KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

VI- CHẤP TÂM HỢP VỚI CHỖ NÀO THÌ LIỀN CÓ Ở CHỖ ẤY

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Tôi thường nghe Phật chỉ dạy tứ chúng: "Do tâm sanh nên thảy thảy pháp sanh. Do pháp sanh nên thảy thảy tâm sanh." Nay tôi suy nghĩ thì cái Thể Suy Nghĩ đó thật là tâm tánh của tôi, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó, chứ không phải ở trong, ở ngoài hay ở chặng giữa.

Phật bảo Ông A Nan:

- Nay ông nói rằng: Do Pháp sanh nên các thứ tâm sanh, hễ hợp với chỗ nào thì tâm liền có ở chỗ đó. Cái tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được, chứ nếu không có tự thể mà vẫn hợp được thì Giới Thứ Mười Chín cùng Trần Thứ Bảy hợp lại được hay sao? Nghĩa ấy không đúng.

Còn nếu có tự thể thì khi ông lấy tay tự gãi thân ông, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra hay từ ngoài vào?

Nếu từ trong thân ra, thì phải thấy trong thân. Còn nếu từ ngoài vào, thì trước hết phải thấy cái mặt.

Ông A Nan bạch Phật:

- "Thấy" là con Mắt, còn tâm thì Biết chứ không Thấy như con Mắt, nói tâm Thấy là không đúng nghĩa.

Phật dạy:

- Nếu con mắt thấy được, thì khi ông ở trong phòng, cái cửa có thấy được không? Lại những người chết rồi vẫn còn con Mắt, lẽ ra phải thấy được vật, mà nếu thấy được vật thì sao gọi là chết?

A Nan, lại nếu cái tâm hay biết của ông phải có tự thể thì có một thể hay có nhiều thể? Nay tâm ở nơi thân ông, thể ấy cùng khắp cả mình hay không cùng khắp?

Nếu tâm có một thể thì ông lấy tay gãi một chi, lẽ ra cả tứ chi đều biết, mà nếu đều biết thì lại không biết gãi ở chỗ nào. Nếu biết chỗ gãi thì cái thuyết một thể của ông tự nhiên không thành.

Nếu như có nhiều thể thì thành ra nhiều người, còn biết cái thể nào là thể của ông.

Nếu cái thể ấy là cùng khắp thì lại như trước kia, không biết được chỗ gãi.

Còn nếu như không cùng khắp thì khi ông chạm trên đầu, đồng thời cũng chạm dưới chân, hễ đầu có biết, lẽ ra chân phải không biết, nhưng hiện nay ông lại không phải như thế.

Vậy, nên biết rằng: Hễ hợp với chỗ nào, Tâm liền ở chỗ đó. Thật không có lẽ ấy.

Thông rằng: Chạm đầu: đầu biết. Chạm chân: chân biết, há chẳng phải là “Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó” hay sao? Nhưng nếu thế thì ở chỗ không hợp, thì tâm hoàn toàn không có. Đó chẳng phải là tà kiến “Đoạn, Thường” hay sao? Đức Thế Tôn hẳn không vô cớ trách rầy chuyện này.

Chỉ ở nơi một chữ "Hợp" mà biện rõ chỗ sai lầm. "Hợp" tức phải là có tự thể. Nếu không có tự thể, nghĩa "Hợp" không thành. Cũng như không có Trần Thứ Bảy, tất không có Giới Thứ Mười Chín. Còn nếu có tự thể, thì thể này đã chẳng phải từ ngoài vào, lại cũng chẳng phải từ trong ra. Cái tâm thể ấy là một thể hay nhiều thể? Ở nơi thân con người, nó là thể biến khắp hay là thể không biến khắp?

Lấy tay gãi một chi, thì "cái Biết" tùy do gãi mà có, nếu "cái Biết" ấy là một thể thì phải ở khắp nơi, còn nếu là nhiều thể thì thành ra nhiều người! "Cái Biết" ấy nếu có ở khắp nơi thì khi gãi không rõ chỗ gãi; còn nếu không ở khắp nơi thì khi gãi lại có chỗ không biết. Có bốn điều trên đều chẳng phải, tức là cái tự thể không định được, vậy do đâu mà hợp?

Nói là:Tùy chỗ mà hợp, ấy thì hợp với một thể ư? Hợp với nhiều thể ư? Hợp với thể biến khắp ư? Hợp với Thể chẳng biến khắp ư? Hợp với kia thì bỏ đây, hợp với đây thì bỏ kia. Vả chăng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải khắp, chẳng phải không khắp, mà cuối cùng chẳng có thể hợp. Đã không thể hợp, làm sao thấy: Cái tùy theo mà có?

Đức Thế Tôn tuy biện biệt cái sai lầm của thuyết: Hễ hợp với chỗ nào, tâm liền tùy có ở chỗ đó, nhưng cũng chỉ bày cái diệu mầu của Chân Tâm vô thể. Vô thể ắt vô hiệp, Tâm Cảnh chẳng đến nhau, ngay đây Giải Thoát, vốn tự Vô Sanh. Thế thì làm sao nói được: Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh? Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, cùng với ý chỉ: Tam Giới Duy Tâm, không khác, nên không cần phải biện luận. Pháp sanh thì thảy thảy tâm sanh, thì tâm vốn Vô Sanh, nhân Cảnh mà có soi chiếu, cũng tự là không bệnh.

Nhưng Ông A Nan dẫn lời dạy của Phật để chứng minh là: Hợp với chỗ nào, Tâm liền có ở chỗ đó, thì ấy là cái tâm theo sóng đuổi sóng, chẳng phải cái tâm hiện cảnh mà tịch diệt vậy. Nên ngộ được cái tâm vô thể thì sự hiện cảnh không làm ngăn ngại, nên duyên khởi mà Vô Sanh là vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Giáp Sơn:

- Khi dẹp Trần thấy Phật thì sao?

Tổ Sơn rằng:

- Chính liền vung kiếm! Nếu không vung kiếm, ngư ông nghỉ ổ!

Nhà sư đem hỏi Tổ Thạch Sương:

- Dẹp Trần thấy Phật thì như thế nào?

Tổ Sương đáp:

- Hắn không quốc độ, chỗ nào gặp hắn?

Nhà sư trở về nói lại y vậy cho Tổ Giáp Sơn.

Tổ Sơn thượng đường nói rằng:

- Cái bày vẽ của môn đình chẳng như lão tăng. Thấu lý, luận sâu còn cách Thạch Sương trăm bước!

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Phất thanh kiếm lớn tẩy binh oai,
Dẹp loạn công đầu ấy là ai?
Một sớm, khí trần thanh (trọng) bốn biển,
Rủ y (áo), trời đất tự vô vi.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Một câu khế lý, ngọc reo vang,
Nội ngoại long lanh, mắt lạnh tràn.
Cõi Vô Lậu ấy dừng chẳng được,
Trong bóng trăng hoa khó thấy thay!

Một tắc này đây, Dẹp Trần Thấy Phật, mà tự mình còn chẳng thấy, huống là hợp với trần mà tìm Phật, tìm Giác thì thật là quá sức điên đảo! Tuy nhiên, một mặt trăng hiện khắp tất cả mặt nước. Tất cả mặt trăng dưới nước thu nhiếp vào một mặt trăng. Thì sự: Tùy Chỗ Mà Hợp lo gì chẳng có!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

VII- CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, trong khi Phật nói Thực Tướng với các vị Pháp Vương Tử như Ngài Văn Thù, Thế Tôn cũng nói ràng: Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài. Theo tôi suy nghĩ: Tâm ở trong thân, sao lại không thấy bên trong; tâm ở bên ngoài thân thì thân và tâm sao lại không cùng biết. Không biết bên trong nên tâm không thể ở bên trong. Thân và tâm cùng biết nên nói tâm ở ngoài là không đúng lý. Nay thân và tâm cùng biết, lại không thấy bên trong thân, nên tâm phải ở chặng giữa!

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông nói: Ở chặng giữa, thì cái Giữa ấy chắc không lẫn lộn và không phải không có chỗ. Nay ông nhận định cái Giữa ấy chỗ nào, ở nơi cảnh hay ở nơi thân? Nếu ở nơi thân mà ở một bên thì không phải là ở giữa, còn nếu ở giữa thân thì cũng là ở trong thân rồi. Nếu cái giữa ấy ở nơi cảnh thì có thể nêu ra được hay không nêu ra được? Không nêu ra được thì cũng như không có, còn nếu nêu ra được thì lại không định được. Vì sao? Ví như có người lấy một cây nêu, nêu một chỗ làm cái Giữa, thì phương Đông nhìn qua, cái nêu lại ở phương Tây, phương Nam lại thấy thành phương Bắc. Cái Giữa nêu ra đã lẫn lộn thì tâm phải tạp loạn.

Ông A Nan bạch Phật:

- Cái Giữa của tôi nói chẳng phải là hai thứ ấy. Như Đức Thế Tôn đã nói: Nhãn Căn duyên nơi Sắc Trần sanh ra Nhãn Thức. Nhãn Căn có phân biệt, Sắc Trần vô tri, Nhãn Thức sanh ở giữa thì tâm ở tại đó.

Phật dạy:

- Nếu tâm ông ở giữa Căn và Trần, thì cái thể của tâm ấy gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì vật và tâm thể xen lộn, vật thì vô tri khác với tâm thể tỏ biết, thành ra hai bên đối địch lẫn nhau, lấy cái gì làm cái ở giữa? Gồm cả hai cũng không được, vì như thế thì chẳng phải là biết hay không biết, tức là không có thể tánh, lấy cái gì làm cái tướng ở giữa?

Vậy, nên biết rằng ông nói cái tâm là ở chặng giữa, thật không có lẽ ấy.

Thông rằng: Đến đây, Ông A Nan mới bày tỏ ra là Thức sanh ở chính giữa. Nói rằng sáu Thức phân biệt ở giữa Căn và Trần, so với cái thuyết núp trong con mắt thì có căn cứ hơn. Nhưng chỗ gọi là ở giữa đó, đã không ở trong lại chẳng ở ngoài, chỉ do Căn và Cảnh giao nhau, từ giữa đó mà có cái Thức phân biệt, bèn cho là tâm.
Thật ra, không biết rằng ba thứ Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như những cành lau gác lên nhau, vốn không có tự tánh. Nay xác định nó mà nói là ở giữa, vậy nếu cái giữa đó có vị trí thì gồm cả Căn và Trần hay không gồm? Nếu gồm, thì Căn biết mà Trần lại vô tri, sự đối địch lập ra mà cái ở giữa không thành. Nếu không gồm, thì chẳng phải biết, chẳng phải không biết, không có tự thể nên cái ở giữa cũng không thành. Vậy cái giữa ở đâu? Nên nói tâm ở chặng giữa là sai vậy.

Nếu luận về Chân Tâm, thì cũng gồm cả hai, cũng chẳng gồm cả hai. Sao gọi là gồm cả hai? Trong Như Lai Tạng, vốn có đủ cả Kiến Phần và Tướng Phần. Như sau này, kinh nói: Tánh của Sắc là Chân Không, Tánh Không là Chân Sắc, thế thì làm sao có sự lộn xộn, tạp loạn được. Sao gọi là không gồm cả hai? Vì, đó là Cái Linh Quang độc sáng, vượt khỏi Căn Trần, thì Căn không có chỗ gặp, nào từng không thể tánh sao? Như tin được rằng cái tâm này chẳng phải biết cũng chẳng phải không biết, vốn không tự tánh, cũng không có cái Tướng ở chính giữa, mới biết rõ sâu xa Cái Chính Giữa là ra sao.

Vị quốc vương xứ Đông Ấn sau khi thỉnh Tổ Thứ Hai Mươi Bảy là Ngài Bát Nhã Đa La thọ trai xong, bèn hỏi rằng:

- Mọi người đều chuyển kinh, chỉ có thầy tại sao không chuyển?

Tổ đáp:

- Bần đạo thở vào chẳng ở trong ấm, giới; thở ra chẳng dính dáng với các duyên. Thường chuyển kinh ấy trăm ngàn vạn ức quyển, chứ chẳng phải một hai quyển đâu!

Vua bèn lễ bái.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Trâu mây giỡn nguyệt sáng miên man,
Ngựa gỗ chơi xuân chẳng buộc ràng.
Dưới mày ngọc lạnh xanh đôi mắt,
Nào phủng da bò mới khán kinh.

Lại tụng tiếp:

Rõ ràng tâm siêu muôn kiếp trống,
Anh hùng ra sức phá vòng vây.
Trời nhiệm lời yếu chuyển linh cơ,
Hàn Sơn quên mất đường xưa lại,
Thập Đắc song song nắm tay về.

Đây là thói nhà của Tổ Sư, chẳng lập hai bên, không an trụ trung đạo, đạo lớn rỗng suốt nhiệm mầu, chân tông không bám chấp, chính là Thứ Nhất. Cho nên, đó chẳng phải là chỗ sáu Thức, Căn và Trần đến được. Như hai Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc: Đi, đến tự tại, thong dong, nhàn nhã, trong lòng dạ tuyệt không còn một mảy tơ Tình Thức, đủ để cùng Tổ Thứ Hai Mươi Bảy tương kiến.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

VIII- CHẤP TÂM KHÔNG DÍNH DÁNG VÀO ĐÂU TẤT CẢ

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, trước đây, tôi thấy Phật với bốn đại đệ tử là Đại Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na và Xá Lợi Phất cùng chuyển Pháp luân, Phật thường dạy: Cái Tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chính giữa, đều không ở chỗ nào cả, tất cả không dính bám, tạm gọi là tâm. Nay tôi không dính bám, thì gọi là tâm chăng?

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông nói: Cái tâm Tánh Hiểu Biết Phân Biệt đều không ở đâu tất cả. Vậy các vật tượng thế gian như hư không và các loài dưới nước, trên đất, bay, chạy, nghĩa là tất cả sự vật mà ông cho là không dính bám đó, là có hay không có? Không có, thì đồng với lông rùa sừng thỏ, có gì để gọi là không dính bám? Đã có cái không dính bám thì không thể gọi là không. Không có tướng thì tức là không, chẳng phải không mà lại có tướng. Có tướng thì có chỗ ở, làm sao lại không dính bám được? Vậy, nên biết rằng ông nói: Cái Không Dính Bám vào đâu tất cả là tâm hiểu biết, thật không có lẽ đó.


Thông rằng: Cái Không Dính Bám, của Ông A Nan dẫn ra đó, chưa từng chẳng phải. Nhưng hiểu cho rõ hai chữ Tất Cả, thì cái Vô Trước ấy là đối với Cảnh mà có. Cảnh mà có thì có Vô trước, còn cả hai đều không có, thì hóa ra đoạn diệt! Nói sao cũng mâu thuẫn.

Nếu tất cả vật tượng đều không có, thì còn có chỗ nào nữa để mà không dính bám? Mà đã có Cái Không Dính Bám thì vật tượng không thể nói là không có! Nếu không có Tướng Không Dính Bám, thì mới có thể nói là không có tất cả vật tượng. Có: Sự Không Dính Bám, tức là: có Tướng, rồi. Có tướng không dính bám, tức là có tâm ở đó rồi. Tâm đó ở Chỗ Không Dính Bám, thì sao lại gọi là: Đều không ở chỗ nào cả. Tâm đã có chỗ ở thì sao lại nói là Không Dính Bám? Trước thì ở nơi cái Năng để làm rõ cái Sở, chẳng thể gọi là không có. Tiếp sau, là dùng cái Sở để làm rõ cái Năng; cái Tướng đã có ắt phải có cái hiện hữu, nên cái nghĩa Vô Trước không thành được.

Xưa, Nghiêm Dương tôn giả hỏi Tổ Triệu Châu:

- Một vật chẳng có đem lại thì như thế nào?

Tổ Châu rằng:

- Buông bỏ đi.

Ông Nghiêm rằng:

- Một vật chẳng có đem lại, thì buông bỏ cái gì?

Tổ Châu nói rằng:

- Thế thì vác lên mà đi!

Tôn giả nghe xong, đại ngộ.

Ngài Hoàng Long tụng rằng:

Một vật chẳng mang lại,
Hai vai vác chẳng nổi.
Vừa nghe, rõ lỗi mình,
Trong lòng vui không xiết.
Độc ác đã quên rồi,
Rắn cọp là tri kỷ.
Rỗng rang ngàn trăm năm,
Gió mát chưa ngừng thổi.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Chẳng ngờ tế hạnh trước trao tay,
Từ rõ lòng quê, thẹn gõ đầu.
Phá thoát, ngang lưng rìu cán mục,
Rửa trong (sạch) phàm cốt, với tiên chơi.

Bài tụng này thì Vô Trước cũng không, nên tự do, tự tại. Phần nhiều đều ở nơi cảnh, thì thấy có Vô Trước, lìa Cảnh tức là không Vô Trước. Ở nơi Tánh thấy Vô Trước, thì cái Vô Trước đó tức là Tự Tánh. Dầu còn chỉ một cái ý Vô Trước, bèn là hỏng hết vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

MỤC HAI: CHỈ RÕ TÁNH THẤY

I. CẦU ĐI ĐẾN CHỖ CHÂN THẬT

Kinh:

Bấy giờ, Ông A Nan ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo phải, đầu gối phải chấm đất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng:

- Tôi là em nhỏ nhất của Như Lai, nhờ Phật thương yêu, nay tuy đã xuất gia, còn ỷ lại nơi lòng thương của Phật. Vì thế, học rộng nghe nhiều mà chưa được quả Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, theo chỗ nó chuyển mà chìm nơi nhà dâm. Nguyên do vì không biết đường đến nơi Chân Tế (Phật Tánh Tự Tâm). Cầu xin Thế Tôn Đại Từ thương xót, chỉ bày cho chúng tôi con đường Chánh Định, cũng khiến cho những kẻ không tin trừ bỏ ác kiến.

Thưa như vậy xong, rạp cả mình xuống đất, cùng tất cả đại chúng hết lòng mong nghe lời Phật dạy.

Thông rằng: Xét chỗ thấy của A Nan lúc ấy dường chưa thể đè bẹp thức tình để đến chỗ trong lặng không dao động, chỉ vì chưa được Vô Lậu. Mới đầu thì cho cái tâm Giác Liễu Năng Tri là có vật, nên mới nói: Ở trong, ở ngoài, ở nơi Căn. Đến khi đã biết là chẳng phải vật, nhưng còn cho là có Thức, nên mới nói: Tùy chỗ Hiệp mà có, Thức sanh ở chặng giữa. Đến lúc cái Tri, cái Thức đều tiêu hết, rồi mới tin là Chẳng Có Dính Bám (Vô Trước). Nhưng đã có cái ý Không Dính Bám thì cũng đã Dính Bám rồi vậy. Nhưng tất cả không có dính bám mới chỉ đoạn trừ được cái Thức Thứ Bảy, chứ chưa đến cái địa vị lặng lẻ. Mà dù có đến được địa vị lặng lẻ, thì vẫn còn ngồi trong hang ổ của Thức Thứ Tám, chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế.

Nếu con đường tu Định chỉ là phương tiện bờ mé của việc chuyển Thức thành Trí, mà Thánh giải còn tuyệt chẳng dung chú niệm, huống gì là lại bám lấy phàm tình để bị kéo lôi? Cho nên, tình phàm ý Thánh đều hết, thì Chân Thường hiển lộ, mới gọi là Chân Tế. Thấu suốt Chân Tế mới không bị dâm thuật chuyển đảo. Chẳng phải chỉ tự mình hiểu biết hẳn hoi đầy đủ chỗ Tịch Tịnh mà còn giúp cho hết thảy phàm phu chưa đủ lòng tin phá trừ được ác kiến vậy.

Ngài Đoan Sư Tử đọc Lăng Nghiêm có bài tụng:

Bảy chỗ bày Tâm, tâm chẳng thỏa,
Ngơ ngác A Nan không liếc tới.
Hiện mà bày được, thấy vô tâm,
Ấy chính trong bùn rửa đất cục.

Có thể nói là bực có con mắt đầy đủ.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

II. PHÓNG QUANG NÊU RA TÁNH THẤY VIÊN MÃN SÁNG SUỐT

Kinh:

- Bấy giờ từ mặt Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang, ánh sáng rực rỡ như trăm nghìn mặt trời. Khắp các thế giới của chư Phật, sáu thứ chấn động. Các cõi nước nhiều như vi trần của mười phương hiện ra trong một lúc. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp lại thành một thế giới. Trong thế giới này, tất cả các vị Bồ Tát hiện có đều an trụ ở nước mình chấp tay nghe lời Phật dạy.

Thông rằng: Phóng quang động địa, xưa cho là cảnh giới không thể nghĩ bàn, nhưng cũng có thể hiểu được. Các đạo gia, tinh thần đầy đủ, vững chắc, thì trong đêm tối, mắt vẫn có sáng tỏ mà không vật gì chẳng thấy. Huống hồ Đức Thế Tôn nhiều kiếp thành tựu, thì hào quang chẳng có chói lọi rực rỡ sao? Hạng cầu đảo vận động nguyên khí có thể kêu mây mưa xuống, huống là Pháp Thân thanh tịnh của Thế Tôn không bờ không bến thì khắp các thế giới của chư Phật chẳng chấn động sao? Thế Tôn dựng cây cờ Pháp lớn, tất trước tiên phải có chỗ tỏ bày. Chỗ nói là: Khiến tất cả các thế giới hợp lại thành một cõi, là đã ẩn cái ý: Hội Vọng Quy Chơn, vậy. Nếu là hạng thượng căn lợi trí thì thấy ánh sáng như thế, nhìn sự việc như thế, liền được Bổn Tâm, chứng Vô Sanh Nhẫn.

Thiền sư Viên Chiếu lên tòa giảng, nói rằng:

- Hãy xem! Ánh sáng tốt lành rực rỡ, chiếu sáng cả Đại Thiên thế giới. Trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức đại hải, trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức bốn Châu thiên hạ, cho đến cõi Phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát hiện ra cùng một lúc. Các nhân giả! Có thấy chăng? Nếu thấy được, thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy. Không thấy được, đừng nói là ánh sáng tốt lành chẳng có chiếu soi. Hãy tham!

Ai ai cũng đều có ánh sáng này. Vì sao Tổ Viên Chiếu thấy còn mọi người chẳng thấy? Đó là ngộ với chẳng ngộ vậy. Pháp Tánh vốn khắp cả, vọng trần chẳng ngăn cách được. Cái Trí Cảnh vốn tròn đầy, thức tình nào ngăn ngại được. Nếu ngộ Tự Tâm, bèn biết hết thảy, đấy đều là việc trong nhà.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

III. HAI THỨ CĂN BẢN

Kinh:

Phật bảo Ông A Nan:

- Hết thảy chúng sanh từ vô thủy đến nay, đủ thứ điên đảo, mầm giống Nghiệp tự nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành được Bồ Đề Vô Thượng, đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành ngoại đạo, Chư Thiên, Ma Vương, hay bà con quyến thuộc của Ma. Tất cả đều do không biết hai loại căn bản, lầm lộn tu tập, cũng như nấu cát mà muốn thành món ngon, dầu trải qua số kiếp nhiều như bụi, rốt cũng chẳng được.

Thế nào là hai loại căn bản? A Nan, một là, Cội Gốc (Căn Bản) của Sanh Tử vô thủy. Tức là ông hiện giờ và các chúng sanh dùng cái tâm Bám Níu Theo Duyên (Tâm Phan Duyên) mà làm Tự Tánh. Hai là, cái Thể bản lai thanh tịnh Bồ Đề Niết Bàn vô thủy.

Tức là cái Chân Tâm vốn sáng soi của ông hiện giờ, hay sanh các duyên nhưng ông lại duyên theo các tướng duyên đó mà bỏ quên nó. Vì các chúng sanh bỏ quên cái Vốn Tự Sáng này nên tuy trọn ngày sử dụng nó mà chẳng tự biết, uổng oan lạc vào sáu nẻo.

Thông rằng: Bảy chỗ bày cái tâm, đều là chẳng phải, vì dùng Tâm Phan Duyên làm tự tánh.

Ông A Nan cũng biết cái tâm này chưa được Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, mà còn bị nó chuyển. Ông nói: Nguyên do là vì không biết chỗ vào Chân Tế, là cũng đã lờ mờ trộm thấy cái Thể trong sạch của Bồ Đề Niết Bàn (Niết Bàn là Tịch Diệt), nên xin Phật chỉ bày. Do đó, Thế Tôn phân tích rõ ràng mà dạy cho.

Trước, Phật đã dạy: Dùng các vọng tưởng, các tưởng này chẳng chân thật, nên mới bị luân chuyển. Điều đó, ở đây Ngài dạy: Dùng Tâm Phan Duyên mà làm Tự Tánh, đó là cái gốc rễ của sanh tử từ vô thủy đến nay vậy.

Trước, Phật dạy: Đều chẳng biết cái Chơn Tâm chẳng sanh chẳng diệt, tánh nó chẳng ô nhiễm, thể nó vốn sáng suốt. Tức ở đây là: Bồ Đề Niết Bàn, vốn thể nó trong sạch, đó là gốc rễ chẳng sanh chẳng diệt xưa nay vậy.

Xoay chuyển nơi sống chết: Hoặc, Nghiệp, Khổ ba thứ này sanh ra, đồng nhau tụ hợp giống như chùm trái ác xoa. Không những Thiên Ma, ngoại đạo chắc chắn ở trong luân hồi, mà ngay cả Thanh Văn Duyên Giác tu tập lầm lộn, đều gọi là điên đảo.

Tại sao thế? Vì lấy Sanh Diệt làm Nhân Địa tu hành vậy. Mà cái Nguyên Minh vốn sáng soi, sinh ra các duyên thì vốn tự chẳng sanh chẳng diệt, chỉ vì duyên theo cái Sở mà bỏ quên nó.

Như đoạn sau, Kinh nói rằng:

- Tánh Nguyên Minh ấy chiếu mà sanh ra cái Sở. Cái Sở đã riêng lập thì Tánh Chiếu Soi bị bỏ quên, thì ý chỉ cũng giống đoạn này. Đấy tức là nguyên do sanh ra các vọng tưởng, mà đã lạc vào vọng tưởng, bèn mất đi Bản Tánh. Quên mất cái "Nguồn Gốc Sáng Suốt" này, nên rơi vào các nẻo, mà không thành Bồ Đề Vô Thượng.

Có vị khách làm Thượng Thơ ra mắt Tổ Trường Sa.

Tổ Sa gọi:

- Thượng Thơ!

Vị này lên tiếng dạ.

Tổ Sa nói:

- Đã chẳng phải là bổn mạng Thượng Thơ đó sao?

Thượng Thơ rằng:

- Chẳng thể lìa bỏ. Nhưng nay vừa đối diện, lại riêng có chủ nhân thứ hai rồi.

Tổ Sa nói:

- Gọi Thượng Thơ là Chí Tôn được không?

Nói rằng: Như thế, suốt cả khi không đối, đã không phải là chủ nhân của đệ tử sao?

Tổ Sa nói:

- Chẳng phải chỉ khi đối hay không đối, mà từ đời vô thủy đến nay, đó là cái "Căn Bản sanh tử" của ông vậy.

Lại tụng rằng:

Cái người học đạo chẳng biết Chân,
Chỉ bởi xưa nay nhận Thức Thần.
Gốc rễ tử sanh, từ vô thủy,
Kẻ si lại gọi Bổn Lai Nhơn.
Dịch:
Học đạo chi nhơn bất thức Chơn,
Chỉ vị tùng lai nhân Thức Thần.
Vô thủy kiếp lai sanh tử bổn,
Si nhơn hoán tác Bổn Lai Nhơn.

Như vậy thì chủ nhơn xưa nay, do đâu mà biết?

Phẩm Xuất Hiện của Kinh Tạp Hoa nói:

- Phật tử, không có chúng sanh nào mà không vốn đủ Trí Huệ Như Lai, chỉ vì bám giữ lấy vọng tưởng điên đảo mà chẳng chứng được. Nếu lìa vọng tưởng, thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí, tự hiển bày trước mắt.

Ngài Thiên Đồng tụng:

Trời che đất chở, nên khối, thành hòn,
Khắp pháp giới nhưng không bờ mé.
Chẻ lân hư mà không ở trong,
Nuốt trọn huyền vi,
Nào phân sau, trước.
Phật, Tổ đến đây trả nghiệp miệng,
Hỏi lấy Nam Tuyền, Vương Lão Sư,
Người người ăn chỉ rau, một cọng.

Đã là chuyện ai ai cũng có, sao chẳng thể cùng chứng Bồ Đề mà đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác?

Kinh Viên Giác nói:

- Tất cả chúng sanh vọng thấy có lưu chuyển. Chán ghét lưu chuyển, lại vọng thấy có Niết Bàn. Do vậy mà chẳng nhập vào cái Giác vốn trong sạch. Chẳng phải Giác cản chống lại người nhập. Vì, chỉ có người nhập, chẳng phải cái Giác có sự nhập.

Nhưng, biết chọn giữ lấy cái Căn Bản Không Sanh Không Diệt, ngoài sự đại triệt ngộ, thì không thể.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

IV. NƯƠNG CÁI THẤY, GẠN HỎI CÁI TÂM.

Kinh:

- A Nan, nay ông muốn biết đường tu Xa Ma Tha, nguyện ra khỏi sống chết, thì Ta lại hỏi ông. Liền đó, Như Lai đưa cánh tay kim sắc lên, co năm ngón lại, bảo ông A Nan:

- Ông có thấy không?

Ông A Nan đáp:

- Có thấy.

Phật bảo:

Ông thấy cái gì?

A Nan trả lời:

- Tôi thấy Như Lai đưa tay lên, co ngón thành nắm tay sáng ngời, sáng chói tâm và mắt của tôi.

Phật hỏi:

- Ông lấy cái gì mà thấy?

A Nan trả lời:

- Tôi và đại chúng đều lấy con mắt mà thấy.

Phật bảo Ông:

- Nay ông trả lời: Như Lai co ngón tay làm thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và con mắt của ông. Con mắt ông thì thấy, còn ông lấy cái gì làm tâm đối với nắm tay chói sáng của Ta?

Ông A Nan thưa:

- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, mà tôi thì lấy tâm suy nghĩ xét tìm. Tức là Cái Năng Biết Suy Nghĩ đó, tôi lấy nó làm tâm.

Phật bảo:

- Ôi! Cái đó chẳng phải là Tâm ông đâu.

Ông A Nan hoảng hốt rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay mà thưa rằng:

- Cái ấy không phải là tâm tôi thì gọi là cái gì?

Phật bảo Ông:

- Đó là cái Tưởng tạo nên các tướng hư vọng của tiền trần, nó làm mê lầm Chân Tánh của ông. Do từ vô thủy cho đến nay, ông nhận tên giặc đó làm con, mất đi cái Vốn Là Thường Hằng (Nguyên Thường) của ông nên phải chịu luân hồi.

Thông rằng: Đây là lần dẫn dụ từng bước lần thứ hai của Thế Tôn. Ngài hỏi "Ông nay có thấy không?" A Nan đáp: Thấy. Chỉ ở chỗ này mà đột nhiên tỉnh ngộ, bèn thấy Bản Tánh Nguyên Minh, chẳng cho phép luận bàn, chẳng đợi chỗ xếp đặt. Bồ Đề Niết Bàn vốn tự đầy đủ, vừa mống khởi phân biệt đã lọt vào tỷ lượng, bị buộc vào sự sai sử của Lục Thức, chìm sâu vào trí thức, bỏ mất Chân Tánh xa lắm vậy.

Cho nên Phật mới quở rằng: Cái đó chẳng phải là tâm của ông.

Nếu trong khi bị quở, rỗng rang mà tự mất bặt, bỗng nhiên hồi quang, thì ngay liền đó là Bổn Giác tự tại. Chứ sao lại nói: Rời cái Hay Biết (Giác Tri) đó, thì hoàn toàn không có gì? Cái giác tri đó, đối đãi với Trần Tướng trước mắt mà có phân biệt, trần mất thì không có nữa, nên gọi là: Cái Tưởng hư vọng bám chấp lấy tướng.

Còn cái Bổn Giác thì chẳng nương theo Trần mà sanh diệt theo, nên mới gọi là Chân Tánh. Nhưng Chân Tánh chỉ có một mà thôi. Vì cái giác tri này che đậy cái Bổn Giác trước mắt, nên cái giác tri ấy thật là tên giặc của Bổn Giác. Nếu nhận cái giác tri đó làm Tự Tâm, tức là nhận giặc cướp làm con, bỏ cái chẳng sanh diệt mà ôm lấy cái sanh diệt, thì sự luân chuyển còn nghi ngờ gì. Tuy nhiên, lìa cái giác tri hay biết này mà tìm riêng cái Bổn Giác ở nơi khác, lại không thể được.

Ngài Thiên Đồng nêu sơ lược rằng:

- Nếu cái Hay Suy Nghĩ Đó là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!

Ngài Tu Sơn Chủ nói:

- Nếu cái Hay Suy Nghĩ Đó chẳng phải là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!

Ngài Thiên Đồng đưa ra rằng:

- Như giờ hãy xét là con, là giặc: mua nón vừa đầu, ăn cá bỏ xương.

Bèn như Thiên Đồng, lại chọn lựa không?

Đức Lục Tổ dạy:

- Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Niệm trước bám cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh, tức là Bồ Đề. Điều này cũng như nói lật sấp lật ngữa cũng là bàn tay vậy.

Ngài Vĩnh Gia nói:

- Thật tánh của Vô Minh tức là Phật Tánh. Huyễn hóa không thân tức Pháp Thân. Quả là tỏ suốt cái cửa Bất Nhị vậy.

Kinh:

Ông bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn, tôi là em yêu của Phật, vì lòng mến mộ Phật nên tôi xuất gia. Tâm tôi nào phải chỉ cúng dường Như Lai, mà còn khắp trải hằng sa quốc độ, thừa sự Chư Phật và các thiện trí thức. Phát đại dũng mãnh làm tất cả những pháp sự khó làm, đều dùng cái tâm này. Dầu cho hủy báng Chánh Pháp, đời đời lui sụt căn lành, cũng bởi cái tâm này.

- Nay Phật phát minh cái này chẳng phải là tâm, tôi bèn không có tâm, giống như gỗ đá. Lìa cái giác tri này, rốt chẳng còn gì nữa. Tại sao Như Lai nói cái ấy không phải là tâm? Tôi thật kinh sợ. Cùng với đại chúng đây, không ai là không nghi hoặc. Xin Phật rủ lòng từ bi, chỉ bày cho người chưa ngộ.

Thông rằng: Ông tình thức và sở kiến khô kiệt, mới nói là Không Có Tâm, giống như gỗ đá. Chỗ này chính là nên thừa thọ đảm đương, thì đỡ được biết bao tâm lực. Sá gì một cái giác tri mà cứ ôm giữ lấy, sao chẳng chịu bỏ quách.

Xưa, thầy Đại Lãng, mới đầu đến tham vấn Đức Mã Tổ.

Ngài hỏi:

- Đến đây cầu gì?

Đáp:

- Cầu Tri Kiến Phật.

Tổ nói rằng:

- Phật không có tri kiến, tri kiến là Ma. Ông từ đâu tới?

Bạch rằng:

- Từ Nam Nhạc đến.

Tổ nói rằng:

- Ông từ Nam Nhạc đến, mà chưa biết tâm yếu của Tào Khê. Ông mau trở về đó, chẳng nên đi nơi khác.

Thầy Lãng trở về Tổ Thạch Đầu, bạch hỏi:

- Thế nào là Phật?

Tổ Thạch Đầu nói rằng:

- Ngươi không có Phật Tánh.

Thầy Lãng nói rằng:

- Các loài cựa quậy, bay nhảy lại ra làm sao?

Tổ Đầu nói:

- Các loài cựa quậy, bay nhảy đều có Phật Tánh.

Bạch rằng:

- Huệ Lãng này vì sao không có?

Tổ Đầu nói:

- Vì ông không chịu nhận lãnh.

Thầy Huệ Lãng nghe xong, tin nhập.

Về sau, hễ có người học đạo đi đến, đều nói rằng:

Đi đi! Ngươi không có Phật Tánh.

Sự tiếp cơ dạy dỗ đại khái như thế. Há đâu phải lìa cái giác tri là không có gì nữa sao?

Kinh:

- Khi ấy, Thế Tôn khai thị cho Ông A Nan và đại chúng, muốn cho được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nơi tòa sư tử xoa đầu Ông A Nan mà nói: Các pháp sanh ra đều duy tâm hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần đều do tâm mà thành thể. A Nan, như trong các thế giới, hết thảy sự vật hiện có, cả đến ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút....tìm hỏi nguồn gốc thì đều có thể tánh. Ngay cả hư không còn có tên, có tướng, huống là cái Chân Tâm sáng suốt, trong sạch, nhiệm mầu, tánh của hết thảy tâm mà lại không có tự thể sao?

Nếu ông quyết chấp cái phân biệt giác quan, hiểu biết là Tâm thì cái tâm ấy phải rời hành tướng của các trần: Sắc, Hương, Vị, Xúc, Pháp... riêng có Toàn Tính. Chứ như hiện nay, ông vâng nghe pháp âm của Ta, đó là nhân cái Tiếng mà có phân biệt: dầu cho có diệt hết tất cả cái Thấy, Nghe, Hay, Biết, bên trong giữ lấy trống rỗng u nhàn, thì đó cũng còn là sự phân biệt bóng dáng pháp trần mà thôi.

Ta không bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng ông phải chính nơi tâm ông, suy xét chín chắn. Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, thì đó mới là Chân Tâm của ông. Còn nếu cái tánh phân biệt mà lìa tiền trần không có tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không thường trụ, vậy khi chúng biến diệt, thì cái tâm nương vào tiền trần ấy cũng đồng như lông rùa sừng thỏ, ắt Pháp Thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Còn gì để chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn?

Thông rằng: Chỗ các pháp sanh ra, là độc chỉ do tâm biến hiện, như bóng hình trùng trùng đều độc chỉ trong cái gương hiện bày ra. Sáu trần như hình, cái phân biệt (Thức Tâm) như bóng. Bóng nhờ hình mà có, tâm thức nhờ cái trần mà có. Cái này đây ắt là sự phân biệt bóng dáng tiền trần. Dao động thuộc về tiền trần, yên tịnh thuộc về pháp trần. Cho nên, ở trong giữ cái trống rỗng u nhàn thì tuy không có bóng dáng tiền trần nhưng vẫn còn cái bóng dáng trống rỗng u nhàn, đó còn là sự phân biệt bóng dáng của pháp trần.

Cái chấp ấy là cái Thức, mà chẳng phải là cái Bổn Giác Chân Tâm Thường Trụ. Chân Tâm Thường Trụ lìa khỏi tất cả phân biệt, như cái gương lớn tròn sáng lìa khỏi cả hai thứ Động (sáu Trần) và Tĩnh (Thức). Cái Tâm này vốn tự không nhiễm, nên nói là Tịnh, nhiễm mà chẳng nhiễm, nên nói là Diệu Tịnh. Tất cả nhân quả, thế giới nhiều như vi trần, nhân nó mà lập thành, nó cũng là cái Bổn Tánh của vọng tâm tạo thành chín Cõi.
Nên nói là cái Tánh của cả thảy Tâm. Nếu thấy Tâm này, thì lìa phân biệt mà an trụ Tự Tánh, đó là cái Tự Tánh không tùy theo phân biệt mà hoặc có hoặc không. Sắc lìa Thức phân biệt như trần lìa bóng, liền là Bản Thể của gương, Thể của gương không theo bóng của trần mà sanh mà diệt. Nếu chấp cái Giác Tri Phân Biệt làm Tự Tánh, tức là chấp bóng làm gương vậy. Cái Hay Biết Phân Biệt đó, đối với trần thì có, lìa trần thì không, như bóng trong gương, vốn không tự thể, rốt là đoạn diệt, như thế làm sao chứng Vô Sanh?

Cho nên, phải biết cái Tâm tự có bản thể, chẳng phải đoạn diệt.

Đoạn trước, Phật quở: Cái đó chẳng phải là Tâm ông. Vì cái chỗ Ông A Nan nhìn nhận chỉ là cái tâm đoạn diệt giả dối, chẳng phải là cái tâm Xưa Nay Chân Thật vậy. Chứ đâu phải thật không có tâm ư?

Tổ Huyền Sa Sư Bị thượng đường rằng:

- Hiện có một thuyết cho là: Linh linh, sáng sáng là cái Trí Tánh linh đài, hay thấy, hay nghe, hướng vào trong miếng ruộng-thân ngũ uẩn làm chủ tể. Đó là kẻ dối gạt lớn của thiện trí thức, biết chăng? Ta nay hỏi các ông, nếu nhận cái linh linh sáng sáng đó là cái Chân Thật của các ông, thì tại sao khi ngủ mê, lại chẳng còn là sáng sáng linh linh nữa? Nếu lúc ngủ mê chẳng có thì tại sao lại có cái lúc sáng sáng, linh linh? Có hiểu chăng? Cái đó gọi là nhận giặc làm con, là căn bản của sanh tử, tập khí duyên ra Vọng Tưởng. Các ông muốn biết căn do ư? Ta nói cho nghe: Cái sáng sáng linh linh chỉ do tiền trần Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà có phân biệt, rồi nói bậy đó là cái sáng sáng linh linh. Nếu không tiền trần, thì cái sáng linh linh này của các ông, cũng như lông rùa sừng thỏ.

Này các ông, cái Chân Thật ở tại chỗ nào? Nay các ông muốn thoát khỏi cái chủ tể của ruộng thân ngũ uẩn, chỉ cần biết nắm lấy cái Thể Kim Cang Bí Mật của các ông. Cổ nhân hướng về các ông mà nói: Trọn thành Chánh Biến, khắp đầy Pháp Giới. Nay ta chút phần vì các ông, người Trí có thể qua thí dụ mà hiểu được. Các ông có thấy mặt trời của Nam Diêm Phù Đề không? Cái chỗ sanh sống của người đời: Làm lụng, kinh doanh, nuôi sống sinh mạng, đủ thứ tâm hành, không gì chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mà thành lập. Vậy mà cái thể của mặt trời có chăng bấy nhiêu tâm hành? Vậy mà có chỗ nào mà không cùng khắp?

Muốn biết cái Thể Kim Cang, cũng phải nhìn như thế. Chỉ như hiện đây, núi sông, đất rộng, mười phương cõi nước, sắc không, sáng tối, cho đến thân tâm các ông, không có cái gì mà chẳng trọn nhờ cái Oai Quang Viên Thành ấy của các ông mà hiển bày. Ngay đến Trời, người, chúng sanh, Nghiệp Báo, Hữu Tình, Vô Tình không có cái gì chẳng trọn nhờ cái Oai Quang của các ông. Cho đến chư Phật, thành Đạo, thành Quả, tiếp vật lợi sanh, không gì mà chẳng trọn nhờ Oai Quang của các ông. Như cái Thể Kim Cương ấy, có phàm phu cùng chư Phật không? Có tâm hành của các ông không? Không thể nói là không có, bèn tận dụng được vậy. Biết không?

Tổ Huyền Sa nhờ xem Lăng Nghiêm mà phát minh tâm địa. Do đó, Ngài ứng cơ nhạy bén, thầm hợp với khế kinh. Đoạn Ngài nói ở trên, mỗi mỗi đều chẳng khác ý chỉ của Kinh, cho đến nói: Tất cả đều nhờ vào lực của Oai Quang, cùng với câu Kinh: Các pháp sinh ra là duy một tâm hiện, lại càng thần diệu.

Lại nữa, Tổ Trúc Am Khuê, kế pháp của Tổ Phật Nhãn, cùng với người bác là cư sĩ Trì Nhất, cùng thích Lăng Nghiêm.

Tổ Trúc Am Khuê nói:

- Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, đó chính là căn bản của sanh tử.

Cư sĩ hoảng hồn, nói:

- Phật nói lầm hay sao?

Tổ Am nói:

-Phật cố nhiên là không lầm. Nhưng hiện giờ cái tâm đối diện hỏi han của cư sĩ quả thật ở đâu?

- Cư sĩ bèn tán thán rằng Phật nói: Hiểu cái Đệ Nhất Không, gọi là Sư Tử Hống, Ngài làm rồi mà không vướng mắc đấy.

Tổ Am, sau đó thượng đường mà rằng:

- Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy ấy chẳng phải là cái Thấy Chân Thật (Chánh Kiến). Thấy do lìa tất cả tướng thấy, cái thấy ấy là siêu việt (Giải Thoát).

Hoa rơi hữu ý theo giòng nước. Giòng nước vô tình đưa hoa rơi. Các thứ có thể trả về được dĩ nhiên chẳng phải là ông. Còn ông không thể trả về được, nếu chẳng phải là ông, thì là ai?

Thường hận xuân đi không chỗ kiếm. Chẳng hay trở lại chốn xưa ra.

Hét lên một tiếng mà rằng:

- Ba mươi năm sau, chớ nói Phật, Tổ dạy hư con cái nhà người!

Theo chỗ thấy của Tổ Trúc Am, thì lìa tiền trần cũng không có cái Tự Tánh Phân Biệt nào nữa để được. Người tự khéo chuyển Lăng Nghiêm thì một đoạn chân phong: Thấy do lìa thấy, Thấy ấy siêu việt, có thể cùng với Tổ Huyền Sa đồng tham vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

V. CHỈ RÕ TÍNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT

Kinh:

Khi ấy Ông A Nan cùng tất cả đại chúng lặng im, ngơ ngác. Phật bảo Ông A Nan:

- Hết thảy những người tu học trong thế gian, hiện tuy thành được chín bậc Định thứ lớp mà chẳng được hết lậu để thành A La Hán, đều do chấp lấy cái vọng tưởng sanh tử này mà lầm cho là chân thật. Thế nên, ông nay tuy được đa văn mà không thành quả Thánh.

Thông rằng: Chín bậc Định thì sau này có nêu ra: Tứ Thiền, Tứ Không... Nhưng chỉ nói quả vị mà không nói cách tu. Đây nói là người tu hành chín bậc Định thứ lớp, vì từ một bậc thiền này sang bậc thiền kia, theo thứ tự mà tu.

Như Đại Bát Nhã nói: Lìa Dục, Ác, Bất Thiện Pháp, có tìm có xét. Lìa thì sanh Hỷ, Lạc, nhập Sơ Thiền. Tìm, xét đã vắng lặng, trụ ở trong tâm trong sạch hoan hỷ. Không tìm, không xét nghĩ, Định sanh ra Hỷ, Lạc, nhập Nhị thiền. Lìa Hỷ trụ Xả, đầy đủ niệm chánh tri, thân thọ lãnh sự vui trong sạch bậc Thánh, nói được xả được, đầy đủ niệm lạc trụ nhập Tam Thiền. Dứt vui dứt khổ, trước là cái vui vẻ, lo buồn biến mất, không Khổ không Lạc, niệm Xả thanh tịnh, nhập Tứ Thiền. Vượt lên cả Sắc Tưởng, diệt tưởng có đối tượng, chẳng tư duy hết thảy các Tưởng, nhập vào Không Vô Biên là Không Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Không, nhập Thức Vô Biên là Thức Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Thức Vô Biên, nhập Vô Sở Hữu Xứ Định. Vượt Vô Sở Hữu Định, nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Vượt tất cả Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhập Diệt Thọ Tưởng Định.

Đó là chín phép Định theo thứ lớp, đều là cái công dụng Hữu Vi, ưa thích thiện quả hữu vi nên nói là "Mê những cõi Trời hữu lậu, hiểu đấy là vô vi". Vì cái mê chấp ấy, nhập vào cái thức vi tế sanh diệt vọng tưởng mà tu, chưa thể thấy được Chân Tánh Vô Sanh, Hiện Tiền Tịch Diệt (Niết Bàn) chính là Pháp Vô Vi Chân Thật, nên chưa được hết hữu lậu. Như bậc Đại A La Hán, đã chứng Diệt Thọ Tưởng Định, nên gọi là Vô Lậu. Nay tại sao trong chín cấp Định thứ lớp cũng chứng Diệt Thọ Tưởng Định mà lại gọi là hữu lậu? Vì có vọng tưởng mà chứng Niết Bàn, nên dù có được Diệt Tận Định vẫn chưa phải là chân thật.

Tổ Hoàng Bá nói rằng:

- Cả thảy chúng sanh luân hồi, sanh tử chẳng ngừng nghỉ là do ý duyên khởi tạo cái tâm trong sáu nẻo chẳng ngừng, đến nỗi khiến chịu bao nhiêu thứ khổ.

Kinh Duy Ma nói:

- Loài người khó dạy, tâm như khỉ vượn, nên phải dùng biết bao pháp môn để chế ngự tâm này, sau mới điều phục. Bởi vì tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.

Cho nên, phải biết rằng tất cả các pháp đều do tâm tạo, cho đến Trời người sáu nẻo, địa ngục, Tu La đều do tâm tạo. Như nay chỉ học Vô Tâm, dứt ngay các duyên, không sanh vọng tưởng phân biệt, không Người, không Ta, không Tham, Sân, không Yêu Ghét, không Hơn Thua. Chỉ cần trừ bỏ hết bấy nhiêu thứ vọng tưởng, thì Tự Tánh vốn xưa nay vẫn là trong sạch, đó gọi là tu hành Bồ Đề, Pháp, Phật... Nếu chẳng hiểu như thế, thì dù cho học rộng, cần khổ tu hành, ăn cây mặc cỏ, mà chẳng biết Tự Tâm, đều gọi là tà hạnh, đều làm Thiên Ma ngoại đạo, các thần đất, nước. Tu hành mà thế, nào có ích gì?

Tổ Chí Công dạy:

- Bản thân là do tâm tạo ra, nào phải trong chữ nghĩa tìm cầu. Như hiện giờ chỉ rõ biết Tự Tâm, tuyệt dứt tư duy vọng tưởng thì trần lao, phiền não tự nhiên chẳng sinh.

Kinh Duy Ma nói:

- Chỉ để một cái giường, nghỉ ngơi tật bệnh mà nằm, là tâm chẳng khởi vậy. Như người nằm bệnh, các duyên đều hết, vọng tưởng tiêu ma, đó là Bồ Đề.

Còn nếu giờ đây trong tâm phân vân chẳng định, thì dầu cho có học đến Tam Thừa, Tứ Quả, Thập Địa cũng chỉ là hướng trong phàm Thánh mà ngồi. Các hành trọn quy về vô thường, thế lực đều có lúc hết. Như bắn tên lên không, hết đà rơi xuống, lại rơi vào vòng sanh tử luân hồi. Tu hành kiểu đó là chẳng hiểu ý Phật, uổng công nhọc mệt, há chẳng là lầm to?

Tổ Chí Công lại nói:

- Chưa gặp bậc Minh Sư ra đời, uống thuốc pháp Đại Thừa cũng uổng.

Than ôi! Thuốc pháp Đại Thừa còn chẳng thể giúp, huống là chín bậc Định thứ lớp? Nên phải biết tu tập lầm lạc, khó thành quả Thánh.

Kinh:

- Ông A Nan nghe xong lại đau xót khóc lóc, năm vóc gieo xuống đất, quỳ thẳng chấp tay mà bạch Phật: Từ khi tôi theo Phật phát lòng xuất gia, ỷ lại oai thần của Phật, thường tự nhủ: Chẳng nhọc đến mình tu, Như Lai sẽ ban cho mình Pháp Chánh Định, mà chẳng biết rằng thân tâm không thể thay thế. Bỏ mất bản tâm của mình, nên tuy thân thể xuất gia, tâm chẳng nhập đạo. Ví như đứa con cùng khổ, bỏ cha trốn lánh. Ngày nay mới biết dù có đa văn, nếu chẳng tu hành thì có khác gì người chưa được nghe, như người nói chuyện ăn thì rốt cuộc chẳng được no.

Thưa Thế Tôn, chúng tôi giờ đây bị hai chướng buộc ràng, là do chẳng biết cái Tâm Tánh Tịch Thường. Độc chỉ cầu xin Như Lai xót thương kẻ cùng đường, mà khai phát cái Tâm Diệu Minh, mở con mắt đạo cho tôi.

Thông rằng: Bỏ cha trốn đi thì ở Kinh Pháp Hoa cũng có ví dụ. Cùng đường ở phương xa, mong được chỉ cho hạt châu trong áo, dần dần có ý muốn về nhà.

Hai cái chướng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Phiền Não Chướng thì chướng ngại tâm, tâm chẳng giải thoát, kết nghiệp mà thọ quả báo. Sở Tri Chướng ngăn trở cái Tánh Sáng (Huệ). Tánh Sáng bị buộc ràng, chẳng hiểu Pháp Không vậy.

A Nan biết rõ bị hai Chướng ràng buộc, lại cũng biết cái gọi là Tâm Tánh Tịch Thường, cớ sao con Mắt Đạo chẳng mở ra? Thấu thoát quả là khó khăn lắm vậy.

Có nhà sư bạch hỏi Tổ Dược Sơn:

- Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào?

Tổ Sơn nói:

- Cha mẹ ông khắp mình sưng đỏ, nằm trong rừng gai góc, ông về chỗ nào?

Sư hỏi:

- Như thế tức là chẳng về ư?

Tổ rằng:

- Ông lại cần phải về. Nếu ông về ta chỉ cho ông món ăn làm thuốc tốt đẹp để đi đường.

Sư rằng:

- Xin nói.

Tổ Sơn nói:

- Hai buổi thượng đường, không cắn bể một hột gạo.

Sau, có vị sư bạch hỏi Tổ Lạc Phổ:

- Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào?

Tổ Phổ rằng:

- Nhà tan, người mất, ông về chốn nào?

Sư rằng:

- Như vậy tức là chẳng về ư?

Tổ Phổ rằng:

- Trước sân tuyết sót (tuyết tàn), mặt trời tan. Trong thất bụi hồng, ai bảo quét.

Lại đọc bài kệ:

Lòng quyết về quê cũ,
Cỡi thuyền qua Ngũ Hồ.
Nhổ sào trăng sao lặn,
Dừng chèo mặt trời cô.
Mở neo lìa bến ngụy,
Trương buồm ra dòng Chơn.
Đến nơi, người mất sạch,
Khỏi làm đứa ngu (trong) nhà.

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

Quê nước thái bình nẻo chẳng xa,
Về, hứng miên man, ý vô bờ.
Buông tay, nhà đến: nơi nào có?
Bóng trăng lồng điện báu lưu ly.

Dịch:
Thái bình hương quốc lộ không xa,
Quy hứng du tu tư mạc nhai.
Tát thủ đáo gia hà xứ hữu,
Lưu ly bảo điện tỏa thiềm hoa.

Các vị lão túc một phen chỉ ra phương tiện về nhà. Đáng gọi là con mắt Đạo mở sáng, thật biết cái Tâm Tánh Tịch Thường vậy.

Kinh:

- Liền khi ấy, Như Lai từ chữ VẠN ở ngực, phóng ra ánh sáng báu. Hào quang ấy rực rỡ, có trăm ngàn sắc, chiếu khắp cùng một lúc tất cả thế giới chư Phật mười phương, số như vi trần. Hào quang rưới khắp đảnh các Như Lai của mười phương cõi báu, xoay về soi đến ông A Nan và cả đại chúng.

Phật bảo Ông A Nan:

- Ta nay vì ông dựng cờ Pháp lớn, cũng khiến cho tất cả chúng sanh của mười phương được cái Tâm Tánh nhiệm mầu, vi mật, sáng sạch và được con Mắt Trong Sạch (Thanh Tịnh Nhãn).

Thông rằng: Trước thì từ mặt phóng ra ánh sáng, mười phương cõi nước đồng thời khai hiện, khiến tất cả thế giới hợp thành một cõi, là biểu thị Chân Vọng chẳng hai. Chỉ bày hai loại Căn Bản, thì lấy Đoạn Vọng làm đầu vì vọng tưởng chẳng dứt thì dù đến chín bậc Định thứ lớp cũng chẳng thành quả Thánh. Cái mặt mũi ấy có thể nghiệm xét mà thấy như soi gương vậy. Nay từ chữ VẠN ở ngực phóng ra ánh sáng, rưới đảnh của chư Như Lai rồi trở về chiếu A Nan và đại chúng, là biểu thị Thánh phàm chẳng hai. Chỉ bày rằng tiền trần tự tối, cái Thấy nào có thiếu hụt. Nhẫn đến cái đầu tự động chao, cái Thấy hoàn toàn chẳng động. Bàn tay tự mở, nắm; cái Thấy không có trải ra, cuốn lại. Đó là chỉ ra một đường hướng thượng, người người sẵn đủ, khả dĩ an ấn (truyền pháp yếu) vậy.

Xưa, Tổ Ngưỡng Sơn đang ngồi, có vị tăng đến làm lễ. Tổ Sơn chẳng đoái hoài.

Vị tăng mới hỏi Tổ:

- Biết chữ chăng?

Tổ đáp:

- Tùy phận.

Tăng bèn đi quanh phía phải một vòng rồi nói:

- Đó là chữ gì?

Tổ Sơn vẽ trên đất chữ thập đáp lại.

Vị tăng lại đi quanh phía trái một vòng rồi hỏi:

- Đó là chữ gì?

Tổ Sơn đổi chữ thập thành chữ Vạn.

Vị tăng vẽ tướng vòng tròn, rồi dùng hai tay nâng lên như bàn tay của Tu La trong thế Nhật Nguyệt, nói:

- Đây là chữ gì?

Tổ Sơn bèn vẽ tướng đáp lại.

Vị tăng làm ra cái tướng Đức của Phật Lâu Chí.

Tổ Sơn rằng:

- Như thế, như thế. Đây là chỗ hộ niệm của Chư Phật. Ông cũng như thế, ta cũng như thế. Hãy khéo tự hộ trì.

Vị tăng lễ tạ, bay lên không mà đi mất.

Lúc ấy, có một vị đạo nhân thấy được.

Sau đó năm ngày, bạch hỏi Tổ Ngưỡng Sơn.

Tổ hỏi:

- Ông có thấy không?

Đạo giả đáp:

- Tôi thấy người ấy ra cửa phòng lên không đi mất.

Tổ rằng:

- Đó là vị A La Hán bên Tây Thiên, đến thử đạo ta đó.

Đạo giả nói:

- Tôi tuy thấy đủ thứ Tam Muội mà chẳng rành rẻ cái Lý.

Tổ Ngưỡng Sơn rằng:

- Để tôi vì ông dùng nghĩa mà giải thích ra. Đây là tám loại Tam Muội: ấy là Giác Hải biến làm Nghĩa Hải, Thể đồng như nhau. Cái Nghĩa này có Nhân có Quả; Tức Thời, Khác Thời; Tổng Tướng, Biệt Tướng chẳng rời Ẩn Thân Tam Muội.

Nếu biết cái Tam Muội Giác Hải biến ra Nghĩa Hải của Ngài Ngưỡng Sơn, thì chữ Vạn nơi ngực của Phật phóng ra ánh sáng quý báu cũng là Diệu Dụng trong cái Bất Tư Nghì, ắt phải được cái Tâm Tánh Diệu Mật Sáng Sạch làm cội gốc vậy.

Tổ Quy Sơn từng hỏi Tổ Ngưỡng Sơn:

- Chỗ Diệu Tịnh Minh Tâm, theo ông hiểu làm sao?

Tổ Ngưỡng đáp:

- Núi sông đất đai, nhật nguyệt tinh tú.

Tổ Quy nói:

- Ông chỉ được cái Sự.

Tổ Ngưỡng rằng:

- Hòa Thượng vừa hỏi cái gì đó?

Tổ Quy:

- Cái Diệu Tịnh Minh Tâm.

Tổ Ngưỡng:

- Kêu là cái Sự không được sao?

Tổ Quy rằng:

- Như thế, như thế.

Chỉ do Tổ Ngưỡng Sơn hiểu được cái Diệu Tịnh Minh Tâm, được con mắt trong sạch, cho nên cái Tam Muội rõ nghĩa chữ (Tự Tam Muội), vượt xa hẳn tầm thường.

Kinh:

- Ông A Nan, trước đây ông đã trả lời Ta rằng thấy nắm tay chói sáng. Sự chói sáng ấy của nắm tay do đâu mà có? Làm sao thành ra nắm tay? Ông lấy cái gì mà thấy?

Thông rằng: Đây là lần dẫn dụ từ từ thứ ba của Thế Tôn, có thể nói là tâm Lão Bà quá tha thiết. Trước đã hỏi: Ông lấy gì thấy? Ông A Nan trả lời: Đều lấy mắt mà thấy, để rồi bị Phật quở nhận giặc làm con. Đến đây hỏi lại: Ông lấy gì thấy?, chính là muốn ông A Nan hồi quang phản chiếu để hốt nhiên thấy được cái Kiến Tính Minh Nguyên, chẳng do con Mắt. Tiếc thay, ông chẳng tỉnh ngộ được.

Có vị tăng đứng hầu Tổ Trường Sa.

Tổ lấy gậy chỉ trên đất trước mặt một điểm bất kỳ nào đó rồi hỏi:

- Có thấy không?

Đáp rằng:

- Thấy.

Hỏi như vậy ba lần, vị tăng cũng ba lần trả lời như vậy.

Tổ Sa nói:

- Ông cũng thấy ta cũng thấy. Vì sao lại nói là không hiểu?

Ngày khác, lại lấy cây gậy cắm trên đất, hỏi Tổ Trường Sanh:

- Tăng thấy, tục thấy, nam thấy, nữ thấy, còn ông thấy làm sao?

Đáp rằng:

- Hòa Thượng có thấy Kiến Xứ (chỗ thấy) của Kiểu Nhiên (Trường Sanh) không?

Tổ Trường Sa nói:

- Người hiểu nhau khắp thiên hạ, nhờ có câu trả lời này của Kiểu Nhiên, bèn cùng Huyền Sa thấy mặt!

Phải chi Ông A Nan tự biết cái Kiến Xứ ấy chẳng có cái Kiến (Thấy) nào đến được, thì đâu đến nỗi Thế Tôn phải cực nhọc lắm lời!

Kinh:

Ông A Nan thưa:

- Toàn thân Phật như vàng Diêm Phù Đàn, sáng ngời như núi báu, do Thanh Tịnh sanh ra nên có ánh sáng. Quả thật, tôi lấy mắt mà thấy năm ngón tay Phật co nắm lại, đưa ra cho đại chúng coi, nên có tướng nắm tay.

Phật bảo Ông A Nan:

- Như Lai hôm nay, xác thật dạy ông. Những người có Trí cần lấy thí dụ mà được khai ngộ. Ông A Nan, ví như nắm tay của Ta, nếu không có bàn tay ta thì không thành nắm tay Ta. Nếu không có con mắt của ông thì không thành cái Thấy của ông. Vậy thì lấy Nhãn Căn của ông mà so với Nắm Tay của Ta, cái nghĩa có tương xứng không?

Ông A Nan bạch Phật:

- Đúng vậy, thưa Thế Tôn. Đã không có con mắt của tôi thì không thành cái Thấy của tôi. Lấy Nhãn Căn của tôi mà so với nắm tay của Phật, sự nghĩa giống nhau.

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao thế? Như người không có bàn tay thì tuyệt nhiên không có nắm tay. Còn người không có mắt kia, không phải hoàn toàn không thấy. Tại sao như thế? Ông thử ra đường hỏi người mù: Anh thấy gì? Những người mù chắc sẽ trả lời: Hiện nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, chứ không thấy gì khác. Lấy nghĩa ấy mà xét thì tiền trần tự tối, chứ cái thấy nào có hao kém gì?

Thông rằng: Vì sao Đức Thế Tôn lại lấy người mù làm ví dụ? Bởi vì, Ông A Nan chấp chặt lấy cái Thấy của con mắt làm cái Thấy Chân Thật, vậy là chẳng rời Căn và Trần, mà Thức sanh ra ở giữa.

Người mù không có mắt, sao cũng thấy tối thui? Do đó, có thể biết rằng chờ có Nhãn Căn mới thấy, đó là cái thấy của tiền trần phân biệt, chẳng phải là cái thấy của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch vậy. Tiền trần phân biệt thuộc Thức Thứ Sáu, nên mắt còn thì nó còn, mắt mất thì nó mất, nên phải chờ có Căn thì mới hiện ra được.

Cái ánh sáng trong sạch của Tâm, chẳng đợi đến cái Căn mà còn, chẳng tùy theo Căn mà diệt, nên nó là không sanh diệt. Đó là cái Thấy không sanh diệt của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch ai ai cũng sẵn đủ. Chẳng phải vì không có mắt mà người mù không có.

Ông A Nan chấp chặt là chỉ có con mắt mới thấy, thì đó là cái Căn sanh diệt. Thế Tôn chỉ ra cái Thấy không hề thiếu hụt, đó là cái Căn Không Sanh Không Diệt. Đánh thức như thế, có thể nói là đã cùng cực.

Xưa, tướng quốc Thôi Công Quần ra mắt Tổ Như Hội thiền sư, hỏi rằng:

- Thầy lấy gì mà được?

Tổ Hội trả lời:

- Lấy Tánh Thấy mà được.

Tổ Như Hội đang bị đau mắt.

Ông Quần chọc rằng:

- Đã nói là Tánh Thấy, còn con mắt thì sao đó?

Tổ Hội rằng:

- Tánh Thấy chẳng phải là con mắt, con mắt bệnh nào có hề gì!

Ông Quần bèn cúi đầu tạ lỗi.

Sau này, Tổ Pháp Nhẫn nói rằng:

- Con mắt ấy của Tướng Công há thấy được chỗ trả lời của Tổ Như Hội, mà còn can thiệp đến giáo ý hay sao?

Kinh:

Ông A Nan thưa:

- Trước mắt những người mù chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy được?

Phật bảo Ông A Nan:

- Các người mù không có con mắt chỉ thấy tối đen, so với người có mắt ở trong nhà tối, thì hai cái tối đen ấy khác nhau hay không khác nhau?

- Thật vậy, thưa Thế Tôn, người có mắt ở trong nhà tối với những người mù, so sánh hai cái tối đen của họ, thật không khác nhau.

- A Nan, nếu người mù không có mắt, thấy trước mắt hoàn toàn tối đen, bỗng nhiên được con mắt sáng thì thấy lại nơi tiền trần đủ mọi loại sắc mà gọi là con mắt thấy; thì người ở trong nhà tối kia, thấy trước mắt hoàn toàn tối đen bỗng nhiên được cái đèn sáng, nên thấy nơi tiền trần đủ mọi loại sắc, lẽ ra phải gọi là cái đèn thấy. Nếu cái đèn tự nó thấy được, thì không thể gọi là đèn. Lại ngọn đèn nó thấy, thì liên can gì tới ông! Vậy, nên biết rằng: Đèn làm sáng các hình sắc, nhưng thấy như vậy là Mắt chứ không phải đèn. Mắt làm sáng tỏ các Sắc, nhưng Tánh Thấy như vậy là Tâm chứ chẳng phải là Mắt.

Thông rằng: Đây là Đức Thế Tôn phân tích rõ ràng, nên nói là: Xác thật bảo ông. Đèn và con Mắt, đều là cái duyên cho sự thấy, thể của chúng chẳng phải Hay Thấy. Cái Hay Thấy là tâm vậy. Ở trước, nói: Cửa có thấy không? là đã đủ nghĩa này. Ở đây, lại lấy ngọn Đèn ví dụ là con mắt, lấy Mắt mà so với Tâm. Đèn không thể thấy, Mắt có thể thấy được sao? Cái Thấy của con Mắt chẳng phải là Tánh Thấy.

Nếu sáu Căn có thể dùng thay nhau, thì Tai cũng thấy được vậy, đâu phải chỉ có mắt mới thấy. Chỗ Ông A Nan nói: Quả thật tôi dùng con mắt mà thấy, thì rõ ràng chấp lấy Vọng mà làm cái Chơn. Nếu biết đèn chỉ có thể hiển cái sắc còn cái Năng Kiến thuộc về con mắt, thì đã lìa Sở Vọng. Lại biết mắt chỉ hiển sắc, còn Tánh Thấy thuộc về Tâm, thì lìa luôn cả cái Năng Vọng. Năng, Sở đều lìa, duy chỉ một Tâm. Tâm siêu vượt khỏi con mắt nên không sanh diệt. Dùng cái Thấy không sanh diệt mà thấy nắm tay của Như Lai thì chưa từng không thấy. Nhưng không thể nói là con mắt thấy.

Xưa, thiền sư Khô Mộc Tổ Nguyên theo học Ngài Đại Huệ ở am Vân Môn. Trời sắp tối, thấy vị tăng sửa soạn đèn mới tỏ ngộ thấu đáo, làm bài kệ rằng:

Vừa soạn đèn là lửa đến,
Vô Minh bao kiếp soi phá.
Về nhà đụng gặp Thánh Tăng,
Suýt nữa đối mặt lầm qua.
Chẳng lầm qua thì thế nào?
Mười lăm năm trước tưởng lạ kỳ,
Y xưa, chỉ là cái đó!
Dịch:
Dịch khởi đăng lại thị hỏa,
Lịch kiếp Vô Minh chiếu phá.
Quy đường chàng kiến Thánh tăng,
Kỷ hồ đương diện tạ quá.
Bất tạ quá, thị thậm ma,
Thập ngũ niên tiền kỳ đặc,
Y tiền chỉ thị giá cá.

Ngài Đại Huệ bèn tặng cho một bài kệ:

Vách núi muôn tầm, giải phóng thân,
Xưa nay như cũ, vẫn minh minh.
Đói ăn khát uống toàn vô sự,
Há luận người xưa, chẳng phải xưa!

Dịch:
Vạn nhận nhai đầu giải phóng thân,
Khởi lai y cựu khước tinh tinh.
Cơ xan khát ẩm hồn vô sự,
Há luận tích nhơn phi tích nhơn.

Ôi, việc sửa soạn đèn đâu có ăn nhằm gì tới chuyện tu thiền mà lại tỏ ngộ. Thế mới biết Thế Tôn nói rằng cái thấy đó là con mắt chớ chẳng phải đèn; cái Tánh Thấy là Tâm chớ chẳng phải con mắt. Nên Ngài Tổ Nguyên mới nói vừa soạn đèn là lửa đến. Như cách vách thấy sừng thì biết chắc là trâu. Phải triệt chứng như thế mới gọi là Thấy Tánh.

Kinh:

- Ông A Nan tuy được nghe lời Phật dạy như vậy, cùng với đại chúng miệng tuy im lặng nhưng Tâm chưa khai ngộ, còn mong Như Lai từ tâm chỉ bày, chắp tay lắng lòng đợi Phật thương xót dạy bảo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn duỗi tay Đâu La Miên sáng ngời, mở năm ngón tay mà bảo Ông A Nan và đại chúng rằng:

- Lúc Ta vừa thành đạo ở vườn Lộc Uyển có dạy nhóm Ông A Nhã Đa năm vị Tỳ kheo và bốn chúng rằng: Tất cả chúng sanh không thành Bồ Đề cùng bậc A La Hán đều do những phiền não khách trần mê hoặc. Lúc ấy, các ông nhờ đâu mà khai ngộ, đắc thành Thánh quả?

Thông rằng: Đức Thế Tôn lời thật chỉ bày rõ ràng mà Ông A Nan và đại chúng còn chưa khai ngộ cũng vì cơ duyên chưa dễ nhóm tụ. Do lòng từ bi, Đức Thế Tôn còn e lời nói vi diệu chưa dễ hiểu được. Nhưng trong hàng tỳ kheo cũng có vị đã hiểu ngộ rồi, vậy thì dùng chỗ đã hiểu biết dìu dẫn cho hiểu biết thì dễ dàng ngộ nhập. Bởi thế nên dạy các vị tỳ kheo mỗi vị tự thuật lại nguyên do khai ngộ để Ông A Nan dễ lãnh ngộ. Đoạn sau, hai mươi lăm vị Thánh thuật lại chỗ chứng Viên Thông của mình cũng là dùng cách này. Ở đây là Biết Vọng, sau mới Chứng Chơn, không phải không có chỗ sâu cạn khác nhau, nhưng phương tiện dắt dẫn chỉ là một.

Nói rằng "Chẳng thành Bồ Đề đều do phiền não khách trần làm mê lầm", đó chính là sự đắp đổi hóa thành lẫn nhau của hai loại căn bản sanh tử, tỏ ngộ cũng không dễ.

Có vị tăng hỏi Ngài Nam Dương Huệ Trung quốc sư:

- Cái gì là Phật?

Tổ đáp:

- Tức Tâm là Phật.

Hỏi:

- Tâm có phiền não không?

Tổ rằng:

- Phiền não, tánh tự lìa.

Tăng rằng:

- Há chẳng đoạn trừ sao?

Tổ đáp:

- Đoạn trừ phiền não, kêu bậc Nhị Thừa. Phiền não chẳng sanh, gọi đó là Đại Niết Bàn.

Tăng hỏi:

- Ngồi thiền khán tịnh thì như thế nào?

Tổ đáp:

- Không dơ không sạch thì đâu cần khởi tâm khán tướng tịnh?

Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói:

- Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người này thành Phật không nghi.

Học sĩ Trần Tú Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng rằng:

- Đức Di Lặc Bồ Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não?

Tổ Tùng đáp:

- Chân Tâm vốn tịnh, nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt lìa phiền não.

Học sĩ lại đem câu này hỏi Ngài Hương Sơn Đại Nhuận Hòa Thượng. Ngài đáp:

- Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn.

Học sĩ lại đem hỏi Ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp:

- Vốn không có thiền định, phiền não!

Học sĩ nói:

- Chỉ có thế này mới khoái!

Ở chỗ này mà tin tới được, mới biết việc chỉ bày ở Lộc Viên chỉ vì người mới học.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

VI. Ý NGHĨA CHỦ VÀ KHÁCH

Kinh:

Khi ấy, Ông Kiều Trần Na đứng dậy bạch Phật:

- Tôi nay già cả, ở trong đại chúng riêng được cái danh là Hiểu. Do tôi ngộ được hai chữ Khách Trần mà thành quả. Thưa Thế Tôn, ví như người khách đi đường, vào trọ nơi quán xá, hoặc ngủ lại, hoặc ăn. Ăn, ngủ xong xếp đồ đạc lên đường không ở lại được. Nếu thật là người chủ, tự không phải đi đâu. Tôi nghĩ như vầy: Không ở yên mãi được thì gọi là Khách, còn ở mãi thì gọi là Chủ. Lấy cái sự "Không ở yên mãi" được làm ý nghĩa chữ Khách. Lại như trời mới tạnh, mặt trời chiếu sáng trên cao, ánh sáng xuyên qua khe hở chiếu rõ bụi bặm trong khoảng không. Bụi trần thì dao động, hư không lặng yên. Như vậy mà suy nghĩ: Đứng lặng gọi là hư không, lay động gọi là Trần. Tôi lấy Sự Lay Động làm ý nghĩa chữ Trần.

Đức Phật nói:

- Chính vậy.

Thông rằng: Khách là thí dụ cho cái thô trọng của Sở Tri ; Trần là ví dụ cho cái vi tế của Phiền Não. Niệm Niệm Đổi Dời, sanh ra rồi diệt mất chẳng ngừng, nên thí dụ "như khách đi đường" vào trọ quán xá. Khởi lên sự mê lầm, gây ra nghiệp, bỏ cũ theo mới, nên thí dụ là ăn, ngủ xong thì thu dọn lên đường. Cái, Chân Tánh Thường Tru, vốn chẳng có chuyện ấy, nên thí dụ như "người chủ" chẳng đi đâu cả. Thô chướng thì dễ trừ mà cái mê lầm vi tế thì khó biết, nên phải do bầu trời Bản Tánh tạnh ráo sáng trong có mặt trời Trí Huệ soi chiếu, qua khe hở của Ngũ Ấm soi rõ Bản Tánh rỗng trống, mới biết hư vọng tự rối động ở trong.

Do đó, mới lấy thí dụ: Trời tạnh, mặt trời chiếu sáng, ánh sáng vào trong lỗ hở, phát hiện rõ ràng bụi bặm trong hư không.

Phiền não thì rối động. Chân Tánh vốn tịch nhiên. Như ngộ được là vốn không, thường trụ chẳng động, tức biết Tâm Tánh thường tịch vậy.

Tổ Triệu Châu nói:

- Các ông từ một phen thấy lão tăng trở về sau, lại chẳng phải là người nào khác, chỉ thật là người chủ nhân ông. Cái ấy đây lại hướng ra ngoài tìm kiếm làm chi? Chính lúc này đây, chớ chuyển đầu đổi não. Nếu chuyển đầu đổi não tức mất ngay vậy.

Lại một hôm, Ngài đang quét đất, có vị tăng hỏi:

- Hòa Thượng là bậc đại Thiện Tri Thức vì sao lại còn quét đất?

Tổ Châu nói rằng:

- Bụi từ ngoài đến.

Tăng hỏi:

- Đã là chốn Già Lam trong sạch, làm sao có bụi?

Tổ Châu nói:

- Lại một hạt bụi nữa kìa.

Ngài Triệu Châu, ánh sáng con mắt Ngài soi nát bốn châu thiên hạ, biện rõ nghĩa Khách Trần, chẻ vào thấu cái nhỏ nhiệm. Nếu ở chỗ này mà soi ra được rành rẽ, thì quả thật là vị Sa Di có chủ, ở đời chẳng nhiễm, chứ đâu chỉ được mang tiếng là Giải.

Kinh:

- Khi ấy, Đức Như Lai ở giữa đại chúng nắm năm ngón tay lại. Nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm. Rồi hỏi Ông A Nan rằng:

- Nay ông thấy gì?

Ông A Nan đáp:

- Tôi thấy bàn tay Bách Bảo Luân của Như Lai ở giữa đại chúng lúc mở lúc nắm.

Phật bảo Ông A Nan:

- Ông thấy tay ta ở giữa đại chúng khi mở khi nắm, đó là tay ta có mở có nắm hay là cái Thấy của ông có mở có nắm?

Ông A Nan thưa:

- Bàn tay báu của Phật ở giữa đại chúng khi mở khi nắm. Tôi thấy bàn tay Như Lai tự mở tự nắm, chẳng phải cái Tánh Thấy của tôi có mở có nắm.

Phật bảo:

- Cái gì Động, cái gì Tĩnh?

Ông A Nan thưa:

- Bàn tay Phật không ở yên, chứ Tánh Thấy của tôi còn không có tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên được?

Phật dạy:

- Đúng thế.

Thông rằng: Ông Kiều Trần Na nhờ ngộ hai chữ Khách Trần, chỉ rõ biết được cái bờ mé của phiền não. Đức Thế Tôn ắt chỉ ngay (Trực Chỉ) cái Bồ Đề mà nói. Trước hết là ở nơi ngoại cảnh mà biện rõ cái Chân Tánh. Cảnh có nắm mở mà cái Thấy thì không động hay tĩnh, đây là chỗ người ta dễ biết. Đức Thế Tôn nhân cái chỗ dễ biết đó mà dẫn dắt. Quả nhiên, Ông A Nan tin là cái tay có nắm có mở, còn cái Thấy không có nắm mở, mà nói: Tánh Thấy của tôi còn không có cả cái tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên?

Tìm tướng động tĩnh tuyệt chẳng thể được. Cũng gần thấy được vị chủ nhân thường trụ rồi. Nếu không phải là sự thức tỉnh vi diệu của Thế Tôn làm sao được như vậy.

Xưa, có Ngài Tây Đường hỏi Tổ Bá Trượng:

-Về sau, ông làm sao khai thị cho người?

Tổ Trượng dùng tay mở nắm lại hai lượt.

Ngài Tây Đường hỏi:

- Lại làm cái gì?

Tổ Trượng lấy ngón tay điểm ba cái.

Thử nói cái hiển dụng như thế của Tổ Bá Trượng là hợp với cơ phong của Lăng Nghiêm hay không, hay là có đạo lý gì khác?

Lại như Hòa Thượng Câu Chi, thuở mới trụ am, có vị ni tên là Thực Tế đến am, đi thẳng vào chẳng hề cất nón, cầm tích trượng đi quanh thiền sàng ba vòng, rồi bảo:

- Nói được thì bỏ nón.

Hỏi vậy ba lần, thầy Câu Chi không có chỗ đáp được. Vị ni bèn đi.

Thầy Câu Chi nói:

- Trời sắp tối rồi, hãy nghĩ lại một đêm.

Ni sư nói rằng:

- Nói được thì ở lại.

Thầy Câu Chi lại không có chỗ đáp lại. Ni sư bèn đi.

Sư Câu Chi than rằng:

- Ta tuy có cái hình tướng trượng phu mà không có khí phách của trượng phu!

Bèn nổi lòng hăng tức muốn rõ biết việc này, định bỏ am đi các nơi tham hỏi.

Đêm ấy, vị thần Núi bảo rằng:

- Chẳng nên lìa đây, ngày mai sẽ có vị Bồ Tát xác phàm đến đây vì Hòa Thượng nói pháp.

Hôm sau, Tổ Thiên Long đến am, Ngài Câu Chi nghinh lễ rồi kể lại đầy đủ câu chuyện. Tổ Thiên Long chỉ dựng đứng một ngón tay mà khai thị cho. Ngài Câu Chi hoát nhiên đại ngộ.

Từ đó về sau, hễ có ai hỏi, Ngài chỉ dựng đứng một ngón tay. Khi sắp thị tịch, Ngài nói với chúng rằng:

- Ta được nơi Ngài Thiên Long một ngón tay Thiền, suốt đời dùng chẳng hết. Có hội chăng? Rồi dựng lên một ngón tay mà tịch.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Lão Câu Chi một ngón tay Thiền,
Hai mươi năm dùng mãi không cùng.
Tin có đạo nhân, nhiều phương thuật,
Rõ không tục vật, trước mắt nhìn.
Chỗ được quá giản dị,
Ban bày khắp rộng thay!
Đại thiên sát hải uống đầu lông,
Vô hạn rồng, lân vào tay kẻ?
Nhậm Công trân trọng nắm cần câu.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Rất khen, thương lắm lão Câu Chi,
Vũ trụ xưa nay chẳng có gì.
Từng hướng đại dương buông gỗ nổi,
Sóng đêm khúc gỗ tiếp rùa đui.

Kinh Pháp Hoa:

- Như con rùa một mắt gặp lỗ bộng của khúc gỗ trôi nổi, không bị nạn chết chìm. Đức Thế Tôn từ lúc mở nắm ngón tay cho đến đây, không chỗ nào là không chỉ bày Tri Kiến của Phật, khiến người được chỗ yên ổn. Sao lại chẳng bắt chước cái kế của con rùa đui?

Kinh:

- Lúc ấy, Như Lai từ trong bàn tay phát ra một đạo hào quang báu qua bên phải Ông A Nan, Ông A Nan liền quay đầu trông qua bên phải. Phật lại phóng ra một đạo hào quang qua bên trái Ông A Nan, Ông A Nan lại quay đầu trông qua bên trái.

Phật bảo Ông A Nan:

- Hôm nay đầu ông vì sao dao động?

Ông A Nan thưa:

- Tôi thấy Như Lai phát hào quang báu qua bên phải rồi qua bên trái, nên tôi trông qua bên phải và bên trái, đầu tự dao động.

- Ông A Nan, ông xem hào quang của Phật mà dao động cái đầu qua phải qua trái. Đó là đầu ông động hay là cái Thấy động?

- Thưa Thế Tôn, đầu tôi tự động chứ Tánh Thấy của tôi thì dừng đứng còn chẳng có, lấy gì mà dao động?

Phật dạy:

- Đúng vậy.

Thông rằng: Đoạn này là ở trong thân mà biện rõ cái Chân Tánh: "Đầu tự dao động, còn cái Thấy (Tâm Tánh) không chỗ động". So với đoạn trước, tay tự nắm mở, còn cái Thấy không có chỗ động thì lại càng vi mật. Ở nơi thân của một người, có thấy động tức là đầu động, làm sao nói được là đầu tự động lay mà cái Thấy thì không động? Cái tùy theo đầu mà có phải có trái ấy là "Tình Kiến". Cái chẳng theo đầu mà có động có tĩnh là "Chân Kiến" (cái Thật Tánh). Tình Kiến thuộc Thức, nên có khởi có diệt. Chân Kiến thuộc Tánh, vốn không làm, không dừng lại. Làm sao nghiệm chuyện này? Đầu có động, có tĩnh thì có thể thấy được, cái Thấy không có động tĩnh để có thể chỉ ra. Bởi thế, nên biết cái không có động tĩnh để chỉ ra được, đó là Chân Kiến.

Trước đây, Ông A Nan chấp Thức làm Tâm, chỉ biết Tình Kiến mà cho là cái Thấy. Nay nhờ phương tiện chỉ dạy của Như Lai, cái Trí Sáng tạm hiện ra, mới tin hiểu đầu tự dao động còn cái Thấy thì không chỗ động. "Cái Tánh Thấy vốn chẳng động này, thì động cũng như thế, tĩnh cũng như thế"; "khi thấy chẳng phải có, khi không thấy chẳng phải là không, trong ấy còn không có cái ngừng yên, có gì mà dao động". Đó là cái "Thể Không Tịch Ly Trần" vậy. Ông A Nan đối theo đây mà biết Tánh đó vậy. Đã nói là biết Tánh, sao còn lắm thứ đa nghi? Ấy vì Ông A Nan nhờ Phật đưa bàn tay ra, rồi phóng ánh sáng, lại nắm mở bàn tay, so sánh với đầu dao động. Cái Thấy bàn tay nắm mở không động, cái Thấy của đầu day qua phải qua trái cũng không động. Đây là cái biết do suy nghĩ đo lường chứ không phải là sự nhiệm mầu của tự mình tỏ ngộ. "Theo cửa mà vào, chẳng phải của báu trong nhà”, ở đây lại càng rõ ràng tin hiểu.

Thiền sư Vô Nghiệp ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ, bạch hỏi rằng:

Văn học của Tam Thừa đã nghiên cứu sơ lược ý chỉ. Từng nghe Thiền Tông nói: Tức Tâm là Phật, thật chưa hiểu được.

Đức Mã Tổ nói:

- Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là phải (tức thị), ngoài ra không có vật nào khác.

Sư Nghiệp hỏi:

- Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ Sư từ Tây sang?

Đức Mã Tổ nói:

- Đại Đức đang ồn ào không ở yên ở trong ấy, hãy đi, khi khác đến.

Sư Nghiệp vừa đi ra, Đức Tổ gọi:

- Đại Đức!

Sư Nghiệp quay đầu lại.

Ngài Mã Tổ nói:

- Đó là cái gì?

Sư Nghiệp liền lãnh ngộ, bèn lễ bái.

Ngài nói rằng:

- Cái gã ngu này, lễ bái làm chi vậy?

Lại có thiền sư Ngũ Duệ Linh Mặc từ xa đến ra mắt Ngài Thạch Đầu, rồi hỏi:

-Một lời hợp nhau thì ở, chẳng hợp thì đi.

Tổ Đầu cứ ngồi. Sư Duệ bèn đi.

Tổ Đầu theo sau, gọi:

- Xà Lê!

Sư Duệ quay đầu lại.

Tổ Đầu nói:

- Từ sanh đến tử, chỉ là cái Ấy, quay đầu chuyển não làm gì!

Sư Duệ ngay dưới câu nói đại ngộ, bèn bẻ ném cây trụ trượng mà ở lại.

Hãy nói hai Ngài Vô Nghiệp và Ngũ Duệ quay đầu, chuyển não thì liền ngộ, so với Ông A Nan là nhiều, ít?

Kinh:

Lúc bấy giờ Như Lai bảo với cả đại chúng:

- Như các chúng sanh lấy cái dao động mà gọi là Trần, lấy cái không ở yên mà gọi là Khách, thì các ông hãy xem Ông A Nan: "Đầu tự dao động mà cái Thấy không có chỗ động"; "lại hãy xem bàn tay Ta tự mở tự nắm mà cái Thấy không duỗi không co." Cớ sao các ông hiện nay lại lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên đảo, mất chỗ Chân Thật, nhận Vật làm Mình, luân hồi trong ấy, tự mình chọn lấy sự trôi nổi đổi thay?

Thông rằng: Bàn tay của Phật chẳng dừng trụ, mà Tánh Thấy thường trụ, đó là "Chủ Nhân" ông chân thật. Đầu tự dao động, "Tánh Thấy không động, thật là cái Thể Chơn Không." Nay chẳng nhận Chủ mà nhận Khách, chẳng nhận cái Không mà nhận cái Trần, há chẳng phải là làm chuyện điên đảo hay sao? Cũng vì niệm niệm sanh diệt, phiền não nối nhau, đến nỗi bỏ mất Chân Tánh, chẳng nên đạo Bồ Đề, là do Khách Trần mê hoặc mới đến nỗi như thế.

Kinh Viên Giác nói:

- Lầm nhận bốn Đại làm thân tướng của mình, bóng dáng sáu Trần duyên ảnh làm tâm tướng của mình". Chính là chỗ ở đây nói: Lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, nhận vật làm mình. Đã nhận cái vọng động chạy theo cảnh đó làm Tự Tâm, thì cái Chân Tâm Bất Động bèn mê trong cái trôi lăn, nên gọi là Bỏ Mất chứ chẳng phải nói Bỏ Mất là không hiện còn vậy. Giống như nước đã thành băng, tánh nước biến mất.

Đoạn trước, nói: Hay sanh cái duyên, nhưng duyên theo cái Sở nên bỏ mất. Bỏ mất cái Vốn Tự Sáng này, tuy suốt ngày dùng mà chẳng tự giác, uổng oan sa vào các nẻo. Như thế thì làm sao mà ra khỏi sanh tử? Cho nên nói: Luân hồi xoay chuyển trong đó, tự chọn giữ lấy cái trôi nổi xoay vần.

Trước, nói: Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử nối nhau, đều do không biết cái: Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể Sáng Sạch. Dùng các vọng tưởng, những tưởng này chẳng chân thật nên có luân chuyển. Chính là nói chỗ này.

Xưa, Tổ Động Sơn hỏi một vị tăng:

- Ông tên gì?

Đáp:

- Tôi đây.

Tổ Sơn hỏi:

- Vậy cái gì là Chủ Nhơn Ông của thầy Xà Lê?

Đáp:

- Cái Thấy đối diện.

Tổ Sơn rằng:

- Khổ thay, khổ thay! Người đời nay hết thảy đều như thế này. Chỉ nhận ra lừa trước, ngựa sau đấy thôi mà lấy làm cái Chính Mình. Phật Pháp chìm đắm là do đó vậy. Chủ trong Khách( ) còn chưa phân biệt được, làm sao phân biệt nổi Ông Chủ trong Chủ (Chủ trung Chủ).

Vị tăng liền hỏi:

- Như sao là Chủ trong Chủ?

Tổ Sơn nói:

- Thầy Xà Lê tự nói lấy.

Vị tăng đáp:

- Tôi mà nói được thì đó là Chủ trong Khách, còn như thế nào là Chủ trong Chủ?

Tổ Sơn nói rằng:

- Nói ra thì dễ biết bao, mà tương tục nối nhau thì quá khó!

Bèn khai thị bằng bài tụng:

Ôi thấy đời nay học đạo đông.
Ngàn ngàn vạn vạn nhận cửa ngoài,
Cũng tợ vào kinh chầu Vua Thánh Chúa,
Chỉ đến cửa triều đã vội ngừng.

Do đây mà xét, thật Thức Tình Phân Biệt mà so với cái Kiến Tinh Bất Động hãy còn cách xa mấy dặm đường, mà cái Kiến Tinh Bất Động so với Chân Tánh Tịch Thường vẫn còn phải tự mình biện biệt. Như đoạn kinh sau nói: Thấy do lìa Thấy, cái Thấy không bì kịp, thì cơ hồ đã vượt cửa triều mà thấy Vua rồi đó.

*****

QUYỂN II

VII. CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG SANH DIỆT

Kinh:

Lúc bấy giờ Ông A Nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay bỏ mất Bản Tâm, vọng nhận bóng dáng do phân biệt tiền trần. Ngày nay khai ngộ, như hài nhi mất sữa bỗng gặp mẹ hiền, chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai bày tỏ cái chân, vọng, cái hư thật ở nơi thân tâm, và ở ngay hiện tiền phát minh ra hai cái Sanh Diệt và Chẳng Có Sanh Diệt.

Thông rằng: Trước, nói rằng: Cái Thấy không có chỗ động, cái Thấy không có mở ra cuốn vào để chỉ bày rõ ràng cái Tánh không có sanh ra, không có diệt mất. Nhưng cái: Tánh Bất Sanh Bất Diệt này hiện tìm thấy ở trong cái Thân Sanh Diệt. Cái Chơn Phát Minh Tánh là cái căn bản không sanh không diệt. Còn cái Vọng Phát Minh Tánh là cái căn bản sanh diệt. Ở trong ấy, hư thật khó biện rõ, nên cầu mong Như Lai bày rõ cho.

Xưa, Ông Tiết Giản hỏi Đức Lục Tổ:

- Chư vị thiền đức ở chốn kinh đô đều nói rằng: Muốn được hiểu đạo, phải ngồi thiền, tập định. Nếu không nhờ thiền định mà được giải thoát là điều không hề có. Chưa rõ chỗ dạy của Sư ra sao?

Tổ đáp:

- Đạo do tâm ngộ, đâu phải ở ngồi.

Kinh nói:

- Nếu nói: Như Lai có ngồi, có nằm, thì đó là hành tà đạo. Vì sao thế? Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không có sanh, không có diệt, là pháp thiền trong sạch của Như Lai. Chư pháp Không Tịch đó là sự ngồi trong sạch của Như Lai. Rốt ráo không chỗ chứng, huống là ngồi ư?

Tiết Giản thưa:

- Sáng ví dụ Trí Huệ, Tối ví dụ Phiền Não. Nếu chẳng dùng Trí Huệ soi phá Phiền Não, nhờ đâu mà vượt khỏi sanh tử từ vô thủy?

Tổ nói:

- "Phiền não tức Bồ Đề", không hai, không khác. Nếu dùng Trí Huệ soi phá phiền não, đó là kiến giải của Nhị Thừa, là căn cơ của xe dê, xe nai. Bậc Thượng Căn Đại Trí ắt chẳng như thế.

Ông Tiết thưa:

- Như thế nào là kiến giải Đại Thừa?

Tổ nói rằng:

- "Cái Minh và cái Vô Minh, phàm phu thấy là hai. Với người Trí liễu đạt thì cái Tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai đó là Thật Tánh". Thật Tánh ấy, ở phàm ngu chẳng diệt, tại Hiền Thánh cũng chẳng tăng, trong phiền não cũng không loạn, nơi thiền định cũng không hề lặng dứt. Chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi. Chẳng ở giữa, chẳng trụ trong, ngoài. "Không sanh không diệt, Tánh Tướng như như. Thường trụ chẳng dời, gọi ấy là đạo."

Tiết Giản thưa:

- Thầy nói không sanh không diệt, khác gì ngoại đạo đâu?

Tổ nói rằng:

- Chỗ ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt ấy, là lấy Diệt dứt Sanh, lấy Sanh tỏ bày Diệt. Thế là diệt mà xem như chẳng Diệt, sanh mà nói Chẳng Sanh. Ta nói: Chẳng sanh chẳng diệt ấy, là Vốn Tự Không Sanh, nay cũng chẳng diệt, nên chẳng đồng ngoại đạo. Nếu ông muốn biết cái tâm yếu, chỉ với tất cả thiện ác đều chẳng dính dấp tới thì tự nhiên thấu vào được cái Tâm Thể trong sạch, trong trẻo như nhiên, hằng hằng vắng lặng, diệu dụng không cùng.

Ông Tiết Giản nhờ lời chỉ dạy, hoát nhiên khai ngộ.

Đây là chỗ hiện tiền thấy có Sanh Diệt, bày rõ cái Chân Tánh chẳng có Sanh Diệt. Nếu chẳng phải là bực Phật với nhau thì không thể hiển bày rõ ràng như vậy.

Kinh:

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:

- Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy các Ông Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói: Thân này chết rồi thì mất hẳn gọi là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi. Xin Phật chỉ rõ làm thế nào chứng biết chỗ chẳng Sanh Diệt của Tâm này. Hiện giờ các hàng Hữu Lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.

Phật nói:

- Đại Vương, thân ông hiện đây, nay ta hỏi ông: Cái thân xác thịt của ông có giống được như kim cương, còn hoài chẳng hoại, hay lại biến đổi và tan rã?

- Thế Tôn, cái thân hiện đây của tôi, rốt cuộc cũng thay đổi và tiêu diệt.

Phật bảo:

- Đại Vương, ông chưa từng diệt, làm sao biết là phải bị diệt?

Thông rằng: Đức Thế Tôn nhủ lời, bước bước đều quay về Chân. Như hỏi, Ông chưa từng diệt, làm sao biết diệt? Nếu là bậc Thượng Căn Lợi Trí thì liền ngộ: "Cái người biết sự diệt, vốn chưa từng sanh diệt, liền chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn."

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Cư:

- Mới sanh ra vì sao chẳng biết có?

Đáp:

- Chẳng cùng sanh.

Hỏi:

- Khi chưa sanh thì như thế nào?

Đáp:

- Chưa từng diệt.

Hỏi:

- Khi chưa sanh thì ở đâu?

Đáp:

- Có chỗ chẳng thu nạp.

Hỏi:

- Vì sao người chẳng thọ diệt?

Đáp:

- Diệt ấy chẳng thể được.

Xem chỗ đối đáp của Tổ Vân Cư như thế, há phải mơ hồ! Cần rõ chuyện bên đó mới có thể xem lời nói này!

Kinh:

- Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại của tôi đây tuy chưa diệt, song hiện giờ, tôi xét nó niệm niệm dời đổi, mãi mãi chẳng ngừng, như lửa thành tro dần dần tiêu mất. Tiêu mất chẳng ngừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất.

Phật dạy:

- Đúng thế! Đại Vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé như thế nào?

- Bạch Thế Tôn, hồi còn bé nhỏ, tôi da thịt mịn màng, đến lúc trưởng thành, khí huyết đầy đủ, nay thì tuổi già, ngày thêm suy lão, hình sắc gầy ốm, tinh thần mõi mệt, tóc bạc da nhăn, sống chẳng còn lâu, so sánh thế nào được với thời trẻ mạnh?

Phật bảo:

- Đại Vương, hình dung của ông đâu có hư hao ngay.

Vua bạch:

- Thưa Thế Tôn, sự biến hóa âm thầm dời đổi nên tôi chẳng hay biết. Mưa nắng đổi dời lần đến như vầy. Vì sao? Tôi khi năm hai mươi tuy gọi là trẻ nhưng mặt mày đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi, lại suy sút hơn hồi hai mươi và đến nay sáu mươi hai, trông lại lúc năm mươi thì khi ấy còn khoẻ hơn nhiều. Bạch Thế Tôn, tôi thấy sự âm thầm thay đổi như thế, thân này tuy nay đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi còn chia từng mười năm một. Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái sự biến đổi ấy đâu phải từng mười năm mà thật là mỗi năm mỗi thay đổi. Lại đâu phải mỗi năm mỗi thay đổi mà là mỗi tháng mỗi thay đổi, không những mỗi tháng thay đổi mà là mỗi ngày thay đổi. Suy cùng xét kỹ, thì sát na sát na, khoảng giữa mỗi niệm, không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân này rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt.

Phật bảo:

- Đại Vương, ông thấy biến hóa dời đổi không ngừng, rõ là phải diệt. Vậy ông niệm niệm tiêu diệt như thế, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?

Thông rằng: Sắc Thân huyễn hóa rốt cuộc phải biến diệt. Cái Pháp Thân thanh tịnh vốn chẳng có sanh diệt. Chẳng phải ngoài cái sắc thân riêng có Pháp Thân. Pháp Thân như biển lớn, Sắc Thân như bọt nước. Bọt nước có sanh có diệt, nước biển nhất như. Bậc Đại Ngộ thì "Huyễn hoá, không thân tức Pháp Thân. Vậy nên biết, trong thân có cái chẳng hề hoại diệt vậy."

Tổ Thạch Đầu có bài kệ rằng:

Hỏi am này: hư, chẳng hư?
Hư, chẳng hư vẫn nguyên ông chủ.
Chẳng ở Nam Bắc với Đông Tây,
Nền tảng vững bền, quan trọng nhất.

Dịch:
Vấn thử am, hoại bất hoại,
Hoại dữ bất hoại, chủ nguyên lai.
Bất cư Nam Bắc dữ Đông Tây,
Cơ chỉ kiên lao dĩ vi tối.

Lại tụng:

Trụ am này, thôi kiến giải,
Ai khoe bày chiếu, muốn người mua.
Hồi quang phản chiếu bèn về vậy,
Rỗng suốt Linh Căn, không sau trước.

Dịch:
Trụ thử am hưu tác giải
Thùy khoa phô tịch đồ nhơn mãi
Hồi quang phản chiếu tiện quy lai
Khuyếch đại Linh Căn phu hướng bối).

Than ôi ! Người người sẵn đủ Tánh chẳng sanh diệt này, sao lại theo dòng đuổi bắt sóng để chẳng thể hồi quang phản chiếu !

Kinh:

- Vua Ba Tư Nặc chấp tay bạch Phật: Tôi thật không biết.

Phật dạy:

- Nay Ta chỉ cho ông cái Tánh không sanh diệt. Đại Vương ! Ông năm mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?

Vua bạch:

- Khi tôi lên ba, mẹ tôi dẫn đi làm lễ Thần Kỳ Bà Thiên, có đi qua sông ấy. Lúc ấy, tôi liền biết đó là nước sông Hằng.

Phật bảo:

- Đại Vương, như lời ông nói: Lúc hai mươi tuổi thì suy hơn lúc mười tuổi, cho đến nay đã sáu mươi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi thay. Vậy, khi ông ba tuổi, thấy nước sông này, rồi đến khi mười ba tuổi thì nước ấy thế nào?

Vua bạch:

- Thưa, cũng như khi lên ba, in hệt như nhau không khác gì, và đến nay tuổi đã sáu mươi hai, cũng vẫn không khác.

Phật bảo:

- Nay ông tự buồn là mình tóc bạc, da nhăn. Mặt ông hẳn phải nhăn hơn hồi trẻ. Vậy cái Thấy sông Hằng hiện giờ của ông so với cái Thấy sông Hằng lúc nhỏ có già trẻ gì không?

Vua bạch:

- Thưa Thế Tôn, không.

Phật bảo:

- Này Đại Vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng Tánh của cái Thấy (Kiến Tinh Tánh) ấy chưa hề bị nhăn. Cái nhăn thì thay đổi còn cái không bị nhăn thì chẳng thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia thì vốn không sanh không diệt, làm sao trong ấy lại có sanh tử cho ông thọ nhận mà ông lại còn dẫn lời của nhóm Mạt Già Lê kia, nói rằng: Thân này chết rồi thì diệt hẳn!

Vua nghe xong lời dạy này, tin biết rằng thân này về sau, bỏ đời này qua đời khác, cùng với đại chúng nhảy nhót vui mừng, được sự chưa từng có.

Thông rằng: Ngoại đạo có sáu ông thầy.

Một là, Phú Lan Na Ca Diếp: cho rằng các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt.

Hai là, Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử: cho rằng chúng sanh tuy có khổ vui, nhưng không có nhân duyên, tự nhiên mà vậy thôi.

Ba là, Sán Đà Xa Tỳ La Chi Tử: cho rằng chúng sanh theo vận, thời gian chín muồi thì đắc đạo, đầy đủ tám vạn kiếp thì tự nhiên đắc đạo.

Bốn là, A Kỳ Da Sí Xá Khâm Ba La: cho rằng chúng sanh hiện chịu khổ báo, sau thì hưởng thọ vui sướng của Niết Bàn.

Năm là, Ca Lâu Cưu Đà Ca Chiên Diên: cho rằng các pháp cũng có, cũng không.

Sáu là, Tỳ Kiện Đà Nhã Đề Tử: cho rằng tất cả đều do Nghiệp định, không thể trốn lánh.

Tất cả đều là Đoạn Kiến vậy. Tuy cũng nói là chẳng sanh chẳng diệt, nhưng đó là đối với sanh diệt mà nói. Nhơn bởi sừng trâu Có (Hữu), mà nói sừng thỏ Không có (Vô). Đã có đối đãi, rốt cuộc thuộc về sanh diệt.

Nếu cái thấy sông y nhiên không khác thì có thể trộm thấy cái Chân Tánh bất biến. Ngay trong chỗ thấy trước mắt có sanh diệt mà hiển bày cái Tánh chẳng sanh diệt, thế mới biết trong thân có cái chẳng có Diệt đang hiện hữu. Tuy nói bỏ đời sống này qua đời sống khác, kỳ thực là diệt mà chẳng diệt. Há cái Đoạn Kiến của ngoại đạo có thể có nói được sao?

Có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu:

- Thầy của con có nói: Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại. Thế nào là cái Tánh này?

Tổ Châu nói:

- Tứ Đại, Ngũ Ấm.

Vị tăng hỏi:

- Cái ấy còn là hư hoại, thế nào là cái Tánh này?

Tổ Châu nói:

- Tứ Đại, Ngũ Ấm.

Ngài Pháp Nhãn nói:

- Ấy là một cái? Ấy là hai cái? Ấy là hoại? Ấy là chẳng hoại? Hãy hiểu làm sao? Thử quyết đoán xem!

Có vị tăng hỏi Tổ Đại Tùy:

- Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ "cái Ấy" hoại hay chẳng hoại?

Tổ Tùy đáp:

- Hoại.

Vị tăng rằng:

- Như thế thì theo nó đi ư?

Tổ Tùy rằng:

-Theo nó đi.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Long Tế:

- Kiếp Hỏa thiêu hết, Đại Thiên đều hoại. Chưa rõ "cái Ấy" hoại hay chẳng hoại ?

Tổ Tế đáp:

- Chẳng hoại.

Vị tăng rằng:

- Vì sao chẳng hoại?

Tổ Tế đáp:

- Vì đồng Đại Thiên.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Hoại, chẳng hoại, theo nó mà đi,
Cảnh giới Đại Thiên, ở trong câu rõ.
Không ai khóa buộc, đầu chân lại bị dây leo quấn,
Hiểu, chẳng hiểu?
Chuyện thật rõ ràng, căn dặn kỹ,
Biết Tâm, đem ra đừng thương lượng,
Đưa ta phải đi cùng mua bán.

Đại Tùy nói hoại, Long Tế nói chẳng hoại. Ấy là một? Ấy là hai?

Tổ Tế bảo:

- Vì đồng Đại Thiên.

Tổ Tùy bảo:

- Theo nó đi!

Y nhiên là cái tông chỉ: Tứ Đại Ngũ Ấm, của Ngài Triệu Châu. Khi thế giới hoại, Tánh này chẳng hoại. Chính phải ở trong Tứ Đại, Ngũ Ấm mà tìm cái chốn an ổn mới được!

VIII. CHỈ CHỖ ĐIÊN ĐẢO

Kinh:

- Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật, chắp tay, quỳ dài, bạch Phật: Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy Nghe này thật không Sanh Diệt thì tại sao Đức Thế Tôn lại bảo rằng chúng tôi đều bỏ mất Chân Tánh, làm việc điên đảo, lộn ngược. Xin Phật mở lòng từ bi rửa sạch trần cấu cho chúng tôi.

Khi ấy, Đức Như Lai liền duỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo Ông A Nan:

- Như nay ông thấy tay Mẫu Đà La của Ta là chánh hay đảo (ngược)?

Ông A Nan bạch:

- Chúng sanh thế gian cho đó là đảo ngược, còn tôi thì chẳng biết cái nào là chánh, cái nào là đảo.

Phật bảo Ông A Nan:

- Nếu người thế gian cho vậy là đảo, thì người thế gian cho thế nào là chánh?

Ông A Nan bạch Phật:

- Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu La Miên chỉ lên không thì gọi là chánh.

Phật liền đưa cánh tay lên và bảo Ông A Nan:

- Cái Điên Đảo (lộn ngược) như thế chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau thôi. Các người thế gian đều điên đảo gấp bội mà xem mà thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp Thân thanh tịnh Như Lai so sánh mà phát minh thì : Thân của Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân của các ông gọi là tánh điên đảo. Tùy ông xét kỹ: Thân ông, Thân Phật, cái gọi là điên đảo lộn ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là điên đảo?

Thông rằng: Cái Pháp Thân thanh tịnh là cái Diệu Tâm mầu sáng, thuần chân vậy. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết (Kiến Văn Giác Tri) là vật bày hiện ra ở trong Diệu Tâm vậy. Về gốc là Chánh, đuổi theo ngọn là Đảo (ngược). Thí như bọt nước sanh ra nơi biển, nhận biển là Chánh, nhận bọt là Đảo.

Phật hỏi Ông A Nan:

- Nay ông thấy Ta thả tay xuống là chánh hay đảo? Thì chỉ nên ở nơi chỗ tự thấy mà tỉnh ngộ mạnh mẽ: "Cái nào chánh, cái nào đảo, chớ chẳng nên ở nơi tay Như Lai mà phân chánh, phân đảo."

Như ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh trong hang núi, thấy "Pháp Thân Như Lai chẳng duyên với Căn, Thức" đó gọi là Chánh Biến Tri. Còn nếu lấy con mắt của Ông A Nan để đối với tay của Như Lai, lại còn ở tay mà phân Chánh, phân Đảo đây bèn là chỗ động dụng của sáu Thức, bỏ gốc theo ngọn, đã lìa chánh vị nên gọi là tánh điên đảo, lộn ngược.

Mới đầu, Ông A Nan lấy tay buông xuống làm đảo, lời nói còn mơ hồ. Đến khi hỏi: Lấy gì làm Chánh?, thì lấy tay đưa lên làm chánh, mới biết chỗ Ông A Nan cho là chánh và đảo đó chỉ là: Sự biện biệt căn cứ vào tay, chẳng phải ở nơi cái Thấy mà biện biệt. Sự ngắm nhìn đó đã là điên đảo vậy. Tay buông xuống, đầu đuôi thuận nhau, vốn là chánh, mà người đời cho đó là đảo ! Tay đưa lên, đầu đuôi đổi chỗ, vốn là đảo mà người đời cho đó là chánh ! Thế là ở trong sự ngắm nhìn điên đảo, lại còn chồng thêm điên đảo!

Cho nên, so sánh phát minh thì bỏ mất cái Pháp Thân trong sạch mà nhận Thấy, Nghe, Hay, Biết đã là điên đảo. Lại chấp cái Thấy, Nghe, Hay, Biết ở trong sắc thân cho là chẳng sanh diệt mà bảo rằng đó là chánh chứ chẳng phải đảo, thì chẳng phải là trong điên đảo lại chồng thêm điên đảo sao?

Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn:

- Bình thường Ngài dạy học nhơn hành điểu đạo, chưa rõ thế nào là điểu đạo?

Tổ Sơn nói:

- Không gặp một người.

Hỏi:

- Hành (đi) như thế nào?

Tổ Sơn:

- Chính phải dưới chân không tư riêng.

Hỏi:

- Chỉ như chỗ hành điểu đạo, chẳng phải ấy là Bổn Lai Diện Mục đó sao?

Tổ Sơn rằng:

- Thầy Xà Lê nhân sao điên đảo quá lắm?

Hỏi:

- Chỗ nào là điên đảo của kẻ học nhân?

Tổ Sơn rằng:

- Nếu không điên đảo, vì sao lại nhận tôi tớ làm chồng?

Hỏi:

- Như thế nào là Bổn Lai Diện Mục?

Tổ Sơn nói:

- Chẳng hành điểu đạo.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Lối cổ tiêu nhiên dựa Thái Hư,
Nẻo nhiệm còn như trải gập gềnh.
Chẳng lên điểu đạo tuy là diệu,
Kiểm điểm về sau đã đụng đường.

Dịch:
Cổ lộ tiêu nhiên ỷ Thái Hư,
Hành huyền du thị thiệp kỳ khu.
Bất đăng điểu đạo tuy vi diệu,
Kiểm điểm tương lai dĩ xúc đồ.

Ôi ! Điểu đạo sâu xa nhỏ nhiệm đến thế, gần với chuyển công thành đạo mà môn hạ phái Động Sơn còn cho là điên đảo, huống là cái Thấy Nghe (Kiến Văn) rõ ràng còn dấu vết thô thiển mà lại cho là chẳng sanh diệt, thì sao đủ để đối sánh với cái Bồ Đề Vô Thượng ư?

Kinh:

- Khi ấy, Ông A Nan cùng cả đại chúng sửng sốt nhìn Phật, mắt chẳng chớp nháy, chẳng biết thân tâm chỗ nào điên đảo.

Phật phát lòng Từ Bi, thương xót A Nan và đại chúng, phát tiếng Hải Triều, bảo khắp trong hội:

- Các trai lành, Ta thường dạy rằng Sắc tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên đều duy tâm mà hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra ở trong cái Diệu Tâm Mầu Sáng Thuần Chân. Tại sao các ông bỏ mất cái Tâm Tánh vốn nhiệm mầu, tròn sáng, quý báu để nhận lấy mê lầm trong cái Vốn Đã Giác Ngộ?

Mê muội thành có hư không. Trong hư không mê muội ấy, kết cái tối ám thành sắc, sắc xen lẫn vọng tưởng ra hình tướng làm thân. Nhóm các duyên dao động bên trong, rong ruổi theo bên ngoài, rồi lấy cái tướng mù mịt lăng xăng đó làm Tâm Tánh. Một phen mê lầm cái tướng ấy làm tâm thì đưa tới cái lầm quyết định là tâm ở trong sắc thân, mà chẳng biết rằng cái sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất đai bên ngoài, hết thảy đều là vật hiện trong cái Diệu Minh Chân Tâm này.

Thông rằng: Thân Ông là Tướng Phần, Tâm Ông là Kiến Phần. Tướng Phần gồm cả Căn, Trần, các pháp sở duyên, núi sông, đất đai, sáng tối, sắc không cả thảy. Kiến Phần gồm tám Thức và năm mươi mốt Tâm Sở, thiện ác nghiệp hành, tà chánh, nhân quả hết thảy. Cả Tướng Phần và Kiến Phần đều ở trong Như Lai Tạng lưu xuất, nên nói: Duy Tâm Mà Hiện Ra. Cái Tâm này vốn nhiệm mầu, chẳng nhờ tu tập. Làm sao thấy được cái Vốn Diệu đó?

Nói về Thể, thì gọi là Viên Diệu Minh Tâm. Từ cái mầu đẹp (Diệu) khởi ra cái Sáng Soi (Minh), nên gọi là Trọn Vẹn (Viên).

Nói về Dụng, thì gọi là Bửu Minh Diệu Tánh. Tức là ngay nơi Sáng Soi (Minh) mà Mầu Đẹp (Diệu), nên gọi là Quý Báu (Bảo).

Mầu Đẹp mà Sáng Soi, Sáng Soi mà Mầu Đẹp, không dấu vết nhiễm ô, tức là Đại Viên Cảnh Trí. Tất cả Tướng Phần, Kiến Phần đều là bóng hiện ra trong cái gương Đại Viên Cảnh Trí ấy. Nay bỏ quên cái Vốn Diệu ấy (Chân Tâm) mà nhận Thấy, Nghe (Tâm Thức) thì cũng như bỏ cái gương vốn có mà nhận bóng huyễn trong gương. Tuy là có biết đó mà kỳ thật là biết ở trong Mê, cho nên nói Mê trong Ngộ.

Từ chỗ: Nhận Mê Trong Ngộ..., cho đến: Rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng làm Tâm Tánh, phải đọc một hơi mới được.

Mê cái Tánh Diệu Minh mà thành Vô Minh. Do cái Vô Minh này mà thành ra cái Ngoan Không, nên nói "Mê muội thành Hư Không". Cái Sở Biến là Ngoan Không và cái Năng Biến là Vô Minh, cả hai hòa hiệp, biến ra Tứ Đại để làm cái Ngoại Sắc của Y Báo. Lấy cái Sắc của bốn Đại xen lẫn với vọng tưởng của Tâm biến ra Nội Sắc của Chánh Báo chúng sanh.

Tưởng là Vọng Tưởng; Tướng là Vọng Sắc. Tướng Tưởng làm Thân thì Kiến Phần và Tướng Phần đều đầy đủ, tức là Thức Thứ Tám.

Nhóm Các Duyên Dao Động Bên Trong, tức là Thức Thứ Bảy.

Rong Ruổi Theo Cảnh Ngoài, tức là Thức Thứ Sáu.

Lấy cái Vô Minh này biến ra cái Tướng Mờ Mịt Lăng Xăng lẫn với duyên trần, rồi nhận cái đó làm Tự Tâm, há chẳng mê muội sao?

Cái Chân Tâm Diệu Minh tức là Pháp Thân trong sạch dọc suốt ba tế, ngang khắp mười phương chứ đâu phải ràng buộc trong thân sao? Còn cái thấy, nghe này thì rời mắt ắt không thấy, xa tai thì chẳng nghe; lấy nó làm Tâm, đó là cái lầm quyết định cho Tâm ở trong sắc thân. Đâu có biết rằng cái sắc thân này cho đến những thứ bên ngoài như núi sông, đất đai đều là những vật ở trong cái Chân Tâm Diệu Minh này. Như bóng dáng trùng trùng cũng đều là ảnh trong gương. Cho nên, nhận ra gương, là ngộ ở trong ngộ, gọi là Chánh Biến Tri. Còn nhận lấy bóng, tức là mê trong ngộ, gọi là tánh điên đảo.

Tổ Trường Sa nói rằng:

- Nếu ta cứ một mực nêu cao Thiền thì trong pháp đường cỏ sẽ lên cao cả thước! Cực chẳng đã mà nói với các ông: Cùng khắp mười phương thế giới là con mắt của Sa môn! Cùng khắp mười phương thế giới là toàn thân của Sa môn ! Cùng khắp mười phương thế giới là quang minh của chính mình! Cùng khắp mười phương thế giới không ai chẳng phải là Chính Mình. Ta thường nói với các ông: Ba đời Chư Phật, Pháp Giới, Chúng Sanh là cái ánh sáng của Ma Ha Bát Nhã. Khi ánh sáng chưa phát ra, hết thảy các ông hướng về chỗ nào mà rõ biết? Ánh sáng chưa phát còn không có bóng dáng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có được núi sông, quốc độ này đây?

Khi đó, có nhà sư hỏi:

-Như thế nào là con mắt của Sa môn?

Tổ Sa rằng:

- Mút mắt, ra chẳng khỏi.

Lại nói:

- Thành Phật, thành Tổ ra chẳng khỏi! Sáu nẻo luân hồi ra chẳng khỏi!

Nhà sư rằng:

- Chưa rõ cái gì ra chẳng khỏi?

Tổ Sa rằng:

- Ngày thấy mặt trời, đêm thấy sao.

Hỏi:

- Học nhân chẳng hiểu.

Tổ Sa rằng:

- Núi Cao Sơn xanh lại càng xanh”.

Hãy nói là lời này của Tổ Trường Sa là chỉ cái Thức Tinh Nguyên Minh hay là cái Bảo Minh Diệu Tánh? Hãy phân biệt rõ ràng xem !

Kinh:

- Ví như bỏ cả trăm ngàn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước mà cho nó là toàn thể cả nuớc, cùng hết các biển lớn. Các ông là những kẻ mê lầm nhiều lớp, như cánh tay Ta buông xuống không khác gì. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.

Thông rằng: Biết Cái Thấy Sông thật chẳng sanh diệt, hình như thuộc về ngộ, nhưng chấp Cái Thấy Sông này là ở trong sắc thân thì đó là mê trong ngộ. Cũng như bỏ biển cả mà nhận lấy bọt nước đã là mê, lại còn cho rằng bọt nước là toàn thể biển cả thì chẳng phải là mê trong mê hay sao?

Bỏ mất Chân Tánh mà nhận lấy cái Thấy Nghe đã là mê, lại cho rằng cái Thấy Nghe là cái Tánh chẳng sanh diệt, chẳng phải là mê trong mê sao? Chẳng ngộ mà mê, thì chỉ một lớp mê. Còn ngộ mà trong mê thì cái tình chấp lại càng sâu dày lắm, chẳng phải là chồng thêm nhiều lớp mê sao?

Như cánh tay Ta buông xuống, cái Thấy của ông có phân biệt, đã là điên đảo. Huống là đầu đuôi đổi nhau, xuôi ngược lầm lẫn thì há chẳng phải là điên đảo gấp bội sao? Đã ở trong điên đảo mà còn hỏi: Sao Đức Thế Tôn lại bảo chúng tôi là điên đảo? Là điên đảo ở trong cái điên đảo vậy. Đó là cái mê ở trong mê vậy! Nên mới nói: Các ông là những người mê lầm nhiều lớp.

Ngài Quốc sư Kính Sơn Khâm đang ngồi với Quốc sư Huệ Trung ở nội đình, thấy vua ngự đến, Ngài đứng dậy.

Vua nói:

- Thầy sao lại đứng dậy?

Ngài nói:

- Đàn việt đâu có thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo.

Vua vui lòng.

Lại vua Túc Tông hỏi Ngài Huệ Trung Quốc sư:

- Ngài ở Tào Khê được Pháp gì?

Ngài đáp:

- Bệ hạ có thấy một mảnh mây trong hư không chăng?

Vua đáp:

- Thấy.

Ngài đáp rằng:

- Đóng đinh vào đó. Treo dính lên đó.

Vua lại hỏi:

- Thế nào là mười Thân của Phật?

Ngài bèn đứng thẳng lên mà rằng:

- Am hiểu chăng?

Vua nói:

- Không hiểu.

Ngài nói rằng:

- Đưa qua đây cho lão tăng cái tịnh bình.

Vua lại hỏi:

- Thế nào là Vô Tránh Tam Muội?

Ngài nói:

- Đàn việt nhảy lên đỉnh Tỳ Lô mà đi.

Vua hỏi:

- Ý ấy thế nào?

Ngài nói:

- Chớ nhận Pháp Thân trong sạch của chính mình (tự kỷ).

Vua lại hỏi mà Ngài đều chẳng nhìn đến. Vua nói:

- Trẫm là vua nước Đại Đường, Thầy sao lại chẳng nhìn đến?

Ngài nói:

- Vua có thấy hư không chăng?

Vua đáp:

Thấy.

Ngài nói:

- Hư không ấy có chớp mắt nhìn Bệ Hạ không?

Xem chỗ chỉ bày của hai Ngài, một vị thì lấy: Sự chẳng thể hướng vào bốn oai nghi mà thấy bần đạo. Một vị thì lấy: Cái hư không có chớp mắt nhìn Bệ hạ chăng? Thật đâu có hề lầm là ở trong sắc thân. Cái Thấy này với Cái Thấy Sông cách nhau như trời khác đất. Đáng cùng với Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật, đồng gọi là Chánh Biến Tri. Tóm lại, lấy Niệm làm Tri thì Tâm chẳng khắp.

Ngài Mã Minh dạy:

- Nếu cái tâm có động thì chẳng phải là Cái Biết Chân Thật. Cái tướng động đó là niệm khởi lên làm ngăn ngại vậy. Lìa tất cả các niệm ngăn ngại thì cái Biết bèn cùng khắp.

*****

IX. LỰA BỎ TÂM PHAN DUYÊN ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU

Kinh:

Ông A Nan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc khoanh tay bạch Phật rằng:

- Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được cái Tâm Nguyên Diệu Minh là cái Tâm Địa tròn đầy thường trụ, nhưng tôi ngộ được pháp âm Phật vừa nói, là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong. Được tâm ấy một cách mơ hồ, chưa dám nhận là Tâm Địa xưa nay. Mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc rễ nghi ngờ cho tôi để được trở về đạo Vô Thượng.

Phật bảo Ông A Nan:

- Các ông còn lấy tâm phan duyên để nghe pháp thì cái pháp đó cũng là cái được duyên, chẳng phải được Pháp Tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người kia, thì người kia phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Chứ nếu người kia nhìn ngón tay mà cho đó là cái Thể của mặt trăng, thì không những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay nữa. Tại sao thế? Vì lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà làm mặt trăng vậy. Chẳng những bỏ mất ngón tay mà lại cũng không biết đâu là sáng và tối. Vì sao thế? Vì lấy cái Thể của ngón tay làm Tánh Sáng của mặt trăng, không biết hai tánh sáng, tối. Ông cũng như vậy đó.

Thông rằng: Ông A Nan ngộ được cái Tâm Nguyên mầu sáng tròn đầy vốn chẳng phải là duyên. Tâm Địa thường trụ vốn là Ông Chủ vậy. Nhưng nay nhìn Phật, nghe Pháp, là còn thuộc vọng tâm phan duyên, chưa biết cái Tâm Địa Bổn Nguyên do đâu mà rõ biết? Nói tức là cái này, thì không dám. Nói lìa cái này mà có thì hiện ở đâu? Đức Phật sắp phá cái sai lầm của tâm phan duyên, nên trước chỉ bày rằng cái Pháp đang nói ra cũng chỉ là cái sở duyên, bởi thế Phật dạy: Cái Pháp đang được ông nghe đó cũng chỉ là sở duyên, chớ chẳng phải được Pháp Tánh. Pháp bày ra là để thấy Tánh, thấy được Tánh thì Pháp không còn chỗ dùng.

Kinh Kim Cang nói:

- Ví như cái bè. Pháp còn nên bỏ huống là chẳng phải pháp.

Ở đây lại lấy ví dụ ngón tay chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng thì bỏ quên ngón tay đi vậy. Các bậc Cổ đức dẫn dụ phần nhiều tương hợp với chỗ này.

Có câu:
Trong bóng mây màu người tiên hiện,
Tay cầm quạt hồng la che mặt.
Cần gấp đưa mắt xem người tiên,
Chớ nhìn cây quạt trong tay tiên.

Lại còn nói:

Một thỏ phi thân ngang lối xưa,
Ưng xanh vừa thấy liền bắt sống.
Đến sau chó săn không linh tính,
Chỉ hướng cây khô chỗ cũ tìm.

Ông Tô Đông Pha có bài văn:

- Có một người mù hỏi hình thể mặt trời ra sao? Người kia lấy cái mâm đồng mà chỉ cho, người mù gõ lên nghe có tiếng. Ngày khác, nghe tiếng chuông cho đó là mặt trời!

Có vị tăng hỏi Tổ Pháp Nhãn:

- Ngón tay thì chẳng hỏi, thế nào là mặt trăng?

Tổ Nhãn nói:

- Ngón tay mà ông chẳng hỏi đó, là cái gì thế?

Lại có vị tăng hỏi:

- Mặt trăng thì chẳng hỏi, thế nào là ngón tay?

Tổ Nhãn đáp:

- Mặt trăng.

Vị tăng nói:

- Kẻ học nhân hỏi ngón tay, Hòa Thượng vì sao lại trả lời mặt trăng?

Tổ Nhãn nói:

- Vì ông hỏi ngón tay.

Nếu rõ được gia phong của Pháp Nhãn tức thì ngón tay, mặt trăng bày rõ. Chẳng thế, thì ngay mặt lại lầm qua.

Kinh:

- Nếu lấy cái phân biệt pháp âm của Ta mà làm tâm của ông, thì cái tâm ấy phải rời sự phân biệt tiếng nói mà tự nó có tánh phân biệt. Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, chẳng thể thường trụ mãi. Còn người chủ trạm thì không đi đâu cả, mới gọi là chủ trạm. Ở đây cũng thế, nếu thật là Tâm của ông thì chẳng đi đâu cả.

Thông rằng: Pháp âm đang nói là cái sở duyên. Chỗ sở duyên ấy, không thể chấp lấy làm Chân. Cái phân biệt pháp âm là cái năng duyên. Cái năng duyên đó há lại có thể y vào nó mà cho là Chân? Ngay khi cái Tâm và cái Tiếng gặp nhau, thì có sự phân biệt rõ ràng, nhưng Cái Phân Biệt đó cũng chỉ tạm thời, giống như người khách. Đến khi cái Tâm và cái Tiếng rời nhau ra, cái phân biệt mất hết, nhưng cái Tánh Phân Biệt không mất. Tánh này chẳng bởi nghe pháp mà có, chẳng bởi không nghe pháp mà thành "không", nên gọi là chủ nhân. Nơi chỗ này thấy được, mới gọi là thấy Tánh. Nếu chấp lấy cái tâm phan duyên nghe pháp làm Tự Tánh, thì cũng giống như nhận khách làm ông chủ vậy.

Thầy Đại Điên ban đầu tham học với Tổ Thạch Đầu.

Tổ hỏi:

- Cái gì là Tâm ông?

Thầy Đại Điên nói:

- Thấy ngôn ngữ là đó.

Tổ Đầu bèn hét đuổi ra.

Qua một tuần, thầy Đại Điên bèn hỏi:

- Cái trước đã chẳng phải, trừ cái ấy, ngoài ra cái gì là Tâm?

Tổ Đầu nói:

- Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem Tâm lại đây!

Thầy Điên nói:

- Không có Tâm có thể đem lại được.

Tổ Đầu rằng:

- Xưa nay là có Tâm, sao nói không Tâm? Không Tâm cũng như báng pháp!

Thầy Đại Điên nghe xong đại ngộ.

Một hôm, đứng hầu Ngài Thạch Đầu, Tổ hỏi:

- Ông là tăng tham thiền hay là tăng tu Tịnh Nghiệp (Tịnh Độ) của Châu, Huyện?

Đại Điên:

- Là tăng tham thiền.

Tổ Đầu:

- Cái gì là thiền?

Đại Điên:

- Nhướng mày, chớp mắt.

Tổ Đầu:

- Dẹp hết nhướng mày chớp mắt, đem cái Bổn Lai Diện Mục của ông trình ra xem!

Đại Điên:

- Xin Hòa Thượng dẹp hết nhướng mày chớp mắt ra ngoài để soi xét.

Tổ Đầu:

- Ta dẹp rồi.

Đại Điên:

- Đem trình ra rồi vậy.

Tổ Đầu:

- Ông đã đem trình, Tâm ta thì sao?

Đại Điên:

- Chẳng khác Hòa Thượng.

Tổ Đầu:

- Chẳng liên quan việc ông.

Đại Điên:

- Vốn không vật.

Tổ Đầu:

- Ông cũng không vật.

Đại Điên:

- Đã không vật tức là chơn vật.

Tổ Đầu:

- Chơn Vật là Bất Khả Đắc, tâm ông thấy như vậy phải rất hộ trì.

Cha con Thạch Đầu mấy phen lật qua, lật lại biện xét cốt để thẩm định Chơn Tâm, vốn là vô sở đắc, gọi là Chơn Chủ Nhân.

Kinh:

- Tại sao lìa tiếng lại không có tánh phân biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng, mà cái phân biệt hình dung của Ta nếu rời các sắc tướng cũng không có tánh phân biệt.

Như vậy cho đến mọi phân biệt đều không có, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, mà nhóm Câu Xá Ly mê lầm cho là Minh Đế, thì rời các pháp duyên cũng không có tánh phân biệt. Như vậy, Tâm Tánh của ông mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm chủ?

Thông rằng: Phân biệt âm thanh, phân biệt Sắc, Hương, Vị, Xúc, các Trần đều là bóng dáng phân biệt tiền trần. Tại sao lìa các tiền trần liền chẳng có tự tánh phân biệt? Dù cho diệt hết tất cả Thấy, Nghe, Hay, Biết cho đến phân biệt cũng không còn, ở trong giữ lấy cái Không-Không u nhàn, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không mà ngoại đạo chấp lấy làm Minh Đế thì cũng mới chỉ là rời cảnh chứ chưa rời pháp, vẫn còn là bóng dáng phân biệt pháp trần.

Tại sao lại rời pháp duyên thì không có tự tánh phân biệt? Nhờ tiền trần mà có thì rời tiền trần bèn không. Nhờ pháp trần mà có, thì rời pháp trần bèn không có. Cái tánh phân biệt này, mỗi mỗi đều có chỗ trả về, làm sao làm ông chủ? Một cái Động (phân biệt tiền trần), một cái Tĩnh (phân biệt pháp trần) đều thuộc về bóng trong gương: Bóng có chỗ trả về, gương thì chẳng có trả về đâu hết. Một lần đến, một lần đi đều thuộc về khách. Khách có về, chủ không có chỗ về. Không nhận gương mà nhận bóng, không nhận chủ mà nhận làm khách thì Tâm Tánh của ông cũng đồng với đoạn diệt, lấy gì làm Chân Tâm Thường Trụ?

Tổ Đại Điên thượng đường dạy rằng:

- Phàm là người học đạo, cần phải biết cái Bổn Tâm của nhà mình. Thường thấy kẻ học đạo đời nay chỉ lấy nhướng mày, nháy mắt, một nói một nín rồi tự ấn khả mà cho là tâm yếu, như vậy thật là chưa rõ.

Nay ta vì các ông mà nói ra rõ ràng, mỗi người nên nghe lãnh:

- Chỉ dẹp trừ hết thảy hiện lượng tưởng niệm vọng động, đó tức là Chân Tâm. Cái Tâm này dầu với trần cảnh hay khi giữ vắng lặng, tuyệt không có giao thiệp, dính dáng gì. Tức Tâm là Phật, chẳng đợi tu hành, sửa chữa.

Tại sao thế? Ứng cơ tùy chiếu, an nhiên tự dùng. Cùng tột chỗ dùng vốn bất khả đắc. Gọi đó là Diệu Dụng, ngay ấy là Bổn Tâm, phải rất hộ trì, không thể dễ dãi.

Tổ Đại Điên chỉ ra rõ ràng ông chơn chủ, tiết lộ quá nhiều! Do đây có thể biết là Chơn Tâm cách biệt hẳn với Minh Đế của ngoại đạo.

Phái Số Luận phân tích vũ trụ gồm hai mươi lăm Đế, trừ Minh Đế là chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, chẳng phải Tâm, còn lại đều chẳng ra ngoài Sắc, Không và Tâm.

Giác Đế Ngã Tâm, năm Tri Căn, năm Tác Nghiệp Căn, Tâm Bình Đẳng Căn cho đến Thần Ngã thuộc về Tâm. Năm Trần, năm Đại thuộc về Sắc. Không Đại thuộc về Không.

Cái Đế đầu tiên hết gọi là Minh Tánh, suy nghĩ cho là thường tồn. Cái Đế thứ hai mươi lăm gọi là Thần Ngã cũng cho là thường. Thần Ngã suy nghĩ về Thánh cảnh của mình thì Minh Tánh bèn biến đổi thành hai mươi ba Đế còn lại để cho Thần Ngã dùng. Chỗ mà Ngã thọ dụng, thì bị cảnh trói buộc, chẳng được giải thoát. Nếu Ngã chẳng suy nghĩ thì Minh Đế chẳng biến tức không trói buộc, cái Ngã bèn giải thoát. Đây là tông chỉ của phái này.

Ông Cáo Tử dạy rằng:

- Chẳng được nơi lời thì chớ cầu nơi Tâm. Chẳng được nơi Tâm, chớ cầu nơi Khí. Rõ là một lối với Minh Đế, có người nói đó là Thiền, thật lầm to!

Kinh:

Ông A Nan thưa:

- Nếu cái Tâm Tánh của tôi mỗi mỗi đều có chỗ trả về, thì cái Diệu Minh Nguyên Tâm mà Như Lai nói đó sao lại không trả về? Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy.

Phật bảo Ông A Nan:

- Hãy lấy cái Kiến Tinh Minh Nguyên của ông thấy tôi đây. Tuy cái Thấy này không phải là cái Minh Tâm Diệu Tinh, nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ chẳng phải là bóng của mặt trăng (trên mặt nước). Ông nên nghe kỹ, nay Ta chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

Này Ông A Nan, cái đại giảng đường này mở rộng về phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm không trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm. Chỗ có các cửa thì thấy thông suốt, chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít. Chỗ phân biệt được thì thấy cảnh sắc duyên. Chỗ trống rỗng toàn là hư không. Khi bụi nổi lên thì cảnh tượng mù mịt. Mưa tạnh trời quang lại thấy trong sạch.

Này Ông A Nan, ông đều xem rõ các tướng biến hóa ấy. Nay ta trả mỗi thứ về chỗ bản nhân của chúng. Thế nào là Bản Nhân? Ông A Nan, các thứ biến hóa này: Cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao thế? Vì không mặt trời thì không sáng, ánh sáng thuộc về mặt trời, nên trả về cho mặt trời. Cái tối trả về cho đêm không trăng. Thông suốt trả về cho các cửa. Ngăn bít trả về cho tường vách. Sắc duyên trả về cho phân biệt. Trống rỗng trả về cho hư không. Mù mịt trả về cho bụi bặm, trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả những sự vật gì trong thế gian đều không ra ngoài những loại ấy.

Còn cái Thấy (Kiến Tinh Minh Tánh) của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu? Tại sao thế? Nếu trả nó về cho cái sáng, thì lúc không sáng chẳng thể thấy tối. Tuy là sáng tối các thứ có sai biệt, còn cái Thấy không có sai biệt.

Các thứ có thể trả về, tự nhiên chẳng phải là ông, còn cái không trả về được, không phải chính ông thì là ai? Thế mới biết rằng Tâm ông vốn nhiệm mầu, sáng sạch, ông tự mê muội bỏ mất Bổn Tánh mà chịu luân hồi sanh tử, thường bị chìm đắm. Thế nên Như Lai gọi là đáng thương xót!

Thông rằng: Cái Thấy phân biệt duyên trần với cái Kiến Tinh Minh Nguyên khác nhau ở chỗ Năng, Sở. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đối với cái Minh Tâm Diệu Tinh phân ra ở chỗ Thể, Dụng. Bởi thế, cái Minh Tâm Diệu Tinh như mặt trăng thật, cái Kiến Tinh Minh Nguyên như mặt trăng thứ hai (do đè lên mắt mà thấy), còn cái Thấy phân biệt duyên Trần như bóng mặt trăng trong nước.

Trong hư không, nói cho cùng chỉ có tám thứ: sáng, tối, thông, bít... tới, lui, nên nói: Không ngoài các thứ ấy. Cũng phảng phất tương tự như Bát Quái: Trong sáng và mù mịt là tượng của Càn Khôn. Ngày sáng, đêm tối là tượng của Khảm, Ly. Thông, bít là tượng của Cấn, Đoài. Sự phân biệt thuộc động, tượng của Chấn. Tánh hư không tựa gió, nên là tượng của Tốn vậy.

Còn nơi Tâm người thì Thông, Bít, gồm đủ cả Mê, Ngộ.

Duyên, Sắc, Hư Không, gồm đủ cả Hữu, Vô. Đục, Trong gồm đủ cả Thế Trần và Giác Ngộ.

Sáng, Tối gồm đủ cả Thánh, Phàm.

Tất cả đều là cảnh. Cảnh thì có sai biệt, cái Thấy không có sai biệt. Có sai biệt thì có chỗ trả về, còn không sai biệt thì vốn tự bất động. Các thứ có thể trả về là Cảnh, là Vật, chẳng phải là ông.

Cái: Tự ông, chẳng thể trả về cho vật là cái Thấy, chẳng phải Vật, đó là cái Chơn Kiến Tinh của ông vậy. Có thể trả về gọi là Khách, không trả về đâu được là Chủ. Cái Kiến Tinh Minh Nguyên đã là như vậy, huống gì là cái Chơn Tâm vốn nhiệm mầu, sáng sạch không rơi vào cái Thấy, là: Ông Chủ ở trong Ông Chủ. Ông Chủ trong Ông Chủ là cái căn bản chẳng sanh chẳng diệt, người người đều sẵn đủ, chẳng ở ngoài đến. Chẳng tự mình làm Ông Chủ, lưu lạc làm Khách là cũng bởi không nhận ra mặt trăng thật, mà lại nhận bóng mặt trăng trong nước làm Tự Tâm, làm sao khỏi đắm chìm sanh tử?

Có vị tăng hỏi Tổ Tào Sơn:

- Cổ đức nói: Hết cả đại địa độc chỉ có một người này. Chưa biết là người nào?

Tổ Sơn nói:

- Chẳng thể có mặt trăng thứ hai.

Hỏi:

- Như thế nào là mặt trăng thứ hai?

Tổ Sơn nói:

- Cái đó cần lão huynh định lấy!

Hỏi:

- Thế sao là mặt trăng thứ nhất?

Tổ Sơn nói:

- Nguy!

Một chữ "Nguy" này đủ thấy Tổ Tào Sơn chẳng dám bỏ mất Tánh Bổn Nhiên mà chịu luân hồi, chỗ tối thân thiết vậy.

Thầy Báo Từ Văn Toại thường nghiên cứu Thủ Lăng Nghiêm, ra mắt Tổ Pháp Nhãn, kể lại chỗ sinh sống của mình rất phù hợp với ý chỉ của kinh.

Tổ Nhãn rằng:

- Kinh Lăng Nghiêm há chẳng có cái nghĩa: Tám chỗ trả về, ư?

Sư Toại đáp:

- Dạ, có.

Tổ hỏi:

- Cái sáng trả về cái gì?

Đáp:

- Sáng trả về mặt trời.

Tổ hỏi:

- Mặt trời trả về cái gì?

Sư Toại ngẩn ngơ, không đáp được. Từ đó, khâm phục Tổ mà cầu học.

Thế mới biết cái chuyện Ông Chủ trong Ông Chủ chẳng phải là chỗ mà Chú, Sớ đến được.

Ngài Đoan Sư Tử tụng rằng:

Giáo pháp Bát Hoàn có đã lâu,
Từ xưa Chư Tổ mỗi phanh phui.
Dầu chi hoàn được không hoàn được,
Ấy cũng sức tôm chẳng khỏi thau.
Dịch:
Bát Hoàn chi giáo thùy lai cửu,
Tự cổ tông sư các phân phẫu.
Trực nhiên hoàn đắc bất hoàn thời,
Dã thị hà khiên bất xuất đẩu.

*****

X. LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÁNH THẤY

Kinh:

Ông A Nan bạch:

- Tuy tôi biết Tánh Thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi?

Phật bảo Ông A Nan:

- Nay tôi hỏi ông: hiện ông chưa được đạo quả Vô Lậu Thanh Tịnh, nhờ thần lực của Phật mới thấy cõi Sơ Thiền không chướng ngại. Ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm Phù Đề như xem quả Am Ma La trong bàn tay. Các vị Bồ Tát thấy trăm ngàn cõi. Mười phương Như Lai thì cùng tột các quốc độ thanh tịnh nhiều như vi trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng sanh thì thấy rõ được không quá gang tấc.

A Nan, nay tôi cùng ông hãy xem cung điện của Tứ Thiên Vương, chặng giữa xem khắp các loài Thủy, Lục, Không, Hành. Tuy có nhiều hình tượng sáng tối khác nhau, nhưng không có cái gì không phải là tiền trần phân biệt ngăn ngại. Ông hãy ở đó, phân biệt mình, vật. Nay tôi để ông lựa chọn trong sự thấy đó: Cái gì là Ngã Thể (Tự Tánh) của ông, cái gì là hình tướng của vật?

A Nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật chứ chẳng phải ông, cho đến bảy núi Kim Sơn, xem xét cùng khắp tuy có những thứ ánh sáng nhưng cũng là vật chớ không phải ông. Lần lần xem đến: mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối, núi sông, cỏ rác, người vật đều là vật chứ không phải là ông.

A Nan, các vật xa gần đó tuy sai khác nhau nhưng đồng do cái Thấy (Kiến Tinh) trong sạch của ông trông thấy, thì các vật đó tuy có sai khác mà Tánh Thấy không sai khác. Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông.

Thông rằng: Ban đầu, Ông A Nan hỏi cái Nguyên Tâm Diệu Minh tại sao không trả về. Đức Phật thấy cái Chân Tâm ấy không dấu vết, khó mà chỉ bày nên nương vào cái Kiến Tinh Minh Nguyên mà phương tiện chỉ bày. Cái Kiến Tinh rất gần với Chân Tâm, như mặt trăng thứ hai rất gần với mặt trăng thật. Nhưng cái Thấy này cũng là Vọng, cũng cần phải trả về, chỉ có mặt trăng thật ví dụ cho Chân Tánh là không thể trả về.

Văn sau có nói: Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy này không phải là cái thấy chân thật. Thì há không phải cái Thấy này cũng có thể trả về hay sao? Ông A Nan tuy biết cái Kiến Tinh không trả về, đã ngộ được cái nghĩa mặt trăng thứ hai, lại hỏi: Làm sao biết được đó là Chân Tánh của tôi? Đó là muốn nghiệm xét cái nghĩa Mặt Trăng Thứ Nhất, cái Tánh không thể trả về này hiện phải có phương tiện nào để khiến ta tự biết, tự tin vậy. Phật vẫn dùng cái Kiến Tinh mà phân tách, chỉ bày Cái Bị Thấy Là Vật, cái Thấy là ông. Vật có sai khác, cái Thấy không sai khác. Không sai khác là Kiến Tinh, cái Thấy.

Nói: Trông thấy trong sạch, là vì tuy nhờ sắc căn trong sạch là con mắt để thấy bốn Đại, nhưng cũng do Tánh Thể Trong Sạch xưa nay phát khởi, không do tạo tác nên tự mầu đẹp (Diệu) mà sáng soi (Minh), gọi là Tánh Thấy. Cái Thấy (Kiến Tinh) đã là Chân Kiến của ông thì cái Tánh Thấy chẳng phải là Chân Tánh của ông sao ? Cho nên nói: Cái Tinh Diệu Minh này thật là Tánh Thấy của ông.

Vốn là Tánh thì chỉ có Một. Nhưng cái mức trong sạch của sự Thấy thì chẳng bằng nhau, tức là do thấu cùng cái Tánh hay chẳng thấu cùng cái Tánh mà có sai khác.

Phật Nhãn thì cùng tột mười phương quốc độ trong sạch của Như Lai nhiều như vi trần, không chỗ nào là không thấy. Pháp Nhãn là con mắt của Chư Bồ Tát thì thấy trăm ngàn thế giới. Huệ Nhãn là như Ông Tu Bồ Đề thấy Pháp Thân Phật. Thiên Nhãn, như Ông A Na Luật thấy cõi Diêm Phù Đề như thấy trái Am Ma La trong bàn tay. Nhục Nhãn, là chúng sanh thì thấy không quá gang tấc. Ông A Nan chưa được thanh tịnh vô lậu, nhưng nhờ thần lực của Phật nên thấy cõi Sơ Thiền, đó là Nhục Nhãn mà được Thiên Nhãn. Chỗ thấy của năm loại Nhãn chẳng đồng, nhưng cái Thấy thì không hai, nên mới nói "Không sai khác". Hẳn là phải đến Phật Nhãn mới thấu cùng các cõi như vi trần, mới tròn đủ cái Dụng của Tánh Thấy.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn:

- Như thế nào là Tổ Sư Tây lai ý?

Tổ đáp:

- Suốt ngày xem núi.

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Thản nhiên tăng hỏi lão sư yên,
Dường đặng Thiều Dương một câu truyền.
Suốt ngày xem núi, tay tiên lộ,
Đêm khuya vượn hú, nguyệt ngoài hiên.

Hãy nói "Suốt ngày xem núi, là chỉ cái Thấy hay chỉ Tánh Thấy." Đối cùng "Tổ Sư Tây lai y". Hiểu thế nào đây?

Ngài Vân Cư Trí nói rằng:

- Cái Tánh Trong Sạch xưa nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự như nhiên. Thấy rõ ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là: Kiến Tánh thành Phật.

Hỏi:

- Tánh vốn trong sạch, chẳng thuộc Hữu, Vô sao lại còn có thấy?

Đáp:

- Thấy không chỗ thấy.

Hỏi:

- Đã không có chỗ thấy, sao lại còn có Tánh?

Đáp:

- Kiến Xứ (chỗ thấy) cũng không.

Hỏi:

- Như vậy thì khi thấy là ai thấy?

Đáp:

- Không người để thấy.

Hỏi:

- Rốt cùng thì như thế nào?

Đáp:

- Tính toán hư vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: Bèn mang tiếng là mê. Theo cái Thấy hư vọng đó sanh chuyện hiểu biết, liền đọa sanh tử. Người thấy biết rõ ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là Thấy Tánh.

Hỏi:

- Cái Tánh này trải khắp cả thảy nơi chăng?

Đáp:

- Không đâu chẳng khắp.

Hỏi:

- Phàm phu đủ chăng?

Đáp:

- Đã nói là không đâu chẳng khắp thì phàm phu sao lại chẳng đủ?

Hỏi:

- Cớ sao Chư Phật, Bồ Tát chẳng bị sanh tử ràng buộc, mà chỉ có phàm phu bị trói cột vào cái khổ này, thì sao lại trải khắp?

Đáp:

- Phàm phu ở ngay trong Tánh trong sạch này vọng thấy có năng, có sở. Bèn sa vào sanh tử. Chư Phật, Bồ Tát khéo biết trong Tự Tánh trong sạch nào có hữu, vô nên chẳng lập năng, sở.

Hỏi:

- Nếu nói như vậy thì có người hiểu, người chẳng hiểu hay sao?

Đáp:

- Cái hiểu còn chẳng thể được, há có người hiểu sao?

Hỏi:

- Tột lý như thế nào?

Đáp:

- Ta lấy yếu lý mà nói, ông phải biết rằng trong Tánh trong sạch không có hữu, vô, phàm, Thánh; cũng chẳng có người hiểu, người không hiểu. Phàm với Thánh, cả hai chỉ có danh. Nếu theo danh mà khởi sanh hiểu biết liền đọa vào sanh tử. Nếu biết mọi sự đều giả danh, không thật, tức thì không có cái mang danh.

Ngài lại nói:

- Đây là chỗ tột rốt ráo: Như cho rằng ta hiểu, kia chẳng hiểu, tức là đại bệnh. Thấy có phàm Thánh, dơ sạch, cũng là đại bệnh. Khởi niệm không có phàm Thánh, lại là bác không có nhân quả. Thấy có cái Tánh trong sạch để có thể trụ dừng, cũng là đại bệnh. Khởi kiến giải chẳng có trụ dừng cũng là đại bệnh. Như vậy, trong Tánh trong sạch, chẳng phá hoại phương tiện ứng dụng mà hưng vận từ bi. Như thế, chỗ đạo tràng hưng vận đó, tức toàn Tánh trong sạch, nên nói là: Thấy Tánh thành Phật.

Lời dạy trên của Tổ Vân Cư rất gần với câu: Thấy Tánh do lìa tướng Thấy, của kinh nên trích ra đầy đủ.

Kinh:

- Nếu cái Thấy là vật thì chắc ông cũng có thể thấy được cái Thấy của Ta. Nếu ông cho rằng khi chúng ta cùng thấy sự vật là ông thấy cái Thấy của Ta, thì khi ta không thấy sao ông không thấy được Chỗ Không Thấy của Ta? Nếu cho là ông thấy được cái không Thấy của Ta, thì cái không Thấy của Ta làm gì có tướng để cho ông thấy? Còn nếu không thấy được Chỗ Không Thấy của Ta thì cái Thấy tự nhiên chẳng phải là vật, sao nó lại chẳng phải là ông?

Thông rằng: Quả là Đức Phật nêu lên cái ý của Ông A Nan, thế giới như cái lồng đèn trên cây cột, đều có Danh, có Tướng thì Cái Kiến Tinh Minh Nguyên. Là cái vật gì, xin khiến cho tôi được biết?

Phật bèn gợi ý rằng:

- Khi ta thấy cái đài hương, thì ông làm sao?

A Nan nói:

- Tôi cũng thấy đài hương, tức là thấy chỗ Thấy của Phật.

Đức Phật nói:

- Ta thấy cái đài hương thì ông cũng dễ biết, còn khi ta chẳng thấy đài hương, thì ông thế nào?

A Nan đáp:

- Tôi cũng không thấy cái đài hương, tức là thấy chỗ chẳng Thấy của Phật.

Đức Phật nói:

- Ông nói rằng khi không Thấy thì tự ông biết. Vậy thì cái chỗ không Thấy của người khác, ông làm sao mà biết được?

Người xưa đến trong cái Ấy, chỉ khá tự mình biết lấy, với người khác nói chẳng được!

Chỉ như Thế Tôn nói:

Khi Ta không thấy, cũng như con linh dương treo sừng, tiếng vang, dấu vết, tin tức đều tuyệt dứt, ông hướng về đâu tìm kiếm?

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Toàn tượng (voi), nguyên trâu mù hết thảy,
Xưa nay gây nghiệp, gọi chung khuôn.
Như nay muốn gặp Hoàng Đầu Lão,
Cõi Phật vi trần tại giữa đường.

Ngài Tuyết Đậu đưa ra con mắt Giáo Pháp, chỉ tụng thấy Phật. Ngài Thiên Đồng thâm đắc ý kinh, tụng chỉ ngay cái Chân Kiến.

Tụng rằng:

Biển cả giọt khô, hư không đầy ứ,
Thầy tu lỗ mũi dài, Cổ Phật đầu lưỡi cụt.
Đàn vừa qua chín khúc, thể ngọc một phen đổi,
Ngay đó gặp nhau, ai biết hắn,
Mới tin người ấy chẳng bạn bè.

Tắc này là cơ duyên của hai lớp công án, hết sức phát huy mà chỉ nói được một nửa!

Kinh:

- Lại nữa, nếu cái Thấy là vật thì đang khi ông thấy vật, ông đã thấy vật rồi thì vật cũng phải thấy ông. Thế là Thể và Tánh xen lộn, tức là ông với Ta cùng với cả thế gian không an lập được.

Ông A Nan, nếu khi ông thấy, đó chính là ông nào có phải Ta, thì cái Tánh Thấy cùng khắp đó chẳng phải là chính ông thì còn là ai? Tại sao lại tự nghi Chân Tánh của mình. Tánh của ông vốn không Chân hay sao mà bám lấy Ta cầu tìm cái thật?

Thông rằng: Bộ Hiệp Luận nói rằng nghĩa của đoạn kinh này phát sanh từ một câu: Làm sao biết đó là Chân Tánh của tôi? Nên Đức Thế Tôn mới khai thị cái tướng của sự không Thấy để khiến hiểu rõ Chân Tánh mà chẳng nên tìm cầu ở nơi phân biệt.

Ngài Mã Minh nói:

- Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân, bởi vì không có cái thấy Kia Đây, sai khác, đồng nhau.

Nên nói rằng:

- Nếu thấy cái chẳng thấy thì tự nhiên đó không phải là cái tướng không thấy của người kia.

Nói, Chẳng Phải Người Kia, thì chỉ là Cái Tướng Chẳng Thấy của A Nan đó thôi, mà không phải là Cái Chẳng Thấy của Đức Thế Tôn. Vậy ắt là chỗ không thấy của Thế Tôn thì A Nan không thể thấy được, chỉ có Thế Tôn thấy được.

Nên nói rằng: Nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta. Thì cái thấy của ông chẳng phải là vật.

Nói Chẳng phải vật. Không phải là cái thấy của Thế Tôn, mà chỉ là cái tướng của Cái Chẳng Thấy Của A Nan.

Nếu Đức Thế Tôn cũng thấy Cái Thấy Của A Nan và A Nan cũng thấy Cái Thấy Của Thế Tôn. Tức là cái Tánh Thấy trong sạch thành ra cái vật có hình tướng. Nên mới nói: Thể, Tánh lộn xộn chẳng có an lập.

Cái chỗ Chẳng Thấy, là chỗ căn bản, quyết chẳng thể nào thấy được. Cũng như trồng cây mà hằng này cứ moi rễ lên xem thì cây sống sao được.

Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ:

Có vật trước trời đất,
Vốn phẳng lặng không hình.
Hay làm chủ muôn tượng,
Chẳng theo bốn mùa tàn.

Bài này chỉ ra rõ ràng cái Chân Tánh, chẳng phải là chỗ cái thấy đến được. Vậy mới là mặt trăng thứ nhất, chứ chẳng phải riêng cái Kiến Tinh Minh Nguyên mới là không thể thấy được mà thôi đâu.

Đoạn kinh này ý nghĩa rất vi diệu, không có chỗ nào chẳng phát minh cái Tinh Diệu Minh, thật là cái Tánh Thấy của ông. Sao lại nói: Cái thấy này là ông chứ không phải là vật? Sở dĩ nói: Cái thấy không phải là vật. Vì nếu cái thấy là vật, thì cái thấy của tôi, ông có thể thấy. Nhưng cái thấy của tôi thì hẳn là ông không thể thấy được. Nếu bảo khi ông và tôi cùng thấy là ông thấy cái thấy của tôi, thì khi tôi thấy, ông có thể thấy Cái Thấy Ấy. Còn khi tôi không thấy, thì ông vẫn thấy được chứ tại sao lại không được? Nếu bảo rằng khi tôi thấy, thì thấy Cái Thấy Ấy; khi tôi không thấy thì thấy Cái Chẳng Thấy mà cho đó là thấy chỗ Chẳng Thấy của tôi, thì đã tự mình không thấy chứ sao lại nói là thấy được cái tướng không thấy của tôi? Muốn lấy cái tướng Chẳng Thấy của tôi làm chỗ thấy của ông, rõ ràng đó là cái tướng của thấy mà chẳng phải là cái tướng của không thấy. Cái chỗ Chẳng Thấy đó hẳn nhiên ông không thể thấy được. Khi chỗ chẳng thấy đã không thể thấy, vậy khi cùng thấy cũng chẳng có thể thấy. Thấy cùng Chẳng Thấy đều không thể chỉ ra, thì cái thấy của tôi rõ ràng chẳng phải là vật.

Cái thấy của tôi đã không phải là vật thì cái thấy của ông rõ ràng cũng không thể là vật. Cái thấy của ông đã chẳng phải vật, tức là không thuộc về vật, tại sao chẳng phải là ông? Đây tức là lấy sự "chẳng thể Thấy" để biện rõ cái chẳng phải là vật vậy. Giả sử có thể thấy được, thì cái thấy cũng là vật thì làm sao làm chủ muôn tượng mà an lập thế gian? Cho nên, có cái Không Hình mới hiện ra hình tướng, có cái Không Phải Vật mới hay biết sự vật.

Cái thấy của tôi, cái thấy của ông, đã chẳng phải vật thì chẳng có ranh giới giáp nhau, đầy khắp pháp giới, không thiếu hụt, dư thừa chỗ nào. Hữu Tình và Vô Tình đều do cái ấy mà kiến lập, gọi đó là Chân Tánh. Cái Tánh mà chẳng thật là ông, thì cái thấy cũng chẳng thuộc về ông mới phải. Nhưng rõ ràng cái thấy là của ông mà chẳng phải là của tôi, thì cớ sao lại tự nghi nó chẳng chân thật, mà phải bám vào Ta để cầu xin cái Thật? Giả sử ta có thể đem cho ông được, thì chẳng phải là cái Chân Thật của ông vậy.

Có vị sư hỏi thiền sư Thượng Lam Siêu:

- Thế nào là việc bổn phận của Thượng Lam?

Tổ Lam rằng:

- Chẳng theo ngàn Thánh mượn. Há hướng vạn sự cầu?

Nhà sư hỏi:

- Không mượn, không cầu, thì như thế nào?

Tổ Lam rằng:

- Chẳng thể cầm nắm. Trong tay Xà Lê đưa ra được ư?

Tổ Đơn Hà tụng rằng:

Một phiến Linh Minh vốn diệu viên,
Ở trong không chánh cũng không thiên.
Núi báu, cỏ lành không gốc rễ,
Chẳng đợi Chúa Xuân, sắc tự nhiên.

Nhất phiến Linh Minh bổn diệu viên,
Cá trung phi chánh diệc phi thiên.
Bửu phong thoại thảo vô căn đế,
Bất đải Xuân Công sắc tự tiền.

Ngộ chỗ này ắt biết Chân Tánh vốn không vật. Không vật thì không hỗn tạp. Không hỗn tạp nên vật và ta đồng nguồn, hồn nhiên đầy đủ. Nếu hướng theo người tìm cầu cho được, đều là chẳng phải.

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật rằng:

- Thưa Thế Tôn, nếu cái Tánh Thấy ấy thật là tôi chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như Lai xem cung điện quí báu của Tứ Thiên Vương, xem mặt trời, mặt trăng, cái Thấy ấy cùng khắp cõi Ta Bà, khi lui về tịnh xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế Tôn, cái Thấy như thế, Thể của nó xưa nay cùng khắp một cõi. Vậy mà nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng, thế là cái Thấy rút lại từ lớn thành nhỏ hay tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn? Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Thế Tôn vì tôi từ bi chỉ rõ.

Phật bảo Ông A Nan:

- Tất cả mọi thứ trong, ngoài, lớn, nhỏ của thế gian đều thuộc về tiền trần, không nên nói cái Thấy có co, có duỗi. Ví như trong đồ vật hình vuông thì thấy hư không vuông. Ta lại hỏi ông: Cái hư không vuông ở trong đồ vật vuông ấy là nhất định vuông hay không nhất định vuông? Nếu nhất định vuông, thì khi thay cái đồ vật tròn vào lẽ ra hư không không tròn! Nếu không nhất định thì tại trong đồ vật vuông lẽ ra đã không có hư không vuông! Ông nói: Không biết nghĩa ấy do đâu; nghĩa đó như thế, chứ còn do đâu nữa?

A Nan, nếu muốn vào được cái không vuông, không tròn thì chỉ cần trừ bỏ cái vuông của đồ đạc, chứ cái Thể của hư không thì vốn không vuông. Chẳng nên nói rằng: lại phải trừ cả cái tướng vuông của hư không nữa!

Lại như lời ông hỏi: Khi vào phòng, rút cái Thấy làm cho nhỏ lại, vậy thì khi ngẩng xem mặt trời, há lại kéo cái Thấy lên bằng mặt trời? Nếu xây tường nhà mà chia cắt cái Thấy làm cho đứt đoạn, thì khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu nối? Nghĩa ấy không đúng vậy!

Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, mê mình mà làm vật, bỏ mất Bản Tâm, bị vật xoay chuyển, cho nên ở trong đó mà thấy lớn thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn sáng. Đó là Đạo Tràng Bất Động, trên đầu một mảy lông, trùm chứa mười phương quốc độ.

Thông rằng: Ông A Nan nói, Tánh Thấy có khắp chính là tôi chứ không ai khác. Thì chỗ Thấy của tôi cũng đồng với Phật Nhãn, tại sao khi xem mặt trời, mặt trăng thì khắp cõi Ta Bà, mà nay ở trong nhà thì chỉ đầy một nhà, vậy là cái Thấy này có co duỗi, lớn bé chẳng đồng, sao lại bảo là không sai khác? Đó là không biết rằng có lớn, có bé là do ở tiền trần, chớ chẳng quan hệ gì tới cái Tánh Thấy. Ví như vuông, tròn là do ở đồ vật, nào dính dáng gì đến hư không. Ở trong đồ vật mà xem hư không thì hình như có tướng vuông, tròn. Chỉ dẹp bỏ đồ vật đi, thì hư không ắt chẳng có vuông, tròn nào có thể chỉ ra được. Duyên theo trần mà xét cái Thấy thì hình như có tướng co, duỗi. Chỉ lìa tiền trần, thì Tánh Thấy vốn chẳng có "co duỗi" nào có thể được. Cái Thấy mà xoay chuyển theo tiền trần, cũng như xét hư không mà chẳng ở trong chính thái hư, lại nhìn trong một món đồ.

Thế nên, ở trong ấy thấy lớn thấy nhỏ, đó là mê mình là vật vậy. Còn nếu chuyển được vật, tức thì tất cả Sắc đều là Phật Sắc, tất cả mọi cái Thấy đều là cái Thấy của Phật. Một phen thân tâm quang đãng, rỗng không thì vật không còn chướng ngại, nên nói là thân tâm tròn sáng. Ở trong cái Viên đó, một tức là tất cả, nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ, lại chẳng đồng với Phật Nhãn sao?

Có vị tăng hỏi Ngài Huỳnh Bá:

- Đã nói Tánh tức là Thấy, Thấy tức là Tánh. Nếu như Tánh vốn không chướng ngại, không giới hạn thì sao cách vật chẳng thấy? Lại như trong hư không, gần thì thấy, xa thì không thấy là thế nào?

Tổ Huỳnh Bá nói:

- Đó là ông vọng sanh dị kiến. Nếu cách vật thì nói là không thấy, không có vật ngăn ngại thì nói là thấy, rồi cho là Tánh có cách ngại thì quả là chẳng hiểu gì cả. Tánh chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Pháp cũng chẳng phải Thấy, chẳng phải không Thấy. Như người thấy Tánh thì chỗ nào mà chẳng phải là Bổn Tánh của mình? Nên chi sáu đường, bốn loại, núi sông, đất đai đều là cái Tánh trong sạch sáng suốt của ta. Thế mới nói: Thấy Sắc tức là thấy Tâm. Sắc và Tâm chẳng hai, chỉ vì giữ lấy cái tướng mà khởi sanh Thấy, Nghe, Hay, Biết. Trừ bỏ vật trước mặt mới cho là Thấy, tức là sa vào kiến giải nương theo sự Thấy, Nghe, Hay, Biết của hàng Nhị Thừa. Trong hư không mà gần thì thấy, xa thì chẳng thấy, đó thuộc về ngoại đạo. Rõ ràng là: Đạo chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, chẳng gần cũng chẳng xa. Quá gần mà không thể thấy, đó là Tánh của muôn sự muôn vật. Quá gần mà còn không thể thấy, huống là nói: Xa nên chẳng thể thấy. Thì đâu có ý nghĩa gì?

Tổ Kính Thanh hỏi nhà sư:

- Tiếng gì ngoài cửa vậy?

Nhà sư rằng:

- Tiếng giọt mưa.

Tổ Thanh rằng:

- Chúng sanh điên đảo, mê mình theo vật.

Nhà sư hỏi:

- Hòa Thượng như thế nào?

Tổ Thanh rằng:

- Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình.

Nhà sư hỏi:

- Nhuần nhã chẳng lầm lạc mình, ý chỉ thế nào?

Tổ Thanh rằng:

- Lìa thân (xuất thân) còn khá dễ, thoát thể nói khó thay!

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Nhà im, tiếng giọt mưa,
Nhà sư khó đáp lại.
Nếu bảo từng Nhập Lưu,
Như trước, sao chẳng hiểu!
Hiểu, chẳng hiểu?

Non Nam, núi Bắc chuyển mưa rào.

Đây khá gọi là khắp pháp giới chẳng từng che dấu vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Cốc Ẩm Thông:

- Nếu hay chuyển vật, tức đồng Như Lai. Muôn tượng là vật, làm sao chuyển được?

Tổ Thông đáp:

- Ăn cơm rồi, tuyệt không ý trí. Như có ý trí, tức bị vật chuyển vậy.

Lại có vị sư hỏi Ngài Thiều Quốc sư:

- Thế nào là Chuyển vật tức đồng Như Lai?

Tổ Thiều đáp:

- Ông gọi cái gì là vật?

Nhà sư nói:

- Như thế tức là đồng với Như Lai?

Tổ Thiều nói:

- Đừng làm con giả can mà tru! Suy nghĩ so sánh chuyện đồng với Như Lai, tức xa ngàn dặm, vạn dặm!

Có nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu:

- Trong mười hai thời dụng tâm thế nào?

Tổ Châu nói:

- Ông bị mười hai thời sai sử, lão tăng sai sử được mười hai thời.

Đó là sự Chuyển Vật chân thật vậy.

Ngài Bach Vân Đoan tụng rằng:

Nếu hay chuyển vật tức Như Lai,
Xuân ấm hoa rừng chốn chốn khai.
Vẫn có một đôi tay khô đét,
Chưa từng rẻ rúng múa ba đài.

Dịch:
Nhược năng chuyển vật tức Như Lai,
Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai.
Tự hữu nhất song cùng tưởng thủ,
Bất tằng dung dị vũ tam đài.

Ngài Chơn Như Triết tụng rằng:

Nếu hay chuyển vật tức Như Lai,
Cửa mở nơi nơi, thấy Thiện Tài.
Trong ngõ liễu hoa bày nhảy múa,
Say theo chín nẻo, ngủ lâu đài.

Dịch:
Nghược năng chuyển vật tức Như Lai,
Xứ xứ môn khai kiến Thiện Tài.
Hoa liễu hạng trung trình vũ hý,
Cửu cù thừa túy ngọa lâu đài.

Nơi đầu một mảy lông trùm chứa khắp mười phương quốc độ. Với Phật Nhãn, thế giới hiện toàn chân chắc được, còn chúng sanh có thể như vậy không?

Ông Thứ Sử đất Giang Châu là Lý Bột hỏi Tổ Quy Tông:

- Trong kinh giáo có nói: Núi Tu Di ngậm chứa hột cải, thì Bột này chẳng nghi. Nhưng nói: Hột cải ngậm chứa núi Tu Di, thì phải chăng là nói dối?

Tổ Tông nói:

- Người ta đồn Thứ Sử đọc vạn quyển sách, có thật không?

Đáp:

- Có vậy.

Tổ Tông nói:

- Rờ từ đầu đến gót chỉ như trái dừa lớn, vậy vạn quyển sách để ở chỗ nào?

Ông Lý Bột cúi đầu mà thôi.

Do đây mà suy, tâm lượng của chúng sanh cùng với Như Lai nào có sai khác!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

MỤC BA:

PHẬT NÊU RA TÁNH THẤY NGOÀI CÁC NGHĨA PHẢI VÀ CHẲNG PHẢI

I. NGHI TÁNH THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT

Kinh:

Ông A Nan bạch Phật rằng:

- Thưa Thế Tôn, nếu cái Thấy đó (Kiến Tinh) thật là Diệu Tánh của tôi, thì cái Chân Tánh đó hiện đang ở trước mắt tôi. Cái Thấy đó thật là tôi, thì thân tâm tôi hiện giờ lại là vật gì? Mà nay thân tâm này thật có phân biệt, còn cái Thấy kia lại không phân biệt riêng gì với thân tôi. Nếu nó thật là Tâm tôi, khiến cho tôi hiện nay có thấy, thì cái Tánh Thấy ấy thật là tôi mà thân này không phải là tôi. Thế thì đâu có khác gì trước kia Như Lai đã hỏi vặn rằng: Vật thấy được tôi. Xin Phật rũ lòng đại từ, mở bày cho kẻ chưa ngộ.

Thông rằng: Đoạn trước nói: Nhận vật lấy làm mình. Đoạn này nói: Mê mình làm vật. Trước thì nói: Ở nơi Vọng mà lựa chọn cái Chân. Tức là tự Thân Mình mà lại gọi là vật. Ở đây thì Lấy Chân mà hòa với Vọng, thì muôn vật không có gì chẳng phải là Mình. Ở nơi Vọng mà chọn lựa cái Chân, mà nói Mình và Vật khác nhau, còn có thể tự biện ra.

Chứ đến chỗ: Lấy Chơn mà hòa với Vọng. Để nói Ta với Vật đều đồng thì thật là khó hiểu. Vì thế A Nan nói: Nếu hay chuyển được vật tức đồng Như Lai. Vậy thì cái Thấy này có khắp pháp giới, chỗ Thấy là núi là sông đều là Diệu Tánh của ta đó, nhỉ. Nay cái Diệu Tánh này bày trước mặt ta. Nếu cái Thấy ở trước mặt đã là Chân Tánh của ta, thì cái thân tâm phụ thêm này lại là cái gì? Nếu nói cái thân tâm chẳng phải là Tánh thì hiện giờ thân tâm vẫn hay biết rành rẽ. Nếu nói cái bày trước mặt đều là Tánh thì cái Thấy đó chẳng phân biệt được thân ta.

Nếu nói cái Thấy ấy vô hình, hồn nhiên cùng vật đồng thể, đúng là Bổn Tâm ta, có cảm mà ứng, khiến cho ta hiện giờ có thể thấy được, vậy Tánh Thấy chính thật là ta, đầy khắp trước mặt, mà sao lại có một cái thân trơ trọi ù lì lại chẳng phải là ta! Nào khác gì trước đây Như Lai đã hỏi vặn: Ông đã thấy vật, vật cũng phải thấy ông. Cái Thấy này cũng bèn là ở ngoài, sao lại nói được đó là Chơn Tánh của ta?

Cứ theo chỗ thấy của Ông A Nan tựa hồ trộm thấy được cái Tịch Diệt hiện tiền. Chỉ vì Ngã Kiến chưa trừ, ánh sáng chưa thấu thoát, trước mặt còn mơ hồ có vật, nên chưa thể hòa lẫn Ta Vật, tiêu hết Phải Trái vậy.

Tổ Thạch Đầu nhân xem bộ Triệu Luận đến chỗ:

Hội muôn vật làm mình, thì chỉ có bậc Thánh Nhân mà thôi. Không có Mình nên không có chỗ nào chẳng phải là Mình! Pháp Thân không hình tượng, ai đâu có ta người? Gương tròn chiếu diệu giữa hư không, muôn vật nhiệm mầu mà tự hiện. Gương Trí còn chẳng phải một, nào nói được chuyện đến đi?

Tuyệt làm sao lời nói ấy!

Sau này có vị tăng hỏi Tổ Trường Sa:

- Làm sao chuyển được núi sông, quốc độ trở về nơi mình?

Tổ Sa nói:

- Làm sao chuyển được tự mình thành núi sông, quốc độ?

Tăng nói:

- Thưa, chẳng hiểu.

Tổ Sa nói:

- Dưới thành Hồ Nam thích nuôi dân. Gạo rẻ, củi nhiều đủ bốn phương.

Vị tăng không có lời nói. Ngài bèn khai thị bằng bài kệ:

Ai nói sông núi chuyển?
Sông núi chuyển về đâu?
Viên thông không hai phía,
Pháp Tánh vốn không về.
Dịch:
Thùy vấn sơn hà chuyển?
Sơn hà chuyển hướng thùy?
Viên thông vô lưỡng bạn,
Pháp Tánh bổn vô quy.

Đọc lời của hai vị tôn túc mà có nghi cái nghi của Ông A Nan, thì có thể vỡ lở băng tan vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

II. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY

Kinh:

Phật bảo Ông A Nan:

- Nay ông nói rằng: Cái Thấy ở trước mắt ông. Nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái Thấy ấy (Kiến Tinh) đã có chỗ ở, không phải không thể chỉ ra được. Nay tôi và ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp rừng, suối và các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối có sông Hằng. Nay ông bây giờ trước tòa sư tử của tôi, đưa tay chỉ bày trong các thứ hình tướng kia: Chỗ im mát là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây, mảy mún, nhỏ lớn khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ thẳng ra được. Vậy, nếu quả cái Thấy hiện ở trước mắt ông, thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích xác cái gì là cái Thấy. A Nan, ông nên biết: Nếu hư không là cái Thấy thì hư không đã thành cái Thấy, cái gì mới là hư không? Nếu vật là cái Thấy, thì vật đã thành cái Thấy, cái gì mới là vật? Ông hãy chia chẻ tỉ mỉ muôn tượng để tách ra cái Thấy trong sạch, sáng suốt mà chỉ bày cho Ta như các vật kia, rõ ràng không nhầm lẫn.

Ông A Nan bạch Phật:

- Nay tôi ở trong giảng đường này, xa trông đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng.Đưa tay chỉ ra, đưa mắt mà xem thì những cái chỉ ra được đều là vật, chứ không có cái gì là cái Thấy. Thế Tôn, như lời Phật dạy, chẳng những hàng hữu lậu sơ học, Thanh Văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng muôn vật chỉ ra cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại có riêng tự tánh.

Phật nói:

- Đúng thế, đúng thế!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

III. CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI TÁNH THẤY

Phật lại bảo Ông A Nan:

- Như lời ông nói: Không có cái Thấy mà lìa ngoài tất cả vật lại riêng có tự tánh, do đó trong tất cả các vật chỉ ra được, không có cái gì là cái Thấy cả. Nay ta lại bảo ông: Ông cùng Như Lai ngồi trong rừng Kỳ Đà, lại xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, đủ thứ hình tượng khác nhau, chắc không có cái Thấy cho ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái gì chẳng phải là cái Thấy?

Ông A Nan bạch:

- Quả thật, tôi nhìn khắp rừng Kỳ Đà này chẳng biết trong đó có cái gì không phải là cái Thấy. Tại sao thế? Nếu cái cây chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cây? Còn nếu cái cây là cái Thấy thì sao lại là cây? Như thế cho đến nếu hư không chẳng phải là cái Thấy, thì làm sao thấy hư không. Nếu hư không tức là cái Thấy, thì sao lại là hư không? Tôi lại suy nghĩ: trong muôn vật đó, phát minh cho kỹ lưỡng, thật không có cái gì chẳng phải là cái Thấy cả.

Phật nói:

- Đúng thế, đúng thế!

Thông rằng: Ông A Nan đã biết: Cái chỉ được đều là vật, không có cái gì là cái Thấy. Thì thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài, không có Tánh Thấy riêng biệt có thể chỉ ra được, mà sao lại nói: Nay cái Diệu Tánh ấy hiện bày trước mặt tôi? Hơn nữa, đã biết: Trong muôn tượng, không có cái gì chẳng phải là cái Thấy. Tức thân tâm ta cho đến núi sông bên ngoài không có cái gì chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại còn hỏi: Tánh Thấy thật là tôi, mà thân chẳng phải là tôi?

Đức Thế Tôn bèn khiến ông tự phát huy, khiến cái nghi ngờ từ trước được giải tan ngay.

Xưa, thầy Thủ Tòa Tử Chiêu hỏi Hòa Thượng Pháp Nhãn:

- Hòa Thượng khai đường kế pháp người nào?

Tổ Nhãn rằng:

- Ngài Địa Tạng.

Thầy Chiêu nói:

- Rất phụ phàng Tiên Sư Trường Khánh!

Tổ Nhãn:

- Tôi chẳng hiểu một lời chuyển ngữ của Ngài Trường Khánh.

Thầy Chiêu nói:

- Sao không hỏi?

Tổ Nhãn:

- Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân. Ý là sao?

Thầy Chiêu bèn dựng đứng cây phất tử.

Tổ Nhãn:

- Đó là cái học được ở chỗ Ngài Trường Khánh, còn riêng Thủ Tòa thì sao?

Thấy Chiêu không nói được.

Tổ Nhãn nói:

- Chỉ như "Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân", đó là bác bỏ muôn tượng hay không bác bỏ muôn tượng?

Thầy Chiêu đáp:

- Chẳng bác bỏ.

Tổ Nhãn nói:

- Hai cái!

Hỏi những người chung quanh, đều nói:

- Bác bỏ muôn tượng.

Tổ Nhãn nói:

- Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân, cái Phù trừ quỉ!

Về sau, Thượng Tọa Tử Phương cũng từ Trường Khánh đến.

Tổ Nhãn lại đưa ra câu nói ấy. Thầy Tử Phương cũng dựng phất tử.

Tổ Nhãn nói:

- Như thế này thì lại tranh cãi được!

Thầy Phương nói:

- Tôn ý của Hòa Thượng như thế nào?

Tổ Nhãn đáp:

- Kêu cái gì làm muôn tượng?

Thầy Phương:

- Người xưa chẳng bác bỏ muôn tượng!

Tổ Nhãn nói:

- Ở trong muôn tượng, lộ riêng thân. Nói gì bác, chẳng bác?

Thầy Tử Phương bỗng tỏ ngộ lời nói trước của Tổ Pháp Nhãn.

Cái loại cơ duyên này vốn từ chỗ Ngài Địa Tạng mà đắc, làm sao chẳng phải nói pháp Ngài Địa Tạng!

Mới đầu, Tổ Pháp Nhãn cùng với thầy Thiệu Tu, Pháp Tấn ba người đi đến Ngài Địa Tạng. Ngồi sưởi mà bàn về bộ Triệu Luận. Đến câu: Trời đất cùng ta đồng gốc. Ngài Địa Tạng hỏi:

Núi sông, đất đai với tự kỷ của Thượng Tọa là đồng hay khác?

Ngài Pháp Nhãn đáp:

- Khác.

Tổ Tạng đưa lên hai ngón tay.

Ngài Nhãn nói:

- Đồng.

Tổ Tạng lại đưa lên hai ngón tay, rồi đứng lên bỏ đi.

Tuyết ngưng, ba người từ giã ra về.

Tổ Tạng đưa tiễn ra cửa, rồi nói:

Bình thường, Thượng Tọa hay nói: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.

Bèn chỉ phiến đá ngoài sân, hỏi:

- Hãy thử nói phiến đá kia là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?

Ngài Pháp Nhãn nói:

- Ở trong tâm.

Tổ Tạng nói:

- Người hành cước vì lý do nào mà lại để phiến đá ở trong tâm?

Ngài Pháp Nhãn cùng quẫn, không sao đáp được, bèn ném áo xuống chiếu, ở lại để cầu quyết trạch. Hơn một tháng, ngày kia Ngài trình kiến giải, nói cái lý đạo.

Tổ Tạng nói:

- Phật Pháp chẳng phải như thế.

Ngài Pháp Nhãn nói:

- Tôi đã hết lời, tuyệt lý rồi.

Tổ Tạng nói:

- Nếu luận Phật Pháp, thì hết thảy hiện thành.

Ngài Pháp Nhãn, ngay dưới câu nói đại ngộ. Mới tin rằng chỗ học được với Ngài Trường Khánh là chưa tới.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Lìa niệm: thấy Phật,
Dẹp trần: ra kinh.
Hiện thành gia pháp,
Nào lập môn đình?
Trăng cùng thuyền lướt, sông trong vắng,
Xuân theo ngọn cỏ ngấn tươi xanh.
Bác, chẳng bác - Nghe cho kỹ!
Ba đường hoang trống về liền được,
Tùng cúc thuở xưa hương vẫn thơm.

Dịch:
Ly niệm kiến Phật,
Phá trần xuất kinh.
Hiện thành gia pháp,
Thùy lập môn đình.
Nguyệt trục chu hành giang luyện tịnh,
Xuân thùy thảo thượng thiên ngấn thanh.
Bác, bất bác thinh đinh ninh,
Tam kính tựu hoang quy tiện đắc.
Cựu thời tùng cúc thượng phương hình.

Hãy lấy tắc công án này cùng với đoạn kinh trên, lật đi lật lại cho rõ ràng mùi mẻ, thì chẳng biết là Ông Quách Tượng giải thích Trang Tử, hay Trang Tử giải thích Quách Tượng?

Kinh:

- Khi ấy, trong đại chúng những vị chưa chứng quả Vô Học nghe Phật nói thế, mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng thời sợ hãi, mất chỗ bám níu. Như Lai biết đại chúng tâm niệm rối loạn, sanh lòng thương xót, an ủi Ông A Nan và đại chúng rằng:

- Này các trai lành, bậc Vô Thượng Pháp Vương, thật là Chân Thật Ngữ: như tánh Chân Như mà nói, không dối, không vọng, không phải là bốn thứ nghị luận càn dở Bất Tử của nhóm Mạt Già Lê. Ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương mến của Ta.

Thông rằng: Mờ mịt chẳng biết nghĩa ấy trước sau thế nào? Trước là, Cái Thấy chẳng phải là vật. Sau là, Cái Thấy chẳng phải là không phải vật. Cái trước tức là: Chân Tánh hiện tiền, cái sau tức là: Không thể chỉ ra được. Cho nên mờ mịt mất chỗ bám níu vậy.

Chân Thật Ngữ v.v... tức là năm lời nói trong Kim Cang Bát Nhã:

- Phật Chân Ngữ thì chung với Nhị Thừa;
- Phật Thật Ngữ thì chung đồng với hàng Bồ Tát;
- Phật Như Ngữ thì không chung với Bồ Tát hay Nhị Thừa;
- Phật Vô Thật Ngữ;
- Phật Vô Hư Ngữ.

Vô Hư nên không là lời lừa dối, Vô Thật nên chẳng có khác lời. Chỗ thấy chưa dứt khoát cho nên nói “Chẳng khác”. Đây chỉ để nói tóm là không vọng ngữ.

Trong Luận Bà Sa:

- Ngoại đạo cho trời là thường trụ, gọi là Bất Tử, cho rằng đáp lời mà chẳng rối loạn thì sanh về cõi trời kia. Nếu thật chẳng biết mà vội trả lời, thì sợ thành Kiểu Loạn. Nên khi hỏi thì đáp những lời bí mật, không cần phải nói ra đây. Hoặc là đáp một cách bất định. Phật quở rằng: Đó thật là kiểu loạn.

Đức Thế Tôn, nhân có ngoại đạo hỏi:

- Hôm qua Ngài thuyết pháp gì?

Phật đáp:

- Thuyết định pháp.

Ngoại đạo lại hỏi:

- Hôm nay thuyết pháp gì?

Ngài đáp:

- Bất định pháp.

Ngoại đạo nói:

- Hôm qua giảng định pháp, hôm nay sao lại giảng bất định pháp?

Đức Phật nói:

- Hôm qua định, hôm nay chẳng định.

Hãy nói xem lời nói này của Thế Tôn là như Tánh Chân Như mà nói hay là kiểu loạn? Hãy tham!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.16 khách