KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

Dao Tần, Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập
Định Huệ - Việt dịch
Dịch xong, ngày 2/9/Tân Dậu (29/09/1981)
Tại Thiền viện Thường Chiếu
BBT Huệ Quang


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN THƯỢNG
Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá cùng với ba muôn hai nghìn vị Đại tỳ kheo tăng câu hội. Đại bồ-tát có bảy muôn hai nghìn người, chúng đều quen biết. Các ngài đắc đà-la-ni thành tựu biện tài nhạo thuyết vô tận, an trụ tam-muội mà chẳng động chuyển, có huệ vô tận khéo hay rõ biết, được pháp nhẫn sâu, vào pháp môn thâm diệu, ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đã tu thành tựu các thiện pháp, bẻ dẹp chúng ma, hàng phục oán địch, nhiếp thủ Phật độ nghiêm tịnh hơn hết, có đại từ bi, có các tướng trang nghiêm sắc thân, nhờ đại tinh tấn được đến bờ kia, khéo biết tất cả ngôn từ phương tiện, oai nghi sở hành đầy đủ thanh tịnh, đều đã được trụ ba môn giải thoát, dùng trí vô ngại thông suốt ba thời, phát tâm quyết chẳng bỏ tất cả chúng sinh, nhớ nghĩ nghĩa lý, kham nhẫn trí huệ, đức của các vị bồ-tát ấy đều như vậy. Tên của các ngài là bồ-tát Chuyển Bất Thoái Pháp Luân, bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, bồ-tát Vô Ngại Chuyển Pháp Luân, bồ-tát Ly Cấu Tịnh, bồ-tát Trừ Chư Cái, bồ-tát Thị Tịnh Oai Nghi Kiến Giai Ái Hỷ, bồ-tát Diệu Tướng Nghiêm Tịnh Vương Ý, bồ-tát Bất Cuống Nhất Thiết Chúng Sinh, bồ-tát Vô Lượng Công Đức Hải Ý, bồ-tát Chư Căn Thường Định Bất Loan, bồ-tát Thật Âm Thanh, bồ-tát Nhất Thiết Thiên Tán, bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương, bồ-tát Biện Tài Trang Nghiêm, bồ-tát Pháp vương tử Văn-thù-sư -lợi, bồ-tát Di Lặc, bồ-tát Tu-di Đảnh Vương, bồ-tát Hải Đức Bảo Nghiêm Tịnh Ý, bồ-tát Đại Nghiêm Tịnh, bồ-tát Đại Tướng, bồ-tát Quang Tướng, bồ-tát Quang Đức, bồ-tát Tịnh Ý, bồ-tát Hỷ Vương, bồ-tát Kiên Thế, bồ-tát Kiên Ý. Các vị Đại bồ-tát như thế bảy muôn hai nghìn và Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, người cùng phi nhân trong tam thiên đại thiên thế giới được mọi người quen biết, phần đông đều vun trồng thiện căn, người ưa pháp lớn đều đến tập họp.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý ở trong đại hội nghĩ rằng: “Tôi nay nên hỏi Như Lai, nhờ những câu hỏi này mà thủ hộ Phật. trồng pháp chủng, Tăng chủng, khiến cho các cung ma ẩn khuất chẳng hiện, dẹp kẻ tự đại tăng thượng mạn, khiến cho người chưa vun trồng thiện căn nay sẽ vun trồng, người đã vun trồng thiện căn sẽ khiến cho thêm lớn. Nếu có người chưa phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác sẽ khiến phát tâm, người đã phát tâm khiến cho bất thoái chuyển. Người đã bất thoái chuyển sẽ khiến cho chóng đắc Vô thượng Chính Đẳng Chính Giác. Người chấp có sở đắc trụ nơi các kiến, đều khiến cho phát tâm lìa bỏ. Người thích pháp nhỏ, khiến cho chẳng thích pháp lớn. Người ưa pháp lớn, khiến sinh hoan hỷ”. Nghĩ như thế rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng về Phật, bạch rằng:
- Thế Tôn! Nay con ở trong pháp Như Lai có chút điều muốn thưa hỏi.
Phật hỏi Kiên Ý:
- Theo điều ông hỏi, ta sẽ giải nói khiến ông hoan hỷ.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Có tam-muội nào có năng lực khiến cho bồ-tát đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, thường được chẳng rời các đức Phật, có thể dùng ánh sáng soi khắp mười phương, được huệ tự tại để phá các ma, được trí tự tại, được trí tự nhiên, được trí vô sinh, chẳng do người khác mà được. Biện tài chẳng dứt, tận đến vị lai, được như ý túc, thọ vô lượng thân mạng; người thích Thanh văn thì thị hiện Thanh văn thừa, người thích Bích-chi-phật thì thị hiện Bích-chi-phật thừa, người thích Đại thừa thì thị hiện Đại thừa. Thông đạt pháp Thanh văn mà chẳng nhập vào đạo Thanh văn. Thông đạt pháp Bích-chi-phật mà chẳng nhập vào đạo Bích-chi-phật. Thông đạt pháp Phật mà chẳng rốt ráo diệt tận. Thị hiện hình sắc oai nghi Thanh văn mà bên trong chẳng lìa tâm Phật bồ-đề. Thị hiện hình sắc oai nghi Bích-chi-phật mà bên trong chẳng lìa tâm Phật đại bi. Dùng sức Như Huyễn tam-muội thị hiện hình sắc oai nghi Như Lai. Dùng sức thiện căn thị hiện ở trên cung trời Đâu-suất, thị hiện thọ thân sau bằng cách vào bào thai, sơ sinh, xuất gia, ngồi đạo tràng thành Phật. Dùng sức huệ sâu thị hiện chuyển pháp luân. Dùng sức phương tiện thị hiện nhập Niết-bàn. Dùng sức tam-muội thị hiện phân chia xá-lợi. Dùng sức bản nguyện thị hiện pháp diệt tận. Bạch đức Thế Tôn! Từ tam-muội nào có năng lực khiến cho bồ-tát thị hiện các việc công đức như thế mà chẳng rốt ráo nhập niết-bàn.
Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:
- Lành thay, lành thay! Kiên Ý hỏi được Như Lai những nghĩa như thế, phải biết là ông đã đem lại nhiều lợi ích an vui chúng sinh, thương xót thế gian làm lợi lạc trời, người và bồ-tát đời này, đời sau đều được lợi ích. Phải biết ông đã trồng sâu thiện căn gần gũi cúng dường vô lượng trăm nghìn ức Phật đời quá khứ, đi khắp các đường, hàng phục oán địch, ở trong Phật pháp được trí tự tại giáo hóa, thủ hộ các chúng bồ-tát, ông đã biết pháp tạng của tất cả chư Phật, ông từng ở chỗ Hằng hà sa các đức Phật thành tựu vấn đáp.
Này Kiên Ý! Như Lai ở trong chúng hội này chẳng thấy Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà và các Thanh văn, Bích-chi-phật có thể hỏi như thế. Chỉ có người đại trang nghiêm như ông mới có thể mở lời hỏi như thế. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe. Các bồ-tát thành tựu tam-muội được công đức này còn hơn đây.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Con xin ưa muốn nghe.
Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:
- Có tam-muội tên Thủ-lăng-nghiêm nếu có bồ-tát đắc tam-muội này, như lời ông hỏi, đều hay thị hiện bát-niết-bàn mà chẳng hằng diệt, thị hiện các hình sắc mà chẳng hoại sắc tướng, đi khắp tất cả cõi nước của các đức Phật mà không có phân biệt đối với cõi nước, đều hay gặp tất cả chư Phật mà chẳng phân biệt pháp tánh bình đẳng, thị hiện tu tập khắp tất cả các hạnh mà hay khéo biết các hạnh thanh tịnh, là bậc tối tôn tối thượng trong trời, người mà chẳng tự cao, ngã mạn buông lung. Thị hiện làm tất cả các sức tự tại của ma mà chẳng nương tựa vào việc làm của ma. Đi khắp trong tất cả ba cõi mà đối với pháp tướng không bị động chuyển. Thị hiện sinh vào khắp các đường ác mà chẳng phân biệt có tướng các đường. Khéo hay giải nói tất cả pháp cú, dùng các ngôn từ khai thị nghĩa ấy mà biết văn tự nhập vào tướng bình đẳng, không có phân biệt đối với các ngôn từ. Thường tại thiền định mà thị hiện giáo hóa chúng sinh. Thực hành tận nhẫn, vô sinh pháp nhẫn mà thuyết các pháp có tướng sinh diệt, đi một mình không sợ hãi giống như sư tử.
Bây giờ, trong hội chúng các Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương, tất cả đại chúng đều nghĩ thế này: “Chúng ta còn chưa từng nghe danh tự của tam- muội này, huống là được nghe giải nói về nghĩa ấy. Nay đến thấy Phật, mau được lợi lành và cũng được nghe nói về danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, người cầu Phật đạo nghe nghĩa lý Thủ-lăng- nghiêm tam-muội mà tin hiểu chẳng nghi, phải biết người này ắt chẳng còn thoái chuyển nơi Phật đạo, hà huống tin rồi thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, y theo lời dạy tu hành”.
Lúc ấy, các vị Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương đều nghĩ rằng: “Chúng ta hôm nay nên vì đức Phật Như Lai mà trải tòa sư tử, tòa chính pháp, tòa đại thượng nhân, tòa đại trang nghiêm, tòa đại chuyển pháp luân để Như Lai ngồi trên các tòa này của chúng ta nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội”. Mỗi người trong ấy đều tự nói: “Chỉ có tôi vì Phật trải tòa sư tử, còn người khác chẳng thể trải”.
Bấy giờ, Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương, mỗi vị đều vì Như Lai trải tòa sư tử trang sức đẹp đẽ thanh tịnh cao rộng, dùng vô lượng y báu trải lên trên, mỗi tòa đều có giăng bảo cái làm bằng các thứ báu, lại dùng các thứ báu làm lan can, ở hai bên tòa có vô lượng cây báu nhánh lá cân đối nhau thòng các tràng phan, buông rũ các màn báu lớn. Các dây kết bằng nhiều chất báu xen nhau treo các chuông báu, dùng các thứ hoa đẹp rải lên trên tòa, dùng các thứ hương trời đốt xông tòa ấy. Ánh sáng của vàng bạc và các thứ châu báu xen nhau, các thứ nghiêm tịnh thảy đều có đủ. Trong khoảnh khắc ở trước Như Lai có tám muôn bốn nghìn ức na-do-tha tòa sư tử báu, nhưng ở trong chúng hội không bị chướng ngại. Mỗi vị thiên tử chẳng thấy tòa khác, mỗi vị đều nghĩ rằng: “Chỉ có một mình tôi vì Phật trải tòa sư tử, Phật sẽ ngồi trên tòa của tôi mà nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội”.
Lúc Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương trải tòa xong, mỗi vị đều bạch Phật:
- Cúi xin đức Như Lai ngồi trên tòa của con nói Thủ-lăng-nghiêm tam- muội.
Tức thì đức Thế Tôn hiện sức thần lớn ngồi khắp trên tám muôn bốn nghìn ức na-do-tha tòa sư tử. Chư thiên, mỗi vị đều thấy Phật ngồi trên tòa của mình mà chẳng thấy tòa khác. Có một vị Đế Thích nói với vị Đế Thích khác: “Ông xem đức Như Lai ngồi trên tòa của tôi”. Cũng vậy, các vị Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương đều nói với nhau rằng: “Ông xem đức Như Lai ngồi trên tòa của tôi”. Có một vị Đế Thích nói: “Đức Như Lai hôm nay chỉ ngồi trên tòa của tôi, chẳng ngồi tòa của các ông”.
Bấy giờ, đức Như Lai biết túc duyên của các Thiên, Phạm, Hộ Thế thiên vương đáng độ, lại muốn hiện chút ít thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, cũng vì thành tựu hạnh Đại thừa nên khiến các chúng hội đều thấy Như Lai ngồi khắp hết tám muôn bốn nghìn ức na-do-tha tòa sư tử báu. Tất cả đại chúng đều rất vui mừng được điều chưa từng có, mỗi người đều từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay lễ Phật và nói: “Lành thay! Thế Tôn oai thần vô lượng khiến các thiên tử đều mãn sở nguyện”. Các vị thiên tử trải tòa dâng cúng Như Lai, thấy thần lực của Phật, đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác và bạch Phật rằng:
- Thế Tôn! Chúng con vì muốn cúng dường Như Lai để diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh, gìn giữ chính pháp, chẳng đoạn dứt dòng giống Phật, thế nên đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, nguyện cho chúng con ở đời vị lai trụ sức oai thần như vậy của Phật, như sự biến hiện của đức Như Lai đã làm hôm nay.
Bấy giờ, Phật khen các thiên tử:
- Lành thay, lành thay! Như lời ông nói, vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh nên các ông phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ấy là đệ nhất cúng dường Như Lai.
Lúc ấy, trong chúng Phạm thiên có một vị Phạm vương tên là Đẳng Hạnh bạch Phật:
- Thế Tôn! Đức Như Lai nào là thật? Vị ngồi trên tòa con là thật hay ngồi trên tòa khác là thật?
Phật bảo Đẳng Hạnh:
- Tất cả các pháp đều không, như huyễn, từ hòa hợp có, không có tác giả, đều từ ức tưởng phân biệt mà khởi, không có chủ cho nên tùy ý mà xuất hiện. Các đức Như Lai ấy đều thật. Tại sao đều thật? Các đức Như Lai ấy vốn tự chẳng sinh thế nên thật. Các đức Như Lai ấy hiện tại và về sau cũng không diệt thế nên thật. Các đức Như Lai ấy chẳng phải thuộc bốn đại thế nên thật, đều chẳng thuộc về các ấm nhập, giới, thế nên thật. Các đức Như Lai ấy trước giữa và sau bình đẳng không sai biệt thế nên thật.
- Này Phạm vương! Các đức Như Lai ấy bình đẳng không sai biệt. Vì sao? Các đức Như Lai ấy vì sắc Như nên bình đẳng; vì thọ, tưởng, hành, thức Như nên bình đẳng. Thế nên các đức Như Lai bình đẳng. Các đức Như Lai ấy vì đời quá khứ Như nên bình đẳng, vì đời vị lai Như nên bình đẳng, vì đời hiện tại Như nên bình đẳng. Vì pháp như huyễn nên bình đẳng, vì pháp như bóng nên bình đẳng, vì pháp vô sở hữu nên bình đẳng, vì không từ đâu đến cũng không đi về đâu nên bình đẳng. Thế nên Như Lai được gọi là bình đẳng. Như tất cả pháp bình đẳng, các đức Như Lai ấy cũng lại như vậy. Như tất cả chúng sinh bình đẳng, các đức Như Lai ấy cũng lại như vậy. Như tất cả thế giới bình đẳng, các đức Như Lai ấy cũng lại như vậy. Thế nên chư Phật được gọi là bình đẳng.
Này Phạm vương! Vì các đức Như Lai ấy chẳng vượt qua tất cả các pháp Như nên gọi là bình đẳng. Phạm vương nên biết: Như Lai biết hết tất cả các pháp bình đẳng như vậy, thế nên Như Lai đối với tất cả pháp gọi là bình đẳng.
Phạm vương Đẳng Hạnh bạch Phật:
- Chưa từng có vậy! Thế Tôn! Như Lai đắc các pháp bình đẳng này rồi dùng sắc thân vi diệu thị hiện độ chúng sinh.
Phật nói:
- Này Phạm vương! Đó đều do thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội làm ra. Do vì việc này nên Như Lai đắc các pháp bình đẳng này rồi, dùng sắc thân vi diệu thị hiện độ chúng sinh.
Lúc Phật nói pháp này, Phạm vương Đẳng Hạnh và một muôn Phạm thiên ở trong các pháp đắc nhu thuận nhẫn. Bấy giờ, Như Lai thu nhiếp thần lực lại, các đức Phật và tòa đều ẩn mất, tất cả chúng hội chỉ thấy một đức Phật.
Bấy giờ, Phật bảo bồ-tát Kiên Ý:
- Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng phải hàng bồ-tát sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa, lục địa, thất địa, bát địa, cửu địa có thể đắc. Chỉ có bồ-tát sau khi trụ thập địa mới có thể đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Những gì là Thủ-lăng-nghiêm tam-muội?
Tu trị tâm giống như hư không.
Quán sát các tâm chúng sinh hiện tại.
Phân biệt các căn lợi độn của chúng sinh.
Quyết định biết rõ nhân quả của chúng sinh.
Ở trong các nghiệp, biết không có nghiệp báo.
Nhập vào các sở nguyện, nhập vào rồi chẳng quên.
Hiện biết vô lượng các thứ tính.
Thường hay du hý Hoa Âm tam-muội có năng lực chỉ dạy cho chúng sinh Kim Cang tâm tam-muội, tất cả thiền định tự tại tùy ý.
Quán khắp tất cả chỗ đến các đường thọ sinh.
10. Đối với túc mạng trí được không bị chướng ngại.
11. Thiên nhãn không chướng ngại.
12. Đắc lậu tận trí, phi thời chẳng chứng.
13. Đối với sắc, vô sắc, đắc trí đẳng nhập.
14. Thị hiện du hý nơi tất cả sắc.
15. Biết các âm thanh như là tiếng vang.
16. Tùy thuận nhập vào niệm huệ.
17. Hay dùng lời lành làm vui chúng sinh đáng độ.
18. Tùy loại thuyết pháp.
19. Biết thời, phi thời.
20. Hay chuyển các căn cơ.
21. Thuyết pháp chẳng hư luống.
22. Thuận nhập chân đế.
23. Khéo hay nhiếp phục các loại chúng sinh.
24. Có năng lực đầy đủ các ba-la-mật.
25. Oai nghi cử chỉ chưa từng có khác.
26. Phá các ức tưởng phân biệt hư vọng.
27. Chẳng hoại pháp tính, cùng tận bờ mé.
28. Đồng thời hiện thân ở chỗ tất cả Phật.
29. Hay hộ trì pháp của tất cả Phật thuyết.
30. Tự tại biến hiện thân khắp trong thế gian giống như bóng hiện.
31. Khéo hay nói các thừa độ thoát chúng sinh.
32. Thường hay hộ trì tam bảo chẳng dứt, hay ở hiện đời phát tâm đại trang nghiêm tận đến vị lai mà tâm chưa từng chán nản.
33. Tùy thời chẳng ngừng thường hiện thân sinh ra khắp tất cả chỗ.
34. Ở các chỗ sinh thị hiện có sở tác.
35. Khéo hay thành tựu tất cả chúng sinh.
36. Khéo hay biết rõ tất cả chúng sinh.
37. Tất cả Nhị thừa chẳng thể đo lường.
38. Khéo hay biết đủ các thứ âm thanh.
39. Hay khiến tất cả các pháp xí thạnh.
40. Hay khiến một kiếp thành a-tăng-kỳ kiếp.
41. A-tăng-kỳ kiếp làm thành một kiếp.
42. Hay khiến một cõi nước nhập vào a-tăng-kỳ cõi nước.
43. A-tăng-kỳ cõi nước nhập vào một cõi nước.
44. Vô lượng cõi Phật nhập vào một lỗ chân lông.
45. Tất cả chúng sinh thị hiện nhập vào một thân.
46. Rõ biết các cõi Phật đồng như hư không.
47. Thân hay đến khắp hết thảy cõi Phật.
48. Khiến tất cả thân nhập vào pháp tính, đều khiến không có thân.
49. Tất cả pháp tính thông đạt vô tướng.
50. Khéo hay rõ biết tất cả phương tiện.
51. Một lời nói ra đều hay thông đạt tất cả pháp tính.
52. Diễn nói một câu hay đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.
53. Khéo quán tất cả pháp môn sai biệt.
54. Khéo biết sự thuyết pháp đồng, khác, rộng, hẹp.
55. Khéo biết vượt qua tất cả ma đạo.
56. Phóng ánh sáng trí huệ phương tiện lớn.
57. Thân, miệng, ý nghiệp, lấy trí huệ làm đầu.
58. Thần thông vô hành thường hiện tiền.
59. Dùng bốn trí vô ngại hay khiến tất cả chúng sinh hoan hỷ.
60. Hiện sức thần thông thông tất cả pháp tính.
61. Hay dùng nhiếp pháp nhiếp khắp chúng sinh.
62. Hiểu ngữ ngôn của chúng sinh trong các thế gian.
63. Không có nghi ngờ đối với pháp như huyễn.
64. Tất cả chỗ sinh đều hay tự tại.
65. Các vật cần dùng tùy ý không thiếu.
66. Tự tại thị hiện tất cả chúng sinh.
67. Đối với người thiện, kẻ ác đều đồng là phước điền.
68. Được nhập vào tất cả pháp sâu kín của bồ-tát.
69. Thường phóng ánh sáng soi khắp các thế giới.
70. Trí sâu xa không ai có thể lường.
71. Tâm giống như đất, nước, lửa, gió.
72. Khéo đối với các pháp chương cú, ngôn từ mà chuyển pháp luân.
73. Đối với Như Lai địa không bị chướng ngại.
74. Tự nhiên mà đắc vô sinh pháp nhẫn.
75. Được tâm như thật, các cấu phiền não chẳng thể làm nhơ.
76. Khiến tất cả nước nhập vào lỗ chân lông, mà chẳng quấy nhiễu tính nước.
77. Tu tập vô lượng phước đức thiện căn.
78. Khéo biết tất cả phương tiện hồi hướng.
79. Khéo hay biến hóa làm khắp tất cả các hạnh bồ-tát.
80. Tất cả pháp Phật, tâm được an ổn.
81. Đã được lìa bỏ bản thân của túc nghiệp.
82. Hay nhập vào tạng bí mật của chư Phật.
83. Thị hiện tự tại du hý các dục.
84. Nghe vô lượng pháp mà đều có khả năng thọ trì đầy đủ.
85. Cầu tất cả pháp, tâm không biết chán, không biết đủ.
86. Thuận các thế pháp, tâm không biết chán, không biết đủ.
87. Trong vô lượng kiếp vì người thuyết pháp nhưng khiến cho họ thấy là trong thời gian rất ngắn như từ sáng sớm đến bữa ăn.
88. Thị hiện các thứ khuyết tật như què chân, điếc, đui, câm, ngọng để hóa độ chúng sinh.
89. Trăm nghìn lực sĩ Kim Cang Mật Tích thường theo bảo hộ.
90. Tự nhiên hay xét biết các Phật đạo.
91. Có thể ở trong một niệm thị hiện tuổi thọ vô lượng vô số kiếp.
92. Thị hiện thực hành tất cả pháp nghi Nhị thừa mà bên trong chẳng bỏ các hạnh Bồ-tát.
93. Tâm khéo tịch tịnh, không, không có tướng.
94. Thị hiện tự vui chơi theo các thứ kỹ nhạc mà bên trong chẳng bỏ niệm Phật tam-muội.
95. Hoặc thấy, hoặc nghe và tiếp xúc, ở chung đều hay thành tựu vô lượng chúng sinh.
96. Có thể ở trong mỗi niệm thị hiện thành Phật đạo, tùy theo chỗ giáo hóa khiến chúng sinh đều được giải thoát.
97. Thị hiện nhập vào thai sơ sinh.
98. Xuất gia thành tựu Phật đạo.
99. Chuyển pháp luân.
Nhập đại diệt độ mà chẳng diệt hẳn.
Này Kiên Ý! Thủ-lăng-nghiêm tam-muội như vậy vô lượng đều hay thị hiện tất cả thần lực của Phật, và khiến vô lượng chúng sinh đều được lợi ích.
Này Kiên Ý! Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, chẳng dùng một sự, một duyên, một nghĩa có thể biết. Tất cả thiền định giải thoát tam-muội, thần thông như ý, vô ngại trí huệ đều gồm ở trong Thủ-lăng-nghiêm. Ví như sông ngòi khe suối, các dòng nước đều chảy về biển cả, cũng vậy thiền định của bồ-tát đều ở tại Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Ví như Chuyển luân thánh vương có viên đại dũng tướng, bốn đội binh đều dưới quyền chỉ huy của viên tướng ấy. Cũng vậy, các pháp môn như là tam-muội, thiền định, biện tài, giải thoát, đà-ra-ni, thần thông, minh giải thoát thảy đều gồm trong Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bồ-tát hành Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì tất cả tam-muội đều theo.
Này Kiên Ý! Ví như lúc Chuyển luân thánh vương đi thì bảy báu đều theo. Cũng vậy tất cả các pháp trợ bồ-đề đều theo Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thế nên tam-muội này gọi là Thủ-lăng-nghiêm.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng vì cầu tiền của mà bố thí. Các vật báu, thức uống ăn, y phục, voi ngựa xe cộ trong đại thiên thế giới, và các biển lớn, thiên cung nhân gian, các vật như thế Bồ-tát đều bố thí một cách tự tại. Đây là do bản công đức làm ra, huống là dùng thần lực tùy ý làm ra. Đây gọi là bản sự quả báo bố thí ba-la-mật của bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng còn thọ giới, chẳng động đối với giới, nhưng vì muốn hóa đạo các chúng sinh nên thị hiện thọ trì giới hạnh và các oai nghi. Thị hiện diệt trừ tội lỗi đã phạm mà bên trong thường chẳng thiếu mất sự thanh tịnh. Vì muốn giáo hóa chúng sinh nên sinh trong Dục giới làm Chuyển luân vương có các thể nữ cung kính vây quanh, thị hiện có vợ con và vui chơi ngũ dục mà bên trong thường ở tại thiền định tịnh giới, và khéo hay thấy rõ tội lỗi của ba cõi. Này Kiên Ý! Đây gọi là bổn sự quả báo trì giới ba-la-mật của bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội tu hành nhẫn nhục, vì đến chỗ rốt ráo chúng sinh chẳng sinh mà tu nhẫn nhục, các pháp chẳng khởi mà tu nhẫn nhục, tâm không hình sắc mà tu nhẫn nhục, chẳng có bỉ ngã mà tu nhẫn nhục, chẳng niệm sinh tử mà tu nhẫn nhục, dùng tính Niết-bàn mà tu nhẫn nhục, chẳng hoại pháp tính mà tu nhẫn nhục. Bồ-tát tu hành nhẫn nhục như vậy mà không hề tu, cũng không chẳng tu, vì hóa độ chúng sinh mà sinh vào Dục giới thị hiện có sân hận, nhưng bên trong thanh tịnh; thị hiện thực hành hạnh viễn ly mà không có xa gần, vì làm thanh tịnh chúng sinh, phá hoại oai nghi thế gian mà chưa từng phá hoại tính của các pháp; thị hiện có sở nhẫn mà không có pháp, thường định chẳng hoại cái đáng nhẫn. Bồ-tát thành tựu nhẫn nhục như thế, vì dứt tâm ác độc nhiều giận hờn của chúng sinh mà thường ngợi khen về phước của nhẫn nhục, nhưng cũng chẳng thấy có sân khuể và nhẫn nhục. Này Kiên Ý! Đây gọi là bổn sự quả báo nhẫn nhục ba-la-mật của bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát Thủ-lăng-nghiêm tam-muội phát đại tinh tấn, được các pháp lành mà chẳng phát động nghiệp của thân, miệng, ý, vì người lười biếng mà thị hiện thực hành tinh tấn muốn chúng sinh bắt chước ngài học hạnh đối với các pháp không phát động không lãnh thọ. Tại sao như thế? Bồ-tát biết hết tất cả các pháp thường trụ pháp tính chẳng đến chẳng đi, như vậy xa lìa hạnh của thân, miệng, ý mà hay thị hiện thực hành tinh tấn mà cũng chẳng thấy pháp có thành tựu. Thị hiện ở thế gian thực hành tinh tấn mà cả trong ngoài đều không có hề làm. Thường hay qua lại trong vô lượng cõi Phật mà nơi thân tướng bình đẳng chẳng động. Thị hiện thực hành tất cả pháp thiện mà đối với pháp chẳng chấp thiện, ác. Thị hiện cầu pháp có chỗ lãnh thọ mà đối với Phật đạo chẳng theo lời người khác dạy. Thị hiện thân cận các vị hòa thượng mà thật ra là đấng tôn quý trong tất cả trời, người. Thị hiện siêng năng thưa hỏi mà bên trong tự được biện tài vô chướng ngại. Thị hiện làm hạnh cung kính mà thực ra là bậc đã được tất cả trời người kính ngưỡng. Thị hiện nhập vào bào thai mà đối với các pháp không bị nhiễm ô. Thị hiện có sinh ra mà đối với các pháp chẳng thấy sinh diệt. Thị hiện làm trẻ con mà các giác quan trên thân thảy đều đầy đủ. Thị hiện làm các việc kỹ thuật, y dược, chú thuật, văn chương, toán số, công xảo mà bên trong đều đã thông đạt trước. Thị hiện có bệnh khổ mà đã hằng lìa các họa phiền não. Thị hiện suy già mà từ trước đến nay các căn chẳng hoại. Thị hiện có chết mà chưa từng có sinh diệt thoái thất. Này Kiên Ý! Đây gọi là bổn sự quả báo tinh tấn ba-la-mật của bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội tuy biết các pháp thường là tướng định mà thị hiện cho chúng sinh các thiền định sai khác. Thị hiện thân trụ thiền định hóa độ kẻ loạn tâm mà đối với các pháp chẳng thấy có loạn. Tất cả các pháp như tướng pháp tính, vì điều phục tâm nên nơi thiền chẳng động. Thị hiện các oai nghi đến đi ngồi nằm mà thường tịch nhiên trụ nơi thiền định. Thị hiện đồng chúng sinh có nói năng mà thường chẳng bỏ các tướng thiền định. Vì thương xót chúng sinh nên vào trong thành ấp xóm làng, quận nước mà thường tại định. Vì muốn lợi ích chúng sinh nên thị hiện có thọ thực mà thường tại định. Thân của các ngài bền chắc như kim cương, bên trong thật chẳng hư, chẳng thể phá hoại, bên trong không có sinh tạng, thục tạng, đại tiểu tiện lợi hôi hám bất tịnh, thị hiện có thọ thực mà không có ăn vào. Chỉ vì thương xót lợi ích chúng sinh mà ở tất cả chỗ không có lỗi lầm, thị hiện làm tất cả hạnh phàm phu mà thật không có làm các hạnh đã qua.
Này Kiên Ý! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thị hiện ở chỗ vắng vẻ cùng chỗ xóm làng đông đúc không khác. Thị hiện tại gia, xuất gia không khác. Thị hiện làm bạch y mà chẳng buông lung. Thị hiện làm sa-môn mà chẳng tự cao. Xuất gia ở trong pháp ngoại đạo để giáo hóa chúng sinh mà không hề có xuất gia, chẳng bị tất cả tà kiến làm nhiễm, cũng chẳng ở trong đó cho là được thanh tịnh. Thị hiện làm tất cả pháp thức ngoại đạo mà chẳng tùy thuận theo đạo của họ hành.
Này Kiên Ý! Ví như ông thầy dẫn đường đưa mọi người qua con đường hiểm rồi, quay trở lại đưa những người khác. Cũng vậy, này Kiên Ý! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội tùy theo sự phát tâm của chúng sinh hoặc Thanh văn đạo, hoặc Bích-chi-phật đạo, hoặc Phật đạo mà tùy nghi hướng dẫn khiến cho họ được độ rồi, liền trở lại độ các chúng sinh khác. Thế nên Đại sĩ được gọi là ông thầy dẫn đường.
Ví như chiếc thuyền chắc chắn đưa vô lượng người từ bờ này đến bờ kia, đến bờ kia rồi trở lại đưa những người khác. Này Kiên Ý! Cũng vậy bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thấy các chúng sinh bị bốn dòng nước sinh tử cuốn trôi, vì muốn độ thoát họ ra khỏi nên tùy theo thiện căn thuần thục của họ đã vun trồng, nếu thấy người đáng dùng đạo Duyên giác độ liền hiện thân chỉ dạy đạo Niết-bàn. Nếu thấy người đáng dùng đạo Thanh văn độ, liền vì họ nói tịch diệt cùng nhập Niết-bàn, rồi nhờ sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội trở lại thị hiện sinh ra độ thoát người khác. Thế nên Đại sĩ được gọi là người lái đò.
Này Kiên Ý! Ví như nhà ảo thuật ở trước mọi người hiện thân chết sình hôi thúi, hoặc bị lửa thiêu, hoặc bị chim thú ăn. Ở trước mọi người hiện thân như vậy được tiền thưởng, quà tặng rồi, người ấy bèn sống lại, đó là do vì người ấy khéo học về ảo thuật. Cũng vậy, bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vì hóa độ chúng sinh thị hiện già chết mà thật không có sinh già bệnh chết. Này Kiên Ý! Đây gọi là bổn sự quả báo thiền ba-la-mật của bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội tu hành trí huệ, các căn bén nhạy chưa từng thấy có tính của chúng sinh, vì muốn hóa độ nên nói có chúng sinh. Chẳng thấy thọ giả, mạng giả mà nói có thọ giả, mạng giả. Chẳng thấy nghiệp tính và nghiệp báo tính mà thị hiện chúng sinh có nghiệp báo. Chẳng thấy các phiền não sinh tử mà nói phải thấy biết phiền não sinh tử. Chẳng thấy Niết-bàn mà nói đến Niết-bàn. Chẳng thấy các pháp có tướng sai biệt mà nói các pháp có thiện, bất thiện. Đã qua đến bờ vô ngại trí, thị hiện sinh vào Dục giới mà chẳng đắm Dục giới. Thị hiện hành thiền Sắc giới mà chẳng đắm Sắc giới. Thị hiện nhập Vô sắc định mà sinh nơi Sắc giới. Thị hiện hành thiền Sắc giới mà sinh nơi Dục giới. Thị hiện ở Dục giới mà chẳng làm hạnh Dục giới. Biết hết các thiền và biết thiền phần, tự tại đều hay nhập thiền, xuất thiền. Vì hóa độ chúng sinh nên tùy ý thọ sinh, tất cả chỗ sinh đều hay thọ thân thường thành tựu trí huệ sâu mầu dứt trừ tất cả các hạnh chúng sinh. Vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện có sở hành mà đối với các pháp thật không có sở hành, đều đã vượt qua tất cả các hành. Từ lâu rồi đã diệt trừ tâm ngã, ngã sở mà thị hiện thọ nhận các vật cần dùng. Bồ-tát thành tựu trí huệ như thế có làm việc gì thảy đều thuận theo trí huệ, mà chưa từng bị nghiệp quả làm ô nhiễm. Vì hóa độ chúng sinh, thị hiện câm ngọng mà bên trong thật có phạn âm vi diệu, thông suốt ngữ ngôn, kinh sách, toán số, chẳng cần phải suy nghĩ trước phải nói pháp gì mà tùy theo trình độ của chúng mà nói pháp đều hay, khiến cho họ vui vẻ tâm được kiên cố. Tùy theo người đáng được độ mà nói pháp, nhưng Bồ-tát này trí huệ chẳng giảm bớt. Này Kiên Ý! Ví như nam nữ hoặc lớn hoặc nhỏ mang bình đến chỗ có nước như suối, ao, sông ngòi, biển cả tùy theo cái bình lớn nhỏ đều đựng đầy nước mang về, mà nước trong suối, ao, sông ngòi, biển cả không bị giảm bớt. Này Kiên Ý! Cũng vậy, bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội tùy theo chúng đến nghe pháp hoặc chúng sát-lợi, chúng bà-la-môn, hoặc chúng cư sĩ, chúng Thích, chúng Phạm, Bồ-tát này chẳng cần cố gắng tâm lực mà vẫn khéo nói khiến cho các chúng đến nghe pháp đều vui vẻ, tùy theo người đáng được độ mà nói pháp, nhưng trí huệ biện tài của Bồ-tát vẫn không giảm bớt. Này Kiên Ý! Đây gọi là bổn sự quả báo bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật bảo Kiên Ý:
- Chúng sinh nào thấy Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì đều được giải thoát, hoặc có người nghe danh hiệu của ngài, hoặc có người thấy oai nghi của ngài, hoặc có người nghe ngài thuyết pháp, hoặc có người thấy ngài im lặng thảy đều được độ. Này Kiên Ý! Ví như người nào thấy cây thuốc chúa tên là Hỷ Kiến thì bệnh đều được lành. Này Kiên Ý! Cũng vậy, chúng sinh thấy Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì các bệnh tham, sân, si đều được dứt hết. Như cây thuốc chúa tên là Diệt Trừ, nếu khi đấu chiến, dùng thuốc ấy bôi vào trống, những người bị tên bắn, đao kiếm, giáo mâu làm tổn thương được nghe tiếng trống này tên tự văng ra và các độc đều trừ. Này Kiên Ý! Cũng vậy, người nào nghe đến tên của Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thì mũi tên tham sân si tự nhiên văng ra, các độc tà kiến thảy đều trừ diệt, tất cả phiền não chẳng còn động phát.
Này Kiên Ý! Ví như cây thuốc tên là Cụ Túc, có người dùng rễ để trị bệnh thì bệnh được lành, thân, lóng lõi, da, nhánh, lá, bông, trái đều có thể trị lành bệnh. Hoặc tươi hoặc khô hoặc chặt từng khúc đều trị lành các bệnh của chúng sinh. Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cũng lại như vậy đối với chúng sinh không có lúc nào chẳng lợi ích, thường hay diệt trừ tất cả các bệnh, nghĩa là dùng thuyết pháp và thực hành cả tứ nhiếp, các ba-la-mật để độ thoát chúng sinh. Đối với người cúng dường, hoặc chẳng cúng dường, hữu ích, hay vô ích, bồ-tát này đều dùng pháp lợi khiến cho đều được an ổn, nhẫn đến thân ngài chết, có chúng sinh nào như là các súc sinh hai chân, bốn chân và các loài chim thú, người, phi nhân ăn thịt ngài thì các chúng sinh này đều nhờ nguyện lực của giới bồ-tát mà chết được sinh lên Trời, thường không có các nạn bệnh tật, suy não. Này Kiên Ý! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội giống như cây thuốc.
Phật bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì đủ sáu ba-la-mật đời đời tự biết chẳng học từ người khác, dỡ chân hạ chân, hít vô thở ra, mỗi niệm thường có sáu ba-la-mật. Vì sao? Này Kiên Ý! Vì thân và hạnh của bồ-tát này đều là pháp. Này Kiên Ý! Ví như có vua hoặc các đại thần lấy trăm nghìn thứ hương trộn chung tán ra thành bột. Nếu có người đến đòi trong đó một thứ mà chẳng muốn các thứ hương trộn lẫn khác. Này Kiên Ý! Trong bột của trăm nghìn thứ hương kia, có thể nào lấy ra một thứ hương không có lẫn với hương khác được chăng?
- Bạch Thế Tôn! Không.
- Này Kiên Ý! Bồ-tát ấy vì dùng tất cả ba-la-mật xông ướp thân tâm nên ở trong mỗi niệm thường sinh ba-la-mật. Này Kiên Ý! Thế nào là ở trong mỗi niệm sinh sáu ba-la-mật?
Này Kiên Ý! Bồ-tát ấy tất cả đều xả bỏ, tâm không tham đắm là bố thí ba-la-mật; tâm thiện tịch diệt rốt ráo không ác là trì giới ba-la-mật; biết tâm hết tướng, ở trong các trần không bị tổn thương là nhẫn nhục ba-la-mật; siêng năng quán tâm biết tâm lìa tướng là tinh tấn ba-la-mật; rốt ráo thiện tịch điều phục tâm mình là thiền ba-la-mật; quán tâm, biết tâm, thông đạt tâm tướng là bát-nhã ba-la-mật. Này Kiên Ý! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, pháp môn như vậy mỗi niệm đều có sáu ba-la-mật.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Chưa từng có! Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thành tựu Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì việc làm của vị ấy chẳng thể nghĩ bàn. Thế Tôn! Nếu các bồ-tát muốn thực hành hạnh Phật phải học Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bồ-tát thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà trong tâm các ngài không có tham, sân, si.
Khi ấy, trong chúng có vị Phạm vương tên Thành Từ bạch Phật:
- Thế Tôn! Nếu Bồ-tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Vì sao? Vì bồ-tát ấy thị hiện làm tất cả các hạnh phàm phu mà không có tham, sân, si.
Phật nói:
- Lành thay! Lành thay! Thành Từ. Đúng như lời ông nói: Nếu Bồ-tát muốn làm tất cả các hạnh phàm phu thì phải học Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, chẳng nghĩ đến tất cả các việc học nào khác.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Bồ-tát muốn học Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì phải học như thế nào?
Phật bảo Kiên Ý:
- Ví như học bắn, trước phải học bắn vào mục tiêu lớn. Bắn trúng mục tiêu lớn rồi, học bắn vào mục tiêu nhỏ. Học bắn vào mục tiêu nhỏ rồi, học bắn vào đích. Học bắn vào đích rồi học bắn vào đầu gậy. Học bắn vào đầu gậy rồi học bắn vào trăm sợi lông. Học bắn vào trăm sợi lông rồi học bắn vào mười sợi lông. Học bắn vào mười sợi lông rồi học bắn vào một sợi lông. Học bắn vào một sợi lông rồi học bắn vào một phần trăm sợi lông. Bắn được như vậy rồi mới gọi là bắn giỏi, tùy ý bắn chẳng sai. Người này hoặc trong đêm tối nghe tiếng của người hay phi nhân, chẳng cần dụng tâm lực mà bắn vẫn đều trúng. Này Kiên Ý! Cũng vậy, bồ-tát muốn học Thủ-lăng-nghiêm tam-muội trước hết phải học ái nhạo tâm; học ái nhạo tâm rồi phải học thâm tâm; học thâm tâm rồi phải học đại từ; học đại từ rồi phải học đại bi; học đại bi rồi phải học phạm hạnh của tứ thánh, đó là từ, bi, hỷ, xả; học phạm hạnh của tứ thánh rồi phải học quả báo được ngũ thông tối thượng thường tự tùy thân. Học ngũ thông rồi, lúc ấy mới có thể thành tựu sáu ba-la-mật; thành tựu sáu ba-la-mật rồi mới có thể thông đạt phương tiện; thông đạt phương tiện rồi được trụ đệ tam Nhu thuận nhẫn, trụ Nhu thuận nhẫn rồi thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, đắc Vô sinh pháp nhẫn rồi thì được chư Phật thọ ký, chư Phật thọ ký rồi thì có thể nhập bồ-tát đệ bát địa; nhập bồ-tát đệ bát địa rồi thì đắc chư Phật hiện tiền tam-muội, đắc chư Phật hiện tiền tam-muội rồi thì thường chẳng lìa thấy chư Phật; thường chẳng lìa thấy chư Phật rồi thì hay đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp; đầy đủ tất cả nhân duyên Phật pháp rồi thì hay khởi công đức trang nghiêm cõi Phật, khởi công đức trang nghiêm cõi Phật rồi thì hay đủ điều kiện sinh vào dòng dõi nhà vua; đủ điều kiện sinh vào dòng dõi nhà vua rồi thì nhập thai sinh ra; nhập thai sinh ra rồi thì có thể đủ Thập địa, đủ Thập địa rồi thì lúc ấy mới nhận chức hiệu Phật; nhận chức hiệu Phật rồi thì đắc tất cả tam-muội của bồ-tát, đắc tất cả tam-muội của bồ-tát rồi thì sau đó mới đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội rồi thì có thể vì chúng sinh làm các Phật sự mà cũng chẳng bỏ pháp hạnh Bồ-tát. Này Kiên Ý! Bồ-tát nếu học các pháp như vậy ắt đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, bồ-tát đã đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì đối với các pháp không còn gì để học. Vì sao? Vì trước đã khéo học tất cả pháp. Ví như học bắn, có thể bắn vào một phần trăm sợi lông rồi thì chẳng còn học nữa. Tại sao như vậy? Vì trước đã học rồi. Này Kiên Ý! Cũng vậy, bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì đối với tất cả pháp không còn gì để học.
Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Con nay muốn nói thí dụ, xin Phật cho phép con nói.
- Hãy nói!
- Thế Tôn! Ví như Đại Phạm thiên vương ở trong tam thiên đại thiên thế giới tự nhiên có thể thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới mà chẳng gia công dụng lực. Cũng vậy, bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đối với tất cả pháp tự nhiên thấy hết mà chẳng gia công dụng lực, lại cũng có thể biết tâm, tâm sở hành của tất cả chúng sinh.
Phật bảo Kiên Ý:
- Đúng như lời ông nói. Nếu bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì biết hết tất cả các pháp bồ-tát và tất cả các pháp Phật.
Bấy giờ, trong hội có vị trời Đế Thích tên Trì Tu-di Sơn ở mé ngoài cùng của tam thiên đại thiên thế giới này bạch Phật:
- Ví như người ở trên đảnh núi Tu-di có thể thấy hết tất cả thiên hạ. Cũng vậy, bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì tự nhiên có thể thấy hết các hạnh Thanh văn, Bích-chi-phật và các hạnh của tất cả chúng sinh.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý hỏi Đế Thích Trì Tu-di Sơn.
- Ông từ bốn châu thiên hạ nào lại? Trụ trên đảnh núi Tu-di nào?
Vị Đế Thích này đáp:
- Này Thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, chẳng nên hỏi trụ xứ của vị ấy. Vì sao? Vì tất cả cõi Phật đều là trụ xứ của Bồ-tát này, mà chẳng chấp trụ xứ, chẳng đắc trụ xứ, chẳng thấy trụ xứ.
Kiên Ý hỏi:
- Ngài đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?
- Trong tam-muội này còn có tướng đắc và chẳng đắc chăng?
- Không!
- Này Thiện nam tử! Phải biết bồ-tát hành tam-muội này ở trong các pháp đều vô sở đắc.
- Như lời ông nói, ắt ông đã đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
- Này thiện nam tử! Tôi chẳng thấy pháp có trụ xứ, người đối với tất cả pháp không có sở trụ mới đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Thiện nam tử! Trụ tam-muội này ắt đối với các pháp đều vô sở trụ. Nếu vô sở trụ thì vô sở thủ, nếu vô sở thủ thì vô sở thuyết.
Bấy giờ, Phật bảo bồ-tát Kiên Ý:
- Ông thấy Đế Thích Trì Tu-di Sơn này chăng?
- Bạch Thế Tôn! Đã thấy.
- Này Kiên Ý! Vị Đế Thích này tự nhiên tùy ý có thể đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, trụ tam-muội này thì có thể hiện thân nơi các cung trời Đế Thích khắp tam thiên đại thiên thế giới này.
Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Thế Tôn! Nếu Đế Thích Trì Tu-di Sơn hiện thân nơi các cung trời Đế Thích, tại sao con ở chỗ của tất cả Đế Thích mà chẳng thấy?
Bấy giờ, Đế Thích Trì Tu-di Sơn nói:
- Này Kiều-thi-ca! Nếu tôi nay dùng thần lực để hiện cho ông thấy thì ông ở cung điện chẳng còn vui vẻ. Tôi thường đến chỗ cung điện của ông ở mà ông chẳng thấy tôi.
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Thế Tôn! Con muốn thấy Đại sĩ này thành tựu sắc thân vi diệu.
Phật nói:
- Này Kiều-thi-ca! Ông muốn thấy ư?
- Bạch Thế Tôn! Con thích muốn thấy.
Phật bảo Đế Thích Trì Tu-di Sơn:
- Ông hãy hiện cho Thích-đề-hoàn nhân thấy sắc thân vi diệu chân thật đi.
Vị Đế Thích ấy liền hiện thân vi diệu chân thật. Bấy giờ trong hội, các Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương, Thanh văn, Bồ-tát, người chẳng đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thân đều chẳng hiện giống như đống mực; còn thân của Đế Thích Trì Tu-di Sơn như chúa Tu-di cao lớn vòi vọi ánh sáng chiếu xa. Lúc ấy, thân Phật lại càng rực rỡ gấp bội.
Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Chưa từng có! Bạch Thế Tôn! Hôm nay sắc thân Đại sĩ này thanh tịnh vi diệu khó sánh, các Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương thân đều chẳng hiện giống như đống mực. Thế Tôn! Con ở trong Thượng Diệu Đường trên núi Tu-di đeo chuỗi báu Thích-ca Tỳ-lăng-già ma-ni, vì ánh sáng của châu này làm cho tất cả thân của Thiên chúng đều chẳng hiện. Nay con bị ánh sáng của Đại sĩ này làm cho thân con chẳng hiện, chuỗi báu con đeo cũng không còn ánh sáng.
Phật bảo Thích-đề-hoàn-nhân:
- Này Kiều-thi-ca! Nếu châu Thích-ca Tỳ-lăng-già ma-ni đầy trong tam thiên đại thiên thế giới này, lại có hạt châu tên Chiếu Minh Chư Thiên ma-ni hay khiến cho ngọc châu kia đều chẳng còn hiện. Này Kiều-thi-ca! Nếu châu Chiếu Minh Chư Thiên ma-ni đầy trong tam thiên đại thiên thế giới này, lại có châu tên Kim Cang Minh ma-ni hay khiến cho châu kia đều chẳng còn hiện. Này Kiều-thi-ca! Nếu châu Kim Cang Minh ma-ni đầy trong tam thiên đại thiên thế giới này, lại có châu tên Chư Minh Tập ma-ni hay khiến cho châu kia đều chẳng còn hiện. Này Kiều-thi-ca! Ông thấy vị Đế Thích này đeo châu Chư Minh Tập ma-ni chăng?
- Bạch Thế Tôn! Đã thấy. Chỉ vì châu này ánh sáng mạnh mẽ, mắt con chẳng chịu nổi.
Phật bảo Kiều-thi-ca:
- Nếu có Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hoặc thị hiện làm Đế Thích đều đeo chuỗi báu ma-ni này.
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:
- Thế Tôn! Những người chẳng phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác chẳng được sắc thân thanh tịnh vi diệu như vậy và cũng mất Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Lúc ấy, Thiên tử Cù-vức nói với Thích-đề-hoàn-nhân:
- Các vị Thanh văn đã vào pháp vị, tuy có ngợi khen và ưa thích Phật đạo nhưng không có khả năng làm, vì đã làm sự ngăn cách đối với sinh tử. Nếu người đã phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, hoặc đang phát, sẽ phát, người này ắt ưa thích Phật đạo và có thể được sắc thân vi diệu bậc thượng như thế. Ví như có người mù từ lúc sơ sinh tuy có ngợi khen và ưa thích mặt trời, mặt trăng nhưng người ấy chẳng thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Cũng vậy, hàng Thanh văn nhập vào pháp vị tuy có ngợi khen và ưa thích Phật pháp, mà công đức Phật đối với tự thân các ngài vô ích. Thế nên người muốn được sắc thân vi diệu có trí huệ lớn này phải phát tâm Vô thượng bồ-đề mới được sắc thân vi diệu bậc thượng.
Lúc thiên tử Cù-vức nói lời này, có một muôn hai nghìn thiên tử phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý hỏi thiên tử Cù-vức:
- Làm công đức gì để chuyển thân người nữ?
- Này thiện nam tử! Người phát tâm Đại thừa chẳng thấy nam nữ có sự sai khác. Vì sao? Tâm tát-bà-nhã chẳng ở ba cõi, vì có phân biệt nên có nam có nữ. Ngài hỏi làm công đức gì để chuyển thân người nữ? Xưa phụng thờ bồ-tát, tâm không dua dối.
- Phụng thờ như thế nào?
- Như phụng thờ Thế Tôn.
- Thế nào là tâm chẳng dua dối?
- Thân nghiệp theo khẩu, khẩu nghiệp theo ý, đó gọi là người nữ tâm không dua dối.
- Làm sao chuyển thân người nữ?
- Như thành.
- Thế nào là như thành?
- Như chuyển.
- Thưa thiên tử! Lời này có ý nghĩa gì?
- Này thiện nam tử! Tất cả các pháp chẳng thành chẳng chuyển, các pháp một vị, đó là vị pháp tính. Này thiện nam tử! Tôi theo sở nguyện mà có thân người nữ, giả sử thân tôi được thành người nam, nhưng đối với tướng thân nữ chẳng hoại chẳng bỏ. Này thiện nam tử! Vì thế nên biết là nam, là nữ đều là điên đảo, tất cả các pháp và cả điên đảo nữa thảy đều rốt ráo lìa nơi hai tướng.
Bồ-tát Kiên Ý hỏi Cù-vức:
- Ngài có biết chút phần về Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chăng?
- Này thiện nam tử! Tôi biết người khác đắc, chứ bản thân tôi tự chẳng chứng. Tôi nhớ lại Phật Thích-ca Mâu-ni lúc làm bồ-tát ở trong ở trong cung điện của vua Tịnh Phạn cùng với các thể nữ, nửa đêm thanh tịnh, bấy giờ các vị Phạm vương ở phương Đông nhiều như số cát sông Hằng đến, có người hỏi về Bồ-tát thừa, có người hỏi về Thanh văn đạo, Bồ-tát đều theo câu hỏi của mỗi người mà giải đáp. Ở trong chúng Phạm vương, có một vị Phạm vương chẳng hiểu phương tiện sở hành của Bồ-tát, mới nói rằng: “Ngài có trí huệ khéo đáp các câu hỏi như thế, tại sao lại tham hưởng thụ vương vị sắc dục”. Các vị Phạm vương khác biết rõ trí huệ phương tiện của Bồ-tát nên đáp Phạm vương ấy rằng: “Bồ-tát chẳng tham vương vị, sắc dục chỉ vì giáo hóa thành tựu chúng sinh nên ở tại cư gia hiện làm bồ-tát, mà nay Ngài mới thành Phật đạo chuyển bánh xe diệu pháp”.
Vị Phạm vương này nghe xong, hỏi:
- Bồ-tát đắc tam-muội gì mà có thể làm thần biến tự tại như thế?
Các Phạm vương kia đáp:
- Đó là thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
- Này thiện nam tử! Tôi (Cù-vức) lúc bấy giờ nghĩ rằng: “Bồ-tát trụ tam-muội thần lực cảm ứng đến chưa từng có, ở tại ái dục chăm lo việc nước mà có thể chẳng lìa tam-muội như thế. Tôi nghe nói điều này càng thêm cung kính, đối với bồ-tát tưởng như Thế Tôn, phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác sâu xa, nguyện vào đời sau cũng sẽ thành tựu công đức như vậy. Này thiện nam tử! Chỗ tôi thấy đó là chút ít phần như vậy, tôi chỉ biết đây là Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, sẽ có vô lượng bất khả tư nghị công đức thế lực.
Kiên Ý bạch Phật:
- Hy hữu! Thế Tôn! Thiên tử Cù-vức này thâm tâm nói điều này đều là do Như Lai làm thiện tri thức thường hay thủ hộ. Bạch Thế Tôn! Thiên tử Cù-vức chẳng bao lâu cũng sẽ trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội được thế lực thần biến tự tại như Thế Tôn hiện nay không khác.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Nay ở trong hội này có người nào đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chăng?
Bấy giờ trong hội có vị thiên tử tên Hiện Ý nói với bồ-tát Kiên Ý:
- Ví như người khách buôn vào trong biển lớn và nói rằng: “Trong biển lớn này có châu ma-ni có thể mang đi chăng?” Lời của ông hỏi cũng giống như vậy. Vì sao? Nay trong hải hội đại trí của Như Lai, trong ấy bồ-tát thành tựu pháp bảo phát đại trang nghiêm, ông ngồi trong đó mà hỏi lời này: “Ở trong hội này có bồ-tát nào đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?”
Này Kiên Ý! Nay trong hội này tự có bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hiện thân Đế Thích; có vị hiện thân Phạm vương; có vị hiện thân chư Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già; có vị đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, có vị đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, dùng các tướng hảo để tự nghiêm thân, tự có bồ-tát vì giáo hóa chúng sinh hiện làm hình sắc tướng mạo người nữ, có vị hiện hình sắc tướng mạo Thanh văn, có vị hiện hình sắc tướng mạo Bích-chi-phật. Này Kiên Ý! Như Lai tự tại tùy theo chúng đến hoặc chúng sát-lợi, chúng bà-la-môn, hoặc chúng cư sĩ, chúng Thích, chúng Phạm, chúng các trời Hộ Thế, tùy theo các chúng này khắp hay thị hiện hình sắc tướng mạo, phải biết đều là bổn sự quả báo của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Này Kiên Ý! Nếu thấy chỗ Như Lai thuyết pháp phải biết trong đó có vô lượng các Đại bồ-tát đại trí tự tại phát đại trang nghiêm tự tại làm tất cả pháp, hay theo Như Lai chuyển bánh xe pháp.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Con nay nghĩ rằng Thiên tử Hiện Ý này đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vì trí huệ biện tài vô ngại thần thông như vậy.
- Này Kiên Ý! Đúng như lời ông nói. Thiên tử Hiện Ý này đã trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thông đạt tam-muội này cho nên có thể nói như thế.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên tử Hiện Ý:
- Ông nên thị hiện chút phần bổn sự của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Thiên tử Hiện Ý nói với Kiên Ý:
- Ngài muốn thấy chút ít thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chăng?
- Thiên tử! Tôi thích muốn thấy.
Thiên tử Hiện Ý vì khéo đắc sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nên liền thể hiện biến hóa khiến chúng hội đều thành Chuyển luân thánh vương có ba mươi hai tướng hảo để tự trang nghiêm, có các quyến thuộc bảy báu theo hầu.
Thiên tử hỏi:
- Ngài thấy những gì?
Kiên Ý đáp:
- Tôi thấy trong chúng hội đều thành sắc tướng Chuyển luân thánh vương có quyến thuộc bảy báu theo hầu.
Bấy giờ, Thiên tử lại hiện chúng hội đều thành Thích-đề-hoàn-nhân ở cung trời Đao-lợi, trăm nghìn thiên nữ trỗi các kỹ nhạc vây quanh vui chơi. Lại dùng thần lực khiến cả chúng hội đều thành sắc tướng oai nghi Phạm vương ở trong cung Phạm vương hành tứ vô lượng tâm.
Lại hỏi Kiên Ý:
- Ngài thấy những gì?
- Thiên tử! Tôi thấy chúng hội đều là Phạm vương.
Lại hiện thần lực khiến cả chúng hôi đều thành hình sắc tướng mạo trưởng lão Ma-ha-ca-diếp đắp y mang bát nhập các thiền định, hành bát-giải thoát đều không có khác.
Lại hiện thần lực khiến cả chúng hội đều là oai nghi tướng hảo như thân Phật Thích-ca Mâu-ni, mỗi vị đều có quyến thuộc tỳ-kheo vây quanh.
Lại hỏi:
- Này Kiên Ý! Ngài thấy những gì?
- Thiên tử! Tôi thấy đại chúng đều là oai nghi tướng hảo như Phật Thích-ca Mâu-ni, mỗi vị đều có quyến thuộc tỳ-kheo vây quanh.
Thiên tử Hiện Ý nói với Kiên Ý:
- Đó là thế lực tự tại của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Này Kiên Ý! Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội có thể đem tam thiên đại thiên thế giới để vào trong một hạt cải, khiến núi sông, mặt trời, mặt trăng, các vì sao đều hiện như cũ mà chẳng chật hẹp, để chỉ cho chúng sinh xem. Này Kiên Ý! Thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Bấy giờ, các Đại đệ tử và Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Thích, Phạm, Hộ Thế thiên vương đồng thanh bạch Phật:
- Thế Tôn! Nếu người đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này thì người ấy công đức chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì người ấy ắt rốt ráo Phật đạo, thành tựu trí huệ, thần thông, các minh. Chúng con hôm nay, ở trên một tòa, thấy khắp chúng hội, các thứ sắc tướng biến hiện chúng con nghĩ rằng: “Nếu người chẳng nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, phải biết là người bị ma có cơ hội khuấy nhiễu. Nếu người được nghe, phải biết là người được chư Phật hộ niệm, hà huống nghe rồi, y theo lời dạy tu hành”.
Thế Tôn! Bồ-tát nếu muốn thông đạt Phật pháp đến bờ bên kia, phải nhất tâm lắng nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói.
Thế Tôn! Bồ-tát nếu muốn khắp hiện tất cả hình sắc oai nghi, muốn khắp biết tâm, tâm sở hành của tất cả chúng sinh, và muốn biết khắp tất cả chúng sinh tùy bệnh cho thuốc, phải khéo lắng nghe pháp bảo tam-muội này, thọ trì đọc tụng.
Thế Tôn! Nếu người đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, phải biết người ấy nhập vào cảnh giới Phật trí huệ tự tại.
Phật nói:
- Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông nói. Nếu người chẳng đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng được gọi là bồ-tát tu sâu. Như Lai chẳng nói người này đầy đủ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Thế nên, các ông nếu muốn làm khắp tất cả đạo, phải học đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, chẳng nghĩ nhớ đến tất cả các sở học khác.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý hỏi thiên tử Hiện Ý:
- Bồ-tát nếu muốn đắc tam-muội này phải tu hành pháp gì?
Thiên tử đáp:
- Bồ-tát nếu muốn đắc tam-muội này phải tu hành pháp phàm phu. Nếu thấy pháp phàm phu, pháp Phật chẳng hợp chẳng tan, ấy gọi là tu tập Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Kiên Ý hỏi:
- Ở trong pháp Phật có hợp tan chăng?
- Trong pháp phàm phu còn không có hợp tan, hà huống pháp Phật. Thế nào gọi là tu hành? Nếu hay thông đạt các pháp phàm phu, pháp Phật không hai ấy gọi là tu tập, mà thật pháp này không hợp không tan. Này thiện nam tử. Vì tất cả pháp tập không có tướng sinh, vì tất cả pháp tập không có tướng hoại, vì tất cả pháp tập tướng như hư không, vì tất cả pháp tập không có tướng lãnh thọ.
Kiên Ý lại hỏi:
- Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đi đến chỗ nào?
Thiên tử đáp:
-Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đi đến tâm hành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng duyên tâm hành chấp tướng, đi đến tất cả các chỗ sở sinh mà cũng chẳng bị chỗ sinh làm ô nhiễm, đi đến tất cả thế giới Phật mà chẳng phân biệt thân Phật tướng hảo, đi đến tất cả âm thanh ngữ ngôn mà chẳng phân biệt các tướng văn tự; khắp hay khai thị tất cả Phật pháp mà chẳng đến chỗ rốt ráo diệt tận. Thiện nam tử! Hỏi tam-muội này đến chỗ nào nghĩa là theo chỗ Phật đến, tam-muội này cũng đến như vậy.
Kiên Ý hỏi:
- Phật đến chỗ nào?
Thiên tử đáp:
- Phật Như như nên đến không chỗ đến.
Lại hỏi:
- Phật chẳng đến niết-bàn chăng?
- Tất cả các pháp quá khứ nhiều như số cát sông Hằng chẳng đến niết-bàn ư?
- Các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng là sinh chăng?
Kiên Ý đáp:
- Như Lai đã nói: “Các đức Phật nhiều như số cát sông Hằng sinh đã diệt độ”.
Thiên tử nói:
- Thiện nam tử! Như Lai chẳng nói: “ Một người xuất thế đem lại nhiều lợi ích an lạc cho chúng sinh”. Ý ông nghĩ sao? Như Lai là chúng sinh có sinh diệt ư?
- Như Lai đối với pháp chẳng có sinh diệt.
- Thiện nam tử! Phải biết Như Lai tuy nói các đức Phật xuất hiện ở thế gian mà tướng Như Lai thật không có sinh, tuy nói các đức Phật đến niết-bàn mà tướng Như Lai thật không có diệt.
- Hiện nay vô lượng Như Lai có thành đạo chăng?
- Như Lai vì tướng vô sinh vô diệt như thế nên thành đạo. Này thiện nam tử! Các đức Phật hoặc xuất thế hoặc nhập niết-bàn không có sai biệt. Vì sao? Như Lai thông đạt tất cả pháp là tướng tịch diệt, ấy gọi là Phật.
Nếu tất cả pháp rốt ráo tịch diệt, tướng niết-bàn đó có thể thông đạt chăng?
- Như tất cả pháp rốt ráo tịch diệt đồng với tướng niết-bàn, thông đạt tướng đó cưỡng lại như vậy. Thiện nam tử! Như Lai chẳng lấy sinh, trụ, diệt mà xuất thế. Không sinh, trụ, diệt, ấy gọi là Phật xuất thế.
Kiên Ý hỏi:
- Ông trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội mới có thể nói như thế chăng?
- Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Hóa nhân của Như Lai trụ trong pháp nào mà có nói pháp?
Kiên Ý đáp:
- Nương sức thần của Phật mà có thể nói pháp.
- Phật trụ chỗ nào mà làm ra hóa nhân?
- Phật trụ thần thông bất nhị mà làm ra hóa nhân.
Thiên tử nói:
- Như Như Lai trụ pháp bất trụ mà có nói pháp.
Kiên Ý nói:
- Nếu không chỗ trụ, làm sao có nói?
- Như không chỗ trụ, nói cũng như vậy.
- Bồ-tát làm thế nào để đầy đủ nhạo thuyết biện tài?
- Bồ-tát chẳng dùng tướng ngã, chẳng dùng tướng bỉ, chẳng dùng tướng pháp mà có chỗ nói, ấy gọi là đầy đủ nhạo thuyết biện tài. Tùy chỗ nói pháp, tướng văn tự chẳng hết, pháp tướng cũng chẳng hết. Nói như vậy là chẳng dùng đối đãi mà nói, ấy gọi là đầy đủ nhạo thuyết biện tài.
Lại này thiện nam tử! Nếu bồ-tát chẳng xả bỏ tướng huyễn của các pháp; đối với âm thanh chẳng xả bỏ tướng âm vang, ấy gọi là đầy đủ nhạo thuyết biện tài. Lại như các văn tự âm thanh ngữ ngôn không chỗ không nơi, không trong không ngoài, không có chỗ trụ, từ các duyên mà có, tất cả các pháp cũng đều như vậy, không nơi không chỗ, không trong không ngoài, cũng không chỗ trụ, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng bị văn tự ngôn từ biểu hiện, bên trong tự thông đạt mà có chỗ nói ấy gọi là đầy đủ nhạo thuyết biện tài. Ví dụ như âm vang, tất cả âm thanh đều tùy theo tướng âm vang mà có chỗ nói.
Kiên Ý hỏi:
- Nghĩa “tùy” như thế nào?
- Thiện nam tử! Tùy hư không là nghĩa “tùy”. Như hư không không chỗ tùy, tất cả các pháp cũng không chỗ tùy. Các pháp không có so sánh, không có ví dụ, vì có được đó, nói có chỗ tùy.
Bấy giờ, các đức Thế Tôn khen Thiên tử rằng:
- Hay thay! Hay thay! Đúng như lời ông nói. Bồ-tát đối với điều này chẳng nên kinh sợ. Vì sao? Vì nếu có chỗ tùy thì chẳng đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Thiên tử Hiện Ý này từ cõi Phật nào đến đây?
Thiên tử nói:
- Ngài hỏi để làm gì?
Kiên Ý đáp:
- Tôi nay muốn hướng về phương ấy để lễ lạy, vì đó là trụ xứ du hành của Đại sĩ.
Thiên tử nói:
- Nếu người đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, tất cả thế gian các trời, nhân dân đều nên lễ kính.
Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:
- Thiên tử Hiện Ý này từ thế giới Diệu Hỷ của Phật A-súc đến đây. Vị này ở thế giới kia thường nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Này Kiên Ý! Tất cả các đức Phật đều nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Này Kiên Ý! Thiên tử Hiện Ý này ở thế giới Ta-bà này sẽ được thành Phật. Vị này vì muốn dứt năm trược ác này làm tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sinh tu tập tăng trưởng Thủ-lăng-nghiêm nên đến đây.
Kiên Ý bạch Phật:
- Nay vị thiên tử này lúc nào sẽ ở thế giới này được thành Phật đạo? Hiệu ngài là gì? Thế giới tên gì?
Phật nói:
- Vị thiên tử này qua Hiền kiếp này nghìn đức Phật đã diệt, sáu mươi hai kiếp không còn có Phật, khoảng giữa chỉ có trăm nghìn muôn ức Bích-chi-phật xuất thế, trong thời gian đó chúng sinh được trồng thiện căn, qua kiếp này rồi sẽ được thành Phật hiệu Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai, thế giới lúc ấy tên là Tịnh Kiến. Bấy giờ, đức Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai hay khiến cho chúng sinh tâm được thanh tịnh, thế giới chúng sinh chẳng bị tham dục giận hờn, ngu si che lấp, được pháp tịnh tín đều làm pháp lành.
Này Kiên Ý! Đức Phật Tịnh Quang Xưng Vương này thọ mười tiểu kiếp dùng pháp tam thừa độ thoát chúng sinh, trong đó vô lượng vô biên Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, ở trong các pháp được sức tự tại. Bấy giờ, ma hoặc ma dân đều tu đại thừa thương xót chúng sinh, cõi nước Phật kia không có ba đường ác và các chỗ nạn, trang nghiêm thanh tịnh như Uất-đan-việt, không có các việc ma, lìa các tà kiến. Sau khi Phật diệt độ, pháp trụ nghìn muôn ức năm. Này Kiên Ý! Vị thiên tử này sẽ ở cõi nước thanh tịnh như vậy mà thành Phật đạo.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý nói với Thiên tử:
- Ông được lợi lớn, Như Lai thọ ký cho ông Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Thiên tử đáp:
- Này thiện nam tử! Đối với tất cả pháp nếu không sở đắc, ấy là lợi lớn, đối với pháp có đắc ắt không có lợi. Thiện nam tử! Thế nên phải biết, nếu chẳng đắc pháp ấy là lợi lớn.
Lúc nói lời này, hai muôn năm nghìn thiên tử từng trồng các cội đức ở đời trước đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác; có một muôn bồ-tát đắc Vô sinh nhẫn.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

QUYỂN HẠ
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
- Thế Tôn! Chưa từng có vậy! Hôm nay Thế Tôn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội mà ác ma chẳng đến nhiễu loạn.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
- Ông muốn thấy sự suy não của ác ma chăng?
Lúc ấy Phật phóng ánh sáng từ tướng đại nhân nơi lông trắng giữa chặng mày, tất cả chúng hội đều thấy ác mà bị trói năm lớp không thể tự cởi.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
- Ông thấy ác ma bị trói năm chỗ chăng?
- Thưa, con đã thấy, nhưng ác ma này bị ai trói buộc?
- Sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, tại chỗ cõi Phật nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, trong đó các ma muốn đem tâm ác làm chướng ngại, do vì sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội và chư Phật mà các ác ma ấy đều tự thấy thân mình bị trói buộc năm chỗ. Này Xá-lợi-phất! Tại chỗ nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hoặc ta còn hiện tại, hoặc sau khi ta diệt độ, trong đó có các ma, ma dân và những người khác mang tâm ác, do vì sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nên đều bị trói buộc năm chỗ.
Bấy giờ, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… trong hội bạch Phật:
- Thế Tôn! Chúng con đối với tam-muội này tâm không có nghi, chẳng bị chướng ngại, chúng con chẳng muốn thân bị trói buộc ở năm chỗ.
Thế Tôn! Chúng con vì cung kính tam-muội này nên đều phải qua ủng hộ người nói pháp này, đối với tam-muội này tưởng như đức Thế Tôn.
Phật hỏi chư Thiên, Long thần:
- Vì lý do này, các ông sẽ được giải thoát mười hai kiến phược. Những gì là mười hai? Ngã kiến phược, chúng sinh kiến phược, thọ mạng kiến phược, nhân kiến phược, đoạn kiến phược, thường kiến phược, ngã tác kiến phược, ngã sở kiến phược, hữu kiến phược, vô kiến phược, thử bỉ kiến phược, chư pháp kiến phược, đó là mười hai kiến phược. Các ông nên biết, nếu có chúng sinh ở trong Phật pháp khởi tâm giận hờn muốn hủy hoại, đó là vì họ đều trụ nơi mười hai kiến phược này. Nếu người tin giải tùy thuận chẳng nghịch thì đối với mười hai kiến phược này sẽ được giải thoát.
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:
- Thế Tôn! Ác ma hôm nay có được nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?
- Cũng được nghe, nhưng vì bị trói buộc nên chẳng thể đến.
- Đức Như Lai sao chẳng dùng thần lực khiến cho ma chẳng nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
- Thôi đi! Chớ nói như thế. Giả sử lửa lớn đầy trong thế giới nhiều như cát sông Hằng, vì nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này cũng nên đi ngang qua trong ấy. Vì sao? Nếu người chỉ nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, ta nói người này rất được thiện lợi hơn đắc tứ thiền sinh vào bốn cõi Phạm thiên.
Này Xá-lợi-phất! Nếu như ác ma hôm nay được nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, do nhân duyên này sẽ được vượt qua tất cả việc ma. Nếu đang bị trói buộc mà được nghe tam-muội này thì cũng sẽ được giải thoát mười hai kiến phược này. Thế nên, này Xá-lợi-phất! Người ác tà kiến vào trong lưới ma còn nên nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hà huống người tâm thanh tịnh vui vẻ muốn nghe.
Bấy giờ, trong hội có một vị bồ-tát tên Ma Giới Hạnh Bất Ô bạch Phật:
- Xin vâng Thế Tôn! Nay con sẽ hiện ở trong cảnh giới ma, dùng thần lực tự tại khiến ma được trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Phật nói:
- Tùy ý.
Bây giờ, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô liền ở trong hội hốt nhiên biến mất, hiện ở cung ma nói với ác ma:
- Ngươi đâu chẳng nghe Phật nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ra khỏi cảnh giới của ngươi, cũng đều sẽ độ thoát người khác ra khỏi cảnh giới của ngươi.
Ma liền nói:
- Tôi nghe Phật nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, nhưng vì tôi bị trói năm chỗ nên chẳng qua được; năm chỗ là hai tay, hai chân và đầu.
- Ai trói buộc ngươi?
- Tôi vừa mống tâm muốn qua khuấy phá người nghe nhận Thủ-lăng-nghiêm tam-muội liền bị trói năm chỗ. Tôi vừa nghĩ lại: “Chư Phật Bồ-tát có oai đức lớn khó thể khuấy phá. Tôi nếu qua đó hoặc sẽ tự thất bại, chẳng bằng tự ở nơi cung điện này. Tôi nghĩ như vậy rồi, liền được giải thoát năm chỗ bị trói.
- Cũng vậy, tất cả phàm phu vì ức tưởng phân biệt điên đảo chấp tướng nên có trói buộc, vì động niệm hí luận nên có trói buộc, vì thấy, nghe, hay, biết nên có trói buộc. Trong đây thật không có trói buộc và giải thoát. Vì sao? Các pháp không trói buộc vì vốn giải thoát; các pháp không giải thoát vì vốn không trói buộc. Tướng thường giải thoát không có ngu si, Như Lai dùng pháp môn này nói pháp, nếu có chúng sinh được biết nghĩa này, muốn cầu giải thoát, tâm siêng năng tinh tấn thì được giải thoát các sự trói buộc.
Bấy giờ, trong chúng ma có bảy trăm thiên nữ đem hương hoa, hương bột, hương xoa và các thứ chuỗi báu cõi trời rải lên bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô và nói: “Chúng tôi lúc nào sẽ được giải thoát cảnh giới ma?”
Bồ-tát đáp:
- Các cô nếu hay chẳng hoại sự trói buộc của ma thì được giải thoát. Sao gọi là chẳng hoại sự trói buộc của ma? Đó là sáu mươi hai kiến. Nếu người chẳng hoại các kiến này tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát.
Thiên nữ lại hỏi:
- Sao gọi là chẳng hoại các kiến mà được giải thoát?
- Các kiến vốn không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Nếu biết các kiến không có tướng đến đi tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến chẳng phải có chẳng phải không, nếu chẳng phân biệt có không tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Nếu không sở kiến, ấy là chính kiến. Như vậy chính kiến không chính, không tà. Nếu pháp không chính, không tà, không tác, không thọ tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến này chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng chẳng phải chặng giữa. Các kiến như vậy cũng lại chẳng nghĩ tưởng thì ở ngay nơi sự trói buộc của ma được giải thoát.
Bảy trăm thiên nữ nghe nói pháp này liền đắc thuận nhẫn, và nói:
- Chúng tôi cũng ở trong cảnh giới ma hạnh không bị ô nhiễm, độ tất cả những người bị ma trói buộc.
Bấy giờ, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:
- Các quyến thuộc của ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ông phải làm gì?
Ác ma đáp:
- Tôi bị trói năm chỗ, chẳng biết phải làm gì?
- Người phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác thì sẽ được giải thoát sự trói buộc này.
Bấy giờ, thiên nữ xót thương ác ma nên đều nói:
- Ông nên phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, chớ nên ở chỗ an ổn mà sinh ra ý tưởng sợ hãi, chớ nên ở chỗ giải thoát mà sinh ra ý tưởng trói buộc.
Bấy giờ, ác ma sinh tâm dua dối nói:
- Nếu các ngươi lìa bỏ tâm Bồ-đề, ta sẽ phát tâm.
Khi ấy các thiên nữ dùng sức phương tiện, mà nói với ma:
- Chúng tôi đều đã lìa bỏ tâm này, ông hãy phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác đi! Nếu một bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì tất cả bồ-tát cũng đồng một tâm này. Vì sao? Vì tâm không sai khác, đối với chúng sinh, tâm đều bình đẳng.
Bấy giờ, ác ma nói với bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô:
- Tôi nay sẽ phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, do thiện căn này khiến tôi được giải thoát sự trói buộc.
Nói lời này xong, ác ma liền tự thấy thân được giải thoát sự trói buộc
Lúc ấy, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô dùng sức thần thông tịnh diệu chiếu sáng lớn, hiện thân tịnh diệu chiếu vào cung ma. Ma tự thấy thân không có oai quang giống như đống mực.
Lúc ấy, trong chúng ma có hai trăm thiên nữ say đắm dâm dục thấy bồ-tát này sắc thân xinh đẹp sinh tâm đắm nhiễm đều nói:
- Người này nếu cùng chúng tôi hành dâm thì chúng tôi đều sẽ thuận theo lời dạy của người.
Lúc ấy, bồ-tát này biết các thiên nữ túc duyên đáng độ, liền hóa làm hai trăm thiên tử hình sắc đẹp đẽ, trang nghiêm như thân trước không khác. Lại hóa làm hai trăm bảo đài đẹp hơn cung ma. Các thiên nữ này đều tự thấy mình ở trong bảo đài, mỗi cô đều tự cho rằng mình cùng bồ-tát này vui chơi. Sở nguyện được thỏa ý dâm dục dứt, các cô đều sinh lòng rất yêu kính bồ-tát. Bồ-tát liền tùy theo chỗ đáng độ mà thuyết pháp, các cô đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Bấy giờ, Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:
- Ngươi nên đến chỗ Phật.
Ác ma nghĩ rằng: “Ta đã được cởi trói, nên đến chỗ Phật để khuấy phá Phật thuyết pháp”.
Bấy giờ ác ma và quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ Phật nói:
- Thế Tôn! Đừng nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này nữa. Vì sao? Vì nói tam-muội này thân tôi lập tức bị trói buộc năm chỗ. Cúi xin Như Lai hãy nói việc khác.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:
- Ai cởi trói cho ông?
Ma đáp:
- Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô cởi trói cho tôi.
- Ngươi hứa việc gì mà được cởi trói?
- Tôi hứa phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:
- Nay ác ma này vì muốn được cởi trói mà phát tâm Bồ-đề nên chẳng phải là ý thanh tịnh. Cũng vậy, này Kiên Ý! Sau khi ta diệt độ, năm trăm năm sau có nhiều tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên phát tâm Bồ-đề, chẳng phải là ý thanh tịnh.
Này Kiên Ý! Ông xem oai thần Phật pháp, thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di này dùng tâm khinh thường giỡn cợt, tâm tham lợi dưỡng, tâm chạy theo người khác, nghe tam- muội này mà phát tâm Bồ-đề. Ta đều biết tâm này được làm nhân duyên với Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, hà huống nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hay dùng tâm thanh tịnh phát Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, phải biết người này ở trong Phật pháp đã được quyết định.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Nay ác ma này nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vì muốn được cởi trói nên phát tâm Bồ-đề cũng được đầy đủ nhân duyên Phật pháp chăng?
Phật nói:
- Đúng như lời ông nói, ác ma vì nhân duyên phước đức của tam-muội này và nhân duyên phát Bồ-đề tâm, ở đời vị lai được xả bỏ tất cả việc ma, hạnh ma, tâm dua dối của ma, việc suy não của ma. Từ nay về sau dần dần sẽ được sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thành tựu Phật đạo.
Bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:
- Đức Như Lai hôm nay đã thọ ký cho ngươi.
Ma nói:
- Thiện nam tử! Tôi nay chẳng dùng tâm thanh tịnh phát Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, cớ sao Như Lai thọ ký cho tôi. Như Phật có nói: “Từ tâm có nghiệp, từ nghiệp có báo. Tôi tự không có tâm cầu đạo Bồ-đề, cớ sao Như Lai thọ ký cho tôi?”
Bấy giờ, Phật muốn dứt nghi cho chúng hội nên bảo Kiên Ý:
- Bồ-tát được thọ ký có bốn hạng: Có người chưa phát tâm mà được thọ ký, có người vừa phát tâm liền được thọ ký, có người được bí mật thọ ký, có người được vô sinh pháp nhẫn hiện tiền được thọ ký. Chỉ có Như Lai mới biết việc này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều chẳng thể biết.
Này Kiên Ý! Thế nào là người chưa phát tâm mà được thọ ký? Hoặc có chúng sinh qua lại trong năm đường hoặc tại địa ngục, hoặc tại súc sinh, hoặc tại ngạ quỷ, hoặc tại thiên thượng, hoặc tại nhân gian, các căn bén nhạy ưa thích pháp lớn (Đại thừa). Phật biết người này qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp sẽ phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Lại trong ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp hành Bồ-tát đạo, cúng dường ngần ấy trăm nghìn muôn ức na-do-tha Phật giáo hóa ngần ấy trăm nghìn muôn ức vô lượng chúng sinh khiến trụ Bồ-đề. Lại qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính giác, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn thọ mạng như vậy. Sau khi diệt độ pháp trụ số năm như vậy.
Phật bảo Kiên Ý:
- Như Lai đều biết việc này và còn hơn thế nữa, ấy gọi là chưa phát tâm mà được thọ ký.
Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp đến trước Phật bạch:
- Từ nay về sau, chúng con nên đối với tất cả chúng sinh tưởng như Thế Tôn. Vì sao? Chúng con không có trí huệ như thế. Những chúng sinh nào có căn Bồ-tát, những chúng sinh nào không có căn Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Vì chúng con chẳng biết việc như thế, nên hoặc sinh tâm khinh mạn đối với chúng sinh, ắt làm tổn thương mình.
Phật nói:
- Lành thay! Lành thay! Ca-diếp! Lời này rất hay, vì lý do này nên trong kinh ta nói mọi người chẳng nên đánh giá căn tính chúng sinh. Vì sao? Nếu đánh giá không đúng căn tính chúng sinh ắt làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai mới đánh giá đúng căn tính chúng sinh. Do nhân duyên này nên các thanh văn và bồ-tát phải tưởng chúng sinh như Phật.
Người vừa phát tâm xong liền được thọ ký nghĩa là hoặc tự có người từ lâu đã trồng cội đức tu tập hạnh lành, tâm siêng năng tinh tấn, các căn linh lợi ưa thích đại pháp, có tâm đại bi, khắp vì chúng sinh cầu đạo giải thoát. Người này phát tâm liền trụ bậc Bất thối chuyển nhập bồ-tát vị vào số quyết định vượt qua tám nạn. Những người như thế lúc vừa phát tâm, chư Phật liền thọ ký cho Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, thọ mạng như vậy. Những người như thế, Như Lai biết tâm mà thọ ký cho, ấy gọi là vừa phát tâm liền được thọ ký.
Bí mật thọ ký là tự có bồ-tát chưa được thọ ký mà thường tinh tấn, cầu Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ưa thích bố thí, thích bố thí tất cả, nhận pháp kiên cố, trì giới chẳng bỏ, pháp hạnh trang nghiêm có sức nhẫn lớn, tâm bình đẳng đối với chúng sinh, siêng năng tinh tấn cầu các pháp lành, thân tâm chẳng lười như cứu lửa cháy đầu. Hành niệm an ổn đắc được tứ thiền, thích cầu trí huệ hành Phật-bồ-đề. Trải qua thời gian lâu xa tu hành lục độ có tướng thành Phật. Lúc ấy các bồ-tát khác và Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… đều nghĩ rằng: “Bồ-tát siêng năng tinh tấn như thế thật là hiếm có, chừng nào sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, danh hiệu thế nào? Cõi nước tên gì? Số chúng Thanh văn nhiều ít ra sao? Phật vì dứt nghi cho chúng sinh mà thọ ký khiến cho khắp chúng hội đều được nghe biết mà chỉ một mình bồ-tát này chẳng được nghe là vì thần lực của Phật khiến cho tất cả chúng biết bồ-tát này thành Phật, danh hiệu, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn nhiều ít như vậy. Lúc ấy, những điều chúng nghi đều được giải quyết và họ đối với vị bồ-tát này tưởng là Thế Tôn, nhưng vị bồ-tát này chẳng thể tự biết mình đã được thọ ký hay chưa được thọ ký. Đó là Bồ-tát được bí mật thọ ký.
Hiện tiền thọ ký là có bồ-tát từ lâu tu tập thiện căn không ai chẳng thấy, thường tu phạm hạnh, quán vô ngã, không, đối với tất cả pháp đắc vô sinh nhẫn. Phật biết người này công đức trí huệ đều đã đầy đủ nên ở trong đại chúng trời, người, ma, Phạm, sa-môn, bà-la-môn hiện tiền thọ ký, nói lời này: “Thiện nam tử! Ông qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức kiếp sẽ được thành Phật, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn, thọ mạng như vậy. Lúc ấy vô số người bắt chước theo người này mà phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Người này ở trước Phật được thọ ký rồi, thân bay lên hư không cao bảy cây đa-la. Này Kiên Ý! Đó là hiện tiền thọ ký thứ tư.
Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Nay trong hội này có bồ-tát nào vì bốn việc này được thọ ký chăng?
Phật đáp:
- Có.
- Bạch Thế Tôn! Ai vậy?
- Bồ-tát Sư Tử Hống Vương này ưa muốn làm cư sĩ là người chưa phát tâm mà được thọ ký; vô số bồ-tát ở thế giới phương khác cũng như vậy, chưa phát tâm mà được thọ ký.
Lại có bồ-tát Tịch Diệt, bồ-tát Đại Đức Pháp vương tử, bồ-tát Văn-thù- sư-lợi Pháp vương tử, vô lượng các bồ-tát như vậy lúc vừa phát tâm liền được thọ ký và đều trụ nơi bậc Bất thoái chuyển.
Trong đây còn có bồ-tát Trí Dũng, bồ-tát Ích Ý, vô lượng các bồ-tát như vậy bí mật được thọ ký.
Này Kiên Ý! Ta và Di-lặc cùng một nghìn vị bồ-tát ở Hiền kiếp đều đắc vô sinh pháp nhẫn và được hiện tiền thọ ký.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Hy hữu! Thế Tôn! Việc làm của bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, thọ ký cũng chẳng thể nghĩ bàn tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật còn chẳng thể biết, huống là chúng sinh khác.
Phật nói:
- Này Kiên Ý! Bồ-tát sở hành, sở phát tinh tấn, oai thần, thế lực chẳng thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, bồ-tát Ma Giới hạnh Bất Ô giáo hóa các thiên nữ khiến họ đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, các cô đều dùng hoa trời rải lên Phật và bạch rằng:
- Thế Tôn! Chúng con chẳng thích bí mật được thọ ký. Chúng con nguyện đắc vô sinh pháp nhẫn được hiện tiền thọ ký. Cúi xin Thế Tôn hôm nay thọ ký Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác cho chúng con.
Lúc ấy, Phật mỉm cười, miệng phóng ánh sáng màu đẹp chiếu các thế giới rồi quay về nhập vào đảnh.
Ngài A-nan bạch Phật:
- Thế Tôn! Nhân duyên gì ngài cười?
Phật bảo A-nan:
- Nay ông thấy hai trăm thiên nữ này chắp tay kính lễ Như Lai chăng?
- Bạch Thế Tôn! Đã thấy.
- Này A-nan! Các thiên nữ này đã từng ở chỗ năm trăm đức Phật thuở quá khứ trồng sâu thiện căn, từ nay trở đi sẽ còn cúng dường vô số các đức Phật, qua bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp rồi đều được thành Phật hiệu là Tịnh Vương. A-nan! Các thiên nữ này sau khi mạng chung được chuyển thân nữ, đều sinh lên trời Đâu-suất cúng dường phụng sự bồ-tát Di-lặc.
Bấy giờ, ác ma nghe các thiên nữ được thọ ký xong, bạch Phật:
- Thế Tôn! Nay tôi chẳng được tự tại đối với quyến thuộc của tôi vì họ được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, huống là những người nghe nào khác. Nếu người được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội liền được quyết định trụ trong Phật pháp.
Bấy giờ, thiên nữ dùng tâm không khiếp sợ, nói với ác ma:
- Ông chớ buồn rầu. Chúng tôi chẳng ra ngoài cảnh giới ông đâu. Vì sao? Vì ma giới như tức là Phật giới như. Ma giới như, Phật giới như không hai không khác. Chúng tôi chẳng lìa cái như này. Ma giới tướng tức là Phật giới tướng, ma giới pháp, Phật giới pháp không hai không khác. Chúng tôi đối với pháp này chẳng ra ngoài, chẳng vượt qua ma giới, cũng không có pháp quyết định có thể chỉ thị. Phật giới cũng không có pháp quyết định có thể chỉ thị. Ma giới Phật giới không hai, không khác. Chúng tôi đối với pháp tướng này chẳng ra ngoài, chẳng vượt qua. Thế nên phải biết tất cả các pháp không có quyết định. Vì không quyết định nên không có quyến thuộc, không có chẳng phải quyến thuộc.
Bấy giờ, ác ma lo buồn khổ não muốn trở về trời. Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:
- Ngươi muốn đi đâu?
Ma đáp:
- Tôi nay muốn trở về cung điện của tôi.
Bồ-tát nói:
- Chẳng lìa chúng này tức là cung điện của ngươi.
Bấy giờ, ác ma liền tự thấy thân ở trong cung điện của mình.
Bồ-tát hỏi:
- Ngươi thấy những gì?
Ác ma đáp:
- Tôi tự thấy thân tôi ở trong cung điện của mình, vườn rừng ao đẹp là vật sở hữu của tôi.
- Ngươi nay nên đem dâng lên Như Lai.
- Dạ được!
Ác ma vừa nói lời này xong liền thấy Như Lai, thanh văn, bồ-tát, tất cả đại chúng đều ở trong đó nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Bấy giờ, ngài A-nan bạch Phật:
- Thế Tôn! Người bố thí, Phật thọ thực xong nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội và người bố thí, Phật thọ thực xong được thành Phật. Hai thí chủ này người nào được phước nhiều?
Phật nói:
- Này A-nan! Bố thí cho Phật ăn rồi, Phật thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ăn rồi chuyển pháp luân, ăn rồi nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bố thí ba bữa ăn này phước không có sai khác. A-nan! Ta ở chỗ nào đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác phải biết chỗ đó là Kim cang, các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều ở trong đó được thành Phật đạo, tùy theo trụ xứ nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đều không sai khác và chỗ có người đọc tụng biên chép cũng lại như vậy.
Này A-nan! Bố thí thức ăn cho Phật ăn xong bắt đầu chuyển pháp luân, nếu có pháp sư được bố thí thức ăn rồi đọc tụng, diễn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này. Hai loại bố thí này phước bằng nhau không có sai khác.
Lại nữa, này A-nan! Phật ở tinh xá dùng mười tám món thần thông biến hóa độ thoát chúng sinh, lại có người ở trong tinh xá đọc tụng diễn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bố thí thức ăn cho Phật và người này, được phước không khác.
Bấy giờ, ngài A-nan nói với ác ma:
- Ngươi được lợi lớn, hay đem cung điện bố thí cho Phật trụ.
Ma nói:
- Đó là do ân lực của Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô mà ra.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Phải chăng bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nên được thần lực tự tại như thế?
Phật đáp:
- Này Kiên Ý! Đúng như lời ông nói. Nay bồ-tát ấy trụ tam-muội này hay dùng thần lực tùy ý tự tại thị hiện tất cả hạnh kể cả hạnh ma mà có thể chẳng bị hạnh ma làm ô nhiễm, cùng các thiên nữ hiện tướng vui chơi mà thật chẳng thọ pháp ác dâm dục. Thiện nam tử ấy trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hiện vào cung ma mà thân chẳng rời hội Phật, hiện vào ma giới du hí vui chơi mà dùng Phật pháp giáo hóa chúng sinh.
Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Như Lai trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thể hiện bao nhiêu thần lực tự tại. Lành thay! Thế Tôn! Xin diễn nói chút ít.
Phật nói:
- Này Kiên Ý! Ta nay trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này ở nơi tam thiên đại thiên thế giới này. Trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức nhật nguyệt, trăm ức Tứ thiên vương xứ, trăm ức Đao-lợi thiên, Dạ-ma thiên, trăm ức Đâu-suất-đà thiên, trăm ức Hóa Lạc thiên, trăm ức Tha Hóa Tự Tại thiên, nhẫn đến trăm ức A-ca-nị-tra thiên, trăm ức Tu-di sơn vương, trăm ức đại hải, đó gọi là tam thiên đại thiên thế giới.
Này Kiên Ý! Ta trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội ở tam thiên đại thiên thế giới này hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành bố thí ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành trì giới ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành nhẫn nhục ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành tinh tấn ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành thiền ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành bát-nhã ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện làm thần tiên có ngũ thông, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện ở cư gia, hoặc ở Tứ thiên hạ hiện làm Chuyển luân thánh vương, hoặc làm Thích-đề-hoàn-nhân, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm Tứ thiên vương, hoặc làm Dạ-ma thiên vương, hoặc làm Đâu-suất-đà thiên vương, hoặc làm Hóa Lạc thiên Vương, hoặc làm Tha Hóa Tự Tại thiên vương, hoặc hiện trưởng giả, hoặc hiện cư sĩ, hoặc hiện tiểu vương, đại vương, hoặc làm sát-lợi, hoặc làm bà-la-môn, hoặc làm bồ-tát, hoặc ở tứ thiên hạ muốn từ Đâu-suất hạ sinh vào thế gian hoặc hiện nhập thai, hoặc hiện ở trong thai, hoặc hiện sắp sinh, hoặc hiện sinh xong đi bảy bước, giơ tay tự xưng: “Trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý”, hoặc hiện ở trong cung với bọn thể nữ, hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện khổ hạnh, hoặc hiện lấy cỏ trải tòa, hoặc hiện ngồi đạo tràng, hoặc hiện hàng ma, hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện xem cây, hoặc hiện Thích Phạm thỉnh chuyển pháp luân, hoặc hiện xả thọ mạng, hoặc hiện nhập niết-bàn, hoặc hiện thiêu thân, hoặc hiện toàn thân xá lợi, hoặc hiện tán thân xá-lợi, hoặc hiện pháp sắp diệt, hoặc hiện pháp đã diệt, hoặc hiện thọ mạng vô lượng, hoặc hiện thọ mạng ngắn ngủi, hoặc hiện cõi nước không có danh tự ác đạo, hoặc hiện có các ác đạo, hoặc hiện Diêm-phù-đề thanh tịnh nghiêm sức như cung điện chư thiên hoặc hiện tệ ác, hoặc hiện thượng trung hạ. Này Kiên Ý! Đó đều là thần lực tự tại của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, bồ-tát thị hiện nhập niết-bàn chẳng rốt ráo diệt, mà ở tam thiên đại thiên thế giới hay hiện thần lực tự tại như vậy, thị hiện các việc trang nghiêm như vậy. Này Kiên Ý! Ông hãy xem Như Lai ở trong tứ thiên hạ này chuyển pháp luân, hoặc ở Diêm-phù-đề khác chưa thành Phật đạo, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện nhập diệt độ, đó gọi là pháp môn sở nhập Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Bấy giờ, các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v…, các bồ-tát, đại đệ tử trong hội đều nghĩ rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ có thể ở trong tam thiên đại thiên thế giới này có thần lực ấy hay ở thế giới khác ngài cũng có thần lực ấy”.
Lúc ấy, ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết ý chúng hội, muốn dứt trừ điều nghi này, nên bạch Phật:
- Thế Tôn! Con du hành đến các cõi nước Phật phía trên thế giới này qua sáu mươi Hằng hà sa cõi nước có thế giới Phật tên là Nhất Đăng Minh Phật, ở nơi đó vì người thuyết pháp, con đến chỗ đó đầu mặt đảnh lễ, hỏi rằng: “Thế Tôn danh hiệu là chi? Chúng con phải phụng trì danh hiệu Phật như thế nào? Đức Phật ấy đáp: Ông đến hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni, ngài sẽ đáp cho ông”.
Bạch Thế Tôn! Cõi nước Phật kia công đức trang nghiêm nói suốt một kiếp cũng chẳng thể hết; còn hơn cõi này, cõi nước kia không có danh từ thanh văn, bích-chi-phật, chỉ có các bồ-tát tăng thường thuyết pháp luân bất thoái chuyển. Cúi xin Thế Tôn nói danh hiệu của Đức Phật đang thuyết pháp ở cõi nước Nhất Đăng Minh.
Bấy giờ, Phật bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
- Các ông lắng nghe, chớ có lo sợ mà sinh nghi hối. Vì sao? Vì thần lực chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Phật thuyết pháp ở cõi nước Nhất Đăng Minh kia hiệu là Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương.
Đức Phật Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương ở cõi nước Nhất Đăng Minh kia là thân ta ở cõi nước kia hiện thần lực Phật. Ta ở cõi nước kia thuyết pháp luân bất thoái chuyển, là tịnh độ của ta tu ở đời trước.
Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết ta ở trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha cõi nước đều có thần lực, tất cả thanh văn, bích-chi-phật đều chẳng thể biết. Này Văn-thù-sư-lợi! Đây đều là thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bồ-tát thường ở trong vô lượng thế giới thị hiện thần biến, ở nơi tam-muội này mà chẳng động chuyển. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nhật nguyệt từ nơi cung điện bắt đầu chẳng di động mà hiện tất cả thành ấp xóm làng. Cũng vậy, Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đầu tiên chẳng di động mà hay thị hiện thân khắp vô lượng thế giới, tùy theo sở thích của mọi người mà thuyết pháp.
Bấy giờ, chúng hội được chưa từng có, đều vô cùng vui mừng hớn hở, chắp tay cung kính, và các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… dùng hoa chân châu, hoa đẹp nhiều màu, hương bột, hương xoa rải lên đức Phật, trỗi các thứ kỹ nhạc cõi Trời cúng dường Như Lai và các đệ tử, mỗi người cũng đều cởi thượng y dâng lên Phật và các bồ-tát, đem hoa đẹp vi diệu to như Tu-di, và các tạp hương, hương bột, hương xoa, chuỗi báu anh lạc rải lên đức Phật, đều nói:
- Dạ thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chỗ nào thì chỗ đất đó là Kim cang. Nếu người được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội rồi tin nhận, đọc tụng, vì người diễn nói mà chẳng kinh chẳng sợ, phải biết người này cũng là kim cang thành tựu nhẫn bất hoại, trụ sâu nơi niềm tin, được chư Phật hộ niệm, trồng sâu thiện căn được thiện lợi lớn, hàng phục ma oán, dứt các đường ác, được thiện tri thức thủ hộ.
Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, nếu có chúng sinh nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này liền hay tin nhận, đọc tụng, hiểu nghĩa, vì người diễn nói, tu hành đúng như lời nói, phải biết người này được trụ Phật pháp quyết định chẳng lui sụt.
Phật nói:
- Đúng thế, đúng thế! Đúng như lời ông nói. Nếu người chẳng trồng sâu thiện căn thì nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng thể tin nhận; ít có chúng sinh nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội có thể tin nhận, mà phần đông chúng sinh chẳng thể tin nhận. Này thiện nam tử! Người có bốn pháp nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thể tin nhận được. Những gì là bốn? Một là đã từng ở nơi chư Phật quá khứ nghe tam-muội này. Hai là được thiện tri thức hộ niệm nên rất mến Phật pháp. Ba là thiện căn sâu dày nên ưa thích đại pháp. Bốn là thân tự được chứng pháp sâu Đại thừa. Người có bốn pháp này ắt hay tin nhận tam-muội này.
Này thiện nam tử! Lại có người mãn nguyện A-la-hán và người đầy đủ chính kiến, người tín hạnh, kiến hạnh. Những người này vì tin thuận lời Như Lai nên tin tam-muội này nhưng bản thân chẳng chứng. Vì sao? Vì tam-muội này, tất cả thanh văn, bích-chi-phật đều chẳng thể thông đạt, huống là chúng sinh khác.
Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:
- Thế Tôn! Ví như có người bị mù từ lúc sơ sinh trong mộng được mắt thấy các màu sắc, tâm rất vui mừng, liền ở trong mộng cùng với người có mắt cùng ở chung cùng chuyện trò. Người này tỉnh dậy, chẳng còn thấy sắc. Chúng con cũng vậy, lúc chưa nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội trong lòng vui mừng cho rằng được thiên nhãn, cùng các bồ-tát cùng ở chung, cùng luận bàn nghĩa lý.
Bạch Đức Thế Tôn! Nay con từ Phật được nghe tam-muội này chẳng biết việc ấy, như người mù từ thuở sơ sinh chẳng thể được biết pháp sở hành của chư Phật, bồ-tát. Chúng con từ nay về sau tự xem thân mình như kẻ mù từ thuở sơ sinh đối với pháp sâu mầu của Phật không có trí huệ, chẳng biết chẳng thấy việc làm của Thế Tôn. Chúng con từ nay về sau biết các bồ-tát thật đắc thiên nhãn có được các trí huệ sâu xa như vậy.
Thế Tôn! Nếu người không có tâm tát-bà-nhã, đâu dám tự cho rằng: Tôi là người trí, tôi là phước điền.
Phật nói:
- Đúng thế, đúng thế. Này Ca-diếp! Đúng như lời ông nói. Các trí huệ sâu của hàng bồ-tát được, thanh văn, bích-chi-phật chẳng bì kịp.
Lúc ngài Ma-ha Ca-diếp nói lời này, tám nghìn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nói là phước điền đó. Vậy thế nào là phước điền?
Văn-thù-sư-lợi đáp:
- Có mười pháp hạnh gọi là phước điền. Những gì là mười? Trụ môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà chẳng vào pháp vị. Thấy biết tứ đế mà chẳng chứng đạo quả. Hành bát giải thoát mà chẳng bỏ hạnh Bồ-tát. Hay khởi tam minh mà đi trong ba cõi. Hay hiện hình sắc oai nghi thanh văn mà chẳng theo âm thanh từ người khác cầu pháp. Hiện hình sắc oai nghi bích-chi-phật mà dùng vô ngại biện tài thuyết pháp. Thường tại thiền định mà hay hiện hành tất cả các hạnh. Chẳng lìa chính đạo mà hiện nhập tà đạo. Rất tham nhiễm ái dục mà lìa các dục, tất cả phiền não. Nhập vào niết-bàn mà đối với sinh tử chẳng hoại chẳng bỏ. Người nào có mười pháp này, phải biết người đó là chân thật phước đức.
Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Tu-bồ-đề:
- Thưa trưởng lão Tu-bồ-đề! Thế Tôn nói ngài là đệ nhất phước điền, ngài có được mười pháp này chăng?
Tu-bồ-đề nói:
- Tôi đối với pháp này không có một huống là có mười.
Kiên Ý hỏi:
- Vì sao ông được gọi là đệ nhất phước điền?
Tu-bồ-đề đáp:
- Tôi chẳng phải là đệ nhất phước điền trong hàng chư Phật, Bồ-tát. Phật nói tôi là đệ nhất phước điền trong hàng Thanh Văn, Bích-chi-phật.
Này Kiên Ý! Ví như vua nhỏ ở biên địa cũng được gọi là vua, nếu Chuyển luân thánh vương đến nơi biên địa thì các vua nhỏ chẳng còn được gọi là vua. Lúc ấy chỉ có Chuyển luân thánh vương vì Thánh vương oai đức thù diệu hơn vậy.
- Này Kiên Ý! Nơi quốc độ, thành ấp, xóm làng không có bồ-tát, tôi ở nơi đó được gọi là phước điền. Nếu chỗ có Phật, có Đại bồ-tát thì tôi ở nơi đó chẳng được gọi là phước điền. Vì các bồ-tát có tâm tát-bà-nhã, thế nên hơn tôi.
Bấy giờ, Phật khen ngài Tu-bồ-đề:
- Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói. Ấy là lời nói của vị đại đệ tử không có tăng thượng mạn.
Bồ-tát Kiên Ý lại hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:
- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nói là đa văn. Vậy thế nào là đa văn?
Văn-thù-sư-lợi đáp:
- Nếu người nghe pháp một câu liền hiểu nghìn muôn ức nghĩa trong đó, trải qua số kiếp trăm nghìn muôn ức phô diễn, giải nói, trí huệ biện tài không thể cùng tận, ấy là đa văn.
Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu nghe lời thuyết pháp của vô lượng chư Phật ở mười phương mà đều hay thọ trì, không có một câu nào mà trước kia chẳng được nghe. Hễ có nghe lời nào cũng đều là lời trước kia đã được nghe, hay thọ trì, không quên các pháp đã nghe, vì chúng sinh thuyết pháp mà không có chúng sinh nghe nhận, thân mình cùng chúng sinh và pháp sở thuyết không có sai biệt, ấy gọi là đa văn.
Bấy giờ, trong hội có bồ-tát thiên tử tên Tịnh Nguyệt Tạng suy nghĩ rằng: “Phật nói ngài A-nan là đa văn đệ nhất. Sự đa văn như ngài Văn-thù vừa nói, A-nan ngày nay có được như thế chăng? Nghĩ như vậy rồi, bèn hỏi A-nan:
- Đức Như Lai nói ngài là bậc đa văn đệ nhất. Vậy sự đa văn của ngài có như ngài Văn-thù-sư-lợi nói chăng?
Ngài A-nan đáp:
- Sự đa văn như ngài Văn-thù-sư-lợi nói đó, tôi không có.
Tịnh Nguyệt Tạng hỏi:
- Thế tại sao Như Lai thường nói ngài là người đa văn bậc nhất?
Ngài A-nan đáp:
- Các đệ tử Phật theo âm thanh mà được giải thoát, trong hàng người đó, nói tôi đệ nhất, chứ chẳng phải tôi đệ nhất trong hàng bồ-tát có biển trí vô lượng, đại huệ vô đẳng, biện tài vô ngại.
- Này thiên tử! Ví như nhờ có ánh sáng nhật nguyệt mà người Diêm-phù-đề thấy các hình sắc để làm các việc. Tôi cũng như vậy, nhờ ánh sáng trí huệ Như Lai mà được thọ trì pháp. Tôi ở trong đó không có năng lực, phải biết đều là thần lực Như Lai.
Đức Phật khen ngài A-nan;
- Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, ông thọ trì tụng niệm các pháp đều là nhờ thần lực Như Lai.
Bấy giờ, Phật bảo Tịnh Nguyệt Tạng:
- Các pháp A-nan thọ trì rất ít, phần chưa được thọ trì còn vô lượng vô biên. Này thiên tử! Các pháp ta đắc nơi đạo tràng, trăm nghìn ức phần chẳng nói được một phần. Các pháp ta nói, trong ấy A-nan trăm nghìn ức phần chẳng trì được một.
- Này Thiên tử! Như Lai chỉ trong một ngày một đêm thuyết pháp cho các thiên tử bồ-tát trong hàng ngũ Thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, v.v… trong thế giới mười phương. Ta dùng sức trí huệ làm kệ tụng, nói tu-đa-la, nhân duyên, thí dụ, các ba-la-mật của chúng sinh tu hành, và nói Thanh Văn, Bích-chi-phật thừa, Phật vô thượng thừa, pháp nhiếp Đại thừa, chê trách sinh tử, ca ngợi niết-bàn. Giả sử chúng sinh Diêm-phù-đề thành tựu đa văn đều như A-nan ở trong trăm nghìn kiếp cũng chẳng thể thọ trì. Này Thiên tử! Do nhân duyên này nên biết các pháp Như Lai nói vô lượng vô biên, A-nan thọ trì được rất là ít.
Bấy giờ, Thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng liền đem mười muôn lọng hoa bằng bảy báu dâng lên Như Lai. Lọng ấy tức thời trụ khắp trên hư không che chúng sinh khiến thân họ đều trở thành màu vàng. Dâng lọng xong rồi, thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nguyện đem phước này khiến cho chúng sinh được biện tài thuyết pháp sẽ như Thế Tôn, và hay thọ trì pháp như ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử.
Lúc ấy, Phật biết bồ-tát thiên tử này ưa thích sâu xa Phật đạo, bèn thọ ký Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, nên nói:
- Nay thiên tử này qua bốn trăm bốn mươi muôn kiếp sẽ được thành Phật hiệu Nhất Bảo Cái, cõi nước tên Nhất Thiết Chúng Bảo trang Nghiêm.
Lúc nói pháp này, có hai trăm vị bồ-tát sinh tâm biếng trễ cho rằng pháp của chư Phật Thế Tôn rất sâu, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác như vậy khó đắc, chúng ta chẳng thể đầy đủ việc ấy, chẳng bằng dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn. Vì sao? Phật nói bồ-tát nếu có thoái chuyển hoặc làm Bích-chi-phật, hoặc làm Thanh văn.
Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết hai trăm vị bồ-tát này có tâm biếng trễ thoái lui, Ngài muốn phát khởi cho họ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, và cũng vì muốn giáo hóa Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, a-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… trong hội, nên bạch Phật:
- Thế Tôn! Con nhớ kiếp quá khứ tên Chiếu Minh, con ở trong đó ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn.
Bấy giờ tất cả chúng hội tâm đều sinh nghi: “Nếu nhập niết-bàn thì chẳng nên còn trở lại sinh tử nối tiếp. Hôm nay ngài Văn-thù-sư-lợi cớ sao lại nói lời này: “Bạch Thế Tôn! Con nhớ đời quá khứ kiếp tên Chiếu Minh. Con ở trong ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn”. Việc ấy thế nào?”
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất thừa oai thần của Phật, bạch Phật:
- Thế Tôn! Nếu người đã được nhập niết-bàn chẳng nên còn có sinh tử nối tiếp. Tại sao ngài Văn-thù-sư-lợi nhập niết-bàn rồi, còn sinh trở lại.
Phật nói:
- Ông nên hỏi Văn-thù-sư-lợi, ông ấy sẽ đáp cho ông.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi:
- Nếu người đã được nhập niết-bàn chẳng còn nối tiếp sinh tử trong các cõi. Hôm nay tại sao ngài nói lời này: “Thế Tôn! Con nhớ trong kiếp quá khứ tên Chiếu Minh, ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn”. Nghĩa này thế nào?
Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp:
- Như Lai hiện tại là người biết tất cả, là người thấy tất cả, là người nói chân thật, là người chẳng dối trá, trời người ở thế gian không thể dối Ngài được. Điều của tôi nói, Phật tự chứng biết.
Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy, trong kiếp Chiếu Minh có Phật xuất thế hiệu là Phất-sa làm lợi ích cho các trời người xong, ngài nhập niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, pháp trụ mười muôn năm. Sau khi pháp diệt, chúng sinh lúc ấy đối với Bích-chi-phật thừa có nhân duyên được độ. Giả sử trăm nghìn ức Phật vì họ thuyết pháp họ cũng chẳng tin chẳng nhận, mà chỉ đều có thể dùng thân, oai nghi, pháp Bích-chi-phật mà được độ thoát. Các chúng sinh ấy đều cùng một chí cầu đạo Bích-chi-phật, bấy giờ không có Bích-chi-phật ra đời, các chúng sinh ấy không có chỗ để làm nhân duyên gieo trồng thiện căn. Lúc ấy, tôi vì giáo hóa họ nên tự xưng mình là Bích-chi-phật, các cõi nước, thành ấp, làng xóm đều biết tôi là Bích-chi-phật. Lúc tôi hiện hình sắc, oai nghi Bích-chi-phật, thì các chúng sinh ấy sinh tâm cung kính đều đem thức uống ăn cúng dường tôi. Tôi thọ thực rồi, quán bổn duyên của họ đáng nghe pháp gì thì giảng giải cho họ nghe pháp ấy; giảng nói xong, thân tôi bay lên hư không như con nhạn chúa. Lúc ấy chúng sinh đều rất hoan hỷ dùng tâm cung kính cúi đầu đảnh lễ tôi và nói: “Nguyện chúng con vào đời vị lai đều được pháp lợi như Ngài hiện nay”.
Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên này thành tựu vô lượng vô số chúng sinh khiến họ trồng thiện căn. Lúc đó tôi quán sát biết những người cúng dường tôi sinh tâm biếng trễ, tôi liền nói: “Giờ tôi nhập niết-bàn đến”. Trăm nghìn chúng sinh nghe lời này rồi đều mang hoa hương, tạp hương, tô-du đến chỗ tôi. Lúc ấy tôi nhập diệt tận định, do vì bổn nguyện nên chẳng rốt ráo diệt. Các chúng sinh ấy đều cho rằng tôi mạng chung. Vì cúng dường tôi nên dùng củi thơm thiêu thân tôi, nói rằng tôi thật diệt. Lúc ấy tôi lại đến thành lớn của nước khác tự xưng tôi là Bích-chi-phật, trong ấy chúng sinh cũng đem thức uống ăn đến cúng dường tôi. Tôi ở nơi đó thị hiện nhập niết-bàn, họ cũng nói tôi diệt và đều đến cúng dường cùng thiêu thân tôi. Này Xá-lợi-phất! Như vậy, lúc ấy mãn một tiểu kiếp tôi trải qua ba trăm sáu mươi ức đời làm thân Bích-chi-phật thị hiện nhập niết-bàn, ở trong mỗi thành lớn, đều dùng Bích-chi-phật thừa độ thoát ba mươi sáu ức chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát như vậy dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn mà chẳng diệt hẳn.
Lúc ngài Văn-thù-sư-lợi nói lời này, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng soi khắp, nghìn ức chư Thiên cúng dường Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, mưa các hoa trời đều nói: “Thật là hy hữu! Chúng con ngày nay được thiện lợi lớn là được thấy Phật Thế Tôn và ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, lại được nghe nói về pháp Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này. Thế Tôn! Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thành tựu pháp chưa từng có như thế. Ngài trụ tam-muội nào có khả năng hiện pháp chưa từng có như thế?

Phật bảo chư Thiên tử:
- Văn-thù-sư-lợi trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hay làm được việc khó khăn và hy hữu như thế! Bồ-tát trụ tam-muội này vì người làm tín hạnh mà chẳng theo người khác mà tin, cũng làm pháp hạnh mà đối với pháp tướng chuyển pháp luân chẳng lui chẳng mất, cũng làm tám người: ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp vì người bát tà mà hành đạo làm Tu-đà-hoàn, vì chúng sinh bị sinh tử cuốn trôi mà chẳng nhập pháp vị làm Tư-đà-hàm; khắp hiện thân ở các thế gian làm A-na-hàm; cũng lại giáo hóa chúng sinh mà làm A-la-hán; cũng thường tinh tấn cầu học Phật pháp, cũng làm Thanh văn, dùng biện tài vô ngại vì người thuyết pháp mà làm Bích-chi-phật; vì muốn giáo hóa chúng sinh có duyên nên thị hiện nhập niết-bàn, và do sức của tam-muội nên sinh trở lại.
Này các thiên tử! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này đều có khả năng làm khắp các hạnh Hiền Thánh, cũng theo địa vị ấy thuyết pháp mà chẳng trụ trong đó.
Chư thiên nghe Phật nói nghĩa như thế, thảy đều rơi lệ nói rằng:
- Thế Tôn! Nếu người đã vào ngôi vị Thanh văn, Bích-chi-phật thì mất hẳn Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Thế Tôn! Mọi người thà làm tội nặng ngũ nghịch mà được nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chứ chẳng vào pháp vị làm lậu tận A-la-hán. Vì sao? Vì người làm tội ngũ nghịch nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác rồi, tuy do tội ngũ nghịch bị đọa địa ngục, nhưng nhờ nhân duyên thiện căn nghe tam-muội này mà trở lại được thành Phật.
Thế Tôn! Vị lậu tận A-la-hán giống như đồ bể, chẳng thể kham nhận lãnh thọ tam-muội này. Thế Tôn! Ví như có người bố thí tô-du, mật, có nhiều người mang các thứ đồ đựng. Trong đó có một người không cẩn thận làm bể đồ đựng mang theo, vì thế tuy đến chỗ bố thí tô-du, mật mà không được lợi ích, chỉ được tự no, chứ không thể mang đi đem cho người khác được. Trong đó, người mang đồ đựng bền chắc nguyên vẹn đã được tự no, cũng có thể mang đầy bình đem bố thí cho người khác. Tô-du, mật là chính pháp của Phật. Người mang đồ bể chỉ tự được đủ, chẳng thể đem cho người khác, tức là thanh văn và bích-chi-phật. Người mang đồ nguyên vẹn tức là bồ-tát, chính mình tự được no đủ cũng hay đem cho tất cả chúng sinh.
Khi ấy, hai trăm thiên tử tâm muốn thoái chuyển Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác nghe các thiên tử nói lời này rồi và nghe công đức thế lực chẳng thể nghĩ bàn của Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, dùng tâm sâu xa phát lại Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, chẳng còn theo tâm thoái chuyển trước đó, và bạch Phật rằng:
- Chúng con dù cho bị nguy hại mất mạng cũng chẳng bỏ tâm này và cũng chẳng bao giờ bỏ tất cả chúng sinh.
Thế Tôn! Chỉ nguyện chúng con được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, nhân duyên thiện căn sẽ được mười sức của bồ-tát. Những gì là mười? Đối với tâm bồ-đề được sức kiên cố. Đối với Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn được sức tín sâu. Ở trong đa văn được sức chẳng quên. Qua lại sinh tử được sức không mỏi mệt. Đối với chúng sinh, được sức đại bi bền bỉ. Ở trong bố thí được sức buông xả vững chắc. Ở trong trì giới được sức chẳng hư hỏng. Ở trong nhẫn nhục được sức chịu đựng dẻo dai. Ma chẳng thể phá hoại, được sức trí huệ. Đối với các pháp sâu mầu, được sức tín nhạo.
Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:
- Nếu có chúng sinh ngay nơi hiện tại hoặc sau khi ta diệt độ, nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hay tín nhạo, phải biết người này đều được mười sức kể trên của bồ-tát.
Bấy giờ, trong hội có bồ-tát tên Danh Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Nếu người muốn được phước, phải nên cúng dường Phật. Người muốn được huệ phải siêng năng đa văn. Người muốn sinh vào chỗ tốt phải siêng năng trì giới. Người muốn giàu có lớn, phải nên bố thí. Người muốn thân xinh đẹp phải tu nhẫn nhục. Người muốn được biện tài phải kính sư trưởng. Người muốn đắc đà-la-ni phải lìa tăng-thượng-mạn. Người muốn được trí huệ phải tu chính ức niệm. Người muốn được vui, phải bỏ tất cả điều ác. Người muốn lợi ích chúng sinh phải phát tâm Bồ-đề. Người muốn được tiếng nói hay phải tu thật ngữ. Người muốn được công đức phải ưa viễn ly. Người muốn cầu pháp phải gần thiện tri thức. Người muốn tọa thiền phải lìa chỗ ồn náo. Người muốn tư huệ phải tu tư duy. Người muốn sinh lên trời Phạm Thế phải tu vô lượng tâm. Người muốn sinh lên trời Dục giới phải tu thập thiện.
Bạch Thế Tôn! Nếu người muốn được phước đức, muốn được huệ, muốn sinh vào chỗ tốt, muốn giàu có lớn, muốn thân xinh đẹp, muốn được biện tài, muốn đà-la-ni, muốn được trí huệ, muốn được vui, muốn lợi ích chúng sinh, muốn tiếng nói hay, muốn công đức, muốn cầu pháp, muốn tọa thiền, muốn tư huệ, muốn sinh lên trời Phạm Thế, muốn sinh lên trời Dục giới, muốn đắc niết-bàn, muốn được tất cả công đức, phải nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, tu hành đúng như lời nói.
Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu tam-muội này như thế nào?
Phật nói:
- Này Danh Ý! Bồ-tát nếu hay quán các pháp không, không chỗ chướng ngại, niệm niệm diệt hết, lìa nơi thương ghét, ấy là tu tam-muội này.
Lại nữa, này Danh Ý! Học tam-muội này chẳng vì một việc. Vì sao? Tùy theo tâm, tâm sở hành của các chúng sinh, tam-muội này có các hành ấy. Tùy theo tâm, tâm sở nhập của các chúng sinh mà tam-muội này có các nhập ấy. Tùy theo các căn tính của chúng sinh nhập môn mà tam-muội này có nhập môn ấy. Tùy theo danh sắc của chúng sinh, bồ-tát đắc tam-muội này cũng thị hiện bấy nhiêu danh sắc, biết được như vậy, tức là tu tam-muội này. Tùy theo danh sắc tướng mạo của tất cả chư Phật, bồ-tát đắc tam-muội này cũng thị hiện bấy nhiêu danh sắc tướng mạo, biết được như vậy, tức là tu tam-muội này. Tùy theo thấy cõi nước của tất cả chư Phật, bồ-tát tu tam-muội này cũng tự thành tựu cõi nước như thế, ấy gọi là tu Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Bồ-tát Danh Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Tam-muội này tu hành rất khó.
Phật bảo Danh Ý:
- Vì thế ít có bồ-tát trụ tam-muội này, phần nhiều các bồ-tát tu hành các tam-muội khác.
Bấy giờ, Bồ-tát Danh ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Bồ-tát Di-lặc đây là bậc Nhất sinh bổ xứ kế tiếp Thế Tôn sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Ngài Di-lặc đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?
Phật nói:
- Này Danh Ý! Các bồ-tát được trụ Thập địa, Nhất sinh bổ xứ thọ nhận chính vị Phật thảy đều đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Bồ-tát Di-lặc tức thời thị hiện thần lực như vầy: Bồ-tát Danh Ý và các chúng hội thấy các Diêm-phù-đề của tam thiên đại thiên thế giới này, trong đó có bồ-tát Di-lặc hoặc thấy ở trên trời, hoặc thấy tại nhân gian, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy hầu Phật như ngài A-nan, hoặc thấy trí huệ đệ nhất như ngài Xá-lợi-phất, hoặc thấy thần thông đệ nhất như ngài Mục-kiền-liên, hoặc thấy đầu-đà đệ nhất như ngài Đại Ca-diếp, hoặc thấy thuyết pháp đệ nhất như ngài Phú-lâu-na, hoặc thấy mật hạnh đệ nhất như ngài La-hầu-la, hoặc thấy trì luật đệ nhất như ngài Ưu-ba-ly, hoặc thấy thiên nhãn đệ nhất như ngài A-na-luật, hoặc thấy tọa thiền đệ nhất như ngài Ly-bà-đa, hoặc thấy thiên nhãn đệ nhất như ngài A-na-luật, hoặc thấy tọa thiền đệ nhất như ngài Ly-bà-da. Như vậy trong tất cả các đệ nhất đều thấy ngài Di-lặc hoặc thấy ngài vào các thành ấp xóm làng khất thực, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy tọa thiền. Bồ-tát Danh Ý và các đại chúng, tất cả đều thấy Bồ-tát Di-lặc hiện thần thông thế lực Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thấy rồi rất vui mừng bạch Phật:
- Thế Tôn! Ví như vàng ròng dù có trui luyện cũng chẳng mất tính vàng. Các đại sĩ này cũng lại như vậy, tùy theo chỗ thử thách, các ngài đều có khả năng thị hiện pháp tính chẳng thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, bồ-tát Danh Ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Con cho rằng bồ-tát nếu hay thông đạt Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, phải biết thông đạt tất cả đạo hạnh, đối với Thanh Văn thừa, Bích-chi-phật thừa, và Phật Đại thừa đều thông đạt cả.
Phật nói:
- Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông nói. Bồ-tát nếu hay thông đạt Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì hay thông đạt tất cả đạo hạnh.
Bấy giờ trưởng lão Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:
- Thế Tôn! Con cho rằng ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã từng ở đời trước làm Phật sự, thị hiện ngồi đạo tràng chuyển bánh xe pháp và ở trước chúng sinh nhập đại diệt-độ.
Phật nói:
- Đúng thế, đúng thế! Đúng như lời ông nói. Này Ca-diếp! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp. Lúc ấy, có Phật hiệu Long Chủng Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Từ thế giới này đi về hướng nam qua nghìn cõi nước Phật, có nước tên Bình Đẳng, không có núi sông cát sạn ngói đá gò nổng, đất bằng như bàn tay mọc loại cỏ mềm mại như ca-lăng-già, đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới ấy đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Lần đầu tiên chuyển pháp luân giáo hóa thành tựu bảy mươi ức chúng Bồ-tát, tám mươi ức người thành A-la-hán, chín muôn sáu nghìn người trụ trong pháp nhân duyên của Bích-chi-phật, sau đó tiếp tục có vô lượng Thanh văn tăng.
Này Ca-diếp! Đức Phật Long Chủng Thượng thọ mạng bốn trăm bốn mươi muôn năm, độ trời người xong nhập vào niết-bàn, phân thân xá-lợi lưu bố thiên hạ, dựng ba mươi sáu ức tháp để chúng sinh cúng dường. Sau khi Phật ấy diệt độ, pháp trụ mười muôn năm. Lúc đức Phật Long Chủng Thượng sắp nhập niết-bàn thọ ký cho bồ-tát Trí Minh rằng: “Bồ-tát Trí Minh này kế tiếp sau ta sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác cũng hiệu Trí Minh”.
Này Ca-diếp! Ông nói đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới Bình Đẳng thuở ấy, đâu phải người nào khác. Chớ sinh nghi ngờ. Vì sao? Chính là Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử.
Này Ca-diếp! Ông nay hãy xem thế lực Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, các Đại bồ-tát do sức này nên thị hiện nhập thai, sơ sinh, xuất gia đến cây Bồ-đề, ngồi nơi đạo tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, nhập bát niết-bàn, phân bố xá-lợi mà cũng chẳng bỏ pháp bồ-tát, bát niết-bàn mà chẳng rốt ráo diệt.
Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp nói với ngài Văn-thù-sư-lợi:
- Ngài mới hay làm các việc hy hữu khó làm như thế để chỉ dạy chúng sinh.
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Núi Kỳ-xà quật này do ai tạo ra và thế giới này cũng từ đâu sinh ra?
Ngài Ca-diếp đáp:
- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Tất cả thế giới đều do bọt nước làm thành cũng từ nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh mà ra.
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:
- Tất cả các pháp cũng từ nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn mà có. Tôi đối với nghiệp này không có công sức. Vì sao? Tất cả các pháp đều thuộc nhân duyên không có chủ, nên tùy ý mà thành. Nếu hiểu được điều này thì làm không khó. Này Ca-diếp! Nếu người chưa thấy tứ đế nghe việc này mà có thể tin hiểu thì thật là khó. Người thấy tứ đế rồi đắc các thần thông nghe điều này có thể tin mà chẳng cho là khó
Bấy giờ, đức Thế Tôn thân bay lên hư không cao bảy cây đa-la, ngồi kiết già, thân phóng ánh sáng soi khắp vô lượng thế giới mười phương. Tất cả chúng hội đều thấy vô lượng chư Phật mười phương thảy đều nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chẳng thêm chẳng bớt, từ xa họ đều được nghe. Mười phương chư Phật cũng bay lên hư không cao bảy cây đa-la, ngồi kiết-già, thân phóng ánh sáng soi khắp vô lượng thế giới mười phương. Các chúng sinh kia cũng thấy Phật Thích-ca Mâu-ni, thân bay lên hư không ngồi kiết già. Các chúng hội kia thảy đều dùng hoa từ xa vói rải lên Phật Thích-ca Mâu-ni, đều thấy các hoa ở trên hư không hợp thành lọng hoa. Bồ-tát và các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, v.v… ở cõi này cũng dùng hoa rải lên các đức Phật kia, các bông hoa đều hóa thành lọng hoa che trên Đức Phật.
Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhiếp thần túc lại, ngồi nơi bổn tòa bảo Kiên Ý rằng:
- Đó là sức thần thông của Như Lai. Vì khiến cho công đức của chúng sinh thêm lớn, thế nên Như Lai thị hiện việc này.
Lúc Phật hiện sức thần thông, tám nghìn thiên nhân phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Và lúc nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này sắp xong, bồ-tát Kiên Ý và năm trăm bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thảy đều được thấy thần lực của các đức Phật mười phương, đối với pháp sâu của Phật được trí quang minh trụ Đệ thập địa thọ chức vị Phật. Tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, phóng ánh sáng lớn soi khắp thế giới, nghìn muôn kỹ nhạc đồng thời trỗi lên và trên hư không mưa các thứ hoa.
Bấy giờ, Phật bảo A-nan:
- Ông nên thọ trì Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, đọc tụng rộng vì người nói.
Lúc ấy, Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh bạch Phật:
- Thế Tôn! Ngài A-nan trí huệ ghi nhớ có hạn lượng. Người Thanh văn nhờ âm thanh của người khác mà ngộ đạo, cớ sao Ngài đem pháp bảo tam-muội này chúc lụy cho ngài A-nan?
Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh phát lời chí thành nói:
- Nếu tôi hay ở hiện đời và đời sau rộng tuyên lưu bố pháp bảo tam-muội này không có hư dối thì các cây trong núi Kỳ-xà quật này thảy đều như cây bồ-đề của Phật, dưới các cây bồ-đề đều có bồ-tát.
Đế-thích Trì Tu Di Sơn Đảnh nói lời này xong, liền thấy các cây như cây bồ-đề, dưới mỗi cây đều có bồ-tát. Các cây bồ-đề đều phát ra tiếng nói:
- Như lời của Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh nói, đích thật người này ắt hay khiến cho tam-muội này được rộng tuyên lưu bố.
Bấy giờ, các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… đồng thanh bạch Phật:
- Thế Tôn! Giả sử Như Lai sống lâu một kiếp chẳng vì việc khác, dùng Thanh văn thừa vì người thuyết pháp, mỗi thời thuyết pháp đều như lúc mới chuyển pháp luân độ các chúng sinh. Nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này độ chúng sinh, đây mới là hơn. Vì sao? Các chúng sinh kia đều được dùng Thanh văn thừa độ so với Bồ-tát thừa trăm phần chẳng bằng một, trăm nghìn muôn ức phần cho đến toán số, thí dụ cũng chẳng thể bì kịp. Như Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thế lực vô lượng hay thành tựu các bồ-tát, khiến các ngài được đầy đủ Phật pháp.
Bấy giờ, bồ-tát Kiên ý bạch Phật:
- Thế Tôn! Tuổi thọ thật của Ngài là bao nhiêu? Và đến khi nào Ngài sẽ rốt ráo nhập niết-bàn?
Phật nói:
- Này Kiên Ý! Về phương đông cách thế giới này ba muôn hai nghìn cõi nước Phật, có thế giới tên Trang Nghiêm, trong nước ấy có Phật hiệu Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp.
Này Kiên Ý! Như thọ mạng của Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương, thọ mạng của ta cũng lại như vậy.
- Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương là bao nhiêu?
Phật bảo Kiên Ý:
- Ông hãy tự qua hỏi, Phật ấy sẽ đáp cho.
Bồ-tát Kiên Ý nhờ thần lực của Phật và dùng sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cùng sức thần thông thiện căn của mình trong khoảng một niệm đến thế giới Trang Nghiêm, đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật kia, đi nhiễu bên hữu ba vòng, rồi đứng qua một bên bạch Phật:
- Thế Tôn thọ mạng bao lâu sẽ nhập niết-bàn?
Đức Phật kia đáp:
- Như thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni, thọ mạng của ta cũng lại như vậy. Này Kiên Ý! Ông muốn biết ư? Thọ mạng của ta là bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp, thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni cũng vậy.
Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý lòng rất vui mừng liền trở về thế giới Ta-bà, bạch Phật:
- Thế Tôn! Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương kia thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp, và bảo con rằng: “Như thọ mạng của Ta, thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni cũng lại như vậy”.
Bấy giờ, ngài A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y bày vai hữu, chắp tay hướng vể Phật bạch rằng:
- Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, con cho rằng đức Thế Tôn ở thế giới Trang Nghiêm kia dùng danh tự khác để làm lợi ích chúng sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài A-nan:
- Hay thay, hay thay! Ông nhờ thần lực của Phật mà có thể biết việc này. Thân đức Phật kia chính là thân ta dùng danh tự khác ở thế giới kia thuyết pháp độ thoát chúng sinh. Này A-nan! Sức thần thông tự tại như vậy đều là thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.
Bấy giờ, Phật bảo bồ-tát Kiên Ý:
- Này Kiên Ý! Do vì việc này nên biết ta thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp mới sẽ rốt ráo nhập niết-bàn.
Lúc đại chúng trong hội nghe Phật nói thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn như thế đều rất vui mừng được điều chưa từng có, bạch Phật:
- Thế Tôn! Thần lực của chư Phật thật chưa từng có, tất cả việc làm chẳng thể nghĩ bàn, ở thế giới này thị hiện thọ mạng ngắn ngủi như thế mà thật ra ở thế giới kia thọ mạng dài đến bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp. Thế Tôn! Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn như thế.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kiên Ý:
- Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này ở các chỗ như quận quốc, thành ấp, xóm làng, tinh xá, vườn rừng, thì trong các chỗ ấy các ma và dân ma không được cơ hội thuận tiện khuấy nhiễu.
Lại bảo Kiên Ý:
- Nếu có pháp sư biên chép đọc tụng giải nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này thì đối với người và các loài phi nhân đều không có sợ hãi, lại được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn? Công đức chẳng thể nghĩ bàn, trí chẳng thể nghĩ bàn, huệ chẳng thể nghĩ bàn, phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, pháp sáng suốt chẳng thể nghĩ bàn, tổng trì chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, theo nghĩa ghi nhớ chẳng thể nghĩ bàn, các sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn, phân biệt các ngôn ngữ của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, hiểu sâu sở thích của tâm chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, các pháp được nghe chẳng thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, tam-muội tự tại chẳng thể nghĩ bàn, hình sắc xinh đẹp chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu Tịnh độ chẳng thể nghĩ bàn, công đức tự tại chẳng thể nghĩ bàn, tu hành các ba-la-mật chẳng thể nghĩ bàn, được bất thoái chuyển Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, đó là hai mươi.
Này Kiên Ý! Nếu người biên chép đọc tụng Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn vừa kể ở trên. Thế nên, này Kiên Ý! Nếu người muốn được các lợi ích hiện đời và đời sau, nên biên chép, đọc tụng, giải nói, tu hành Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Này Kiên Ý! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào cầu Phật đạo ở trong nghìn muôn kiếp, tâm siêng năng tu hành sáu ba-la-mật; nếu có người nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này liền hay tin nhận, tâm chẳng lui sụt chẳng kinh chẳng sợ thì phước hơn người kia, chóng đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, hà huống nghe rồi thọ trì, đọc tụng, tu hành, vì người khác mà giải nói. Nếu có bồ-tát muốn nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mà chẳng kinh chẳng sợ, muốn ở trong giáo pháp của tất cả chư Phật hiện tại tự mình hiểu rõ chẳng nhờ người khác dạy, phải nên tu tập tam-muội này. Nếu muốn nghe pháp chưa từng nghe và tin nhận chẳng chống nghịch thì phải nên nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.
Lúc Phật nói kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, lại gấp bội số ấy trụ bậc bất thoái chuyển, lại gấp bội số ấy đắc vô sinh nhẫn; một muôn tám nghìn Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này; một muôn tám nghìn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni vì chẳng thọ các pháp nên lậu tận giải thoát đắc A-la-hán; hai muôn sáu nghìn ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ở trong các pháp được pháp nhãn tịnh; ba mươi na-do-tha chư thiên được nhập Thánh vị.
Phật nói kinh này xong, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, bồ-tát Kiên Ý v.v... tất cả các vị Đại bồ-tát và các đại đệ tử Thanh văn, tất cả chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, A-tu-la v.v... nhân dân ở thế gian nghe lời Phật nói vui vẻ tin nhận.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.9 khách