tỏ, chỗ thấy đồng nhau, chẳng quý sao?

Kinh:
Mũi thở ra vào thông,
Giữa, khí không chỗ giao.
Chia phân chẳng dung nhập,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Khoảng vũ trụ là một đại hô hấp vậy. Xuân, Hạ thở ra; Thu, Đông thở vào. Trăng sáng thở ra; trăng tối thở vào. Trước giờ Tý thở ra; sau giờ Ngọ thở vào. Con người do thở ra thở vào mà thông cùng trời đất, giống như con cá trong nước vậy. Điều hòa hơi thở ra vào đến chỗ hiện tiền không có khí giao nhau. Các đạo gia dưỡng sanh cho là hợp với tự nhiên, chẳng hiểu cái khí mịt mờ mênh mông đó, cho là Chân Tánh, xem cái tinh thuần ấy, cái vật thể ấy cho là Thức Thần. Cái chia phân tản mạn này đối với Tự Tánh có giao thiệp gì.

Có người hỏi Tổ Đại Châu rằng:

- Thế gian có pháp vượt Tự Nhiên chăng?

Tổ Châu đáp:

- Có.

Hỏi:

- Pháp nào vượt được?

Tổ Châu nói:

- Kẻ rõ biết cái Tự Nhiên.

Hỏi:

- Cái Nguyên Khí là Đạo chăng?

Đáp:

- Nguyên Khí tự là Nguyên Khí; Đạo tự là Đạo.

Hỏi:

- Nếu như thế, ắt phải có hai thứ vậy.

Tổ Châu nói:

- Biết thì chẳng có hai.

Lại hỏi:

- Thế nào là tà, thế nào là chánh?

Tổ Châu nói:

- Tâm chạy theo vật là tà, vật theo tâm là chánh.

Do đây mà xét, cái thuyết điều hòa hơi thở là tâm chạy theo vật. Chia phân quá chừng, huống là được Viên Thông!

Kinh:
Lưỡi, không nhập (thì) không mối,
Nhờ Vị, sanh có biết.
Vị mất rồi chẳng có,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Cái Nếm chẳng có Căn thì không biết Vị. Không có Căn mà biết Vị, thật là không căn cứ. Đã có Căn, bởi có Vị nhập vào mà sanh cái Biết. Vị mất thì Biết cũng mất. Căn ấy do Vị mà thành có thành không, sao được là Viên?

Ngài Giáp Sơn ở Tổ Quy Sơn làm Điển Tòa.

Tổ Quy hỏi rằng:

- Hôm nay ăn món gì?

Ngài Giáp nói:

- Hai năm cùng một xuân.

Tổ Quy nói:

- Lo việc tốt lắm!

Ngài Giáp nói:

- Rồng ở ổ phụng.

Tổ Đầu Tử tụng rằng:

Gặp nhau cậy hỏi cháo chúng sanh,
Chẳng sánh cơm thơm am Tịnh Danh.
Khí đêm chuyển theo màu phụng đỏ,
Rồng vàng sáng quấn nhánh trong trăng.

Lại Tổ Thê Hiền Thực thượng đường, im lặng chặp lâu, nói:

- Hân hạnh có một mâm cơm, chẳng thể trộn tiêu, gừng. Tuy nhiên như thế, thử ăn xem nào!

Bèn xuống pháp tòa.

Hai tắc này cũng cùng một Xuân. Ăn được rồi, mới cho là khác lưỡi biết Mùi.

Kinh:
Thân cùng chỗ chạm đồng,
Đều chẳng biết tròn suốt.
Hữu hạn, không thấu suốt,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Bày rõ cái Diệu Xúc, chỉ cái thân hiển ra cái Biết. Thuần Biết mà còn sót cái thân, cũng chẳng phải là cái Biết toàn vẹn. Phải biết là cái Biết tròn đầy thấu suốt muôn pháp, chẳng nhờ thân biết. Nay thân có chạm xúc, là có giới hạn bến bờ, chẳng được Viên Thông vậy.

Thái sử Huỳnh Sơn Cốc ra mắt thiền sư Tử Tâm Tân, theo chúng nhập thất.

Tổ Tân trợn mắt hỏi rằng:

- Lão già Tân chết, quan học sĩ chết, thiêu thành hai đống tro, hướng chốn nào gặp nhau?

Ông Cốc không có lời đáp.

Tổ Tân bắt phải ra thất, nói rằng:

- Chỗ hối đường dành cho người tham được, quan chưa ở trong đó.

Sau ông làm Tả Quan ở Kiềm Nam, đạo lực càng mạnh. Trong chỗ không nghĩ niệm, liền rõ chỗ hỏi của Tổ Tử Tâm. Trả lời thơ rằng:

- Năm xưa nhờ ơn khó nhọc nhắc nhở, mà vẫn say trong mộng, phảng phất ở trong bóng sáng. Ấy là nghi tình chẳng dứt, mạng căn chẳng đoạn, nên trông về bờ mà thối lui. Gần đây bị đổi đi làm tại Kiềm Nam, ngày nằm tỉnh giấc, bỗng nhiên nghĩ ra. Quả là bị Lão Hòa Thượng trong thiên hạ lừa dối ít nhiều vậy. Chỉ có đạo nhân Tử Tâm không chịu, mới là giúp nhau đệ nhất, vạn hạnh đệ nhất vậy.

Cho nên rõ suốt như Ông Sơn Cốc thì cái Chính Mình còn bất khả đắc, còn nói gì chỗ gặp nhau? Chẳng đoạn dứt mạng căn, không thể có lời này.

Kinh:
Ý căn xen loạn tưởng,
(Tánh) Lặng Nhiên rốt chẳng thấy.
Tưởng niệm chẳng thể thoát,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Ý căn đã thuộc về hiểu biết. Hiểu biết ắt tư tưởng tạp loạn nổi lên, như biển nổi sóng đào, nơi Tánh Lặng Nhiên rốt chẳng thể thấy. Dù khiến cái hiểu biết trở về chỗ không hiểu biết, tư tưởng về chỗ không tư tưởng cũng thuộc về tưởng niệm, chưa dễ giải thoát, nên chẳng thể được Viên Thông.

Có nhà sư hỏi Thiều Quốc Sư:

- Như sao là chẳng chứng một pháp?

Tổ đáp:

- Mắc trong ngôn ngữ.

Hỏi:

- Như sao là chứng các pháp?

Đáp:

- Say đắm làm chi?

Rồi bèn nói:

- Chỉ như sơn tăng này, đối đáp kia như vậy, các vị Thượng Tọa hiểu ra làm sao? Chẳng phải tướng chân thật là thế ư? Chẳng phải ngay lúc này không có một pháp nào để chứng đấy ư? Chẳng phải rõ biết chỗ đi đến của y đấy ư? Chẳng phải là toàn thể hiển lộ đấy ư? Chớ am hiểu lầm! Kiến giải thế này, gọi là nương cỏ bám cây, cùng Phật Pháp cách xa trời đất! Giả như vấn đáp biện luận như nước chảy sông trôi cũng chỉ thành được cái tri kiến điên đảo. Nếu chỉ quý lời đáp biện luận, có gì khó đâu? Chỉ e vô ích cho người, trở thành dối gạt. Như các Thượng Tọa, chỗ học, biện luận, vấn đáp trước kia, nói đạo lý cho lắm, vì sao mà tâm nghi chẳng dừng? Nghe phương tiện của Thánh xưa một mực chẳng hội, chỉ vì nhiều hư ít thật. Chẳng bằng các Thượng Tọa ở dưới gót chân một phen nhìn ra, xem đó là đạo lý gì, có bao nhiêu pháp môn để cho các vị tự nghi tự giải. Mới biết việc học trước kia chỉ là căn nguyên sanh tử, kế sống trong Ấm Giới. Do đó, cổ nhân nói:

- Chẳng thoát kiến văn, như trăng chìm trong nước. Vô sự, trân trọng.

Kiến văn còn chẳng thể thoát, huống là tưởng niệm ư? Trên đây là theo năm Căn mà nhập, chẳng hợp với người Sơ Tâm.

Kinh:

Nhãn thức bởi Căn, Trần,
Gạn cùng, không có tướng.
Cả tự thể không định,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Cảnh thuộc Tướng Phần, Thức thuộc Kiến Phần. Cái Thấy của Nhãn Thức là Căn và Cảnh hợp, Thức sanh ở giữa, ba thứ hòa hợp mà thành. Gạn đến gốc rễ thì cái Thấy này vốn không tự thể, không có tướng gì nắm bắt được. Hòa hợp thì có, chẳng hòa hợp thì không nên nói là chẳng định. Vốn là vô định thể, sao có thể chứng Viên Thông?

Sư Thần Hội, tuổi mới mười ba, từ Ngọc Tuyền đến tham hỏi Lục Tổ.

Tổ nói:

- Bậc trí thức gian khổ ở xa đến, lại đem được gốc đến chăng? Như có gốc thì hẳn biết chủ, thử nói ra xem.

Thầy Hội nói:

- Lấy vô trụ làm gốc, thấy tức là chủ.

Tổ nói:

- Sa Di này! Sao hợp được lời nói ấy.

Thầy Hội mới hỏi rằng:

- Hòa Thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?

Tổ lấy gậy đánh ba cái, nói:

- Ta đánh ông là đau hay chẳng đau?

Đáp rằng:

- Cũng đau cũng chẳng đau.

Tổ nói:

- Ta cũng thấy cũng chẳng thấy.

Thầy Hội hỏi:

- Sao là cũng thấy cũng chẳng thấy?

Tổ nói:

- Chỗ thấy của ta là thường thấy lỗi lầm nơi tự tâm; chẳng thấy sự đúng sai tốt xấu của người, đó là cũng thấy cũng chẳng thấy. Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Ông nếu chẳng đau, thì đồng với gỗ đá, nếu đau thì đồng với phàm phu, liền nổi hờn giận. Trước, ông hỏi thấy hay chẳng thấy, đó là hai bên; đau hay chẳng đau, đó là sanh diệt. Tự Tánh ông còn chẳng thấy, sao dám giỡn người?

Thầy Thần Hội lễ bái tạ tội.

Tổ nói:

- Ông bằng tâm mê chẳng thấy, thì hỏi thiện tri thức chỉ đường. Ông bằng tâm ngộ, tức tự thấy Tánh, đúng pháp tu hành. Ông tự mê chẳng thấy lại đi hỏi Ta thấy với chẳng thấy. Ta tự biết thấy, đâu đợi cái mê của ông. Ông bằng tự thấy, cũng chẳng đợi chuyện Ta mê. Sao không tự biết tự thấy, mà hỏi Ta thấy với chẳng thấy ?

Thầy Thần Hội lại lạy hơn trăm lạy, xin tạ lỗi lầm, hầu hạ một bên.

Một hôm, Tổ nói với chúng rằng:

- Ta có một vật, không đầu không đuôi, không danh không tự, không lưng, không mặt, các ngươi có biết chăng?

Thầy Thần Hội bước ra, nói:

- Đó là cội nguồn của Chư Phật, Phật Tánh của Thần Hội.

Tổ nói:

- Đã nói là không danh không tự, ông liền gọi là cội nguồn, Phật Tánh. Ông đi mà có mái tranh che đầu, rốt chỉ thành một tông đồ tri giải.

Nếu lúc ấy mà như Nhị Tổ: xá bái rồi y chỗ mà đứng, thì có lỗi gì?

Kinh:

Tâm nghe suốt mười phương,
Do nhân lớn nguyện lực.
Sơ Tâm khó thể đến,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Chẳng dùng Tai nghe, chẳng dùng Thức nghe nên nói là Tâm nghe, là đã chứng quả vị, cùng Đức Quan Thế Âm nghe suốt mười phương tròn sáng không khác. Chỗ này cũng là nói: Ta cũng theo trong ấy chứng, chẳng phải chỉ duy nhất Đức Phổ Hiền. Tâm nghe rỗng suốt mười phương, việc ngoài hằng sa thế giới không gì chẳng biết. Do nơi Nhân Địa phát tâm, Hạnh Nguyện cực đại, khắp cõi hư không không đâu chẳng suốt đến. Có cái Nhân lớn này nên chứng đại Quả ấy. Cái ấy chẳng phải đại căn đại khí thì không thể tiếp nhận đảm đương, chẳng như xoay lại cái Nghe, huân tu tánh Nghe, lần hồi nhập vào. Điều này người Sơ Tâm chưa dễ khế hợp, khó được Viên Thông, với các chỗ nói khác có chút khác biệt.

Thiền sư Động Sơn Lẫm, ngày chỉ ngồi tịnh. Một bữa, kêu thị giả hãy xuống pháp đường, bảo kẻ kéo cây đừng làm hư thềm bực.

Thị giả ra xem, thấy chẳng có ai, trở lại thưa:

- Vắng vẻ, không có bóng người nào.

Tổ Lẫm lại khiến kiếm tìm. Thị giả đến thềm cúi xem, thì ra bầy kiến kéo cái cánh con chuồn chuồn, theo bực thềm đi lên.

Đây là cực tịnh nên phát ra cái linh tri vậy, nên nghe tiếng con kiến như tiếng sấm. Huống gì cái Tâm nghe của Đức Phổ Hiền, tột cùng rộng lớn hơn ở đây biết bao?

Kinh:
Quán chót mũi vốn quyền cơ,
Chỉ để nhiếp tâm trụ.
Trụ, tâm thành có trụ,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Nhiếp tâm thật là khó khăn vậy. Ban đầu thì tán loạn, chỉ sợ chẳng trụ được. Mà đã được lặng yên, lại thành có chỗ trụ. Trụ và chẳng trụ đều chẳng phải là cái bản thể của vô trụ, nên chẳng được Viên Thông.

Thầy Thạch Củng một ngày kia đang làm việc trong bếp.

Ngài Mã Tổ thấy, hỏi rằng:

- Làm gì thế?

Thầy Củng đáp:

- Chăn trâu.

Ngài hỏi:

- Chăn làm sao?

Thầy Củng nói:

- Một khi vào đám cỏ, nắm mũi dắt trở lại.

Ngài nói:

- Ông thật đúng chăn trâu.

Tổ Nam Tuyền dạy lời rằng:

- Vương Lão Sư này chăn có một con trâu nước đực, định hướng khe Đông đi thì chẳng khỏi lúa mạ nhà vua; định hướng khe Tây đi cũng chẳng khỏi lúa mạ nhà vua. Sao bằng tùy phận đớp chơi chơi (ít ít), đời nào thấy được!

Tổ Thiên Đồng nêu rằng:

- Nam Tuyền chăn trâu khá là kỳ đặc! Dầu cho chốn chốn canh giữ cũng chẳng xong. Vì sao như thế? Vì kia tùy phận đớp chơi chơi!

Tổ Vân Môn nói:

- Hãy nói trong trâu đớp hay ngoài trâu đớp? Ngay dù ông nói được chỗ ăn rành rẽ, tôi lại hỏi ông tìm trâu ở đâu?

Tổ Đại Quy gạn hỏi rằng:

- Vân Môn chỉ biết tìm trâu, chẳng biết xỏ mũi!

Đưa cây gậy lên, nói:

- Ba đời Chư Phật cùng lỗ mũi của Lão Hòa Thượng trong thiên hạ bị cây gậy của sơn tăng nhất thời xuyên suốt! Hãy nói lỗ mũi sơn tăng ở đâu?

Chặp lâu, nói:

- Phao tội cho người, dùng toàn tội buộc!

Nếu nơi tất cả quyền cơ này mà xuyên suốt, thì rõ ràng tìm ra lỗ mũi, quyết định được vô thượng Viên Thông!

Kinh:
Thuyết pháp, phát tiếng, câu,
Trước khai ngộ mới thành.
Câu, chữ chẳng vô lậu,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Căn Lưỡi chỉ có thể phân biệt mùi vị, Thức Lưỡi mới sử dụng âm thanh, thuyết pháp thế gian và xuất thế gian để khai ngộ cho người. Nhưng việc khai ngộ chỉ dành cho người đã thành tựu trước, khi ấy cảm hóa như mưa, chẳng phải chỉ có lời nói cho ra thôi vậy. Huống gì thể chữ thể câu, chẳng lìa văn tự, chẳng phải là pháp vô lậu. Như ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay chẳng phải là mặt trăng, sao có thể được Viên Thông?

Tổ Pháp Nhãn thượng đường; đại chúng đứng đã lâu, mới nói rằng:

- Chỉ như vậy đó mà giải tán đi! Liệu có đạo lý Phật Pháp hay không? Thử nói xem! Nếu không, lại đến trong ấy làm gì? Nếu có thì trong chợ búa, chốn đông người cũng có. Nào phải đến trong kia! Các ông mỗi người từng đọc bộ Hoàn Nguyên Quán, Bá Môn Nghĩa Hải, Hoa Nghiêm Luận, Niết Bàn Kinh, lắm thứ văn sách, cuốn nào trong giáo điển có cái thời tiết ấy? Nếu có, thử đưa ra xem. Nếu trong kinh ấy có cái lời nói ấy, thì đó là thời tiết gì, làm sao giao thiệp? Bởi thế mà nói: Có chút xíu lời vướng nơi tâm tánh, thường làm cái trường duyên ra lo nghĩ. Cái thật tế ở ngay trước mắt đổi thành cái cảnh của danh tướng. Lại làm sao đổi được đây? Nếu đã đổi đi, lại làm sao chánh được đây? Có am hiểu chăng? Chỉ ghi nhớ lời sách, có chỗ nào dùng được!

Đáng tin thay, câu chữ chẳng phải là cái Vô Lậu, chẳng có thể được Viên Thông.

Kinh:
Giữ Giới chỉ buộc thân,
Không thân, không chỗ buộc.
Vốn chẳng khắp tất cả,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Pháp Thân vô lượng, chẳng mượn ở tu hành làm ra. Cái Ứng Thân có hạn, dễ dàng tạo nghiệp, phải mượn nhờ Giới Luật mà kềm buộc nó. Sự kềm buộc này chỉ thi hành cho Ứng Thân, nhưng không thể dùng thông cho lý Pháp Thân, nên chẳng phải khắp tất cả. Chẳng khắp tức chẳng thể được Viên Thông.

Thiền sư Hoàng Bách Huệ, tuổi nhỏ xuất gia, theo nghiệp Kinh Luận. Nhân thọ thêm Bồ Tát Giới mà than rằng:

- Nhiếp giữ Luật Nghi Giới của bậc đại sĩ với gốc thọ Thanh Văn Giới của ta đều Chỉ, Trì, Tác, Phạm. Nhưng trong Thiên Tụ thêm bớt, cành gốc chung riêng, ý chế định lại nhiều, đều vi tế khó ngăn ngừa. Lại nữa, theo chỗ nhiếp điều thiện, chưa từng làm được ít phần. Huống làm được lợi ích cho chúng sanh ư? Vả chăng cái thân mạng bọt huyễn thế gian, đâu khá lưu luyến!

Do đấy dẹp khóa giảng, muốn đem thân nhảy vào nước nuôi loài tôm cá.

Nghĩ xong, sắp bỏ đi, bỗng có hai vị thiền giả lưu lại nói chuyện, bảo rằng:

- Phương Nam cũng nhiều thiện tri thức, sao vướng đọng chi nơi một góc.

Từ đó hồi lại ý định.

Bèn đến Tổ Sớ Sơn, bạch hỏi:

- Sát na tiện đi thì thế nào?

Tổ Sơn nói:

- Che lấp hư không, ông làm sao đi?

Đáp rằng:

- Che lấp hư không, chẳng bằng không đi.

Tổ Sơn bèn thôi.

Sau đó, xuống nhà giảng tham kiến Đệ Nhất Tòa.

Ngài Đệ Nhất Tòa nói:

- Vừa rồi lời đáp rất kỳ đặc (lạ lùng).

Đáp rằng:

- Đấy còn là nông nổi, dám mong lòng từ bi, khai thị cho kẻ ngu muội.

Ngài Chủ Tòa nói:

- Trong một sát na lại có nghĩ định ư?

Ngay lời nói xong, tức thời đốn ngộ.

Thiền sư Nguyên Am Từ, lúc nhỏ theo Tổ Thành Đô Chánh Pháp xuất gia. Thọ Giới Luật rồi, đi đây đó giảng Luật. Nghe giảng kinh Viên Giác, đến chỗ Bốn Đại mỗi lìa rã, nay đây vọng thân đương ở chỗ nào? Rốt ráo không thể, thật đồng huyễn hóa.

Nhờ đó tỉnh ngộ, làm bài tụng rằng:

Một hạt minh châu,
Giá lý trong ta.
Xoay được động được,
Phóng quang động địa.

Hai vị tôn túc đây, chẳng lìa ngoài huyễn thân mà chứng Pháp Thân, có Chẳng Khắp gì đâu?

Kinh:
Thần thông: nhân đời trước,
Quan (hệ) gì pháp phân biệt.
Duyên niệm chẳng lìa vật ,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Thần thông Tiểu Thừa đều là tác ý. Duyên với vật thì có, lìa vật thì không, chẳng phải lìa vật mà có thể hiển hiện, cho nên duyên với hữu niệm vậy. Đấy là hệ thuộc cái thần lực thành tựu của đời trước, chứ chẳng liên quan với diệu pháp phân biệt mà được hiển hiện. Đã chấp trước vào thần thông, nên chẳng thế nói chỗ Viên Thông được.

Tổ Hoàng Bá ban đầu đi thăm núi Thiên Thai, gặp một nhà sư như đã từng quen, bèn cùng nhau đi. Đến khe suối nước đầy chảy mạnh, Tổ Bá chống gậy mà nghỉ. Nhà sư thúc Tổ Bá cùng qua.

Tổ Bá nói:

- Mời huynh qua trước.

Nhà sư liền để nón nổi trên mặt nước mà qua.

Tổ Bá nói:

- Ta lại cùng với một anh nhãi kết đoàn, tiếc là chẳng đập cho một gậy chết phứt.

Nhà sư ấy, còn ở giữa dòng nước, từ xa làm lễ, ca ngợi rằng:

- Quả thật là Pháp Khí Đại Thừa, ta chẳng theo kịp.

Đây là thần thông của Tiểu Thừa, bị Ngài Hoàng Bá quở trách.

Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền... hai ba vị qua ra mắt Tổ Kính Sơn, giữa đường gặp một lão bà, mới hỏi:

- Đường đi lối nào?

Đáp:

- Cứ thẳng mà đi.

Ngài Cốc nói:

- Phía trước nước sâu, qua được chăng?

Đáp:

- Chẳng ướt chân.

Ngài Cốc lại hỏi:

- Bờ trên lúa được gì mà tốt, bờ dưới lúa được gì mà xấu?

Đáp:

- Đều bị cua cắn chân.

Ngài Cốc nói:

- Lúa thơm ngát.

Đáp:

- Mất hơi thở.

Ngài Cốc lại hỏi:

- Bà trụ nơi nào?

Đáp:

- Chỉ tại Trong Ấy.

Ba vị đến quán.

Lão bà nấu một bình trà, đem đến cái chén, bảo rằng:

- Hòa Thượng có thần thông thì uống trà.

Ba vị cùng ngó nhau.

Bà nói:

- Hãy xem lão già vô dụng này tự bày thần thông đây vậy!

Ngay đó nâng chén rót trà, rồi đi.

Các thần thông này, chẳng thể đồng với các thứ thần thông nhỏ hẹp, nên Ngài Ma Cốc, Nam Tuyền cũng chẳng thể dò nổi bờ bến.

Ở trên là theo Sáu Thức mà vào, người Sơ Tâm chẳng dễ ứng hợp.

Kinh:
Nếu quán tánh Địa Đại,
Cứng đọng không thông suốt.
Hữu vi, chẳng Thánh tánh,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Đất là cứng đọng, vốn chẳng phải tánh thông suốt, nên trì giữ Địa Đại, là pháp hữu vi. Đã chẳng phải quả vô vi, nên chẳng thích hợp với Viên Thông. Bậc Tiên Đức nói: Như người rõ được Tâm, địa đại không tấc đất. Thấy được như thế, còn chỗ nào ngại?

Tổ Bửu Phước nhân có vị tăng đứng hầu, nói:

- Ông được cái tâm thô đấy.

Vị tăng nói:

- Đâu là chỗ tâm thô của con?

Tổ Phước cầm lên một cục đất, đưa cho vị tăng, nói:

- Quăng ra ngoài cửa đi!

Vị tăng ném xong, vào lại, hỏi:

- Đâu là chỗ tâm thô của con?

Tổ Phước nói:

- Ta thấy có tiếng đá chạm nhau đó, nên nói ông là thô tâm.

Nếu vị tăng này bừng tỉnh ngộ, liền thông suốt Thánh Tánh, tức được Viên Thông vậy.

Kinh:
Nếu quán tánh Thủy Đại,
Móng tưởng, chẳng chân thật.
Như như, chẳng thể quán,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Quán Nước là trong mười Pháp Quán Tưởng. Chỗ thành tựu của móng tưởng, há đồng Chân Thật ư ? Cái lý chân thật, như như chẳng động, chẳng mượn đến tạo tác, nên chẳng phải là chỗ để quán tưởng đến được.

Nhà sư hỏi Tổ Tuyết Phong:

- Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?

Tổ Phong đáp:

- Trừng mắt chẳng thấy đáy.

Hỏi:

- Người uống thì sao?

Tổ Phong đáp:

- Chẳng theo miệng vào.

Nhà sư nói y lại với Tổ Triệu Châu.

Tổ Châu nói:

- Chẳng thể theo trong lỗ mũi vào.

Nhà sư lại hỏi:

- Suối xưa nguồn lạnh thì thế nào?

Tổ Châu nói:

- Khổ.

Hỏi:

- Người uống thì sao?

Tổ Châu nói:

- Chết.

Tổ Tuyết Phong nghe được, bèn nói:

- Triệu Châu là Cổ Phật; ở xa hướng vọng làm lễ.

Từ ấy chẳng có lời đối đáp.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng:

- Dựng lập Tông Thừa, cần tay tuyệt diệu! Tuyết Phong biện luận thân tâm bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người. Triệu Châu dùng thủ đoạn của lão già một trăm hai mươi tuổi, chẳng ngại kỳ quái. Như nay trong chúng, tùy theo lời định ý chỉ, chê bai bác bỏ loạn xạ, vùi lấp người xưa! Nhưng gặp nhau han hỏi, hình như có tri âm, khắc cốt ghi lòng, ít gặp gương soi tỏ sáng!

Chỗ thấy của nhà sư kia vướng trệ ở chỗ trong lặng không động lay. Triệu Châu là kìm dùi, thì Tuyết Phong là kim chỉ. Sao nói là chẳng đồng ư?

Kinh:
Nếu quán tánh Hỏa Đại,
Chán tướng, chẳng (phải) thật lìa.
Chẳng (phải) phương tiện Sơ Tâm,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Ngài A La Hán Hỏa Đầu nghe nói đến lửa dục mà sanh chán ghét lìa bỏ, đó là chán tướng hữu vi. Đã có ưa, chán, thì chẳng phải là Chân Giải Thoát. Vả lại, người Sơ Tâm nhập đạo, kiềm chế dục chẳng bằng cùng tột cái lý. Lý càng sáng thì Dục càng tiêu. Như muốn cùng lý, thử quán xem Lửa là vật gì?

Tổ Triệu Châu nhân có nhà sư hầu bên, bèn chỉ lửa hỏi rằng:

- Cái ấy là Lửa, ông không được gọi là Lửa, lão tăng nói rồi vậy.

Nhà sư không đáp được.

Tổ Châu lại gắp lửa lên, hỏi:

- Hội chăng?

Đáp:

- Chẳng hội.

Tổ Châu nói:

- Ở Thơ Châu có Hòa Thượng Đầu Tử, ông sang làm lễ mà hỏi, chắc sẽ vì ông nói ra. Nhân duyên khế hợp nhau, chẳng cần trở lại, chẳng khế hợp nhau, thì hãy trở về.

Nhà sư đến Tổ Đầu Tử.

Tổ Tử hỏi:

- Vừa lìa chốn nào?

Đáp:

- Triệu Châu.

Tổ Tử hỏi:

- Triệu Châu có lời nói gì?

Nhà sư nêu ra lời trước.

Tổ Tử nói:

- Ông hội chăng?

Đáp:

- Chẳng hội, xin thầy bày dạy.

Tổ Tử bèn xuống thiền sàng, đi ba bước, ngồi lại, hỏi:

- Hội chăng?

Đáp:

- Chẳng hội.

Tổ Tử nói:

- Ông về nói y lại với Tổ Triệu Châu.

Nhà sư trở lại nói y thế với Tổ Triệu Châu.

Tổ Châu nói:

- Vậy hội chăng?

Đáp:

- Chẳng hội.

Tổ Châu nói:

- Đầu Tử như vậy cũng chẳng qua loa lắm đâu.

Ôi, hai vị lão túc, phương tiện đến như thế, còn chẳng chịu ngộ, luống là ai khác?

Kinh:
Nếu quán tánh Phong Đại,
Động, tĩnh là đối đãi.
Đối, chẳng (là) Vô Thượng Giác,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Tánh của các thứ động này, đến không từ đâu, đi không về đâu, nguyên chẳng có chỗ đối đãi. Quán sát sức Gió không chỗ nương, ngộ Bồ Đề Tâm tức là Vô Thượng Giác, nào đến đỗi có hai tướng động tĩnh gì đâu? Chỉ vì người sơ cơ, ở trong cái động, biết cái Tánh chẳng động, phân ra động với bất động, hai tướng đã có, tức là có đối đãi. Đã là đối đãi, tức sanh diệt pháp, thì xa Bồ Đề Vô Thượng lắm vậy.

Tổ Thứ Mười Bảy, Ngài Tăng Ca Nan Đề, độ cho Đồng Tử Trì Giám, đặt tên lại là Già Da Xá Đa. Một hôm, nghe tiếng linh gió thổi rung trên điện.

Tổ hỏi rằng:

- Linh kêu ư, gió kêu ư?

Xá Đa nói:

- Chẳng phải gió, linh kêu, tâm mình kêu vậy.

Tổ nói:

- Tâm là chi vậy?

Xá Đa nói:

- Đều tịch tĩnh vậy.

Tổ nói:

- Hay thay, hay thay! Kế tục đạo ta, không ông thì ai.

Về sau, Lục Tổ nhân hai nhà sư bàn luận nghĩa gió với phướn.

Một người nói:

- Gió động.

Người kia nói:

- Phướn động.

Định luận chẳng dứt.

Tổ bước tới nói:

- Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm các vị động.

Cùng với lời Ngài Xá Đa, như từ một miệng.

Tổ Tuyết Phong nêu lên lời của Lục Tổ: Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động. Bèn nói:

- Tổ Sư lớn bé, đầu rồng đuôi rắn, đáng cho hai mươi gậy!

Khi ấy, Thượng Tọa Đại Nguyên Phu đứng hầu bất giác nghiến răng.

Tổ Phong nói:

- Vừa rồi tôi nói thế cũng đáng ăn hai mươi gậy!

Thiều Quốc Sư thượng đường:

- Phương tiện cổ Thánh dường như hà sa.

Tổ Sư nói:

- Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm quý vị động. Đây mới là pháp môn tâm ấn vô thượng.

Bọn chúng ta là khách môn hạ của Tổ Sư, liệu làm sao am hiểu ý Tổ Sư? Chớ nói: Gió, phướn chẳng động, tâm ông vọng động! Chớ nói: Chỗ động của gió phướn là ở đâu? Hoặc nói: Nương vật rõ Tâm, chẳng cần nhận vật. Hoặc nói: Sắc tức là Không. Hoặc nói: Chẳng phải gió, phướn động; phải nên nhiệm mầu am hiểu. Am hiểu như thế thì cùng với ý Tổ Sư có gì giao thiệp? Chẳng thể chịu cho kiểu am hiểu như thế.

Các vị Thượng Tọa, nên biết rốt ráo. Như ở Trong Ấy tỏ ngộ rốt ráo, thì pháp môn nào chẳng rõ? Trăm ngàn phương tiện của Chư Phật nhất thời hiểu suốt, còn có chút nghi tình nào. Bởi thế, cổ nhân nói: Một rõ ngàn thông, một mê muôn lầm. Này các Thượng Tọa, đâu phải là ngày nay hiểu được một đoạn, ngày mai lại hiểu nữa. Chẳng phải là có một phần chuyện hướng thượng khó hiểu, có một phần phàm phu yếu kém chẳng hiểu được. Cái kiến giải như vậy thì có trải qua số kiếp nhiều như bụi cũng chỉ tự mệt thần khổ trí. Làm gì có chuyện ấy!

Thiều Quốc Sư nói thế, sánh với Tổ Tuyết Phong ít nhiều, cũng nên cho ăn hai chục gậy!

Kinh:
Nếu quán tánh Không Đại
Không trơ, chẳng phải Giác
Không biết, khác Bồ Đề
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Nghiêng về cái không ắt trơ độn chẳng phải Giác. Cái Chơn Không thì tức Giác, tức Không. Người sơ cơ định luận cái Không thật dễ lầm đường, nên cần phải xét biện.

Tổ Huyền Sa thượng đường:

- Người đời nay chẳng tỏ ngộ cái lý Trung Đạo, vọng tự kết dính với sự, kết dính với trần, chốn chốn nhiễm trước, mỗi mỗi buộc trói. Dầu có chỗ tỉnh ngộ, mà trần cảnh phân vân, danh tướng chẳng thiệt. Bèn định ngưng tâm thâu niệm, nhiếp sự về không, nhắm con mắt, chứa tinh thần, vừa có khởi niệm, lập tức phá trừ, mống tưởng vừa sanh, bèn liền đè tiệt. Như kiến giải này tức là rơi vào cái Không-trơ của ngoại đạo, người chết mà hồn chẳng tan, mờ mờ mịt mịt, vô giác vô tri, bịt tai mà trộm chuông, uổng tự khinh, dối.

Trong Ấy rõ ràng thì chẳng như vậy, chẳng cà rà ngoài cửa, chẳng lẩn lút bên song. Lời lời hiện tiền, không có chỗ để thương lượng, chẳng quan hệ đến văn tự. Vốn tuyệt trần cảnh, vốn không vị thứ: tạm gọi là kẻ xuất gia, rốt ráo không tung tích. Nào là Chân Như, phàm Thánh, địa ngục, trời người, chỉ là phương thức chữa bệnh cho gã cuồng. Hư không còn chẳng cải biến, Đại Đạo há có thăng trầm? Ngộ thì dọc ngang chẳng rời Bổn Tánh. Đến vào Trong Ấy, phàm Thánh cũng chẳng có chỗ lập. Nếu hướng trong câu khởi ý, ắt chìm đắm chết người. Nếu hướng ngoài rông cầu, lại sa vào Ma cõi. Như như hướng thượng, tuyệt dấu an bài. Vừa vặn lò lửa, chẳng chứa muỗi mòng.

Cái Ấy xưa nay vốn bằng phẳng, nào dùng sự tỉa trừ. Động tĩnh, nhướng mày chính là Chân Giải Thoát Đạo. Chẳng gượng suy tính, dựng lập là trái Chân. Như đến vào Trong Ấy, mảy lông chẳng thọ, bày ý tức sai. Dầu cho ngàn Thánh ra đời, bày ra một chữ cũng chẳng được. Trân trọng.

Như rõ được lời Huyền Sa tức thấu đạt ý chỉ Chân Không. Cái Vô Thượng Bồ Đề cũng gượng đặt tên đó thôi. Há chẳng Viên Thông hiện tiền ư?

Kinh:
Nếu quán tánh Thức Đại,
Thức chẳng phải thường trụ.
Giữ tâm là hư vọng,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh tức là Đệ Bát Thức, vốn chẳng phải là hư vọng. Người chưa thấy Tánh chẳng thể chuyển Thức, chỉ bị Thức chuyển, bèn dùng sự quán tưởng soi xét, thì quán cũng là Thức, niệm niệm sanh diệt, chẳng phải thường trụ. Dầu cho có thể giữ tâm lắng trong chẳng động, ấy là do lực quán tưởng trì giữ, cũng thuộc về hư vọng. Há cái Diệu Trạm Tổng Trì, vốn tự vô tâm, chẳng đợi giữ cho còn mà tự không đâu chẳng còn đấy ư?

Tổ Thứ Mười Sáu, Ngài La Hầu Đa La đến chỗ Ông Tăng Già Nan Đề, gặp ông nhập định. Tổ cùng chúng chờ xem, trải qua hai mươi mốt ngày mới từ định dậy.

Tổ hỏi rằng:

- Thân ông định hay tâm ông định?

Thầy Đề đáp:

- Thân tâm đều định.

Tổ nói:

- Thân tâm đều định, sao có vào ra?

Thầy Đề đáp:

- Tuy có ra vào, chẳng mất định tướng, như vàng trong giếng, thể vàng thường tịch.

Tổ nói:

- Như vàng trong giếng, như vàng khỏi giếng, vàng không động tĩnh, thì vật gì ra vào?

Thầy Đề nói:

- Chỉ có lời nói vàng là động tĩnh, đâu có vật ra vào. Chỉ có lời nói vàng ra vào, mà vàng chẳng phải động tĩnh.

Tổ nói:

- Nếu vàng trong giếng, thì ra khỏi giếng là vàng nào? Vàng nếu ra khỏi giếng, thì ở lại là vật gì?

Thầy Đề đáp:

- Vàng như khỏi giếng, ở giếng chẳng phải vàng. Như vàng ở giếng, khỏi giếng chẳng phải vật.

Tổ nói:

- Nghĩa này chẳng phải.

Thầy Đề nói:

- Nghĩa kia chẳng rõ.

Tổ nói:

- Nghĩa này phải rớt.

Thầy Đề nói:

- Nghĩa kia chẳng thành.

Tổ nói:

- Nghĩa kia chẳng thành, nghĩa cái ta thành vậy.

Thầy Đề nói:

- Nghĩa cái Ta tuy thành, pháp chẳng phải cái Ta vậy.

Tổ nói:

- Nghĩa Ta đã thành, Ta không Ta vậy.

Thầy Đề nói:

- Ta không ta thì lại thành nghĩa gì?

Tổ nói:

- Ta mà không ta, nên thành nghĩa của ông.

Thầy Đề nói:

- Thầy nhân giả là ai, mà đắc vô ngã ấy?

Tổ nói:

- Thầy ta là Già Na Đề Bà, chứng Vô Ngã ấy.

Thầy Đề dùng kệ ca ngợi rằng:

Kính lễ Đề Bà sư,
Nhân giả ra từ đó.
Nhân giả vô ngã vậy,
Tôi muốn người làm thầy.

Tổ dùng kệ đáp rằng:

Bởi vì ta vốn là vô ngã,
Ông cần thấy cái Ngã của ta.
Ông nếu muốn coi ta là Thầy,
Biết ta chẳng phải Ngã của ta.

Thầy Nan Đề tâm ý rỗng nhiên, bèn cầu độ thoát.

Tổ nói:

- Tâm ông vốn tự tại, chẳng ràng buộc Ngã Sở.

Rồi phó bài kệ Chánh Pháp Nhãn rằng:

Trong Pháp, thật không chứng,
Chẳng giữ cũng chẳng lìa.
Pháp chẳng tướng Hữu Vô,
Trong ngoài chỗ nào khởi.

Thế nên, biết chuyển Thức thành Trí thì trong khoảng mảy tơ. Còn không thấy cái Chân Thật, rốt cũng là hư vọng.

Kinh:
Các hành đều vô thường,
Tưởng niệm vốn sanh diệt.
Nhân quả nay khác biệt,
Làm sao được Viên Thông?

Thông rằng: Căn cứ theo pháp môn niệm Phật thì niệm tức là Phật, hành tức là Phật, độc chỉ Tâm là Phật, độc chỉ Tâm làm Phật. Quả và Nhân là một. Vốn chẳng phải khác biệt. Nay Ngài Văn Thù chỉ quy về một đường hướng thượng, nên cho hành là vô thường, niệm thuộc sanh diệt, lấy đó mà cầu quả Phật thường trụ, chắc chẳng thể được.

Thiền sư Tề Kỷ nhân đạo hữu của Hội Liên Xã mời, thượng đường, nói:

- Dần dần tóc bạc da mồi, cha trẻ mà con già! Xem coi bước đi suy yếu, nghi chết Thượng Tọa ngốc! Dầu cho vàng ngọc đầy nhà, coi chừng giặc vô hình! Há khỏi suy tàn, già bệnh, hãy nên rất lưu ý! Mặc ngươi ngàn chuyện khoái vui, hắn ta vẫn được tự do! Vô thường rốt cuộc lại đến, về nhà uống trà đi thôi. Chỉ có nẻo tắt tu hành, y cũ đi vòng quanh! Chỉ niệm A Di Đà Phật, niệm được chẳng nên chuyện!

Lại nói:

- Ái chà! Cái con đường sống ấy đã bị Thiện Đạo Hòa Thượng chỉ thẳng rõ ràng ra rồi vậy. Chính các ông sáng tối qua lại trong con đường tắt, vì sao ngay trước mặt mà lầm đi qua A Di Đà Phật. Trong ấy tiến cử được, bèn hay trừ cái chướng mê mờ điên đảo, nhổ mũi tên dụ dự, cắt lưới nghi lầm, dứt sông si ái, chặt phá rừng tâm rậm, rửa tâm uế trược, làm thẳng ngay tâm tà vạy, dứt tuyệt tâm sanh tử. Rồi sau chuyển nhập mé kia, dỡ cao chân, hướng về chỗ Phật Tổ dẫm bước chẳng tới mà tiến một bước! Mở miệng ra, hướng về chỗ Phật Tổ dạy dỗ chẳng tới mà nói một câu! Gọi trở lại Thiện Đạo Hòa Thượng, riêng cầu nẻo tắt tu hành! Nếu mà cứ y theo trước, bỏ cha chạy trốn, lưu lạc phương người, đụng Đông chạm Tây, khổ thay A Di Đà Phật!

Lại còn Tổ Huỳnh Long Tân, thượng đường rằng:

- Ngọc Thanh Châu bỏ vào nước đục, nước đục chẳng thể chẳng trong. Niệm Phật để vào trong tâm rối loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng Phật. Phật đã chẳng loạn, nước đục tự trong. Nước đục đã trong, công quy về đâu?

Chập lâu, nói:

Thật là cái cơ tu chứng Viên Thông Tối Thượng vậy.

- Mấy độ hắc phong tràn biển lớn, chưa từng nghe nói lật thuyền câu!

Phàm trọn thu nhiếp sáu Căn, tu pháp môn niệm Phật, là còn dùng nẻo đường công cán. Một lột thoát, nơi cái Thấy này xoay cái Nghe thẳng thấu nguồn Tánh, bèn xa lầm lỗi.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

IV. NHĨ CĂN VIÊN THÔNG HƠN HẾT

Kinh:
Tôi nay bạch Thế Tôn,
Phật xuất cõi Ta Bà.
Phương này, chân giáo thể,
Thanh tịnh tại nghe thanh.
Muốn vào Tam Ma Đề,
Thật do cái Nghe nhập.

Thông rằng: Thánh nhân thiết lập giáo pháp, tùy chốn chẳng đồng. Hoặc có chỗ dùng ánh sáng mà làm Phật sự, hoặc có chỗ dùng cây Bồ Đề của Phật mà làm Phật sự, cho đến dùng vườn rừng đài cao, hoặc dùng hư không, hoặc dùng sự lặng lẽ không nói, không chỉ bày, như ở cõi Phật Hương Tích, không có lời nói văn tự, chỉ lấy hư không, khiến cho người-trời được vào Luật, Hạnh. Cái giáo thể ở phương này, độc tại chỗ Nghe tiếng. Chẳng lẫn lộn với trần cấu, cực kỳ trong sạch. Thuần là trong sạch nên dễ dàng khế nhập Tam Ma Đề. Thế giới Ta Bà này dùng cái Nghe làm đương cơ vậy.

Nhà sư hỏi Tổ Huyền Sa:

- Kẻ học nhân mới vào rừng Thiền, xin thầy chỉ con đường vào.

Tổ Sa nói:

- Có nghe tiếng nước suối Yển chăng?

Đáp:

- Nghe.

Tổ Sa nói:

- Theo trong ấy vào.

Đáng gọi là chỉ bày thẳng suốt vậy.

Kinh:
Lìa khổ được Giải Thoát,
Lành thay Quán Thế Âm.
Trong hằng sa số kiếp,
Vào cõi Phật vi trần.
Đắc sức đại tự tại,
Vô Úy Thí chúng sanh.
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải Triều Âm.
Cứu thế, yên lành thảy,
Xuất thế, hằng thường trụ.

Thông rằng: Lành thay Đức Quán Thế Âm, đã lìa khổ não nên hay cứu đời ắt thảy yên lành, đã giải thoát đó nên hay khiến cho người xuất thế được thường trụ. Trong hằng sa kiếp vào cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, ba mươi hai Ứng Thân không đâu chẳng khắp. Bố thí mười bốn pháp Vô Úy, đắc lực Đại Tự Tại, thì bốn diệu Đức không thể nghĩ bàn. Tâm Nghe chí diệu, như tiếng qua vách, thảy hóa thành một Diệu Âm vậy. Diệu ở chỗ Thanh Tịnh, tức gọi là tiếng Phạm Âm, Diệu ở chỗ Hưởng Ứng, tức gọi là Triều Âm, Diệu ở chỗ Tìm Thanh (Cứu Khổ), tức gọi là Quán Thế Âm, âm thanh thế gian chẳng thể so sánh, mà là âm thanh mầu nhiệm của Tự Tánh vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Quy Tông:

- Như thế nào là Huyền Chỉ?

Tổ Tông nói:

- Không người hiểu được.

Hỏi:

- Hướng đến thì thế nào?

Tổ Tông nói:

- Có hướng liền sai.

Hỏi:

- Không hướng đến thì thế nào?

Tổ Tông nói:

- Ai cầu Huyền Chỉ?

Lại nói:

- Đi đi! Không có chỗ cho ông dùng tâm.

Hỏi:

- Há không có cửa phương tiện khiến học nhân được vào?

Tổ Tông nói:

- Quán Âm trí lực mầu. Hay cứu thế gian khổ.

Hỏi:

- Như sao là Quán Âm trí lực mầu?

Tổ Tông gõ nắp đỉnh lư ba cái, hỏi:

- Ông có nghe chăng?

Đáp:

- Nghe.

Tổ Tông nói:

- Sao ta chẳng nghe?

Nhà sư không có lời đáp.

Tổ Tông dùng gậy đuổi xuống.

Hôm khác, thượng đường:

- Hôm nay ta muốn nói Thiền!

Các đệ tử đều đến gần phía trước.

Tổ Tông nói:

- Hãy nghe hạnh Quán Âm ứng khắp các nơi chốn!

Hỏi:

- Như sao là hạnh Quán Âm?

Tổ Tông liền khảy móng tay, nói:

- Các ông lại nghe chăng?

Đáp rằng:

- Nghe.

Tổ Tông nói:

- Cái lũ này, hướng Trong Ấy kiếm cái gì?

Tổ Quy Tông thấy rõ, một đoạn diệu âm an nhiên thường trụ của mọi người, chẳng tiếc mà trùng trùng chỉ ra, thật quá đổi từ bi.

Kinh:
Nay kính bạch Như Lai,
Như Quan Âm đã nói.
Ví như người ở yên,
Mười phương đều nổi tiếng.
Mười chốn đồng thời nghe,
Đó là Viên Chân Thật.

Thông rằng: Tam Muội vẹn tròn soi chiếu của Đức Quán Âm không khởi không làm, nên như người ở yên lặng, mười phương đánh trống, mười chốn đều nghe. Đâu phải bốn phần thiếu mất nửa phần. Đây là ở cảnh hiện bày đầy đủ cái Viên này vậy.

Thiền sư Hoàng Bá Duy Thắng ngẫu nhiên dùng cây quạt vỗ vào song cửa thành tiếng, bỗng nhớ lại trong kinh nói, Mười phương đều nổi trống. Mười chốn đồng thời nghe, nhân đó đại ngộ.

Về sau, Thái Thú Thoại Châu phó thác cho Tổ Hoàng Long chọn lựa người trụ trì chùa Hoàng Bá.

Tổ Long nhóm chúng, nói rằng:

- Lên lầu chuông niệm tán. Dưới chân sàng trồng rau. Người nào nói được, sang đấy trụ trì.

Ngài Duy Thắng bước ra nói rằng:

- Mãnh hổ giữa đường ngồi.

Tổ Long rất khoái ý, bèn khiến sang đó.

Như Ngài Duy Thắng, có thể nói là tự thân chứng cái Viên Chân Thật vậy.

Kinh:
Tánh âm thanh, động tĩnh,
Trong (cái) Nghe là có, không.
Không tiếng, gọi (là) không nghe,
Chẳng thật không Tánh Nghe.
Không tiếng, đã không diệt,
Có tiếng cũng chẳng sanh.
Sanh diệt đều trọn lìa,
Đó là Thường Chân Thật.
Dầu cho trong mộng tưởng,
Không nghĩ nhưng chẳng không.
Tánh Nghe ngoài suy nghĩ,
Thân tâm không bằng được.

Thông rằng: Âm thanh có động có tĩnh, nên sự Nghe khi có khi không. Tánh Nghe thì thường trụ, chẳng do tiếng mà có sanh, chẳng phải không tiếng mà diệt mất. Lấy đâu mà nghiệm xét? Trong mộng tưởng nghe tiếng chày giã gạo mà cho là tiếng chuông trống, khi ngủ cũng như khi thức, chẳng có mượn đến nghĩ suy. Cái Biết này đối với cái biết chẳng thường hằng có khác, nên trong sự ghi nhớ có thể thấy là nó thường hằng. Năm Căn kia ở trong mộng cũng thấy cảnh rõ ràng, nhưng chưa chắc đối với cảnh trước mắt mà biết, phải có suy nghĩ mới kết thành. Nên năm Căn kia suy nghĩ thì có, không suy nghĩ thì không, khi thức tỉnh đối cảnh ắt có, khi ngủ mộng đối cảnh ắt không, vướng trệ nơi thân tâm, bị Căn Trần trói buộc. Độc chỉ Tánh của Nhĩ Thức chẳng đợi khi thức rồi suy nghĩ mới có, chẳng chờ khi mộng mà chẳng suy nghĩ thì không. Tánh ấy siêu việt khỏi ngoài sự suy nghĩ và chẳng suy nghĩ. Bởi thế, Tánh Giác Quán của sự xoay lại cái Nghe lìa ngoài nghĩ suy và chẳng nghĩ suy, khác hẳn với cái quán chiếu thông thường sử dụng đến suy nghĩ. Đã ra ngoài cảnh giới của nghĩ suy, nên nơi Căn mà lìa Căn, nên thân chẳng đến được vậy. Ở nơi Thức mà lìa Thức, nên tâm chẳng đến được vậy. Đây là Sanh Diệt Đã Diệt, Tịch Diệt Hiện Tiền, chẳng gọi cái ấy là Phật Tánh Chân Thường sao?

Ông Trương Vô Cấu nói với Tổ Đại Huệ rằng:

- Con mỗi khi trong mộng thì thấy đọc Luận Ngữ, Mạnh Tử, như vậy là sao?

Tổ Huệ lấy từ kinh Viên Giác, nói:

- Do bởi lặng dứt, nên Tâm Chư Như Lai mười phương thế giới trong đó hiển hiện, như bóng trong gương.

Ông Vô Cấu nói:

- Chẳng phải là lão sư thì không thể nghe được luận này.

Ông Vô Cấu trong chiêm bao dường như tập khí chưa trừ. Tổ Đại Huệ chỉ ra Đại Viên Cảnh Trí chẳng ngại gì tập khí lăng xăng khởi diệt. Đáng gọi là thấu suốt rốt ráo cái Một Đường Chân Thường.

Kinh:
Nay cõi Ta Bà này,
Thanh luận được tỏ rõ.
Chúng sanh mê gốc Nghe,
Theo thanh nên lưu chuyển.
A Nan tuy nhớ kỹ,
Chẳng khỏi lạc tưởng tà.
Há chẳng tùy chỗ đắm,
Xoay dòng được Thường Chân.
A Nan, ông nghe kỹ:
Tôi nương oai lực Phật.
Tuyên nói Kim Cang Vương,
Như huyễn, chẳng nghĩ bàn.
Phật Mẫu, chân Tam Muội,
Ông nghe hằng sa Phật.
Tất cả pháp bí mầu,
Trước chẳng trừ dục lậu.
Chứa nghe thành lầm lỗi,
Dùng Nghe trì Pháp Phật,
Sao chẳng nghe (cái) tự nghe?

Thông rằng: Luận cái căn cơ của cõi này, nên chẳng rõ Tâm Tánh, phải nương theo tiếng luận giải mà được tỏ rõ, nghĩa là nhân lời nói mà ngộ Đạo, đó là sự thường vậy. Nhưng chúng sanh chẳng thấu đạt bổn nguyên, theo tiếng mà lưu chuyển, gọi đó là mê. Thế đó, chạy theo vật là tà, về gốc là chánh. Nếu có thể ngược dòng đến tột nguồn, đến chỗ chẳng sanh diệt, đó là xoay cái Nghe mà chứng Chân Thường, chẳng theo dòng chìm đắm. Đây là pháp môn một đường Niết Bàn của hằng sa Phật vậy. Tam Muội Kim Cang Văn Huân Văn Tu gọi là như huyễn, vì không nguyện, không làm vậy. Không nguyện, không làm, thông suốt gốc Nghe, Chư Phật đều do đó mà xuất. Nếu có nguyện, có làm là dục lậu chẳng trừ, tuy rộng giữ các pháp môn bí mật, cũng đổi thành lầm lỗi. Chẳng phải chỉ tâm ô nhiễm, tình thức còn mới gọi là dục lậu, mà chỉ lòa mắt khởi lên niệm thấy Phật cũng gọi là tà. Nên xoay cái Nghe, nghe vào Tự Tánh mới là cơ đệ nhất đối trị bệnh đa văn vậy.

Vua Tống Hiến Tông hỏi nhà sư Thiên Trúc rằng:

- Đã là Ngọn núi bay đến, sao chẳng bay về?

Đáp rằng:

- Một động chẳng bằng một tĩnh.

Lại hỏi:

- Đức Quán Âm trong tay lần chuỗi niệm gì?

Đáp rằng:

- Niệm Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

Lại hỏi:

- Tự niệm danh hiệu mình làm gì?

Đáp rằng:

- Cầu người chẳng bằng cầu mình!

Có nhà sư hỏi thiền sư Chí Siêu:

- Như sao là Phật?

Tổ Siêu nói:

- Ông là người nào?

Nói rằng:

- Há chẳng phải Bèn Là, hay sao?

Tổ Siêu nói:

- Bèn là, tức mất giao thiệp!

Hai tắc này đều hợp với ý chỉ: Nghe cái tự nghe.

Kinh:
Cái Nghe chẳng tự nhiên sanh,
Nhân Thanh có danh tự.
Xoay Nghe thoát khỏi Tiếng,
Giải Thoát đâu có danh.
Một Căn đã về nguồn,
Sáu Căn thành Giải Thoát.
Thấy, Nghe như lòa, huyễn,
Ba cõi là không hoa.
Nghe lại, gốc lòa trừ,
Trần tiêu, Giác tròn sạch.
Sạch tột, quang thông suốt,
Lặng chiếu trùm hư không.

Thông rằng: Dưới đây nói rõ đường vào bằng cách tự nghe cái Tánh Nghe. Trước cần xét định cái Tánh Nghe này. Từ Nhân Duyên sanh ư? Từ Tự Nhiên sanh ư? Tánh Nghe vốn chẳng phải sanh, nên chẳng phải Nhân Duyên hay Tự Nhiên sanh, đặc biệt nhân có âm thanh thì hiển nên lập ra cái tên Nghe. Nếu quay lại với cơ Phản Văn thì đến chỗ chẳng sanh diệt. Đã không có người nghe, tự không có chỗ nghe, hẳn nhiên với âm thanh chẳng quan hệ gì nhau. Cái ấy vốn thoát khỏi âm thanh, không thể trở lại gọi là cái Nghe vậy. Gọi là gì ư? Cái ấy đặt tên cho tất cả mà tất cả không thể đặt tên cho cái ấy. Chỉ có thể ví cái đó như nguồn cội mà thôi. Cho nên quay về nguồn, trở về cội, thì cái Tánh Nghe còn không có tên, lấy gì làm ràng buộc? Tức ngay một Căn ấy, đương thể giải thoát, nên sáu Căn nhất thời trong sạch vậy. Sáu Căn vốn tự trong sạch, bỗng dấy lên cái Thấy, Nghe mà làm cái Năng, giống như trừng mắt nhìn thì sanh lòa huyễn; bỗng thấy ba cõi mà làm cái Sở, như mắt lòa thấy hoa đốm giữa hư không.

Lòa huyễn, không hoa vốn tự chẳng có, mà đuổi theo dòng quên trở lại, chẳng biết là hư vọng. Giờ nghe trở lại cái gốc nghe, căn lòa trước hết diệt mất, ắt sáu Trần tan biến, mà cái Bổn Giác thường hằng tròn sạch. Như mắt sáng thì hoa đốm chỗ nào nảy sanh? Cái gọi là vẹn tròn trong sạch là chẳng dẹp bỏ muôn tượng mà Căn và Trần đồng đều trong sạch. Trong sạch cùng cực, thấy suốt mười phương, như ngọc lưu ly trong ngần, ngậm mặt trăng báu ở trong, thì ánh sáng có chỗ nào không thấu suốt? Đó là ở trong sáng sạch phát ra ánh sáng, lặng mà khắp soi, tức chỗ gọi là sự chiếu soi của Nguyên Minh. Chiếu soi mà chẳng sanh cái Sở, ắt lặng khắp hư không. Như mảnh mây tại khoảng trời xanh, mà biển Giác toàn vẹn lắng trong, được cái gốc nguyên diệu vậy. Muốn đại giải thoát bèn xoay lại cái Nghe thì xong rồi vậy.

Tổ Hoàng Bá nói:

- Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp, tức là Bồ Đề. Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh đây cùng với chúng sanh, Chư Phật, núi sông thế giới, có tướng, không tướng, khắp mười phương cõi, cả thảy bình đẳng, không có tướng kia, đây. Cái Tâm Bổn Nguyên Thanh Tịnh này thường tự tròn sáng, soi khắp.

Người đời chẳng ngộ, chỉ nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm, bị Thấy Nghe, Hay Biết ngăn che, vì đó mà chẳng thấy cái Bản Thể thuần túy sáng suốt. Chỉ ngay đấy vô tâm, Bản Thể tự hiện. Như vầng mặt trời lớn mọc lên giữa hư không, soi chiếu khắp mười phương, suốt không chướng ngại. Thế nên, người học Đạo chỉ nhận thức nơi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết động tác nhỏ nhặt. Dẹp đi cái Thấy, Nghe, Hay, Biết thì nẻo tâm bặt chẳng có chỗ vào. Chỉ ngay nơi chỗ Thấy, Nghe, Hay, Biết nhận là Bổn Tâm, nhưng Bổn Tâm chẳng thuộc Thấy, Nghe, Hay, Biết cũng chẳng lìa ngoài Thấy, Nghe, Hay, Biết. Chỉ chớ ở trong Thấy, Nghe, Hay, Biết mà khởi kiến giải, chớ ở trên Thấy, Nghe, Hay, Biết mà động niệm, cũng chẳng lìa Thấy, Nghe, Hay, Biết mà giữ pháp. Chẳng Tức, chẳng Ly, chẳng trụ, chẳng bám, dọc ngang tự tại, không đâu chẳng đạo tràng.

Như lời Tổ Hoàng Bá, liền nơi bệnh lòa cạo chùi hết ráo. Đó cũng là một sự giúp trở lại nguồn.

Kinh:
Xem trở lại thế gian,
Giống như việc trong mộng.
Ma Đăng Già trong mộng,
Ai giữ được hình ông?
Như đời, huyễn sư khéo,
Huyễn làm các nam nữ.
Tuy thấy các Căn động,
Cốt do một máy giật.
Máy nghỉ là lặng yên,
Các huyễn thành vô tánh.

Thông rằng: Đã là thanh tịnh tột cùng, ánh sáng thông suốt, lặng chiếu trùm hư không thì hư không còn bao trùm được, huống là các sự vật ở trong hư không? Cho nên bệnh lòa hết dứt, thì không chỉ ba cõi hoa đốm xưa nay không tịch, mà nào Căn nào Trần ở trong ba cõi đều như mộng huyễn vậy. Cô Ma Đăng Già trong mộng làm sao bắt giữ hình hài người tỉnh. Tâm dù tỉnh táo, đâu thể nắm được sự vật trong mộng? Đây là một chứng cớ về Căn, Cảnh vốn tự giải thoát vậy.

Bộ Liệt Tử có chép huyễn sư khéo làm nên người huyễn, trong đủ năm tạng, ngoài đủ năm căn, chạy nhảy diễn trò đủ thứ, y như người thật. Trò vui đã xong, người huyễn lại vời ái thiếp của vua, vua nổi giận. Huyễn sư vội tháo người huyễn, toàn là bằng gỗ. Cái giận của vua mới tiêu tan. Cái giận của vua chẳng có ăn nhằm chi người huyễn, vì người huyễn vô tâm. Huyễn vốn không tánh, sao có chuyện vui buồn trong ấy! Đây cũng là một chứng cớ Căn Cảnh vốn tự giải thoát.

Thiền sư Ngũ Tổ Diễn dạy chúng rằng:

- Hôm qua sơn tăng vào thành, thấy một rạp hát tượng gỗ múa rối, bèn đến gần trước xem. Hoặc thấy uy nghiêm lạ lùng, hoặc thấy xấu xí không chịu nổi, chuyển động đi, ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi rõ ràng. Khi xem kỹ lưỡng thì trong tấm màn xanh có người. Sơn tăng kìm giữ chẳng được, mới hỏi quý tánh ông ta.

Người kia nói:

- Lão Hòa Thượng xem rồi thôi, lại hỏi tánh nào?

Sơn tăng bị một câu ấy, liền chẳng có lời đối lại, không lý lẽ để trải bày. Giờ có người nào vì sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong kia lạc tiết, hôm nay trong ấy bứng gốc!

Như hiểu được tin tức Bứng gốc này thì có thể nói là Máy nghỉ tức lặng yên, vậy.

Kinh:
Sáu Căn cũng như thế,
Vốn y một Tinh Minh.
Phân thành sáu Hòa Hiệp,
Một chỗ đã về nghỉ.
Sáu dụng đều chẳng thành,
Một niệm trần cấu tiêu.
Thành Viên Minh Tịnh Diệu,
Còn Trần là Hữu Học.
Sáng tột tức Như Lai,

Thông rằng:

Tổ Hoàng Bá nói rằng:

- Đồng là một Tinh Minh (cái Thuần Sáng), phân làm sáu Hòa Hiệp. Một Tinh Minh ấy là Một Tâm vậy. Sáu Hòa Hiệp là sáu Căn vậy. Sáu Căn này mỗi cái cùng với Trần hiệp: Mắt với Sắc hiệp, Tai với Tiếng hiệp, Ý với Pháp hiệp. Khoảng giữa sanh ra sáu Thức, thành mười tám Giới. Như rõ mười tám Giới không chỗ có, gồm sáu cái hiệp thành một Tinh Minh. Một Tinh Minh là Tâm vậy. Người học đạo đều biết thế.

Chỉ chẳng khởi lý giải Một Tinh Minh sáu Hòa Hiệp, bèn bị pháp buộc, chẳng khế hợp Bổn Tâm.

Như Lai ra đời muốn thuyết Chân Pháp Nhất Thừa. Chúng sanh chẳng tin, khởi lên bài báng, chìm trong biển khổ. Bằng trọn chẳng nói, thì rơi vào lẫn tiếc, chẳng vì chúng sanh khắp xả đạo mầu. Bèn bày phương tiện, nói có ba thừa. Thừa có lớn, nhỏ; chỗ được có cạn sâu, đều chẳng phải là Bổn Pháp. Nên nói: Duy chỉ có một Đạo Nhất thừa, dư hai thì chẳng phải Chân. Nhưng rốt cuộc chưa bày pháp Nhất Tâm. Nên vời Ca Diếp cùng chia tòa ngồi, riêng phó chúc Nhất Tâm, ngoài lời mà thuyết pháp. Đây là một ngành biệt hành, nếu có thể khế ngộ bèn đến Phật địa vậy.

Lời của Tổ Hoàng Bá đây trọn chẳng luận đến Còn Trần là Hữu Học, đúng là khí trượng Đại Thừa.

Hiệp Luận nói rằng:

- Bồ Tát Sơ Hạnh thấy cái Dụng bậc trung, bởi thâm tín Chân Như nên thấy được chút ít, biết thân Như Lai là không đến, không đi, không có chỗ dứt mất, duy tâm ảnh hiện, chẳng lìa Chân Như. Nhưng Bồ Tát này còn chưa lìa phân biệt vi tế vì chưa nhập vị Pháp Thân. Bồ Tát Tâm Tịnh thấy cái Dụng vi tế, như vậy mà vượt chuyển, cho đến Bồ Tát Cứu Cánh Địa cái Thấy mới hết. Dụng vi tế gọi là Thân Thọ Dụng. Vì có Nghiệp Thức, thấy Thân Thọ Dụng. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy. Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân. Pháp Thân không có sắc tướng sai biệt kia, đây, mà hỗ tương thấy vậy.

Ôi, phàm lấy cái Dụng vi tế gọi là Thân Thọ dụng, lấy sự hết cái Nghiệp Thức vi tế gọi là trong địa vị Bồ Tát, nên nói, Còn Trần là Hữu Học. Nếu lìa Nghiệp Thức ắt không gì để thấy, gọi đó là Pháp Thân Như Lai, nên kinh nói: Sáng tột tức Như Lai.

Kinh:
Đại chúng cùng A Nan,
Xoay cơ nghe điên đảo!
Quày nghe, nghe Tự Tánh,
Tánh thành: Vô Thượng Đạo.
Có thể thật như vậy,
Đây một đường Niết Bàn.
Cửa vào hằng sa Phật,
Chư Như Lai quá khứ.
Pháp môn này thành tựu,
Hiện tại các Bồ Tát.
Thảy theo, vào Viên Minh,
Người vị lai tu học.
Hãy y Pháp như thế,
Tôi cũng trong ấy chứng.
Chẳng riêng Quan Thế Âm.

Thông rằng: Cơ nghe theo ngoài buông tuồng, ắt mê gốc theo ngọn, nên gọi là đảo điên. Quày cái Nghe nên xoay lại cái Cơ ấy vậy. Nghe trở lại Tự Tánh, là ngược Trần hiệp Giác, nên gọi rằng Chánh. Nghe Tự Tánh bèn nhìn thấy mặt mũi xưa nay, thì cái Tánh Nghe này tiện thành Vô Thượng Bồ Đề, Chân Thường Viên Thông; chẳng nhờ ngoài được. Đó là Đốn Môn chứng thành Vô Thượng Bồ Đề của ba đời Chư Phật vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa:

- Thế nào là Văn Thù?

Tổ Sa nói:

- Tường vách, ngói gạch đó vậy.

Hỏi:

- Thế nào là Quan Âm?

Tổ Sa nói:

- Âm thanh ngôn ngữ đó vậy.

Hỏi:

- Thế nào là Phổ Hiền?

Tổ Sa nói:

- Tâm chúng sanh đó vậy.

Hỏi:

- Thế nào là Phật?

Tổ Sa nói:

- Sắc thân chúng sanh đó vậy.

Hỏi:

- Thể của hằng sa Chư Phật đều đồng, sao lại có đủ thứ danh tự?

Tổ Sa nói:

- Theo căn Mắt trở lại nguồn gọi là Văn Thù. Theo căn Tai trở lại nguồn gọi là Quan Âm. Theo Tâm trở lại nguồn gọi là Phổ Hiền. Văn Thù là Diệu Quan Sát Trí của Phật. Quan Âm là Vô Duyên Đại Từ của Phật. Phổ Hiền là Vô Vi Diệu Hạnh của Phật. Ba Thánh là Diệu Dụng của Phật. Phật là Chân Thể của ba Thánh. Dụng thì có hằng sa giả danh. Thể thì gọi chung là Bạc Già Phạm.

Thế nên biết, mỗi Vị nhập Viên Minh cùng Chư Phật không khác. Nhưng căn Tai thì tột viên, nên phải lấy Quan Thế Âm làm Pháp.

Kinh:
Thật như lời Thế Tôn,
Hỏi tôi các phương tiện.
Để cứu đời rốt chót,
Người cầu xuất thế gian.
Thành tựu Tâm Niết Bàn,
Quan Thế Âm hơn cả.
Còn các phương tiện khác,
Đều là Phật oai thần.
Nơi sự bỏ trần lao,
Chẳng phải Pháp học thường.
Sâu cạn đồng nghe Pháp,
Đảnh lễ Như Lai Tạng.
Vô Lậu, chẳng nghĩ bàn,
Nguyện gia bị vị lai.
Trong Pháp này không lỗi,
Phương tiện dễ thành tựu.
Nên dùng dạy A Nan,
Cùng đời sau chìm đắm.
Chỉ nơi Căn này tu,
Viên thông hơn tất cả,
Chân Thật Tâm là thế.

Thông rằng: Đây là Đức Văn Thù trả lời chỗ hỏi của Phật, chọn lựa Viên Thông thì không gì bằng pháp môn xoay lại cái Nghe của Đức Quan Âm, đáng dạy cho Ông A Nan để chữa trị cái lỗi chứa lắm chuyện nghe, và cứu được cho đời mạt kiếp, dứt đi cái khổ trôi xoay. Chẳng như các phương tiện khác, tình cờ chạm nhằm một cơ duyên, phát minh việc mình, người sâu thì nhập vào chỗ vi diệu, sơ tâm chẳng bì kịp, người cạn vướng nơi dấu vết, đối với Viên Thông chưa hợp, trước sau đều chẳng phải là chỗ tu học lâu dài. Độc chỉ theo căn Tai mà vào thì sâu cạn đều hợp nên, đáng tu học lâu dài, lại rất dễ thành tựu, phương tiện tột cùng. Thế nên Đức Văn Thù xin Thế Tôn âm thầm gia bị thì cái tâm chân thực vì người của Ngài mới an ổn vậy.

Thiền sư Trung Hội Cừu thượng đường:

- Nhân duyên cơm cháo của tôi ở chốn này, vì các anh em xướng nêu, rốt chẳng phải là thường hằng. Muốn Viên Thông chỗ tỉnh yếu, hãy chính nơi núi sông, đất đai cùng ông phát tỏ. Đạo ấy Chân Thường, cũng vốn rốt ráo. Như theo cửa Văn Thù vào thì tất cả đất, cây, ngói, gạch vô vi giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Quan Âm vào thì tất cả tiếng tăm, ếch nhái, trùn dế giúp ông phát tỏ cơ yếu. Như theo cửa Phổ Hiền vào thì chẳng động bước mà đến nơi. Ba cửa phương tiện này mở hoác cho ông. Giống như lấy một mũi tên gãy khuấy nuớc biển cả khiến cho loài cá, rồng kia biết nước là sinh mệnh. Hội chăng? Bằng không Trí Nhãn mà thẩm xét chân chánh đó, tha hồ ông trăm thứ khéo hay cũng chẳng là cứu cánh.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Đạo Phổ:

- Kẻ Sơ Tâm hậu học, mới vào tùng lâm, trong cửa phương tiện, xin thầy chỉ bày.

Tổ Phổ gõ khuôn cửa.

Nhà sư hỏi:

- Hướng thượng lại có sự việc hay không?

Tổ Phổ nói:

- Có.

Hỏi:

- Như sao là việc hướng thượng?

Tổ Phổ lại gõ khuôn cửa.

Ôi! Đức Phổ Hiền nói, Tâm nghe suốt mười phương. Đức Văn Thù nói, Ta cũng từ trong đó chứng. Ba vị Thánh thay nhau cổ xướng khiến người theo căn Tai nhập, đều để ứng với cơ yếu của cõi này vậy. Nếu các vị tôn túc phát minh, trước sau tiếp dẫn chỗ hướng thượng, nào từng chẳng tuân lối vết Viên Thông ư? Chỉ sao người đốn chứng ít vậy? Chứng nhập Tịch Diệt Hiện Tiền tự chẳng có dễ.

Nhưng trong Trí Độ Luận nói rằng:

- Căn Tai không có sự tỏ biết, nên chẳng có nghe. Nhĩ Thức chỉ chốc lát, nên chẳng thể phân biệt. Tai chẳng nghe, Ý Thức cũng chẳng có nghe. Vì sao thế? Năm Thức trước biết năm Trần, rồi sau Ý Thức biết. Ý Thức chẳng thể biết năm Trần hiện tại, mà chỉ biết năm Trần quá khứ và vị lai. Nếu Ý Thức có thể biết năm Trần hiện tại thì người mù điếc cũng biết được Thanh Sắc!

Hay thay chỗ luận này! Thật hạp với ý chỉ tịch diệt.

Thanh thì vô giác vô căn, nên: Hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh.

Căn thì vô giác, nên: Chẳng trụ ở chỗ hết nghe.

Thức thì không có sắc, không đối đãi, không xứ sở, nên: Giác, Sở Giác không. Sở không, Năng không, sanh diệt đã diệt, nhất niệm liền chứng. Còn với sự lần hồi thêm, lần hồi hóa, vốn chẳng phải hai đường. Nên xoay lại cái Nghe mà vào dòng, đến chỗ chẳng sanh diệt, thật phải tuân theo vậy.

Kinh:

- Ngay đó, Ông A Nan cùng cả đại chúng thân tâm suốt nhiên, đắc đại khai thị. Thấy rõ Bồ Đề cùng Đại Niết Bàn của Phật, như người nhân có việc đi xa, chưa được trở về, song đã rõ con đường về nhà.

Tất cả đại chúng trong hội, tám bộ Trời Rồng, Nhị Thừa Hữu Học cùng tất cả các Bồ Tát mới phát tâm, số lượng cả mười hằng hà sa đều đắc Bản Tâm, xa lìa trần cấu, được Pháp Nhãn Tịnh.

Tánh Tỳ Khưu Ni nghe bài kệ xong, thành quả A La Hán. Vô lượng chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Ông A Nan nghiêm chỉnh y phục, ở trong đại chúng chấp tay đảnh lễ. Tâm tánh trọn sáng, vừa mừng vừa tủi, vì muốn lợi ích cho khắp các chúng sanh đời sau, cúi đầu bạch Phật:

- Con nay đã ngộ pháp môn thành Phật, trong đó tu hành, không còn nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai nói lời thế này: Mình chưa được độ, trước đã độ người, đó là sự phát tâm của các Bồ Tát. Tự giác đã tròn, thường giác cho người, đó là sự ứng thế của Chư Như Lai.

Con tuy chưa được độ, nguyện độ tất cả chúng sanh đời mạt thế. Thưa Thế Tôn, các chúng sanh ấy cách Phật ngày càng xa, nghe tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng; nếu muốn họ nhiếp tâm vào Tam Ma Địa, làm sao khiến họ an lập đạo tràng, lìa các ma sự, trong Bồ Đề Tâm được không thoái khuất?

Thông rằng: Vô Đẳng Đẳng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là Tối Thượng Thừa vậy. Không vật gì bằng mà hay bình đẳng cùng vật, nên gọi là Vô Đẳng Đẳng. Đã lìa phiền não nên gọi là Phật Bồ Đề. Đã lìa sanh diệt nên gọi là Đại Niết Bàn. Vô lượng chúng sanh đều biết ở nơi chỗ này phát tâm, rõ biết phiền não chẳng phải là nhà, mà Tánh Giác là nhà vậy. Rõ biết sanh diệt chẳng phải là nhà mà Niết Bàn là nhà vậy. Pháp môn xoay lại cái Nghe, tự vào dòng, mất cái Sở, đến chỗ Tịch Diệt Hiện Tiền, trong đó tu hành, được con đường đạo Viên Thông nhiệm mầu. Thật là rõ ràng như đường chỉ trong bàn tay.

Ông A Nan tuy chưa tự độ, chưa dứt hết hai thứ phân đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử mà đến bờ kia, nhưng muốn độ chúng sanh đời sau đều được vào Chánh Định, chẳng bị ma quấy rối. Vì ma sự rất nhiều, phòng ngừa chẳng dễ. Như Tánh Tỳ Khưu Ni, nếu không được thần chú Như Lai làm sao được tâm dâm liền ngừng thành A La Hán. Năm mươi thứ Ấm Ma ở đoạn sau đều để đáp chỗ hỏi này, lại khiến rõ ràng con đường về nhà vậy.

Thiền sư Thủ Sơn Niệm dạy chúng rằng:

- Lão tăng định muốn về quê, có người nào theo được?

Khi ấy có nhà sư hỏi:

- Chẳng hay khi nào Hòa Thượng đi về?

Tổ Niệm nói:

- Đợi cho có bạn thì nói với ông.

Nhà sư hỏi:

- Không có bạn việc ấy thế nào?

Tổ Niệm nói:

- Trọn ngày chẳng gặp ai, rõ ràng không biết chỗ!

Nhà sư hỏi:

- Bỗng gặp một người thì lại thế nào?

Tổ Niệm nói:

- Con mê chẳng về nhà, mất rồi đường lúc đến.

Nhà sư hỏi:

- Xin thầy chỉ cái đường về quê.

Tổ Niệm nói:

- Rồng ẩn cây khô, chẳng còn nương dựa.

Nhà sư hỏi:

- Khi nào Hòa Thượng lại trở lại?

Tổ Niệm nói:

- Một đi chẳng tri âm, sáu nước không tin tức.

Nhà sư hỏi:

- Chính lúc đang về thì thế nào?

Tổ Niệm nói:

- Độc xướng khúc nhà Hồ, không người hòa cho nổi!

Nhà sư hỏi:

- Lúc ấy bỗng gặp tri âm thì thế nào.

Tổ Niệm nói:

- Đầu non người đá xúm vỗ tay. Bên suối lão quê cười ha hả.

Nhà sư hỏi:

- Về nhà rồi trở lại, việc ấy thế nào?

Tổ Niệm nói:

- Tám nước dâng áo lễ, bốn tướng không cải đổi.

Nhà sư hỏi:

- Chẳng rõ ở vị thứ nào?

Tổ Niệm nói:

- Văn Thù chẳng tọa Kim Đài Điện, tự có tiêu dao nhánh trúc lay.

Xem Tổ Niệm Pháp Hoa tỏ lại chỉ qua, gõ rao tự tại. Thật y cái khí vị của Tổ Ngưỡng Sơn.

Kinh:

Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi Ông A Nan:

- Hay lắm, hay lắm, như chỗ ông hỏi về an lập đạo tràng, cứu vớt chúng sanh chìm đắm trong đời mạt kiếp, nay ông hãy nghe cho rõ, Ta vì ông nói ra.

Ông A Nan cùng cả đại chúng vâng nghe lời dạy.

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông thường nghe trong Luật Tạng của Ta tuyên nói ba nghĩa quyết định của sự tu hành, đó là: Nhiếp Tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ. Ấy gọi là ba Vô Lậu Học.

Thông rằng: Ở trước nói hai nghĩa quyết định. Một là xét cái Tâm Nhân Địa. Hai là lựa chọn Căn Viên Thông, trở lại cùng tột dòng căn, đến chỗ chẳng sanh diệt; thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề, chẳng phải luận gì đến cái học Giới Định Huệ. Đây là một môn siêu xuất, con đường Xa Ma Tha nhiệm mầu của mười phương Như Lai để tiếp người thượng thượng căn vậy. Trong đó nói, Căn và Trần chẳng sánh hợp, chưa từng không có Giới. Như lóng nước dơ, chưa từng không có Định. Ở trong rực rỡ phát sáng, chưa từng không có Huệ. Chỉ chẳng dùng Giới Định Huệ tự trói buộc, nên là Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Nay lại trước hết nói rõ nơi Giới, mà nên bày bốn Cấm trong Luật là để tiếp người trung-hạ căn. Để phòng ngừa Ma, không thể không nghiêm về Giới. Tiểu Thừa thì vâng theo Pháp là Giới, đối trị thô thiển, cái ngọn. Đại Thừa nhiếp tâm là Giới, dứt trừ tinh vi gốc rễ. Giới nơi Pháp thì không phạm nơi thân mà thôi, Giới nơi Tâm thì không phạm cả trong tư tưởng. Giới châu (tròn sáng như ngọc) là chuyển Thức thành Trí, không năm Ấm, phá năm Trược vậy. Còn có ma sự nào để lo sợ ư?

Đức Lục Tổ dạy chúng rằng:

- Pháp môn này của ta lấy Định Huệ làm gốc. Đại chúng chớ mê, nói Định Huệ khác nhau. Định Huệ một thể, chẳng phải hai. Định là Thể của Huệ, Huệ là Dụng của Định. Ngay trong Huệ, Định ở tại Huệ. Ngay trong Định, Huệ ở tại Định. Như rõ nghĩa này, tức là cái học Định Huệ bình đẳng. Các người học Đạo, chớ nói trước Định mới phát Huệ, trước Huệ rồi phát Định, mỗi cái khác nhau. Thấy ra như vậy hóa ra Pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành, trong tâm chẳng lành thì không có Định Huệ, vì Định Huệ chẳng đồng đều. Nếu tâm và miệng đều lành, trong ngoài một thứ thì Định Huệ đồng đều. Tự ngộ tu hành, chẳng vướng nơi tranh cãi. Nếu tranh trước sau là đồng với người mê, chẳng dứt hơn thua là thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng. Thiện tri thức, Định Huệ giống như đèn và ánh sáng. Có đèn thì sáng, không đèn thì tối. Đèn là Thể của ánh sáng, ánh sáng là Dụng của đèn. Danh tuy có hai, Thể vốn đồng nhất.

Ở đây, Đức Lục Tổ tuy bày rõ Định Huệ nhất thể, mà trong đó nói tâm, miệng đều lành, trong ngoài như một thứ, Định Huệ bèn đồng đều, thì Giới cũng đã có trong ấy vậy.

Một hôm, Tổ nói với Chí Thành rằng:

- Chỗ thuyết pháp của ta, chẳng lìa Tự Tánh. Lìa Thể thuyết pháp, gọi là Tướng thuyết, vẫn thường mê Tự Tánh. Phải biết hết thảy muôn pháp đều từ Tự Tánh khởi dụng. Đó là pháp Giới Định Huệ chân thật.

Hãy nghe kệ ta:

Tâm địa không trái (phi): Tự Tánh Giới,
Tâm địa không si: Tự Tánh Huệ.
Tâm địa không loạn: Tự Tánh Định,
Chẳng tăng chẳng giảm: Tự Kim Cang,
Thân đến thân đi: Hằng Tam Muội.

Thầy Thành nghe kệ tỉnh ngộ, bèn trình một bài kệ:

Năm Uẩn huyễn thân,
Huyễn đâu cứu cánh?
Hướng đến Chân Như,
Pháp lại chẳng tịnh!

Tổ bằng lòng.

Đó là chỗ thuyết Giới Định Huệ của Tối Thượng Thừa, đều là lời trong nhà, đối với lời khác ở ngoài cửa, cách nhau như trời với đất.

Kinh:

- A Nan, nhiếp tâm thế nào thì gọi là Giới?

Nếu chúng sanh lục đạo của các thế giới tâm họ chẳng dâm, ắt chẳng sanh theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng dâm không trừ thì không ra khỏi cảnh ma được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà không đoạn lòng dâm, hẳn lạc vào ma đạo: hạng trên thành Ma Vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ. Các chúng ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, nhiều bọn ma này lẫy lừng trong thế gian, lan rộng hành vi tham dâm, giả làm thiện trí thức, khiến các chúng sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường Bồ Đề.

Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề: trước phải dứt lòng dâm. Đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ nhất của Chư Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.

Thế nên, A Nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền định thì cũng như nấu cát đá mà muốn thành cơm, trải trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng. Vì sao thế? Vì nói là cát đá mà thành, chẳng phải gốc là cơm vậy. Ông dùng thân dâm cầu diệu quả Phật, dầu được diệu ngộ cũng đều là gốc dâm, căn bản thành dâm, xoay chuyển trong ba đường sanh tử, hẳn không ra khỏi, đường nào mà tu chứng Niết Bàn của Như Lai? Hẳn phải khiến cho cái cơ dâm, dù thân hay tâm, đều đoạn dứt, cho đến tánh lìa dứt cũng không còn, thì đối trong Bồ Đề của Phật mới có thể trông mong.

Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói tức lời Ba Tuần.

Thông rằng: Chúng sanh trong lục đạo, sanh tử nối tiếp nhau, kia yêu lòng đây, đây mến cái sắc kia, đời đời kiếp kiếp thường bị ràng buộc. Duy cái Dâm là gốc rễ bắt đầu. Cái thấy phát minh thì Sắc phát khởi, thấy có thì Tưởng thành, khác với chỗ thấy thành ghét, cùng với chỗ Tưởng thành thương. Một tưởng niệm, gốc Ái khởi động trước hết nên lấy Cấm Dâm làm đầu. Chẳng bỏ dâm mà tu thiền định, dầu được diệu ngộ chỉ ích cho cơ dâm, nên rốt cuộc chẳng thành Phật mà thành quyến thuộc của Ma. Ma cũng có thần thông biến hoá, cũng có thể nói Đạo Vô Thượng, chỉ vì nghiệp dâm chẳng trừ, phước ma đến lúc hết, rốt lại trôi lăn trong ba đường khổ. Sự dâm phát lên có cơ, mà tâm là cội gốc, nên gọi là Tâm Dâm. Tâm mà chẳng động thì cơ tự chẳng phát, nên nhiếp tâm giữ Giới Luật, trước đoạn dứt lòng dâm, gọi là Tánh Đoạn Dứt. Còn Tánh Đoạn Dứt thì chưa lìa đối trị. Sự đối đãi còn sờ sờ thì cơ dâm còn ẩn phục. Hẳn Tánh Đoạn Dứt cũng không mới là đoạn diệt chân thật vậy. Dâm là căn nguyên phiền não, lìa dứt nó thì Bồ Đề mới có thể trông mong. Chỉ có dâm là gốc rễ sanh tử, đoạn dứt nó thì Niết Bàn có thể chứng. Nói là đoạn lìa như chặt lìa chân tay, chẳng dùng lại được. Cái dâm mà đoạn lìa, tức là lấy cái chẳng sanh chẳng diệt làm Tâm Nhân Địa, nên đắc Chánh Định. Chẳng có như thế, nấu cát mà thành cơm làm sao có chuyện ấy được!

Kinh Pháp Hoa nói rằng:

- Chẳng thể đối với thân người nữ, giữ tướng hay sanh dục tưởng mà thuyết pháp cho, cũng chẳng ưa thích thấy. Như có vào nhà, chẳng có truyện trò với người thiếu nữ, trinh nữ, đàn bà góa, cũng chẳng gần với năm loại người bán nam bán nữ, rồi thành thân thiết. Chẳng vào nhà họ một mình. Nếu có nhân duyên cần phải vào một mình, chỉ một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, chớ cười lộ răng, chẳng bày hở ngực. Cho đến vì nói pháp còn chẳng thân mật, huống lại có sự gì khác. Chẳng thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa Di ấu thơ, cũng chẳng ưa kẻ đồng môn. Thường thích ngồi thiền, ở nơi vắng vẻ, tu nhiếp tâm mình.

Đó là phép tắc của Tiên Phật Thế Tôn như vậy.

Xưa, Đức Nhị Tổ thường trà trộn ở chốn thanh lâu quán rượu; người ta cười cợt.

Tổ nói:

- Ta tự điều tâm, nào liên can gì việc ngươi.

Chẳng phải là người thật ra thoát làm sao xuống bùn, vào nước?

Thiền sư Bá Trượng Duy Chính thượng đường:

- Hòa Thượng Nham Đầu lấy ba đồng tiền tìm được bà vợ chỉ biết mò tôm vớt ốc, nhưng lại chẳng biết sanh trai nuôi gái! Cho đến như nay môn phong dứt tuyệt. Muốn biết vợ Khoát Công chăng? Bá Trượng ngày nay chẳng tiếc môi mép, giải rõ cho các ông: chuyện lấy cây trâm cưới vợ đời ít có. Quần vải vẫn còn là y phục thuở lấy chồng. Kỳ thay, lại gọi đó là vợ lão Khoát Công, nguyên lai cùng với mặt mũi Khoát Công tương tợ!

Lại có nhà sư hỏi Tổ Trấn Sơn:

- Như sao là gia phong Hòa Thượng?

Tổ Trấn nói:

- Túi gấm đầy hương bạc, gió thổi thơm ngập đường.

Tổ Nham Đầu nghe được, bảo một nhà sư đến nói:

- Truyện kể mười tám chị, thờ Phan Lang tốt lắm.

Tổ Nham Đầu tợ nói thiền-phong-lưu, còn Tổ Duy Chính mượn sự chỉ dấu của Tổ Nham Đầu, phong lưu càng lắm. Đều là hoa sen tháng Chạp vậy.

Kinh:

- A Nan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới lòng chẳng giết hại, ắt chẳng theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng Sát không trừ, thì không thể ra khỏi trần được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền mà không đoạn dứt sự Giết Hại hẳn lạc vào Thần Đạo, người bậc trên làm đại lực quỷ, bậc giữa thì làm phi hành dạ xoa và các loại Quỉ Soái, bậc dưới thì làm địa hành La Sát. Các Quỉ Thần ấy cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp nhiều thứ Quỉ Thần này lẫy lừng trong thế gian, tự nói ăn thịt cũng được Đạo Bồ Đề.

A Nan, Ta bảo hàng Tỳ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục, thịt ấy đều do thần lực Ta hóa sanh, vốn không có mạng căn. Bà La Môn các ông, đất đai phần nhiều nóng, ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ không sanh, Ta dùng sức Đại Bi gia bị, nhân Tâm Đại Từ Bi giả gọi là thịt, các ông cũng nếm được vị ấy.

Làm sao sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Phật tử! Các ông phải biết, những người ăn thịt đó, dầu có được tâm khai mở, giống như Tam Ma Đề, đều là đại La Sát, quả báo hết rồi phải chìm đắm trong bể khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như vậy, giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau không dứt, làm sao ra được khỏi ba cõi?

Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, thứ đến, phải lìa dứt sự sát sanh, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ hai của Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.

Thế nên, A Nan, nếu chẳng dứt sự Giết Hại mà tu thiền định thì cũng như có người tự bịt tai mình, cất tiếng kêu lớn mà mong người khác không nghe, bọn đó gọi là muốn ẩn thì càng lộ. Hàng Tỳ Khưu trong sạch, cho đến các vị Bồ Tát, đi trên đường rẽ, không dẫm cỏ non, huống lấy tay nhổ. Làm sao trong Tâm Đại Bi mà lấy máu thịt của các chúng sanh làm đồ ăn?

Nếu các hàng Tỳ Khưu không mặc những đồ tơ lụa, lượt là phương Đông và không dùng những giày dép, áo lông hay các thứ sữa, phó-mát, đề hồ, các Tỳ Khưu đó đối với thế gian thật thoát khỏi sự báo đền nợ nghiệp, chẳng đi vào trong ba cõi. Vì sao thế? Dùng bộ phận thân thể chúng sanh là có duyên nợ với vậy, như con người ăn trăm thứ mễ cốc của đất thì chân không lìa khỏi đất. Quyết phải khiến cho thân tâm đối với bộ phận hay thân thể chúng sanh đều không mặc, không ăn, những người như thế, Ta mới gọi là thật Giải Thoát.

Như Ta nói đây, gọi là lời Phật; chẳng như đây nói, tức là lời Ba Tuần.

Thông rằng: Trong mười hai năm sau khi Phật thành Đạo thì chưa đặt định Giới Luật, tạm cho Tỳ Khưu ăn năm thứ tịnh nhục. Sau đó, nhân đám Lục Quần Tỳ Khưu cố tình giết hại để ăn, từ đấy đặt định Luật phải vĩnh viễn dứt trừ giết hại. Trong các kinh nói năm thứ tịnh nhục là không thấy, không nghe, không nghi, cùng là chim chết già, tự chết. Ở đây, nói năm thứ tịnh nhục là do thần lực hóa sanh, cũng giống như ở Ngũ Đài Sơn có một loại thịt bằng thảo mộc, vốn không có mạng căn, nên gọi là tịnh. Con người không bỏ đi sự Giết Hại, vì để ăn mặc vậy. Nếu mặc áo lông, tơ, sợi của chúng sanh, và ăn máu thịt chúng sanh, đều vì duyên nợ đó chưa thể giải thoát thật sự, muốn ra khỏi ba cõi sao được?

Như con người trong kiếp ban đầu, hình thể có ánh sáng vàng, chân như dẫm trên mây. Nhân vì ăn chất bổ báo của đất là lúa thơm, nên thân thể cứng nặng, chân chẳng rời đất, cũng vì duyên nợ với đất. Cho nên tu thiền tập định, vốn để tránh tội, trái lại làm điều giết hại, có khác gì bịt tai mà trốn tránh người, đáng ra phải nín hơi thì lại kêu lớn tiếng. Muốn khỏi luân hồi, làm gì có chuyện ấy được. Dầu cho có được thiền định, cũng là tà định của Quỉ Thần. Cái tà định của Quỉ Thần tương tự như cái thiền định, nên nói Giống Như Tam Ma Đề, rốt lại phải lạc vào Thần Đạo. Thân thể là loại máu thịt, bộ phận thân thể là loại da lông vậy. Thân chẳng ăn, mặc các thứ ấy, đều do tâm ngăn cấm, nên lấy nhiếp tâm làm Giới. Nếu là người đại giải thoát, không tuân giữ Luật này, phải riêng có đầy đủ Một Con Mắt Lẻ.

Hòa Thượng Hiện Tử, chẳng rõ người xứ nào, từ lúc được ấn tâm ở Tổ Động Sơn bèn chung lộn với thế tục ở Mân Xuyên, mùa Đông mùa Hạ chỉ mặc một áo; hàng ngày nơi bờ sông lượm lặt tôm sò để nuôi bụng, ban đêm về ở trong miếu-đốt-giấy-vàng-bạc Bạch Mã.

Thiền sư Hoa Nghiêm Tịnh muốn biết chân, giả. Vào ẩn trước trong miếu giấy vàng bạc.

Đến khuya, Hiện Tử trở về.

Tổ Nghiêm nắm đứng lại, nói:

- Như sao là ý Tổ Sư từ Tây sang?

Liền đáp:

- Đài mâm rượu trước Thần.

Tổ Nghiêm nói:

- Quả thật, đồng sanh căn với ta.

Không ai biết cuộc đời về sau thế nào.

Đây gọi là Dị loại trung hành vậy.

Tổ Nam Tuyền nhân hai bên nhà Đông, nhà Tây tranh nhau con mèo. Tổ Tuyền bắt gặp, rao bảo với chúng rằng:

- Nói được thì cứu được con mèo, nói chẳng được thì chém bỏ vậy.

Trong chúng không có lời đối đáp. Tổ Tuyền liền chém.

Tổ Triệu Châu từ ngoài về, Tổ Tuyền nêu lại chuyện lúc nãy.

Tổ Châu liền cởi chiếc dép cỏ để lên đầu mà đi ra.

Tổ Tuyền nói:

- Lúc ấy mà có ông thì cứu được con mèo rồi.

Lại Tổ Tuyết Phong, đang cùng đại chúng làm ruộng, thấy một con rắn, lấy gậy khêu lên.

Rồi kêu chúng rằng:

- Xem đây này!

Bèn lấy dao chặt làm hai khúc.

Huyền Sa lấy gậy hất ra sau lưng chẳng thèm ngó lại. Cả chúng ngạc nhiên.

Tổ Phong nói:

- Tài thay!

Tổ Tuyết Phong thần dụng y tợ Tổ Nam tuyền. Ngài Huyền Sa chẳng chút gì ngó lại, y cách Ngài Triệu Châu!

Tổ Tuyền thì nói:

- Lúc ấy có ông thì cứu được con mèo rồi!

Tổ Phong thì nói:

- Tài thay!

Cha con hai nhà ấy tiết tấu thành tựu, như một ấn mà ấn ra. Chỗ tụng của hai Ngài Tuyết Đậu, Thiên Đồng cũng là y dạng vẽ hồ lô.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Hai nhà đều dẹp hết thiền hòa,
Dấy lên khói bụi ngại gì phiền.
Nhờ được Nam Tuyền đưa cử lệnh,
Một đao hai khúc mặc tình nghiêng.
Công án nên chăng hỏi Triệu Châu,
Trường An thành nội mặc nhàn du.
Đầu mang dép cỏ không người hiểu,
Về trong nhà núi tức yên thôi.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Hai nhà mây nước lắm phiền hà,
Vương lão sư tăng nghiệm chánh tà.
Dao bén chặt lìa đều mất dấu,
Thiên cổ bảo người mến tác gia.
Đạo này chưa mất, tri âm khá khen!
Đẽo núi thấu biển, hề, chỉ tôn Đại Vũ,
Đội đá vá trời, hề, riêng hiền Nữ Oa.
Triệu Châu riêng có chỗ sanh nhai,
Dép rơm đầu đội có chi sai.
Đến trong chỗ khác toàn soi tỏ,
Chỉ cái vàng ròng chẳng lẫn sa (cát).

Đây là hai, ba lão nhà nghề dùng sát sanh làm Phật sự. Ấy là cảnh giới bậc đại nhơn, nên người tầm thường chẳng thể đo lường.

Kinh:

- A Nan, lại các chúng sanh lục đạo trong các thế giới lòng chẳng trộm cắp, ắt chẳng theo dòng sanh tử nối tiếp nhau. Ông tu pháp Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu lòng trộm cắp chẳng trừ, thì không ra khỏi trần được. Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền mà không đoạn dứt sự trộm cắp, hẳn lạc vào tà đạo: hạng trên là tinh linh, hạng giữa là yêu mị, hạng dưới là người tà bị tà mị nhập vào.

Các đám tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành Đạo Vô Thượng. Sau khi Ta diệt độ, trong đời mạt pháp, lắm thứ yêu tà đó lẫy lừng trong thế gian, lén núp gian dối, xưng là thiện tri thức. Mỗi kẻ tự xưng đã được pháp siêu nhân, lừa gạt người không biết, dọa dẫm khiến mất lòng tin, chúng qua đến đâu cửa nhà hao tán.

Ta dạy hàng Tỳ Khưu theo pháp khất thực để bỏ lòng tham, thành Đạo Bồ Đề. Các hàng Tỳ Khưu không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa nương tạm nơi Tam Giới, thị hiện một lần đi về, đi rồi không trở lại. Làm sao bọn giặc mượn y phục của Ta buôn bán Như Lai, tạo đủ thứ nghiệp mà đều gọi là Phật pháp, lại chê bai các Tỳ Khưu xuất gia đầy đủ Giới Luật là đạo Tiểu Thừa; do chỗ làm cho nghi lầm vô lượng chúng sanh mà đọa địa ngục vô gián.

Như sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ Khưu phát tâm quyết định tu Tam Ma Đề, ở trước hình tượng Như Lai, chính mình thắp một ngọn đèn, đốt một ngón tay hay ở trên thân đốt một điểm hương, Ta nói người ấy nợ cũ từ vô thủy trong một thời trả hết, đời đời cáo biệt thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu. Người ấy tuy chưa rõ liền con đường Vô Thượng Giác, nhưng đối với Phật pháp đã có tâm quyết định. Nếu không làm được cái nhân xả thân nhỏ mọn ấy, dầu có thành Đạo Vô Vi, cũng phải sanh lại làm người, trả hết nợ cũ, như chuyện ăn lúa-ngựa của Ta, thật không sai khác.

Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, sau nữa phải đoạn dứt lòng trộm cắp, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ ba của Chư Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.

Thế nên, A Nan, nếu chẳng dứt trừ trộm cắp mà tu thiền định thì cũng như người rót nước vào chén thủng, mong cho được đầy, dầu trải qua số kiếp nhiều như bụi, rốt chẳng thể đầy. Như các Tỳ Khưu, ngoài y bát ra, mảy may không tích trữ, xin bữa ăn có dư thì bố thí cho chúng sanh đói; nơi nhóm hội lớn, chấp tay vái chào đại chúng, có người đánh mắng cũng đồng như khen ngợi, quyết tự buông bỏ thân tâm, máu xương thân thịt chung với chúng sanh, không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai làm chỗ hiểu của mình, làm lầm lạc người mới học, thì Phật ấn chứng cho người ấy thật được Tam Muội.

Như Ta nói đây, gọi là lời Phật, chẳng như đây nói, tức lời Ba Tuần.

Thông rằng: Tham mà chẳng ngừng hẳn đến chỗ lén cắp. Trộm cắp vật của người để nuôi thân mình, hại chỉ ở thân mà thôi, cho nên thắp đèn đốt tay hẳn có thể đền xong. Còn buôn bán lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai, lấy làm chỗ hiểu của mình để lầm lạc người mới học, đó là kẻ trộm cắp pháp vậy, hại này không kể xiết, bởi trong lòng khắn khít cái tự ái, muốn có riêng sở trường, chưa thể tự buông bỏ. Bỏ thân dễ, bỏ tâm khó. Phải khiến thân tâm đều xả bỏ thì tâm trộm cắp ắt trừ, thế mới nói được là thật đắc Tam Muội vậy.

Xưa, có Bà La Môn họ Hắc vận thần lực, vui vẻ dùng hai tay dỡ lên cao hai cây bông ngô đồng đến cúng dường Phật.

Đức Phật gọi lớn:

- Tiên nhơn!

Người Bà La Môn ứng tiếng, Dạ.

Phật bảo:

- Buông bỏ đi!

Người Bà La Môn liền buông một cành bông bên tay trái.

Phật lại gọi lớn:

- Tiên nhơn, buông bỏ đi!

Người Bà La Môn lại liền buông một cành hoa bên tay phải.

Phật lại gọi:

- Tiên nhơn, buông bỏ đi!

Người Bà La Môn nói:

- Bạch Thế Tôn! Nay con hai tay đều không, Ngài còn dạy buông bỏ cái gì?

Phật nói:

- Ta chẳng dạy ông buông bỏ bông đi. Ông phải buông bỏ ngoài sáu Trần, trong sáu Căn, giữa sáu Thức, buông bỏ hết một lượt. Cái chỗ không có gì để buông bỏ chính là chỗ khỏi sanh tử của ông.

Người Bà La Môn ngay nơi lời ngộ Vô Sanh Nhẫn.

Thiền sư Hoàng Long Duy Thanh được ấn tâm ở Tổ Hối Đường, thường vì người nói:

- Người học Đạo ngày nay chưa thoát khỏi sanh tử, bệnh ở tại chỗ nào? Bệnh ở lòng trộm cắp chưa chết vậy. Nhưng đó không phải là tội của người ấy, mà là tội của ông thầy vậy. Như Hán Cao Đế dối gạt Hàn Tín mà giết đi thì Hàn Tín tuy chết mà tâm nào có chết? Người học Đạo đời xưa, ngay lời nói thoát sanh tử. Công hiện tại chỗ nào? Vì lòng trộm cắp đã chết vậy. Nhưng chẳng phải người học tự có thể đâu, chính do ông thầy kềm kẹp đập phá kín nhiệm vậy. Như Lương Võ Đế ngụ tại sân chầu, thấy Hầu Cảnh chẳng động âm hơi, lòng Hầu Cảnh đã khô kiệt không còn gì cả vậy. Chỗ nói của các phương, chẳng phải không đẹp đẽ nhưng nói cho cùng thì như Triệu Xương vẽ hoa, hoa tuy giống thật nhưng chẳng phải là hoa thật!

Đây đáng làm giới răn kẻ buôn bán Như Lai.

Kinh:

- A Nan, chúng sanh lục đạo trong thế giới như thế, tuy thân tâm không có Sát, Đạo, Dâm ba hạnh đã tròn nhưng nếu có Đại Vọng Ngữ thì Tam Ma Đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất giống Như Lai. Đó là chưa được mà nói được, chưa chứng nói là chứng. Hoặc cầu sự tôn trọng tột bậc của thế gian, bảo người khác rằng: Tôi nay đã đắc quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, đạo A La Hán, thừa Bích Chi Phật, Tam Hiền hay Bồ Tát Thập Địa, trông mong người kia lễ sám, tham sự cúng dường. Đó là những kẻ nhất-điên-ca, tự diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây Đa La; Phật nói người ấy mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm trong ba biển khổ, chẳng thành Tam Muội.

Ta bảo các hàng Bồ Tát và A La Hán, sau khi Ta diệt độ, Ứng Thân sanh vào đời mạt pháp, đủ thứ hình, độ người chìm đắm. Hoặc làm Sa Môn, cư sĩ áo trắng, vua chúa, quan lại, đồng nam, đồng nữ như thế cho đến người dâm nữ, quả phụ, người gian dối, trộm cắp, người đồ tể, buôn bán, cùng họ đồng sự, khen ngợi Phật Thừa, khiến cho thân tâm họ vào Tam Ma Địa, nhưng rốt ráo chẳng tự nói ra tôi thật là Bồ Tát, thật là A La Hán, khinh xuất nói với người chưa học, làm tiết lậu mật nhân của Phật. Chỉ trừ ra đến lúc lâm chung, hoặc chăng thầm có lời di chúc. Làm sao hạng người ấy có thể rối gạt chúng sanh để thành Đại Vọng Ngữ.

Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, sau hết phải đoạn trừ các Đại Vọng Ngữ, đó là lời dạy rõ ràng trong sạch, chỗ quyết định thứ tư của Chư Như Lai Tiên Phật Thế Tôn.

Thế nên, A Nan, nếu không đoạn dứt được Đại Vọng Ngữ thì như khắc phân người làm ra hình cây Chiên Đàn, muốn có hương thơm, thế nào có chuyện ấy. Ta dạy hàng Tỳ Khưu, trực tâm là đạo tràng, trong bốn oai nghi, tất cả hành vi, còn không chút hư dối, huống sao tự xưng đắc pháp thượng nhân, ví như người hèn mạt tự xưng bậy là Đế Vương, tự chuốc lấy sự tru diệt. Huống là bậc Pháp Vương, làm sao đặt bày hư vọng? Nhân địa chẳng chân, quả phải quanh co, thế mà cầu Phật Bồ Đề, như người cắn rốn, muốn thành tựu cái gì? Như các Tỳ Khưu, tâm như dây đàn thẳng, mỗi mỗi chân thật mà vào Tam Ma Địa, vĩnh viễn không có ma sự. Ta ấn chứng người ấy thành tựu Tri Giác Vô Thượng của Bồ Tát.

Như Ta nói đây, gọi là lời Phật, chẳng như đây nói, tức là lời Ba Tuần.

Thông rằng: Thân, Khẩu, Ý đầy đủ mười nghiệp. Thân nghiệp là Dâm, Sát, Đạo. Ý nghiệp là Tham, Sân, Si. Khẩu nghiệp là Ác Khẩu, Lưỡng Thiệt, Ỷ Ngữ, Vọng Ngữ. Thân tâm không có hành động Sát, Đạo, Dâm có thể tin là không có Ác Khẩu, Lưỡng Thiệt, Ỷ Ngữ. Duy cái Đại Vọng Ngữ dường là còn đấy. Vì sao thế? Trong không có tâm Sát, Đạo, Dâm, ngoài không có việc Sát, Đạo, Dâm, ba hạnh đã tròn, trong ngoài thanh tịnh, đời chẳng có nhiều. Nhưng xét theo Tối Thượng Thừa, chưa là kỳ lạ. Bởi căn si kia khó trừ, nên trong Tam Ma Địa, vẫn còn ái kiến. Mới bèn nói láo, xưng là đã chứng được Thập Địa, hay Tam Hiền là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho đến Bích Chi Phật, Bốn Thánh Quả. Ý đồ tham sự cúng dường, tức là Ái Ma. Cho là vào bậc Thánh, tức là Kiến Ma.

Ở trước nói là hầm Ái Kiến, là tâm vướng mắc nơi cảnh, mất đường Bồ Đề, là chẳng giãy sạch mầm mống vậy. Ở đây nói về ma Ái Kiến, tâm kẹt nơi pháp, mất giống Như Lai, là người giúp cho mầm giống lớn lên vậy. Người chẳng giãy sạch mầm giống mà hồi tâm hướng Đạo, còn được Bồ Đề. Người giúp mầm giống thêm lớn, chiếm ngôi Đế xưng Vương, tự ôm lấy sự tru diệt, nên cái hại thật là quá lắm. Nói rằng yếu chỉ, hiểu biết sai lầm mà cho là cực tắc, khiến cho chúng sanh chẳng còn biết có việc hướng thượng, nên làm tiêu mất hạt giống Phật. Chuyện Đại Vọng Ngữ há không nên răn cấm ư? Như người trong quả vị, Ứng Thân hiển hóa còn chẳng dám coi thường tiết lậu mật nhân, tự nói ra chỗ đắc.

Như Hòa Thượng Pháp Hoa Chí Ngôn, sắp hóa (tịch), gọi người nói:

- Ta từ vô lượng kiếp đến nay, thành tựu qua nhiều quốc độ, phân thân xiển dương giáo hóa, nay trở về Nam!

Nói xong, nằm nghiêng bên phải mà tịch.

Ông Tập Tiên Vương Chất hỏi Tổ Pháp Hoa:

- Như sao là ý Tổ Sư từ Tây sang?

Tổ nói:

Trong bóng núi xanh suối lam khởi,
Tháp báu cao ngâm lay gió mai.

Lại nói:

- Mời thầy Pháp Hoa đốt hương.

Tổ nói:

- Chưa từ trai giới kiếm. Chẳng hướng phía Phật cầu.

Hoặc hỏi:

- Sư là phàm ư, là Thánh ư?

Bèn dở tay lên, nói rằng:

- Tôi chẳng trụ trong ấy.

Xem người ở trong quả vị, lời lẽ riêng khác, nào làm chuyện dối vọng.

Nhà sư hỏi Tổ Dược Sơn:

- Như sao là cái rất báu trong Đạo?

Tổ Sơn nói:

- Chẳng cong nịnh.

Hỏi:

- Khi chẳng cong nịnh thì sao?

Tổ Sơn nói:

- Nghiêng (đất) nước chẳng đổi.

Đức Tịnh Danh nói rằng:

- Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả.

Tâm như dây đàn thẳng tắp, mỗi mỗi chân thật, thì không chỉ vĩnh viễn không có ma sự, mà đối với Tri Giác Vô Thượng cũng như thế thành tựu. Giới Đại Vọng Ngữ này sau khi ba Hạnh đã tròn, thâu nhiếp nó ắt thành Tri Giác Vô Thượng, còn chẳng giữ ắt chìm ba biển khổ. Giới này duyên với thân tâm trong sạch thì sức mạnh cực lớn. Một niệm chẳng giới thì sự trong sạch của thân tâm chẳng thiện dụng, mà là ác dụng, cái ác ấy là muốn khác người vậy. Nên sự Giới Cấm càng phải nhiệm mật.

Trước đã nói, Nhiếp tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ, đó là ba Vô Lậu Học. Bây giờ chỉ nói rõ ràng bốn Cấm Giới, mà chẳng nói đến Định, Huệ. Sao thế? Ngay trong Giới thì Định Huệ đã tự sẵn, vốn là một thể, vốn không có thứ lớp trước sau.

Như nói rằng:

- Ông dạy người đời tu Tam Ma Đề, thì nào không từng lấy Định Huệ làm gốc. Đến chỗ nói, Phật ấn chứng người ấy thật được Tam Muội, thì đó là bằng chứng rõ ràng của sự Nhân Giới sanh Định, vậy.

Lại nói rằng, Ta ấn chứng người ấy thành tựu Tri Giác Vô Thượng của Bồ Tát. Thì đó là bằng chứng rõ ràng, Nhân Định phát Huệ, vậy. Cho nên ngay nơi Giới là Định Huệ tự tại, chẳng phải riêng cầu cái gọi là Định Huệ vậy.

Ba Vô Lậu Học này chỉ bậc A La Hán chứng được. Người chứng Đạo này là giết giặc, là Vô Sanh, là Ứng Cúng, là làm Ma sợ, không đủ nói hết.

Ba Tuần là tên của Vua Ma, đây nói là kẻ ác.

PHỤ LỤC

Kinh Lăng Nghiêm, quyển VI, nói rằng:

- Từ Văn, Tư, Tu vào Tam Ma Địa. Ban đầu ở trong cái Nghe, vào dòng mất Sở. Chỗ vào đã lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh. Như thế tăng dần, cái Nghe và chỗ Nghe hết, cũng không trụ vào cái hết Nghe này, thì cái Giác và chỗ Giác đều không. Cái không Giác cùng tột tròn vẹn, thì năng không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt, Tịch Diệt hiện tiền.

Đây là cửa vào Đạo của Bồ Tát Quán Thế Âm, lý rất tinh thâm, ngôn ngữ luận bàn chẳng tới nổi.

Tôi tình cờ cùng pháp sư Càn đàm luận, thấy có ý vị, nhân thuật ra đây.

Chỗ nói rằng, Từ Văn, Tư, Tu mà vào Tam Ma Địa, là nói từ việc Xoay Lại Cái Nghe mà xuy xét (Tư); từ xoay lại cái Nghe mà Tu. Tức từ xoay lại cái Nghe mà thể nhập, cho đến địa Chánh Định chẳng sanh chẳng diệt. Tam Ma Địa này vốn không động lay, lặng trong thường tịch. Chỉ vì cảm theo thanh trần, nên cái căn nghe dính che tánh trong lặng mà khởi ra, cho đến nghe tiếng rồi đuổi theo tiếng, trôi lăn mà quên trở lại, cách lìa hẳn với Tam Ma Địa rồi vậy.

Như chỉ từ Văn, Tư, Tu mà vào, thì tánh Nghe tức là Lý, Tư là Trí, Tu là Hạnh. Ba đức Lý, Trí, Hạnh viên dung, cùng đến một lúc. Cho nên, hễ xoay lại cái Nghe thì Tư (suy xét) đã ở trong ấy rồi; hễ xoay lại cái Nghe thì Tu đã ở trong ấy rồi. Cái Thánh Huệ Tư, Tu từ chỗ xoay lại cái Nghe mà sanh, bước bước về Chân, địa địa tăng tiến, như văn đoạn sau nói rõ, đó là thứ tự vào Tam Ma Địa.

Ban đầu, ở trong cái Nghe, ngược dòng mà xuôi vào: chẳng vào thanh trần mà vào dòng Thánh, tức cùng Tự Tánh nương nhau, ngoài mất đi cái Sở.

Phàm cảm nhận thanh trần hẳn phải có cái Sở, nay tuy mất cái Sở, còn chưa vắng lặng được. Đang khi tiếng động, thì thấy có tướng động mà muốn cho mất đi. Đang khi tiếng im lặng thì thấy có tướng tĩnh mà muốn theo trụ vào. Hai tướng động tĩnh rõ ràng nên chưa có thể vắng lặng. Tuy từ chỗ mất đi cái Sở mà nhập vào cho đến chỗ tịch nhiên, mà cái động tự nó động, ta chẳng biết cái động ấy, thì tướng động nào có tự sanh? Cái tĩnh ấy là tự tĩnh, ta chẳng biết cái tĩnh, thì tướng tĩnh nào tự có sanh? Mất cái sở đến cùng cực, thì không chỉ tướng động bất khả đắc, mà tướng tịnh cũng bất khả đắc vậy.

Hai tướng động tĩnh đó là chỗ duyên ra của cái căn Nghe, nên là cái cảnh Sở Văn. Hai tướng chẳng sanh, rõ ràng sáng tỏ, đó cũng là cái căn Năng Văn. Mất cái Sở Văn thì dễ, mà mất cái Năng Văn thì khó. Như thế tăng dần, đi tới chẳng ngừng, đã mất cái Sở, lại mất cái Năng, thì cả Sở Văn và Năng Văn đều hết sạch. Sở Văn (Chỗ Nghe) là thanh trần. Từ chỗ mất cái Sở lần lần cho đến khi Sở Văn hết, rốt không có gì để nghe nữa, ắt thanh trần tiêu mất vậy. Năng Văn là cái căn Nghe. Từ vào dòng lần lần cho đến chỗ Năng Văn hết, rốt không còn cái Nghe ắt căn Nghe tiêu mất. Căn, Trần đều mất, quay về chỗ dứt tận. Có tướng hết để được, tức là chấp không. Nếu trụ nơi không, thì tuy được Sở Giác không mà chưa được Năng Giác không vậy. Nay ngoài hết sạch các Trần, trong hết sạch căn Nghe, như vậy chỗ hết nghe cũng không trụ bám, thì không chỉ Sở Giác không mà Năng Giác cũng không.

Sở Giác không, là nhân vô ngã. Năng Giác không, là pháp vô ngã. Chứng Nhân Vô Ngã dễ, chứng Pháp Vô Ngã khó. Phải lấy cái Chân Không Đại Thừa mà không thì Năng Giác mới không. Có cái không để không cái Giác, thì cái không chưa được toàn vẹn. Có cái Giác để giác cái không thì cái Giác chưa được viên dung. Độc chỉ lấy cái Không mà không cái Giác, cùng quên đi cái Không, lấy cái Giác mà giác cái Không, cùng quên đi cái Giác mới có thể gọi là Viên Dung vậy.

Nhưng như vậy còn chưa cùng cực. Cùng cực thì Không tức là Giác, cầu tướng Không chẳng thể có. Giác tức là Không, cầu tướng Giác chẳng thể có. Đó là Giác mà không có giác, Không mà không có không, nên mới là toàn vẹn rốt ráo. Độc chỉ Giác cùng cực tròn đầy, nên không có tướng giác để đắc, thì cái Sở Không diệt. Độc chỉ Không cùng cực, tròn đầy, nên không có tướng không để đắc, thì cái Năng Không cũng diệt. Sở Không diệt, đó là pháp không. Năng Không diệt, đó là không không. Năng Không, Sở Không đều chẳng sanh, mới gọi là Sanh Diệt Đã Diệt, vậy.

Còn tiếng thì có tiếng sanh, tiếng diệt. Còn cái Nghe thì có cái Nghe sanh, cái Nghe diệt. Còn cái Giác thì có cái Giác sanh, cái Giác diệt. Còn cái Không, thì có cái Không sanh, cái Không diệt. Đều là chưa lìa sanh diệt. Nay nhân không, pháp không, mà lại không không, phàm các thứ thuộc về sanh diệt đều đã diệt hết. Đó là chẳng sanh, chẳng diệt, một tánh Chân Như hiện bày trước mắt. Ôi, một tánh Chân Như sở dĩ chẳng hiện tiền, đều là do các pháp sanh diệt che khuất. Nay một mảy tơ sạch ráo, Chân Thể lộ bày, vốn tự tịch nhiên, vốn không có diệt, chẳng phải diệt dứt rồi sau mới diệt, nên gọi là Tịch Diệt.

Cái tánh tịch diệt này tùy chỗ hiển bày, chẳng cầu lìa tiếng mà tiếng tăm tự tịch diệt, chẳng cầu lìa nghe mà cái Nghe tự tịch diệt, chẳng cầu lìa giác mà giác tự tịch diệt, chẳng cầu lìa Không mà Không tự tịch diệt. Tịch diệt hiện tiền, chỗ nào chẳng Không ư?

Tam Ma Địa này, tức Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, nên pháp môn Phản Văn, Xoay Lại Cái Nghe, là cương lĩnh bộ kinh này.

Đã được Tịch Diệt hiện tiền, phát khởi từ bi diệu dụng, thì há có pháp nào khác để độ người ư? Đời có người chưa được nhân không thì nói nhân không để độ. Đời có người chưa được pháp không thì nói pháp không để độ. Đời có người chưa được không không thì nói không không để độ. Cần yếu là về chỗ Tịch Diệt Hiện Tiền mà thôi vậy.

Đây là Nhất Tâm của Phật Phật, chẳng phải riêng gì Đức Quán Âm!

Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia nói:

Tâm là căn, pháp là trần,
Cả hai như dấu vết trên gương.
Vết nhơ hết sạch, quang bày hiện,
Tâm pháp đều vong, Tánh tức Chân.

Đại ý là vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN VII

CHƯƠNG III

PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO

I. KHAI THỊ ĐẠO TRÀNG TU CHỨNG

Kinh:

A Nan! Ông hỏi về nhiếp tâm, Ta nay đã nói:

- Để vào Tam Ma Địa tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu Đạo Bồ Đề, trước hết phải giữ bốn thứ Luật Nghi này trong trắng như sương tuyết, tự không còn sanh mảy mún cành lá. Ba cái của Tâm, bốn cái của Miệng không có nhân để sanh ra.

A Nan, nếu chẳng sai mất bốn Luật Nghi đó thì tâm còn chẳng duyên theo Sắc, Hương, Vị, Xúc, cả thảy ma sự làm sao phát sanh? Nếu có tập khí cũ không thể diệt trừ, ông dạy người đó nhất tâm trì tụng Thần Chú Vô Thượng Phật Đảnh Quang Minh, Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra, của Ta. Đây là Tâm Chú Như Lai Vô Kiến Đảnh Tướng, Phật Tâm Vô Vi, từ đảnh phát huy, ngồi đài sen báu mà tuyên thuyết ra.

Như ông đời trước cùng Cô Ma Đăng Già nhân duyên nhiều kiếp, tập khí ân ái chẳng phải một đời hay một kiếp, song Ta một phen tuyên dương Thần Chú thì vĩnh viễn thoát khỏi lòng yêu, thành A La Hán. Nàng kia là dâm nữ, không tâm tu hành, chỉ nhờ thần lực của Chú ngầm giúp mà thành liền quả Vô Học, huống gì các ông, những hàng Thanh Văn trong hội, cầu Tối Thượng Thừa, quyết định thành Phật, ví như tung bụi vào gió thuận, nào khó khăn gì.

Nếu ở đời mạt thế, có người muốn ngồi đạo tràng tu hành, trước hãy giữ Cấm Giới Tỳ Khưu trong sạch. Cần phải chọn lựa vị Sa Môn Giới Hạnh trong sạch bậc nhất làm thầy. Nếu chẳng gặp được vị tăng chân thật thanh tịnh thì Giới Luật Nghi của người tu tất không thành tựu.

Sau khi Giới được thành tựu, mặc áo mới, sạch, đốt hương, ở chỗ vắng mà trì tụng Thần Chú nói ra từ Tâm Phật này, một trăm lẻ tám biến. Sau đó kiết giới, dựng lập đạo tràng, cầu xin Chư Vô Thượng Như Lai mười phương hiện trụ các quốc độ phóng quang Đại Bi đến rọi đỉnh đầu.

A Nan, những hàng Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni hay hàng cư sĩ, thí chủ trong sạch như thế, vào đời mạt thế, tâm dứt tham dâm, giữ tịnh giới Phật, ở trong đạo tràng, phát nguyện Bồ Đề, ra vào tắm rửa, sáu thời hành đạo, không lo ngủ nghỉ, như thế trải qua ba lần bảy ngày, Ta tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an ủi, khiến nên Giác Ngộ.

Thông rằng: Hiện nghiệp dễ chế phục, vì tự mình có thể làm trái ngược với nó. Nghiệp xưa khó trừ dứt, phải mượn thần lực nên nói Thần Chú có thể phá trừ tập khí đời trước. Tập khí như bụi thì tan rã dễ dàng. Ấy là do thần lực thầm trợ giúp, chẳng thể nghĩ bàn vậy.

Lấy cái Phật Huệ chẳng thể nghĩ bàn để tiêu tan cái Vô Minh chẳng thể nghĩ bàn, như thế cầu Tối Thượng Thừa quyết định phải thành tựu. Chú này hầu như siêu xuất Giới Định Huệ mà làm một nhánh riêng, nhưng nếu Giới Định Huệ chẳng tinh nghiêm thì không thể được linh ứng. Do đó, kinh nói: Nếu chẳng gặp được vị tăng chân thật thanh tịnh thì Giới Luật Nghi của người tu tất không thành tựu. Lại nói, Không lo ngủ nghỉ, như thế trải qua hai mươi mốt ngày, Ta tự hiện thân, khiến nên khai ngộ. Đó gọi là, Suy xét đi, suy xét đi, suy xét nữa đi! Suy xét đến chỗ chẳng được thì Quỷ Thần cùng thông vậy. Phật vốn là Không, tâm tịnh mà có. Nước trong trăng hiện, lý ấy hẳn nhiên. Định Huệ cùng cực, thì tiếp thông với khí phần Chư Phật, há chẳng hiện hình an ủi hay sao? Nếu thấy tướng ấy, chỉ quán Không Tịch: nếu là Phật thì rõ ràng tự tại; nếu là ma thì diệt mất. Người tu tập thiền định phải biết điều này.

Thiền sư Vĩnh Minh Thọ tu Sám Hối Pháp Hoa ở chùa Quốc Thanh, ban đêm thấy một vị thần cầm kích đi vào, Ngài quở rằng:

- Sao được tự ý vào đây?

Đáp rằng:

- Chứa nghiệp lành đã lâu, mới vào được trong này.

Nửa đêm, Ngài đi quanh thánh tượng, thấy Đức Phổ Hiền ở trước, tay cầm hoa sen.

Ngài lại ở đỉnh Kim Hoa Đại Trụ, tụng kinh ba năm, trong lúc thiền quán thấy Đức Quan Âm rót nuớc cam lồ vào miệng, bèn được biện tài. Từ đó viết bộ Tông Cảnh Lục và Vạn Thiện Đồng Quy lưu hành ở đời.

Thiền sư Minh Giáo Tung ban đêm đầu đội tượng Quan Âm mà niệm danh hiệu, đầy đủ mười vạn lần mới nghỉ. Ngài cũng thấy Đức Quan Âm rưới nước cam lồ cho. Từ đó, bao nhiêu kinh sách thế gian chẳng học mà hiểu. Ngài có viết Thiền Môn Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tông Ký và Nguyên Giáo Luận. Vua Tống Nhân Tông than khen, chiếu lệnh chép vào Đại Tạng Kinh.

Đây là những chứng nghiệm rõ ràng của việc: Xoa đầu an ủi, khiến nên khai ngộ, vậy.

II. KHAI THỊ ĐẠO TRÀNG TU CHỨNG

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, tôi nhớ lời dạy bảo Từ Bi Vô Thượng của Như Lai, tâm tự khai ngộ, tự biết tu chứng, thành Đạo Vô Học. Còn người tu hành đời mạt pháp muốn lập đạo tràng, thế nào mà kiết giới cho hợp với pháp tắc trong sạch của Chư Phật Thế Tôn?

Phật dạy Ông A Nan:

- Người đời mạt pháp, nguyện lập đạo tràng, trước hết kiếm con trâu trắng sức mạnh ở núi Tuyết Sơn, sống bằng cỏ thơm non mướt, loài trâu trắng này chỉ uống nước trong của núi Tuyết Sơn, phân rất nhuyễn mịn. Nên lấy phân đó hòa trộn với bột hương Chiên Đàn để tráng nền đất. Nếu không phải là loài trâu trắng ở Tuyết Sơn thì phân hôi bẩn, không thể tráng nền. Riêng ở đồng bằng, có thể đào bỏ lớp đất trên mặt, lấy đất sét vàng từ năm thước trở xuống rồi hòa trộn với hương Chiên Đàn, trầm thủy, tô hợp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, can tùng và kê thiệt. Mười thứ ấy rây nghiền thành bột, trộn với đất sét để làm nền đàn tràng, mỗi bề một trượng sáu, thành cái đàn bát giác.

Trung tâm đàn đặt một cái bát, trong bát đựng nước sương móc tháng Tám. Trong nước tùy ý để các hoa lá hiện có. Lấy tám cái gương tròn, mỗi cái để theo mỗi hướng, chung quanh cái bát hoa. Bên ngoài gương, dựng lập mười sáu hoa sen, mười sáu lư hương, giữa chúng bày hoa. Các lư hương đều trang nghiêm, đốt thuần bằng trầm thủy, không cho thấy lửa.

Lấy sữa trâu trắng để trong mười sáu đồ chứa. Lấy sữa làm bánh với đường cát, bánh rán, váng sữa, tô hợp, mật gừng, thuần kem, thuần mật, mỗi thứ mười sáu cái đặt quanh ngoài hoa sen để cùng dâng Chư Phật và các Đại Bồ Tát. Mỗi giờ ăn cơm và lúc nửa đêm dùng nửa thăng mật hòa với thăng rưỡi váng sữa (bơ).

Trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, lấy hương Đâu Lâu Bà nấu lấy nước thơm mà rửa than, đốt cho cháy hừng, rót mật bỏ vào, đốt cho hết khói, cúng dường Phật và Bồ Tát.

Ở bốn phía ngoài, treo khắp phan, hoa; ở trong nhà đàn, bốn vách chưng bày các hình tượng của mười phương Như Lai và các vị Bồ Tát. Chính giữa để tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật A Di Đà; hai bên đặt tượng Đức Quan Âm Đại Biến Hóa và Kim Cang Tạng Bồ Tát. Hai bên cửa để hình tượng Đế Thích, Phạm Vương, Ô Sô Sắt Ma, Lam Địa Ca, Quân Trà Lợi, Tỳ Câu Chi, bốn vị Thiên Vương, Tần Na Dạ Ca...

Lại dùng tám cái gương treo úp giữa hư không, đối chiếu với tám gương trước trong đàn tràng, khiến cho hình ảnh lồng nhập vào nhau nhiều lớp.

Trong bảy ngày đầu, chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, Chư Đại Bồ Tát, Chư A La Hán. Thường trong sáu thời đi quanh đàn tụng Chú, hết lòng hành Đạo, mỗi thời trì một trăm lẻ tám biến.

Trong bảy ngày thứ hai, một mặt chuyên tâm phát nguyện Bồ Tát, tâm không gián đoạn. Trong Luật Tạng của Ta đã có chỉ dạy về nguyện.

Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời, một bề trì Chú Bát Đát Ra của Phật. Cho đến ngày thứ bảy, mười phương Như Lai nhất thời xuất hiện chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh; bèn ở nơi đạo tràng tu Tam Ma Địa, có thể khiến cho hạng tu học đời mạt thế thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly.

A Nan, nếu vị Giới Sư mà vị Tỳ Kheo thọ giới hay một trong mười vị Giới Sư chứng minh không được thanh tịnh thì những đạo tràng đó phần nhiều chẳng được thành tựu.

Sau hai mươi mốt ngày, ngồi nghiêm chỉnh an cư. Trải qua một trăm ngày, những người có lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi mà đắc quả Tu Đà Hoàn. Dầu cho thân tâm thánh quả chưa thành, vẫn quyết định tự biết thành Phật không sai lầm.

Ông hỏi về Đạo Tràng, kiến lập như thế.

Thông rằng: Kiến lập Đạo Tràng cốt ở tinh khiết, ngoài thì trọn vẹn nghi thức, trong thì hết sức thành. Được vậy thì trong ngoài là một, tâm cảnh không hai. Các nhà giải thích mỗi mỗi miễn cưỡng so sánh, hoặc Tín hoặc Trí, hoặc Đức hoặc Hạnh. Nếu như vậy thì chỉ giữ Đạo Tràng tịch diệt là đủ rồi, cần gì kiến lập Đạo Tràng ư?

Duy mười thứ hương, mỗi thứ đều có nghĩa. Bạch Giao Hương hay trừ ác khí, trị ghẻ ban nên tương tự với Giới Hương trừ những bất thiện của Thân. Thanh Mộc Hương hay đánh thức ma ngủ nên tương tự với Tinh Tấn Hương xa lìa ngủ nghỉ. Huân Lục hay dứt đau nên tương tự với Định Hương hay trì giữ. Tô Hợp sát quỷ, trừ tà nên tương tự với Nhẫn Hương chế ngự ma quỷ. Linh Lăng hay giữ mắt sáng nên tương tự với Huệ Hương làm sáng suốt. Chiên Đàn hay thơm xa nên tương tự với Bố Thí Hương. Cam Tùng hay hòa hợp các hương nên tương tự với Giải Thoát Hương hay hòa hợp các công đức. Uất Kim hay trừ độc, đuổi tà nên tương tự với Pháp Hương diệt ám, phá chấp. Kê Thiệt hay khiến thân thể người ta thơm nên tương tự với Giải Thoát Tri Kiến Hương hay dùng tất cả phương tiện vào khắp các cảnh giới. Trầm Thủy thì như Bồ Đề Hương cùng tột vực thẳm của pháp vậy.

Kinh Hoa Nghiêm nói:

- Khi Phật tử thoa hương thì nguyện cho mười thứ hương Ba La Mật xông khắp, là gốc ở chỗ này vậy. Chư Phật, Bồ Tát chưa hẳn đã hưởng sự cúng dường này, mà muốn khiến cho người tu hành phước huệ đều đầy đủ. Như Phật nhận sự cúng dường sau cùng của Ông Thuần Đà. Phật thọ thực vào giữa trưa nên lấy nửa đêm so định giữa trưa. Hoặc gọi nửa đêm khoảng giữa giờ Hợi và giờ Tý, lúc ấy Dương mới động, chẳng lìa Bổn Tánh, cũng như Tam Ma Địa, hai bên không chỗ bám níu, đó là Trung Đạo, do đó nên cúng Phật.

Đến ngày thứ hai mươi mốt, ở chỗ ánh sáng của gương giao nhau, được Phật xoa đảnh, tức là cảnh giới Lý Sự vô ngại vậy. Người tu hành đến địa vị Quán Đảnh thì Phật dùng hào quang nhiếp thọ. Biên giới của Giác giao nhập, ánh sáng chiếu soi nhau, nên lấy thí dụ: Chỗ ánh sáng của gương giao nhau, rất là xác đáng. Cho nên người đắc quả, bên trong sự chói sáng phát ra, thân tâm sáng sạch như ngọc lưu ly, Tánh Trí sáng khắp suốt thông với Phật Huệ. Đây là bằng cớ rất hiệu nghiệm của sức Thần Chú vậy.

Dầu chưa đắc quả vẫn quyết định tự biết thành Phật không sai lầm vì rằng ngồi nghiêm chỉnh an cư, tiêu trừ trần cấu cũng thoáng thấy được cái Tâm Thể tròn đầy sáng suốt, cùng Phật không hai. Chỉ vì tập khí đời trước buộc ràng, nên chưa dễ thấu thoát, nhưng trải qua tháng, năm chưa có ai là chẳng thành.

Luật Sư Linh Chi tạo lại Giới Đàn Ngũ Đài ở Minh Châu. Khi đàn thành rồi, có một ông lão thần khí siêu phàm, mày râu trắng phau, tiến đến thưa rằng: Đệ tử có ba hạt minh châu xin dâng để mừng Giới Đàn thành tựu. Nói xong biến mất. Ngài cho để minh châu ở chính giữa đàn thì hạt châu càng sáng. Sau đó, vị Đàn Chủ mời mười vị sư để mở Giới Pháp. Sau ba ngày, vào lúc nửa đêm, có một nhà sư đăng đàn bỗng thấy hào quang hạt châu tỏ suốt ra ngoài, bên trong hiện hình Thiện Tài Đồng Tử. Nhà sư kinh ngạc hô hoán, mọi người dậy thấy vậy đều vây quanh làm lễ. Mỗi đêm tăng chúng càng thành khẩn lễ bái. Nơi hạt châu khi thì hiện Phật sắc vàng, hoặc Quan Âm sáu tay, hoặc trúc tía, hoặc liễu xanh, hoặc cây, đá lạ kỳ, hoặc chim Ca Lăng Tần Già bay múa trái, phải, hoặc nguyệt cái, hoặc Long Thần dâng châu... thần biến nhiều thứ. Ai thấy nghe cũng bảo hy hữu.

Tuy thế, cùng tột trong sạch, tâm như tâm Phật thì phóng quang hiện điềm lành cũng là việc bình thường vậy.

II. TUYÊN THUYẾT THẦN CHÚ

Kinh:

Ông A Nan đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:

- Từ khi xuất gia, tôi ỷ lại sự thương yêu của Phật, vì cầu sự đa văn nên chưa chứng vô vi. Gặp sự trói buộc của tà thuật Phạm Thiên, tâm tuy sáng suốt mà sức chẳng tự do. Nhờ gặp Ngài Văn Thù khiến tôi được giải thoát. Tuy nhờ Phật Đảnh Thần Chú Như Lai âm thầm giúp sức, nhưng chính mình chưa được nghe. Mong Bậc Đại Từ tuyên thuyết trở lại, thương xót cứu giúp cho những người tu hành trong hội này cho đến những người còn trong luân hồi ở đời sau nhờ mật âm Phật mà thân ý giải thoát.

Khi ấy, hết thảy đại chúng trong hội đều làm lễ, chờ nghe chương cú bí mật của Như Lai.

Bấy giờ, Thế Tôn từ đảnh phóng ra hào quang trăm báu, trong hào quang phóng ra hoa sen báu ngàn cánh, có Hóa Thân Như Lai ngồi trong hoa sen, đảnh phóng mười đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi hào quang đều thị hiện khắp mười hằng hà sa Kim Cang Mật Tích đỡ núi, cầm chữ khắp cõi hư không. Đại chúng ngước trông, sợ mừng hòa lẫn, xin Phật thương che, nhất tâm lắng nghe Như Lai Vô Kiến Đảnh Tướng phóng quang Phật tuyên thuyết Thần Chú.

Thông rằng: Vì sao Thần Chú có thể khiến Ông A Nan tức thời giải thoát? Bởi vì Vô Kiến Đảnh Tướng phóng quang Như Lai tức là thị hiện của Diệu Trạm Tổng Trì Thủ Lăng Nghiêm Vương vậy. Cái ấy đã hằng giữ được tánh trong lặng nên hóa giải cái phân chia Tánh trong lặng, đã kiên cố nên phá tan cái chẳng kiên cố. Như lửa làm tiêu băng tự có cái lý thầm lặng mà thắng đoạt vậy. Sau là Kim Cang Bồ Tát, tâm tinh thuần thì lặng lẽ nhanh chóng phát mở thần thức kẻ kia, người ấy bấy giờ tâm có thể ghi nhớ, đắc túc mạng thông. Huống gì thần lực Như Lai toàn khắp hằng sa thế giới, đâu đâu cũng quang minh, đâu đâu đều giải thoát. Các thứ tà thuật cũng như bụi tuyết rớt vào lò lửa hồng, lập tức tiêu tan.

Ông Cung Phụng Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa Sầm:

- Như sao là Đà La Ni?

Tổ Sa chỉ phía bên mặt thiền sàng, nói:

- Cái ấy sư tăng tụng được đấy.

Hỏi rằng:

- Lại còn ai khác tụng được chăng?

Tổ Sa lại chỉ phía bên trái thiền sàng, nói:

- Cái ấy sư tăng cũng tụng được đấy.

Hỏi rằng:

- Vì sao tôi chẳng có nghe?

Tổ Sa nói:

- Đại Đức há chẳng nghe nói, Chân tụng không vang, chân thính không nghe, ư?

Hỏi rằng:

- Như thế thì âm thanh chẳng nhập pháp giới tánh vậy?

Tổ Sa nói:

- Lìa Sắc cầu thấy, chẳng phải Chánh Kiến. Lìa Thanh cầu nghe, đó là nghe tà.

Hỏi rằng:

- Như sao là Chẳng lìa Sắc là Chánh Kiến; chẳng lìa Tiếng là Thật Nghe?

Tổ Sa khai thị bằng bài kệ:

Đầy mắt vốn chẳng phải sắc,
Tràn tai vốn chẳng phải thanh.
Văn Thù thường chạm mắt,
Quan Âm bịt Nhĩ Căn.
Hiểu ba (Thân) nguyên một thể,
Đạt bốn (Trí) vốn đồng Chân.
Rõ ràng Pháp Giới Tánh,
Không Phật cũng không nhân.

Thế biết, chỗ Tổ Trường Sa nói là Pháp Giới Tánh bèn tùy chỗ mà tuyên tụng Chú Đà La Ni. Cái ấy thật không Phật cũng không người thì chốn nào có được ma sự ư?


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

III. KHAI THỊ ĐÂY LÀ TÂM CHÚ CỦA MƯỜI PHƯƠNG NHƯ LAI

Kinh:

- A Nan, đây là Phật Đảnh Quang Tụ Tất Đát Đa Bát Đát Ra (SITATAPATRA), bí mật Già Đà, vi diệu chương cú, xuất sanh tất cả mười phương Chư Phật. Mười phương Như Lai nhân Chú Tâm này đắc thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác. Mười phương Như Lai nắm Chú Tâm này hàng phục các ma, chế dẹp ngoại đạo. Mười phương Như Lai cỡi Chú Tâm này ngồi hoa sen báu mà ứng hiện vi trần quốc độ. Mười phương Như Lai ngậm Chú Tâm này chuyển Đại Pháp Luân trong vi trần quốc độ. Mười phương Như Lai trì Chú Tâm này, ở khắp mười phương xoa đảnh thọ ký, tự quả của mình chưa thành, cũng ở nơi mười phương nhờ Phật thọ ký. Mười phương Như Lai y Chú Tâm này, thường khắp mười phương nhổ cứu các khổ như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui điếc, câm ngọng, oán ghét ở chung khổ, thương phải xa cách khổ, cầu chẳng được khổ, khổ vì năm ấm lẫy lừng, trái ngang lớn nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn cướp, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn nước, gió, lửa, đói khát bần cùng ứng niệm tiêu tan. Mười phương Như Lai tùy Chú Tâm này ở khắp mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai nghi, cúng dường như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai được suy tôn là Đại Pháp Vương Tử. Mười phương Như Lai được Chú Tâm này ở khắp mười phương nhiếp thọ thân nhân, khiến cho hàng Tiểu Thừa nghe tạng bí mật chẳng sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng Chú Tâm này thành Vô Thượng Giác, ngồi cội Bồ Đề, nhập Đại Niết Bàn. Mười phương Như Lai truyền Tâm Chú này, sau khi diệt độ, phó chúc Phật pháp sự, trụ trì rốt ráo, nghiêm tịnh Giới Luật, tất hẳn đắc thanh tịnh.

Nếu Ta nói về Chú Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra này thì dù âm thanh liên tục, câu chữ không lập lại, từ sáng đến tối, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể cùng tận. Chú này cũng gọi tên là Như Lai Đảnh. Hàng Hữu Học các ông chưa hết luân hồi, phát tâm chí thành cầu quả A La Hán mà không trì Chú này thì không thể nào ngồi đạo tràng khiến cho thân tâm xa lìa các ma sự được.

Thông rằng: Thần Chú Phật Đảnh không thể nghĩ bàn, tuy nói là trì các danh hiệu nhưng cũng như mật lệnh trong quân đội, âm thầm phù hợp tương ứng, và cũng như lấy nước biển lớn để diệt lửa đóm. Hết thảy ma sự do tâm tạo ra, nay lấy cảnh giới không thể nghĩ bàn của Chư Phật mà tẩy rửa đi thì cũng như dùng Tâm Vương dẹp trừ Tâm Tặc, hẳn lập tức diệt ngay.

Tối Thượng Thừa, mật tu, mật chứng, chẳng mượn lời nói, tức đây là thật tế, nên bảo rằng xuất sanh hết thảy mười phương Chư Phật. Một là thành Chánh Biến Tri. Hai là chế phục tà ma, ngoại đạo. Ba là ứng hiện trong vi trần quốc độ. Bốn là chuyển Đại Pháp Luân. Năm là nhờ Phật thọ ký. Sáu là nhổ cứu các khổ. Bảy là làm Pháp Vương Tử. Tám là nhiếp thọ thân nhân. Chín là nhập Đại Niết Bàn. Mười là phó chúc Phật Pháp sự. Tất cả đều dùng Tâm Chú này mà thành tựu. Nếu chẳng phải là Một Đường Tối Thượng thì có gì đáng hơn nữa? Cái ý của tên kinh, rốt cuộc chẳng ra ngoài chỗ đó.

Thành Chánh Biến Tri tức là thể nhập Biển Khắp Biết vậy. Hàng phục tà ma, ngoại đạo tức là tà chú tiêu tan vậy. Ứng hiện trong vi trần quốc độ tức là Diệu Liên Hoa Vương vậy. Chuyển Đại Pháp Luân tức là Vô Thượng Bảo Ấn vậy. Xoa đỉnh thọ ký tức là Quán Đảnh Chương Cú vậy. Nhổ cứu các khổ tức là cứu thoát Ông A Nan cùng Tánh Tỳ Khưu Ni vậy. Đại Pháp Vương Tử tức là Vạn Hạnh của Chư Bồ Tát vậy. Nhiếp thọ thân nhân tức là cứu hộ thân nhân vậy. Nhập Đại Niết Bàn tức là Định Thủ Lăng Nghiêm vậy. Phó chúc Phật Pháp Sự tức là Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Tâm Chú này bao hàm nhiều nghĩa như thế. Mười phương Như Lai đều do đây mà xuất sanh, nên là Chú Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni. Chưa thấu rõ điều này thì các kiến chấp nổi lên như ong vỡ tổ mà thành tà ma, ngoại đạo, tạo nghiệp không thôi mà chịu các khổ. Đây là chỗ giống nhau của vi trần quốc độ. Thấu rõ điều này tức là Pháp Vương Tử, nhờ Phật thọ ký, phó chúc việc Phật pháp, chuyển Đại Pháp Luân, không chỉ tự độ mà còn độ người, thế tức là trước sau thành Phật vậy. Người trì Chú này kỳ hạn là ở chỗ thấy Tánh thành Phật thì loại chương cú bí mật tầm thường há có thể sánh ư?

Tổ Bách Trượng nói:

- Nếu mà nay ở nơi tất cả các pháp hữu vô có tơ hào tâm ái nhiễm thì dù cho chân đang đạp lên hoa sen cũng đồng là ma làm. Nếu chấp vốn thanh tịnh, vốn giải thoát, tự là Phật, tự là người hiểu thiền tức là thuộc về ngoại đạo tự nhiên. Nếu chấp do Nhân Duyên mà chứng đắc tu thành thì thuộc về ngoại đạo nhân duyên. Chấp Có thì thuộc Thường Kiến đạo. Chấp Không thì thuộc Đoạn Kiến đạo. Chấp Cũng Có, Cũng Không thì thuộc Biên Kiến đạo. Chấp Chẳng phải Có, Chẳng phải Không thì thuộc Không Kiến ngoại đạo cũng gọi là ngu si ngoại đạo.

Như nay chẳng khởi ra cái Phật Kiến, Niết Bàn Kiến... Tuyệt không có tất cả Kiến Hữu Vô và cũng không có cái Vô Kiến, thì gọi là Chánh Kiến. Không có hết thảy các cái Nghe mà cũng không có cái Không nghe, gọi là Chánh Văn. Đó là chế phục ngoại đạo. Không có ma phàm phu đến là Đại Thần Chú. Không có ma Nhị Thừa đến là Đại Minh Chú. Không có ma Bồ Tát đến là Vô Thượng Chú. Cho đến cũng không có ma Phật đến là Vô Đẳng Đẳng Chú.

Một là biến ra chúng sanh xiểm xúc Tu La; hai là biến ra Nhị Thừa xiểm xúc Tu La; ba là biến ra Bồ Tát xiểm xúc Tu La. Đây là Tịnh Độ tam biến. Hết thảy các pháp Hữu Vô phàm Thánh ví như quặng vàng, cái Chân Như của chính mình ví như vàng. Vàng và quặng tách ra, thì vàng ròng lộ bày. Bỗng có người kiếm tiền, kiếm đồ báu liền biến vàng ra tiền mà cho. Cũng như bột gạo tinh thuần không có đất cát, có người xin bánh liền biến bột ra bánh mà cho. Lại cũng như kẻ bầy tôi có trí hiểu được ý vua, nếu vua muốn đi mà đòi Tiên Đà Bà thì liền dâng ngựa. Khi vua ăn mà đòi Tiên Đà Bà liền dâng muối... Các thí dụ trên để chỉ người khéo thông đạt huyền chỉ nên ứng cơ chẳng sai lầm. Cũng gọi là Lục Tuyệt Sư Tử.

Tổ Chí Công nói:

- Mặc người tạo tác trăm điều, hàng Thập Địa Bồ Tát không đói, không no, vào nước không chìm, vào lửa không cháy. Dù muốn cháy cũng không thể cháy được! Người ta thì bị số lượng cai quản, qui định. Phật thì chẳng phải thế, vào lửa không cháy mà muốn cháy là cháy. Vào nước không chìm, mà muốn chìm là chìm! Vì Phật sử dụng được bốn Đại tự do vậy.

Ôi, đến địa vị Phật, sử dụng được bốn Đại tự do thì Tánh tức là Chú, Chú tức là Tánh, có chỗ nào mà chẳng thành tựu? Thật không thể nghĩ bàn vậy, đất Trung Nguyên có được chuyện ấy, chỉ có Chú mới hàng phục tà ma. Nay Tổ Bách Trượng nói: Không có các thứ ma đến, tức đó là Chú, thật rất có ý vị vậy.

IV. SỨC CỦA THẦN CHÚ LÀM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG TẠO PHƯỚC ĐỨC, SỐNG CHÂN THƯỜNG

Kinh:

- Này A Nan, như các thế giới, theo chỗ cõi nước có chúng sanh tùy theo sản vật nước mình có: vỏ cây hoa, lá bối, giấy trắng, lụa bạch mà viết chép Chú này, đựng trong túi hương. Người này tâm u tối chưa thể tụng nhớ thì mang trong người hoặc viết trong nhà, phải biết rằng người đó suốt đời không bị tất cả các thứ độc làm hại.

A Nan, nay Ta vì ông nói lại Chú này để cứu hộ thế gian được Đại Vô Úy và thành tựu Trí Xuất Thế Gian của chúng sanh.

Như sau khi Ta diệt độ, chúng sanh đời mạt thế có người tự tụng hay dạy người khác tụng, phải biết những chúng sanh trì tụng như thế: lửa không thể thiêu; nước chẳng thể chìm; độc yếu, độc mạnh không thể hại được. Cho đến các Chú ác dữ của Thiên, Long, Quỷ, Thần, tinh kỳ, ma mị đều không làm gì nổi, tâm được Chánh Thọ. Tất cả bùa chú, trùng độc, thuốc độc, kim khí độc địa, cỏ cây, trùng rắn, khí độc muôn thứ vào trong miệng người ấy đều thành vị cam lồ. Hết thảy ác tinh cùng các quỷ thần lòng dữ hại người, đối với người ấy không thể khởi ra niệm ác. Tần Na, Dạ Ca, các quỷ vương ác độc cùng với quyến thuộc đều chịu ơn sâu, thường ủng hộ che chở.

A Nan, phải biết Chú này thường có tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa cu chi chủng tộc Kim Cang Tạng Bồ Tát mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh tâm còn tán loạn, chưa vào Tam Ma Địa mà lòng nhớ, miệng trì Chú này thì các Kim Cang Vương thường theo bên mình. Huống là người phát tâm Bồ Đề quyết định thì các vị Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát ấy sẽ tinh thành âm thầm phù trợ mà phát khởi thần thức người đó, khiến cho người ấy đúng lúc nhớ lại được tám mươi bốn ngàn hằng hà sa kiếp, rõ biết khắp cả, không còn nghi hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân sau cùng, đời đời không sanh vào các loài dược xoa, la sát, phú đơn na, ca tra phú đơn na, cưu bàn trà, tỳ xá giá... và các ngạ quỷ hữu hình hay vô hình, có tưởng hay không tưởng, và những chốn dữ như thế. Người thiện nam này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc viết hoặc chép, hoặc đeo hoặc cất, hoặc cúng dường nhiều cách Thần Chú này thì kiếp kiếp chẳng sanh vào chỗ không vui, bần cùng hạ tiện.

Các chúng sanh ấy, dù tự mình chẳng làm nghiệp phước mà công đức của mười phương Như Lai hẳn thông cho người này. Do vậy mà trải qua a tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường được cùng Chư Phật sanh ở một nơi, vô lượng công đức nhóm lại như chùm cây ác-xoa thành đồng một chỗ huân tu, vĩnh viễn không phân tán. Thế nên có thể khiến người đã phá Giới được Giới Căn thanh tịnh; người chưa đắc Giới khiến người cho đắc Giới; người chưa Tinh Tấn khiến đắc Tinh Tấn; người không Trí Huệ khiến đắc Trí Huệ; người không Thanh Tịnh chóng đắc Thanh Tịnh; người chẳng giữ Trai Giới tự thành Trai Giới. A Nan, người thiện nam đó khi trì Chú này, giả sử có phạm Cấm Giới khi chưa thọ trì thì sau khi trì Chú hết thảy tội Phá Giới, không kể nặng nhẹ, nhất thời tiêu diệt. Dù đã từng uống rượu, ăn năm thứ rau cay, các thứ bất tịnh thì tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Tiên Thiên, Quỷ Thần không cho là lỗi. Giả sử mặc y phục không sạch rách nát thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh. Dù không lập đàn, chẳng vào Đạo Tràng cũng không hành đạo mà trì tụng Chú này thì công đức so vào Đàn, hành đạo giống nhau không khác. Nếu tạo trọng tội Ngũ Nghịch, Vô Gián và tội Tứ Khí, Bát Khí của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà tụng Chú này rồi thì các nghiệp nặng như vậy hẳn đều diệt hết như gió mạnh thổi tan đống cát không còn chút gì. A Nan, nếu có chúng sanh chưa hề sám hối hết thảy tội chướng nặng nhẹ từ vô lượng vô số kiếp đến giờ mà nay có thể đọc tụng Chú này, đeo giữ trên người hay để nơi chỗ ở như trại, nhà vườn, quán... thì những nghiệp chứa nhóm trước kia đều tiêu tan như nuớc sôi trên tuyết, chẳng bao lâu đều được ngộ Vô Sanh Nhẫn.

Thông rằng: Chỗ này nói về thành tựu Trí Xuất Thế Gian của chúng sanh, cốt yếu là ngộ Vô Sanh Nhẫn mà thôi vậy. Người ta không ngộ Vô Sanh là do chứa nhóm nghiệp làm chướng ngại vậy. Chứa nghiệp không gì qua Sát, Đạo, Dâm, Vọng, gọi là Tứ Khí. Hàng Tỳ Kheo Ni thì thêm Xúc Chạm, Hẹn Hò, Che giấu, Đi Theo gọi là Bát Khí.

Giới Luật có năm hạng tương đương với năm hình phạt của thế gian. Một là Ba La Di tương đương với tội tử hình; hai là Tăng Tàn tương đương với tội lưu đày; ba là Ba Dật Đề tương đương với khổ sai; bốn là Đề Xá Ni tương đương với tội phạt trượng; năm là Đột Kiết La tương đương với tội đánh bằng roi.

Nếu gặp nghiệp đời trước thì nước, lửa, trùng, rắn cũng đủ làm hại. Tuy Thiên, Long, ác tinh không có lòng hại người nhưng một khi chạm phải khí của các loại đó thì không khỏi bị nạn, cũng là sự chiêu cảm của nghiệp trước vậy. Nghiệp có nặng nhẹ, quả báo cũng nặng nhẹ. Nếu chìm đắm trong các nẻo ác, sanh vào chỗ chẳng vui, thì danh Phật còn chẳng nghe huống là đắc Vô Sanh Nhẫn ư? Độc chỉ trì Chú này hay tiêu tan nghiệp trước, khỏi các thứ hoạn nạn độc hại. Nếu là người phát tâm Bồ Đề quyết định thì như gió thổi cát, nước sôi trên tuyết, cầu gì mà chẳng toại ư? Chưa được Chánh Thọ liền đắc Chánh Thọ, chưa thể hành Lục Độ liền đắc Lục Độ, chưa được Túc Mạng liền đắc Túc Mạng, thường sanh cùng một chỗ với Chư Phật, đồng xứ huân tu, do đó mà ngộ Vô Sanh Nhẫn thật là dễ vậy. Công đức trì Chú lớn lao vô cùng, không thể nghĩ bàn vậy.

Thiền sư ni Vô Trước Diệu Tổng nghe Tổ Đại Huệ nêu lên nhân duyên Ngài Dược Sơn ban đầu ra mắt Tổ Thạch Đầu, sau đó đến Đức Mã Tổ, hốt nhiên tỉnh ngộ.

Tổ Đại Huệ xuống tòa giảng thì cư sĩ Phùng Công Tập đi theo đến phương trượng, nói rằng:

- Tôi lý hội được công án Hòa Thượng vừa nêu.

Tổ Huệ nói:

- Thế nào?

Đáp rằng:

- Như thế cũng chẳng được, tô rô ta bà ha! Chẳng như thế cũng chẳng được, tất rị ta bà ha! Như thế, chẳng như thế rốt ráo đều chẳng được, tô rô tất rị ta bà ha!

Tổ Đại Huệ đem chuyện này nói với ni Diệu Tổng.

Ni nói:

- Chỉ từng thấy Quách Tượng chú giải Trang Tử. Người hiểu biết lại cho rằng chính Trang Tử chú giải Quách Tượng.

Tổ Đại Huệ thấy lời nói kỳ dị, lại nêu chuyện Thạch Đầu gặp Bà Tử mà hỏi thì ni Diệu Tổng đáp bằng kệ:

Một chiếc thuyền nan nổi mấy phương,
Cất mái múa chèo biệt cung thương.
Núi mây, trăng biển đều vất ráo,
Được quá Trang Châu mộng bướm trường.

Tổ Đại Huệ bèn thôi.

Ông Phùng Công nghi ngờ chỗ ngộ của ni Diệu Tổng chưa căn bản, sau đó qua đất Vô Tích, mới đến thuyền hỏi rằng:

- Lão bà sanh bảy đứa con, sáu đứa không gặp tri âm, chỉ tại một đứa cũng chẳng tiêu tan được, bèn quăng xuống nước! Lão sư Đại Huệ bảo đạo nhân lý hội được là hiểu thế nào?

Ni đáp:

- Trên mà cùng thông khắp thì cùng đến chỗ Chân Thật!

Ông Phùng rất kinh hoảng.

Như chỗ ngộ Vô Sanh Nhẫn của ni Diệu Tổng là Chú đấy ư? Là chẳng phải Chú đấy ư? Mà sao nhả hơi xuất lời không dễ gì đo đếm, đoán biết vậy?

V. CHÚ LÀ PHƯỚC ĐỨC NHƯ Ý CHO MÌNH VÀ CHO CẢ NƯỚC, BẢO HỘ CHO NGƯỜI SƠ HỌC

Kinh:

- Lại nữa, A Nan, nếu có người nữ chưa có con mong cầu có thai mà có thể chí tâm nhớ niệm Chú này, hoặc đeo trên người Chú Tất Đát Đa Bát Đát Ra này, bèn sanh con trai con gái trí huệ phước đức. Người cầu sống lâu tức được sống lâu. Muốn cầu quả báo mau được viên mãn thì mau được viên mãn. Về thân mạng, dung mạo, sức khoẻ cũng lại như vậy. Sau khi mạng chung, tùy nguyện mà sanh qua mười phương quốc độ, nhất định không sanh nơi biên địa hạ tiện huống là các loài dị hình.

A Nan, nếu các cõi nước, châu huyện, làng xóm bị đói kém, dịch lệ hay giặc nạn mà viết Thần Chú này treo ở bốn cửa thành, các chỗ thờ tự hoặc trên các lá phướn, rồi khiến chúng sanh nơi ấy vâng đón, cung kính lễ bái, hết lòng cúng dường Chú này, khiến nhân dân mỗi người đeo trong mình hay cất trong mỗi nhà thì tất cả tai ách thảy đều tiêu diệt.

Này, A Nan, bất kỳ chỗ nào mà có Chú này thì Thiên Long hoan hỷ, mưa thuận gió hòa , mùa màng sung túc, dân chúng an vui. Chú này lại có thể trấn phục tất cả ác tinh, tùy phương hiện các điềm quái, đều khiến cho tai chướng không khởi, con người không bị chết dữ, chết yểu, thân thể không vướng xiềng xích gông cùm, ngày đêm ngủ ngon, thường không ác mộng.

Này, A Nan, cõi Ta Bà này có tám vạn bốn ngàn tai biến ác tinh, hai mươi tám đại ác tinh đứng làm đầu, lại có tám đại ác tinh làm chủ biến hiện nhiều thứ trên đời, gây ra nhiều loại tai họa dị thường cho chúng sanh. Chỗ nào có Chú này thì các thứ đó đều tiêu diệt hết, trong mười hai do tuần làm vòng kết giới thì các điềm tai biến hung dữ vĩnh viễn không vào được.

Thế nên, Như Lai tuyên dạy Chú này để bảo hộ các người tu hành sơ học trong đời vị lai vào được Tam Ma Địa, thân tâm rộng không, được đại an ổn, không bị hết thảy ma quỷ thần và những oan khiên, nợ nghiệp từ vô thủy tới nay đến khuấy hại. Ông với những người Hữu Học trong chúng này cùng những người tu hành đời vị lai y theo đàn tràng ta dạy, như pháp mà trì Giới, gặp được bậc Giới Chủ là vị Tăng thanh tịnh, đối với Tâm Chú này chẳng sanh nghi hối; người thiện nam tử như thế ngay nơi thân cha mẹ sanh ra này mà không được Tâm Thông thì mười phương Như Lai hóa ra là vọng ngữ!

Thông rằng: Chỗ này nói về cứu hộ thế gian được Đại Vô Úy, đại khái giống như bốn Diệu Đức không thể nghĩ bàn của Ngài Quan Thế Âm: cầu trai được trai, cầu gái được gái, cầu sống lâu được sống lâu, cầu viên mãn được viên mãn mà cốt yếu là quy về Tâm Thông. Tâm Thông không ra ngoài ba nghĩa: Một là chứng quả, tức là ngồi nghiêm chỉnh an cư một trăm ngày đắc quả Tu Đà Hoàn; hai là tỏ hiểu, tức là tự biết nhất định thành Phật không sai; ba là Túc Mạng Thông, tức là rõ biết khắp cùng không còn nghi hoặc. Tâm Thông này cũng từ trong cái không thể nghĩ bàn mà được, huống là các thứ linh ứng để đề phòng tai họa, chế ngự hoạn nạn làm sao nghĩ bàn được?

Năm Thứ Mười Ba niên hiệu Đại Nghiệp, Đức Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến Cát Châu thì gặp bọn cướp vây thành bảy tuần (bảy mươi ngày) chẳng lui tan, mọi người đều sợ hãi. Tổ thương xót, dạy bày niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. Khi ấy, bọn cướp nhìn lên trên thành như có thần binh, bèn bảo nhau: Trong thành ắt có dị nhân, không thể đánh được. Bèn lần lần bỏ đi.

Lại như Trần Tôn Túc (Mục Châu) ở chùa Khai Nguyên hàng ngày đan dép để nuôi mẹ, cho nên có hiệu là Trần Dép Cỏ. Giặc cướp vào xứ, Tổ treo một chiếc dép cỏ nơi cửa thành. Giặc muốn vất đi, dùng hết sức cũng chẳng nhúc nhích, bèn than: Xứ Mục Châu này có Đại Thánh Nhân, rồi bỏ thành mà rút lui. Dân trong thành khỏi bị tai họa.

Chỗ này quả là rõ ràng rồi vậy. Những chuyện khác thì Cao Tăng Truyện ghi lại kể ra không xiết. Còn như tất cả ác tinh tùy phương mà hiện các điềm quái thì cũng như vọng kiến đồng nghiệp ở đoạn trước, mỗi thứ đều do nghiệp cảm, chẳng phải khi không mà sanh. Ác tinh có tám mươi bốn ngàn thứ tương ứng với chừng ấy nghiệp phiền não của chúng sanh. Việc con người làm ở dưới, trời biến hiện đối ứng ở trên. Thiên tượng lớn có hai mươi tám ngôi cùng các dư khí của kinh tinh ngũ hành. Tất cả đều bẩm thọ cái tinh hoa của ngũ hành mà vận chuyển trong không trung. Hễ nghịch tánh nó thì tai họa ứng đáp như các sao Tuệ, Bộ, Phi Lưu, Thái Bạch, Xi Vưu... Chú này sức Từ rộng lớn, tinh ròng chí thiện nên tất cả các khí xấu không đến gần được, bởi thế có thể tiêu diệt các tai họa dị kỳ ngoài mấy trăm dặm.

Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng sanh ra vào ngày Tám tháng Tư năm Thứ Hai niên hiệu Nghi Phụng đời Đường, cảm ứng có luồng bạch khí hiện ở trên trời khoảng xứ An Khương.

Quan Thái Sử trông thấy bèn tâu lên vua Cao Tông.

Vua hỏi:

- Đây là điềm lành gì?

Đáp rằng:

- Pháp khí của đất nước, chẳng nhiễm vinh hoa thế gian.

Vua bèn sai Thái Thú đất Kinh Châu là Hàn Giai đích thân đến vấn an gia đình.

Phàm chỗ cảm ứng của thiện ác thì lành dữ khác hẳn nhau, ai dám bảo Chú này không đủ để tiêu sạch tai họa ư ?

VI. CÁC THẦN HỘ PHÁP PHÁT NGUYỆN BẢO HỘ RỘNG RẢI

Kinh:

Phật dạy lời ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong hội đều đồng thời ở trước Phật chấp tay đảnh lễ, thưa rằng:

- Như lời Phật dạy, chúng tôi sẽ thành tâm bảo hộ những người tu Bồ Đề như vậy.

Khi ấy, Phạm Vương cùng trời Đế Thích, bốn Đại Thiên Vương cùng ở trước Phật đồng thời đảnh lễ, thưa rằng:
- Quả có người lành tu học như vậy chúng tôi sẽ tận tâm chí thành bảo hộ, khiến cho họ suốt đời tu hành được như nguyện.

Lại có vô lượng Đại Tướng Dược Xoa, các vua La Sát, vua Phú Đơn Na, vua Cưu Bàn Trà, vua Tỳ Xá Giá, các Đại Quỷ Vương Tần Na Dạ Ca cùng các Quỷ Soái cũng ở trước Phật chấp tay đảnh lễ, thưa rằng:

- Chúng tôi cũng thệ nguyện hộ trì người này khiến tâm Bồ Đề sớm được viên mãn.

Lại có vô lượng Thiên Tử Nhật Nguyệt, Thần Gió, Thần Mưa, Thần Mây, Thần Sấm và các hàng Thần Điển, các quan tuần trong năm, quyến thuộc chủ tinh... cũng ở trong hội đảnh lễ chân Phật, thưa rằng:

- Chúng tôi cũng bảo hộ người tu hành này để an lập Đạo Tràng, được Vô Sở Úy.

Lại có vô lượng Thần Núi, Thần Biển, hết thảy các loài tinh kỳ muôn vật ở đất đai, trên không, dưới nuớc và Vua Thần Gió, Trời Vô Sắc Giới ở trước Như Lai đồng thời cúi đầu, thưa rằng:

- Chúng tôi cũng bảo hộ người tu hành ấy đắc thành Bồ Đề, vĩnh viễn không có ma sự.

Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa câu chi Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát ở trong Đại Hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, như bọn chúng tôi, công nghiệp tu hành đã thành Bồ Đề từ lâu mà chẳng giữ Niết Bàn, thường theo Chú này để cứu người chánh tu hành tu Tam Ma Đề trong đời mạt thế. Thưa Thế Tôn, người tu tâm cầu chánh định như vậy, dầu ở đạo tràng hay lúc kinh hành, cho đến tán tâm dạo chơi xóm làng thì đồ chúng của chúng tôi vẫn thường đi theo hầu hạ bảo vệ người ấy. Giả sử Ma Vương, Đại Tự Tại Thiên muốn có cơ hội để khuấy phá, rốt cuộc cũng không thể được. Các quỷ thần nhỏ cách xa người này ngoài mười do tuần, trừ phi hạng đó phát tâm muốn tu thiền. Bạch Thế Tôn, những ác ma hay quyến thuộc của ma như vậy muốn đến quấy phá người lành này, chúng tôi sẽ dùng bảo chử đánh nát đầu như tro bụi, thường khiến cho người này tu hành được như nguyện.

Thông rằng: Người trì Chú này được các Thần bảo hộ. Người trì Chú này chóng đắc Bồ Đề. Người trì Chú này vĩnh viễn không có ma sự. Nguyện lực của Bồ Tát Kim Cang Tạng thật quá sâu xa: Chẳng giữ lấy Niết Bàn, thường theo Chú này mà cứu hộ người tu hành chân chánh trong đời mạt thế, nên các ma không có được cơ hội khuấy phá.

Ma Vương Chướng Tế thống lãnh quyến thuộc theo Bồ Tát Kim Cang Tề một ngàn năm tìm kiếm chỗ khởi xứ mà chẳng được. Bỗng nhiên ngày nọ thấy được, bèn hỏi:

- Ngài y trụ chỗ nào mà tôi suốt một ngàn năm tìm khởi xứ của Ngài không ra?

Bồ Tát nói:

- Ta chẳng y hữu trụ mà trụ, chẳng y vô trụ mà trụ, như thế mà trụ.

Tổ Pháp Nhãn nói:

- Ma Vương Chướng Tế chẳng thấy Kim Cang Tề bèn theo, còn như Kim Cang Tề có thấy Ma Vương chăng?

Tổ Diệu Hỷ nói:

- Đã kiếm khởi xứ không ra thì chuyện một ngàn năm đi theo là gì thế?

Đức Kim Cang Tề nói:

- Ta chẳng y hữu trụ mà trụ, chẳng y vô trụ mà trụ, như thế mà trụ, ấy là hỗ tương lừa dối quá lắm!

Tổ Pháp Nhãn nói:

- Ma Vương Chướng Tế chẳng thấy Kim Cương Tề bèn theo, còn như Kim Cương Tề có thấy Ma Vương chăng?

Phán đoán như thế cũng là xem lỗ mà đặt nêm!

Nay đây bộ không biết khởi xứ của Diệu Hỷ ư? Hãy theo sau mà la lên rằng: Nói mớ gì thế? Xét Diệu Hỷ phán đoán như vậy, quả là Ma Vương rình mò chẳng thấy! Nhưng Ma Vương khổ sở muốn kiếm khởi xứ đến đổi đi theo một ngàn năm thì Ma Vương cũng phát tâm muốn tu thiền vậy. Thế nên đối với Bồ Tát Kim Cang Tề chẳng có chi xa cách, mà Bồ Tát Kim Cang tề cũng muốn thuyết pháp cho. Những việc ấy đều không phải người tầm thường mà suy lường nổi.

Từ Quyển Bốn mời vào Nhà Hoa, cho đến đây gọi chung là phần Tu Đạo. Văn sau riêng là phần Chứng Quả.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

CHƯƠNG IV
KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

MỤC MỘT:

KHAI THỊ HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO VÀ BA MÓN TIỆM THỨ

I. ÔNG A Nan XIN KHAI THỊ NHỮNG DANH MỤC, THỨ BẬC TU HÀNH

Kinh:

Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên, đảnh lễ chân Phật, bạch Phật rằng:

- Chúng tôi ngu độn, thích được đa văn, với các tâm hữu lậu chưa cầu lìa khỏi. Nhờ Phật từ bi dạy dỗ được sự huân tu chân chánh, thân tâm khoan khoái an nhiên, được lợi ích lớn. Thưa Thế Tôn, tu chứng Tam Ma Đề của Phật như thế, khi chưa đến Niết Bàn thì thế nào gọi là Càn Huệ Địa? Bốn mươi bốn tâm thứ lớp đến đâu để được danh mục tu hành? Đến nơi chốn nào thì gọi là Nhập Địa? Sao gọi là Đẳng Giác Bồ Tát?

Thưa hỏi thế rồi, năm vóc gieo xuống đất. Đại chúng nhất tâm chờ từ âm Phật, chiêm ngưỡng không chớp mắt.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen Ông A Nan rằng:

- Hay thay! Hay thay! Các ông mới có thể khắp vì đại chúng và tất cả chúng sanh đời mạt thế tu Tam Ma Đề, cầu Đại Thừa mà xin Ta nêu bày con đường chánh tu hành từ phàm phu cho đến Đại Niết Bàn. Nay ông hãy lắng nghe, sắp vì ông nói.

Ông A Nan và đại chúng chấp tay, chú tâm yên lặng thọ giáo.

Thông rằng: Ban đầu, Phật bảo Ông A Nan: Tâm gọi là thẳng. Như thế, từ đầu đến cuối, các địa vị trung gian vĩnh viễn không có tướng quanh co. Niết Bàn là cuối, Càn Huệ là đầu, bốn mươi bốn trung gian là Tín, Trụ, Hướng và Tứ Gia Hạnh, chẳng phải là không có thứ lớp, đó là danh mục tu hành vậy. Tiến vào Thập Địa cho đến Địa Thứ Mười Một là Đẳng Giác Bồ Tát. Đến Đại Niết Bàn mới gọi là Diệu Giác.

Cái nơi chốn đạt đến này không mượn vào việc tu. Vậy làm sao được cái tướng không quanh co đây? Không quanh co nghĩa là nhất siêu trực nhập, trước sau không khác, là con đường Diệu Bồ Đề Tối Thượng vậy. Bởi thế, Phật bảo:

- Nêu bày con đường chánh tu hành Vô Thượng từ phàm phu cho đến Đại Niết Bàn.

Nghĩa là từ phàm phu mà chứng thẳng Diệu Giác, không mượn gì thứ lớp. Nêu bày, nghĩa là chúng sanh chưa chứng nên nói trước cho, đại để như vậy.

Tổ Hoàng Bá nói:

- Tâm đây tức là cái Tâm Vô Tâm. Lìa cả thảy Tướng thì chúng sanh cùng Chư Phật không có chút gì sai khác. Chỉ là Vô Tâm, bèn là rốt ráo.

Các người học Đạo! Như chẳng ngay đây Vô Tâm thì bao kiếp tu hành rốt chẳng nên gì, bị công hạnh của Tam Thừa ràng buộc, chẳng có giải thoát. Nhưng chứng Tâm này có mau chậm. Có người nghe pháp một niệm bèn được Vô Tâm. Có người đến Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng mới được Vô Tâm. Có người đến Thập Địa mới được Vô Tâm. Dầu dài hay ngắn, được Vô Tâm là trụ, không còn gì có thể tu, có thể chứng, thật Không Chỗ Đắc, chân thật chẳng hư. Một niệm mà đắc cũng như Thập Địa mà đắc, công dụng như nhau không có sâu cạn, chỉ khỏi bao kiếp uổng công cần khổ vậy.

Lời dạy của Tổ Hoàng Bá cũng đồng như Phật nêu bày con đường chánh tu hành Vô Thượng. Ngay đây mà thấu suốt mới tin khoảng trung gian quả là không các tướng quanh co.

II. KHAI THỊ HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO

Kinh:

Phật nói:

- A Nan, hãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng sanh. Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt. Sanh diệt thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân. Đó gọi là hai danh hiệu chuyển y Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn của Như Lai vậy.

Thông rằng: Tánh mà nói là Diệu thì chẳng trệ nơi Tịch. Minh mà nói là Viên thì chẳng sa vào cái Sở, mà lìa tướng, lìa danh, không thể nghĩ bàn. Chứng vào Diệu Tánh này thì thế giới chẳng phải là thế giới, chúng sanh chẳng phải là chúng sanh, tức vọng thành Chân, cái sanh diệt chẳng phải là sanh diệt vậy.

Tổ Mã Minh nói:

- Vì chẳng như thật biết Chân Như Nhất Pháp nên tâm bất giác động mà thành có ra niệm. Niệm tức là tướng sanh, sanh tức là tướng diệt. Sanh diệt, danh Tướng đều là vọng. Bằng như thật mà rõ biết Chân Như Nhất Pháp ắt Vọng vốn không chỗ có. Giống như người theo phương hướng mà mê lầm, sự mê lầm nào có tự tướng! Cho Đông là Tây mà phương hướng thật nào có xoay chuyển gì đâu. Tỉnh ngộ ra thì cái phương Tây mê lầm kia đâu có! Mê thì cho là tâm động mà thật nào chẳng có động. Như biết cái tâm động ấy là chẳng sanh diệt, liền vào thẳng cửa Chân Như.

Rốt ráo thay lời nói này! Đây có thể làm lời dạy chân chánh cho cái Diệt Vọng thì gọi là Chân, vậy. Thế nên, chuyển cái bất giác y vào Tánh Giác gọi là Bồ Đề Vô Thượng; chuyển cái sanh tử y vào Vô Sanh gọi là Niết Bàn, chứ chẳng phải lìa cái bất giác mà còn có riêng cái Giác, chẳng phải lìa sanh tử mà có riêng cái Vô Sanh. Chỉ là cái vọng kiến diệt đi tức Chân Tánh hiện. Cái bất giác này liền ngay là Chân Giác; cái sanh diệt này liền thật là Vô Sanh. Tức là cái thế giới chúng sanh này đây vốn không có chi là chúng sanh, thế giới. Thế nên mới gọi là Vô Thượng, đó là Đại!

Chuyển Y thì có sáu thứ: Một là, Tổn lực ích năng chuyển, nghĩa là tổn giảm thế lực của chủng tử ô nhiễm và tăng thêm công năng của chủng tử thanh tịnh, lần lần chế phục sự hiện hành, cũng gọi là Chuyển Y.

Hai là, Thông đạt chuyển, nghĩa là do thấy Đạo, đạt Chân, rồi nỗ lực đoạn trừ hai cái Chướng (Phiền Não và Sở Tri), chứng sơ lược một phần Chân Thật Chuyển Y.

Ba là, Tu tập chuyển, nghĩa là hàng Thập Địa từng Địa đoạn dần câu sanh Vô Minh, chứng Chân Chuyển Y.

Bốn là, Quả mãn chuyển, nghĩa là ở địa vị cứu cánh dùng Kim Cương Định vĩnh viễn đoạn trừ tất cả Vô Minh thô, tế, đốn chứng Chuyển Y Phật Quả Viên Mãn.

Năm là, Hạ liệt chuyển, nghĩa là hàng Nhị Thừa chán khổ ưa tịch lặng, ở chỗ chứng Chân Trạch Diệt, không có khả năng kham nhẫn thù thắng.

Sáu là, Quảng đại chuyển, nghĩa là địa vị Đại Thừa, không có cả ưa lẫn chán, thông đạt ngã pháp đều Không, song đoạn hai Chướng, đốn chứng Vô Thượng Bồ Đề, bởi có khả năng kham nhẫn thù thắng.

Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn này Quảng Đại Chuyển Y Thứ Sáu cùng với Quả Mãn Chuyển Y Thứ Tư đều là Đốn Chứng. So với hàng Nhị Thừa hạ liệt lần lượt tu tập hoàn toàn khác hẳn.

Thiền Sư An Dân, ban đầu giảng kinh Lăng Nghiêm ở thành đô, được hàng nghĩa-học nương về. Thời ấy, Tổ Viên Ngộ ở chùa Chiếu Giác. An Dân có bạn lành là Thắng thiền sư nên đến đó. Nghe được Tổ Viên Ngộ vào lúc tiểu tham nêu ra nhân duyên ba lần kêu thị giả, thì Triệu Châu có đề ra câu nói: Như người viết chữ trong tối, chữ tuy chẳng thành mà văn vẻ đã rỡ ràng. Trong chỗ nào là văn vẻ đã rỡ ràng?

Sư An Dân tâm nghi chuyện ấy, đốt hương xin vào thất của Tổ.

Tổ Viên Ngộ hỏi:

- Tòa chủ giảng kinh gì?

Đáp rằng:

- Lăng Nghiêm.

Tổ Ngộ nói:

- Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ trưng bày Tâm, tám nơi trả về để biện rõ Tánh Thấy, vậy rốt ráo Tâm ở chỗ nào?

Sư An Dân trình bày giải thích lắm thứ, Tổ đều chẳng chịu, mới bảo hãy ở nơi, Tất cả chốn là văn vẻ đã rỡ ràng, mà thể hội.

Tình cờ có nhà sư hỏi Tổ về Thập Huyền Đàm, vừa mới nêu ra câu: Tâm ấn của thầy, dáng vẻ thế nào..., thì Tổ Viên Ngộ nói lớn:

- Văn vẻ đã rỡ ràng!

Sư Dân nghe liền có chỗ tỉnh ngộ, bèn xin ấn chứng.

Tổ dạy:

- Lấy bổn sắc mà trui rèn thì vô ích.

Một hôm, sư thưa với Tổ:

- Xin Hòa Thượng thôi nêu lời, để tôi nói xem sao.

Tổ chấp thuận.

Sư Dân nói:

- Bình thường dơ chùy, dựng phất há chẳng phải là chỗ trong kinh nói: Hết thảy hình tướng có trong thế gian đều tức là Bồ Đề Diệu Minh Chân Tâm, ư?

Tổ Viên Ngộ cười, nói:

- Ông xưa nay ở trong đó mà sinh nhai đấy!

Sư Dân lại nói:

- La hét, gõ sàng há chẳng phải là: Phản văn văn tự tánh, tánh thành Vô Thượng Đạo, ư?

Tổ nói:

- Ông há chẳng thấy trong kinh nói: Diệu Tánh sáng đầy, lìa các danh tướng, ư?

Sư Dân ngay nơi lời nói được tiêu tan vướng mắc.

Tổ Viên Ngộ ra khỏi đất Thục, đến ở Giáp Sơn. Sư thôi giảng kinh, theo hầu bên Tổ. Tổ ban đêm giảng thiền cho chúng, nêu ra công án: Buồm xưa chưa căng. Sư chẳng khế hội, xin Tổ giải quyết.

Tổ Ngộ nói:

- Ông hỏi đi!

Sư vừa mới cất lời, Tổ Ngộ liền nói:

- Trước sân, cây bách!

Sư bèn tỏ suốt, nói với Tổ rằng:

- Người xưa nói, Như một giọt nước rớt vào trong ao lớn, nào chẳng biết Biển lớn rớt vào trong một giọt nước!

Tổ cười nói:

- Kể sá gì lão ấy! Chưa chi đã khiến phân tòa giảng!

Rồi nói bài kệ:

Thôi khoe Tứ Phận, dẹp Lăng Nghiêm,
Ở chốn đầu mây, triệt để tham.
Chẳng học Lương Công gần Mã Tổ,
Mà như Đức Kiểu lễ Long Đàm.
Ba thu bay lượn núi Bích Nham,
Nay phiền ngồi tạm Nhất Tòa nhé,
Giữa chốn trăm hoa, hiện Ưu Đàm.

Người xưa thực tham, thực chứng, trải qua bao nhiêu Chuyển Y rồi sau mới được chỗ yên ổn mà ngồi. Thế biết cái Diệt Vọng gọi là Chân, chẳng phải dễ chứng đắc.

Kinh:

- A Nan, nay ông muốn tu pháp Chân Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn của Như Lai thì trước hết phải biết hai cái nhân điên đảo này của chúng sanh cùng thế giới. Điên đảo chẳng sanh, đó là Chân Tam Ma Địa của Như Lai.

Thông rằng: Chân Tam Ma Địa chẳng phải do tu mà đắc. Phàm cái gì có thể tu thì không thể nói là Chân được. Đối với vọng duyên thì trước tiên rõ biết nguyên nhân, nguyên nhân đã không có thì điên đảo chẳng sanh ra. Đã không có điên đảo mà chẳng gọi là Chân thì gọi là gì?

Tiền trần duyên ra là phân đoạn vọng sanh, tức là nghĩa của Giới. Giới không có tánh. Trôi dời chẳng dừng là nghĩa của Thế. Thế cũng không có tự tánh. Vốn không Tự Tánh, đương thể Không Tịch, đó là Chân Tam Ma Địa.

Thiền sư Cổ Linh Thần Tán gặp Tổ Bách Trượng được khai ngộ, bèn về chùa cũ.

Vị bổn sư hỏi rằng:

- Ông xa tôi đi ra ngoài, được sự nghiệp gì?

Đáp rằng:

- Tuyệt chẳng có sự nghiệp gì cả.

Thầy bèn khiến làm việc như trước.

Một hôm thầy Ngài tắm, bảo Ngài kỳ lưng.

Ngài bèn vỗ lưng, nói:

- Cái Phật đường đẹp mà Phật chẳng Thánh!

Thầy quay đầu nhìn, Ngài nói:

- Phật tuy chẳng Thánh mà hay phóng quang.

Thầy Ngài một hôm ngồi bên cửa sổ xem kinh, lúc ấy có con ong đang đục giấy cửa sổ định chui ra ngoài.

Ngài thấy thế, bảo:

- Thế giới thênh thang như kia lại chẳng chịu ra, cứ xoi giấy cũ thì năm Lừa mới nổi!

Rồi nói bài kệ:

Cửa Không chẳng chịu thoát,
Chui cửa sổ quá si.
Trăm năm dùi giấy cũ,
Ngày nào mới xuất đầu!

Thầy Ngài để kinh xuống, hỏi rằng:

- Ông đi tham học gặp ai, mà sao trước sau tôi thấy ông ăn nói lạ thường!

Sư đáp:

- Con nhờ Hòa Thượng Bá Trượng chỉ cho cái chỗ ngừng nghỉ, nay muốn báo đáp ân đức từ mấy lâu nay.

Thầy Ngài bèn bảo chúng thiết trai, mời Ngài thuyết pháp.

Sư bèn lên tòa, nêu xướng môn phong Tổ Bách Trượng rằng:

Linh quang độc rạng,
Vượt thoát căn trần.
Thể lộ Chân Thường,
Chẳng vương văn tự.
Tâm Tánh không nhiễm,
Vốn tự Viên Thành.
Chỉ lìa vọng duyên,
Tức Như Như Phật.

Thầy Ngài nghe xong cảm ngộ, nói:

- Ngờ đâu có duyên được nghe cực tắc sự!

Đây cũng gọi là Thẳng đến Đại Niết Bàn của Như Lai, vậy. Nếu chẳng thế thì ít ai không tùy theo cái điên đảo của chúng sanh, có lúc nào mới thôi?

Kinh:

- A Nan, thế nào gọi là Điên Đảo tạo thành Chúng Sanh?

A Nan, do Tâm Tánh vốn Minh, tánh Minh ấy tròn đầy toàn khắp, nên nhân cái Minh vọng phát hình như có tánh, cái tánh ấy do vọng kiến mà sanh. Vậy là từ chỗ Rốt Ráo Không lại hóa thành Rốt Ráo Có. Cái Có này có được là do cái vốn chẳng có nhân làm nhân. Tướng Năng Trụ và Sở Trụ từ căn bản không có cội gốc. Rồi nương nơi cái cội gốc không có chỗ trụ này mà kiến lập ra thế giới cùng chúng sanh.

Vì mê Bổn Tánh Viên Minh mà sanh hư vọng, nhưng tánh của vọng không có tự thể, chẳng có chỗ nương trụ. Vừa muốn trở lại Chân Tánh thì cái muốn Chân đó đã chẳng phải là Tánh Chân Như chân thật. Trong cái chẳng phải Chân mà cầu trở lại Chân thì rõ ràng là hiện thành những Phi Tướng: Phi Sanh, Phi Trụ, Phi Tâm, Phi Pháp. Xoay vần phát sanh. Sanh lực phát minh, huân tập thành Nghiệp. Đồng nghiệp thì cảm nhau, nhân có cảm nghiệp bèn có sự sanh nhau, diệt nhau. Do vậy mà có cái Điên Đảo tạo thành Chúng Sanh.

Thông rằng: Ở trước kinh nói, Chúng sanh nối tiếp nhau, lỗi lầm là Giác Minh. Ở đây nói, Điên đảo của chúng sanh tức nhiếp hết nghiệp quả, là nhân cái Minh mà vọng phát hình như có Tính, cái Tính ấy do Vọng Kiến mà sanh.

Phàm Tánh Minh sao lại sanh hư vọng? Đó là nhân cái Minh tức là có phân biệt, có phân biệt thì sa lạc thành thức tình, thức tình không có gốc gác nên gọi là hư vọng. Như không có phân biệt thì tức là cái Dụng của Trí, thường phân biệt mà không nhiễm trước, đó gọi là Bạch Tịnh Thức, là Đại Viên Cảnh Trí. Không rơi vào nơi chỗ nên nói là Minh Viên, tròn đầy sáng khắp. Một khi lập ra cái Sở, cái Minh liền chẳng Viên mà hóa thành Vọng Kiến. Cũng như đoạn trước nêu ra mặt trăng thứ hai và bóng lòe của đèn đều là bệnh nhặm mắt. Đó là từ rốt ráo không thành ra rốt ráo có vậy.

Cái Năng Hữu cùng cái Sở Hữu này chẳng phải có một nguyên nhân gì để hiện ra là Năng hay Sở cả. Đã không có nhân thì lấy gì mà nương trụ? Vậy nên tướng Năng Trụ, Sở Trụ này là tướng hư vọng, rốt ráo không có cội gốc gì để tìm thấy. Trụ vốn không gốc gác thì trụ bèn là Không Trụ. Như rõ được cái Vô Trụ này thì đương thể Vô Sanh. Không nói đó là Không, chỉ là Vô Trụ. Gốc ở cái Vô Trụ này kiến lập hết thảy pháp, không ngại gì thế giới, chúng sanh, sắc sắc kiến lập: trong Tự Tánh Viên Minh vốn không có chướng ngại. Một tức tất cả. Tất cả tức Một. Tìm cái Chân còn không có, huống gì là có Vọng ư? Chỉ vì mê Tánh Viên Minh này thì phân biệt vọng sanh ra.

Cho rằng phân biệt hư vọng đó là y nơi Chân mà sanh ư? Chân chẳng phải là môi giới cho Vọng.

Cho rằng phân biệt hư vọng đó là y nơi Cảnh mà sanh ư? Cảnh chẳng phải là nguồn phát xuất của Tâm. Rõ không có chỗ nương tức là không có tự thể. Vọng vốn không có tự thể, thì Vọng ấy tức là Chơn ấy, ngay đó hiện là Chân Tâm, chẳng phải trừ Vọng để có Chân. Khởi ra cái Vọng phân biệt rồi lại muốn trở về cái Chân, thì một niệm về Chân này hoàn toàn là Vọng. Vì sao thế? Tánh Chân Như chân thật vốn tự Vô Tâm, cái Chân há có thể đắc để mà muốn được ư? Hễ muốn Chân liền chẳng phải Chân. Trong cái chẳng phải Chân mà cầu trở về thì đó cũng là trở về nơi cái chẳng phải Chân vậy. Thế thì rõ là chẳng hiện thành những tướng Phi Chân sao ? Có Vọng, có Chân, Chân cùng Vọng đối thì Chân đó đã là Vọng rồi vậy. Có thể cầu, có thể trở lại, ắt thuộc về tạo tác, mà tạo tác đâu có thể là Chân. Do đó mà nói Rõ ràng hiện thành Phi Tướng.

Cái gọi là Tướng, đó là Sanh Tướng, Trụ Tướng, Tâm Tướng, Pháp Tướng. Vô Sanh mà cho là Có Sanh thì cái Sanh ấy là Phi vậy. Vô Trụ mà cho là có Trụ thì cái Trụ ấy là Phi vậy. Vô Tâm mà cho là có Tâm thì cái Tâm ấy là Phi vậy. Vô Pháp mà cho là có Pháp thì Pháp ấy là Phi vậy. Đó là bốn cái Phi Tướng xoay vần sanh nhau.

Nương nơi pháp mà sanh tâm thì cảnh giới làm duyên mà sanh ra Trí Tướng, Tương Tục Tướng. Do tâm trụ vào pháp thì do hai thứ Trí Tướng và Tương Tục Tướng mà lại khởi ra Chấp Thủ Tướng và Kế Danh Tự Tướng. Tâm cùng pháp tương sanh thì đó là sanh lực phát minh. Bốn cái này đều là Hoặc (Mê Lầm) huân tập thành Nghiệp, bèn khởi ra cái Nghiệp Tướng vậy.

Do có đồng nghiệp cảm ứng lẫn nhau mà sanh diệt tương tục, đó là nghiệp-hệ-khổ-tướng vậy. Bởi có ba thứ Hoặc, Nghiệp và Khổ mà thành Điên Đảo của chúng sanh. Như chẳng mê bổn tánh viên minh thì Sanh chẳng phải Sanh, Trụ chẳng phải Trụ, Tâm chẳng phải Tâm, Pháp chẳng phải Pháp, Vọng chẳng phải Vọng, không gì chẳng phải Chân, Điên Đảo làm sao có?

Xưa, Đức Văn Thù hỏi Đức Duy Ma:

- Thân lấy gì làm gốc?

Đáp rằng:

- Tham Dục làm gốc.

Hỏi:

- Tham Dục lấy gì làm gốc?

Đáp rằng:

- Hư Vọng Phân Biệt làm gốc.

Hỏi:

- Hư Vọng Phân Biệt lấy gì làm gốc?

Đáp rằng:

- Điên Đảo Tưởng làm gốc.

Hỏi:

- Điên Đảo Tưởng lấy gì làm gốc?

Đáp rằng:

- Vô Trụ làm gốc.

Lại hỏi:

- Vô Trụ lấy gì làm gốc?

Đáp rằng:

- Vô Trụ ắt không gốc. Này Ngài Văn Thù Sư Lợi, từ gốc Vô Trụ lập cả thảy Pháp.

Có nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn:

- Trong kinh có nói: Từ gốc Vô Trụ lập cả thảy Pháp. Thế nào là gốc Vô Trụ

Tổ Nhãn nói:

- Hình khởi mà chưa là Chất, danh có mà chưa là danh!

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Hết dấu vết, bặt tin tức,
Mây trắng không căn, gió mát không sắc.
Tan khắp bầu trời mà chẳng phải tâm,
Nắm giữ quả đất mà nào có lực.
Rỗng suốt cội nguồn thiên cổ,
Đúc nên khuôn mẫu muôn loài.
Sát trần đạo hội: chốn chốn Phổ Hiền,
Lầu các môn khai: từng từng Di Lặc.

Tổ Tuyết Đậu đưa cây gậy lên nói rằng:

- Đại chúng! Cây trụ trượng là hình-danh nêu hết: hình tức vô hình, danh tức vô danh!

Chư vị lão túc quả có một đoạn tác dụng viên minh, chẳng sa vào tri giải. Chốn chốn trần trần tìm Danh Tướng chúng sanh còn chẳng thể đắc, huống gì là cái Điên Đảo.

Kinh:

- A Nan, thế nào là Điên Đảo tạo thành Thế Giới?

Cái Có đó có được là do từng phần từng đoạn vọng sanh. Do đó mà Giới (Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm nhân, không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do đó mà Thế (Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời hòa hợp giao thiệp lẫn nhau biến hóa thành chúng sanh mười hai loài. Thế nên, thế giới thì nhân động có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc, nhân Sắc có Hương, nhân có Hương có Xúc, nhân Xúc có Vị, nhân Vị biết Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp tính, bởi thế mà có mười hai Phần Hạn (Loài) xoay chuyển. Vậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, Hương, Vị, Xúc... biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở lại.

Dựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà có ra Thế Giới, thành những loài: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng.

Thông rằng: Trong bốn quyển trước thì nói Phương (Không Gian), Thế (Thời Gian) giao thiệp lẫn nhau, biến đổi ba lần. Đó là đối với Y Báo (Cõi Giới) hiển bày Chánh Báo (Chúng Sanh), do vậy mà bảo rằng công đức của sáu Căn, mỗi cái là một ngàn hai trăm.

Còn ở đây, trong sự giao thiệp lẫn nhau, lấy Y Báo theo Chánh Báo nên nói biến hóa thành mười hai loài chúng sanh để bày rõ điên đảo của thế giới. Ở trước thì nói rằng Công Đức, ở đây thì nói là Điên Đảo, đều là do sáu căn thành tựu. Chìm đắm tức là Điên Đảo, siêu việt tức là Công Đức, trong khoảng trở bàn tay vậy. Sáu Căn, sáu Trần là mười hai phần hạn. Kiến Phần và Tướng Phần đan dệt với nhau thành mười hai biến hóa. Thanh, Hương, Vị, Xúc là do bốn Đại tạo ra. Sáu Vọng Tưởng lộn loạn huân tập thành chủng tử nghiệp tính. Đây là nguyên do thành lập ra Kiến Phần của mười hai loài. Tứ Đại nương theo mười hai phần hạn, luân chuyển cùng tột mười hai lần biến đổi. Đó là nguyên do thành lập ra Tướng Phần của mười hai loài. Căn Thân thì gần gũi còn Tướng phần khí giới là xa lạ. Tướng Phần trọn không ra ngoài sáu Trần. Chỗ khởi ra của sáu Trần vốn không có trước sau, mà đây chỉ lấy Thanh đứng trước. Vì sao thế? Khi trời đất mới động, Lôi Chấn[5]() có ra tiếng, kinh động vang đến trăm dặm, nghe được rất xa nên chỗ tiếp xúc của sáu Căn thì Âm Thanh là trước hết. Còn năm Trần kia thì lần lần đến gần mới biết được. Đến mùi vị lấy miệng mà biết, pháp thì dùng tâm mà biết lại càng gần nhất. Nhưng nói tướng nhân Âm Thanh mà tưởng thấy Sắc, nhân Sắc mà thầm biết Hương, tiếp xúc Hương mà nhân đó tiếp xúc với Thể, nhân tiếp xúc với Thể mà biết phân biệt Mùi Vị, nhân phân biệt Vị mà biết chọn Pháp thì đó là chuyện tương duyên mà khởi ra, không có trước sau.

Trong hai mươi lăm Viên Thông thì bắt đầu là Âm Thanh mà xoay lại cái Nghe là kết thúc. Chỗ này cũng giúp cho thấy cái Căn Nghe là tối tròn vẹn. Nhưng Căn với Trần đan dệt nhau mà mỗi bên thành ra phần đoạn, đó là nghĩa Giới. Trôi dời chẳng ngừng, chuyển vần ba cõi đó là nghĩa Thế. Thế, Giới hòa hiệp, căn trần đầy lấp. Cái chỗ có mà có được là lấy cái chẳng phải nhân làm nhân. Vốn không có nguyên nhân gì mà lại vọng sanh phân biệt nên là cái Điên Đảo tạo thành Thế Giới. Nếu cả sáu Vọng Tưởng lộn loạn dứt ngay một lượt, trong chẳng thấy Căn, ngoài chẳng thấy Trần, thì cái Thế Giới này không có chỗ trụ, vốn tự vô sanh, thì còn có Điên Đảo gì đâu?

Thiền sư Sở Nam ban đầu tham hỏi Tổ Phù Dung.

Tổ Dung nói:

- Ta chẳng phải thầy ông. Thầy ông chính là Hoàng Bá!

Sở Nam bèn đến ra mắt Tổ Hoàng Bá.

Tổ Bá hỏi:

- Ông khi chưa hiện hình tượng ba cõi thì sao?

Sư Nam nói:

- Vậy nay há là có sao?

Tổ Bá nói:

- Có, Không hãy để đó. Nay đây thì sao?

Sư Nam nói:

- Chẳng kim cổ.

Tổ Bá nói:

- Pháp nhãn của ta đã ở nơi thân ông rồi vậy.

Về sau, có nhà sư hỏi thiền sư Sở Nam rằng:

- Thế nào là dễ?

Sư đáp:

- Mặc áo ăn cơm, không cần đọc kinh, học giáo, không phải hành đạo lễ bái hay đốt hương thiêu đảnh, thế chẳng dễ ư?

Hỏi:

- Thế nào là khó?

Đáp rằng:

- Mảy niệm vừa sanh bèn đủ cả năm ấm! Sanh tử luân hồi ba cõi đều từ một niệm nơi ông mà sanh.

Bởi thế, Phật dạy Chư Bồ Tát rằng:

- Đó là chỗ hộ niệm của Chư Phật.

Thật như thiền sư Sở Nam tiền tế, hậu tế đều đoạn là do biết sợ một niệm động. Đó quả là thấu rõ cái nguyên nhân của Thế Giới Điên Đảo vậy.

Kinh:

- A Nan, do nhân thế giới hư vọng luân hồi, điên đảo về Động, nên hòa hợp với Khí thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng bay lặn. Do đó mà có mầm trứng trôi lăn trong cõi nước: cá, chim, rùa, rắn... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về Dục nên hòa hợp với Tư (Phong Nhuận, Bổ Báo) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ngang dọc. Do đó mà có bọc thai trôi lăn trong cõi nước: người, súc vật, rồng, tiên... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới chấp trước luân hồi, điên đảo về Thú (Thú Hướng) nên hòa hợp với Noãn (Hơi Nóng) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng nghiêng ngửa. Do đó mà có Thịt Mềm thấp sanh trôi lăn trong cõi nước: nhung nhúc, ngọ nguậy.. các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới biến dịch luân hồi về Giả nên hòa hợp với Xúc thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng mới, cũ. Do đó có Thịt Cứng hóa sanh trong cõi nước: lột võ, bay đi... các loài đầy dẫy.

Thông rằng: Các Pháp có trong ba cõi, tất cả do Tâm tạo. Hết thảy không ngoài Kiến Phần và Tướng Phần hòa hợp mà thành. Một niệm vừa động thì mới bắt đầu hư vọng phân biệt. Khi đã sanh ái thủ thì thành tạp nhiễm. Càng ngày càng nhiễm sâu, bèn thành có bám chấp. Thế gian chưa từng có chuyện bám chấp hoài mà không nhả, vì rốt cuộc cũng phải theo biến dịch. Đây là cái cách thế tự nhiên của tình niệm trôi lăn vậy.

Cái Động của niệm thì Tưởng nhẹ mà Tình nặng, nên trứng thì do Tưởng sanh, mà thai thì bởi Tình mà có. Trứng thì do Khí giao nên tròn và động, mà Tưởng nhiều thăng trầm nên cảm thành quả có cá, chim... khác nhau. Thai thì do tinh giao nên phong nhuận và nhiễm ô, mà tình thì có nghiêng, có ngay nên cảm thành quả có người, thú... các loại.

Chấp Tình thì xu phụ chẳng rời, cũng là cái ý rằng mỗi thứ đam mê theo chỗ thú hướng của mình, nên Thấp (ẩm ướt) nhân vào sự hợp cảm, chờ ngày khô ấm mới sanh ra. Tình mê thì Khí trệ, chẳng nhờ giao hợp nên cảm ứng ra loài máy động. Cái chấp Tình đã biến đổi, lìa nơi đây nương nơi kia, cùng loại với biến dịch sanh tử, nhưng lại chẳng chân thật nên gọi là Giả. Biến hóa thì dùng cái giả danh, xúc loại mà thành, hướng đến cái mới, chuyển đổi cái cũ. Đổi cũ thì như loài lột vỏ, đến mới thì như loài bay đi nhẹ nhàng. Tình đổi Khí dời, mỗi thứ ứng với thể trạng của mình nên gọi là biến dịch luân hồi.

Mầm trứng mới nhập thai là hình thức Thai và Trứng chưa phân biệt. Bọc thai là hình thức Thai và Trứng đã dần dần phân biệt. Thịt mềm là hình thức ban đầu của Thấp Sanh, đã không nhập thai nên không có hai địa vị trên. Thịt cứng thì thoát vỏ mà thành hình, không có tướng nhuyễn mềm. Mỗi thứ có cạn sâu chẳng đồng, nhưng đều do sáu Vọng Tưởng lộn loạn làm cái Nhân Điên Đảo, cho đến đầy dẫy kết thành Thế Giới. Thế biết Chân Tánh vô lượng, mà Vô Minh cũng vô lượng.

Thiền sư Khánh Thiện Năng thượng đường rằng:

- Sự bất đắc dĩ mới cho các ông dây leo bám: hết thảy chúng sanh chỉ vì tâm, trần chưa chịu thoát, tình lượng chẳng trừ, thấy sắc nghe thanh, đuổi sóng bôn ba, trôi lăn ba cõi, lặn hụp bốn loài. Giả như chánh kiến chẳng minh, thì đụng đâu cũng thành vướng mắc. Nếu mà thị phi bỏ ráo, thiện ác mất tiêu thì yên ngồi đầu Báo, Hóa Phật, triệt hết lối nẻo Thánh phàm. Đến chỗ ấy mới cho là có chút ít tương ứng. Dù cho như vậy, thì trên phần thầy tu chưa có gì là kỳ đặc. Vì sao như thế? Vừa có thị phi thì rối rắm mất tâm. Ối!

Có nhà sư hỏi thiền sư Báo Từ Tự:

- Tình sanh, trí cách; tưởng biến, thể thù (sai khác), chỉ như tình chưa sanh thì sao?

Sư đáp:

- Cách!

Hỏi rằng:

- Tình chưa sanh thì cách cái gì?

Sư nói:

- Cái anh chàng này, chưa gặp người vậy.

Nếu luận về trên phần thầy tu thì Tình Tưởng chẳng sanh cũng còn phải đợi kềm dùi, huống chi là đuổi sóng bôn ba thì sao khỏi hụp lặn bốn loài?

Kinh:

- Do nhân thế giới lưu ngại luân hồi, điên đảo về Chướng nên hòa hợp với Trước (Bám Níu) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng tinh diệu. Do đó mà có yết nam sắc tướng, trôi lăn trong cõi nước: lưu cữu, tinh minh... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới tiêu tán luân hồi, điên đảo về Cảm, nên hòa hợp với Ám thành ra tám mươi bốn loạn tưởng âm ẩn. Do đó mà có yết nam vô sắc, trôi lăn trong cõi nước: không, tán, tiêu, trầm... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới ảo tưởng luân hồi, điên đảo về Ảnh, nên hòa hợp với Ức (Nhớ) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng tiềm kết. Do đó mà có yết nam hữu tưởng, trôi lăn trong cõi nước: thần quỷ, tinh linh... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới ngu độn luân hồi, điên đảo về Si nên hòa hợp với Ngoan (Ngu Độn, Ngoan Cố) thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng khô cằn. Do đó mà có yết nam vô tưởng, trôi lăn trong cõi nước: tinh thần hóa làm đất, cây, sắt, đá... các loài đầy dẫy.

Thông rằng: Sắc thuộc về Tướng Phần. Tưởng thuộc về Kiến Phần. Tóm lại thì chẳng ra ngoài tứ cú: Có, Không, cũng Có cũng Không, chẳng phải Có chẳng phải Không. Vậy là cùng tận sự biến thái của thế giới.

Hữu Sắc thì bám níu nơi Sắc, như sự thờ phụng mặt trời, mặt trăng, nước, lửa của ngoại đạo. Cái Tưởng đã kết thành tinh diệu cho nên chỉ có Sắc mà thôi. Tinh diệu sanh nơi Minh, Minh sanh nơi Giác. Giác không có trụ tướng mà tinh diệu có dính mắc nên gọi là lưu ngại.

Kinh Niết Bàn nói:

- Tám mươi vị Thần đều nhận nguồn tưởng lưu ngại mà thành cái tinh diệu này.

Bởi thế tất cả tinh minh, thần vật đều có thể dự biết trước, sự cát hung chưa từng rời Giác thể. Chỉ bởi chướng ngại nên chẳng lưu thông nên gọi là điên đảo về Chướng.

Vô Sắc thì bám níu nơi Không, như sự chán cái có quay về cái Không của ngoại đạo, mê cái vô văn (không nghe) hữu lậu nên gọi là Hoặc (Mê Lầm). Mờ tối âm ẩn thì vào Vô Sắc Giới. Hạng hữu tưởng Vô Sắc này chẳng thành cái thân của nghiệp, nhưng sanh Vô Sắc Giới nên cũng có yết nam tiêu tán.

Thần quỷ tinh linh không có hình trạng thật sự, hình như có, hình như không nên gọi là ảo tượng. Như cúng vái cầu đảo thì nương tựa nơi ảnh tượng, hết lòng cảm mộ ứng thông thì chỉ có nhớ tưởng. Cái hình trạng tiềm kết chẳng phải có thực sắc nên chỉ có yết nam hữu tưởng.

Đất, cây, vàng, đá có Sắc mà không có Tưởng, ngoan không làm nhân nên gọi là Si. Ngoại đạo cho sắt, đá cứng rắn là vô tình mà hữu mệnh bèn tập định ngưng đọng như tro tàn, khô khan mê độn, gặp vật thành Hình, giống như tiên Hoàng Đầu hóa thành đá, đó là yết nam Vô Tưởng. Đây là do tà kiến ngoại đạo hóa ra vậy. Hữu Sắc Vô Tưởng không ngu ngoan mà làm cây, đá thì bám chấp mà làm tinh diệu, đó là Tướng Phần trổi vượt hóa nên mà làm vật vậy. Hữu Tướng Vô Sắc chẳng u ẩn mà làm quỷ vật thì tan ra mà làm không hình thể, đó là Kiến Phần trổi vượt hóa nên mà làm Thần vậy. Thần Thuấn Nhã Đa (Hư Không) không có thân mà có cảm giác là thuộc về Vô Sắc Giới.

Những thứ đó đều do sáu Vọng Tưởng lộn loạn mà ra, chỉ vì đạo nhãn chẳng sáng mà phải như vậy.

Có nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí:

- Thân này vô tri, như đất, cây, ngói, đá. Ý này ra sao?

Sư bước xuống thiền sàng, vặn tai nhà sư. Nhà sư đau quá la lên.

Ngài nói:

- Ngày nay mới nắm đầu được cái gã vô tri!

Nhà sư làm lễ, lui ra.

Ngài gọi:

- Xà Lê!

Nhà sư ngoái đầu lại.

Ngài nói:

- Vào trong thiền đường, chớ có nói ra!

Hỏi rằng:

- Sao thế.

Ngài nói:

- Hẳn có người cười tâm lão bà của Kim Phong này.

Lại có một hành giả ngồi trong tịnh thất, hào quang tỏa sáng ra, thiền sư trụ trì e mê hoặc trong chúng, nên đuổi đi. Đó là tu tập lầm loạn, chẳng rõ cái chí lý bình thường vậy.

Quan Thiêm Phán Lưu Kinh Thần có viết thiên Minh Đạo Luận Nho để cảnh tỉnh đời, có câu: Minh Đạo ở chỗ thấy Tánh. Chỗ ngộ của ta là thấy Tánh mà thôi vậy.

Ông viết tiếp:

- Mạnh Tử nói: Miệng ở nơi Vị. Mắt ở nơi Sắc. Tai ở nơi Thanh. Mũi ở nơi Mùi. Tứ chi ở nơi Thong Dong. Đó là Tánh vậy.

Ông Dương Tử nói:

- Thấy, Nghe, Nói Năng, Suy Nghĩ là sở hữu của Tánh vậy. Thấy được như thế ắt là rõ Đạo.

Phải biết Đạo chẳng xa người. Người ở nơi Đạo như cá ở trong nước, chưa hề có khoảnh khắc xa rời. Chỉ chẳng biết mình, chạy đuổi theo vật nên chung thân chẳng tự biết. Phật nói Đại Giác; Nho nói Tiên Giác, là chỗ Giác này vậy. Người xưa có câu: Xưa nay nào rớt lọt, rõ ràng ngay trước mắt.

Lại nói:

- Đạo lớn chỉ ngay trước mắt. Chính vì trước mắt nên khó thấy. Muốn rõ Chân Thể của Đạo thì chẳng rời ngôn ngữ, thanh sắc!

Lại nói:

Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Sáng sáng lại cùng dậy.
Đi đứng trọn theo nhau,
Nói nín cùng yên ở.
Muốn rõ chỗ Phật ư,
Chỉ lời, tiếng là đó!

Đó là chỗ nhà Phật nói Đạo là rất thân thiết vậy.

Đứng thì thấy sờ sờ trước mắt. Ngồi trên xe liền thấy dựa nơi đòn ngang của xe. Ngắm xem thì ở trước, hốt nhiên là ở sau. Nắm qua tả hữu thì ngay đầu mối.

Đó là chỗ nhà Nho nói Đạo thật rất gần vậy.

Khốn nỗi, Đạo này chỉ có thể tâm truyền, chẳng lập văn tự. Bởi thế, Đức Thế Tôn đưa hoa lên mà Diệu Tâm truyền cho Ngài Ca Diếp. Đức Đạt Ma ngó vách mà tông chỉ phó cho Ngài Thần Quang. Sáu Cánh đã bày (từ Tổ Đạt Ma đến Lục Tổ) thì ngàn hoa đua nở, phân Tông khai Phái mà mỗi mỗi môn đình. Thế nên có nháy mắt, nhướng mày, đưa nắm tay, dựng ngón tay, hoặc vung gậy, quát hét, dựng phất, dỡ chùy, hoặc cầm chĩa, dương cung, đá cầu, múa hốt. Hoặc đào đá, ban đất, đánh trống, thổi lông, hoặc nín hoặc nói, hoặc hô hoặc cười, cho đến hết thảy phương tiện đều chỉ thân thiết vì người. Nhưng chỉ vì cực kỳ thân thiết mà người ta phần đông hoang mang. Chớp mắt là thấy, chẳng cách mảy tơ! Giả như trầm ngâm thì xa vời muôn dặm! Muốn rõ Đạo này chớ để trợt qua! Tổ Tổ truyền nhau đến nay chẳng dứt, quả là đắc cái mà nhà Nho ta gọi là: Không đâu chẳng đẹp lòng, nghe gì cũng chẳng trái, đó vậy.

Chỗ tâm đắc của tôi thật ở môn này. Suy nghĩ lại thì đạo Nho tự có Đạo ấy. Lành thay lời nói của Đức Khổng Tử: Im lặng mà biết đó, một Thể mà suốt thông. Cho nên mắt thấy mà Đạo còn, tay chỉ mà ý dụ. Phàm như thế thì đều hợp với diệu chỉ của Tông Môn, đắc cái Chân Cơ của giáo ngoại biệt truyền vậy. Thế mà Đạo của Khổng Tử truyền cho Tử Tư, Tử Tư truyền cho Mạnh Tử, Mạnh Tử mất mà chẳng có ai để truyền, nên cái được truyền lại ở đời chỉ là văn tự. Bởi thế cái học của tôi ắt là cầu tự được mới thôi. Hạnh phúc cho tôi là một đêm nọ được khai ngộ nên phàm mắt thấy gì, tai nghe gì, tâm nghĩ gì, miệng nói gì, tay chân vận động gì đều không gì chẳng là mầu nhiệm (diệu). Được rồi càng lâu ngày càng thêm hiện tiền. Có khi đem trao cho người, người chẳng lãnh nhận, mới biết Diệu Đạo quả chẳng có thể lấy văn tự mà truyền.

Hởi ôi, Đạo là vậy, có được người thì truyền, không có người thì tuyệt mất. Tôi đã được thế, có ai giống vậy không nhỉ? Suốt đời tôi có người ư? Không có người ư? Trong chỗ Chẳng Thể Đắc mà biết vậy. Nên tôi làm lời ký, tụng, ca để lưu truyền việc này, lại trước tác thiên này để chỉ dạy học trò của tôi đó.

Kinh:

- Do nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Ngụy nên hòa hợp với Nhiễm thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng nhân y. Do đó mà có yết nam, Không phải có Sắc mà có Sắc, trôi lăn trong cõi nước: những loài sứa lấy tôm làm mắt... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới tương đãi luân hồi, điên đảo về Tánh nên hòa hợp với Chu thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hô triệu. Do đó mà có yết nam, Chẳng phải Vô Sắc mà Vô Sắc, trôi lăn trong cõi nước: Chú trớ, yếm sanh... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới hợp vọng luân hồi, điên đảo về Võng nên hòa hợp với Dị thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng hồi hỗ. Do đó mà có yết nam, Không phải Có Tưởng mà Có Tưởng, trôi lăn trong cõi nước: các loài tò vò, lấy chất khác thành thân mình... các loài đầy dẫy.

Do nhân thế giới oán hại luân hồi, điên đảo về Sát nên hòa hợp với Quái thành ra tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ăn thịt cha mẹ. Do đó có yết nam, Không phải Vô Tưởng mà Vô Tưởng, trôi lăn trong cõi nước: như con thổ kiêu ấp đất cục làm con, hay chim phá kính ấp quả cây độc làm con, con lớn lên thì trở lại ăn thịt cha mẹ... các loài đầy dẫy.

Đó là mười hai chủng loại chúng sanh.

Thông rằng: Sắc, Tưởng là có hay là không, cũng như nghĩa Âm Dương đủ bao gồm muôn biến hoá. Nhưng trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, tựa như Âm mà thật là Dương, hình như Dương mà thật là Âm, sự biến hóa không lường nổi. Loạn tưởng không cùng, chúng sanh vô tận, chẳng phải cái Trí Đại Viên Cảnh của Phật thì ai mà thấu suốt cho nổi?

Tương đãi luân hồi là nương mượn vật, nên gọi là Ngụy. Con sứa dùng con tôm làm mắt, nghĩa là chẳng phải có Sắc mà đợi vật khác để thành Sắc. Đây kia khác chất nên gọi là hòa hợp với Nhiễm Duyên.

Còn như tà nghiệp dẫn nhau chỉ nhờ Chú Thuật hô triệu, chẳng phải đây có tánh kia cũng có thể dẫn, nên gọi là điên đảo về tánh. Bùa Chú trù yếm này cũng hay biến hiện được, chẳng phải là Vô Sắc Tướng. Nhưng mượn Âm Thanh mà tạo ra hình chất, không do sanh lý nên vốn là Vô Sắc. Cái sức Chú này từ con người làm ra, không có gì lạ lắm.

Con tò vò vốn là sâu lá dâu, chẳng phải có cái Tưởng con ong mà lại thành cái Tưởng con ong, vì lấy chất khác nên chẳng phải như thai hay trứng là truyền mạng trong Tưởng, rốt là thành lẫn nhau. Chú kia theo ta, lấy Vọng hóa ra Vọng, cái khác mà lấy cho là của mình, nên gọi là hồi hỗ. Đây là loài khác nhau mà nương nhau, tuy gọi là hợp vọng cũng chưa là kỳ quái.

Như con thổ kiêu, phá kính, lấy vật khác làm con, con lớn lên thì trở lại ăn thịt, mất hết luân thường đạo nghĩa, chẳng phải là cái lý thường nên gọi là kỳ quái. Tất cả đều do nhiều đời oán hại nên sanh lẫn nhau, giết lẫn nhau, đổi thương thành oán, đổi oán thành thương, vay trả trả vay mà thành ra một chủng loại.

Con thổ kiêu ăn mẹ, con phá kính ăn cha chẳng phải là Vô Tưởng, nhưng đất cục và quả độc thì Có Tưởng sao ? Đến như Ghẻ Mặt Người của Quốc Sư Ngô Đạt là mối thù oán nhiều đời giữa Viên Án và Triệu Thố, nơi một thân mà tự hại nhau, thì loài thổ kiêu, phá kính cách thân mà hại nhau đâu có thể so sánh. Viên Án, Triệu Thố chẳng phải là Vô Tưởng, mà cái Ghẻ-Mặt-Người chẳng phải là Hữu Tưởng. Đây là do phiền não kết thành, mỗi mỗi có tám mươi bốn ngàn luân hồi, theo nghiệp đời đời không cùng. Một thời đầy dẫy, thì không cõi giới nào chẳng có, nhiều kiếp đầy dẫy thì không đời nào mà chẳng thế! Không có chúng sanh Chánh Báo lấy gì mà cảm thọ Y Báo? Không có thế giới Y Báo lấy gì mà thành ra Chánh Báo? Vậy điên đảo của thế giới chính là điên đảo của chúng sanh. Cũng đều do phản bội cái Giác, hợp với Trần chứ chẳng có hai nhân nào hết vậy. Chỗ này đối với chúng sanh thì chỉ dạy sơ lược về nguồn gốc điên đảo, còn đối với thế giới thì chỉ rõ thực trạng của điên đảo. Điên Đảo chính là nghiệp quả mà ở trước nói là Ba Cái Tương Tục, là gồm chung hết vậy.

Nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng:

- Như nay thọ Giới, thân khẩu trong sạch, đã đủ muôn thiện, có được Giải Thoát không?

Tổ Trượng nói:

- Giải Thoát chút ít! Nhưng chưa được Tâm Giải Thoát, cũng chưa được Nhất Thiết Xứ Giải Thoát.

Hỏi rằng:

- Thế nào là Tâm Giải Thoát và Nhất Thiết Xứ Giải Thoát?

Tổ Trượng nói:

- Chẳng cầu Phật, Pháp, Tăng cho đến chẳng cầu Phước Trí, Tri Giải hết thảy đó. Cái tình Sạch Dơ hết ráo mà cũng chẳng giữ cái không cầu này cho là phải. Cũng chẳng trụ nơi chỗ hết này, cũng chẳng khoái Thiên Đường, sợ Địa Ngục, trói buộc hay giải thoát đều không ngại. Như thế thì thân tâm cùng nhất thiết xứ đều là Giải Thoát.

Ông chớ nói có chút phần Giới Thân, Khẩu, Ý trong sạch bèn cho là xong, mà chẳng biết hằng sa Giới Định Huệ, Vô Lậu giải thoát đều chưa ăn nhằm một mảy lông. Hãy nỗ lực tiến tới, cần dũng mãnh cứu xét lấy, chớ đợi đến tai điếc mắt mờ, da nhăn tóc bạc, già khổ đến thân, sầu thương rối buộc, nước mắt lưng tròng, tâm hồn sợ sệt, hoàn toàn không có chỗ tựa nương, chẳng biết chỗ về. Đến lúc đó rồi thì sửa sang lo liệu chẳng được đâu ! Dù có Phước Trí, danh văn, lợi dưỡng đều chẳng thể cứu.

Cũng bởi Tâm Nhãn chưa mở ra, chỉ nghĩ nhớ theo cảnh, chẳng hề chịu soi trở lại, lại không thấy Phật Đạo. Bao nhiêu nghiệp duyên thiện ác một đời hiện ra trước mắt, hoặc vui mừng hoặc khủng khiếp. Năm uẩn, sáu đường cùng lúc hiện ra trước mặt, phô bày nhà cửa đẹp đẽ, thuyền bè xe cộ tráng lệ huy hoàng. Tất cả đều từ thân tâm tham ái mà hiện ra. Đường ác mà mê mờ đều biến thành cảnh tốt đẹp, chỉ tùy theo chỗ nghiêng nặng của tham ái, sự dẫn dắt của nghiệp thức, theo chỗ bám níu mà thọ sanh, tuyệt chẳng có chút gì tự do. Rồng, thú, tốt, xấu mịt mờ đều chưa định.

Hỏi rằng:

- Như sao là được phần tự do?

Tổ Trượng nói:

- Ngay đây thì được. Hoặc là đối với ngũ dục, bát phong, tình không lấy bỏ, tiếc lẩn, tham ái. Tình ngã sở tuyệt mất, dơ sạch tiêu vong. Như mặt trời, mặt trăng giữa không chiếu soi không dính dáng. Tâm tâm như gỗ đá, niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, hay như con hương-tượng vượt sông, chặt đứt dòng mà qua, không còn nghi ngờ vướng víu. Người như thế thì Thiên Đường, Địa Ngục làm sao nhiếp giữ.

Than ôi, Tổ Bách Trượng đinh ninh răn dạy, chẳng tiếc từ bi. Cần ở nơi chỗ căn dặn mà dũng mãnh tỉnh thức, dựng đứng tâm tư, mới hay rằng cái nhân điên đảo nào có do ai, mới hay cái Chân Tam Ma Địa vốn tự sẵn đủ xưa giờ. Đến chỗ, Sạch dơ đều mất, Thiên Đường Địa Ngục làm sao nhiếp giữ, thì còn mười hai chủng loại nào mà xoay chuyển được ư?



QUYỂN VIII

III. KHAI THỊ BA TIỆM THỨ TU TẬP

Kinh:

- A Nan, như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa đốm cuồng loạn phát sanh, Chân Tâm tròn sáng trong sạch nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Đề của Phật thì đối với các loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro, chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.

Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ các Trợ Nhân. Hai là, chân tu, nạo sạch Chính Tính. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp.

Thông rằng: Mười hai thứ Điên Đảo đều từ trong Chân Tâm minh tịnh biến khởi. Bắt đầu trong một niệm Ái Thủ. Có Thương thì có Ghét, có Thủ thì có Xả. Do đó, bốn thứ Thai, Noãn, Thấp, Hóa đều do Tình, Tưởng, nặng nhẹ tùy theo mỗi loài.

Các loài Hữu Sắc, Vô Sắc, Hữu Tưởng, Vô Tưởng chỉ là hai câu Hữu, Vô. Nhưng do cái Tưởng mà sanh hóa, thì Tưởng càng ngày càng vi tế, sự sanh hóa càng lần lần thuần khiết. Các loài hoặc chẳng phải Hữu Sắc, hoặc chẳng phải Vô Sắc, hoặc chẳng phải Hữu Tưởng, hoặc chẳng phải Vô Tưởng gồm ở trong ấy hai cái Cũng Là, hai cái Chẳng Phải. Quả là do Tình mà biến hóa, Tình càng vướng mắc thì càng biến hóa càng khổ. Tình, Tưởng, Thương, Ghét phô bày lẫn lộn, không loài nào chẳng có, nên trong mỗi loài mỗi mỗi đều đủ mười hai thứ điên đảo.

Tình, Tưởng giống như mắt nhặm; Điên Đảo giống như hoa đốm lăng xăng. Hoa đốm lăng xăng ở trong hư không mà chẳng ngăn ngại được hư không. Điên Đảo ở trong Chân Tâm Diệu Viên mà chẳng thể chướng ngại Tánh Diệu Viên. Dù đủ loạn tưởng hư vọng thế kia, rốt ráo nơi Chân Tâm minh tịnh chẳng hề ngăn ngại, rồi sau thấy được cái Diệu Viên vậy. Chân Tâm Diệu Viên tức là Tam Ma Địa, rỗng suốt nhiệm mầu bao la như hư không tạnh ráo. Mười hai thứ Điên Đảo chỉ do sáu Vọng Tưởng hỗn loạn làm Bổn Nhân. Mắt nhặm nếu trừ, hoa cuồng tự dứt.

Nhưng trừ loạn tưởng phải lập ra ba món tiệm thứ. Vì sao? Vì như một cái bình sạch, vốn là đồ chứa đựng nước cam lồ, một khi bị mật độc nhiễm dơ mà đổ ngay cam lồ vào thì cam lồ trở thành thuốc độc. Ắt là phải súc rửa bằng nước sôi cộng với tro, chất thơm cho trơn sạch, trải qua tháng năm, thì độc khí dần dần tiêu, cam lồ mới có thể cho vào. Ba món tiệm thứ này chính là nước sôi, tro, chất thơm để rửa sạch loạn tưởng vậy.

Bốn thứ khuyên dạy ở trước là Sát, Đạo, Dâm, Vọng đã đủ Chánh Giới, đây lại trừ Trợ Nhân của Dâm, Nộ, Si, nạo sạch cái Chánh Tính của Sát, Đạo, Dâm, Vọng, dần dần xa lìa Vô Minh hiện hành. Do đấy tăng tiến, ngược dòng toàn nhất, sáu cái Dụng chẳng hiện hành, trái nghịch Hiện Nghiệp thì tâm không trôi dạt. Tình ái khô khan, loạn tưởng không tự khởi lên thì Điên Đảo lấy đâu mà sanh? Chỉ một Chân Tâm rồi sau mới lập các Thánh vị. Bốn mươi bốn Tâm để nhập chân Tam Ma Địa của Diệu Giác. Cũng như mật độc đã tiêu, bèn chứa được cam lồ vậy.

Thiền sư Đại Tùy Chân thượng đường nói:

Tánh này vốn xưa nay thanh tịnh, sẵn đủ muôn đức. Chỉ bởi hai duyên nhiễm, tịnh mà có sai khác. Cho nên các Thánh ngộ nó thì cứ một bề dùng trong sạch mà thành đạo Giác. Người phàm mê nó thì cứ một bề dùng dơ nhiễm mà chìm đắm luân hồi. Thể nó không hai, nên kinh Bát Nhã nói: Không hai, không hai phần vì không riêng không dứt vậy.

Nếu tin được lời nói của Ngài Đại Tùy, Thể nó không hai, thì vốn là một bình chứa tinh sạch, chứa độc mật chẳng có hao bớt mà đựng cam lồ cũng chẳng tăng thêm. Thẳng đến Bồ Đề Vô Thượng, nhiễm tịnh đều không dính dáng, thì sau có dẹp bỏ chỗ nói về ba món tiệm thứ cũng không phải là không thể được vậy.

Kinh:

- Thế nào là Trợ Nhân?

A Nan, mười hai loài chúng sanh đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực, Thức Thực. Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương cái ăn mà sống còn.

A Nan, tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy những chúng sanh cầu Tam Ma Đề phải dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian, những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ Vương thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê phá Cấm Giới, khen Dâm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến thuộc Ma Vương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục Vô Gián. A Nan, người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm thứ rau cay.

Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

Thông rằng: Đoạn Thực cũng gọi là Đoàn Thực, nghĩa là lấy tay viên tròn lại mà ăn. Nhưng có thứ không thể vê tròn nên đổi thành đoạn. Đoạn là cắt ra từng khúc, như dao cắt. Các thức ăn cơm, bún, rau... ăn theo lối cắt. Đó là cách ăn của con người.

Xúc Thực là ăn theo lối Căn, Cảnh, Thức tiếp xúc nhau mà thành. Chỉ tiếp xúc cái khí vị mà thôi, đó là cách ăn của Quỷ Thần.

Tư Thực là cõi Thiền Thiên không có Đoạn Thực, chỉ có ăn bằng tư tưởng, nên nói: Nghĩ đến ăn thì được ăn.

Thức Thực là cõi Vô Biên Xứ, không ăn bằng tư tưởng mà chỉ có cái Thức biết ăn, Thức thủ (hiểu lấy) mùi vị Pháp đầy đủ nên no.

Các lối ăn Xúc, Tư, Thức Thực cũng đều có thể nuôi sống như đoạn thực, nên nói: Đều nương theo cái ăn mà sống còn.

Bộ Hiệp Luận nói:

- Thức thực là A Lại Da Thức nương theo ba cách ăn trước mà tồn tại. Làm sao để biết? Năm Thức trước là Tướng Phần Tự Chứng của A Lại Da. Thức Thứ Sáu và Thức Thứ Bảy là Kiến Phần Tự Chứng của A Lại Da. Phạm vi của năm Thức trước nương vào Đoạn Thực. Thức Thứ Sáu phân biệt nương vào Xúc Thực. Thức Thứ Bảy nương vào Tư Thực. Cho nên Thức Thực nương vào ba loại ăn trước mà tồn tại.

Tất cả chúng sanh ăn thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết, thì há năm loại rau cay nhớp mà không trợ Dâm, sanh Giận ư? Rốt cục Trời, Tiên xa lánh, thường ở với Quỷ, cũng chẳng khác gì ăn thức ăn độc. Nhưng Dâm, Giận ngày càng tăng, hẳn là chê phá Cấm Giới, đọa vào ngục Vô Gián. Như vậy há có thể không cẩn thận ngay ở chỗ vi tế ư?

Hòa Thượng Kim Ngưu mỗi lần đến giờ ăn, tự đem thùng cơm đến trước tăng đường, múa cười ha hả mà rằng:

- Bồ Tát ơi, đến ăn cơm!

Ngài Tuyết Đậu nói:

- Tuy nhiên như thế, Kim Ngưu chẳng phải hảo tâm!

Nhà sư hỏi Tổ Trường Khánh:

- Cổ nhân nói Bồ Tát ơi, đến ăn cơm, ý chỉ như thế nào?

Tổ Khánh nói:

- Cũng giống nhân bữa ăn mà ca mừng.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Trong bóng mây trắng cười ha hả,
Hai tay bưng đến trao người ta.
Nếu quả Kim Mao Sư Tử nhỏ,
Ngoài ba ngàn dặm thấy sai ngoa.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu:

- Kẻ học nhơn mới vào tùng lâm, xin thầy chỉ bày cho.

Tổ Châu nói:

- Vậy ăn cháo rồi chưa?

Vị tăng:

- Dạ, ăn rồi.

Tổ Châu nói:

- Thì rửa chén bát đi!

Vị tăng tỉnh ngộ.

Tổ Vân Môn nói:

- Hãy nói là có chỉ bày hay không chỉ bày? Nếu nói có thì Triệu Châu nói cái gì với ông ta vậy? Nếu nói không thì vì sao vị tăng kia lại ngộ?

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Cháo xong thì dạy rửa bát đi,
Rỗng rang tâm địa tự dung thông.
Như nay, khách tham thiền no đủ,
Thử hỏi khoảng này có ngộ không?

Hợp lại chỗ đề xướng của các vị lão túc để rõ ràng mùi mẽ, thì dầu trăm thứ món ngon của lạ cũng cần móc ói ra, huống chi thứ thuốc độc năm loại rau cay há có thể cho vào miệng ư?

Kinh:

- Thế nào là Chính Tính?

A Nan, chúng sanh như thế vào Tam Ma Đề trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng Dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A Nan, người tu hành đó, nếu chẳng đoạn Dâm Dục và Sát Sanh mà ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự Dâm Dục như rắn độc, như thấy giặc thù.

Trước hết, hãy giữ gìn Tứ Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh Văn, nắm giữ thân chẳng động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát, nắm giữ tâm chẳng khởi. Giới Cấm thành tựu thì trong thế gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời trước trong thế gian. Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa, ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm.

Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

Thông rằng: Sát, Đạo, Dâm sao gọi là Chính Tính?

Kinh Viên Giác nói:

- Hết thảy chúng sanh đều lấy Dâm Dục mà Chính Tánh Mạng. Vì Chánh Báo của chúng sanh do cảm lấy Dâm Dục mà sanh ra, nên lấy Dâm Dục làm Chính Tánh, tức là ở trước có nói Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp. Lại vì đối với Trợ Nhân mà nói, nên gọi là Chánh Tính. Nói là Nạo Sạch, ví như nạo khoét cây làm thuyền, dần dần làm cho trống không để mang chở. Nên Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp đều không mới hợp với nghĩa nạo vét.

Cái Căn Dâm rất khó đoạn, phải xem như rắn độc, vì hại đến Pháp Thân vậy. Phải thấy như giặc thù vì làm tổn thương Huệ Mạng. Trước giữ Giới Thanh Văn khiến không có thân phạm. Sau giữ Giới Bồ Tát khiến không có tư tưởng phạm. Cấm Giới thành tựu thì Giới mà không có chỗ Giới. Dâm dứt thì không còn Nghiệp tương sanh. Sát dứt thì không có Nghiệp tương sát. Trộm cắp dứt thì không có Nghiệp trả nợ. Ngay nơi thân tâm này sáu Căn thanh tịnh, không cần Thiên Nhãn mà chứng Ngũ Thông. Nhãn Thông nên xem thấy mười phương. Nhĩ Thông nên nghe Phật thuyết pháp. Thần Thông nên có thể dạo khắp mười phương cõi. Túc Mạng Thông nên không có khó khăn nguy hiểm. Tha Tâm Thông, tự tại ở trong ấy. Duy chỉ có Lậu Tận Thông thì không dễ chứng.

Chỗ này giống kinh Pháp Hoa dạy rằng:

- Thân hiện tại được sáu Căn thanh tịnh tức là địa vị tương tự. Thế thì nghiêm giữ Giới Luật thanh tịnh đâu có thể tự trễ nải ư?

Thiền sư Dũng Tuyền Hưng thượng đường nói:

- Tôi bốn mươi chín năm ở trong ấy mà còn tự có khi lộn xộn (tẩu tác). Này các ngươi chớ múa mỏ khua môi. Người kiến giải thì nhiều, người hành giải cả vạn, trong đó không có một người hiểu rõ lời lẽ biết suốt cái cần yếu. Nếu Thức chẳng hết, dám nói hết chuyện luân hồi ư? Vì sao như vậy? Bởi vì Thức Lậu chưa hết. Ông mà hết sạch ngay giờ mới được thành lập. Cũng gọi là Lập Trung Công, chuyển công tựu thành cái kia. Cũng gọi là Tựu Trung Công, thân với cái kia vậy. Bởi thế, tôi mới nói: Người thân chẳng được độ, hắn chẳng độ người thân. Thí dụ như vậy còn chẳng hiểu thì chỉ tiến lên hít lấy cái hơi mù mịt, chỉ nắm giữ cái tánh loạn động nơi đầu lưỡi. Chẳng thấy Tổ Động Sơn nói: Tương tục, ấy là đại nạn. Các ông cần biết có sự việc này, nếu không biết, có ngày rồi khóc lóc!

Mới biết rằng Giới Hạnh dũng mãnh, cốt yếu là dứt sạch tức thì, chuyển công thành vị, vào Tam Ma Địa. Chẳng thế thì dùng huyễn để tu huyễn, uổng công siêng nhọc, ăn nhằm gì đến Tự Tánh đâu!

Kinh:

- Thế nào là Hiện Nghiệp?

A Nan, người giữ gìn Cấm Giới thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần ở ngoài không hay giong ruổi theo. Do không giong ruổi nên tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành. Mười phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng diệu viên, được đại an ổn. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát Hạnh mà an lập các Thánh vị.

Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.

Thông rằng: Hiện Nghiệp là Nghiệp tạo ra của Vô Minh hiện hành, tức là các Nghiệp Sát, Đạo, Dâm ở trên.

Giữ Cấm Giới thì đối với sáu Trần ở ngoài chẳng hay giong ruổi theo, hay đoạn trừ phiền não khách trần, hay trừ được Kiến Hoặc. Trần đã chẳng duyên theo thì Căn không chỗ gặp hợp, hay phá Vô Minh vi tế, hay trừ được Tư Hoặc. Chưa trừ hai cái Hoặc thì cũng còn tùy thuận theo Hiện Nghiệp, chưa chịu nghịch lại. Giờ tự quay vào lặng trong, nghịch lại với Hiện Nghiệp vậy. Vì giong ruổi nên sáu Dụng hiện hành, thế là trái với Giác, hợp với Trần thành sáu Vọng Tưởng loạn khởi ra Nghiệp hiện giờ. Bởi ngược dòng nên sáu Dụng chẳng hiện hành, thế là trái với Trần, hợp với Giác thành một Tánh trong lặng tròn sáng, Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Lý mật trí viên tịnh hành nhiệm mầu phù hợp không dấu vết. Pháp Thân thanh tịnh như ngọc lưu ly. Chân Trí trong suốt giống như trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, Căn, Cảnh đều dung thông, Diệu Viên bình đẳng, được đại an ổn bèn được Vô Sanh Pháp Nhẫn mà vào Tam Ma Địa. Từ đó tiệm tu, an lập Thánh Vị cho đến bậc Đẳng Giác.

Cái Giác này mới được vị Càn Tuệ Địa ban đầu trong Tâm Kim Cang, bèn chứng Tam Ma Địa của Phật, cứu xét tận hết bổn nhân, cùng tột vị Diệu Giác vậy. Đây là chỗ bước vào, đoạn văn sau là chỗ tu, rốt ráo chỗ chứng, đều là Tam Ma Địa của Phật, đó gọi là, Cửa vào một đường Niết Bàn của mười phương Chư Phật.

Chỗ này cốt ở Đốn Chứng, cớ sao lại lập thêm các món tiệm thứ để tăng tiến? Bởi vì Lý cần Đốn Ngộ, Sự theo đó lần hồi dứt trừ. Trước hết, trừ cái Trợ Nhân, kế nạo sạch Chánh Tánh, rồi trái với Hiện Nghiệp. Tất cả đều ở trên Sự mà tiêu dung dần dần. Cảnh càng vào Chân thì công phu càng thêm tế mật. Tuy chủ Đốn Ngộ, chẳng bỏ Tiệm Tu. Đây là gồm trọn cả ba căn Thượng, Trung và Hạ nên là Pháp Môn Viên Đốn vậy.

Thiền sư Kính Sơn Liễu Nhất thượng đường, nói:

- Người học Đạo chạm cảnh, gặp duyên mà không thể lập tức thấu thoát (tỏ suốt) đều vì Nghiệp Thức sâu nặng, Vọng Tình gắn chặt. Sáu cửa chưa dứt thì một chỗ chẳng thông. Cái Tánh thuần túy trong sạch không một điểm vết thì phàm phu khó đến. Cần ngay,Vào rừng không động lá, vào nước không nổi sóng, mới có thể thuận dòng sanh tử, vào với nhân gian. Chư vị ơi, có hiểu chăng ?

Bèn lấy cây gậy quơ vẽ mà nói:

- Chỉ hướng trong ấy mà tiến nhận.

Giả sử có tay nào ở đây tiến nhận được, giống như lưu ly trong sạch ngậm trăng sáng ở trong, thì có gọi là người xong việc không, nhỉ?

Chẳng thấy Tổ Nam Tuyền đang cùng Ngài Triệu Châu thưởng trăng.

Ngài Châu nói:

- Bao lâu thì được tương tự như cái kia?

Tổ Tuyền nói:

- Vương lão sư này hai mươi năm trước đã từng như vậy đó.

Ngài Châu:

- Nay thì sao?

Tổ Nam Tuyền bèn quay về phương trượng.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng:

- Hai mươi năm trước để yên đó. Hai mươi năm sau làm sao đây? Có biết chỗ bước của Vương lão sư chăng? Trong nhà không linh sàng, vợ đâu mặc đồ tang!

Ôi, Thanh tịnh như lưu ly bên trong treo trăng sáng. tức là chỗ đoạn sau nói: Càn Tuệ Địa, vậy.

Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó thì chỗ thấy chốn nào chẳng sáng tỏ, nhưng còn thiếu bước dẫm đi.
Thế nên, có biết chỗ dẫm đi của Tổ Nam Tuyền thì hai mươi năm trước được tương tự cái kia cũng là chưa xong.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

MỤC HAI:

AN LẬP CÁC THÁNH VỊ

I. CÀN TUỆ ĐỊA

Kinh:

- A Nan, người thiện nam ấy, Dục Ái cạn khô, Căn Cảnh chẳng phối hợp, cái Thân Tâm hiện tại không còn sanh tiếp nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí Huệ. Tánh Huệ toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái Huệ khô khan, gọi là Càn Huệ Địa.

Thông rằng: Dục Ái thấm nhuần thành nghiệp, Căn và Cảnh tạo nghiệp nên sanh tử nối tiếp, mê muội chẳng quay về. Nay lòng Dục khô cạn, Cảnh lui đi, nên cái Thân Tâm nhân thế chẳng còn sanh tiếp. Ngược dòng toàn nhất ắt giữ lấy cái Tâm rỗng sáng. Sáu Dụng chẳng hiện hành tức thuần là Trí Huệ. Chẳng dùng gì nơi Dục Ái thì Huệ chẳng lìa ngoài Tự Tánh, như ánh sáng viên ngọc không dùng soi chiếu vật mà chỉ tự chiếu cái Thể của nó.

Đây là cái sáng suốt cho đến chỗ không lập ra cái Sở, thì cái sáng toàn vẹn vậy. Mười phương cõi nước rỗng sáng thanh tịnh, ví như lưu ly ở trong treo trăng sáng, nên gọi là Tỏ Sáng. Đây là Dục Ái cạn khô nên phát Huệ, mới gọi là Càn Huệ. Lại chỉ mới có cái Huệ khô khan, chưa đến chỗ Diệu Viên, nên là Sơ Địa. Trong Thập Địa của kinh Đại Phẩm thì Địa đầu tiên gọi là Càn Huệ. Trong Viên Giáo của Ngài Thiên Thai, trước Thập Tín lập ra Ngũ Phẩm Vị, gọi là nghĩa Thôi cũng giống như Càn Huệ Địa của kinh Đại Phẩm. Kinh này chưa đến đây mà chỗ lập ra danh vị của Ngài Thiên Thai đã thầm hợp với Tâm Phật. Chẳng phải là bậc tự thân đến được hội Linh Sơn thì làm sao có được như thế!

Quan Đại Phu Lục Tuyên thưa với Tổ Nam Tuyền:

- Đệ tử cũng hiểu sơ sơ Phật Pháp.

Tổ Tuyền bèn hỏi:

- Trong mười hai thời, ông làm gì?

Đáp:

- Chẳng dính mảy lông.

Tổ Tuyền nói:

- Còn là kẻ dưới thềm.

Lại nói:

- Ông há chẳng nghe Quân Vương có Đạo chẳng thu bầy tôi có Trí, ư?

Về sau, có nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí rằng:

- Khi, Ngàn núi không mây, ngàn dặm tuyệt ráng, thì sao?

Tổ Chí nói:

- Ngọn Phi Thiên Lãnh, phía nào mà chẳng mửa hết ra!

Quả là cùng Tổ Nam Tuyền trước sau một vết bánh xe. Thế biết Càn Tuệ Địa cũng là chỗ tạm nghỉ. Bằng như cùng tận Diệu Giác thì cái ý rốt ráo phải tự riêng khác.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bộ kinh này có nhiều diễn giải, rất hay. tangbong tangbong tangbong


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

II. THẬP TÍN

Kinh:

- Cái tập khí của ngũ dục mới khô cạn chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của Như Lai. Tức nhân tâm này, ngay giữa lần vào Viên Diệu mở bày, theo Diệu Giác Viên chân thật, càng phát ra chân diệu. Diệu Tín thường trụ, tất cả vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung Đạo thuần Chân, gọi là Tín Tâm Trụ.

Thông rằng: Ngay giữa lần vào, chẳng nghiêng về Không, chẳng nghiêng về Giả, đó là Trung Đạo Diệu Quán vậy. Vừa mới vào Quán, Tam Đế viên dung, như ba điểm của chữ Y nên gọi là Viên Diệu, đây là chỗ sức người có thể làm. Nơi Quán đã thành, theo cái Chân phát ra Diệu, khế hợp với lý Viên, nên gọi là Diệu Viên, đây là chỗ sức người không thể đáp ứng nổi.

Trung Đạo thì y nơi Chân, Diệu thì có cái chẳng phải do Chân. Từ Chân phát ra Diệu thì Diệu đó là Chân Diệu. Diệu mà chẳng phải do Chân nên chẳng thể Thường. Trung Đạo thuần Chân nên Diệu ấy thường trụ. Cái Diệu đã thường trụ thì hết thảy vọng tưởng không còn đất để chân vậy. Cái gọi là Diệu ấy chỉ riêng người ấy rõ biết ý thú của Diệu này, không thể dùng lời nói chỉ bày cho người được. Đức tin này rất chân thật nên gọi là Tín Tâm Trụ.

Tổ Quy Sơn nói với Ngài Ngưỡng Sơn:

- Ông nên riêng tự hồi quang phản chiếu, người khác không biết chỗ tri giải của ông. Ông thử đem cái kiến giải chân thật trình lão tăng xem!

Ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Như dạy con tự xem thì vào trong ấy không có viên vị, cũng không có một vật, một giải nào để trình Hòa Thượng.

Tổ Quy nói:

- Chỗ không có viên vị là chỗ kiến giải của ông thì chưa rời tâm, cảnh.

Ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Đã không viên vị, chỗ nào có pháp? Lấy không vật làm cảnh.

Tổ Quy nói:

- Vừa rồi, chính ông có kiến giải ấy, phải không?

Ngài Ngưỡng đáp:

- Dạ, phải.

Tổ Quy nói:

- Nếu như thế thì đầy đủ tâm, cảnh lẫn pháp, chưa thoát khỏi tâm Ngã Sở. Nguyên vì có kiến giải trình tôi. Cho ông rõ được Tín Vị, còn Nhân Vị thì chưa!

Về sau, Ngài Ngưỡng Sơn hỏi Ngài Song Phụng:

- Sư đệ, gần đây chỗ thấy thế nào?

Đáp rằng:

- Theo chỗ thấy của tôi, thật không có một pháp để lưu tình.

Ngài Ngưỡng nói:

- Kiến giải của ông còn ở trong Cảnh.

Đáp rằng:

- Tôi chỉ như vậy. Sư huynh thì sao?

Ngài Ngưỡng nói:

- Ông há chẳng biết, Không có một pháp để lưu tình, ư?

Tổ Quy Sơn nghe được, nói:

- Một câu của Huệ Tịch e giết hết người trong thiên hạ.

Xét nghiệm như vậy, chẻ bửa như vậy mới biết, Theo Tánh Chân Thật, Diệu Viên càng phát ra Chân Diệu. Cái chỗ Chân Tín cách nhau xa hẳn với con đường tri giải vậy.

Kinh:

- Chân Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ, Giới không thể ngăn ngại. Như vậy cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ra trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng không quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.

Thông rằng: Niệm Tâm Trụ ở trong Thập Tín này là Túc Mạng Thông. Trước có nói: Cấm Giới thành tựu, sáu Căn thanh tịnh không cần Thiên Nhãn, xem thấy mười phương túc mạng thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm, cũng lần lần ra khỏi ngăn ngại. Ở đây, cả quá khứ, vị lai trong vô số kiếp đều có thể tưởng nhớ, ắt viên thông sáng rõ. Đây là trong Chân Tín phát khởi, Tánh Không đâu chẳng toàn khắp, nên suốt thông không đâu chẳng thấu đến. Đây là đã chứng Chân nên địa vị Tương Tự chẳng thể sánh được. Không chứng Chân thì Ấm, Xứ, Giới làm ngăn ngại, nên không thể thông suốt. Nay nắm giữ cái tâm rỗng sáng; căn, cảnh chẳng dính nhau, lâu ngày thì Chân Diệu một mình bày lộ, siêu vượt lên căn, cảnh. Do đó, tất cả tập khí do Tư Hoặc kết thành như quá khứ bỏ thân, vị lai thọ thân đều rõ ràng trước mắt, mà không quên mất.

Cái Niệm Tâm vốn thuộc sanh diệt, nay lấy Chân Tín mà nắm giữ nó thì niệm cũng an trụ, tức niệm tức Chân, lấy Chân, Vọng dung nhau thành một. Túc Mạng Thông từ bậc A La Hán cho đến cõi Phi Phi Tưởng, các ngoại đạo thì biết trước sau đến tám vạn kiếp. Nhưng vô số kiếp tức là A Tăng Kỳ kiếp thì ngoài Phật không ai chứng được. Xứ này, người biết quá khứ thì cũng đã có, còn người biết vị lai thì không nhiều.

Thiền sư Huệ Trung ở núi Ngưu Đầu nghe thiền sư Uy ra đời bèn đến thăm.

Thiền sư Uy vừa thấy, nói rằng:

- Sơn chủ đến vậy.

Ngài Huệ Trung cảm ngộ, ở lại hầu hạ.

Sau này, Huệ Trung xin đi các nơi tham học.

Một hôm, thiền sư Uy thấy cây Lăng Tiêu nơi Viện Cụ Giới gặp mùa Hạ nên héo úa. Có người muốn chặt đi, Ngài bảo:

- Đừng chặt, khi Huệ Trung về, nó sẽ sống lại!

Sau, Ngài Huệ Trung trở về, quả như lời nói, bèn giao Sơn Môn cho Huệ Trung.

Lại như Ngài Linh Thọ, suốt hai mươi năm không có Thủ Tòa. Ngài thường nói:

- Thủ Tòa của ta đã sanh rồi! Thủ Tòa của ta đang chăn trâu! Thủ Tòa của ta đang hành cước!

Một hôm, bảo đánh chuông, ra ngoài tam môn tiếp đón vị Thủ Tòa. Đại chúng ra đón thì quả là Ngài Vân Môn đến, bèn mời thẳng vào liêu Thủ Tòa.

Mở gói hành lý xong, trình thơ cho Tổ Linh Thọ, viết rằng:

- Đây là vị Thủ Tòa trong chùa, con mắt của trời, người.

Ngài bèn mời Tổ Vân Môn khai đường.

Hai vị tôn túc trên, có thể nói là đắc Niệm Tâm Trụ.

Kinh:

- Diệu Viên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh Tiến Tâm.

Thông rằng: Từ Chân Tín lần vào nên có thể tưởng nhớ. Từ Thuần Chân lần vào nên được cái Tinh Minh. Chân hay chuyển hóa cái Vọng thì Chân Tinh phát hóa là không thể nghĩ bàn, nên tập khí từ vô thủy hóa thành Tinh Minh. Ở trước nói: Tập khí hiện tiền, đến đây hóa thành Tri Giác Vô Thượng vậy. Tịnh mà đối với nhiễm thì chưa là Chân Tịnh. Chẳng dơ, chẳng sạch mới là Chân Tịnh. Nhân dùng cái Tinh Minh này tiến đến Chân Tịnh, ấy là muốn dẹp bằng dấu vết của cái, Thông thành một Tinh Minh, mà đều chuyển hóa hết vậy. Sự chuyển hóa này chẳng thể làm được thì sự Tiến cũng chẳng Tinh vậy.

Nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá:

- Thế nào là Tinh Tiến?

Tổ Bá nói:

- Thân tâm chẳng khởi, đó là Tinh Tiến mạnh mẽ đệ nhất. Vừa khởi Tâm hướng ngoài tìm cầu thì gọi là, Vua Ca Lợi ưa đi săn bắn. Tâm chẳng đi rong ở ngoài tức là, Tiên nhơn nhẫn nhục. Thân tâm đều không, đó là Phật đạo.

Kinh Pháp Cú nói:

- Nếu khởi tâm Tinh Tiến, đó là vọng chứ chẳng phải Tinh Tiến. Nếu Tâm thường chẳng vọng, đó là Chân Tinh Tiến.

Ngài Thiên Thai Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa ở núi Nam Nhạc đến chỗ phẩm Dược Vương:

- Đó là Chân Tinh Tiến, đó gọi là Chân Pháp cúng dường Như Lai, ngay đó ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, được gọi là Toàn Đà La Ni, thấy Pháp Hội Linh Sơn rõ ràng chưa tan.

Đây có thể nói là tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh vậy. Hẳn là tiến đến chỗ thân tâm đều Không, mới gọi là Chân Tịnh. Lìa ngoài Chân Tịnh mà riêng cầu chuyện tinh tiến đó là vọng vậy.

Kinh:

- Tâm Tinh hiện tiền, thuần dùng Trí Huệ, gọi là Huệ Tâm Trụ.

Thông rằng: Càn Huệ Địa ở trước sao không gọi là Huệ Tâm Trụ? Trước nói: Nắm giữ Tâm rỗng sáng, là còn có nắm giữ vậy. Đây nói: Tâm Tinh hiện tiền, tức là cái nắm giữ đã chuyển hóa rồi vậy. Trước nói: Thuần là Trí Huệ, tức còn mang lấy cái, Là. Đây nói: Thuần dùng Trí Huệ, tức đâu đâu cũng là cái dùng của Trí Huệ, đều mất cái Là vậy.

Chỗ này nếu chẳng phải Tinh Minh rõ suốt, linh quang hiển hiện thì chưa dễ nói ra được. Ban đầu thì nói có cái Trí Huệ ấy. Đến chỗ thuần là Trí Huệ thì có mà an trụ rồi, lại tiến thêm một bước.

Trong thiền môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người thứ hai. Ngài thường nói:

- Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí: như hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu là hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người căn khí thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người kiến giải xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng cần Căn Khí. Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng thông rõ phong đại, lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con mắt định nếu động, liền mất giao thiệp. Tâm nghĩ tức sai, động niệm tức trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt. Các Đại Đức, các ông mang bát phẩn, vác con chạy nhà người, cầu Phật, cầu Pháp tức nay cùng cái gì chạy tìm thế? Các ông chẳng biết nó chăng? Sống sờ sờ ra đó, chỉ cái chẳng bám níu. Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt.

Linh âm phó chúc bên tai, như chẳng có tin uổng nhọc trăm năm lần lữa. Như tin được, Sống sờ sờ ra đó, thì với Huệ Tâm Trụ đâu có xa!

Kinh:

- Nắm giữ Trí sáng, lặng trong cùng khắp, lặng lẽ nhiệm mầu thường lắng đọng, gọi là Định Tâm Trụ.

Thông rằng: Đã thuần dùng Trí Huệ thì Huệ Tâm thường trụ, sao lại còn dùng sự nắm giữ? Nói nắm giữ ý là quên cơ bỏ trí. Trí Huệ thường dùng, dùng tức ứng vật, bèn ở trong thể lặng trong chẳng được Tổng Trì. Nay gom lại ánh sáng rực rỡ, giữ mà chẳng dùng. Như Tổ Lâm Tế nói: Kiếm xuy mao dùng xong cần mài ngay!, tức là trong Tánh Diệu Trạm được Tổng Trì vậy.

Tổng Trì tánh chẳng động thì thường lắng đọng. Phàm, tánh lặng trong, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới, vốn không động lay, lặng mà chẳng phải lặng, chẳng đồng với tĩnh-chết, nước đọng, nên gọi là Tịch Diệu.

Cái Định Tâm Trụ này là, Khi Định thì Huệ ở tại Định, hoàn toàn chẳng liên can gì với cái thuyết: Trước Định sau Huệ, trước Huệ sau Định, do sức người tu trì.

Ngài Trí Hoàng ban đầu ra mắt Ngũ Tổ, sau đó ở trong am ngồi thiền suốt hai mươi năm.

Ngài Huyền Sách, đệ tử của Lục Tổ, đến thăm, hỏi rằng:

- Ông ở đây làm gì vậy?

Đáp:

- Nhập định.

Ngài Sách nói:

- Ông nói nhập định, là có tâm nhập hay không có tâm nhập? Nếu không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây, ngói đá cũng là đắc định. Nếu có tâm nhập thì tất cả hữu tình các loài hàm thức cũng đều đắc định.

Ngài Hoàng nói:

- Chính khi tôi nhập định chẳng thấy có tâm Có Không.

Huyền Sách nói:

- Chẳng thấy có cái tâm Có Không, đó là thường định, nào có xuất nhập! Nếu có xuất, có nhập ắt chẳng phải là Đại Định.

Trí Hoàng không đáp được.

Giây lâu hỏi rằng:

- Thầy ông là ai?

Ngài Sách đáp:

- Thầy tôi là Lục Tổ.

Trí Hoàng hỏi:

- Ngài Lục Tổ lấy gì làm thiền định?

Huyền Sách đáp:

- Thầy tôi nói rằng, Cái Diệu Trạm Viên Tịch, thể dụng như như. Năm Ấm vốn Không, sáu Trần chẳng có. Chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng loạn. Tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền tịch. Tánh thiền vô sanh, lìa sanh thiền tưởng. Tâm như hư không, cũng không có cái lượng hư không.

Ngài Trí Hoàng nghe nói vậy, bèn đến ra mắt Lục Tổ, kể lại hết sự việc.

Lục Tổ nói:

- Quả đúng như vậy. Ông chỉ Tâm như hư không, chẳng giữ không kiến, ứng dụng không ngại, động tĩnh vô tâm, tình phàm Thánh mất, Năng Sở đều tiêu. Tánh Tướng như như, không lúc nào mà chẳng là Định.

Trí Hoàng ngay đó đại ngộ, cái tâm sở đắc trong hai mươi năm trọn chẳng có ảnh hưởng gì. Đêm ấy ở Hà Bắc, quan dân nghe trên không có tiếng nói: Hoàng Thiền Sư ngày nay đắc Đạo!

Ngài trở về Hà Bắc khai hóa cho bốn chúng.

Lại có vị tăng hỏi thiền sư Hiển Đoan:

- Lắng đọng lặng trong thì như thế nào?

Tổ Đoan nói:

- Chẳng phải là chỗ an thân lập mạng của thầy Xà Lê.

Hỏi:

- Như sao là chỗ an thân lập mạng của học nhân này?

Đáp:

- Mây có thế ra núi, nuớc không tiếng vào khe.

Ngay đây hiểu được thì hằng vắng lặng mà chẳng lìa hằng tỏ soi. Đủ biết Định Huệ là pháp môn không hai vậy.

Kinh:

- Ánh sáng của Định phát ra vào sâu tánh sáng, chỉ có tiến chớ không lui, gọi là Bất Thối Tâm.

Thông rằng: Do Huệ vào Định, Định ấy chân chánh. Do Định phát sáng, cái sáng đó thâm sâu. Cái sáng không do định lực sanh thì nông cạn, không có gốc nên chẳng thể vào sâu. Nay Định Huệ giúp nhau nên tánh sáng càng thấu suốt, có chỗ nhỏ nhiệm nào mà chẳng soi, có chỗ mật nhiệm nào mà chẳng tột, cho nên có thể tìm đường hướng thượng. Tiến tới không thôi, chỉ có tiến không có lui, đủ để thấy ánh sáng ấy là sâu xa vậy. Nếu có chút chẳng sáng thì phải có ý thối lui. Địa vị chẳng thối này do Vô Minh từ vô thủy bị đào thải gần hết, không thể bị chao động lầm lạc, cho nên chẳng thể lui sụt vậy.

Ngài Càn Phong thượng đường rằng:

- Pháp Thân có ba loại bệnh, hai loại ánh sáng. Mỗi mỗi cần phải thấy suốt mới hiểu việc về nhà ngồi yên. Cần biết lại còn có hướng thượng nhất khiếu nữa.

Ngài Vân Môn bước ra hỏi:

- Người trong am cớ sao không biết chuyện ngoài am?

Tổ Phong ha hả cười lớn.

Vân Môn thưa:

- Đó cũng là chỗ nghi của kẻ học nhơn này.

Tổ Phong nói:

- Ông là cái tâm hạnh nào đó?

Vân Môn nói:

- Cũng xin Hòa Thượng giải quyết cho.

Tổ Phong nói:

- Ngay đây cần cái gì thêm nữa mới hiểu chỗ ngồi yên?

Ngài Vân Môn cất tiếng:

- Dạ, dạ.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng:

- Ngồi kẹt, bệnh hết thuốc chữa. Dùng kẹt, ánh sáng chẳng thấu thoát. Dầu cho tung hoành ngang dọc, toàn chuyển nhất cơ cũng là chưa biết còn một cái Hướng thượng nhất khiếu. Còn được cái địa vị ngồi yên đấy chăng? Rốt cùng, sương trăng tối, mặc nhiên rớt đầu khe.

Vân Môn thật là người trong cửa, còn chẳng biết việc ngoài cửa bởi vì đắc, Địa vị ngồi yên. Nếu chưa đến chỗ phần hạn của Vân Môn thì phải hướng về câu nói của Tổ Càn Phong nhai nhấm một phen mới rõ đường mạch chân thật của Bất Thối Tâm.

Kinh:

- Tâm an nhiên tiến tới, giữ gìn chẳng mất, giao tiếp với khí phần của mười phương Như Lai, gọi là Hộ Pháp Tâm.

Thông rằng: Định Huệ dung nhau vào bất sanh diệt. Tâm mà không cái tâm, tiến mà không chỗ tiến. Một niệm tương ưng, không có tạo tác nên nói là an nhiên. Chưa đến chỗ an thì còn mượn sự nỗ lực gìn giữ. Đã đến chỗ an thì gìn giữ chẳng mất vậy.

Nói rằng chẳng mất là chẳng mất vật gì? Giữ gìn là giữ gìn việc gì? Đây là mạng mạch của Chư Phật, xuyên suốt mười phương. Nay ta đã được Tổng Trì, ắt mạng mạch của Chư Phật là ở ta, tinh thần có thể thông nhau, khí phần tự nhiên giao tiếp. Khí phần của ta giao tiếp với Phật, đó là ta hộ trì Chánh Pháp của Như Lai. Khí phần của Phật giao tiếp với ta, đó là Phật hộ trì Chánh Pháp của ta. Đến chỗ này thì Tư Hoặc về ba cõi hết sạch, ấy là Chánh vị của sáu Căn thanh tịnh vậy. So với Đại Phẩm là tương đương với Phật Địa, nên nói là, Chỗ hộ niệm của Chư Phật.

Xưa, Đức Lục Tổ giặt áo trên tảng đá bỗng có một nhà sư đến lễ bái, bạch rằng:

- Tên là Phương Biện, người xứ Tây Thục, mới rồi ở Nam Ấn mộng thấy Tổ Sư Đạt Ma phú chúc rằng, Phương Biện hãy qua ngay Trung Thổ, ta truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng từ Đại Ca Diếp và y Tăng-Già-Lê nay đã đến đời Thứ Sáu ở Thiều Châu Tào Khê, ông đến đó mà chiêm lễ". Phương Biện này từ xa đến mong được thấy y bát của Tổ Sư truyền lại.

Lục Tổ bèn đưa cho xem.

Đây là một chứng nghiệm về khí phần giao tiếp.

Ngài Phong Huyệt ban đầu đến Tổ Hoàng Long.

Tổ Long hỏi:

- Sừng đá xuyên đường mây, ý nghĩa ấy thế nào?

Ngài Huyệt đáp:

- Ráng hồng lồng tượng ngọc. Ngăn che chiếu đầu sông.

Tổ Long nói:

- Theo nhau đến vậy.

Ngài Huyệt nói:

- Hòa Thượng nói nho nhỏ!

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Chỗ tối châu ngời vô giá treo,
Đêm khuya định nắm mộc nhân xeo.
Ai ngờ lại bị trâu bùn thấy,
Nuốt trọn ráng hồng sóng biếc theo.

Nhà nghề gặp nhau thì chưa từng chẳng lấy sự hộ trì trân trọng mà khuyên gắng. Chỗ này cũng có thể thấy tâm hộ pháp của chư vị vậy.

Kinh:

- Giữ gìn tâm giác sáng có thể dùng diệu lực xoay Từ Quang của Phật lại nơi mình và hướng về Phật mà an trụ, như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các bóng nhiệm mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi Hướng Tâm.

Thông rằng: Xoay Từ Quang của Phật lại là xoay Quả mà hướng về Nhân vậy. Hướng về Phật mà an trụ là xoay Nhân mà hướng về Quả vậy. Quả, Nhân một niệm khế hợp thì ánh sáng giao nhau, nhập vào nhau, chỗ nhiệm mầu này khó dùng lời lẽ tỏ bày. Chỉ có cái diệu lực chứ chẳng liên quan đến công phu. Ánh sáng nhân tâm Từ mà hiển, chẳng cần phương tiện. Chỗ trụ đồng với Phật, nên không còn thứ bậc. Bổn Giác và Thủy Giác hai cái Giác dung hòa lẫn nhau, ví như ánh sáng đối nhau trong hai tấm gương. Có cái diệu lực này mới có diệu ảnh này. Giữ gìn tâm Giác sáng, không trở lại cái biết hư vọng thì cái Minh này là Diệu Minh vậy. Diệu Minh minh diệu, một tức tất cả, tất cả tức một, diệu ảnh trùng trùng dung nhập vào nhau. Nói là diệu ảnh thì chẳng phải ảnh của tiền trần hay pháp trần. Ở đây, ảnh trộn lẫn trong ánh sáng, ánh sáng cũng hòa lẫn nơi ảnh, tương tự Một Trí Đại Viên Cảnh vậy.

Xoay Trí Phật làm trí mình, xoay trí mình về trí Phật, tâm tâm chế nhau, gần như đồng với Phật há chỉ có khí phần giao tiếp thôi ư!

Tổ Quy Sơn một hôm bảo các học trò trình ra chỗ hiểu biết.

Tổ nói:

- Ngoài Thanh Sắc, cùng ta thấy nhau.

Ngài Ngưỡng Sơn qua ba lần trình lời đều nói:

- Như hai mặt kính soi nhau, trong đó không có hình tượng.

Tổ Sơn nói:

- Lời này chân chánh nhưng ta phải mà ông chẳng phải, vì đã sớm lập hình tượng rồi.

Ngưỡng Sơn lại hỏi Tổ:

- Con tinh thần tối tăm, đối đáp vụng về. Chưa rõ Hòa Thượng khi ở với Sư Ông Bách Trượng trình lời ra sao?

Tổ Quy Sơn nói:

- Khi ở với Tiên Sư Bách Trượng, ta trình lời như vầy: Như trăm nghìn gương sáng soi hình tượng, bóng sáng chiếu nhau, trần trần, sát sát, mỗi mỗi chẳng mượn nhau.

Ngài Ngưỡng Sơn liền lễ tạ.

Hai vị tôn túc khéo nói Lăng Nghiêm. Một đằng như hai tấm gương ánh sáng đối nhau. Một đằng như diệu ảnh trùng trùng tương nhập. Hợp lại mà nói, ý nghĩa mới đầy đủ.

Tổ Tuyết Phong thượng đường:

- Cần rõ việc này, như gương xưa trên đài, (người) Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện.

Ngài Huyền Sa ra khỏi chúng, nói:

- Bổng gặp gương sáng đến thì thế nào?

Tổ Phong nói:

- Hồ, Hán đều ẩn.

Ngài Huyền Sa nói:

- Gót chân lão Hòa Thượng còn chưa chấm đất!

Biết được vì sao Ngài Huyền Sa không chịu lời Tổ Tuyết Phong thì biết ngay chỗ Ngài Ngưỡng Sơn lễ tạ Tổ Quy Sơn vậy.

Kinh:

- Tâm quang thầm xoay lại, được chỗ thường lắng đọng Vô Thượng Diệu Tịnh của Chư Phật, an trụ vô vi, được không bỏ mất gọi là Giới Tâm Trụ.

Thông rằng: Tâm quang thầm xoay lại, hướng về Phật mà an trụ được thường lắng đọng tịch diệu của Chư Phật, đối cảnh mà chẳng động. Được chỗ Vô Thượng Diệu Tịnh của Phật thì giao thiệp với trần mà chẳng nhiễm. Đây là Tự Tánh Thiên Chân Phật, vô vi chân thật vậy. An trụ trong đó thì không tạo không làm, không chứng không đắc. Phàm có được ắt có mất, không được thì không mất. Có mất thì cần dùng Giới. Không mất thì đâu cần dùng Giới. Tự Tánh vô vi, tức đó là Giới. Giới mà không có chỗ Giới, đó là Chân Giới. Giới này tại tâm quang, chỗ âm thầm xoay lại mà gọi là mật vì không thể lấy ý thức đo lường, há có thể nói đồng với Giới Luật tầm thường sao? Tức Giới tức Định, tức Giới tức Huệ, chỉ một thể mà khác danh thôi.

Xưa, Ngài Thạch Đầu ban đầu đến Tổ Thanh Nguyên tham lễ.

Tổ Nguyên nói:

- Ông chốn nào đến?

Đáp:

- Tào Khê.

Tổ Nguyên nói:

- Đem được cái gì đến vậy?

Đáp:

- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

Tổ Nguyên nói:

- Nếu như thế, đến Tào Khê làm gì?

Đáp:

- Nếu không đến Tào Khê, sao biết là chẳng mất.

Ngài Thạch Đầu lại nói:

- Đại Sư ở Tào Khê có biết Hòa Thượng không?

Tổ Nguyên nói:

- Nay ông có biết tôi chăng?

Đáp:

- Biết thì lại làm sao biết được?

Tổ Nguyên nói:

- Loài có sừng tuy nhiều mà một con kỳ lân là đủ rồi vậy.

Về sau, Tổ Dược Sơn một hôm đang ngồi trên tảng đá, Ngài Thạch Đầu hỏi:

- Ở trong ấy làm gì thế?

Ngài Sơn nói:

- Một vật cũng chẳng làm.

Ngài Đầu nói:

- Như thế là ngồi chơi (nhàn tọa) vậy.

Ngài Sơn nói:

- Nếu ngồi chơi tức là làm.

Ngài Đầu:

- Ông nói chẳng làm là chẳng làm cái gì?

Ngài Sơn nói:

- Ngàn Thánh cũng chẳng biết.

Ngài Thạch Đầu nhân đó dùng kệ ca ngợi rằng:

Xưa nay cùng ở chẳng hay danh,
Nhậm vận cùng nhau chỉ thế hành.
Từ cổ Thánh Hiền còn chẳng rõ,
Phàm phu há biết, nhọc lăng xăng.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Huyền vi cùng tận vốn an nhiên,
Nếu cho y rộng tám vạn thiên.
Trăng in sông lặng, nào tăm cá,
Đâu mệt ông câu thả lưới nôm.

Xem chỗ nói: Chẳng làm, của Ngài Dược Sơn, chỗ nói: Chẳng mất, của Ngài Thạch Đầu thì rốt ráo chẳng thể đo lường hiểu biết, ấy khá mật nhiệm vậy. Có thể qua cửa ải này bèn được chỗ thường lắng đọng vô thượng diệu tịnh của Phật, có thể gọi là Giới Tâm Trụ.

Kinh:

- Trụ giới tự tại có thể dạo khắp mười phương, đến đâu tùy nguyện, gọi là Nguyện Tâm Trụ.

Thông rằng: Trụ Giới tự tại thì quên luôn cái gì là Giới. Thường lắng đọng nơi Chân Tịnh, thích gì mà chẳng được, nên có thể đi dạo khắp mười phương, đến đâu tùy nguyện. Trong Viên Giáo của Thiên Thai Tông, nếu chưa đoạn Vô Minh thì sanh sang cõi Đồng cư, gọi là Nguyện Sanh, quả là phù hợp với đoạn kinh này. Thiên Thai Tông lại nói hàng Thập Tín ra khỏi Giả Quán mà làm lợi ích cho chúng sanh. Đoạn này nói: Dạo khắp mười phương, thì cũng hợp với nghĩa ấy.

Thiền sư Thủ Sơn Niệm vào giờ Ngọ, ngày mồng Bốn, tháng Chạp năm Thứ Ba niên hiệu Thuần Hóa, thượng đường nói bài kệ:

Năm nay sáu mươi bảy,
Già bệnh tùy duyên qua tháng ngày.
Năm nay ghi nhớ việc năm sau,
Năm sau nhớ rõ sáng hôm nay.

Đến ngày tháng của năm sau không sai chạy, thượng đường từ biệt đại chúng, rồi nói bài kệ:

Thế giới bạch ngân vàng sắc thân,
Tình với vô tình cùng Nhất Chân.
Sáng, tối hết rồi đều chẳng chiếu,
Mặt trời sau Ngọ trọn bày thân.

Rồi an tọa mà tịch.

Đệ tử của Ngài Phần Dương Chiểu có tình cố cựu với Doãn Lý Hầu ở phủ Long Đức. Hầu sai người đến chùa Thừa Thiên mời Ngài. Sứ giả ba phen mời không được, bị phạt nên muốn được Ngài cùng đi.

Ngài cười rằng:

- Cái nghiệp của lão tăng là chẳng ra khỏi chùa ba mươi năm nay rồi. Nếu đi thì phải có trước sau, cần gì cùng một lúc!

Rồi bảo thiết trai, chuẩn bị hành lý và bảo đại chúng:

- Lão tăng đi đây, người nào theo được?

Một vị tăng bước ra thưa:

- Con theo được.

Ngài bảo:

- Mỗi ngày ông đi mấy dặm?

Vị tăng đáp:

- Năm mươi dặm.

Ngài nói:

- Ông theo ta chẳng được!

Lại có một vị tăng bước ra, nói:

- Con theo được.

Ngài bảo:

- Mỗi ngày ông đi mấy dặm?

Vị tăng đáp:

- Bảy mươi dặm.

Ngài nói:

- Ông cũng theo ta chẳng được.

Vị thị giả bước ra nói:

- Con theo được, Hòa Thượng đến đâu con đến đó.

Ngài bảo:

- Ông theo được đó.

Nói xong Ngài bảo với sứ giả rằng:

- Tôi đi trước nghe. Rồi vui vẻ ngồi tịch. Vị thị giả liền đứng mà tịch.

Đây chẳng phải là, Đến đâu tùy nguyện, ư? Chẳng phải đã chứng Thập Tín thì chưa dễ đến chỗ này. Tin là chân thật không hư vọng, vì tương ưng với Thật Tế Lý Địa vậy. Nên có câu: Chỉ một sự thật này, dư hai ắt chẳng Chân. Ban đầu ắt Dục Ái cạn khô, giữ tâm rỗng sáng rồi sau mới có thể vào Chân Tánh Diệu Viên. Chân Tánh phát hóa, tập khí nhỏ nhiệm đều dung thông. Lại nhờ Định Huệ mà giữ gìn, lấy sự Hộ Trì mà tiến tới; xoay Từ Quang của Phật, được Tịnh Giới của Phật. Từ đó, sanh vào nhà Như Lai, mà chỗ đi tùy nguyện vậy. Thập Tín chẳng phải là Thập Trụ nhưng tại sao đều gọi là Trụ? Bồ Tát Vô Trước lập ra mười tám địa vị, phán định địa vị trước sau của kinh Kim Cương, do đó bậc Sơ Trụ cũng được gọi là Trụ, vì y vào Trí Vô Trụ, vĩnh viễn chẳng bị thối chuyển, nên được cái tên Trụ.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

III. THẬP TRỤ

Kinh:

- A Nan, người thiện nam đó dùng phương tiện chân thật phát được mười cái tâm ấy. Tâm tinh phát huy mười cái Dụng xen lẫn vào nhau, viên thành một tâm, gọi là Phát Tâm Trụ.

Thông rằng: Từ Chân Diệu Viên trùng phát Chân Diệu, đây gọi là phương tiện chân thật. Dùng phương tiện chân thật mà phát được mười thứ Tín Tâm này. Tin ấy là Chân. Chân ấy là Tin, không dung chứa niệm nào khác xen tạp vào, thì cái Tâm ấy tinh thuần vậy. Sự tinh minh của tâm tự phát ánh sáng. Hoặc Định hoặc Huệ, hoặc Giới hoặc Nguyện, mười cái Dụng xen lẫn vào nhau: ngay trong Định mà Huệ, Giới đều sẵn đủ, ngay nơi Giới mà Định, Huệ đều tròn đầy. Tóm lại, là phát minh cái Bổn Lai, hướng nơi Phật mà an trụ, nên gọi là, Viên thành một tâm. Mười cái Dụng chưa tròn thì tâm lượng chưa đầy, hẳn phải mười cái Dụng viên thành mới có thể gọi là Phát Tâm Trụ.

Ngài Thiên Thai Trí Giả lấy mười Tâm Anh Lạc (chuỗi ngọc) đối với mười quán pháp Đại Thừa, ước định Sơ Trụ của Viên Giáo, tỏ đủ mười Đức thì ý nghĩa cũng phù hợp nhau.

Xưa, Đức Lục Tổ canh ba vào thất, Đức Ngũ Tổ lấy áo cà sa che quanh không để người thấy, nói cho kinh Kim Cang, đến câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Lục Tổ ngay nơi lời nói đại ngộ, rõ tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự Tánh, bèn bạch cùng Ngũ Tổ:

Nào ngờ Tự Tánh vốn tự thanh tịnh,
Nào ngờ Tự Tánh vốn chẳng sanh diệt.
Nào ngờ Tự Tánh vốn tự sẵn đủ,
Nào ngờ Tự Tánh vốn không động lay.
Nào ngờ Tự Tánh sanh ra muôn pháp.

Đức Ngũ Tổ biết đã ngộ Bổn Tánh, nói rằng:

- Chẳng rõ Bổn Tâm, học pháp vô ích. Như rõ Bổn Tâm mình, thấy Bổn Tánh mình thì gọi là trượng phu, thầy của Trời, Người, là Phật.

Cho nên viên thành một tâm, như chỗ ngộ của Đức Lục Tổ mới có thể nói là Phát Tâm Trụ.

Kinh:

- Trong tâm phát sáng, như ngọc lưu ly trong sạch, ở trong hiện chói sắc vàng ròng. Dùng cái diệu tâm trước kia bước đi thành địa vị, gọi là Trị Địa Trụ.

Thông rằng: Chỗ thấy rõ ràng mới có thể bước đi. Chỗ thấy không rõ ràng dầu có cất bước đi nữa cũng chẳng phải là un đúc Tự Tánh, chỉ là chạy theo việc ngoài, ví như cất nhà trên đất người khác, đối với ta có dính dáng gì?

Cái Trong tâm phát sáng, đây tức là Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí, từ trong Pháp Giới Tánh mà hiện bày, như ngọc lưu ly trong sạch, ở trong hiện chói sắc vàng ròng. Thấy rất chân thật, ngộ rất thấu suốt, chỗ thấy cùng pháp không hai nhưng chỗ hành chưa tới. Từ đây gìn giữ, từ đây bước đi. Dùng mười thứ tâm mầu nhiệm trước kia, mỗi mỗi tự thân hành đạo, thân tâm như nhất, bước bước vững vàng như đất. Hễ cất nhà thì trước sửa sang nền đất. Đây là chỗ bắt đầu khởi bước, nên gọi là Trị Địa Trụ.

Thiền sư Vân Cư Ứng thượng đường:

- Người xưa nói: Muốn kham giữ việc này cần hướng về đảnh núi chót vót mà đứng, đáy bể thăm thẳm mà đi mới có đôi chút hơi hám. Bằng các ông chưa rõ đại sự hãy nên dẫm bước trên đường huyền.

Có nhà sư hỏi:

- Thế nào là chỗ bước đi của người hướng thượng?

Tổ Cư nói:

- Thiên hạ thái bình.

Lại có nhà sư hỏi thiền sư Quảng Pháp Viện Nguyên:

- Từ xưa các Thánh hướng chỗ nào mà đi?

Tổ Nguyên nói:

- Đầu đường chữ thập .

Hỏi:

- Thế tức là hư khuyết vậy.

Đáp:

- Biết ông chưa đến đất đai ấy.

Hỏi:

- Đến rồi thì sao?

Tổ nguyên nói:

- Nhà thường cơm nước.

Cho nên lấy cái chỗ mà các vị tôn túc gọi là dẫm bước thì rõ Trị Địa Trụ. Cái dẫm bước này thật nhiệm mầu vậy.

Kinh:

- Tâm địa biết khắp, đều được tỏ rõ, dạo đi mười phương, được không ngăn ngại, gọi là Tu Hành Trụ.

Thông rằng: Tâm, do đâu mà biết là Địa? Địa, do đâu mà biết là Tâm? Tâm ấy là Diệu Tâm. Hạnh ấy là Diệu Hạnh. Trí ấy là Diệu Trí vậy. Lý, Hạnh, Trí ba Đức viên dung mới có thể nói là Tâm Địa biết khắp, sáng tỏ chẳng mờ, rõ ràng thường biết. Tâm tức là Hạnh, Hạnh tức là Tâm, dạo đi mười phương, có gì ngăn ngại. Đã không ngăn ngại nào cần dùng đến tu hành, mà ở đây gọi là Tu Hành Trụ? Một là dẫm bước trên Thật Tế, không giữ bám chấp, nên lấy sự dạo đi làm Tu. Một là nắm chặt cái tâm sáng tỏ bèn là ngăn ngại, nên lấy sự không ngăn ngại làm Tu. Thật ra, là Hành mà không chỗ Hành, Tu mà không chỗ Tu vậy.

Thiền sư Thạch Sương chỉ dạy đại chúng rằng:

- Hàng sơ cơ chưa rõ đại sự trước cần biết nắm cái đầu thì cái đuôi tự đến.

Ngài Sơ Sơn bước ra, hỏi:

- Thế nào là đầu?

Tổ Sương nói:

- Cần biết ngay đang có.

Ngài Sơ hỏi:

- Thế nào là đuôi?

Tổ Sương nói:

- Hết sạch hiện giờ.

Hỏi:

- Có đầu không đuôi thì sao?

Đáp:

- Mửa được vàng ròng còn làm gì nữa?

Hỏi:

- Có đuôi không đầu thì sao?

Đáp:

- Vẫn còn nương dựa.

Hỏi:

- Được ngay đầu đuôi tương xứng thì thế nào

Đáp:

- Y chẳng làm cái hiểu biết, cũng chưa cho là y có đó!

Về sau có nhà sư hỏi thiền sư Cửu Phong Kiền:

- Thế nào là đầu?

Tổ Phong đáp:

- Mở mắt chẳng hiểu biết.

Hỏi:

- Thế nào là đuôi?

Đáp:

- Chẳng ngồi sàng muôn năm.

Hỏi:

- Có đầu không đuôi thì thế nào?

Đáp:

- Rốt là chẳng quý.

Hỏi:

- Có đuôi không đầu thì thế nào?

Đáp:

- Tuy no mà không có sức.

Hỏi:

- Được ngay đầu đuôi tương xứng thì thế nào?

Đáp:

- Con cháu đắc lực, trong nhà chẳng biết.

Ngài Cửu Phong hiểu được ý Tổ Thạch Sương như từ cùng một ấn in ra.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Quy thì tròn, củ thì vuông,
Dùng thì làm, bỏ thì cất.
Vụng chậm loài chim nương ổ, quanh quẩn thứ dê đụng rào,
Ăn cơm nhà người, nằm giường của mình.
Mây kéo đổ mưa, móc kết thành sương,
Chỉ ngọc qua lỗ kim vừa hợp, tơ dài chẳng dứt ruột thoi ra.
Gái đá máy ngừng, hề, màu đêm sắp Ngọ,
Người gỗ chuyển đường, hề, bóng nguyệt dời khuya.

Bài tụng này đầu đuôi tương xứng. Phải Tu như thế, Hành như thế mới có thể tương ưng cùng pháp môn Viên Đốn.

Kinh:

- Hạnh đồng với Phật, lãnh nhận khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Cái âm tín thầm thông vào dòng giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.

Thông rằng: Hạnh đồng với Phật là từng phần Chân Trí bình đẳng với Cứu Cánh Trí. Nhận khí phần của Phật là từng phần Chân Lý bình đẳng với Cứu Cánh Lý. Đoạn trước nói: Khí Phần giao tiếp, thì còn là hai, Đến đây, vào dòng giống Như Lai thì cơ hồ hợp làm một vậy.

Thân Trung Ấm là cái Ấm này đã hết mà cái Ấm kia chưa sanh, ở khoảng giữa hai cái Ấm này, lơ lững giữa hư không bốn mươi chín ngày tự tìm cha mẹ. Nghiệp Duyên tương tự thì đến thai sanh. Chỗ này là âm tín thầm thông, chẳng phải do suy tính tìm cầu. Quyền trí như cha, thực trí như mẹ, nhậm vận tương hợp, chẳng mượn công sức, cái quả đức âm thầm bằng nhau. Đâu thể biết sự tự nhiên nhi nhiên, do đó như âm như thầm mới có thể vào dòng giống Như Lai.

Nói là Sanh Quý cũng giống như Vương Tử còn trong thai mà ngôi vị đã khác thường dân, nên nói rằng Quý. Quý ở chỗ đốn chứng Vô Thượng Đệ Nhất Pháp Môn vậy.

Tổ Động Sơn có họa đồ Ngũ Vị Vương Tử. Một là Đản Sanh. Hai là Triều Sanh. Ba là Mạt Sanh. Bốn là Hóa Sanh. Năm là Nội Sanh. Tất cả đều dùng để phát minh cơ duyên hướng thượng.

Tổ Thạch Sương tụng về Ngũ Vị Vương Tử Đồ, như sau:

Một là Đản Sanh:

Sang cả tự nhiên vốn chẳng công,
Đức hợp Càn Khôn nuôi thịnh dòng.
Đầu đuôi một giống không sai khác,
Cung phân sáu trạch (nhà) cũng đồng tông.
Trên hòa dưới kính, âm dương thuận,
Cộng khí (phần) liền cành, khí lượng đồng.
Muốn rõ Đản Sanh Vương Tử Phụ,
Vút ra lồng bạc hạc thong dong.

Hai là Triều Sanh:

Khổ học tình đời luận khó bì,
Ra rồi phàm sự đã vô vi.
Thơ thành năm chữ, ba đông tuyết,
Bút phẩy tơ hào, bốn biển mây.
Công chứa muôn pho nên thời thánh,
Một lòng trung hiếu giúp minh quân.
Mặn chua chẳng phải sanh hay (biết) được,
Nào nhọc bảng vàng hiển đại công.

Ba là Mạt Sanh:

Nương lâu hang hốc dụng công phu,
Giường cỏ cửa cây giữ chí cô (đơn).
Nghe, thấy mười năm tâm tự chứa,
Một thân đông hạ, áo y không.
Trong lặng mỉm cười ba thu ý,
Thanh khổ cao danh thượng triết đồ.
Nên nghiệp cao khoa đền chí cũ,
So ra quan tướng chẳng ai bằng.

Bốn là Hóa Sanh:

Nương phần đế mệnh để truyền trì,
Muôn dặm sơn hà hiển chánh uy.
Mặt trời đỏ bóng ngừng cõi dưới,
Mây dồn gió mát lúc oi nồng.
Thấp cao há bỏ tôn ti lệnh,
Năm khố xa gần biết phục sinh.
Tay cầm diệu ấn biên cương lặng,
Ngôi trời nào lộ chút cơ vi.

Năm là Nội Sanh:

Thẳm chốn cửu trùng há lại tuyên,
Khoác xấu xa để hiển diệu truyền.
Chỉ thờ một đấng trời đất quý,
Theo kia các đạo tự phân quyền.
Tử La màn khép, vua tôi cách,
Hoàng Các rèm buông, cấm chế toàn.
Vì ngươi chốn chốn cung thần mến,
Mượn lá vàng ngưng nín khóc liền.

Có nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham:

- Thế nào là Vương Tử Đản Sanh?

Tổ Nham nói:

- Thâm cung dẫn chẳng ra.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Quý lạ thiên nhiên hẳn có thì,
Vườn Xuân sáu viện ít tương tùy.
Nửa đêm sao hợp thiên luân khác,
Đuốc chiếu trong cung lặng rủ rèm.

Cho nên một đường Sanh Quý là tông phong của Tào Động, rất là miên mật. Chẳng vào thất này khó cùng nói năng.

Kinh:

- Đã vào Đạo Thai, chính mình nhờ được sự nuôi sống của Tánh Giác, như Thai đã thành, tướng người không thiếu gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.

Thông rằng: Thánh Thai đã thành thì không chỉ nhận cái khí phần mà chính mình còn được sự nuôi sống của Tánh Giác, tiếp nối mạng mạch của Phật, ứng cơ tiếp vật, đủ đầy phương tiện. Tuy chưa đến chỗ viên mãn, nhưng cũng cụ thể chi tiết, như người ở trong thai, tướng mạo đầy đủ. Tướng mạo hiển bày để có thể thấy được, đó thuộc về phương tiện ứng dụng, nên gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đại sư, người ở xứ Hoàng Mai Kỳ Châu. Kiếp trước là đạo giả Tài Tùng ở Phá Đầu Sơn, từng hỏi Đức Tứ Tổ:

- Có thể nghe được đạo pháp chăng?

Tổ đáp:

- Ông đã già, có nghe được rồi làm sao rộng hóa? Nếu sanh lại được thì tôi còn chờ ông.

Đạo giả bèn đi, đến bờ sông, thấy một cô gái đang giặt áo, chắp tay hỏi rằng:

- Ở nhờ được chăng?

Cô gái nói:

- Tôi có phụ huynh, có thể đến đó mà xin.

Nói rằng:

- Đồng ý tôi mới dám đi.

Cô gái gật đầu ưng chịu. Đạo giả bèn quay gậy mà đi.

Cô gái là con út nhà họ Châu, khi về nhà thì có thai. Cha mẹ rất xấu hổ, đuổi đi. Cô gái không chỗ nương tựa, ngày thì quay tơ mướn trong xóm, tối thì ngủ nhờ trong quán tiệm. Rồi sanh ra một đứa con trai, cho đó là chẳng lành, nên đem ném xuống một rạch nước đục. Sáng ngày thấy trôi ngược trở lên, khí phách tươi tốt, rất kinh sợ, vớt lên nuôi nấng. Đứa bé theo mẹ đi xin ăn, người làng gọi là thằng bé không họ.

Có hôm, gặp một vị trí giả than rằng:

- Đứa bé này thiếu mất bảy tướng tốt nữa, nên chẳng bằng Như Lai.

Sau này, gặp Đức Tứ Tổ, Tổ hỏi:

- Cậu bé tánh (họ) gì?

Đáp rằng:

- Tánh (họ) thì có, nhưng chẳng phải tánh (họ) thường.

Tổ hỏi:

- Là tánh (họ) gì?

Đáp rằng:

- Là tánh Phật.

Tổ hỏi:

- Con không có tánh (họ) ư?

Đáp rằng:

- Tánh Không vậy.

Tứ Tổ biết là pháp khí, bảo thị giả đến chỗ ở bà mẹ để xin cho Ngài xuất gia. Bà mẹ vì duyên cũ, nên không cản trở, cho theo làm đệ tử, về sau nối ngôi Tổ.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Hoàng Mai quả chín, sen trắng hoa khai,
Hỏi, chỉ họ Phật, thân khác phàm thai.
Y truyền Nam Lãnh người đem mất,
Tùng lão Tây Sơn, trở lại đây.
Hai lớp túi da thành nên chuyện,
Một bầu trăng gió lặng bụi đời.

Ngài Thủy Am tụng rằng:

Hẹn đi, Tài Tùng, ấy lão nhơn,
Trở lui vui pháp cậu đồng chân.
Thân có mẹ sanh, cha Không Tánh,
Linh miêu ngoài kiếp chẳng phạm xuân.

Nếu đạo giả chưa đến Phương Tiện Cụ Túc Trụ thì làm sao đến đi tự do, gần được đầy đủ tướng tốt Như Lai?

Kinh:

- Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh Tâm Trụ.

Thông rằng: Dung mạo ví dụ cho sự ứng dụng, tâm tướng ví dụ cho Chân Trí. Dù cho bề ngoài giống nhau mà bên trong hơi khác thì chẳng phải Chánh Tâm vậy. Chánh Tâm cũng khó nói ra, vì phải phàm Thánh đều quên, Tình hết sạch, Thể hiện bày, mới có thể nói là Chánh.

Thiền sư Nam Tháp Quang Dũng lên miền Bắc gặp Tổ Lâm Tế rồi trở lại hầu Tổ Ngưỡng Sơn.

Tổ Sơn hỏi:

- Ông đến làm gì?

Đáp:

- Ra mắt thân cận Hòa Thượng.

Tổ Sơn hỏi:

- Có thấy Hòa Thượng chăng?

Đáp:

- Dạ, thấy.

Tổ Sơn nói:

- Hòa Thượng sao giống con lừa?

Đáp:

- Con thấy Hòa Thượng cũng chẳng giống Phật.

Tổ Sơn nói:

- Nếu chẳng giống Phật thì giống cái gì?

Đáp:

- Nếu có chỗ giống thì đâu khác con lừa.

Ngài Ngưỡng Sơn rất kinh ngạc, nói:

- Phàm Thánh đều quên, tình dứt, thể lộ. Ta lấy chỗ này để xét nghiệm người, hai mươi năm nay không người rõ thấu. Ông giữ gìn đi.

Ngài Ngưỡng Sơn thường chỉ sư mà nói với người khác:

- Ông ấy là nhục thân Phật vậy.

Xem đây, thì Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, chỉ có Ngài Quang Dũng là gần đó vậy.

Kinh:

- Thân Tâm hợp thành, ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất Thối Trụ.

Thông rằng: Địa vị Bất Thối Tâm ở trước chỉ sự vào sâu trong Tánh Sáng, có tiến không có lùi, thì chỉ mới nói về phương diện Tâm. Còn địa vị Bất Thối Trụ ở đây là Thân Tâm hợp thành, ngày càng tăng trưởng, là tiến tới gồm cả trong lẫn ngoài. Tức là ở địa vị trước đây, dung mạo, tâm tướng thoải mái, nhàn hạ mà chờ tự tăng trưởng, chứ chẳng phải chứa công dồn hạnh mà so sánh được.

Có nhà sư nêu lên bài kệ của thiền sư Ngọa Luân:

Ngọa Luân có tài khéo,
Hay dứt trăm tư tưởng.
Đối cảnh, Tâm chẳng khởi,
Bồ Đề ngày tăng trưởng.

Đức Lục Tổ nghe xong, nói rằng:

- Kệ này chưa rõ Tâm Địa, nếu nương theo đó mà tu hành thì càng thêm trói buộc.

Nhân đó chỉ bày bằng bài kệ:

Huệ Năng không tài khéo,
Chẳng đoạn trăm tư tưởng.
Đối cảnh, tâm tâm khởi,
Bồ Đề nào tăng trưởng.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng:

- Hoa Quỳ hướng nhật, tơ liễu tùy phong.

Ôi, một khiếu hướng thượng, chẳng tăng chẳng giảm, chỉ vì thức tình tiêu ma chưa hết nên thấy có tăng trưởng, có thối sụt đó thôi. Nếu có cái Thấy nơi chỗ chẳng tăng chẳng giảm mà xu hướng theo đó, liền đồng như hoa Quỳ hướng theo mặt trời. Nếu có cái Thấy nơi chỗ chẳng tăng chẳng giảm mà bỏ quên đi, liền đồng như tơ liễu tùy theo gió. Như vô tâm đối với cả hai, tùy thời ăn cơm mặc áo, nuôi lớn Thánh Thai, mới được gọi là Bất Thối Trụ.

Kinh:

- Linh tướng của mười thân, cùng lúc đầy đủ, gọi là Đồng Chân Trụ.

Thông rằng: Mười Thân là Bồ Đề Thân, Nguyện Thân, Hóa Thân, Lực Thân, Trang Nghiêm Thân, Uy Thế Thân, Ý Sanh Thân, Phước Thân, Pháp Thân và Trí Thân vậy. Linh Tướng đầy đủ so với, Tướng người không thiếu, ở trước thì đã viên mãn. Tuy cả hai đều đầy đủ cái Thể mà ở đây đã thành đứa bé, nên gọi là Đồng Chân Trụ.

Thiền sư Phần Dương Chiêu thượng đường rằng:

- Phàm thuyết pháp, cần phải đủ mười Trí Đồng Chân. Nếu không đủ mười Trí Đồng Chân thì tà chánh chẳng rõ, tăng tục chẳng rành, không thể làm bậc tai mắt cho trời, người để quyết đoán phải quấy. Như chim bay giữa không mà gãy cánh, như bắn tên mà đứt dây cung. Cánh gãy chẳng thể bay lên không, dây cung đứt bắn chẳng trúng đích. Dây cung chắc, cánh cứng thì đích bắn hay hư không đều thấu suốt. Thế nào là mười Trí Đồng Chân? Xin chỉ ra cùng quý Thượng Tọa. Một là Đồng Nhất Chất. Hai là Đồng Đại Sư. Ba là Tổng Đồng Tham. Bốn là Đồng Chơn Chí. Năm là Đồng Biến Phổ. Sáu là Đồng Cụ Túc. Bảy là Đồng Đắc Thất. Tám là Đồng Sanh Sát. Chín là Đồng Âm Hống. Mười là Đồng Đắc Nhập.

Ngài lại nói:

- Cùng với người nào Đồng Đắc Nhập? Cùng với ai Đồng Âm Hống? Thế nào là Đồng Sanh Sát? Vật gì Đồng Đắc Thất? Cái gì Đồng Cụ Túc? Cái gì là Đồng Biến Phổ? Người nào Đồng Chân Chí? Ai có thể Tổng Đồng tham? Cái gì Đồng Đại Sự? Vật nào Đồng Nhất Chất? Có chỉ ra được chăng? Chỉ ra được thì chẳng tiếc từ bi. Chỉ không ra thì chưa có con mắt tham học vậy. Cần thiết chọn lấy, biết rõ phải quấy cái mặt mũi hiện tại. Chẳng thể đứng lâu, trân trọng!

Mười Trí Đồng Chân này chỉ bày tỏ sự việc bên phía Trí Thân. Mười thân mà đầy đủ lại phải càng nhập vào chỗ vi diệu. Tuy thế, tất cả chỉ là một thể Bồ Đề, tùy chỗ khác tên mà thôi. Như riêng có chỗ đặc sắc thì làm sao có thể Cùng Lúc Đầy Đủ, ư?

Kinh:

- Thành đủ hình hài, ra khỏi thai, chính mình là Phật Tử, gọi là Pháp Vương Tử Trụ.

Thông rằng: Tự mình thọ nhận khí phần của Phật, vào dòng giống Như Lai, lần hồi thành thai, tiến tới Dung Mạo, tiến tới Tăng Trưởng, tiến tới Đồng Chân, mới được hình thể hoàn thành mà ra khỏi thai làm Pháp Vương Tử. Đã nhập Phật Tri Kiến mà còn được bảo nhậm như thế mới càng sáng càng suốt, thay Phật hoằng hóa. Sự thành tựu quả là không dễ dàng vậy.

Ngài Xá Lợi Phất tự miệng Phật sanh, từ Pháp hóa sanh làm trưởng tử của Phật. Ngài là Trí Huệ Đệ Nhất, từ nhiều kiếp đến nay chứ chẳng phải là sức lực một sớm một chiều vậy.

Tổ Quy Sơn đang ngủ, Ngài Ngưỡng Sơn đến thăm hỏi. Tổ bèn quay mặt vào vách.

Ngài Ngưỡng nói:

- Hòa Thượng sao được như vậy?

Tổ Quy Sơn ngồi dậy bảo:

- Ta vừa có một giấc mộng, ông thử suy đoán giùm ta xem!

Ngài Ngưỡng Sơn bèn đem một thau nước đến cho Tổ rửa mặt.

Lát sau, Ngài Hương Nghiêm cũng đến thăm lễ.

Tổ Quy Sơn nói:

- Ta vừa có một giấc mộng, Huệ Tịch đã suy đoán giùm ta rồi, ông suy đoán giùm ta xem nào!

Ngài Nghiêm bèn rót một chén trà bưng tới.

Tổ Quy nói:

- Chỗ kiến giải của hai ông vượt cả Ngài Thu Tử.

Ôi, trí huệ như Ngài Xá Lợi Phất mà còn lại vượt qua thì há chẳng phải, Thành đủ hình hài, ra khỏi thai, mà còn, Lại ra khỏi thai, nữa ư?

Kinh:

- Cốt cách đã thành người lớn, như vị Quốc Vương phân công ủy nhiệm các việc nước cho vị Thái Tử, khi vị Thế Tử trưởng thành, Sát Lợi Vương kia bày ra lễ Quán Đảnh, gọi là Quán Đảnh Trụ.

Thông rằng: Vị Pháp Vương Tử vì phương tiện, tâm tướng đều giống như Phật, đủ sức nối tiếp địa vị Phật, thay Phật làm việc cho nên lấy ví dụ Quốc Vương và Thái Tử, cũng như Sát Lợi Vương và thế tử bày ra lễ Quán Đảnh.

Con Quốc Vương gọi là Thái Tử, con Chư Hầu gọi là Thế Tử. Cốt cách đã thành người lớn, sắp được phó thác ngôi vua, cũng tương tự như Lễ Đội Mũ. Dùng nước biển lớn rưới trên đầu để biểu trưng rằng làm vua thì nên dùng các bậc Trí, như biển thu nạp trăm sông. Dùng nước biển là dùng tất cả nước vậy. Đây chỉ lấy việc nước nhà phân công ủy nhiệm, khiến nắm lấy mà lo liệu chứ chẳng phải chánh thức giao phó ngôi báu để được Tức Chân vậy.

Bởi địa vị này thầm đủ các đức, đủ sức phân hóa mười phương mà làm Phật sự nên gọi là Quán Đảnh Trụ. Đến hàng Thập Địa, hạnh viên mãn, gần với bực Đẳng Giác, mới có thể chánh thức được giao phó chức vị Phật. Vì thế, Pháp Vân Địa gọi là Quán Đảnh Bồ Tát, đó là Tức Chân vậy, chẳng còn trụ nơi trụ.

Vị Tăng hỏi Tổ Tào Sơn:

- Thế nào là sư tử?

Tổ Sơn đáp:

- Các thú chẳng thể gần.

Hỏi:

- Thế nào là sư tử con?

Đáp:

- Nuốt mất cha mẹ.

Hỏi:

- Đã là các thú chẳng thể gần vì sao lại bị con nuốt?

Đáp:

- Há chẳng nghe nói:

- Con mà gầm rống, tổ phụ đều mất sạch, ư?

Hỏi:

- Mất sạch rồi thì thế nào?

Đáp:

- Toàn thân về với cha.

Hỏi:

- Chưa rõ khi tổ mất thì phụ về chỗ nào?

Đáp:

- Chỗ nào cũng mất hết.

Hỏi:

- Vậy sao mới vừa nói: Toàn thân về với cha?

Đáp:

- Thí như con vua hay thành việc của cả nước.

Tổ lại nói:

- Thầy Xà Lê, nơi chuyện này, chẳng được vướng hẹp. Ngay như bây giờ, trên cành khô lại tung ra một ít hoa!

Đây là từ trong Thể khởi ra cái Dụng, đó gọi là Diệu Trạm vậy.

Ông Tư Mã Đầu Đà từ Hồ Nam đến, thưa với Tổ Bách Trượng rằng:

- Vừa rồi ở Hồ Nam, tôi có tìm được một ngọn núi tên là Đại Quy. Đó là chỗ ở của vị Thiện Tri Thức của một ngàn năm trăm đồ chúng vậy.

Tổ Trượng nói:

- Lão tăng ở được chăng?

Đầu đà đáp:

- Chẳng phải chỗ ở của Hòa Thượng.

Tổ hỏi:

- Sao vậy?

Đầu đà đáp:

- Hòa Thượng là người xương mà kia thuộc về núi thịt, giả sử có ở thì đồ chúng chưa đủ ngàn người.

Tổ nói:

- Trong chúng của ta không có ai ở được sao?

Đầu đà đáp:

- Xin chờ xem qua đã!

Khi ấy Ngài Hoa Lâm Giác đang làm Đệ Nhất Tòa. Tổ Trượng bảo thị giả mời đến rồi hỏi:

- Người này thì sao?

Ông Đầu Đà mời Ngài tằng hắng một tiếng và đi vài bước; rồi nói:

- Không được.

Tổ Trượng lại bảo gọi Ngài Quy Sơn khi ấy đang làm Điển Tòa.

Đầu Đà vừa thấy bèn nói:

- Đây chính là chủ nhân của Quy Sơn vậy.

Tổ Trượng đêm đó gọi Ngài Quy Sơn vào thất, phó chúc rằng:

- Ta hóa duyên ở đây. Thắng cảnh Quy Sơn ông nên ở đó để nối tiếp Tông ta, rộng độ lớp sau.

Ngài Hoa Lâm Giác hỏi:

- Con ở địa vị đầu chúng, sao vị Điển Tòa lại được trụ trì?

Tổ Trượng nói:

- Nếu có thể ở trước đại chúng nói được một lời xuất cách thì sẽ trụ trì.

Liền chỉ cái tịnh bình hỏi:

- Không được gọi là tịnh bình thì ông gọi là cái gì?

Ngài Hoa Lâm nói:

- Không thể gọi là khúc bộng cây vậy!

Tổ Trượng bèn hỏi Ngài Quy sơn, Ngài đá đổ tịnh bình, bỏ đi ra.

Tổ Trượng cười rằng:

- Đệ Nhất Tòa thua mất hòn núi rồi vậy.

Ngài Quy Sơn bèn sang núi kia ở, hoằng hóa thịnh hành đất Hồ Nam, gọi là Quy Ngưỡng Tông.

Nếu chẳng có cái thấy xuất cách làm sao có thể rộng hóa một phương, phân công ủy thác Phật sự như vị Thái Tử một nước được? Hàng Thập Tín còn phải bỏ Vọng về Chân, hàng Thập Trụ thì thuần Chân vậy, chỉ vì sức lực chưa sung mãn nên có giai cấp như thế.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.25 khách