Thập Thiện Nghiệp

Chia sẻ, thảo luận học hỏi ngũ giới, tám giới, thập giới, đạo đức, phương pháp giáo dục và những vấn đề liên quan.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 4. KHÔNG VỌNG NGỮ:
Vọng ngữ: Có nghĩa là lời nói giả dối chẳng thật, chưa chứng quả đắc đạo, lại dám khoe khoang đã chứng đắc, chuyện có nói không, chuyện không nói có, nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, phải cho là trái, trái cho là phải. Nhẫn đến trước khen sau chê, mặt phải lưng quấy, hứa không giữ lời, trước sau trái ngược, đó gọi là vọng ngữ.

Phật cấm nói dối nhằm để diệt trừ những ý tưởng đen tối, ích kỷ, lừa đảo độc ác làm cho người ta lâm vào cảnh tán gia bại sản. Người nhẫn tâm như thế là tự bóp chết lòng nhân từ, hậu quả thật khó lường. Có người bảo, tôi chỉ nói chơi cho vui chớ không có ác ý. Tuy không ác ý, nhưng làm cho người ta khổ thì có khác gì kẻ ác.

Quý Phật tử nên nhớ, nói chơi vẫn có hại, vì lâu ngày thành ra thói quen, sau này nói thật không có ai dám tin. Một lần nói dối chín lần nói thật đều vô ích. Nói dối rất có hại, nó làm thất nhân tâm, không ai tin cậy mình nữa. Nếu là tu sĩ, thì không chứng quả thánh, thợ thuyền ít người mướn; người buôn bán bị mất uy tín... Trong sự giao tiếp và mua bán, sự giả dối là điều cấm kỵ, vì nó có thể lừa gạt được vài người trong thời gian ngắn, chớ không thể lừa hết mọi người. Cho dù họ có khôn khéo thế nào, nhưng sau cùng bị người ta vạch trần lột mặt giả dối. Đó là nguyên nhân đưa đến hàng hóa ế ẩm, rồi dẹp tiệm. Nên người xưa thường bảo: "Chân thật bất hư".

Thật sự mà nói, làm ra đồng tiền đâu phải dễ, khi đi mua sắm ai cũng hy vọng người bán nói thật, không ngờ bị lừa, khiến cho người mua lầm sanh tâm buồn phiền tức giận. Thế là người bán họ đã cướp đoạt xương máu và đời sống của người ta rồi. Kẻ gian xảo, dối trá đời nào giữ được tiền của.

Nên Lão Tổ nói:
  • Làm ăn bất chánh: Con cháu cơ hàn.
    Làm ăn bất lương: Ngục hình đọa đày.
    Lợi mình, hại người: Tài tan khó giữ.
    Mua lận, bán lường: Của cải tiêu tan.
    Đo gian, đong thiếu: Luân hồi thiếu hụt,
    Vì lợi dối người: Sau bị người gạt.

    Tin nhau buôn bán cùng nhau
    Thiệt hơn, hơn thiệt trước sau như lời.
    Hay hơn lừa đảo kiếm lời
    Một nhà ăn uống tội trời riêng mang
    Theo chi những thói gian tham
    Phôi pha thực giả, tìm đường dối nhau
    Của phi nghĩa có giàu đâu!
    Ở cho ngay thẳng, giàu sang mới bền.
        • Cổ Đức.
Chẳng những thế thôi, đời đời sanh ra, làm ăn mua bán đều bị thất bại.

Trong kinh Tăng Chi nói: "Thuở Phật còn trụ thế, ngài Xá Lợi Phất muốn cho tứ chúng biết được sự tai hại của lời nói dối. Nên một hôm, ở giữa chúng hội hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Nguyên do sao có người mua bán được, kẻ lại không?"

Phật bảo: "Người mua bán được là nhờ đời trước khẩu nghiệp thanh tịnh, nói lời chân thật, làm ăn lương thiện, mỗi khi hứa với ai điều gì, không hề sai trái. Lại có người chẳng những hứa giữ lời mà còn làm hơn thế nữa, cho nên đời sau buôn bán làm ăn phát đạt nhiều hơn sự mong muốn. Còn người mua bán không được là do đời trước hoặc hiện tại, họ vào chùa thì nói, con cúng dường cái này, giúp việc nọ... nhưng rốt cuộc không có cúng gì hết. Ở ngoài xã hội thì xảo trá, đủ cách gạt người, nên bị quả báo mua bán thua lỗ, sự nghiệp tiêu tan đều do giả dối gây nên. Vậy các con hãy tinh tấn giữ gìn khẩu nghiệp cho được trọn lành hầu tránh khỏi quả xấu về sau". Tứ chúng nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

Cổ Đức cũng dạy: "Một lời nói thật ai cũng tin dùng, nếu giả dối muôn việc khó thành". Quả thật, lời nói đóng một vai trò rất quan trọng, quyết định vận mạng của chúng ta, đem lại danh vọng vật chất hay thân bại danh liệt, sự nghiệp tiêu tan.

Đức Khổng Tử nói:
  • Nhứt ngôn khả dĩ hưng bang
    Nhứt ngôn khả dĩ tán bang".
Nghĩa là một câu nói mà nên nhà lợi nước, cũng mọt câu nói mà làm cho nhà tan nước mất, thâm chí còn đưa đến mất mạng.

Như vào thời Đông Chu Liệt Quốc, Tống Mẫn Công có người tướng tên là Nam Cung Trường Vạn. Một hôm đi đánh nước Lỗ, Nam Cung Trường Vạn sa cơ thất thế bị giặc bắt.

Cũng lúc ấy, nước Tống bị thiên tai, Lỗ Trang Công không nghĩ đến thù xưa, còn sai người sáng cứu giúp. Tống Mẫn Công thấy thế cho sứ giả qua tạ ơn và xin tha cho Nam Cung Trường Vạn.

Nam Cung Trường Vạn được thả về nước, Tống Mẫn Công nói đùa:

- Trước kia ta rất coi trọng ngươi, bây giờ đã là tù nhân thì ta không còn trọng nữa đâu.

Thấy Nam Cung Trường Vạn lui ra mặt đỏ tia tai, hết sức hổ thẹn. Đại phu Cừu Mục nói với Tống Mẫn Công:

- Chúa công chớ nên coi thường sự đùa giỡn mà sinh ra lòng khinh nhờn hay dẫn đến sự phản nghịch.

Tống Mẫn Công trả lời:

- Ta với Nam Cung Trường Vạn rất thân thiết, khanh chớ có sợ.

Một hôm Tống Mẫn Công đánh cờ thắng Nam Cung Trường Vạn, nên đắc ý nói dùa giỡn:

- Ngươi là tên tù chẳng làm được việc gì, thì làm sao đánh thắng được ta.

Nam Cung Trường Vạn tức giận đứng lên nói:

- Kẻ tù này tuy đánh cờ không thắng được vua, nhưng có thể giết vua.

Nói xong lấy bàn cờ đập bể đầu Tống Mẫn Công chết ngay tại chỗ, rồi làm loạn.

Chuyện trên cho chúng ta thấy, sở dĩ nó xảy ra án mạng là do nói chơi quá lố, xúc phạm đến danh dự người khác, đưa đến mất mạng.

Nên người xưa dạy:
  • Lời nói chẳng mất tiền mua
    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Nói dối để che dấu tội lỗi, đem lợi ích cho mình hại người, tội càng nặng hơn, chỉ trừ khi, gặp người và vật bị tai nạn gấp rút, vì lòng từ bi cứu giúp trong lúc lâm nguy thì không phạm. Ngược lại, do lòng tham, sân, ích kỷ, đố kỵ, gạt người thời phạm.

Trong kinh Chánh Niệm Xứ nói: "Nếu ai hay dùng lời nói giả dối, não hại chúng sanh, kẻ ấy thường bị giam trong ngục tối tăm. Khi sanh lên nhân gian, bị quả báo không tai, mắt, mũi, lưỡi".

Đúng như trong truyện cổ Phật giáo kể: Vào thời đức Phật, có một cậu công tử tên là Mạn Từ Tỳ Lê, khi sanh ra không có tay, mắt, mũi, lưỡi. Ông trưởng giả gần bên thấy thế đến hỏi Phật, do ác nghiệp gì câu tạ mắc phải quả báo như thế?

Phật đáp: "Lành thay! Này trưởng giả, thuở xưa hồi thời quá khứ cậu ta ỷ mình làm quan xử kiện, nhận của hối lộ, nói sai sự thật, vì nhân duyên ác nghiệp ấy, nên mắc quả báo như vậy.

Này trưởng giả, nên biết sự báo ứng rõ ràng, hãy cẩn thận miệng, lưỡi chớ có tham lợi mà nói giả dối để rồi phải lãnh thọ ác báo như thế!"


Để cho hàng đệ tử thấy được sự tai hại của sự nói dối. Trong kinh A Hàm nói:

Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài đến rừng Ôn Tuyền, trú xứ của tôn giả La Hầu La. Khi đức Phật đến nơi, Tôn giả ra đảnh lễ và múc nước vào chậu cho Phật rửa chân. Đức Phật rửa chân xong, ngài hỏi:

- Này La Hầu La nước trong chậu sạch hay dơ?

- Bạch Thế Tôn! Dơ.

- Con nghĩ thế nào, nước trong đó có dùng được không?

- Thưa Thế Tôn không dùng được nữa.

Nhơn đó Phật dạy:

- Này La Hầu La, người nào hay nói dối cũng giống như chậu nước bị bẩn, đổ đi chứ không xài được. Cũng vậy Ta nói rằng: "Đạo cũng người kia mất hết. Nghĩa là đã biết đó là sai mà vẫn nói dối, không biết xấu hổ, ăn năn, sám hối. Người như thế việc ác nào họ cũng dám làm".

Đức Phật hỏi tiếp:

- Này La Hầu La, người ta dùng gương để làm gì?

- Bạch Thế Tôn! Để nhìn xem gương mặt sạch hay không sạch.

- Cũng vậy, này La Hầu La: "Khi con tác ý, nói làm việc gì, cần phải tịnh tâm quán sát, xem nó thiện hay bất thiện. Nếu là thiện, thì nó đưa đến lạc quả, thọ lấy ác báo. Còn bất thiện thì nó đưa đến khổ quả, thọ lấy khổ báo".

Lúc đó, đức Thế Tôn lại nói bài kệ rằng:
  • La Hầu La nên biết
    Người nào phạm nối dối
    Không chừa sự dữ nào
    Thà nuốt viên sắt nóng
    Chứ không nên phạm giới
    Nếu tạo nghiệp bất thiện
    Không thoát sự báo ứng
    Muốn không gây ác nghiệp
    Con phải thường quán sát
    Thân, khẩu và ý nghiệp
    Thiện hay là bất thiện
    Nếu đó là nghiệp thiện
    Thì tinh tấn thực hành
    Ngược lại là bất thiện
    Thì phải mau đoạn trừ
    Là con bậc chánh giác
    Phải giữ gìn miệng mình
    Chớ nói lời giả dối.
Đức Phật thuyết giảng xong, Tôn giả La Hầu La và chư Tỳ kheo hoan hỷ phụng hành.

Nói tóm lại, muốn tránh quả báo xấu và được người đời tín nhiệm, làm ăn phát đạt lâu dài, phải giữ chữ tín làm đầu. Cho dù chuyện lớn hay chuyện nhỏ, từ trong gia đình cho đến cơ quan, đoàn thể... khi nói làm việc gì phải ngay thật thì mới thành công tốt đẹp hưởng nhiều phước lành.

Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa vọng ngữ thời được tám pháp trời, người khen ngợi:
  1. Miệng thường thanh tịnh, thơm mùi hoa ưu bát.
  2. Được người đời tin phục.
  3. Mở lời thành thật trời, người kính mến.
  4. Thường đem lời êm dịu an ủi chúng sanh.
  5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh.
  6. Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỷ.
  7. Mở lời tôn trọng nhân, thiên vâng làm.
  8. Trí tuệ thù thắng, không ai chế phục.
Nếu ai đem công đức lành đó, hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề thời sau khi thành Phật được chân thật ngữ của Như Lai".

Nên có câu:
  • Giới thứ tư cấm trừ vọng ngữ
    Chớ buông lòng hung dữ điêu ngoa
    Ngược xuôi láo xược lời ma
    Nói qua nói lại cũng là như nhau
    Ai không lừa dối chút nào
    Nói năng thông suốt, hơi ngào ngạt thơm
    Bàng bạc như suối nước tuôn
    Nói ra ai cũng mến thương tin dùng.
Ngược lại, Luận Trí Độ dạy: "Vọng ngữ gặt lấy mười nghiệp xấu:
  1. Hơi miệng thường hôi thúi.
  2. Các thiên thàn tránh xa, ác quỷ dễ gia hại.
  3. Dù nói thật chẳng ai chịu tin.
  4. Người trí chê bai, chẳng ai tham dự.
  5. Tiếng xấu đồn khắp thiên hạ.
  6. Người không kính trọng, khi có việc sai khiến họ chẳng vâng theo.
  7. Thường lắm lo buồn.
  8. Trồng nghiệp nhân xấu.
  9. Thân hoại mệnh chung dọa dịa ngục.
  10. Khi sanh làm người các căn thiếu sót".[/lít] Than ôi! Nghe lời Phật dạy như vậy rất đáng sợ hãi.

    Cổ Đức có khuyên rằng:
    • Ác vọng ngữ thứ tư cũng cấm
      Nói thêm thừa, huyễn hoặc đủ điều
      Đời bất công mấy ai xem sửa
      Trên điêu ngoa, dưới chẳng phục tùng.
      Khuyên nhân sanh lấy lẽ chí công
      Mà ăn ở, nói năng chơn chất.
      Phật từ bi độ trong nhơn vật
      Là luật kinh dạy rất tinh tường
      Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương
      Chừng ấy mới kêu mời khó rước
      Người dương thế chẳng ưa bốc xước
      Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn
      Đã tu hành đừng có bôn chôn
      Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán
      Người hiểu rành lại càng thêm chán
      Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu
      Nói với ai cũng phải lựa điều
      Đừng tráo chác cho người khi dễ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 5. KHÔNG NÓI LỜI HAI LƯỠI:
Hai lưỡi là lời nó đâm thọc, tới người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này, khui chuyện người ra dèm pha, hủy báng, châm chích cho người xa lìa ân nghĩa, ghẹo chọc cho người nóng nảy đua tranh, làm cho hai bên gây thù kết oán với nhau, đó gọi là nói hai lưỡi.

Tại sao Phật cấm không cho chúng ta nói lời hai lưỡi? Vì nó là nguyên nhân làm cho cốt nhục chia lìa, quyến thuộc, bạn bè ly tán, quân thần nghi kỵ, xã hội phân chia, chúng sanh hiềm hận, tàn hại lẫn nhau. Người vô lương tâm như thế, hiện tại gây ác cảm với mọi người, tổn giảm phước đức, theo luận nhân quả tự nhiên khiến cho gia đình quyến thuộc của họ thường xảy ra xào xáo, con cháu bất hòa.

Trong kinh Địa Tạng dạy: "Nếu ai ác tâm phá sự hòa hợp của người khác, bị quả báo gia đình quyến thuộc kình chống lẫn nhau". Người đó đi đến đâu làm bất cứ việc gì đều bị người ta phá vỡ làm hỏng hết mọi việc, thậm chí cho dù kẻ đó có đi tu nhưng khó bề yên thân thường gặp chướng duyên, ác nạn ngăn cản phá tan sự tu hành, không thể thành tựu đạo quả.

Bồ Đề Lão Tổ cũng dạy:
  • - Xúi kiện thưa người: Con cháu bất hòa.
    - Xúi con hiếp người: Chịu đời thất thế.
    - Xui vợ chồng tan rã: Gia đạo linh đinh.
    - Thèo lẽo chuyện người: Tổ tiên phiền giận.
Nói đến tai hại của sự xúi dục chia rẽ, trong sách xử thế có câu chuyện: "Có cô gái tên là Hồng khi về nhà chồng, ỷ mình có nhiều của hồi môn, nên cô ta không biết kính nễ một ai, thường làm theo ý riêng, lại hay tranh cãi dành phần phải về mình. Vì thế nên đánh mất hết sự thương yêu của chồng và lòng kính trọng thông cảm, giúp đỡ của các thành viên trong gia đình, khi ấy cô cảm thấy lẻ loi nên đâm ra tự ái xách gói về nhà, rồi nói xấu bên chồng đủ điều". Cha mẹ cô ta không rõ nguyên nhân lại nghe theo, cộng thêm bạn bè xúi dục: "Mầy chịu dựng rất hay, nếu như gặp tao, đã ly dị từ lâu rồi". Gia đình người ta rạn nứt, mình không hàn gắn lại thì thôi, có đâu đổ dầu vào lửa cháy tan hạnh phúc của họ, quả báo thật khó lường.

Lại có gia đình nữa, hoàn cảnh cũng giống như thế, nhưng ông cha có đạo đức nên xử trí rất hay. Ông nói: "Người ta có ác cảm đối với con, là vì con có khuyết điểm gì đó, cần phải xét lại mình để sửa đổi, chớ có trách họ". Cô con gái nghe cha nói có lý, liền thay đổi tánh tình, tự hạ mình tùy thuận làm tròn bổn phận dâu con, từ đó hạnh phúc đến với cô ta.

Vì thế, những ai là bậc cha mẹ muốn cho con được hòa hợp, thì đôi bên phải lấy đạo đức dạy dỗ con mình, đừng vì chuyện không đáng mà bênh vực, đả kích lẫn nhau. Làm như thế vô tình chia rẽ chúng nó mà mắc phải quả báo về sau.

Lại nữa, trên đời có nhiều người thấy cũng lạ. Ở không chẳng biết làm gì, mãi đi dạo xóm nói chuyện phải trái, hơn thua đâm thọc, làm cho người ta gây thù kết oán với nhau, lại nói giọng tốt, anh chị là chỗ quen thân tôi mới nói, nghe rồi chớ kể lại với ai. Mình không giữ được nói cho người khác nghe, lại bảo họ giữ cho mình là sao? Làm cho người ta khổ, chính mình đã mang một khối phiền não, ganh tỵ, đố kỵ, gây hờn, chuốc oán, ăn ngủ không yên, thật là làm chuyện dại dột, vô tình rước họa vào thân.

Trong sách xử thế có câu chuyện: "Có cô con gái tên là Ánh tánh tình nham hiểm. Đến tuổi trưởng thành có lên xe hoa về nhà chồng. Chẳng những cô không làm tròn bổn phẩn của dâu con, trái lại cô đến người này nói xấu người kia, đến người kia nói xấu người này, làm cho những người trong gia đình bên chồng kỵ hiềm lẫn nhau. Thậm chí cô còn xúi dục chồng chửi mắng, đánh đập những ai mà cô không ưa.

Kết quả bị mấy đứa em bên chồng đánh cho một trận. Cô ta tức quá cuốn gói trở về nhà mẹ đẻ. Nhưng chứng nào tật nấy tối ngày cô cứ mãi đi nói chuyện thị phi, mỉa mai đâm thọc cuối cùng bị người ta đánh chết.

Làm dâu nên giữ hòa khí trong gia đình bên chồng và sự tương quan ngoài xã hội cho được tốt đẹp để tích lũy phước đức. Trái lại, làm cho gia đình bên chồng xào xáo, xã hội phân chia thì phước đức sẽ tiêu tan. Ôi! Một lời nói mà người ta có thể giết hại mình, đồng thời cũng lời nói khiến người nghe sanh tâm hoan hỷ hy sinh tất cả vì mình". Cho nên Phật dạy: "Trước khi nói, trong khi nói và sau khi nói phải cho thuần thiện". Có như thế mới hưởng được sự an lạc ở hiện tại và tương lai.
  • Vừa thấy thị phi dấy
    Thời liền đánh mất tâm
    Thị phi tâm trí loạn
    Niệm Phật tâm trí an
    Thị phi thêm thù oán
    Niệm Phật thân tâm nhàn.
Vì vậy, phàm trong lúc rảnh rỗi, xem kinh, nghe pháp, làm việc lợi ích cho đời hay hơn là đâm thọc, phá hoại làm cho người thù, kẻ oán, mang họa sát thân, đời sau phải chiêu cảm quả báo đau khổ khôn cùng ở chốn địa ngục.

Kinh Tội Nghiệp, Báo Ứng, Địa Ngục nói: "Thuở Phật còn trụ thế, một hôm, ngài Tin Tướng Bố tát du hành cảnh giới địa ngục; thấy có nhiều chúng sanh bị quỷ sứ nó đổ nước đồng sôi vào miệng, cho ăn hoàn sắt nóng, khổ bức toàn thân, oằn oại rên la, chết đi sống lại hành tội liên miên. Chứng kiến thảm cảnh đó, ngài về hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Do ác nghiệp gì mà họ lãnh thọ ác báo như vậy?"

Phật bảo: "Lúc làm người ở trên dương thế, chúng thường đem lời đâm thọc, xuyên tạc phá hoại sự hòa hợp của người ta, cho nên mắc phải quả báo như thế".

Nhơn đó Phật dạy chúng: "Các con hãy giữ gìn lời nói luôn luôn trong sạch, cho tâm ý trở nên thanh bạch, đừng làm một việc gì sái quấy, giữ ba điều ấy là lời dạy của chư Phật để tu tiến đến quả vị giải thoát an vui".

Hiền nhân kệ rằng:
  • Lời nói để phá hòa ra nghịch
    Lời nói thường giết chết được người
    Cho nên tất cả mọi người
    Trước khi nói phải lựa lời cho thanh
    Nói tổn đức, nói sanh thù oán
    Nói chia lìa nói, tiếng chây chua
    Thì là nhất định phải chừa
    Dù ai cạy lưỡi không thưa thốt lời.
Trong xử thế hàng ngày cũng như giao tế trong kinh doanh, nhà văn Hoàng Xuân Việt nói: Chúng ta nhiều khi nói năng và ứng xử thất nhân tâm hơn là đắc nhân tâm. Nói cách khác là chúng ta chọc thiên hạ ghét ta nhiều hơn là làm cho họ quý mến. Tại sao họ dễ ghét ta nhiều hơn là thương? Tại vì khi tiếp xúc với họ, ta nói năng vụng về, cười cợt lã lơi, thường cướp lời người, mất hết lịch sự, thiếu luôn lễ độ, ăn uống thô tháo, mặc đồ xốc xếch, xét đoán chủ quan, tánh hay tự ái, lại thích trấn áp, ngó ngang liếc dọc, đâm thọc, nhìn người ta với cặp mắt xoi mói v.v... Đó toàn là những thứ chống đối lại với kẻ khác, như thế thử hỏi làm sao họ có thiện cảm với ta. Khi họ đã có ác cảm với ta thì trông mong gì họ nghe ta nói và giúp ta điều gì, giữa ta và họ coi như "rút cầu". Có vô số trường hợp chỉ cần sơ ý một chút là họ sẽ ghét ta ngay. Muốn cho kẻ khác bằng mặt và bằng lòng, quý mến ta thì ta phải nỗ lực chế ngự những khuynh hướng trên. Đừng tỉ mỉ, bắt bẻ, tự cao phê bình cho người ta là thiếu khả năng, không chuyên môn, non kinh nghiệm, lỗi thời, nói bậy, sai lầm, làm ẩu, ngu si... Nghe như vậy, mấy ai còn được sự bình tĩnh để nói chuyện với ta.

Trong khi tranh luận, chúng ta phải bình tĩnh nhẫn nại, lấy trí huệ phán xét vấn đề, nhằm tìm ra chân lý chớ không phải để ăn thua.. Cần dẹp bỏ lòng tự ái, tự cao, đâm thọc, chỉ trích, đả kích, đừng để cho sân si, quyền lợi, tình cảm cá nhân che mờ lý trí. Lúc tranh luận nên tập nhường lời, biết bỏ qua những sai sót nhỏ nhặt của đối phương, chỉ nghĩ đến những điểm quan trọng rồi ân cần khéo hướng dẫn họ nhận ra lẽ phải. Trong lúc tranh luận dừng tỏ ra trưng tài khoe đức. Ai biết hạ mình xuống thì sẽ được người khác nâng nhấc lên, đó là lời vàng của người xưa cho ta tu đức. Trái lại, tự đề cao mình lên sẽ bị người ta kéo xuống, tâm lý ai cũng nói mình đúng, cho nên trong bất cứ môi trường nào, chúng ta phải biết nhường nhịn vì mỗi người đều có quan điểm khác nhau. Đừng nghĩ rằng càng cãi dữ thì thuyết phục được đối phương, những cuộc tranh luận như thế sẽ dẫn đến gây lộn thậm chí có trường hợp ẩu đả lẫn nhau. Thế là ta tạo ra tấm vách ngăn cách giữa ta với người.

Sự cãi lẫy đôi co, ẩu đả là do tính chủ quan thường khiến cho người ta ít thận trọng lời nói và việc làm, hay đưa tới những kết quả xấu hoặc không thuận hợp với những diễn biến trong cuộc sống. Tính chủ quan cũng thường gây mất lòng người khác, kết quả công việc sai lệch hay đổ vỡ. Tính chủ quan mặt khác còn làm trì trệ công việc và ngăn chặn sư tiến hóa trong nhận thức và trí thức con người.

Đức khiêm cung, khiêm tốn có cung cách là đặc điểm của người trí thức có đạo hạnh. Thật đáng tiếc cho một số người có trí thức lại thiếu đức khiêm cung, thường tự hào, huênh hoang muốn làm thầy thiên hạ.

Một người có khả năng khi đạt được địa vị cao trong xã hội lại biết giữ đức khiêm cung là người biết thủ lễ, có đức hạnh. Người có tài đức đều thận trọng giữ gìn phẩm cách, không "vỗ ngực xưng tên" để người đời ngưỡng mộ mình, không cần bày tỏ tham vọng của mình. "Hữu xạ tự nhiên hương". Có chất thơm thì tự nhiên mùi hương phát ra, người ta ngửi thấy, nghe biết mà tìm đến.

Người nào giữ được đức khiêm cung thì loại trừ được ngũ quỷ (tự cao, tự tôn, tự mãn, tự hào và tự đại) trong lòng mình. Tự cao là kiêu ngạo, tự phụ. Tự mãn là tự xưng ta đây. Tự hào là kiêu hãnh tự đắc. Tự đại là lên mặt. Năm "ác tính" nay đều làm "thất nhân tâm", có hậu quả xấu trên mọi lãnh vực.

Muốn cho người khác kính mến ta, tại sao ta lại làm cho họ mất mặt trước đám đông. Họ có danh dự của họ, nếu có lỗi lầm chi, ta nên khéo nhắc nhở. Còn như ta có lỗi lầm thì thành thật nhận khuyết điểm, vì chúng ta chưa phải là Phật, Thánh thì trong một trăm lần xét đoán, đúng được bảy tám chục lần mà thôi. Nếu đối phương quá bảo thủ, chủ quan, chúng ta cần tế nhị mời họ thử đặt mình vào địa vị của người ngoại cuộc để xét vấn đề. Nếu họ không nhận ra lẽ phải, quá cố chấp nóng nảy ta phải lanh trí, nhẹ nhàng phân tích một cách khéo léo. Nếu chúng ta không khéo bàn luận thành ra cãi lộn, mà cãi lộn thì hỏng hết mọi việc. Trường hợp họ còn bảo thủ, ngang ngược thì thượng sách là ta nên tránh né các cuộc cãi vã, hoặc nhượng bộ chấm dứt là hơn. Ông A-Do-O nói: "Lý luận không bao giờ thắng kẻ ngu".

Nói như thế không phải tuyệt đối tránh hết những tranh luận cần thiết, có lúc phải tranh luận để bênh vực chân lý, bảo vệ điều chính đáng. Có nhiều người viện lý do cầu cho mình được bình an. Như thế là vô tình để cho họ chê ta là kẻ ngu dốt, yếu hèn. Nếu vì lý do nào đó mà im lặng để cho cuộc tranh luận đưa đến kết quả tai hại cho một cá nhân hay đoàn thể thì sự im lặng ấy đắc tội. Nhiều người biết như vậy nhưng không dám nói ra vì sợ thiên hạ nói mình chống lại họ.

Muốn nói cho người ta nghe theo mình mà thiếu duyên lành thì quả thật vô cùng khó khăn, chính đức Phật có đầy đủ phước đức, biện tài, dùng vô số phương tiện nhiệm mầu hóa độ chúng sanh, có người vừa nghe qua, liền giác ngộ hoan hỷ tín thọ phụng hành, nhưng cũng có người không muốn nghe còn chống đối lại, điển hình như Đề Bà Đạt Đa... Cho nên kinh Phật có câu: "Phật hóa hữu duyên nhơn" nghĩa là đức Phật chỉ hóa độ được những chúng sanh có duyên với ngài, còn không có duyên thì không độ được. Chẳng hạn như trường hợp vợ ông trưởng giả Cấp Cô Độc, Phật và chư Thánh Tăng không độ được, nhưng tôn giả La Hầu La lại độ được bà quy y Tam bảo, tho trì ngũ giới. Chư Tăng thấy thế lấy làm lạ hỏi Phật nguyên do tại sao?

Phật nói: "Sở dĩ La Hầu La độ được vợ ông Cấp Cô Độc là vì trong nhiều kiếp trước La Hầu La đã từng làm con của bà".

Truyện trên cho chúng ta thấy, gặp trường hợp mình nói lẽ phải mà người ta không nghe, chứng tỏ rằng ta không có duyên với họ thì chớ có tranh cãi làm chi cho sanh phiền muộn.

Hơn nữa, các pháp nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, chúng ta chỉ là trò huyễn hóa, vô thường giả tạm, cho dù đúng sai, tốt xấu, được mất, hơn thua, chung qui rồi cũng trở về cát bụi. Chúng ta chớ có cưỡng cầu, làm chi để rồi tạo thêm nghiệp chướng.

Tóm lại, trong kinh Chánh Niệm Xứ nói: "Người nào chẳng nói lời hai lưỡi thì không có chuyện rắc rối, từ trong gia đình, dòng họ cho đến bà con lối xóm, bạn bè, kẻ xa, người gần đều kính mến. Người dó đi đến đâu cũng được tiếp dón tử tế, dù gặp chuyện khó khăn thế nào vẫn dàn xếp được dễ dàng, lại hưởng được phước lành, thân tâm an lạc, quyến thuộc trên thuận dưới hòa, lòng tin kiên cố không ai phá hoại được. Lại chẳng sa đường dữ, đời đời sanh ra được gặp thầy lành, bạn tốt tận tình giúp đỡ tạo điều kiện thuận tiện cho mình tiến tu cho đến ngày thành công đắc đạo.

Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa nghiệp hai lưỡi thời thành tựu năm pháp không thể phá hoại:
  1. Được thân bất hoại, không ai hại được.
  2. Được bà con bất hoại, không ai hại được.
  3. Được lòng tin bất hoại.
  4. Được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu hành kiên cố.
  5. Được thiện trí thức bất hoại, không dối lừa nhau.
Nếu ai hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật được quyến thuộc chân chánh, tà ma ngoại đạo không thể phá hoại".

Ngược lại, kinh Thành Thật nói: "Nếu ai đem lòng ác xúi người gây gổ, đánh lộn mắc tội rất nặng, đời đời gặp toàn quyến thuộc hung dữ. sát phạt lẫn nhau lại bị người ngoài châm chích phá hoại làm cho gia đình dòng họ chịu cảnh chia ly".

Kinh Chuyển Luân Ngũ Đạo, Phật dạy: "Làm người hay nói lời đâm thọc, tuyên truyền điều xấu của người, chết đọa địa ngục, bị quỷ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, rồi cắt lưỡi. Mãn kiếp dịa ngục sanh là ác điểu, người nghe thấy tiếng kêu ai cũng ghê sợ, trù rủa cho nó chết, khi được làm người tâm thường tán loạn lại bị kẻ khinh người hại, khổ não triền miên".

Than ôi! Nghe lời Phật dạy, chúng ta phải biết sợ hãi, hổ thẹn, tinh tấn tu hành cầu xin sám hối tẩy trừ tội lỗi.

Cổ Đức than rằng:
  • Ác nơi khẩu thứ năm lưỡng thiệt
    Với người này dùng lời tha thiết
    Đến kẻ kia đâm thọc cho gây
    Khá chừa đi hương đảng bớt rầy
    Dùng sự thật giải bày tâm trí
    Người choảng nhau tại mình gia vị
    Mà cũng không hưởng được lợi danh
    Sau rõ ra chúng lại ghét ganh
    Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 6. KHÔNG NÓI ÁC KHẨU:
Ác khẩu là nói lời hỗn ẩu, cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, nhục mạ, cho người ta là đồ ma quỷ, ngu si như trâu bò, heo, cho, hoặc hăm dọa dánh đập, giết hại người... đó gọi là ác khẩu.

Phật cấm nói lời độc ác vì nó làm cho người nghe khó chịu, buồn khổ, hổ thẹn, tủi nhục, thế là ta đã tự bóp chết tình thương rồi. Thử nghĩ mình bị ai nói chạm tự ái một chút liền phiền giận không nguôi. Tại sao ta lại vì một chút lỗi lầm của người mà sanh tâm cố chấp, chửi mắng, hủy nhục làm chi cho thêm thù, vướng oán. Vì thế, Bồ Đề Lão Tổ dạy:
  • Lời nói chẳng lành, nhá họa liên thanh
    Nói không độ lời, thường sanh tai biến.
Hay là:
  • Họa tùng khẩu xuất
    Bệnh tùng khẩu nhập.
Thần khẩu hại xác phàm, nói bậy bạ mang họa vào thân!

Như chuyện vào thời chúa Nguyễn, Đỗ Thành Nhơn là vị tướng tài. Một hôm ông nói, lệnh của ta tức là lệnh vua. Khi lời nói đó đến tai chúa Nguyễn, ngài liền nổi giận cho triệu về triều hỏi tội, rồi đem ra pháp trường chém đầu.

Muốn cho yên thân, ích nước, lợi nhà, khi nói phải thật thà, êm dịu. Bởi con người ta bất bình với nhau, vì có kẻ khác hơn mình, nếu mãi hơn thua ắt ta bị hại, thêm sa cơ lại bị xích xiềng, tù tội, tử hình. Chuyện trên để cảnh giác cho những ai thích nói bướng càn, không suy xét, đo lường hậu quả của nó hãy lấy đó mà suy!

Ở đời tôi thấy có nhiều người lúc nào cũng muốn mọi người tán thán, khen ngợi mình. Nhưng trái lại đi nói trên đầu trên cổ người ta. Nếu là người hiền thì nhịn, gặp kẻ dữ họ đánh nói sao gặp chuyện chẳng lành.

Chúng ta nhìn ra ngoài xã hội cho đến trong gia đình, có nhiều khi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu... bất bình nhau điều gì đó, liền tìm mọi cách gây gổ, chửi rủa tay đôi chưa đủ, lại đem ông bà hai bên ra chửi tan nát, nào là đập đồ, đốt phá, lập bè kết đảng, chống đối, đấm đá, đâm chém làm cho cả xóm náo động. Kết quả đôi bên đều bị tổn hại, khi đó ăn năn đã quá muộn màng.

Người xưa từng khuyên:
  • Chim khôn hót tiếng rảnh rang
    Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Hay là:
  • Bằng như lời ấy thốt ra
    Làm buồn kẻ khác thì ta xin đừng.
Quý vị nên biết, lời nói giống như ly nước đổ rồi hốt lại sao đầy, cũng như mũi tên bắn ra không rút lại được, một lời nói quấy cho dù sao này có xin lỗi, người ta dễ tha thứ cho nhau nhưng khó quên đi dĩ vãng, mỗi khi buồn họ nhớ lại hết. Cũng một lời nói phước đức vô lượng, đồng thời cũng một lời nói mang tội vô số. Nhứt là những ai giàu sang, chớ có cậy thế, ỷ quyền hà hiếp người nghèo khổ, ngu dốt chẳng chút xót thương, hãy xem qua bài kệ nhân quả sau đây:
  • Bắt tôi tớ nặng nề công việc
    Nhưng lương tiền keo kiệt không cho
    Có lỗi lầm chửi mắng um sùm
    Thêm đánh đập khác nào con vật
    Mới kiếp trước đánh đòn đứa tớ
    Kế kiếp sau làm tớ bị đòn
    Chết rồi nhưng nghiệp vẫn còn
    Mạnh thời nở trước, yếu tồn lại sau.
Lão Tổ cũng nói:
  • Hành hạ tôi tớ, con cháu suy đồi
    Đánh đập chửi người, thường sanh tai biến.
Trên đời có một số người ỷ mình có quyền thế ngoài xã hội, ỷ mình có quyền cao tước trọng cả, rồi nghĩ rằng kẻ dưới không được quyền phát biểu ý kiến, mỗi khi nói chuyện với cấp dưới không cần giữ phép lịch sự, họ hay cướp lời, lý luận độc đoán, nạt nộ cấp dưới trước mặt nhiều người, công khai vạch lỗi nói xấu kẻ khác. Thậm chí còn ra oai dánh đập thuộc hạ trước mặt đám đông để tỏ vẻ ta đây.

Đây là thứ thất nhân tâm tạo mầm phản trắc. Cử chỉ hành động của họ như mũi tên ngược tẩm thuốc độc, mỗi lần bắn sang cấp dưới là mỗi lần phóng trở lại họ, hậu quả nó rất nghiêm trọng.

Như có anh quân nhân bị kết án hai mươi năm khổ sai về tội cố sát. Người ta hỏi tại sao anh giết người, anh nói: "Vì thượng cấp hách dịch, ỷ mình làm lớn chửi mắng, dánh đập tôi trước mặt mấy người đẹp của ông để lấy le. Tôi bị nhục, sẵn vũ khí trên tay tôi cho thượng cấp mấy phát". Sở dĩ thượng cấp mất mạng là vị không biết giữ thể diện cho thuộc hạ.

Lại có nhiều ông chủ, bà chủ sai khiến, nạt nộ người giúp việc để ra oai với khách, đó là điều thất nhân tâm nhất.
  • Cậy tài, cậy khéo, cậy hơn
    Đừng cậy có của đa ngôn quá lời
    Của thì mặc của ai ơi
    Đừng cậy có của coi người như rơm.
      • Ca dao.
Lại có những hạng người do thất học từ bé, lại ở gần với những đứa lưu manh côn đồ, chưa từng học phép lịch sự tối thiểu, những thói quen ăn nói, cư xử có ý xúc phạm kẻ khác một cách tự nhiên mà họ không cảm thấy hối hận để xin lỗi. Khi nói chuyện với ai, họ nói giọng móc lò, nói xiên xỏ, nói phủ đầu, nói giọng cầu cao, giọng kẻ cả, họ quen ăn nói thô lỗ, sổ sàng, tục tỉu... một cách tỉnh bơ. Cũng có một số người bình dân hoặc trí thức khi nói xong điều gì đó làm cho đối phương bực tức họ lấy đó làm hả dạ. Trong cách ứng xử của người có lương tâm đạo đức, khi nói lỡ lời, họ nhận thấy mình thất lễ, ăn năn sám hối lo xin lỗi đi, xin lại bao lần mà vẫn còn lo sợ mình làm người ta buồn phiền.
  • Kim vàng ai nỡ uốn câu
    Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
      • Ca dao.
Muốn cho kẻ khác không oán ghét ta, thì phải tự kềm chế đừng cư xử hồ đồ, suồng sã, hỏi những câu quá tò mò đến đời tư của người khác, chớ nói nặng lời xúc phạm đến ai, đi đầu này, nói đầu nọ rêu rao những khuyết điểm của người ta, như thế họ sẽ oán ghét ta. Biết bao trường hợp giao tế mà ta thiếu tế nhị, không lịch sự chỉ cần nói lỡ một hai lời là ta bị người nghe ngờ vực, sanh ra ác cảm với ta ngay.

Bản chất con người thường mang theo trong mình một ông "Thần" chuyên môn chọc cho kẻ khác ghét ta cực độ, ông thần áy có tên là "Tự Ái", từ hạng bình dân cho đến trí thức, ít nhiều đều bị ông thần Tự Ái ngự trị, nếu không khéo động đến, ông ta sẽ nổi cơn lôi đình giáng họa xuống rất là nguy hiểm. Chúng ta phải hết sức thạn trọng, nếu không khen được thì cũng đừng có chê một cách trắng trợn. Đó là một trong vô số cái khó xử thế khiến cho Khổng Tử than thở: "Vi nhân nan" (Làm người khó).

Chúng ta thường hay chê trách những tên lưu manh, giết người, cướp của, phải xử bắn nó, nếu không thì xử tù chung thân. Sao ta không nghĩ rằng nhiều khi do hoàn cảnh đứa bé đó đã không có ai nuôi dưỡng, phải chung sống với những đứa lượm bọc, đánh giày, ban ngày thầu đồ thừa trong các tiệm ăn, ban đêm ngủ bờ, ngủ bụi chịu đói, chịu khát, khổ quá nên chúng học cách móc túi, giật đồ, đâm thuê, chém mướn... Sinh trưởng trong hoàn cảnh bất hạnh như vậy, liệu ta có tránh khỏi những tật xấu như họ không?

Nếu gặp kẻ ác nhân, thay vì vội vã đả kích họ, ta nên nói: "Nhờ ơn trời Phật kiếp trước độ mình biết lo tu hành nên kiếp này sanh ra trong hoàn cảnh tốt đẹp, nếu không thì mình cũng giống như họ".

Vậy muốn sửa lỗi người khác ta đừng nghĩ rằng ai cũng được may mắn như ta, hãy chịu khó tìm hiểu nguyên nhân tại sao họ lại cư xử như thế, tạo điều kiện giúp đỡ bằng vật chất lần tinh thần, rồi lần lần khéo hướng dẫn họ trở về con đường lành. Trong kinh gọi đó là "Bố thí và ái ngữ nhiếp". Việc làm đó phước đức quả thật vô lượng vô biên.

Trên đời có nhiều người hay than rằng: "Sao tôi nói ra cái gì ai cũng không nghe, thậm chí con cháu cũng chẳng vâng lời". Tại vì khẩu nghiệp của họ không có thanh tịnh, mỗi khi mở miệng ra là chửi rủa nên tổn giảm phước đức, nói không ai nghe là vậy.

Là Phật tử phải sáng suốt thấy cho rõ tai họa của ác khẩu mà cố gắng huân tập lời nói thiện lành. Cho dù nói với con thú cũng nên nhỏ nhẹ, nếu như mình chửi con vật như thế lâu ngày thành thói quen, sẵn trớn chửi luôn người xung quanh. Chính cái nhân đó, nó đưa mình vào cõi thú.

Trong Luật nói: "Con người có búa để sẵn trong miệng, nói lời dữ là tự chém lấy thân mình". Nhứt là phái nữ thường hay gắt gỏng, la lối, chửi rủa om sòm. Họ nghĩ chửi qua rồi thôi, không có gì xảy ra, nên tha hồ chửi mắng. Không có đơn giản như thế đâu, chúng ta hãy xem qua câu chuyện sau đây thời sẽ rõ:

Chuyện kể, một hôm có mấy cô thiếu nữ đi chùa lễ Phật, thấy đống phân có trước chánh điện, ai nấy bịt mũi bỏ đi, chỉ có một cô ở lại, tay vừa hốt, miệng chửi đồ mấy con "kỷ nữ" không hốt phụ tao. Chỉ chửi thế thôi, kiếp sau bị quả báo sanh làm gái lầu xanh, nhưng nhờ phước hốt phân trước điện Phật, nên thân hình cô sạch sẽ, hai tay mịn màng xinh đẹp. Đó là nhẹ, nặng bị đọa làm cá trăm đầu như chuyện trong kinh Hiền Ngu sau đây:

Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài cùng chư vị Sa môn đi du hóa đến Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ bên dòng sông Lê Việt, gần đó có một nhóm người đánh lưới kéo lên được một con cá, trong mình nó mọc ra một trăm cái đầu. Thấy cá lạ, ai nấy xúm lại xem, Phật cùng chư Tăng đến nơi nhìn cá. Phật hỏi: "Có phải ngươi là Ca Tỳ Lê không?"

- Thưa phải.

- Kiếp này làm cá, kiếp sau sanh về đâu?

Cá buồn bã trả lời:

- Kiếp sau sanh vào địa ngục.

Ngài A Nan thấy lạ, liền hỏi Phật do nhân duyên gì gọi con cá đó là Ca Tỳ Lê?

- Này A Nan! Trước đây vào thời đức Phật Ca Diếp, có vợ chồng ông trưởng giả sanh được một cậu con trai dặt tên là Ca Tỳ Lê có trí thông minh hơn người.

Một hôm, mẹ cậu hỏi:

- Trong nước có ai học bằng con không?

- Thưa mẹ, trong nước không có ai học bằng con, ngoài các vị Sa môn.

- Sao con không đến đó học?

- Mẹ biết không, muốn vào đó học phải cạo đầu, đắp y, mang bát mới được.

- Con giả làm thầy tu, vô đó học xong rồi về có gì mà sợ.

Nghe lời mẹ nói có lý liền làm theo, do trí sẵn có không bao lâu đã thông tam tạng kinh điển.

Một hôm về thăm nhà, mẹ câu hỏi:

- Sở học của con bằng các vị Sa môn chưa?

- Mẹ ơi, sở học của con ngang hàng chư vị Sa môn, nhưng nói đến công phu thiền định thì con thua xa.

Bà ta nghe qua nổi giận nói:

- Sao con không học?

- Mẹ nên biết thiền định là phương pháp siêu hình, tự tu tự chứng, đâu phải học mà được, nên mỗi khi đàm luận thua là vậy.

- Con chớ sợ, nêu thua thì cứ chửi.

- Người ta tu hiền lành, con chửi không đành.

- Con hãy nghe lời mẹ, cứ chửi thì mới thắng được.

Khi về chùa mỗi khi đàm luận với chư vị Sa môn thua, liền nổi nóng tự xưng ta đây học giỏi nhất trong nước, không có ai bằng, các người toàn là lũ ngu si, đầu óc đần độn như trâu, bò...

Nói đến đây, Phật bảo: "Ca Tỳ Lê, vì ác tâm chửi mắng chư vị Sa môn và khinh khi những người thiếu học, nên bị quả báo làm cá trăm đầu như thế".

Sau khi nghe lời Phật dạy, ai nấy đều rùng mình, rợn gáy bi thương giao cảm! Đồng thanh nói: "Tất cả chúng ta đối với thân, khẩu, ý phải thận trọng chớ có tác ý, nói làm việc ác!"

Những người dánh cá thấy thế liền đến trước Phật thành kính chắp tay cầu xin xuất gia tu phạm hạnh.

Phật khen thiện lai Tỳ kheo! Tức thời áo mặc trên mình họ hóa ra cà sa trở thành các vị Sa môn theo Phật tu học không bao lâu đắc quả A la hán.
  • Ham chi danh lợi thế thường
    Hơn thua lời lẽ con đường diệt vong
    Ca Tỳ Lê vì tham công
    Nặng lời to tiếng mắng dòng Sa môn
    Cho nên quả báo dập dồn
    Đọa vào súc loại xác hồn khổ đau
    Khuyên trong hiện tại cùng nhau
    Nghiêm thân, khẩu, ý thường trau hạnh lành...
Lời nói thô ác, phỉ báng những bậc tu hành phải lãnh lấy các ác báo như thế, cho nên có câu:
  • Thà rằng khuấy đục ngàn sông
    Chớ đừng khuấy động tấm lòng người tu.
Trong kinh Báo Ân, đức Phật dạy: "Này A Nan, tất cả chúng sanh tai họa từ miệng sanh ra, nên giữ miệng hơn là đề phòng lửa dữ, lửa dữ đốt cháy tiền của thế gian, miệng dữ đốt cháy bảy tài sản của bậc Thánh (Tín, giới, tàm, quí, đa văn, trí huệ, xả ly)".

Quả báo của lời nói ác ghê gớm như thế mà có mấy người ngán sợ, cứ mãi hơn thua từng chút, hạch hỏi từng câu, mỉa mai, châm biếm đủ thứ làm cho gia đình quyến thuộc phân ly, nhân loại thù hằn, xô xát lẫn nhau gây bao tang tóc.

Nên có lời khuyên:
  • Nhất lời nói bao giờ cũng lọc
    Buông ra rồi hốt lại dễ nào
    Tục rằng lưỡi bén hơn dao
    Nói ra một tiếng đoạn bao nghĩa tình
    Sự vui buồn, trọng khinh, thương ghét
    Thường do nơi mồm mép gây nên
    Chỉ trong một tiếng cất lên
    Hoặc tan sự nghiệp, hoặc nên cửa nhà.
Trong kinh Phạm Võng nói: "Tất cả chúng sanh đều là ông, bà, cha, mẹ nhiều đời chết đi và tái sanh trở lại, nếu chúng ta chửi người nào đó, tức là chửi ông, bà, cha, mẹ của mình chớ không ai xa lạ."

Nhưng có mấy ai nghĩ thế, đa số cho rằng nếu mình hiền sẽ bị người khác ăn hiếp hoài, phải tỏ ra hung dữ chửi lại cho nó ngán sợ! Quí vị nên nhớ minh bị người ta chửi mình chửi lại, nó có điều kiện kéo dài thời gian, chẳng khác xúi cho họ chửi thêm mà không hay. Hơn nữa, kẻ chửi mắng là xấu rồi. Nếu chửi lại, ngay đó mình đã hóa ra người hung dữ, chẳng khác nào gánh tội với họ, cả hai đều sa đọa. Vậy ta không nên nói lời thô bỉ với bất cứ một ai, mà phải dùng lời dịu ngọt. Lắm lúc có người sẵn sàng giúp ích cho mình, nhưng khi nghe người ta nói lời không vừa lòng họ liền không giúp.
  • Người kia nóng giận nói ào ào
    Chẳng lẽ ta đây cũng thế sao
    Họ đã cộc cằn thêm ta nữa
    Nhìn chung ta họ khác chi nhau
    Bởi thế nên tôi cứ mỉm cười
    Dầu ai chửi mắng vẫn vui tươi
    Mặc tình họ cố tâm gây sự
    Lòng vẫn yên vui giữ nụ cười.
Muốn khắc phục những ý niệm đấu tranh hơn thua, chúng ta hãy xem qua câu chuyện trong kinh Tứ Thập Nhị Chương:

Chuyện kẻ: "Một hôm đức Phật đi du hóa đến thôn nọ, tín đồ Bà la môn bỏ đạo theo ngài gần hết, ông Bà la môn Ak Ka Sa Ka vô cùng oán hận, thừa cơ hội Phật đi khất thực, chận đường chửi hoài, nhưng ngài vẫn bình tĩnh bước đi: Ông ta tức giạn nói:

- Này Cồ Đàm có nghe tôi chửi không?

- Tai ta nghe rất rõ ràng.

- Nghe tại sao không trả lời?

- Này Bà la môn! Giả sử nhà ông có đám giỗ, khi đãi xong khách ra về, còn dư quà bánh ông đem tặng nhưng người ta không nhận, quà bánh là của ai?

- Nếu tôi tặng họ không nhận, quà bánh là của tôi.

- Cũng vậy, những lời ông chửi mắng, nhưng ta không nhận, ngươi tự thọ lãnh.

Nhơn đó Phật nói kệ:
  • Chửi mắng kẻ lương thiện
    Kiêu mạn khinh miệt người
    Như ngước mặt lên trời
    Mà phun nước miếng vậy.
    Nước miếng chẳng đến trời
    Trở lại rơi trúng mình
    Người hiền không thể hại
    Kẻ ác tự hại mình.
Bà la môn Ak Ka Sa Ka nghe Phật thuyết pháp xong tâm liền tỉnh ngộ, ăn năn sám hối, cầu xin Phật xuất gia. Phật cho phép ông ta xuất gia làm Tỳ kheo. Ông tinh tấn tu hành không bao lâu chứng đắc đạo quả A la hán.

Phật bị người ta kêu tên chửi mà ngài không nhận, nên nội tâm được an ạc. Còn mình hễ ai nói động tới tên là đôi chối hơn thua tới cùng. Vì dễ nhận quá nên phiền não khổ đau triền miên không dứt. Muốn cho thân tâm được an lạc, kinh Pháp Cú dạy:[/i][/list]
  • Ví như đá núi Tây Đình
    Giông nào lay chuyển rung rinh bao giờ
    Tâm người đại trí trơ trơ
    Chê khen cũng mặc, lặng lờ như không.
Để tránh quả báo xấu, gieo nhiều phước lành, Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy: "Gương mặt hiền dữ, hoan hỷ, không sân hận, bực tức, miệng luôn luôn nói lời đạo đức khiến cho người nghe sanh tâm vui mừng hướng thiện. Không làm ai đau khổ vì lời nói của mình, đó là đồ cúng dường hảo hạng và mùi hương thơm cao quý nhất".

Quý vị có tiền mua hoa, quả, hương thơm cúng dường Phật, ông bà... đó là điều tốt. Nhưng không bằng gương mặt tươi cười, nói lời hiền dịu với mọi người. Tôi thiết nghĩ việc dó ai cũng làm được.
  • Hằng ngày gieo tạo phước duyên
    Quanh năm suốt tháng chẳng làm phiền ai
    Thương yêu quý mến trong ngoài
    Cả đời hạnh phúc không ai oán hờn.
Nói tóm lại, người không nói lời thô ác, chẳng hề moi móc việc xấu của ai, thường đem lời thanh nhã, hiền hậu, đạo đức, đầy lòng từ bi hỷ xã, đối xử tốt đẹp với mọi người thì đâu có sanh thù oán với ai. Nhờ thế nên thân tâm thường được an lạc. Người đó đi đến đâu, nói ra điều gì mọi người đều hân hoan, kính trọng vâng làm.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, Phật dạy:

- Người không nói lời thô ác thời thành tựu tám món tịnh nghiệp:
  1. Lời nói không trái pháp đó.
  2. Lời nói có ích lợi.
  3. Lời nói quyết hợp lý.
  4. Lời nói thưa lãnh được.
  5. Lời nói được tín dụng.
  6. Lời nói đẹp đẽ.
  7. Lời nói không thể chê.
  8. Lời nói được ưa thích.
Nếu đem công đức đó hồi hướng về đạo Vô thượng chánh giác, sau khi thành Phật, được đầy đủ Phạm âm tướng của Như Lai" (Phạm âm là tiếng nói trong lành, êm dịu, thánh thót như tiếng chuông ngân).

Ngược lại, nếu người nào ác tâm hủy báng Tam Bảo, làm cho chánh pháp suy đồi và chửi mắng ông bà, cha mẹ, anh chị em và bà con, lối xóm... Trong Khế Kinh, Phật nói: "Hạng người như thế, trái đạo từ bi, gieo giống địa ngục, chết xuống âm phủ, bị quỷ sứ cắt lưỡi ra, rồi bắt ăn lại, trong miệng dòi tửa, máu mủ tuôn trào, tiếp theo thọ thân cầm thú, ăn dơ uống bẩn, nghe tiếng kêu ai cũng phát ghét, khi tội hết mới được làm người, nói không ai nghe, làm chẳng ai theo, diện mạo xấu xa, hơi miệng hôi thúi, môi sứt, răng mẻ, câm ngọng, líu lo".

Phật dạy: "Thà lấy dao bén cắt lưỡi chịu khổ nhiều kiếp, chớ có thốt ra lời hung dữ, chửi rủa mắng nhiếc ngươi tu kẻ tục, ác báo khó hết".

Than ôi! Lời nói thô ác mắc tội đến thế, người học đạo há chẳng ngăn ngừa lắm sao?

Cổ Đức kệ rằng:
  • Tội ác khẩu thứ sáu bày biện
    Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng
    Nào chửi cha, mắng mẹ lăng xăng
    Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu
    Hăm đánh giết những người hèn yếu
    Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng
    Trong gia đình chửi rủa liên miên
    Hết dương thế kêu sang Thần Thánh
    Chẳng kiêng nể Phật trời thượng cảnh
    Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày
    Đời u ám tội trạng lắm thay
    Khuyên bá tánh, bá gia ráng bỏ
    Gương tổ phụ còn soi lại đó
    Sao không theo nề nếp gia phong
    Chư Thánh Thần đâu có mất lòng
    Mà kêu réo Đông, Tây, Nam, Bắc?
    Mấy câu trên toàn là ròng rặc
    Những đàn bà khe khắc cháu con
    Kể từ nay phải giữ cho tròn
    Không chừa dứt ắt mang tai ách
    Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch
    Khi thốt ra đoan chánh hiền từ
    Tích thiện thì thường phước có dư
    Bằng tích ác họa ương đeo bám.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 7. KHÔNG NÓI Ỷ NGỮ:
Ỷ ngữ: Là lời nói thêu dệt, thêm bớt chuyện người, trau chuốt làm cho câu văn ngọt ngào, hấp dẫn để quyến rũ người nghe xiêu lòng tạc dạ, làm việc sái quấy, lợi dụng lòng tin của người để trục lợi...

Tại sao Phật cấm nói lời ỷ ngữ? Vì đó là lời nói vô nghĩa độc ác, không có lợi ích, nó chỉ đem đến những sự phiền não, khổ mình, hại người, gây thêm oan trái, tổn giảm phước dức. Những nam, nữ vị thành niên nhẹ dạ, lạc lõng đành bỏ mẹ cha đi vào con đường trụy lạc cũng vì lời nói dụ dỗ. Người có tánh nóng nảy thiếu sáng suốt, nghe ai nói chi cũng vội tin, nên thường bị mất bạn, thêm thù... Có người rất tận tuy trung thành, nhưng bị bỏ rơi cũng vì lời sàm tấu của bọn nịnh thần... Kẻ nói lời thêu dệt chỉ lừa những ai nhẹ dạ dại khờ, thiếu đạo đức, chớ người có trí tuệ không nghe theo họ. Hơn nữa kẻ nói lời thêm bớt, khi người ta biết được ai cũng kinh tởm tránh xa, ngay đó họ thất bại trên mọi lãnh vực, bởi gây ác cảm với mọi người, có khi đưa đến mất mạng.

Bởi tích chứa những mầm mống ganh ghét, đố kỵ nên lúc nào cũng thấy lỗi người để thêu dệt, lỗi mình không thấy, cũng như con mắt nhìn thấy sự vật bên ngoài mà không tự thấy được nó, hạng người như thế, chẳng khác nào đi quơ rác phiền não bỏ vào nhà mình cho dơ bẩn, hôi thúi khổ sở mà không hay biết, lại bảo người khác ghét hùa theo mới chịu.

Nên ca dao có câu:
  • Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu
    Thương viện lẽ thấp cao bào chữa
    Thương nhau trái ấu cũng tròn
    Ghét nhau thì trái bồ hòn cũng méo
    Thương nhau thương cả lối đi
    Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.
Nói đến quả báo của tánh ghanh ghét đố kỵ, thêu dệt, trong truyện cổ Phật giáo nói:

Vào thời đức Phật, có ông thầy tên là Losaka từ thuở nhỏ đã chịu cảnh nghèo đói, đến khi xuất gia mỗi lần đi khất thực ít có ai cúng, nên thường bị đói khát, cứ như thế kéo dài cho đến chết, không có lúc nào no bụng.

Chư Tăng thấy thế hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Do ác nghiệp gì, thầy Losaka lãnh thọ quả báo như thế?

Phật nói: "Sở dĩ thầy Losaka bị chết đói là vì trong tiền kiếp có ác tâm nói thêu dệt bêu xấu quý thầy, ngăn cản không cho Phật tử cúng dường, cho nên bây giờ phải bị quả báo đói khát cho đến chết như thế!"

Sau khi chấm dứt pháp thoại, ai nầy đều than rằng: "Ghê gớm thay cho tánh đố kỵ" Tất cả các đại chúng đồng vâng lời Phật dạy, phát nguyện trọn đời tu hạnh tùy hỷ, khen ngợi khi thấy người khác hơn mình.

Chuyện trên là bài học để tự nhắc nhở mình. Nếu nói xấu quý thầy, tức là mình đã xấu trước, vì người hiểu đạo sẽ đánh giá ngay. Người hay nói xấu kẻ khác chứng tỏ họ còn phàm phu tục quả, chưa biết tu là chi, vì người chơn tu thường thấy lỗi của mình lo cải sửa, đó mới là tu thật. Còn ai tối ngày cứ đi rêu rao chuyện người tức là tu giả dối. Nói xấu người ta không mất gì, chính mình lại phập phồng lo sợ họ biết được sanh chuyện đôi chối, lại bị người nghe khinh khi ngược lại mà không hay biết, cứ khoái chí nói mãi, nói cho nhiều thì người đời càng ghét nhiều, có ích chi đâu!

Như chuyện trong sách Xử thế kể: Có anh chàng tên Nhiều tối ngày cứ hết nhà này tới nhà nọ, dòm ngó, soi mói, thêu dệt, chỉ trích, đả kích người khác đủ điều. Kết quả khi người ta biết được bộ mặt xảo trá, lắm mồm, nhiều chuyện đó ai cũng chán ghét. Đến lúc anh ta lâm vào hoàn cảnh nghèo đói, bệnh hoạn, tai nạn, chẳng có ai tới thăm hỏi giúp đỡ, khi chết không có người đưa đám. Cũng do cái miệng mà ra.

Có nhiều người nói chuyện nghe rất đáng thương. Trên thế gian không ai thông cảm tôi được hết, ở nhà cha mẹ... không thương, ra ngoài xã hội chẳng có ai ưa! Thử hỏi tại sao họ không thông cảm? Có phải chăng do lòng cố chấp quá nặng, mỗi khi mở miệng ra thì đề cao mình lên, chê bai thêu dệt hạ người ta xuống, thử hỏi ai thông cảm được. Những ai hay than điều đó là do thấy lỗi người, liền sanh tâm ngã mạn xem thường tất cả. Khi đã tỏ ra thái độ khinh mạn hay chê bai nói xấu thì họ không thể nào thông cảm mình được, từ đó ai cũng tránh xa nên trở thành kẻ cô độc, rồi đâm ra chán đời, oán người, như thế tại sao mình cô độc? Tất cả đều do quá đề cao bản ngã và xét nét lỗi người.
  • Ai ơi! Ít nói là vàng
    Nói nhiều, nhiều lỗi trái ngang cũng nhiều
    Chi bằng ít nói bao nhiêu
    Khỏi điều phiền não, khỏi điều thị phi.
Muốn có cuộc sống hài hòa yên vui, chúng ta phải luôn luôn thấy lỗi mình mà quên cái dở của người, thì tự nhiên bản ngã xuống liền.

Vì thế, Lục Tổ dạy:
  • Nếu người thật chơn tu
    Không thấy người đời lỗi
    Nếu thấy lỗi của người
    Lỗi mình đến bên trái
    Người sai ta không sai
    Ta sai tự có lỗi
    Chỉ dẹp tâm mình sai
    Dứt trừ phiền não sạch
    Thương ghét chẳng bận lòng
    Duỗi thẳng hai chân nghỉ.
Qua bài kệ trên Lục Tổ nói: "Nếu người thật chơn tu không thấy lỗi người đời". Nếu thấy tức là tu giả, vì người tu thật lúc nào cũng nhắc nhở mình sao mà ăn nói không lựa lời, lại còn thị phi phiền não nổi sân... cứ nhớ như thế, tự khiển trách mình và luôn luôn thấy ai cũng tốt. Ngược lại chỉ thấy lỗi người thì dễ sanh tâm hủy báng thêm bớt chuyện người ta, ngay đó mình đã sai rồi. Họ lỗi là chuyện của họ, nếu thấy khuyên được thì tốt, bằng không cứ giữ mình đừng lỗi là được.
  • Ai nói làm sao mặc kệ ai
    Miễn ta giữ vẹn tấm lòng ngay
    Nếu ta chơn chánh người cho sái
    Chơn vẫn hoàn chơn thật chẳng sai.
      • Giác Huệ
Nói tóm lại, người không nói lời thêu dệt thời không có ai phiền trách, oán hận. Nhờ thế tâm trí được an nhàn, ung dung tự tại thường đem giáo lý chân thật khuyên nhủ làm cho chúng sanh được an vui, nên ai nghe đến tên cũng đều cảm phục oai đức.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, Phật dạy: "Người nào không nói lời thêu dệt thời thành tựu được ba món quyết định:
  1. Quyết định được người trí ưa thích.
  2. Quyết định dùng trí như thật đáp các lời hỏi.
  3. Quyết định có oai đức tối thắng đối với nhân thiên không hư vọng.
Nếu công đức lành đó hồi hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật được đức Như Lai thọ ký chẳng có luống dối".

Đức Phật đã thọ ký thời không bao giờ rơi vào tam đồ ác đạo.

Ngược lại trong kinh A Hàm, Phật dạy: "Nếu người nào điên đảo, thị phi, ganh ghét người hiền, thêu dệt não hại chúng sanh. Kẻ đó đi đến đâu ai cũng ghét bỏ, phước đức càng giảm, thêm lắm tai họa xa lìa chánh pháp, thân hoại mạng chung đọa vào ba đường ác, chịu nhiều thống khổ".

Lời nói theu dệt mang hại đến thế, người trí há chẳng ngăn ngừa lắm ư!...

Cổ Đức khuyên ta:
  • Ác thứ bảy ỷ ngôn chất chứa
    Đợi cho người lầm lỗi xéo giày
    Của tiền nhiều tự phụ rằng hay
    Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới
    Lắt léo chỉ có ba tấc lưỡi
    Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu
    Nghèo ỷ lanh láo xược lu bù
    Ôi! Thất thế lòng đau tợ cắt
    Khuyên bá tánh giữ gìn cho chặt
    Đừng để cho quỷ dắt đường cong
    Dùng từ ngôn nói tận đáy lòng
    Dù trên dưới cũng không mấy khác
    Chúng vô phước đời này dốt nát
    Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là
    Lời trang nghiêm êm ái thốt ra
    Đừng châm biếm mới là chơn thiện.
Chúng ta phải biết rằng, khẩu nghiệp là cái họa môn của hết thảy oán thù. Cho nên chư Phật đều dạy không được nói lời dối trá, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời thêu dệt, nói dua mịnh, nói quanh co, hoa mỹ, phù phiếm, khinh khi, thô bạo, biện bác, xảo lanh, quỷ quyệt, vô nghĩa, nói ngược, nói xuôi, đảo lộn trời đất, để lợi mình hại người, chê bai lẫn nhau. Nói đến mình thì bao nhiêu phước đức đều qui tụ về mình. Nói đến người khác thì bao nhiêu điều ác độc đều đổ hết cho họ, hủy báng người hiền lương, vu khống kẻ vô tội, vô đạo, vô nghĩa, không nghĩ đến tai họa của nó, nên mắc phải ác báo nhiều kiếp không thôi.

Cho nên trong kinh nói, trong ba nghiệp thân, khẩu, ý, khẩu nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng, lời nói là một kho báu sẵn có trong từng người, nhưng đòi hỏi chúng ta có biết sử dụng hay không?

Phật dạy: "Phàm khi nói phải hội đủ bốn yếu tố:

1. Lời nói phải đúng sự thật: Có nghĩa là mắt thấy, tai nghe phải hội đủ các chứng cớ mới nên nói. Nhưng nếu nói ra làm hại người cùng vật thì không nên nói.

Như chuyện, tiền thân đức Phật là thầy Tỳ kheo. Một hôm đang ngồi thiền bên bờ suối, bỗng thấy con nai chạy ngang, người thợ săn đuổi theo gặp thầy liền hỏi: "Thầy có thấy con nai chạy ngang qua đây không?" Thầy nghĩ nếu mình nói không có thì phạm giới nói dối, còn như nói có thì gian tiếp chỉ cho người thợ săn giết chết con nai! Thầy chợt nghĩ ra ý hay liền đứng lên trả lời: "Từ lúc tôi đứng lên chẳng thấy chi hết". Người có trí đối diện với thực thế cho dù có khó khăn dến đâu, cũng giải quyết vấn đề một cách ổn thỏa tốt đẹp, đem lại lợi ích cho chúng sanh mà không phạm giới hư vọng.

2. Lời nói phải hợp thời: Người có trí biết lúc nào nên nói và lúc nào không nên nói, điển hình như nhắc lỗi ai mà người nghe đang mệt mỏi, buồn phiền, nóng giậ, bệnh hoạn hay giữa đám đông khoan nói, đợi cho họ mạnh khỏe, vui vẻ mới nên nói, nhưng chớ có xây dựng bằng những lời nói quá thô tháo trắng trợn làm tổn thương danh dự người ta, mà phải hết sức tế nhị, khéo léo.

Thí dụ: Nhà bên cạnh cao hơn nhà mình, họ thường xả rác xuống, khi đó không nên tức giận la mắng mà chỉ nên nói với chủ nhà: "Anh chị thông cảm bảo mấy cháu nhỏ bỏ rác có chỗ, để nó không biết xả xuống nhà tôi dơ quá". Nếu họ không sửa đổi, mình nhờ người có uy tín quen biết với họ khuyên dùm. Ông bà ta thương nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần", khi hữu sự tối lửa tắt đèn có nhau, đừng vì một chút không đáng mà làm mất lòng đôi bên thì không nên.

Hoặc người vợ thấy ông chồng lôi thôi, khi đó chỉ cần đem hình ảnh gia đình nào đó gần bên thường xảy ra xung đột, nhờ chồng giải thích tại sao họ bất hòa, tranh cãi, đánh đập lẫn nhau. Bản chất con người thích làm thầy đời, anh ta nghe thế khoái chí nói: "Ông chồng kia thì thô lỗ, ăn nhậu, bồ bịch lôi thôi, còn bà vợ lại lười biếng ăn xài phung phí, nói dai, không quán xuyến công việc nhà...". Khi đó, chỉ cần nói: "Nhờ sự hiểu biết sáng suốt, đức độ của anh nên gia đình mình được yên vui". Nếu sau này ông chồng có làm điều gì sai, chỉ cần nhắc lại là đủ. Không riêng chuyện vợ chồng mà bất cứ trường hợp nào cũng nên đem phương pháp này ra áp dụng đều có kết quả tốt đẹp. Đó là một nghệ thuật cảm hóa người khác mà họ không biết, tưởng chừng như mình mới phát minh ra những sáng kiến mới.

Trong việc sửa lỗi đóng một vai trò rất quan trọng, vì con người sống trên cõi đời nếu chưa phải là bậc Thánh thì ai cũng có khuyết điểm. Khi khuyết điểm thành thói quen, bám rễ sâu vào nếp sống thành tật xấu. Vì thế, bất cứ tổ chức nào từ trong gia đình cho đến xã hội, tôn giáo, khi có lỗi lầm cần chỉnh đốn lại, mới tránh được những lạm dụng, bê trễ, gian tham, rối loạn, bất công... Muốn diệt trừ những tật xấu ấy phải nhờ đến bậc bề trên sửa lỗi lầm cho thì mới tiến bộ trên đường tu đức.

Có điều chúng ta nên lưu ý: Trước khi sửa lỗi ai, mình phải làm gương tốt trước và môi trường hoàn cảnh để sửa đổi như thế nào cho hợp lẽ đạo. Có lắm người tuổi còn nhỏ, địa vị thấp nhưng lại mang trong mình dòng máu làm thầy đời ăn sâu vào tâm cang, lỗi của mình không lo tu sửa, hễ gặp ai cũng "dạy luân lý", họ cắt nghĩa chuyện đời phải quấy, lại còn la rầy lên giọng dạy đời, bắt buộc người ta phải theo ý chủ quan của mình. Sửa lỗi theo kiểu đó rất là nguy hiểm.

Xem lịch sử Trung Quốc, thấy rõ chuyện Ngũ Tử Tư bỏ mạng cũng vì sửa lỗi vua Ngô. Tỷ Cang bỏ mạng cũng vì sửa lỗi vua Trụ.

Lúc Khổng Tử đến kinh đô nhà Chu, vào nhà Lão Tử thăm, khi ra về được Lão Tử tiễn chân bằng những lời mà người thời nay cho là "kinh thánh" của xử thế. Đại khái ông nói: "Kẻ giàu tiễn người bằng của, tôi nghèo xin tiễn ngài bằng đôi lời nói. Ngày nay kẻ sĩ mắc nạn thường là kẻ bươi móc việc xấu của người đời, làm cho thân khổ cũng vì chỉ trích tội lỗi của kẻ khác. Quân tử phải cư sử như người ngu, dẹp lòng đa dục, trừ tâm khiêu khích, tránh lối ăn mặc lòe loẹt chớ khinh ai hết". Khổng Tử nghe qua vui cười thủ lễ cảm ơn.

Nhờ nghe những lời thâm thúy của Lão Tử, nên Khổng Tử ẩn thân vào nơi yên tịnh lo trước tác hơn là đi du thuyết. Sự nghiệp vĩ đại của ngài thành tựu được phần lớn là nhờ ẩn cư, an bần lạc đạo.

Truyện trên cho chúng ta thấy Khổng Tử là một nhà hiền triết mà còn phải cần những lời khuyên ấy để áp dụng trong đời sống, còn chúng ta tài đức bao nhiêu mà lại đi hết nơi này đến chỗ nọ chỉ trích, đả kích những lỗi lầm của kẻ khác. Nếu là người hiền trí họ ý thức sửa sai. Trái lại, chẳng may gặp kẻ hung dữ, độc ác họ sẽ hãm hại ta.

Bản chất con người ai cũng giàu lòng tự ái, đừng bao giờ hài tội người ta một cách trắng trợn. Thủ tướng người Anh đã từng nói: "Thượng đế hành phạt tôi thế nào thì phạt. Miễn đừng cho tôi một thằng bạn nói thẳng khuyết điểm của tôi".

Cho nên, khi sửa lỗi lầm của ai, ta nên bình tĩnh sáng suốt mời họ ngồi vào bàn hòa giải trong tinh thần tôn trọng đối phương. Ta dùng cách nói khiêm tốn, hòa nhã thì người ta dễ chấp nhận hơn. Trái lại, nếu mình nói với giọng đao to, búa lớn xúc phạm người ta một cách quá đáng và chỉ trích với thái độ hách dịch thì chắc chắn người nghe chống đối lại, chớ ta đừng mong thuyết phục được ai. Người ác đến đâu có lúc họ cũng lắng nghe tiếng nói của lương tâm nhận ra lẽ phải.

Lúc Hạng Võ đến thành Ngoại Huỳnh, ra lệnh chôn sống tất cả thanh niên. Có một em bé mười ba tuổi tên Cừu Thúc đến nói với Hạng Võ: "Muôn tâu Bệ hạ, Bệ hạ có nhận thấy rằng hễ hại ai thì người ấy hại lại, thương dân thì dân thương lại". Hạng Võ nghe lời nói phải liền chỉ thị rút lại lệnh tàn sát, rồi ra lệnh quân binh bảo vệ tài sản và mệnh sống của dân chúng.

3. Lời nói phải cẩn thận: Nghĩa là khi nói ra phải đo lường tác dụng của nó tốt hay xấu, phía sau có di họa gì không? Nhiều người tuy không trực tiếp lấy dao, cầm súng, đâm chém, bắn giết người khác, nhưng họ lại đả kích nhau bằng những binh khí miệng lưỡi còn lợi hại hơn cung tên, giáo mác. Ở đời có nhiều người ăn nói độc địa, làm cho người nghe giống như bị ngộ độc tủi nhục mà chết.

Chúng ta nhìn cuộc sống chung quanh, hay nghe đài, xem báo, thấy có nhiều câu chuyện không đáng nhưng lại đưa đến chết người. Như báo đăng tin, có bà nội nghi đứa cháu lấy tiền, liền chửi mắng nàng dâu: "Mày đừng có dạy con tham lam giống dòng bên họ ngoại của nó". Cô con dâu quá tức giận đè đứa con xuống đánh một hồi, lỡ tay làm đứa con bị chết. Kết quả người mẹ vô tù ngồi, còn bà nội thì hối hận suốt đời!

Trong xã hội có vô số trường hợp rắc rối, như trong sách Ứng Xử nói: "Trong gia dình nọ có cậu con trai tên là Tấn, cậu ta thường tụ tập bạn bè để đi ăn nhậu, hút chích. Đã nhiều lần bị cha mẹ ngăn cấm, nhưng Tấn vẫn tiếp tục ăn chơi sa đọa.

Một hôm, ông cha thấy Tấn dẫn bạn về nhà với bộ dạng say sưa, ông vô cùng tức giận mắng Tấn trước mặt bạn bè: "Mày là thằng mất dạy, tao nói hoài mà không nghe cứ đi ăn chơi hoài, đồ lì lợm không biết xấu hổ, sống chật đất, mầy uống thuốc độc chết phức cho rồi". Tấn tự ái tức giận, buồn tủi lấy thuốc độc tự vẫn chết.

Nên có câu:
  • Chót lưỡi là kiếm phong tuyền
    Giết người chẳng máu lụy phiền biết bao.
Quý vị cố gắng lấy đạo đức khắc phục nghịch cảnh, chuyển hóa được thì tốt, bằng không coi như đó là nghiệp mà mình phải trả. Nếu chẳng nghĩ như thế thì dễ gây thêm ác nghiệp, oan trái biết bao giờ mới trả hết.

4. Lời nói phải xuất phát từ lòng thương yêu chân thật: Muốn có lời nói trọn lành trong sạch mang niềm vui đến cho mọi người, chúng ta phải có lòng từ bi, hỷ xả những lỗi lầm của người chung quanh. Khi đó mới là ái ngữ chân thật xuất phát từ lòng thương yêu, ban niềm vui đến mọi người.

Trong kinh Tạng Nikaya, Phật dạy: Người nào nói lời chân thật, bảo vệ sự thật của người khác, thực hành được như thế, mới gọi là người biết hộ trì chân lý".

Thuở Phật còn trụ thế, một hôm có ông Bà la môn đến hỏi Phật: "Thế nào là hộ trì chân lý?"

Phật đáp: "Người nào đối với chánh pháp có niềm tin bất động, từ bỏ lời nói dối trá, đâm thọc, thêu dệt, thô ác. Thường đem lời lành giáo hóa chúng sanh, đó là người biết hộ trì chân lý".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 8. KHÔNG THAM DỤC:
Tham dục có nhiều loại như là tham tiền của, mê sắc đẹp, ưa danh vọng, địa vị, ham ăn uống, thích ngủ nghỉ. Hoặc đam mê sắc tốt, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu...

Tham dục là nguyên nhân làm cho con người say mê, ràng buộc, khổ lụy và gieo khổ đau đến người khác, gây tạo vô số ác nghiệp. Vì thế Phật bảo chúng ta phải tránh xa nó.

Chúng ta ai cũng biết như tham tiền của, vàng ngọc, phải đày đọa xác thân, lại thường vướng ách nạn, mất mạng.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài cùng chư vị Tỳ kheo đang đi, bỗng thấy một túi vàng bên vệ đường. Phật bảo các thầy Tỳ kheo đó là rắn độc, mau tránh xa không khéo nó hại ta... Phật và chư Tăng đi chưa bao xa, có bốn người đi đến nhặt lên định đem ra chia, nhưng họ bàn với nhau, mình đang đói nên đi mua món gì ăn cho khỏe rồi chia cũng không muộn, liền cử một người đi, người đó trên đường đi tự nghĩ số vàng đem chia làm tư uổng quá, tốt nhất là mua thuốc độc trộn vào thức ăn cho chúng chết hết, ta sẽ hưởng một mình. Còn ba người ở lại cũng bàn tính với nhau đợi cho nó mua đồ về đập cho chết, còn ba chúng ta chia nhau. Kết quả, người đi mua thức ăn về chưa tới đã bị đập chết, xong ba người còn lại cùng nhau ăn mừng, rồi bị ngộ độc chết theo. Kên kên, quà quạ thấy thây chết đáp xuống cắn mổ ăn cũng chết luôn.

Nên có câu:
  • Nhơn tham tài tắc tử
    Điểu tham thực tắc vong.

    Chim tham ăn sa vào vòng lưới
    Cá mê mồi mắc phải lưỡi câu
    Ai ơi phải nghĩ cho sâu
    Sắc tài, danh lợi nó đâu có bền
    Mồi phú quí như tên độc dược
    Bả vinh hoa càng rước khổ đau
    Nó là miếng mật trên dao
    Ai mà tham nhiễm liếm vào chết ngay.
Còn tham sắc đẹp thì tốn tiền, hao sức, tâm thần bất an, ghen tuông, phiền muộn gây thù chốc oán, tranh giành giết hại lẫn nhau, làm nước mất, nhà tan, cửa nát, biến mình thành người hèn yếu mù quáng, ngây khờ phải chịu sự sai khiến thúc dục dưới mệnh lệnh của kẻ bày mưu.

Như vào thời nhà Chu, U Vương là người chìm đắm trong tửu sắc, ngày đêm say mê nhan sắc tuyệt trần của Bao Tự, mà nhẫn tâm giam vợ, đày con, giết hại trung thần cuối cùng mất nước. Đến vua Ngô Phù Sai cũng vì đam mê sắc đẹp của Tây Thi mà mất cả giang sơn.

Một khi con người ta đắm mình vào sắc đẹp thì mất hết lý trí, trở thành kẻ si mê, độc ác, tự làm hại mình, hại người sa vào địa ngục. Suy cho cùng sắc đẹp đó cho dù nam hay nữ, nó chỉ là cái túi da, bên trong chứa đầy những thứ nhơ uế, tanh hôi, có gì đáng để cho chúng ta say mê! Thế mà có nhiều người thấy cũng lạ, tối ngày lo trang điểm để quyến rũ khiến cho người khác say mê. Nhưng họ nào biết làm cho người ta thương, trước tiên mình đã bị tình cảm trói buộc rồi! Đó là tập khí thói quen xuất phát từ ái ngã biến ta trở thành tên nô lệ. Ái dục là nguyên nhân tạo ra bản ngã mỗi ngày lớn lên, sanh tâm kiêu căng, hống hách tạo nhiều nghiệp chướng, hiện tại khổ lụy, sau khi chết sanh vào cõi dữ. Chúng ta hãy xem qua câu chuyện sau đây để thấy rõ tai hại của tánh đam mê sắc dục.

Chuyện kể: Có cô nàng nọ, vì quá đam mê sắc đẹp, nên từ sáng đến chiều cứ mãi lo trang điểm, khi chết sanh làm con dòi bò ra rúc vào trong lỗ mũi. Lúc đó có thầy Tỳ kheo đắc đạo chứng kiến cảnh ấy, chỉ cho người đời thấy sự tai hại của lòng ái nhiễm làm cho thần thức mê muội khó sanh vào cõi lành:
  • Người đắm say sắc dục
    Tự lao mình xuống hố
    Người trí cắt trừ ái
    Bỏ mọi dục không màng.

    Thấy sắc tâm mê tưởng
    Chẳng xét lẽ vô thường
    Người mê cho là đẹp
    Giả dối lại yêu thương

    Đắm mê trong dâm lạc
    Tằm kéo kén khác chi
    Người trí huệ dứt hẳn
    Hết khổ não sầu bi.

    Người tâm trí buông lung
    Dâm nhơ cho là sạch
    Tình ân ái sâu nặng
    Là lao ngục trói trăn.

    Người tỉnh giác trừ dâm
    Bất tịnh quán để tâm
    Nhờ đó khỏi lao ngục
    Già chết dứt tận mầm.
    • Kinh Pháp Cú
Tham danh vọng phải vào lòn, ra cúi, lao tâm nhọc sức, khi được rồi sợ kẻ khác hãm hại, lúc nào cũng phập phồng lo sợ, cho người canh gác chẳng khác nào kẻ tử tù, nhưng thiên hạ nào ai biết cứ mãi lo tranh giành.

Nên có câu:
  • Danh tiếng lẫy lừng, danh tiếng hại
    Tuổi tên lừng lẫy, tuổi tên trù
    Bao phen bay nhảy, bao phen bại
    Mấy trận tài khôn, mấy trận ngu.
Hay là:
  • Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần
      • Nguyễn Du
Muốn khỏi bị lợi danh xiềng xích, trói buộc, thân tâm thanh tịnh, an vui, chúng ta hãy xem qua mẩu chuyện trong kinh Tăng Chi:

Chuyện kể, thuở Phật còn tại thế, có vị hoàng tử tên là Bạt Đề xuất gia tu học trong giáo pháp của đức Thế Tôn. Một hôm đang hành thiền, ngài thấy rõ sự ích lợi của đời sống phạm hạnh liền thốt lên: "Hạnh phúc thay! Hạnh phúc thay!" Khi đó có một vị Tỳ kheo ngồi thiền gần bên nghe thế, hôm sau đem chuyện đó trình lên Phật. Ngài cho gọi Bạt Đề đến hỏi nguyên do.

- Bạch Thế Tôn! Sở dĩ con thốt lên lời ấy là vì trong khi con làm Hoàng tử, lúc nào cũng phập phồng lo sợ người khác tranh dành ngai vàng hãm hại, làm cho thân tâm luôn bất an. Kể từ khi xuất gia tuy chỉ có tam y, nhứt bát, không có gì vướng bận, nhờ thế nội tâm rất an lạc, nên con mới thốt lên câu hạnh phúc thay là vậy.

Phật quay sang bảo: "Chư Tỳ kheo hãy noi gương hạnh ấy. Xa lìa ngũ dục, sống đời tri túc, an bần lạc đạo, mới được tự tại giải thoát an vui".

Qua chuyện trên, để cho chúng ta thấy hạnh phúc ở đây không phải là một danh vọng vật chất, mà đòi hỏi ở mình có biết đủ hay không? Nếu chẳng biết đủ, dù làm vua cõi người, làm chúa cõi trời cũng chưa vừa ý.

Trong kin A Hàm kể: Tiền thân Phật là vua Đảnh Sanh làm Chuyển Luân Thánh Vương cai quản bốn châu thiên hạ còn không vừa lòng, lên trời Đế Thích chia cho nửa tòa ngồi vẫn chưa xứng ý định chiếm luôn cung trời, vì quá gian tham nên mất hết phước, rớt xuống nhân gian, âu sầu mà chết. Phật nhắc chuyện ấy để cảnh giác những ai túi tham không đáy, hãy cảnh tỉnh lấy mình!

Ở đời người ta thường quan niệm nghèo là khổ, nếu nghĩ như thế, tại sao Phật rời bỏ hoàng thành vào rừng tu khổ hạnh. Đến khi đắc đạo dưới cội cây Bồ đề, tam y, nhứt bát nay đây mai đó, chẳng quản gian lao, không từ khổ nhọc, du hành khắp nơi giáo hóa chúng sanh. Trước lúc nhập Niết Bàn nơi rừng cây Sa La, ngài nói: "Chưa có ông vua hay vị trời nào hạnh phúc, an lạc như ta". Cho nên hạnh phúc hay khổ đau, đủ thiếu ở đây không phải danh vọng, vật chất mà điều quan trọng là chúng ta sống làm sao cho phù hợp lẽ đạo thanh cao, cho dù nhà tranh, am cốc đơn sơn, cơm rau đạm bạc vẫn thấy an nhàn lạc đạo. Kinh Di Giáo nói: "Trí túc thường lạc". Nghĩa là người biết đủ, ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng được yên vui.

Tham ăn cao lương mỹ vị, khó tiêu, thân thể mệt nhọc, dễ sanh ra các chứng bệnh khó trị.

Kinh Y nói: "Người bị đau có mười nguyên nhân.
  1. Ăn những món có phong độc.
  2. Ăn chẳng tùy theo bệnh, cữ kiêng.
  3. Ăn uống không độ lượng,
  4. Ăn chẳng theo thời tiết.
  5. Ăn những món khó tiêu.
  6. Biết món ăn không lợi mà vẫn ăn.
  7. Những món ăn trước chưa tiêu mà ăn thêm vào.
  8. Ăn nhai không kỹ.
  9. Ăn rồi ngồi lâu và làm việc liền.
  10. Đến lúc đại tiện, tiểu tiện mà chẳng chịu đi."
Người tham ăn thường bị mùi vị ràng buộc, như dùng thiếu một trái ớt... là nuốt không vô, tìm cho bằng được mới chịu ăn, có khi người nấu không vừa miệng thì chê trách đủ điều. Người ta nấu cực khổ, không khen thì thôi, có đâu vì một chút miếng ăn, làm cho mất hết tình nghĩa. Các nhà tâm lý học bảo: "Trước khi chê điều gì, ta phải khen họ trước".

Thí dụ: Nếu canh lạt quá, ta nên nói: "Bạn nấu ngon lắm, nhưng thêm một chút muối thì thật là tuyệt". Nói như thế ai lại không thích. Ngược lại chỉ chê mãi, họ sẽ đổ lỳ ra là nguy hại cho cả nhà!

Quý vị hãy học cách sống của các vị thiền sư, quý ngài sống rất bình dị, đơn giản xem món ăn như lương dược trị bệnh đói khát, duy trì mạng sống để hành đạo làm lợi ích cho chúng sanh. Đói ăn, khát uống, không có chi bận tâm phiền trách, vì biết tất cả là vô thường giả tạm.

Những người tham ăn, họ thường tìm kiếm những món ngon vật lạ để cung phụng xác thân, nhưng ăn qua khỏi miệng rồi còn chi? Chỉ còn lại tội lỗi. Ngày kia phải lãnh lấy ác báo.

Tổ Quy Sơn dạy: "Muốn tiến đạo nghiêm thân phải tam thường bất túc: (ăn, mặc, ở... phải thường biết đủ)".

Ngài Ấn Quang pháp sư khuyên:
  • Cơm rau đỡ dạ đói
    Nhà cỏ che gió sương
    Người đời nếu biết đủ
    Phiền não chẳng còn vương"
Trong kinh Tiểu Bộ, Tập I đức Phật có dạy:
  • Ai đoạn hết lậu hoặc
    Uống ăn vừa biết đủ
    Tự tại nơi hành xử
    Không vô tướng, vô nguyện
    Như chim giữa hư không
    Tìm dấu chân chẳng thấy.
Tục ngữ: Ăn để sống, chớ không phải sống để ăn".

Tham ngủ nghỉ thì tâm trí lu mờ. Có nhiều người ham ăn, mê ngủ đến đỗi quên hết lẽ phải, thậm chí thân quyến nghèo đói, hoạn nạn, hay đau chết cũng không thèm ngó tới. Hạng người như thế thật là mất hết nhân phẩm, tổn giảm phước đức.

Kinh Pháp Cú nói:
  • Con heo thích ngủ, ham ăn
    Muôn đời chịu kiếp bán thân làm hàng
    Người ngu thích ngủ ham ăn
    Muôn đời tiếp tục trói trăn luân hồi.
Theo Y học: Trung bình mỗi ngày đêm, ngủ bảy đến tám tiếng đồng hồ là đủ". Thời gian còn lại chúng ta cố gắng làm việc, nghe kinh, học pháp, tự nhắc nhở mình và khuyên nhủ người chung quanh, tích cực làm công quả, bố thí gieo trồng phước duyên cho đời sau. Vì thời gian đã qua rồi không bao giờ trở lại, kiếp người ngắn ngủi phải nên tinh tấn làm phước thiện. Nếu mãi lười biếng, hẹn hò e rằng đến khi tử thần gõ cửa đi vào cõi dữ, lúc đó ăn năn, muốn làm lành thì đã quá muộn màng!

Kinh Di Giáo Phật dạy các hàng đệ tử: "Ngày thời siêng năng tu tập các pháp lành, chớ bỏ sai thời, đầu đêm cuối đêm phải tinh tấn tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, đừng vì nhân duyên ngủ nghỉ, luống qua một đời. Phải nhớ giặc vô thường đang rình giết người hơn kẻ oan gia, hãy mau tỉnh ngộ, sớm cầu siêu độ".

Ngoài ra còn có nhiều người đam mê dủ thứ, nào là hương thơm, cảm xúc êm dịu, tiếng hay. Có người mê đến nỗi nếu là bộ phim đó, giọng ca nọ mới chịu, ai chiếu phim, bắt đài khác, liền nổi giận chửi rủa đủ điều. Ôi thật là mê muội vô cùng!

Muốn có cuộc sống hài hòa, chúng ta phải tu hạnh hỷ xả, tùy thuận lẫn nhau. Khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng, ta phải bình tĩnh quan sát lời Phật dạy: "Ngũ dục, lục trần là pháp loạn tâm, tổn hao sức khỏe, đều nguy hại cho lòng đạo cả". Phải nếu ta thấy rõ các pháp không thật, thì tâm ta liền trở nên an lạc.

Sở dĩ con người khổ là do lòng cố chấp quá nặng, như khi hương thơm đến nảy sinh ý ưa thích, hôi thúi tới liền bực dọc, tức giận. Muốn khắc phục phải tịnh tâm để thấy tự tánh nó không thật. Đủ duyên thì đến, hết duyên liền mất. Nhìn lại thân ta cũng là nhơ uế, có chi phải bận tâm buồn phiền, không giải quyết được gì, tốt nhất lo dọn dẹp hoặc tránh né hay hơn là phiền trách.

Cho đến xúc chạm, những gì êm ái, mịn màng thì sanh tâm say đắm, thô cứng thì lại chán ghét, Phật dạy: "Người đam mê xúc dục, nếu cứ mãi lẩn quẩn trong vòng sinh tử, chịu biết bao kiếp nạn giống như người đứng trước vực thẳn không biết rơi xuống lúc nào".

Nên có câu:
  • Bởi mê mới làm tôi thị dục
    Nếu ngộ đâu tùng phục lòng tà
    Dục tà đều hại người ta
    Dục là thống khổ, tà là trầm luân
    Dục thường vì xác thân khởi xướng
    Tà thường vì vọng tưởng gây ra
    Cả hai đều thứ mắt lòa
    Lợi gần thấy đẹp hại xa không lường.
Hay là:
  • Nhãn thấy sắc thường hay bận bịu
    Tai ưa nghe lắm điệu âm thanh
    Mắt với tai đều chọn đẹp xinh
    Còn lỗ mũi ưa mùi êm dịu
    Đồ thơm tho nó ưa, nó chịu
    Chỗ xạ hương hay lết lại gần
    Lưỡi ưa ngon là chuyện ân cần
    Đồ ngọt béo nó ưa, nó mến
    Thân tham sướng muốn tiền của đến
    Đặng ăn xài cho phỉ tâm tình
    Ý thì ưa sửa sắc soi hình
    Với chức phận cho cao, cho quý
    Sáu đường ấy ở trong tâm ý
    Ta mau mau dứt nó cho rồi
    Thì tòa sen mới đặng đứng ngồi
    Cho thong thả hưởng mùi sen báu.
Thi văn cho chúng ta biết nếu lục căn của mình được thanh tịnh, ngay đó là Bồ Đề, Niết bàn, Tịnh Độ, không cần tìm đâu xa.
  • Bồ Đề cuộc sống quanh ta
    Bôn ba cầu ngộ chỉ là uổng công.

    Pháp Bảo Đàn kinh
Trần Nhân Tông cũng nói:
  • Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
    Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền
    Trong nhà có báu thôi đừng kiếm
    Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
Bởi trong cái vọng tâm nó có cái chân tâm ở sẵn trong đó không cần tìm ở đâu xa, cho nên ngài nói: "Trong nhà có báu thôi đừng kiếm." Nhưng khi nào của báu đó nó mới hiện ra, chỉ khi nào lục căn đối với lục trần không sanh ra niệm nào hết, giữ tâm bình thường đó là thiền, là kiến tánh rồi còn tìm ở đâu nữa, cũng như sóng không lìa nước, khi gió lặng thì sóng tự nhiên sẽ yên, sóng gió ví như phiền não vô minh, nước trong yên tịnh ví như Biết bàn thanh tịnh chơn như vậy.

Trái lại, lục căn còn tham đắm, trụ chấp, dính mắc lục trần đó là nguyên nhân gây ra ác nghiệp:
  • Sáu căn tiếp với sáu trần
    Gây ra tội lỗi không ngừng một giây
    Nơi bể khổ bơi vào lặn hụp
    Chốn Ta bà mãi dục chân bon
    Đam mê nhân ngã bằng non
    Đi con đường quấy bỏ con đường lành.
Để nhắc nhở có các vị khất sĩ giữ gìn sáu căn đừng buông xả tự thân trong lãnh vực thất niệm, Phật kể cho các vị khất sĩ nghe một mẩu chuyện như sau:

Một hôm nọ có một con chim ưng thình lình đáp xuống chụp lấy một con chim cút rồi bay vút lên cao.

Con chim cút than khóc, tự trách là mình đã đi ra khỏi vùng mà cha mẹ bảo không nên ra khỏi, cho nên mới bị tai nạn. "Nếu ta biết nghe lời cha mẹ thì con chim ưng này làm gì được ta".

Nghe con chim cút nói thế, chim ưng hỏi: "Vậy vùng nào mà cha mẹ mày bảo đừng ra khỏi?"

Chim cút đáp: "Đó là vạt đất mới được cày".

Chim ưng lấy làm lạ, bèn mang chim cút trả về chỗ cũ rồi nói: "Này cút, mày hãy liệu hồn. Tao chỉ thả mày lần này thôi. Lần sau nếu bắt được mày, tao sẽ không tha đâu".

Chim cút trở về vạt đất đã cày, leo lên đứng trên một hòn đất lớn rồi nói: "Này chim ưng, mày hãy xuống đây xem có thể bắt được tao hay không?

Chim ưng nổi giận dùng hết sức lực lao vút xuống. Chim cút thấy thế lập tức chui xuống núp dưới hòn đất. Chim ưng chẳng những không bắt được chim cút mà còn va vào hòn đất quá mạnh, đến nổi bị vỡ ngực, quay ra dẫy chết.

Này các vị khất sĩ, người tu hành phải an trú trong chánh niệm, hộ trì sáu căn cho nghiêm chỉnh. Rời khỏi lãnh vực chánh niệm tức là đi vào lãnh thổ của ma vương, thế nào cũng bị tai nạn.

Sở dĩ con người ta bị tai ách, hoạn nạn và gây tạo ác nghiệp là vì quá đam mê dục lạc, con người thường gây đau khổ cho nhau, tạo nên những cuộc tranh dành tàn khốc. Để đời sống cá nhân được an nhàn, càng tham muốn càng tạo nhiều tội lỗi. Không biết đủ, dù sống trên ngọc ngà châu báu vẫn thấy thiếu. Tham dục là ngọn lửa luôn luôn bốc cháy trong lòng nhân loại, chính nó là nguồn gốc sanh ra mọi khổ đau. Ở thế gian, tham nhiều chừng nào là tự chuốc lấy khổ lụy nhiều chừng đó. Tham là căn bệnh trầm kha khó trị.

Người ta sống chưa tới trăm năm mà lại toan tính việc muôn đời. Có kẻ giàu sang ức triệu, ngồi không hưởng suốt đời chưa hết, vẫn con vơ vét của thế gian. Tham lam, ích kỷ là bợn nhơ che mất ánh sáng trí huệ, nhận ngụy làm chơn, gây ra vô số ác nghiệp. Hằng ngày những vụ đâm chém, tranh dành danh lợi, tình tiền não hại lẫn nhau không sao kể hết! Vì nó mà muôn ngàn thảm họa nẩy sanh, chiến tranh bùng nổ khắp nơi.

Trong kinh A Hàm, Phật dạy ngài Ma Ha Nam: "Sở dĩ chúng sanh đau khổ là vì đam mê ngũ dục, lấy dục làm gốc, nên xảy ra cảnh ông bà, cha mẹ, con cháu, anh chị em dòng họ... bêu xấu, hơn thua, sát phạt lẫn nhau. Ngoài xã hội dân chúng, vua quan tranh địa vị chức quyền chưa đủ, lại khởi binh xâm lấn nước khác, gây nên cảnh bắn giết, đánh đập, tra tấn, hành phạt đủ cách, thật là dã man, mất hết nhân tính, giống như hung thần, ác quỷ, hổ báo... đều do lòng dục tạo ra thảm cảnh như thế!".

Cho nên, đức Phật khuyên các hàng đệ tử: "Phải ly dục, ly ác bất thiện pháp". Tuyệt đối không được đụng chạm đến danh dự quyền lợi người khác, cho dù đó là của cha mẹ, anh chị em, con cháu, dòng họ... dễ xảy ra xung đột, làm mất hết tình nghĩa, điều đó chúng ta phải thận trọng. Nếu như họ không hoan hỷ giúp thì chớ có xin một cách quá đáng. Có nhiều người được bà con, hay bạn bè cho tiền của, họ lấy đó làm vui thích xin hoài. Nhưng quý vị nên nhớ, trong kinh Phật dạy: "Người trí, thà để người ta thiếu nợ mình, chớ có thiếu nợ người, kiếp sau phải trả gấp nhiều lần!"

Trong Lương Hoàng Sám nói: "Oán thù xuất phát từ trong gia đình, thân bằng quyến thuộc". Mới xem qua lấy làm lạ, nhưng suy nghĩ kỹ thời thấy khi sống chung lâu ngày lắm lúc vô tình hoặc cố đụng chạm, xúc não lẫn nhau, có chút gì không vừa lòng liền sanh tâm giận dữ. Anh em dành của, cha con trở mặt, chồng vợ ly hôn, ông bà, cha mẹ thường trách con cháu hoặc con cháu phiền trách ông bà, cha mẹ cho đến anh chị em, dòng họ... hết thảy đều trách móc hiềm hận lẫn nhau.

Nếu nhà giàu có thì đua nhau đến xin, càng xin càng lấy làm không đủ, xin mãi người ta không cho, trở lại ôm lòng oán hận, tìm cách trả thù kết oán đời đời không thôi. Thế mới biết oán thù ba đời, không ai xa lạ, đều là bà con thân thích chúng ta là nhóm oan gia.

Nên có lời khuyên:
  • Xin nhiều người ghét, kẻ phiền
    Xin mà chẳng đặng ta liền buồn ngay
    Vậy nên ta chớ xin ai
    Đặng cho an lạc khoan thai nhẹ nhàng.
Để xây dựng hạnh phúc cho nhân loại, đức Phật khuyên chúng ta nên ít muốn biết đủ, bố thí để diệt trừ tánh tham. Nhưng có người bố thí rất nhiều mà lòng tham vẫn còn, là tại vì họ bố thí để mong cầu phước báu gấp muôn lần của đã bố thí, đó chỉ là phước về sau chứ không dứt tánh tham. Muốn đoạn trừ tánh tham, Phật dạy: "Phải bố thí tam luân không tịch". Nghĩa là không thấy mình thí, vật thí và người thọ thí, làm cho chúng sanh hết khổ là mình vui, không mong cầu chi hơn, nguyện đem phước lành đó hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề. Bố thí như thế mới phù hợp lời Phật dạy, dứt hết phiền não, tham lam, mau thành tựu đạo quả.
  • Là Phật tử phải nên giác ngộ
    Ham muốn nhiều khổ lụy càng sâu
    Nhọc nhằn sanh tử bấy lâu
    Đều do tham dục dẫn đầu gây nên.

    Tâm ít muốn giữ bền đạo nghiệp
    Hạnh vô vi, không tiếp nghiệp duyên
    Tự nhiên sẽ hết não phiền
    An vui tự tại giữa miền nhân gian.
Để cho các hàng đệ tử biết được phương pháp tu hành, ngài đưa ra con đường trung đạo, không dung dưỡng và ép xác thái quá, ăn ngủ chừng mực để dành thời gian nghiên cứu giáo lý, sống hợp lẽ đạo, nuôi dưỡng tâm linh ngày một lớn mạnh trong chánh pháp Phật đà.

Thuở xưa, Phật thường dạy ngài Ma Ha Nam: "Ông nên biết dục không có gì là lạc, chỉ toàn là khổ, nó rất nguy hiểm giống như rắn độc, phải mau tránh xa, mới mong thoát khỏi vòng sanh tử khổ đau".

Nếu người nhiều tham dục, nên quán bất tịnh; nếu yêu sắc đẹp quán thây chết bầm xanh; yêu dáng điệu quán thây chết sình chương, nứt nẻ; yêu âm thanh quán người bệnh thở thoi thóp rồi tắt thở; yêu bóng dáng quán cửu khiếu hằng bài tiết ra những thứ bất tịnh, cho đến quần áo, mùng mền, chiếu gối... trong ngoài đều bất tịnh (Tổng Quán).

Quán được như vậy thì tận diệt được tâm điên đảo mê lầm ái nhiễm.
  • Thấy người đa dục cầu đã khổ
    Được nó giữ gìn càng khổ thêm
    Mất đi buồn thảm khổ lại hơn
    Mong cầu được dục không màng khổ
    Dục nhân vô thường, sanh sầu thảm
    Các thứ dục đó nên bỏ đi
    Ví như rắn độc vào nhà người
    Không gấp đuổi đi tai họa đến

    Những thứ dục cầu vui điên đảo
    Cùng dục vui vầy không nhàm chán
    Thường cùng lửa dục chung một chỗ
    Bị nó thiêu đốt sanh tử mãi.

    Phật xưa cảnh tỉnh các đệ tử
    Ly dục, ly ác bất thiện pháp
    Người không tham dục tâm thanh tịnh
    Vượt khỏi sanh tử ra ba cõi.
Người tu phải lấy giới làm căn bản, nhiếp tâm theo công hạnh, xem nhẹ thân thể, quý trọng chân lý, duy trì mạng sống để tu tập thiền định. Phải thường hướng đến mục đích đắc đạo mà tinh tấn niệm Phật, tu chỉ quán để dứt trừ vọng tưởng.
  • Giữ giới nhiếp các căn
    Biết tiết độ ăn, ngủ
    Ý luôn luôn tỉnh giác
    Tự thanh tịnh hết khổ.

    Dù là dục cõi trời
    Trí giả xả không tham
    Vui viễn ly ân ái
    Làm đệ tử Phật đà.
    Vô dục thì vô úy
    An lạc chẳng lo chi
    Dục hết, kiết sử hết
    Sinh tử sẽ thoát ly.
    Này dục ta biết rõ
    Ngươi từ nhớ tưởng sanh
    Ta nếu không nhớ tưởng
    Ngươi tự nhiên chẳng còn
    Giặc tham dục hại mạng
    Như nhà buôn nhiều hàng
    Giữa đường hiểm ít bạn
    Nên người trí không tham.

    Tiểu Bộ kinh, Tập I
Kinh Pháp Cú, Phật dạy:
  • Tham dục sanh ra lo
    Tham dục sanh ra sợ
    Giải thoát không tham dục
    Đâu còn lo sợ gì.
Nói tóm lại, nếu người nào cũng biết đủ, đổi cái ham muốn hung ác tội lỗi, ích kỷ hại nhân, hại vật ra làm cái ham muốn từ bi, hỷ xả, bình đẳng, lợi người, lợi vật lợi tất cả chúng sanh, thì từ trong gia đình cho đến xã hội không còn kẻ giàu mạnh đàn áp người nghèo yếu. Có như thế cảnh đời mới được thanh bình, an lạc. Kinh Thập Thiện Nghiệp, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa tham dục, thời thành tựu được năm món tự tại:
  • 1. Ba nghiệp tự tại, các căn đầy đủ.
    2 Của cải tự tại, oán tặc không thể cướp đoạt.
    3. Phước đức tự tại, tùy lòng ưa muốn vật dụng đầy đủ.
    4. Vương vị tự tại, đồ vật quí lạ đều được dâng hiến.
    5. Những vật đã được thù thắng gắp trăm lần chỗ mong cầu, vì thuở xưa không ganh ghét, bỏn xẻn.
Đó là năm món tự tại. Nếu đem hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, được ba cõi hoan hỷ cung kính cúng dường.

Ngược lại trong kinh A Hàm, Phật nói: "Chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc, nên thân làm ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác. Người đó về sau bị quả báo bệnh nằm liệt giường, khổ bức toàn thân, đau nhức vô cùng, cầu sống chẳng được, nguyện chết không xong, gieo nhân ác hiện tại gặt lấy quả báo sầu đau. Sau khi chết rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, khi sanh làm người hạ tiện, đói rách khổ não triền miên".

Kinh Văn nói: "Chúng sanh luân hồi trong sáu nẻo trả vay bất tận, đều từ tham dục mà ra".

Than ôi! Trong kinh Phật đã chỉ rõ sự tai hại của tham dục, chúng ta chớ có buông lung gây tạo ác nghiệp, mà phải ăn năn sám hối. Những tội đã làm nguyện xin trừ diệt, những tội chưa làm thề không dám làm.

"Người có nhiều tội lỗi, mà chẳng biết hổ thẹn, tội dồn đến thân, như nước chảy về biển, lâu ngày thành sâu nặng. Nếu người có tội lỗi, tự biết đó là tội lỗi, thành tâm sám hối, cải tà qui chánh, bỏ ác, tu thiện, tội lỗi tự tiêu dần, như người bệnh xuất hạn, lần lần được lành mạnh" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).

Để cảnh tỉnh lòng tham của người đời, Cổ Đức dạy:
  • Ác thứ tám là lòng tham hiểm
    Muốn bao gồm của thế một mình
    Tham nhà cao, cửa rộng thân vinh
    Tham vườn ruộng, cò bay thẳng cánh

    Thấy của người thèm khô nước miếng
    Tính làm sao lường gạt lấy đi
    Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì
    Dầu tốt xấu cũng là dồn chứa.

    Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa
    Của thế trần như mật dính dao
    Kẻ tham ăn kê miệng liếm vào
    Chừng đứt lưỡi mới là hối hận.

    Tham của thế làm điều tàn nhẫn
    Nhắm mắt rồi đâu có mang theo
    Tham tiền tài thường vướng nạn eo
    Tham sắc đẹp nhà tan, cửa nát.

    Lúc tận số nằm trơ một xác
    Gẫm kim tiền phụ bạc bất tài
    Không làm cho ta được sống dai
    Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.

    Thà nghèo thanh, hơn giàu mà trược
    Lo vun trồng cội phước về sau
    Muốn trừ tham phải liệu cách nào
    Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.

    Tâm chánh niệm thường hay suy nghĩ
    Vật ở trần như bọt nước, mây
    Thân ta còn rày đó mai đây
    Của ấy cũng khi tan, khi hiệp.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 9. KHÔNG SÂN NHUẾ:
Sân nhuế là tính nóng nảy giận hờn, hễ ai nói động đến mình một chút hoặc làm trái ý, nghịch lòng, liền sân si, sừng sộ, phẫn nộ chống đối tới cùng, đó gọi là sân nhuế.

Phật cấm sân hận, vì nó rất tai hại giống như ngọn lửa dữ đốt cháy cả mình lẫn người xung quanh. Vì thế trong kinh Hoa Nghiêm nói: "Nhất niệm sân tâm khởi bá vạn chướng môn khai". Nghĩa là một niệm sân nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Thật vậy, có lắm người không ngăn được cơn tức giận, đánh đập vợ con đến nỗi tàn tật, đốt phá của cải rồi ân hận suốt đời. Cũng có người lắm lúc không làm chủ tánh nóng giận của mình, dẫn đến tình cốt nhục chia lìa, nghĩa vợ chồng phân ly, bạn thân trở thành thù hận...

Vì thế Khổng Tử dạy: "Thiên tử không nhẫn, nước tiêu tan. Chư hầu không nhẫn mất thửa mạng. Quan lại không nhẫn, bị hình phạt. Vợ chồng không nhẫn, tình ý xa. Anh em không nhẫn, chia lìa nhau. Tự thân không nhẫn, họa đến thân".

Ngài dạy tiếp: "Thiên tử nhẫn nước không hư, chư hầu nhẫn nên việc lớn, quan lại nhẫn nên chức vị, vợ chồng nhẫn tình chung thủy, anh em nhẫn nhà giàu sang, bằng hữu nhẫn danh không hư, tự thân nhẫn không họa hoạn. Nhẫn, nhẫn, nhẫn tất cả ác duyên dứt. Nhịn, nhịn, nhịn muôn ngàn tai họa đều tiêu".

Tục ngữ có câu: "Một câu nhịn, chín câu lành".

Trên đời có nhiều người giận một cách phi lý. Như có một anh thợ mộc, lỡ tay làm hư đồ liền nổi giận, miệng vừa nói tay vừa đập: "Mày hư tao cho hư luôn". Vì thiếu đức kiên nhẫn, nên biết bao người bỏ dở dang công việc giữa chừng một cách đáng tiếc! Đối với việc làm mà không khắc phục được thì làm sao hài hòa với những người cộng sự. Ngoài xã hội chúng ta thường thấy những cuộc tranh tụng giữa hai bên cha mẹ, vợ chồng... Vì thiếu niềm tin, nên xảy ra tranh cãi. Kết quả là đưa đến khổ đau, đều do lòng cố chấp bảo thủ, thấy lỗi người mà ra. Như bà vợ thì muốn ông chồng đừng uống rượu, hút thuốc..., còn ông chồng thì bảo vợ đừng có cằn nhằn, ăn xài... Nhưng thử hỏi, tự bỏ cái tật của mình coi có được chăng? Nói như thế không có nghĩa là ai muốn làm gì mặc kệ, nếu thấy việc chi không tốt, làm tổn hao tiền của, sức lực, ta nên cố gắng khuyên nhắc lẫn nhau. Nếu không được, coi đó là nghiệp ráng nhẫn nhịn trả cho rồi, tranh cãi làm chi cho sanh sự lôi thôi.

Như mẩu chuyện trong sách giáo dục gia đình nói: Có anh chàng tên là Nhu có cô vợ tánh tình hung dữ lại nói dai vô cùng, việc không đáng cứ nói mãi, nhưng anh vẫn tự nhiên coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhờ hiểu đạo, lấy nghịch cảnh rèn luyện đức nhẫn nại, nên gia đình được bình yên. Sở dĩ con người ta đau khổ là vì không chấp nhận sự thật, vui chịu với nó.

Thí dụ: Như ông bà thấy con cháu làm ồn, thời bực mình la rầy, chửi rủa, vô tình tập cho mình thói quen, lâu ngày thành nghiệp, khi đó khó mà sửa đổi. Nếu chúng ta biết an nhẫn, lấy sự ồn ào của chúng làm vui thì vẫn vui như thường. Cũng như cái nhà của mình đâu có hẹp, nhưng nếu chú rễ về ở chung thì anh chị em bên vợ cảm thấy chật là vì tâm ích kỷ, hẹp hòi, che mờ lý trí, đạo đức đánh mất hết tình nghĩa.

Có nhiều người nói, nhịn kẻ có thế lực, lớn tuổi hơn mình dễ hơn là nhịn những người yếu kém, nhỏ tuổi như con cháu.

Quý vị nói như thế không đúng nghĩa chữ nhẫn. Mà nhẫn ở đây là chấp nhận mọi cảnh ngộ nhịn chịu sự mắng nhiếc, khinh bỉ... kẻ yếu kém nhỏ tuổi hơn mình, người như thế mới gọi là nhẫn nại cao quí.

Trong kinh A Hàm nói: "Xưa có trận giặc giữa A tu la và Chư Thiên. Lúc đó Đế Thích thắng trận bắt được A tu la vương trói tại cột cờ. A tu la vương chửi mắng nhục mạ Đế Thích đủ điều, nhưng ngài vẫn nhẫn nại không nói lại lời nào.

Khi đó, người hầu Đế Thích bèn nói kệ:
  • Tại sao Thiên đế sợ
    Tự tỏ mình yếu kém
    Tu chất mắng trước điện
    Vẫn im lặng để nghe.
Đế Thích đáp: Không phải ta sợ chúng đâu, mà vì ta nghe lời Phật dạy: " Người nào có thế lực mà nhẫn nại sự mắng chửi của người dưới tay mình, đó là người cao thượng có sức hùng mạnh". Vì thế nên ta nhẫn nại.

Bấy giờ Đế Thích liền dùng bài kệ đáp lời người hầu:
  • Nó chẳng có sức mạnh
    Ta nào có sợ chi
    Lẽ đâu hàng đại trí
    Cùng kẻ ngu tranh luận.
Khi đó người hầu đọc bài kệ trình Đế Thích:
  • Nay không trị kẻ ngu
    Sợ sau này khó nhẫn
    Hãy trừng trị nó ngay
    Cho nó tự sửa lỗi.
Bấy giờ, Đế Thích vì người hầu mà nói kệ:
  • Người ngu không hiểu biết
    Cho là ta sợ hãi
    Ta quán đệ nhất nghĩa
    Nhẫn nhục là bậc nhất.
    Ác trong các điều ác
    Với sân lại sinh sân
    Với sân mà không sân
    Là chiến thắng tột đỉnh.
    Nếu có người tranh luận
    Không đáp là hơn hết
    Ta thường nói người trí
    Không tranh với kẻ ngu.
    Ai tu hạnh từ bi
    Trí tuệ không giận hờn
    Họ mắng người trí nhịn
    Người trí thắng kẻ ngu.
    Phàm có người hai việc
    Vì mình và vì người
    Thấy người không tranh luận
    Cho họ là ngu ngốc.
    Nếu người có sức lớn
    Nhịn được người không sức
    Sức ấy là bậc nhất
    Hơn hết trong sự nhẫn.
    Người ngu bảo có sức
    Sức ấy không phải sức
    Nếu người được sức nhẫn
    Sức ấy là vô địch.
Đó là điều chúng ta cần biết để mở rộng lòng quảng đại, nhẫn nại. Vì nhẫn là pháp lành đệ nhất thế gian và xuất thế gian. Nhờ tu hạnh nhẫn, người Phật tử tại gia làm nên sự nghiệp, gia đình hạnh phúc, yên vui, người xuất gia mau thành công đắc đạo.

Như chuyện ông Thuấn có người cha là Cổ Tẩu, mẹ mất sớm nên cha cưới vợ kế, sanh được đứa con trai tên là Tượng. Bất hạnh cho ông Thuấn là thường bị mẹ ghẻ chửi mắng, đánh đập, hãm hại đủ cách. Một hôm, bà ta dùng lời đường mật nói với Cổ Tẩu bảo Thuấn vào Lịch Sơn cày ruộng. Nghe lời vợ, Cổ Tẩu bảo Thuấn đến đó cày trong ba ngày cho xong, nếu không xong thì trị tội. Ông Thuấn đến nơi nhìn thửa ruộng mênh mông, cày ba ngày làm sao rồi! Liền òa lên khóc, cảm động Trời đất, voi trong rừng ra cày ruộng, chim xuống nhổ cỏ trong ba ngày là xong về phục lịnh cha.

Vua Nghiêu nghe danh hiếu, liền cho mời Thuấn về triều gả hai cô con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi nhường ngôi cho Thuấn lên làm vua, lấy đức giáo dân nên thiên hạ được thái bình, âu ca, lạc nghiệp.

Cha nhu nhược, mẹ độc ác, em ngạo nghễ, nhưng ông Thuấn vẫn nhẫn nhịn không hề oán trách. Nhờ thế gia đình được êm thấm, làm nên sự nghiệp và hiếu đạo, gương lành của ông được sử sách lưu truyền đến nay.

Hay là chuyện ngài Thần Quang, nghe danh Tổ Bồ Đề Đạt Ma, liền tìm đến chùa Thiếu Lâm. Thấy Tổ ngồi xoay mặt vào vách thạch động. Thần Quang đứng chờ đến nửa đêm, tuyết xuống ngập nửa ống chân. Tổ thấy thế liền hỏi:

- Ngươi làm gì đứng đây?

- Bạch Tổ Sư! Con cầu pháp.

- Cầu pháp dễ thế sao?

Thần Quang liền lấy gươm chặt đứt cánh tay dâng lên Tổ để tỏ lòng cương quyết cầu pháp.

Tổ khen: "Ngươi có chí kiên nhẫn", nên ngài truyền y bát làm Tổ thứ hai, pháp hiệu là Huệ Khả.

Người học đạo nếu thiếu đức nhẫn nại, thối chí, ngã lòng sa đọa. Như chuyện Độc Giác Tiên nhân, vì một niệm sân, không nhẫn được mất hết năm phép thần thông. Ông Uất Đầu Lam Phất, do sân bị đọa làm chồn bay. Vua A Dục không dằn được cơn giận sanh làm con rắn.

Nên có câu: "Nhất sân chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi lâm", nghĩa là một đóm lửa sân nổi lên làm đốt tan muôn mẫu rừng công đức.

Thuở Phật còn tại thế, ngài từng dạy tứ chúng: "Các con phải biết rằng sân hận rất nguy hiểm, còn hơn lửa dữ, thường phải phòng hộ đừng để chúng xâm nhập, bởi tai hại của nó phá hoại các pháp lành lẫn danh thơm tiếng tốt".

Đúng như trong kinh Trung Bộ nói: Vào thời đức Phật có nữ gia chủ tên là Vedehikà, nổi tiếng là người hiền thục, nên được người đời tán dương, ca tụng. Đứa tớ gái Kali nói: "Chưa chắc!". Sở dĩ bà ta hiền là vì chưa có ai làm trái ý, để mình thử xem thực hư thế nào. Theo thường lệ, cô ta thức sớm quét dọn, dâng nước cho bà rửa mặt, điểm tâm.

Hôm nay ngủ một giấc tới trưa, bà thấy thế trợn mắt, nhưng vẫn tiếp tục làm như vậy đến ba, bốn ngày. Bà ta nhẫn hết nổi, vào phòng lôi cô ra chửi mắng, sẵn tay lấy cây gài cửa đánh vào đầu, máu chảy lai láng. Cô tớ chạy ra đường khóc la: "Bà con cô bác ơi! Lại đây mà xen bà Vedehikà đánh tôi lỗ đầu". Kể từ đó không còn ai gọi bà là người hiền nữa! Thế gian có vô số chuyện rắc rối không sao kể xiết, giống như cuồn chỉ rối. Chúng ta hãy cố gắng đề phòng, nhẫn nại, để gở những cái gút, nếu bực tức bứt xé, rối càng thêm rồi.

Chính vì thiếu đức khiêm nhường nhẫn nại, nên có nhiều người hay than: "Sao tôi sống ở đâu cũng không được?" Bởi vì họ quá đề cao, tự cho ta đây là tài trí hơn người, không nhịn một tiếng, chẳng chịu thua một câu. Thử hỏi sống ở đâu cho được?

Nên có câu:

  • Người khôn ít nói nghe nhiều
    Lựa lời đối đáp, lựa lời hỏi han
    Trước người hiền ngỏ khôn ngoan
    Nhường trên một bước rộng đàng dễ đi
    Việc người chớ nói làm chi
    Chuyện mình mình biết vậy thì mới khôn
Hay là:
  • Nhẫn một tiếng thời sóng yên gió lặng
    Lùi một bước thì biển rộng trời cao.
Thật vậy, nếu ai biết nhẫn nhịn thì trời đất rộng mênh mông, thong dong tự tại, ngược lại còn đấu tranh hơn thua, thì khó mà đi đâu được!

Kinh Pháp Cú nói:

  • Không trói buộc nào bằng ái dục
    Không khổ nào bằng khổ ngũ ấm
    Không ác nào bằng ác sân hận
    Không vui nào bằng vui Niết bàn.
Nên Phật dạy:"Nếu người nào ôm lòng sân hận là tự ngăn Thánh đạo, mất công đức lớn, đời này và đời sau không thấy được điều gì vui thú".

Chúng ta hãy suy nghiệm qua câu chuyện trong kinh Hiền Ngu sau đây, để rút ra kinh nghiệm trong khi tu tập, ngõ hầu ngăn ngừa quả xấu về sau.

Chuyện kể vua Ba Tư Nặc có cô con gái tên là Kim Cương, thân hình sần sượng giống như da cóc, ai nhìn thấy đều kinh tởm, tránh xa. Cho nên đức vua không cho công chúa ra ngoài vì sợ người ta biết, cho ông là người thất đức, nên mới có con như thế.

Công chúa Kim Cương khi lớn lên, tự nghĩ mình chẳng khác nào như chim lồng, cá chậu, muốn đi đâu cũng không được, thậm chí nghe nói đức Phật ra đời, định đến nghe pháp để tu hành vẫn không được.

Một hôm nghe nữ tỳ nói: "Phật có tam minh, lục thông, Chúng sanh khẩu cầu ngài, đều được cứu giúp". Công chúa liền bảo tỳ nữ, mua sắm hương hoa, lập bàn hương án, hướng về Linh Thứu Sơn, thành tâm đảnh lễ cầu xin Phật từ bi chỉ giáo cho con biết cách tu hành, hóa giải ác nghiệp.

Động mối từ tâm, đức Phật dùng thần thông bay đến ngự trên hư không hào quang sáng chói. Công chúa nhìn lên thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, trong lòng vô cùng hoan hỷ, đảnh lễ thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Do ác nghiệp gì con lãnh thọ thân hình thô xấu thế này?"

Nhơn đó, Phật nói: "Hồi thời quá khứ có ông trưởng giả thường phát tâm cúng dường, bố thí. Vì muốn cho con gái tạo phước, nên mỗi khi chư Tăng và người nghèo đến xin, liền kêu con ra sớt bát, cúng dường, bố thí.

Một hôm, không may cho cô con gái phải vị Bích Chi Phật bị bệnh cùi, thân hình lở loét. Cô ta nổi giận sanh tâm khinh mạn chê vị Bích Chi Phật là xấu xí, hôi tanh nên nhờm gớm, phiền trách: "Sớt bát rồi sao ông không mau đi, hôi quá chịu không nổi". Đối với những người bệnh hoạn dơ bẩn, cô đều khi dễ phỉ báng, khạc nhổ".

Nói đến đây Phật bảo: "Này Kim Cương, người con gái thuở đó chính là tiền kiếp của con vì xem thường vị Bích Chi Phật và khinh khi những người bệnh hoạn, dơ bẩn mới bị quả báo thân hình thô xấu như thế! Nhưng nhờ con biết bố thí cúng dường, nên nay được làm công chúa để hưởng phước khi xưa con đã tạo".

- Bạch đức Thế Tôn! Muốn chuyển hóa thân hình xấu xí này, phải tu hạnh gì?

- Muốn hóa giải nó, con phải tu hạnh nhẫn nhục, trên kính dưới nhường, nói lời êm ái, chơn thiện, làm cho người nghe sanh tâm hoan hỉ. Đó là nhân lành kết thành quả tốt, thân hình xinh đẹp, ai thấy cũng kính mến.

Sau khi nghe Phật dạy xong, công chúa thành tâm sám hối, phát nguyện: Từ đây cho đến trọn đời, con không bao giờ khởi lên tâm niệm giận hờn, nói lời thô ác với bất cứ chúng sanh nào. Rồi chí thành đảnh lễ, chiêm ngưỡng đức Phật bảy lần, tự nhiên dung mạo trở nên xinh đẹp.

Chúng ta giống như một họa công, muốn vẽ đẹp hay xấu tùy ý, ai thực hành hạnh nhẫn nhục, từ bi, hỷ xả, khiêm nhường, nói lời hiền hòa là đang phác họa cho mình một bức chân dung tuyệt mỹ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ngược lại, sân si, cống cao, ngạo mạn, nói lời thô tục là tự vẽ cho mình tấm hình thô xấu. Nếu ai không tin, tha hồ sân si, nói càn... kiếp sau thân hình xấu xí, đi đâu cũng che đậy sợ người ta thấy, đến khi đó ăn năn đã muộn.

Người hay sân nó hiện ra tướng xấu, tự làm khổ mình và người khác, nên nó trổ quả xấu, khổ không thể tránh được.

Thật vậy, mỗi khi sân hận nổi lên, quý vị soi gương coi đẹp hay xấu, có người giận quá mặt tái xanh, chân tay run rẩy, đứng ngồi không yên, tim đập mạnh, giọng nói ngập ngừng. Đó là nguyên nhân đau tim, tăng huyết áp, đứt mạch máu mà chết.

Sở dĩ chư Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là nhờ trong quá trình tu Bồ tát đạo, quý ngài giữ gìn giới luật, thực hành nhẫn nhục Ba la mật, làm lợi ích an lạc cho chúng sanh, nên được đầy đủ phước tướng trang nghiêm như thế.

Chúng ta cũng thấy, người nào tu hành nhẫn nhục thì nhan sắc dịu hòa, thân tướng đoan trang, oai nghi tề chỉnh. Như thế đủ chứng minh nhẫn nhục hiện tại và tương lai hưởng được sự an lạc tốt đẹp. Thế mà người đời cho nhẫn nhục là yếu hèn, họ quan niệm như thế thật sai lầm.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Người có trí tuệ thấy được sự tai hại của sân hận, nên thực hành nhẫn nhục, luôn luôn phòng hộ chẳng cho nó xâm nhập vào tâm. Nhẫn nhục như thế được gọi là người có sức mạnh lớn."

Sức mạnh của người tu, không phải như lực sĩ dùng sức mạnh để đánh thắng đối phương, như thế rất tầm thường, nhiều người làm được. Cuộc chiến thắng đó có biết bao nhiêu người đau khổ, oán thù.

Mà sức mạnh của người tu là phải có sự nhẫn nhục, chịu đựng được những cảnh trái ý nghịch lòng. Dù bị mắng chửi, đánh đập, giết hại nhưng vẫn giữ được sự điềm tĩnh an nhiên với tấm lòng bao dung, vị tha, khiến cho đối phương an lạc, xua tan đi nỗi hận thù, xoa dịu nỗi khổ đau đang xung đột hằng ngày, nêu gương lành cho nhân loại.
  • Bậc trí huệ nhập đạo
    Thường vui vẻ nhận lãnh
    Sự chửi mắng cay độc
    Như uống nước cam lồ.

    Khen chê thương ghét mặc người
    Từ bi hỷ xả nơi nơi rải đều
    Mưa trời nào nệ rong rêu
    Tâm từ vô lượng rải đều chúng sanh.
    • Thiện pháp
Kinh Pháp Cú nói:
  • Chiến trường quyết liệt hơn thua
    Thắng người ngàn trận cũng chưa thật tài
    Thắng mình mới đáng gọi hay
    Chiến công oanh liệt ấy ai dám bì.
Người thế gian nhẫn khác người tu, vì sức yếu thế cô phải nhịn, nhưng trong lòng rất căm hận, chờ cơ hội báo oán. Hay là chuyện oan ức chưa biện bạch được, bởi tiền bạc che lấp sự bất công, vì danh dự tông môn, gia đình phải nhịn cho yên thân. Nhưng lúc nào cũng thấy cái nhục trước mắt, nên hết sức khổ đau. Như thế không đúng nghĩa chữ nhẫn của nhà Phật, nên oan trái, oán thù cứ mãi chất chồng.

Kinh Pháp Cú, Phật dạy:
  • Nó mắng tôi, đánh tôi
    Nó thắng tôi, cướp tôi
    Ai ôm hiềm hận ấy
    Hận thù không thể nguôi.
    Nó mắng tôi, đánh tôi
    Nó thắng tôi, cướp tôi
    Không ôm hiềm hận ấy
    Hận thù được tự nguôi
    Với hận, diệt hận thù
    Đời này không thể được
    Không hận, diệt hận thù
    Là định luật ngàn thu.
Muốn hóa giải oan trái, hận thù... Phật dạy: " Phải thường khởi lòng từ, tha thứ hoàn toàn đối với những ai đã từng làm mình khổ và không nên thấy lỗi người, hằng nhận lỗi mình, thấu suốt nhân quả, ăn năn sám hối lo tu sửa, xem kẻ thù như Phật, Trời, cha mẹ. Thời sẽ diệt trừ hết ác nghiệp mau thành Phật quả."
  • Kẻ thù càng muốn ta hư
    Thắng thù ta cố nên người đức cao
    Ngàn xưa cho đến ngàn sau
    Tình thương ngăn được máu đào mà thôi.

    Ta đã được an tịnh
    Không có oán và hờn
    Giữa những người oán hờn
    Ta sống không oán hờn.
    Kinh Pháp Cú
Bởi không nghe lời Phật dạy, nên có nhiều người ăn chay mấy chục năm mà phiền não vẫn còn, mỗi khi gặp nghịch cảnh đến liền sân si, bực tức, la lối... Người như thế Phật cho là yếu kém, không bao giờ đạt đến quả vị giải thoát, nên ngài nói: "Trì trai khổ hạnh, không thể bì kịp người tu hạnh nhẫn. Các con phải ghi nhớ, không nên làm nặng lòng ai hết, chớ coi họ tốt hay xấu, mà hãy xem đạo hạnh của mình có vẹn toàn hay chưa? Và bền chịu sự nhẫn nhục, siêng học kinh, nghe pháp, giữ gìn giới luật của bậc Thánh, như thế người ta sẽ xa lánh mọi sự buồn, mau tiến tới Niết bàn".

Kệ rằng:
  • Người con Phật hãy gìn hạnh nhẫn
    Chớ chứa hờn chứa dữ ích chi
    Phận tu trì, tai gác, mặt lỳ
    Chịu cay đắng tu hành mới giỏi.
Hay là:
  • Người tu giả dại, giả câm
    Giả đui, giả điếc để tầm đạo cao
    Mấy lời phân tỏ âm hao
    Ráng tu đem được Phật vào trong tâm.
Thuở Phật còn tại thế, ngài khuyên La Hầu La: "Muốn thành tựu hạnh Nhẫn, phải quán thân mình như đất, dù người ta đổ và rải lên đất những thứ tinh sạch đẹp đẽ như hoa, nước thơm, sửa thơm, hoạc người ta đổ lên đất những thứ dơ dáy, hôi hám như phân, nước tiểu, máu mủ và khạc nhổ đàm, nhớt xuống đất thì đất vẫn tiếp nhận tất cả những thứ ấy một cách tự nhiên, không vui vẻ mừng rỡ mà cũng không chán ghét tủi nhục. Cũng như thế, những cảm thọ khoái lạc hoặc buồn khổ phát sinh, con đừng để cho chúng làm nhiễu loạn tâm con và chiếm cứ lòng con.

Con hãy học theo hạnh của nước. Dù người ta có giặt những thứ thơm tho hoặc dơ bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy vui vẻ tham đắm hoặc tủi nhục, buồn khổ chán chường. Nước bao la, lưu chuyển, có năng lực hóa giải và gạn lọc. Con lại nên học hạnh của lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ, kể cả những thơm tho, đẹp đẽ hoặc hôi hám, xấu xí, dơ bẩn, nhưng lửa không vì vậy mà cảm thấy tham đắm hoặc ghê tởm, tủi nhục căm hờn. Con nên học hạnh của không khí. Không khí thổi đi những mùi thơm hoặc thối, mà vẫn không cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường. Vì không khí có khả năng gạn lọc và hóa giải.

Này La Hầu La, con hãy tu tập lòng Từ để đối trị giận hờn. Long Từ là lòng thương yêu được thực hiện bằng cách đem lại niềm vui cho kẻ khác. Từ là thứ tình thương không có điều kiện và không chờ đợi sự đền trả. Con hãy tu tập lòng Bi để đối trị tàn ác. Lòng Bi là lòng thương yêu được thực hiện bằng cách làm vơi đi khổ đau nơi người khác. Bi cũng là thứ tình thương không có điều kiện và cũng không chờ đợi sự đền trả. Con lại phải tu tập lòng Hỷ để đối trị ganh ghét. Lòng Hỷ là lòng vui theo cái vui của người khác và niềm ước ao mong cho kẻ khác được thành công và hạnh phuc, an vui. Con lại nên tu tập lòng Xả để đối trị kỳ thị và vướng mắc. Lòng Xả là tâm niệm thanh thoát và cởi mở đạt được do sự nhận thức về tính cách tương quan bình đẳng giữa mọi loài; mình và người không phải là hai thực thể riêng biệt, không nên ghét bỏ cái này để đi nắm bắt cái khác.

La Hầu La, Từ, Bi, Hỷ và Xả là bốn tâm rộng lớn không có bờ bến và cũng đẹp đẽ khôn cùng. Đó gọi là Tứ vô lượng tâm. Tu tập theo bốn pháp này thì mình trở nên một con người cao thượng đem lại sinh lực và niềm vui cho tất cả chúng sanh.

La Hầu La, con lại phải quán chiếu về vô thường để phá trừ ảo tưởng về cái ta. Con phải quán chiếu về tính sinh diệt và thành hoại của thân thể để hiểu sâu về sự sống chết, đó là phương pháp thoát ly tham dục, sân nhuế.

Ví có kẻ cầm dao cắt đứt thân con ra từng mảnh, trong khi đó phải tự nhiếp tâm, đừng để sân hận nổi dậy và giữ gìn cửa miệng, chớ thốt ra lời ác, con phải khéo quán sát tu tập, như thế mới vượt qua mọi gian nguy thử thách của đời để hóa độ chúng sanh. Vì Nhẫn nhục là phương pháp nhiệm mầu, cảm hóa mọi người mà không cần sức mạnh, quyền lực và chánh trị. Được như vậy mới đáng gọi là bực Đại nhơn, Đại lực có trí huệ nhập đạo".

  • Người tu hạnh nhẫn nhục
    Tập tánh giống như nước
    Thường mềm dẻo mát dịu
    Rộng lượng và khoan dung.
    Nhẫn nhục như bùn đất
    Dù sạch dơ đổ lên
    Đại địa cam thọ hết
    Không có chút giận hờn.
Để cho chúng sanh thấy được sự lợi ích của nhẫn nhục, Phật nói: "Tiền thân ta là vị Tiên nhơn tên là Sằn Đề tu khổ hạnh ở núi rừng. Một hôm vua Ca Lợi cùng với phu nhan, thể nữ, quần thần vào rừng săn bắn. Đến trưa vua cho bày tiệc ăn uống, đàn ca, múa hát, vui chơi; tiệc xong, vua ngã lưng nằm ngủ dưới gốc cây. Khi thức dậy không thấy quan quân, tỳ nữ, liền hỏi cận thần, mới biết họ đi đến vị Tiên nhơn ở gần bên để nghe pháp. Sằn Đề tiên nhơn nói: "Muôn loài đều tham sống sợ chết. Hãy lấy tình thương xóa bỏ hận thù, chém giết, sống đời vị tha, bác ái, có như thế mới thoát được cảnh luân hồi, thường mạng, chết yểu". Họ nghe qua cảm thấy tội lỗi của mình trong cuộc đi săn đầy sát khí, tất cả đều ước mong sao được nhà vua cho về nhà sống đời cư sĩ cơm rau đạm bạc tu hành.

Khi đó vua Ca Lợi đến nơi nhìn thấy ai nấy đều kính cẩn nghe Tiên nhơn giảng đạo, lòng đố kỵ dâng trào, liền xuống ngựa, bước tới chỉ thẳng vào mặt Tiên nhơn, chửi mắng, hủy nhục đủ điều, nhưng ngài vẫn ngồi lặng thinh không nói một lời.

- Này kẻ ương ngạnh kia, trước mặt ta sao mãi ngồi lỳ đó. Làm gì thế?

- Tôi ngồi đây để tu hạnh nhẫn nhục.

- Hạnh nhẫn nhục là thế nào?

- Hạnh nhẫn nhục là khởi tâm đại bi, khiêm nhường, ôn hòa với tất cả mọi người, từ bỏ những hành động kiêu căng, tự đắc thường dùng lời nói êm dịu, đạo đức, khuyến hóa chúng sanh.

Vua Ca Lợi nghe qua, tưởng Tiên nhơn công kích sự thô lỗ của mình, nên quát: Thôi hãy im đi! Nghe ta hỏi:

- Tại sao ngươi bị chửi mắng mà vẫn lặng thinh là thế nào?

- Thưa ngài: "Nếu những lời chửi mắng của người khác là đúng, mình phải cám ơn để lo tu sửa. Còn như họ chửi nhầm lẫn, xem đó là lời nhắc nhở hay tiếng vang, gió thổi ngoài tai".

Câu trả lời đó thật là quý báu, khiến cho ai nấy đều thán phục. Ca Lợi Vương cảm thấy tự ái dồn dập, liền rút kiếm ra bảo: "Đây là lời nói dối trá, vô lễ". Rồi mạnh tay vung gươm cắt đứt hai lỗ tai của Tiên nhơn. Ôi! Những dòng máu đỏ tuơi rơi, ướt đầm cả hai má những sắc mặt Tiên nhơn vẫn an nhiên tọa.

Thấy thế Ca Lợi Vương vung gươm chặt đứt thêm hai cánh tay và chân rồi nói: "Thử coi ngươi còn nhẫn nổi không?" Máu chảy ướt cả chỗ ngồi, nhưng không một lời oán trách, rên than. Vua lặng thinh suy nghĩ. Người này không phải tầm thường nên gượng lại cất tiếng hỏi: "Hỡi Tiên nhơn, tại sao ngươi bị ta hành hạ mà gương mặt không hiện ra sắc giận và nói lời nào?"

- Này Đại vương: "Nếu tôi có lỗi, bị người hành hạ tôi phải nhẫn thọ như uống nước cam lồ và cung kính đối với người ấy. Còn nếu gặp trường hợp họ không phân biệt phải trái, xúc phạm, khi đó tôi nghĩ ngày nay mình vô tội, nhưng biết đâu trong quá khứ đã từng làm người ta khổ đau. Hơn nữa, thân này là vô thường, do các duyên giả hợp, có gì đáng để luyến tiếc".

Không cần nói, Đại vương cũng thấy tôi nào khuất phục trước sự áp bức bất minh, thiếu nhận xét của ngài và chẳng quan tâm đến lưỡi kiếm chém vào thân tôi, nên nội tâm được tịch tĩnh không có ác niệm đối với sự tàn bạo của ngài. Vì tôi lúc nào cũng tâm niệm nguyện cho tất cả chúng sanh sớm bỏ đường tà quay về nẻo chánh, thoát khỏi ác nghiệp. Nếu quả thật tôi có thực hành hạnh nhẫn nhục, cầu cho thân này được bình phục như cũ.

Vừa nguyện xong, trời đất bỗng dưng rung chuyển, hương thơm ngào ngạt, lan tỏa khắp nơi, máu hóa ra sửa, thân thể trở lại như xưa. Nhìn thấy Tiên nhơn bình phục, vua Ca Lợi Vương vô cùng kinh ngạc! Giờ đây, tánh kiêu căng tàn bạo không còn nữa, liền quỳ xuống bên Tiên nhơn cầu xin sám hối tội lỗi và phát nguyện tận tâm phụng sự Tam Bảo và noi theo gương nhẫn nhục của ngài để thực hành trong đời sống cá nhân cùng trị quốc an dân.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tiền thân Phật chấp nhận nghịch cảnh đau thương, không nói một lời oán trách lại nguyện cho họ đừng lãnh thọ ác báo, nên ngài thành tựu được thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn, đạt đến nhẫn nhục Ba la mật, không thấy mình nhẫn, cảnh để nhẫn nên nội tâm được an lạc.

Còn chúng ta, hễ ai nói hoặc làm trái ý một chút là nổi nóng lên, nguyền rủa cho họ chết một cách thê thảm mới hả dạ. Chính vì sự tức giận làm cho con người mù quáng không phân biệt được phải trái, nên lắm lúc cang thường luân lý bị đảo ngược. Như con dám hại cha, chửi mẹ, vợ thù chồng, em giết anh, tớ phản chủ, đồng loại xô xát lẫn nhau gây bao thảm cảnh... Cho nên cứ mãi tiếp tục làm cho chúng sanh đầy phiền não trôi lăn trong vòng sanh tử trả vay, khổ đau bất tận.

Thế thường chúng ta hay tự ái nổi sân, phân bua, lý luận, dành phần phải về mình. Người khác nói có mấy câu, ta liền cướp lời, kể lễ rồi đem đủ thứ bằng chứng đổ lên đầu họ để cho họ thấy rằng họ quấy. Trong cơn tam bành, họ sẽ ăn thua đủ với ta, đâu còn bình tĩnh nghe nghe ta nói phải quấy gì nữa, bụng dạ lúc đó giống như lò nước sôi đang cần xả hơi. Vì vậy, ta hãy ý thức điều đó để cho đối phương bày tỏ tâm can của họ. Chẳng những ta quý trọng quyền phát biểu của họ mà còn học nơi họ những điều hay.

Muốn hướng dẫn người ta mà cứ khư khư cố chấp, bất cần quan điểm kẻ khác là muốn việc phi lý, họ sai ta có quyền sửa nhưng ta đừng quên rằng họ cũng có lý của họ. Mỗi người có quan niệm sống và quan điểm lý luận riêng. Muốn cho người khác tín nhiệm ta lâu dài thì đừng bao giờ sân si, hành động độc tài, mà luôn luôn phải tôn trọng mọi người. Nếu chúng ta muốn họ hành động theo ta, mà không nghĩ đến quyền lợi và sáng kiến của họ, hành động độc tài, ích kỷ như một bạo chúa, thì họ sẽ bất bình bỏ ta làm một mình. Chúng ta nên biết rằng không thành công lớn nào trên đời, mà không cần đến sự giúp sức của nhiều người. Người thành công là biết đặt mình ở địa vị của kẻ khác, khéo gieo giống sáng kiến của ta vào sáng kiến của người hợp tác để tìm ra tiếng nói chung. Trong luật nhà Phật goi đó là "Ý kiến riêng chỉ dạy cho nhau, quyền lợi chia đồng với nhau". Có như thế việc làm ấy mới thành công tốt đẹp lâu dài. Chúng ta nên nhớ, khi chinh phục ai thì đừng biến họ thành kẻ thù, ta hãy dẹp cặp kính màu chủ quan, hãy nhìn mọi việc bằng cặp kính khách quan và tập đặt mình vào địa vị của kẻ khác. Xử sự như vậy, ta sẽ bớt đi nỗi lo âu, bực tức, thấy đời đẹp hơn và "đắc nhân tâm" hơn.

Chúng ta có nhiều khuynh hướng thất nhân tâm hơn là đắc nhân tâm, tánh sân, si, ích kỷ, chủ quan, tự ái là một "hung thần" đáng sợ. Từ vua chúa, quan quyền cho đến hạng bình dân ít học đều có lòng tự ái. Thậm chí cho đến những bậc tu hành mà tâm hồn không được thánh thiện vẫn bị nó quấy nhiễu. Nghĩa là ai nói xúc phạm hoặc có cử chỉ gì đụng chạm đến quyền lợi, danh dự của họ, thì sân si, sừng sộ, phẫn nộ, nhăn mặt nhíu mày, phùng mang, trợn mắt, quạo quọ, la hét, chửi mắng, đánh đập đối phương. Nếu chúng ta bị kẻ khác chọc tức liền nổi nóng, vung tay lên nói chuyện với họ thì ta tin chắc rằng họ sẽ gởi lại bằng hai quả đấm. Nếu ai nô lệ tánh tự ái thái quá như thế là tự mình thoái hóa, đánh mất hết nhân phẩm đạo đức và làm thất nhân tâm mọi người.

Những bậc thượng căn đại trí mới có đủ can đảm, điềm đạm, mềm mỏng khi bị kẻ khác nói nặng... Những vị ấy biết rằng "Ăn miếng trả miếng" không có lợi gì cả.

Trong giao tế hằng ngày, ai không mềm mỏng thì trăm việc bất thành đến gần trăm. Chúng ta phải công nhận rằng trong thời gian qua, có rất nhiều việc tại mình nóng bậy một chút mà hỏng.

Kệ khuyên:
  • Mở tình yêu khắp nhân loài
    Giúp nhau cuộc sống được dày thêm ra
    Giận nhau mấy cũng nên tha
    Thù nhau mấy cũng nên hòa tốt hơn
    Hờn người tất bị người hờn
    Ghét người, người ghét không hơn chi người
    Hòa nhau cho được vui cười
    Hơn là thù ghét suốt đời âu lo
    Thương người như thế chân tay
    Ở trong thế giới hết ai sanh rầy
    Sự tu chính ở chỗ này
    Cho nên cần khắp nhân loài biết tu.
      • Thanh Sĩ


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Muốn cho thân tâm thanh tịnh, mau thành Phật quả, kinh Pháp Hoa dạy: "Lấy từ bi làm nhà, lấy nhu hòa nhẫn nhục làm y phục, lấy tất cả pháp không làm tòa ngồi".

Từ bi là nước cam lồ tươi mát, tưới tắt lửa phiền não. Nhẫn nhục như áo giáp ngăn ngừa tên độc. Pháp Không là ánh sáng trí huệ phá tan bóng tối vô minh, chấp trước. Ai thực hành được ba phương pháp trên để diệt trừ tham, sân, si tức là đã vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai vậy.

Chúng ta hãy cố gắng tu tập hạnh nhẫn như tôn giả Phú Lâu Na. Một hôm ngài xin Phật đến xứ Dũ Lâu Na truyền đạo. Phật hỏi:

- Này Phú Lâu Na, dân chúng xứ ấy rất hung ác, con đến đó dạy họ không nghe, còn dùng lời ác mắng chửi, khi đó con nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ là người tốt, vì chưa lấy cây đá, đánh và ném con.

- Nếu họ dùng cây đá, đánh ném con thì sao?

- Con nghĩ họ vẫn còn lòng nhân, vì chưa đánh ném con đến chết.

- Nếu họ đánh đập, đâm chém con chết thì sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ là ân nhân giải thoát dùm cái thân bất tịnh khổ đau này!

Phật khen: "Hay lắm! Con nhẫn được như thế mới qua xứ đó truyền đạo được".

Tôn giả Phú Lâu Na qua xứ Dũ Lâu Na giáo hóa, không bao lâu dân chúng xứ ấy đều quy y Phật, Pháp, Tăng.

Nên có câu:
  • Con muốn tu thì việc chi nhịn hết
    Nhịn nhin hoài, nhịn nhịn mãi con ơi
    Chẳng phải là nhịn có ba lần thôi
    Mà nhịn mãi đến khi thành chánh giác
    Con nhịn mãi dù thân con có thác
    Thác thân con mà tâm trí nhẹ nhàng
    Cõi Tây phương con chắc chắn bước sang
    Bằng con đọa, Thầy đây ra chịu thế.
    Thân con nhẫn là việc chi mặc kệ
    Không sát sanh, trộm cướp với tà dâm
    Dù ai kia có đánh đập chém đâm
    Tìm cách tránh chớ không nên đáp lại
    Khẩu nhẫn nhịn là miệng không tranh cãi
    Chửi mắng người, bốn nghiệp miệng khá chừa
    Gây nghiệp dữ đời sau câm con nhé.
    • Hòa thượng Giác Nhiên
Phật Thích Ca dạy: Lấy từ bi thay báo oán.

Đức Lục Tổ dạy: Nhẫn là công, nhục là đức.

Chúa Giê Su dạy: Hãy hiền lành và khiêm tốn.

Lão Tử nói: Nhu thắng cương.

Hòa thượng Giác Huệ nói: Con hãy thương những kẻ chẳng thương con. Con chớ ghét những người con đáng ghét.

Lời Phật dạy không lầm đâu. Ôn tồn dịu ngọt sẽ thắng tất cả.

Nhẫn nhục là phương pháp thần diệu đem lại sự an lạc cho bản thân, gia đình hòa hợp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng bào đoàn kết, thế giới hòa bình.

Không nhẫn, thân bại danh liệt, gia đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt, đồng bào xung đột, thế giới chiến tranh. Có nhẫn nhục thì lòng từ chan chứa, ban rải khắp muôn loài vạn vật, sự nghiệp dâng cao, người người quý mến, đạo quả viên thành.

Vậy mà có nhiều người không muốn hiểu. Họ nói: Gặp Phật thì tu, gặp ma thì trừ. Câu nói đó không đúng giáo lý nhà Phật. Phải nói là: "Gặp Phật thì tu, gặp ma càng tu nhiều hơn". Quý Phật tử cũng thấy khi Phật sắp thành đạo, Ma vương dùng mọi cách quấy phá, nhưng ngài vẫn an nhiên tĩnh tọa. Thậm chí cho đến Đề Bà Đạt Đa nhiều kiếp đem ác tâm hãm hại... Nhưng Phật không hề oán trách, mà ngài con nói nhờ Đề Bà Đạt Đa mà Ta mau thành chánh quả.

Công đức nhẫn nhục lợi ích to lớn như thế, chúng ta còn nghi ngờ gì nữa mà không thực hành, nhất là những ai đã nhiều lần bị lửa sân tàn phá tâm can gia đình sự nghiệp của mình, hãy mau mau tu tập pháp môn nhẫn này để khỏi phải ăn năn hối hận vì nó nữa. Người tu lại càng phải nhẫn hơn, vì người tu mà còn giận hờn, sắc mặt đỏ gay, giọng nói quát tháo, người chung quanh nhìn thấy khinh lờn, cho dù vị đó có lão thông tam tạng, kinh điển, cũng không ai dám tin tưởng sự tu hành của họ nữa!

Thế nên Cổ Đức có dạy rằng:
  • Ác thứ chín lửa sân luận tiếp
    Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng
    Nổi lôi đình đâu có định chừng
    Cho ta biết mà ngăn ngừa trước
    Tánh sân nộ thường làm bạo ngược
    Nên loài người ở cõi thế gian
    Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn
    Mới có cuộc tranh tài đấu lực
    Hơn tự đắc khoe khang, dõng sức
    Phải bị người hiềm khích ghét ganh
    Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành
    Gây nghiệp dữ oan oan tương báo
    Trong cơn giận kể gì nhân đạo
    Giống như con cọp dữ trên rừng
    Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng
    Phân từng mảnh mới là hả dạ
    Diệt được nó tâm trần thong thả
    Ta thường nên tập tánh khoan dung
    Thực hành đi đừng có ngại ngùng
    Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn
    Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận
    Khỏi mất lòng tất cả mọi người
    Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi
    Vậy mới đáng tín đồ Phật giáo
    Nay ta đã quy y cầu đạo
    Gây gổ là trái thuyết từ bi.
Trong cuộc sống chuyện buồn vui, thương ghét, giận hờn... xảy ra không biết bao nhiêu lần, cũng vì vô minh lầm chấp cho ta là thật, cac pháp là thật, từ đo phát sinh ra phiền não khổ đau.

Trong lịch sử của nhân loại, có những trang sử đẩm máu, như vào thế kỷ 20, trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh thế giới có vô số người gục ngã trên chiến trường và những nạn diệt chủng dã man thảm khốc. Đã có hàng triệu người đã nằm xuống vì chuộc chiến "huynh đệ tương tàn", trên thế giới có những điều nghi kỵ thù hằn; chính vì thế mới xảy ra những cuộc chiến tàn khốc, tan thương khổ đau, tất cả đều bắt nguồn từ sân hận.

Kê tụng:
  • Chúng sanh luống chịu trăm ngàn khổ
    Các bệnh luôn luôn đến não hại
    Giặc chết rình rập thường muốn giết
    Tại sao không tu lo não hại?
    Chê bai mưu hại không nhân từ
    Hại người chưa được tự mang họa
    Ta nay là người cầu học đạo
    Mà sanh nóng giận não hại người
    Phải biết ác này tội rất nặng
    Tật đố tự phá cội công đức
    Tâm từ tùy hỷ sanh phước lành
    Muốn thoát bể khổ phải tu hành
    Bao nhiêu công đức trang nghiêm thân
    Nếu không trì giới, thiền đa văn
    Thân tâm khổ ách, không cùng tận.
Trên đường đời đầy chông gai gập ghềnh, chúng ta gặp nhiều cảnh trái ý nghịch lòng, muốn cho những đụng chạm bớt đi, các võ sư Nhật dạy các môn đệ phải: "Mềm mại như cây liễu, đừng cứng như cây tùng". Nếu chúng ta không chịu mềm mại như cây liễu mà cứ nhất định cứng như cây tùng như thế là ta đã gây ra những xung đột bất tận trong tâm làm cho ta lo lắng, khổ sở, cáu kỉnh rồi sanh ra bệnh thần kinh, dị ứng... chẳng khác nào cây tùng cứng đơ phải gãy đổ trước trận cuồng phong.

Chúng ta nên biết tại sao những vỏ xe hơi lăn trên đường nhựa, chạy trên đá nhọn mà nó vẫn chịu đựng được, là nhờ vỏ xe mềm dẻo làm cho sự va chạm trên đường dịu đi. Cũng vậy chúng ta sống trên cõi đời đầy chông gai, thử thách, muốn vượt qua mọi trở ngại, phải mềm mại, nhẫn nại làm cho những va chạm dịu bớt đi, thì cuộc hành trình của ta mới được êm đềm, an vui lâu dài. Chúng ta hãy đọc qua bài tụng bất hủ sau đây:

  • Từ bào thai ra thường chịu khổ
    Chúng sanh như thế chớ giận hại
    Nóng giận khởi lên dùng từ diệt
    Từ bi, nóng giận không chung cùng.
Người nhờ từ bi, nóng giận dứt
Ví như sáng tối không chung chỗ
Nếu giữ tịnh giới mà nóng giận
Người ấy tự phá pháp lợi mình.

  • Tất cả chúng sanh là quyến thuộc
    Tại sao gia tăng giận, não hại
    Nếu khởi nóng giận muốn hại người
    Chưa đến người kia, trước đốt mình.
Thế nên thường nghĩ hành từ bi
Nóng giận, nghĩ ác sẽ không sanh
Nếu người thường nghĩ hành pháp lành
Thường nghĩ pháp lành tâm vui vẻ.

  • Đời nay được, vui sau cũng thế
    Được đạo thường vui ấy Niết Bàn
    Nếu tâm dồn chứa điều bất thiện
    Tự mất lợi mình, lại hại người.
Vì thế chúng ta phải cố gắng nhẫn nại từ con người cho đến con muỗi, mòng, kiến, ong... gió, mưa, nóng, lạnh, đói, khát, bệnh, chết... hoan hỷ nhẫn chịu mọi nghịch cảnh, không hề than van, oán trách, được như vậy mới mong thành công đắc đạo.

Như tích Đại đức LoMaSaNaGathora hành đạo trên núi Getiyapappata. Khi ấy nhằm mùa nắng trời nóng, nhưng ngài vẫn ngồi tham thiền vì nghĩ rằng: Nhiều kiếp ta đã đọa địa ngục bị lửa thiêu đốt nóng gáp muôn lần sự nóng này. Nhờ thấy được điều đó nên ngài kiên nhẫn thiền quán chứng đắc đạo quả A la hán.

Lại có Đại đức khác đi khất thực ba ngày liên tiếp chẳng có ai cúng món gì. Trong cơn đói khát nhưng ngài không ngã lòng, vì tự nghĩ trong vòng luân hồi nhiều kiếp ta đã sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hơn thế này nữa. Nên ngài kham nhẫn, dùng minh sát tuệ, quán sát lý vô thường, khổ não và vô ngã liền đắt quả A la hán.

Tích trên ngụ ý khuyên, chúng ta không nên để những sự khổ bên ngoài chi phối mà bỏ dở sự tu hành.
  • Cảnh nắng, mưa, gió, lạnh
    Hành hạ bức não thân
    Thân cam chịu không phiền
    Được gọi là thân nhẫn.
    Sự nhục mạ chua cay
    Hoặc mắng nhiếc tồi tệ
    Cam chịu không chửi lại
    Được gọi là khẩu nhẫn.
    Đối trước mọi nghịch cảnh
    Không khởi tâm phản đối
    Không căm hờn oán giận
    Được gọi là ý nhẫn.

    Thiện Pháp
Trong kinh Đại Tập, đức Phật bảo đại chúng: "Nhẫn hơn hết trên đời, nhẫn là đạo an vui, nhẫn thêm nhiều tiếng khen, nhẫn giàu sang được lâu, nhẫn được đầy đủ tướng tốt, nhẫn hay có oai lực, nhẫn hay thành nghề khéo, nhẫn nhiếp phục oán địch, nhẫn dẹp hết lo rầu, nhẫn được đông họ hàng, nhẫn thời được sống thọ, nhẫn được áo giáp thần, nhẫn là con thuyền to vượt bể khổ, nhẫn là liều thuốc hay cứu sống nhiều sinh mạng, nhẫn lửa không thể cháy, nhẫn dao không thể cắt, nhẫn không thể trúng độc, nhẫn nước không thể trôi, nhẫn được thiên thần gia hộ, nhẫn ngày đêm thường yên ổn, nhẫn thân luôn được bình an, nhẫn lãnh lấy phước báu tốt, nhẫn được đến đạo lành, nhẫn chẳng hại chúng sanh,nhẫn xa lìa thập ác, nhẫn thành tựu lục độ, nhẫn được ba ngôi báu (Phật, Pháp, Tăng).
  • Nhẫn nhục hạnh an ổn
    Khắc phục được hận thù
    Tiêu trừ các tai nạn
    Hưởng nhân quả tốt lành.

    Nhờ tu hạnh nhẫn nhục
    Lòng từ được tăng trưởng
    Trí đức được nâng cao
    Đạo mầu ngày tỏ rạng.
Mói tóm lại, nếu chúng ta biết nhu hòa nhẫn nhịn trước những cảnh trái ý nghịch lòng thì việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không, bao nhiêu phiền não oan trái, oán thù đều hóa giải hết và hưởng được nhiều phước báu, mau thành tựu Phật quả.

Trong kinh Thập Thiện Nghiệp, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa sân hận thời thành tựu được tám món tâm pháp vui mừng:
  • 1. Không tâm khổ não.
    2. Không còn sân hận
    3. Không lòng kiện tụng
    4. Lòng nhu hòa ngay thật.
    5. Được tâm từ của bậc Thánh.
    6. Sẵn lòng làm lợi ích an lạc cho chúng sanh.
    7. Thân tướng trang nghiêm xinh đẹp, chúng sanh đều tôn kính.
    8. Do sự hòa nhẫn mau sanh về cõi Phạm Thiên.
Đó là tám món tâm pháp hỷ duyệt. Nếu ai hồi hường về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật được tâm vô ngại của Phật, người xem không chán".

Vô ngại là tâm tự tại không có gì làm chướng ngại, thân hình đoan trang đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, trời người đều kính ngưỡng.

Ngược lại, ai hay nóng giận, hiện tại tự chuốc lấy âu sầu, khổ họa vào thân và làm cho gia đình đổ vỡ, sự nghiệp khó thành, gây thù kết oán, mọi người tránh xa.

Kinh Niết Bàn nói: "Nếu người nào tánh khí sân si, khi quả báo thành thục phải sa vào địa ngục. Ra khỏi địa ngục, thọ thân súc sanh làm rắn độc, sư tử, cọp, beo, gấu, sói, mèo, chồn, ó, diều... Nếu được làm người, thân hình xấu xí, ai nhìn thấy đều chán ghét".

Lai nữa, trong kinh Akkhaamtisuta, đức Phật dạy rằng: "Này chư Tỳ kheo, có bảy sự lợi ích cho người tu pháp hạnh nhẫn nại:
  • 1. Thân tâm an lạc mát mẻ.
    2. Thường khổ lòng từ thương yêu tất cả chúng sanh.
    3. Được nhiều người hài lòng yêu mến.
    4. Không gây ác cảm với ai.
    5. Không tạo tội ác, gieo nhiều phước thiện.
    6. Lúc lâm chung tâm trí sáng suốt.
    7. Sau khi mạng chung do thiện nghiệp sanh lên cõi trời.
- Này chư Tỳ kheo, có bảy điều tai hại đối với những người không tu pháp nhẫn nại:
  • 1. Tánh hay tức giận nóng nảy.
    2. Thường khởi tâm tàn nhẫn đối với người khác.
    3. Nhiều người không hài lòng, phần đông chẳng ai yêu mến.
    4. Gây lắm oan trái với mọi người.
    5. Tạo nên bao nghiệp ác.
    6. Lúc lâm chung thần thức mê muội.
    7. Sau khi mạng chung ,do ác nghiệp cho quả tái sanh cõi ác giới, địa ngục, súc sanh, A tu la..."
Tai hại của sân nhuế như thế há chẳng ngăn ngừa lắm ư?

Tôi thiết nghĩ không cần trình bày nhiều, quý Phật tử cũng thấy đâu là lợi, đâu là hại. Tôi cầu mong sao tất cả chúng ta hãy cố gắng thực hành pháp môn nhẫn nhục này có hiệu quả tốt đẹp, để cho cõi đời thêm phần an lạc.
  • Nhờ tu hạnh nhẫn nhục
    Lửa sân hận dập tắt
    Dục vọng chẳng hoành hành
    Căn lành càng thêm lớn.

    Thiện Pháp.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 10. KHÔNG TÀ KIẾN:
Tà kiến là tin tà, mong phước mê tín tà vạy, chấp thường chấp doạn. Chẳng in nhân quả tội phước, sống tranh đấu, chết là hết, không có thiên đường, dịa ngục, Tâp phương Cực lạc... đó là tà kiến. Phật cấm không có các hàng đệ tử mê tín, vì đó là nguyên nhân làm chướng ngăn Thánh Đạo. Phật chỉ cho phép các hàng đệ tử tin vào những điều chân chánh, chứ không phải Phật cấm chúng ta đừng tin gì hết. Bởi vì sống ở đời nếu ta không tin ai cả, thử hỏi làm được việc gì? Trong gia đình ông bà, cha mẹ vợ chồng, con cháu, dòng họ... không tin tưởng cứ mãi hiềm tị lẫn nhau thì có gì là hạnh phúc, xã hội như thế sẽ loạn mất. Đã sống chung phải tin tưởng lẫn nhau thì mới hòa hợp làm nên sự nghiệp to lớn.

Trên việc tu hành, đức tin rất là cần thiết. Nó là căn bản sanh ra muôn hạnh lành, đạt đến đạo quả. Giả sử trò chẳng tin thầy, Phật tử không tin lời Phật dạy biết căn cứ vào đâu để tu hành. Nhờ có đức tin mạnh mẽ, chí nguyện vững vàng mới dẹp được lòng tà ác.

Nên có câu:
  • Tin năng trưởng dưỡng chư thiện căn
    Tin năng siêu xuất chúng ma lộ.
Có nghĩa là lòng chánh tín nuôi dưỡng được các căn lành, vượt khỏi con đường ma.

Tuy nhiên đức tin phải đi đôi với trí sáng suốt, phân biệt giả chơn, hầu tránh khỏi ma đạo chịu khổ báo về sau.

Nhưng câu chuyện Phật độ ông trương giả keo kiệt quay về quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới. Ít hôm sau, Ma vương muốn thử xem lòng tin của ông như thế nào nên hóa ra Phật đến bảo trưởng giả: "Hôm trước ta chỉ thử ngươi đó thôi, vì Phật Pháp chủ trương giải thoát làm cho con người được tự do, chứ đâu có bảo giữ gìn những giới luật khắt khe, ràng buộc thiệt thòi như thế, nay ông hãy xả đi".

Trưởng giả lấy làm ngạc nhiên tự nghĩ: Hình dung giống Phật mà lời dạy trước sau trái ngược, nên thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Con xét thấy xả giới rất nguy hiểm, nếu mọi người không giữ giới sát sanh,cứ tự do giết hại lẫn nhau, thì cõi đời sẽ diễn ra biết bao nhiêu cảnh đầu rơi, máu đỏ, thịt nát, xương tan, loạn ly tứ phía.

Nếu ai ai cũng trộm cướp, thời còn đâu là an ninh trật tự.

Tất cả dâm loạn, còn đâu luân thường đạo lý.

Đua nhau nói dối, còn đâu là uy tín.

Cứ mãi say sưa tối ngày thì còn đâu là nhân phẩm đạo đức.

Theo chỗ nghĩ của con, xả giới rất tai hại, nên không xả giới được, mong Thế Tôn lượng thứ cho".

Ma vương mấy phen lung lạc, nhưng trưởng giả khăng khăng một lòng, Ma vương đành biến mất.

Qua chuyện trên để cho chúng ta thấy, người Phật tử đã nhận chân được giáo lý, cho dù Phật hay Hòa thượng... nói ra mà không hòa hợp với lẽ phải cũng không tin. Có lắm người thiếu trí nhận định, đụng đâu tin đó nên dễ lạc vào ma đạo.

Vì thế Cổ Đức cảnh báo:
  • Đạo với lý, từ đây nhiều chỗ
    Phải lọc lừa cho kỹ mà nhờ
    Chọn nơi nào chánh đạo, phụng thờ
    Thì mới được thân sau cao quí.

    Nhìn Phật giáo mà tìm cái lý
    Coi tại sao ta phải tu hành
    Vì yên dân ta chỉ ngọn ngành
    Khuyên lê thứ làm lành, ác tránh.

    Đạo quỷ vương rất nhiều chi nhánh
    Khuyên dương trần sớm tránh mới mầu
    Thời kỳ này nhiều quỷ lắm ma
    Ráng nghe kỹ lời ta mách trước.

    Tin, không tin thì cũng mặc tình
    Chớ ta lắm công trình dạy dỗ
    Hồi thuở trước Thích Ca Phật Tổ
    Ngồi tham thiền bị nó ghẹo hoài
    Ma cũng không rúng động lòng ngài
    Nên cố oán phá đời mãi mãi.
Cổ Đức còn nhắc nhở thêm:
  • Câu đạo đức bay mùi thơm lạ
    Muốn nếm thì phải ráng sưu tầm
    Các đạo tà mưu khéo âm thầm
    Dân ráng tránh kẻo lâm mà khổ
    Chúng nó xuống khuyên răn nhiều chỗ
    Dụng phép mầu lòe mắt chúng sanh
    Ai ham linh theo nó tập tành
    Sa cạm bẫy khó mong sống sót.
Lấy trí xét đoán tận tường lời Phật dạy gọi là chánh tín, trái lại chỉ tin mù quáng là mê tín. Từ cổ chí kim chưa có ai tu mê tín mà thành đạo bao giờ!

Chúng sanh chẳng rõ chánh nhân, mê chấp hình tướng, tin tà cầu phước thật là phi lý. Đức Phật mới thuyết minh giáo lý nhân quả, nghiệp báo không có vị thiên thần, ông bà, cô cậu nào có quyền sắp đặt, an bày số phận của ta.

Thế mà có nhiều người không tin lời Phật dạy, tối ngày cứ mơ tưởng, gởi gấm linh hồn vào những thế giới huyễn hoặc, không tự chủ đươc mình, lúc nào cũng phập phồng lo sợ, trí huệ lu mờ, làm việc mù quáng. Như thấy con cháu bệnh hoạn, tai nạn hoặc gia đình xào xáo, làm ăn không được, nghe nói có ông thầy bói toán, ông lên, bà xuống... bảo tại vì bị quỷ thần, cửu huyền quở... phải giết heo, gà vịt... để cúng tế thì gia đạo mới được bình yên, thật là trái ngược giáo lý từ bi.

Giống như chuyện trong kinh Pháp Cú thí dụ nói: Thuở Phật, có ông vua tên là Hòa Mặc. Một hôm, mẹ vua lâm trọng bệnh nằm liệt giường. Vua cho mời rất nhiều danh y điều trị và đến cầu phú chú nơi đồng cốt, song bệnh tình bà vẫn không thuyên giảm. Do đó, vua cho mời hai trăm vị Bà la môn vào cung cúng dường, rồi hỏi: "Thái hậu bệnh nặng đã lâu, không biết vì nguyên nhân gì?"

Các Bà la môn trả lời: "Bệnh của Thái hậu là do tinh tú sai loạn, âm dương bất hòa".

Vua hỏi: "Làm cách nào để trừ được?"

Các Bà la môn nói: "Nên bày lễ cầu đảo núi non, nhật nguyệt tinh tú nơi khoảng đất trống ngoài thành phía đông và giết một trăm súc vật đủ loại, với một đứa bé để tế trời thì mẹ của bệ hạ hết bệnh".

Vua nghe lời liền cho người lùa voi, ngựa, bò, dê... đủ trăm loại và một đứa bé đi ra chỗ tế tự. Dọc đường tiếng than khóc, kêu la vang dội khắp nơi!

Động lòng từ, đức Phật và chúng đệ tử đi đến cửa thành phía đông.

Vua Hòa Mặc và mọi người đến nơi trông thấy đức Phật uy nghi rực rỡ, hào quang tỏa sáng như mặt trời mọc, ai nấy đều khởi tâm tín mộ.

Vua liền xuống xe đến trước Phật chắp tay xá bái.

Đức Phật hỏi: "Đại vương định đi đâu?"

Vua vòng tay đáp: "Mẫu hậu con lâm trọng bệnh, lương y khắp nơi trị không hết. Nay con đem đứa bé và các súc vật đến đây để tế cúng chư thiên, cầu đảo tinh tú cầu cho mẹ con được hết bệnh".

Đức Phật bảo: "Ông giết người sát vật cúng tế chư thiên, cầu đảo tinh tú để cầu cho mẹ ông hết bệnh là điều phi lý. Giả sử ông suốt đời cực khổ, đem tất cả bò dê... trong thiên hạ ra sát sanh để tế tự cầu đảo, thì sẽ mang tội rất lớn như núi Tu Di. Thật là phí công vô ích. Đại vương nên biết, muốn có lúa ăn phải lo cày cấy, muốn sống thọ phải hành từ bi, muốn được trí huệ phải chuyên học hỏi. Mình gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Kẻ giàu sang thì không thích bữa ăn của người nghèo. Chư thiên kia ở cung điện thất bảo, muốn ăn mặc tự nhiên như ý, lẽ đâu lại bỏ vị cam lồ mà dùng đồ máu thịt tanh hôi".

Vua Hòa Mặc nghe lời Phật dạy, thấy được lẽ đạo vô cùng hoan hỷ cho người đưa đứa bé về nhà và phóng thích các con vật muốn đi đâu tùy ý.

Kinh Dược sự dạy: "Tin các thầy tà ma ngoại đạo yêu nghiệt thế gian, nói nhảm họa phúc, sanh ra sợ hãi, tâm chẳng được an. Xem bói thấy xấu, giết nhiều chúng sanh, khấn vái thánh thần, cầu ma quỷ lên ban cho hạnh phúc. Muốn sống lâu thêm vẫn không thể được. Ngu si mê hoặc, mê tín tà kiến, thành ra chết uổng đọa vào địa ngục không có ngày ra".

Qua lời Phật dạy, chúng ta thấy gieo nhân gì thì hưởng quả nấy, chớ thiên thần, ông bà ai lại gia hại con cháu. Có nhiều người nói, nhờ cúng tế van vái mới hết bệnh, làm ăn phát đạt, đó chẳng qua là duyên trùng hợp, nếu nói cúng cầu được thì chẳng cần tu và giáo lý nhân quả không còn giá trị nữa!
  • Gieo giống đắng, quả đắng
    Nhân ác tránh được chăng
    Làm ác chịu tội khổ
    Tu thiện hưởng phước lành.
    • Pháp Cú
Chúng ta xem kinh, thấy rõ chuyện ngài Mục Kiền Liên có đầy đủ lục thông mà còn bị bọn ngoại đạo thuê người đánh chết, là vì trong quá khứ nghe lời vợ đánh đập cha mẹ.

Như thế chúng ta đủ biết nghiệp người nào nấy trả, không ai có quyền ngăn cản được khi nó đã đến, cho dù đó là Phật, Thánh cũng không ngoại lệ. Như chuyện cô kỹ nữ Chin Cha độn bụng vu oan, nói Phật ăn ở với cô có thai, khi mọi người phát hiện ra việc đó là giả, ai cũng phiền trách cô đủ điều, nhưng đối với đức Phật, ngài thấu suốt luật nhân quả, nên bình thản kể cho tứ chúng nghe câu chuyện tiền kiếp ngài làm vua.

Một hôm, bá quan lâm triều nhì ra thấy chư vị Sa môn đi khất thực, ai nấy đều hướng về đó vái chào, làm cho nhà vua sanh tâm đố kỵ nói: "Các khanh chớ có tin mấy ông Sa môn đó, ban ngày ôm bát lim dim đi khất thực trông ra vẻ từ bi, nhưng khi về chùa họ có tình nhân, vợ con ai biết".

Nói đến đây, Phật bảo: Cũng vì câu nói phỉ báng đó, cho nên hôm nay ta bị quả báo cô Chin Cha độn bụng nói xấu ta".

Chính vì không hiểu thấu giáo lý nhân quả, nên có người mới quy y vài ngày, van vái cầu xin đủ thứ, nào là cầu cho được bình an, mạnh khỏe, sống lâu, mua may, bán đắt, phát đạt giàu sang... nhưng không được như ý, lại gặp toàn chuyện chẳng may, liền sanh tâm phiền trách Phật không linh. Gặp tà thuyết của tà giáo, dùng bùa chú mê hoặc hay tung tiền ra mua chuộc, dụ dỗ bỏ đạo liền. Hạng người như thế không hiểu gì về lý nhân quả, thời không bao giờ tồn tại trong chánh pháp Phật Đà. Có ba góc độ người ta thường bỏ đạo, dó là tình cảm, tiền của và thiếu sự hiểu biết nhận định đâu là chánh tà. Người chẳng có lòng trung hậu, thế gian không xài, nói chi là Phật Thánh. Họ đến với Đạo mục đích câu danh lợi, tình tiền... nếu không được lại sanh tâm hủy báng Tam Bảo, thử hỏi còn ai họ chừa. Kẻ đó phải sa vào đường dữ.

Kinh Tạp Bảo Tạng nói: "Phước nghiệp tự ta tạo, chẳng phải nhờ cúng thần mà được. Phải biết tất cả phước lành, đều do giữ giới, cúng dường, bố thí mà thành chớ chẳng phải cúng cầu mà được".

Trong Khế kinh, Phật dạy: "Người không có chánh kiến giống như lấy cát nấu muốn cho thành cơm, chuyện đó không bao giờ có, uổng công vô ích".

Là Phật tử mà không tin lời Phật dạy, lại tin những thuyết vu vơ về ngày, giờ, năm, tháng thì không đúng chánh pháp chút nào. Chưa hết, lại có khi vợ chồng bất hòa không biết tỏ cùng ai, liền tìm đến thầy nói, họ nói nào là kỵ tuổi, khắc khẩu... Chuyện đã xấu, lại thêm bị thầy bói hù dọa, làm cho gia đạo càng rắc rối thêm, bởi ma lực mê tín ám ảnh, hết dổ thừa cung mạng, tuổi tác đến nhà cửa, cà ràng, ông táo... không còn gì để nói nữa có nước đánh lộn, ly dị là xong! Tại sao mình không dám chấp nhận lỗi để sửa đổi, lại đổ thừa đủ thứ chuyện. Ôi! Mê tín đến nước đó, thì không còn gì để nói!

Thí dụ: Mình lựa ngày giờ tốt, nhưng khi ra đường gặp chuyện rắc rối mà không nhịn người ta, thì thử hỏi có tốt được không? Trong nhà trên dưới nếu biết nhường nhịn, thông cảm tha thứ những lỗi lầm cho nhau, thì không cần coi bói... gia đạo vẫn được bình an.

Tại sao chúng ta phải hòa? Vì mỗi người đều có cái hay khác nhau, khi hữu sự, mời người ta mới hoan hỷ giúp mình, ngược lại căng thẳng, khi cần ai mà giúp? Nên người xưa nói: "Bàn tay năm ngón ngắn dài khác nhau, nhưng đều sử dụng được cả". Đông có anh, Tây có em... đồng lòng đoàn kết thì làm việc gì cũng xong.

Nên có câu:
  • Hòa nhau của chất đầy kho
    Gay nhau chén bát, nồi ơ tan tành
    Thuận nhau ăn đủ, mặc lành
    Nghịch nhau bụng đói, thân trần nghêu ngao.
Từ chỗ hòa thuận đó, nó đem lại tài lộc làm cho gia đình được hạnh phúc, cần gì phải đi coi bói. Đa số thầy bói họ nói chung chung, năm nay không được tốt nếu có phước thì qua, không phước bị nạn. Như thế, mình ráng lo làm phước không tốt hơn là đi xem bói toán.

Trong Khế kinh, Phật nói: "Tất cả các pháp đều từ nhân duyên sanh và những gì mà con người gặp phải trên cõi đời đều do nghiệp lực chi phối. Chúng sanh tự gieo nhân, rồi gặt lấy quả, chẳng phải trời rồng, quỷ thần gây ra".
  • Thiện ác kết quả riêng
    Nhân quả lý dương nhiên
    Làm thiện sẽ được thiện
    Gieo giống ngọt vui yên.
    • Kinh Pháp Cú
Qua lời Phật dạy, chúng ta thấy đối với chúng sanh ngài không bao giờ thưởng hay phạt một ai, chỉ đưa ra giáo lý nhân quả, tốt xấu, khổ vui... tự mình tạo ra, không ai có quyền ban phước hay giáng họa, nên người theo đạo Phật tự tin nơi mình, không bị lệ thuộc bất cứ ai. Như lời Phật dạy: "Ta là Phật đã thành, các ông là Phật sẽ thành". Đó là tự do bình đẳng, từ, bi, hỷ, xả, vô ngã vị tha, thương yêu tất cả muôn loài vạn vật.

Lại có người quan niệm sai lầm, khi tôn giáo của họ bị kẻ nào lấn hiếp, liền cổ vũ đồng đạo nổi dậy tìm đối phương trả thù, để người ta cho mình là Thánh tử đạo, được Phật, trời, thượng đế, thánh thần... rước về thiên đàng, Cực Lạc... Nhưng xin thưa quý vị! Cho dù ai theo bất cứ tôn giáo nào hoặc không tôn giáo, nếu giết hại người phải lãnh lấy ác báo đau thương chết thảm.

Đối với đức Phật, ngài chủ trương phá bỏ tất cả giai cấp, lấy lòng từ bi, hỷ xả đối với tất cả chúng sanh, cho dù kẻ đó có chửi mắng, đánh đập giết hại Tổ thầy, ông bà, cha mẹ... cho đến thân mình, cũng không được oán hận trả thù. Tâm hồn thiêng liêng cao thượng đó, không có bút mực nào diễn tả hết.

Đó là điều chúng ta cần biết, chứ đừng nghĩ rằng giết kẻ phá đạo mình để chứng tỏ ta là người có công trung thành với đạo để được ơn trên khen thưởng, phong quan tấn tước như chuyện thế gian. Người như thế không hiểu gì về luật nhân quả, thật là mê muội đáng thương.

Để cảnh giác các hàng đệ tử, trong kinh A Hàm Phật bảo: "Phải thực hành thiền định, quán sát thấy rõ các pháp, lúc thịnh khi suy, đủ duyên thì hợp, hết duyên thì tan. Không có gì tồn tại mà phải bảo thủ, giết hại lẫn nhau, gây thù kết oán." Nếu hiểu rõ như thế, chúng ta sống rất thoải mái trong mọi cảnh ngộ, không có chi bận tâm. Đó là bức thông điệp vô giá, đức Phật đã để lại cho nhân loại làm nền tảng tu tập. Nhưng có mấy ai hiểu ra, cứ mãi giết hại lẫn nhau, thật đáng buồn thay!

Nhìn thấy nhân loại đắm chìm trong bóng tối vô minh, mê mờ không lối thoát, nên đức Phật hiện thân ra đời, đem giáo pháp nhiệm mầu ân cần chỉ dạy, đưa nhân loại thoát khỏi vòng mê lộ. Là đệ tử phước mỏng nghiệp dày, sanh sau Phật hơn hai mươi lăm thế kỷ, trí mờ ám phải đương đầu nhiều lối tẽ, bây giờ chúng ta phải làm gì?

Xưa Phật dạy đệ tử: "Các con phải lấy giới luật làm thầy, thực hành Bát chánh đạo, là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định".

Hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc trí huệ, phá tan bóng tối vô minh, tà kiến. Đó mới thật là chánh nhân tu hành đúng mục tiêu giải thoát của Phật, nếu khởi tâm niệm sai lầm lạc vào đường tà, cho dù có cố gắng tu cũng không thoát khỏi sanh tử luân hồi.

Kinh Đại Niết Bàn, Phật dạy: "Người có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì dễ tăng trưởng vô minh mờ ám, người hiểu giáo lý mà không có lòng tin thì dễ tăng trưởng tà kiến. Cho nên lòng tin và hiểu biết phải đi đôi mới là cội gốc tu hành".
  • Vung gươm huệ, cắt màn si ám
    Rải mưa bi, dập đám lửa phiền
    Pháp thân nương Bát nhã thuyền
    Niết bàn giải thoát bình yên bên bờ.
Tại sao đức Phật không cho chúng ta tin theo tà giáo? Vì nó không mang tính chất từ bi, hỷ xả. Bởi thế Phật tử đã quy y Phật rồi, không quy y quỷ thần, vì quỷ thần không phải là thánh nhân, chưa thoát khỏi luân hồi sanh tử thì làm sao đưa chúng ta đến chỗ an lạc, giải thoát. Trái lại họ dẫn ta đến chỗ hầm hố tội lỗi. Thế mà có nhiều người tin bướng, nghe càn, thờ cúng đủ thứ, khi nhìn vào không biết họ là đạo nào?

Theo nguyên tắc, bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà để một bên. Nếu nhà có lầu, nên thờ Phật tầng trên, bàn thờ chỉ thờ Phật Thích Ca, Di Lặc, nếu ai tu Tịnh Độ thì thờ Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, ngoài ra không nên thờ thần... chung với bàn Phật. Nếu nhà chật hẹp làm bàn thờ tam cấp, trên thờ Phật, kế ông bà, dưới để đồ cũng kiến. Nên nhớ bàn thờ Phật phải cho trang nghiêm, không được để tạp vật nào khác, ngoài bình bông, lư hương, chân đèn, chuông. Mỗi ngày cần lau quét cho sạch.

Phật tử quy y Pháp rồi, không quy y kinh điển tà giáo, bởi vì kinh điển tà giáo không phải là pháp môn vô lậu giải thoát, nó đưa chúng ta đến chỗ lầm đường lạc lối.

Thế mà có nhiều người kinh Phật không đọc, lại xem những sách nhảm nhí vô ích, thậm chí kinh luật đụng đâu bỏ đó, để cho mấy em bé bứt xé, thật đáng tiếc! Xem truyện tiền thân Phật, ngài dám hy sinh thân mạng để cầu một bài kệ, mình là con Phật lại xem thường giáo lý của ngài hay sao? Kinh Địa Tạng nói: "Người nào thấy kinh sách hư rách, sửa lại để chỗ trang nghiêm, công đức vô lượng".

Kinh Nhân Quả nói: "Tay dơ cầm kinh và để chỗ dơ bẩn, mắc báo làm con trùng trong nhà xí".

Vì thế chúng ta phải quý trọng kinh điển như kính trọng Phật vậy.

Phật tử quy y Tăng, không quy y thầy tà, bạn ác, vì thầy tà bạn ác dẫn dắt ta đến chỗ tối tăm sa đọa.

Là Phật tử đã quy y Tam Bảo rồi mà không vâng lời Phật dạy, là đã biến mình thành kẻ tà đạo. Tà đạo không có nghĩa là đạo khác, mà những ai không nghe lời Phật dạy, thờ cúng phi pháp, lại tin bướng, nghe càn, làm điều trái ngược. Phật nói: "Người đó là tà đạo".

Mê tín không đem đến cho ta lợi ích chi cả, nó chỉ đem lại những sự băn khoăn, lo âu, nuối tiếc và sợ hãi, khiến cho tâm trí bất an, làm chướng ngại sự sinh hoạt đời sống hằng ngày của chúng ta, tiền mất tật mang lại bị người trí chê cười.

Trong Tạng Luận, Phật nói: Bị đọa vào cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chuyên chở nặng nhọc chưa phải là khổ lắm, cái khổ nhất là người si mê, tà kiến không có trí tuệ phân biệt đâu là chánh tà, nên mãi đắm chìm trong bóng tối vô minh, tạo ra nhiều ác nghiệp, để rồi xuống lên trong ba cõi, sáu đường, vay trả bất tận, khổ não triền miên, đó mới thật là khổ".

Cổ Đức cũng khuyên:
  • Ác thứ mười đoạn chót si mê
    Nguyên tăm tối từ thời vô thủy
    Màn vô minh che mờ căn trí
    Nên thường khi nhận ngụy làm chơn
    Lo huyễn thân vật chất kém hơn
    Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức
    Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức
    Bịn rịn đời khổ cực tang thương
    Khi nói làm ít chịu suy lường
    Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác
    Dẹp si mê phải nương thuyền giác
    Muôn việc làm chánh trực khôn ngoan
    Đừng bạ đâu, tin bướng, nghe càn
    Làm ngu muội, đọa thân uổng kiếp
    Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp
    Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho
    Trồng cây lành vị quả thơm tho
    Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
Tóm lại người nào biết quay về Tam Bảo, thân cận thiện tri thức, tu hạnh Bát nhã, thực hành thiền định, phát sanh trí huệ, diệt trừ vô minh tà kiến, thấy biết chơn chánh, hiểu rõ nhân quả, nên không tạo tội, gieo nhiều phước lành thẳng tiến trên con đường giải thoát.

Đúng như lời Phật nói: "Thuở quá khứ, có Phật Nhiên Đăng ra đời, tứ chúng thời đó nhờ quy y Tam Bảo có chánh kiến, nên đều thành Phật hết".

Trong kinh Đế Thích Sở Vấn nói: "Nếu người nào phát tâm quy y Tam Bảo, người ấy hưởng được phước báu an vui yên ổn lớn, bởi vì oai đức Tam Bảo thường bảo hộ chúng sanh".

Sự lợi ích của quy y Tam Bảo to lớn như thế. vậy mà có nhiều người nhờ căn lành đời trước, nên gặp được thiện hữu tri thức khuyến khích quy y Tam Bảo, họ trả lời rằng: "Quy y Tam Bảo mà không làm theo lời Phật dạy tội còn hơn là không quy y". Mới nghe qua thấy có lý, nhưng cũng nên xét lại, cho dù chúng ta có quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới hay không, nếu gây tạo thập ác vẫn bị quả báo như thường.

Ví dụ: Như có một người thì quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới, còn người kia thì không quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới, cả hai đều phạm tội giết người, cướp của... khi đưa ra tòa án xét xử, cả hai đều lãnh mức án như nhau. Nhưng người biết quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới, nếu lỡ phạm giới họ biết đó là sai trái, tội lỗi ăn năn sám hối. Còn người không biết uy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới gây tạo tội lỗi mà không biết đó là tội lỗi, lại còn cho thế là đúng, nên họ càng lún sâu vào con đường tội ác.

Người biết quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới, thập thiện cho dù họ không giữ được trọn vẹn, nhưng ít ra họ cũng giữ được một hai giới, còn hơn là không giữ được giới nào. Hơn nữa, cho dù họ có gây tạo ác nghiệp bị đọa đi chăng nữa, nhưng căn lành quy y Tam Bảo đó không mất, khi trả hết ác nghiệp sẽ gặp được chư Phật và Bồ tát cứu độ cho họ thoát khỏi cảnh khổ đau, vì vậy chúng ta hãy dõng mãnh phát tâm quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới, thập thiện không có gì phải bận tâm lo sợ.

Theo kinh Thập Thiện Nghiệp, Phật dạy: "Người không tà kiến, thời thành tựu được mười công đức sau đây:
  1. Được ý vui chân thiện, bậu bạn chân thiện.
  2. Tin sâu lý nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm ác.
  3. Chỉ quy y Phật, không quy y Thiên thần và ngoại đạo.
  4. Trực tâm chánh kiến. xa hẳn các sự ngờ vực kiết hung.
  5. Thường sanh nhân, thiên không sa đường dữ.
  6. Vô lượng phước huệ thường tăng lên mãi.
  7. Dứt hẳn đường tà, chân tu đạo chánh.
  8. Không lòng chấp ngã, bỏ hết ác nghiệp.
  9. Kiến giải vô ngại.
  10. Chẳng bị các tai nạn.
Đó là mười công đức. Nếu ai hồi hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, chứng được tất cả Phật pháp thành tựu thần thông tự tại".

Ngược lại trong kinh Niết Bàn nói: "Nếu người nào si mê tà kiến hiện tại, tâm trí bất an, mê mờ làm điều tà vạy, não hại sanh linh, khi quả thành tựu sẽ đọa vào địa ngục. Ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh, làm heo, bò, kiến, mối... Nếu được làm người sanh vào nhà tà kiến, đui, điếc, câm, ngọng, tàn tật, tâm trí u mê, thường mang ách nạn ưu sầu vào thân".

Phật đã ân cần chỉ rõ tai hại của tà kiến, chúng ta lẽ nào chẳng sợ hãi, không từ bỏ nó hay sao?

Sở dĩ con người khổ đau tổn giảm tuổi thọ, sa đọa là do không giữ giới.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Kinh Trường A Hàm kể: Thuở mới khai thiên lập địa cõi đất này bằng phẳng, trang nghiêm thanh tịnh. Chư Thiên cõi trời Quang Âm hóa sanh xuống sống bằng niệm lực, trên thân phát ra ánh sáng, có thần túc bay trên hư không và họ sống ở đây rất lâu.

Sau đó, có dòng suối ngọt trào ra giống như tô mật, các vị chư Thiên nếm thử thấy ngon ngọt, liền múc uống một cách say mê, vì thế thân thể trở nên thô xấu, mất hết thần túc và ánh sáng trên thân cũng mất luôn.

Bấy giờ, dòng suối ngọt tự nhiên khô cạn, rồi sanh ra loại nấm có đầy đủ hương vị thơm tho. Họ lấy nấm ăn và sống ở thế gian khá lâu, ai ăn nhiều thì nhan sắc thô xấu, ăn ít thì nhan sắc còn tươi đẹp. Do đó, người đoan chánh sanh tâm kiêu mạn, khinh khi người thô xấu, ngược lại người thô xấu sanh tâm ghen ghét người đoan chánh, tranh tụng thị phi lẫn nhau.

Bấy giờ, nấm không sanh lại nữa, mà lại sanh ra loại gạo đầy đủ hương vị thơm tho tinh khiết, họ lấy gạo này ăn. Sau đó con trai con gái thân thích nhau rồi phát sanh tình dục, nên thế gian bắt đầu có bào thai sanh ra từ sự bất tịnh.

Thuở đó, con người ăn lúa gạo tự nhiên, hễ lấy đi bao nhiêu thì lúa sanh lại bấy nhiêu. Trong nhóm người đó có kẻ biếng nhác, tranh nhau tích trữ lúa gạo làm cho gạo trở nên hư xấu. Đồng thời khi gặt rồi không sanh trở lại như trước. Vì thế, họ chia đất ra để gieo trồng, nên dần dần sanh ra trộm cắp của nhau, gây tạo nhiều điều xấu ác, phiền não bất tịnh. Đó là nguyên nhân đưa đến sanh, già, bệnh, chết, khổ báo đọa trong ba đường dữ.

Chính vì con người tạo mười điều ác nên cõi đất sanh ra gai góc, muỗi mòng, rận rệp, rắn rết... đầy dẫy sự ô uế.

Bởi gây nhiều ác nghiệp nên tuổi thọ giảm dần mãi cho đến lúc loài người chỉ còn sống có mười tuổi là chết. Khi đó có nạn đao binh nổi lên, họ lần lượt giết hai lẫn nhau trong bảy ngày, những người có trí tìm cách lánh vào rừng sâu, ở trong hang hố. Qua bảy ngày họ đi ra, hễ gặp người nào còn sống là họ vui mừng không siết. Rồi họ nghĩ rằng, chúng ta do chứa điều ác nên gặp phải nạn này, khiến cho thân tộc chết chóc, gia đình tan nát. Vậy chúng ta nên tu thiện từ bỏ sát sanh, nhờ phước đó nên tuổi thọ tăng lên hai mươi tuổi. Khi sống hai mươi tuổi, con người lại nghĩ: Chúng ta nhờ không sát sanh nên tuổi thọ tăng lên, vậy nay nên tu thêm không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói hai lưỡi, khong nói ác khẩu, không thêu dệt, không bỏn xẻn, không ganh ghét, không tham lam, không sân nhuế, không tà kiến, biết hiếu dưỡng cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, nên tuổi thọ tăng mãi lên đến tám vạn tuổi. Cõi đất lúc này bằng phẳng, không có hầm hố, gai góc, muỗi mòng, rắn rết, độc trùng... Ngói, cát, đá, sỏi đều biến thành lưu ly; dân cư đông đúc, ngũ cốc sung túc, giàu sang vui vẻ vô cùng. Lúc đó có đức Phật Di Lặc thị hiện ra đời rộng độ chúng sanh.

Nói chúng, nếu chúng ta muốn thành tựu Thập Thiện Nghiệp một cách trọn vẹn, tốt đẹp, cần ghi nhờ mười điều để thực hành:
  1. Chẳng những không sát hại chúng sanh, mà còn phải ăn chay, thương yêu, tha thứ, phóng sanh.
  2. Chẳng những không trộm cướp tài vật của người ta, mà còn phải làm việc bố thí.
  3. Chẳng những không tà dâm, mà còn phải biết tôn trọng nhân phẩm, tiết hạnh của người khác.
  4. Chẳng những không nói láo xược, dối trá, mà còn phải nói lời chân chánh, ngay thật.
  5. Chẳng những không nói lời đâm thọc, làm cho người ta hận thù chia lìa nhau, mà còn phải nói làm sao cho người ta hòa hợp, thương yêu, đoàn kết với nhau.
  6. Không được nói lời thô lỗ, độc ác, mà phải nói lời êm dịu, ôn hòa, nhu thuận hiền lành.
  7. Không được nói lời thêu dệt, trau chuốt, thô tục, trái đạo nghĩa, mà càn phải nói lời nhân nghĩa, hữu ích cho mọi người và mọi loài.
  8. Không được tham lam xảo quyệt, mà phải thu hạnh thiểu dục tri túc, vì vạn vật đều giả dối vô thường.
  9. Không được giận hờn, oán hận ai hết, mà phải luôn luôn có lòng từ bi, hỷ xả, nhẫn nại đối với tất cả chúng sanh.
  10. Không để tâm u mê, tà kiến, mà phải có tâm chánh kiến, sáng suốt hợp lẽ đạo chân chánh.
Hơn nữa, mười giới này có tính căn bản và hợp lý, dù ở bất cứ thời đại nào vẫn có giá trị.
  • - Vì mình biết quý trọng mạng sống, thì phải tôn trọng sinh mạng mọi loài.
    - Mình biết quý mến tài sản, thì phải tôn trọng tài sản của người.
    - Minh lúc nào cũng giữ gìn hạnh phúc gia đình ,thì phải biết tôn trọng hạnh phúc gia đình người.
    - Minh không muốn ai lừa đảo, thì phải tôn trọng sự thật.
    - Mình không muốn ai đâm thọc, thì chớ nói lời ly gián người.
    - Chúng ta chẳng ưa ai chửi mắng, thì chớ nói lời đâm thọc người.
    - Chúng ta không thích ai thêu dệt, thì không nên nói thêm bớt chuyện người.
    - Chúng ta không thích ai lôi kéo mình vào dòng tham dục, thì chớ có xúi người chạy theo dục vọng thấp hèn. - Chúng ta không muốn ai sân si với mình, thì đừng có sừng sộ, phẫn nộ với người.
    - Chúng ta không muốn ai mê hoặc mình, thì đừng chỉ người khác đi vào con đường mê tín, tà vạy.
Trong kinh Trường A Hàm, Phật dạy các cư sĩ: "Phàm người giữ giới thì có năm công đức:
  1. Cầu bất cứ điều chi cũng đều như ý.
  2. Tài sản phát đạt không sa sút.
  3. Đi đến đâu đều được mọi người kính mến.
  4. Tiếng tốt đồn khắp nhân gian.
  5. Sau khi qua đời được sanh về cõi trời.
Nay các cư sĩ, trái lại, nếu người nào không giữ giới thì có năm điều suy hao:
  1. Cầu tài lợi không toại nguyện.
  2. Dù có được tài lợi, nhưng mỗi ngày một hao mòn.
  3. Đến bất cứ đâu đều bị mọi người khinh bỉ.
  4. Tiếng xấu đồn khắp thiên hạ.
  5. Sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục".
Kinh Bồ Tát Chánh Pháp, Phật bảo Xá Lợi Phất: "Ông nên biết Bồ tát trong khi tu hành, phải luôn luôn nghĩ đến điều thiện, nếu không nghĩ đến điều thiện, thì ngay lúc ấy những điều ác sẽ dấy lên, thà chịu mất mạng, chớ không phạm giới sát sanh, đạo tặc, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tham dục, sân nhuế, tà kiến, thường thực hành các hạnh trong sạch thiện lành".

Chúng ta có thể mất tiền bạc, của cải, vật chất, thân mạng, nhưng đừng để mất giới dức, vì mất giới đức là mất tất cả nhân lành, thì thật là nguy hại ở trong hiện tại và vị lai.

Kệ giới:
  • Cột tâm lấy giới làm dây
    Lắng tâm lấy định dựng xây đạo tràng
    Rõ tâm lấy huệ soi đàng
    Tâm không, cảnh tịnh Niết bàn an vui.
Kinh Trung A Hàm Phật dạy: "Này A Nan, nhơn giữ giới thì được không hối hận, nhơn không hối hận mà được hoan diệt, nhơn hoan diệt mà được hỷ, nhơn hỷ mà được chỉ, nhơn chỉ mà được lạc, nhơn lạc mà tâm được định. Này A Nan, đa văn Thánh đệ tử nhơn định mà có tri kiến như thật, nhơn tri kiến như thật mà được nhàm chán, nhơn nhàm chán mà được vô dục, nhơn vô dục mà được giải thoát, nhơn giải thoát mà có tri kiến giải thoát, biết như thật rằng: "Sự sanh đã dứt, hạnh lành đã thành tựu, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa".
  • Trì giới hết khổ lo
    Phước ba cõi tôn quí
    Quỷ thần và ác độc
    Không hại người giới trì.
    Giữ giới phước an vui
    Phạm giới tâm lo sợ
    Dứt được lậu ba cõi
    Người này gần Niết bàn.
    • Kinh Pháp Cú
Ở đời người ta thường nói: "Ông đó ăn ở có đức, bà kia ăn ở không có đức". Muốn biết người đó có đức hay không chỉ cần nhìn cách cư xử của họ đối với người khác như thế nào và xem họ có tu thập thiện nghiệp hay không thì biết ngay.

Trong Khế kinh Phật dạy: "Người nào có giữ giới mới sanh ra các công đức, còn người nào không giữ giới thì các cội công đức dứt mất".

Lời Phật dạy quả thật là đúng, người mà suốt đời không biết tu là gì, tối ngày cứ mãi gây tạo thập ác, não hại chúng sanh thì thử hỏi hạng người như thế có thất đức hay không? Chắc chắn là không có đức. Tương lai phải lãnh lấy ác báo. Còn người nào biết quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới, thập thiện, biết lấy tâm, từ, bi, hỷ, xả đối xử với tất cả chúng sanh. Chứng tỏ người đó có công đức lớn, tương lai sẽ hưởng được thiện báo.

Đức Lục Tổ dạy: "Trong khiêm hạ là công, ngoài lễ kính là đức". Nghĩa là, người nào biết kính trên nhường dưới, lễ bái Phật trời đó là người có công đức. Trái lại là mất đức.

Lục Tổ lại nói tiếp: "Bình là công, đẳng là đức". Nghĩa là, quý Phật tử biết lấy tâm bình đẳng đối xử từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, đó là người có công đức. Trái lại là người thất đức.

Trong cuộc sống có nhiều nguyên nhân làm cho con người ta thành kẻ mất đức. Điển hình như thấy ai giàu sang thì nịnh bợ, nghèo khổ thì khinh khi. Ai vừa ý thì thương mến, giúp đỡ... trái ý thì oán ghét, ép chế triệt hạ... đó là nhân của thất đức.

Cha mẹ thấy đứa con nào dễ thương, thì nuông chiều muốn chi cũng được. Còn đứa con nào không thương thì khó khăn, chửi rủa... Làm con thì ngỗ nghịch, bất hiếu. Anh chị em trong gia đình không biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tranh giành hơn thua từ chút, làm cho gia đình xào xáo, cha mẹ buồn rầu, đó là nhân mất đức.

Con rễ giàu sang khi về quê vợ thì anh chị em dòng họ bên vợ ra tiếp đón nồng hậu! Ngược lại, gặp chàng rễ nghèo khổ thì khinh khi không ai ngó ngàng tới. Làm con rễ thấy bên vợ làm ăn khá giả thì lòn cúi để nhờ vả, nếu cha mẹ vợ nghèo khó, có hữu sự thì lánh mặt... hoặc mỗi khi uống rượu vô thì chửi rủa những người thân bên vợ... Con dâu xuất thân nhà giàu sang, có nhiều của hồi môn, thì cha mẹ anh chị em bên chồng kính trọng, có lỗi lầm gì cũng bỏ qua. Nếu là con dâu nghèo thì khi dễ, hành hạ đủ điều. Làm dâu ỷ mình có sắc, có tài, khi mẹ chồng nói một câu thì trả lời năm bảy câu, xem thường gia đình bên chồng, lại còn đem những chuyện không tốt của những người thân bên chồng rêu rao bên ngoài và thêu dệt, đâm thọc làm cho những thành viên trong gia đình hiềm hận lẫn nhau... đó là nhân tổn đức.

Vợ chồng chung sống không biết lấy nhân nghĩa đạo đức đối xử với nhau. Khi chồng làm ra tiền thì vui vẻ, anh anh em em ngọt ngào; khi chồng không làm ra tiền thì buồn phiền chê trách, không quán xuyến công việc nhà, lại còn bài bạc, người thân bên chồng đến thì sợ ăn hết của, bên mình tới thì vui vẻ giúp đỡ. Làm chồng thì thô lỗ, độc tài, tiền phát, gạo đong, bên mình muốn gì cũng được, bên vợ thì chẳng màn tới, lại còn cờ bạc, cá độ, hút chích, ăn nhậu phung phí, bồ bịch lăng nhăng... Người vợ thấy thế khuyên lơn không nghe còn chửi mắng đánh đập... đó là nhân tổn phước, mất đức.

Làm thầy không công bình chánh trực, trò nào lo cho mình thì hết lòng thương yêu, tạo điều kiện nâng đỡ, ghét thì khó khăn, chửi mắng đánh đập, dạy cho lấy lệ... Làm trò thì không biết kính trọng thầy, lười biếng, ham chơi không lo học hành, thầy răn dạy không nghe còn cãi lại, phản thầy lừa bạn... đó là hạng người vô lương tâm, thiếu đạo đức.

Bạn bè lúc giàu sang thì thân thích nhờ vả, khi nghèo khổ, hoạn nạn thì lẫn tránh, sống không có tình nghĩa, chỉ biết lợi dụng lòng tốt của bạn để trục lợi... Đó là hạng người vong ân bất đức.

Làm chủ ỷ mình giàu sang ăn xài phung phí, hành hạ tôi tớ, bắt họ phục vụ một cách quá đáng. Như mặc đồ chưa dơ bảo người giúp việc giặt, ngồi ăn ở tầng dưới không chịu, đày đọa sai người ta bưng lên lầu ba, lầu tư mới chịu ăn., những chuyện không đáng cũng sai khiến đủ điều, lại hay chê trách chửi rủa om sòm... Còn làm tớ thì tham lam, lười biếng không làm tròn bổn phận, đợi tới tháng lãnh lương. Chủ chỉ dạy không biết sửa sai, còn tìm cách hại lại... Đó là những kẻ thất nhân, bất đức.

Làm vua thì đam mê tửu sắc, thưởng phạt bất minh, sưu cao, thuế nặng, hà khắc dân chúng... , làm quan thì thượng đội hạ đạp, lạm dụng của công, đàn áp dân lành, làm chuyện gian ác, vô trung, bất chánh. Đó là kẻ ác nhân, ác đức.

Mua gian bán lận, giành giựt khách hàng, trăm mưu ngàn kế hãm hại đối phương chẳng chut từ tâm, miễn sao cho mình được nhiều tiền lắm của, không nghĩ đến quyền lợi, đời sống của người khác. Trong việc làm ăn mua bán, giành hết quyền lợi về mình làm cho gia đình người ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn, đó là những kẻ quá tham lam hiểm độc, thất đức.

Đồng nghiệp, thấy người khác hơn mình thì ganh ghét đố kỵ, bêu xấu. Thua thì khinh khi, những điều hay lẽ phải thì che dấu sợ người ta hơn mình, phô bày chỉ dạy những điều sai lầm để cho họ thất bại, rồi bị chê cười... Đó là kẻ mất hết nhân tính, tổn giảm phước đức.

Trong tình cảm nam nữ, lợi dụng lòng yêu thương của bạn, đòi hỏi đủ thứ, lừa dối phụ bạc, mới chuộng, cũ vong... Đó là kẻ bạc ác thất đức. Còn người nào biết tu thập thiện chứng tỏ là người có nhân từ đạo đức. Người không có đức trong tâm trí của họ lúc nào cũng nghĩ đến danh, lợi, tình, tiền, chẳng màng đến nhân nghĩa công bằng bác ái lẽ phải là gì, lúc nào cũng giành quyền lợi và phần phải tốt đẹp về mình không cần nghĩ đến ai, hạng người như thế là tự mình gây tạo ác nghiệp, tức phải lãnh lấy ác báo.

Nhân quả nghiệp báo, lưới trời lồng lộng, nhưng báo ứng rất mau. Trong kinh Địa Tạng dạy:
  • "- Nếu gặp kẻ sát hại các loài sinh vật, thời ngài dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu.
    - Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non, thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
    - Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng.
    - Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại các loài sinh vật, thời ngài dạy rõ quả báo luân hồi thường mạng lẫn nhau.
    - Nếu gặp kẻ bỏn sẻn, thời ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được.
    - Nếu gặp kẻ phung phí, phá tổn của cải một cách phi lý, thời ngài dạy rõ quả báo tiêu dùng thiếu hụt.
    - Nếu gặp kẻ lạm phá của chùa, thời ngài dạy rõ quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.
    - Nếu gặp kẻ tà dâm, thời ngài dạy rõ quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.
    - Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời ngài dạy rõ quả báo cầm thú đói khát.
    - Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thời ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống lẫn nhau.
    - Nếu gặp kẻ hay khinh chê, thời ngài dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
    - Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, thời ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
    - Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp, thời ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
    - Nếu gặp kẻ ô nhục hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng, Ni, thời ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
    - Nếu gặp kẻ kiêu mạn cống cao, thời ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người sai khiến.
    - Nếu gặp kẻ đâm thọc, gây gỗ, thời ngài dạy rõ quả báo không lưỡi.
    - Nếu gặp kẻ nóng giận, thời ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật.
    - Nếu gặp kẻ mê tín, thời ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh.
    - Nếu gặp kẻ đốt phá núi rừng, cây cỏ, thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
    - Nếu gặp kẻ trái nghịch cha mẹ, thời ngài dạy rõ quả báo trời đất tru lục.
    - Nếu gặp cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở ác độc, thời ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại hiện đời bị roi vọt.
Những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, từ nơi thân, khẩu, ý tạo ác, kết quả trăm nghìn muôn sự báo ứng, nay chỉ nói sơ lược đó thôi".

Trong Khế kinh, Phật dạy rằng:
  • "- Làm người siêng tu, là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.
    - Làm người sống lâu, là do cái nhơn đời trước không sát sanh mà ra.
    - Làm người sạch sẽ không bệnh, là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.
    - Làm người giàu sang, quốc vương, trưởng giả, là do cái nhơn đời trước lễ bái phụng sự Tam Bảo mà ra.
    - Làm người giàu có, là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.
    - Làm người có âm thanh trong trẻo, là do cái nhơn đời trước ca vịnh tán thán Tam Bảo mà ra.
    - Làm người được người thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ, là do cái nhơn đời trước mình thấy người cũng sanh tâm hoan hỷ mà ra.
    - Làm người đoan chánh, là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.
    - Làm người thân hình thấp lùn nhỏ bé, là do cái nhơn đời trước khinh khi người mà ra.
    - Làm người thân hình lở loét ghẻ dữ, là do cái nhơn đời trước đánh đập chúng sanh mà ra.
    - Làm người bị bắt giam cầm, là do cái nhơn đời trước hay bắt giam cầm chúng sanh trong lồng, trong chậu mà ra.
    - Làm người không có ảnh hưởng, nói gì không ai nghe, là do cái nhơn đời trước tánh hay đố kỵ, thèm thuồng, ham muốn lợi danh của người khác mà ra.
    - Làm người có thế lực, nói gì cũng có người nghe, làm gì cũng có người theo, là do cái nhơn đời trước không có tánh đố kỵ, ham muốn danh lợi của người khác mà ra.
    - Làm người đê tiện thấp hèn, là do cái nhơn đời trước tánh ưa kiêu hãnh, ngạo mạn, vô lễ, không biết tôn trọng người đáng kính mà ra.
    - Làm người sang trọng quyền quý, là do cái nhơn đời trước biết phục thiện, không kiêu hãnh, biết tôn trọng người đáng kính mà ra.
    - Làm người thông minh có trí huệ sáng suốt, hiểu rộng thấy xa, là do cái nhơn đời trước cố công tìm đến người có tài đức để học những điều chánh đáng mà ra.
    - Làm người vô tri không hiểu biết gì hết, là do cái nhơn đời trước lười biếng không chịu gần người tài đức để học hỏi những điều hay lẽ phải mà ra.
    - Làm người ngu xuẩn đần độn, là do cái nhơn đời trước không dạy bảo người mà ra.
    - Làm người mê muội, mất giống trí huệ, loạn vọng điên cuồng, là do cái nhơn đời trước ham uống rượu mà ra.
    - Làm người nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn động tâm người khác, sau khi chết sẽ đọa trong loài chó trập tai.
    - Làm người hay dọa nạt, làm cho người khác khiếp sợ, kiếp sau sanh trong loài hưu nai.
    - Làm người giàu sang có quyền thế đánh đập kẻ dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện ai. Những người như thế, chết đọa địa ngục, cả ngàn vạn năm. Từ địa ngục ra, lại đọa làm thân trâu bò bị roi gậy đánh đập, để đền nợ oan trái ngày xưa.
    - Làm người bị chết cháy, là do cái nhơn đời trước lấy lửa thiêu đốt chúng sanh mà ra.
    - Làm người bị chết đuối, là do cái nhơn đời trước hại chúng sanh chết nước mà ra.
Con người sanh ra trong thế gian bị nhiều tai nạn, bệnh hoạn, chết sớm... biết bao thống khổ không thể kể xiết, như thế là do ba nghiệp gây ra, nên họ phải lãnh lấy quả báo khổ đau trong ba đường dữ".

Bồ Đề Lão Tổ từng dạy:
  • "- Làm nghề lột da, rách lạnh đơn phung.
    - Làm nghề cắt họng, tự sát hủy mình.
    - Vào rừng săn bắn, tai họa thình lình.
    - Hành hung làm dữ, tai họa không chừng.
    - Thấy của gian tham, quả báo bần cùng.
    - Cố ý ăn lường, chịu điều thua thiệt.
    - Gạt người lấy của, chuyển kiếp bồi thường.
    - Nhờ người gạt người, chịu đời thất thế.
    - Gian công, lường của, chịu đời lầm lạc.
    - Khoe tốt lừa người, mắc mưu mất của.
    - Tranh danh đoạt lợi, người lìa của tan.
    - Tranh điền đoạt thổ, con cháu phá tan.
    - Giữ của lòng tham, chuyển làm kiếp chó.
    - Chứa kẻ gian tham, ngục hình đày đọa.
    - Dùng sức loài vật, chuyển kiếp lao suyển.
    - Thấy sắc cố dâm, vợ con phản loạn.
    - Thọ thai chồng bỏ, con nghịch với cha.
    - Tiền dâm hậu thú, sanh con bất hiếu.
    - Thọ thai làm ác, liên lụy đến con.
    - Quen người đoạt vợ, oan gia nghiệp chướng.
    - Dâm dục quá độ, thận kém sanh lao.
    - Ăn uống nóng quá, thận suy khô kém.
    - Khinh Thánh, thị Thần, cầu nguyên vô linh.
    - Khi thị thân tộc, bà con xa cách.
    - Hỗn ẩu anh em, cô độc một mình.
    - Đặt chuyện thình lình, ngọng liệu líu lo.
    - Phân vân ngạo biếm, bằng hữu khinh thường.
    - Khinh bỉ nhân tình, vô gian bạc phận
    - Chê thị quê hương, đổi dời nhiều xứ.
    - Thấy hư chê cười, khó nỗi lập thân.
    - Chê người rách lạnh, chuyển kiếp cơ hàn.
    - Đặng thời chê thất thế, suy sụp nan cầu.
    - Được sang chê hèn đáo đầu bần tiện.
    - Chê người cực khổ, chuyển phú hóa bần.
    - Được giàu phụ khó, giữa của không bền.
    - Kiêu cách khi người, chịu kiếp vô duyên.
    - Được mạnh chê yếu, chịu đời suy nhược.
    - Tánh hay kiêu căng, tạo lập không thành.
    - Thị chúng kiếp cô, họa sanh nan giải.
    - La ré nạt nộ, haho hơi phổi yếu.
    - Vỗ ngực xưng hô, phổi động sanh ung.
    - Hủy hoại lúa gạo, thiếu ăn thiếu mặc.
    - Hủy hoại tiền của, gia cảnh bần hàn.
    - Ăn uống phung phí, bần cùng đói rách.
    - Xài không gìn giữ, thiếu trước hụt sau.
    - Tánh hay ghét người, con cháu vô duyên.
    - Sanh con không dạy, họa hoạn trùng lai.
    - Thọ ơn báo oán, con cháu thất thời.
    - Bội ơn bạc nghĩa, sanh con ngỗ nghịch.
    - Nghề hay không dạy, con cháu bất tài.
    - Chăng nghe lời lành, con cháu ngu si.
    - Giả oan hiếp người, con cháu khiếp nhược.
    - Bội nghịch cha mẹ, hậu kiếp mồ côi.
    - Bội nghịch luân lý, họa sanh nan cứu.
    - Bỏ mồ mả hoang, ba đời lưu lạc.
    - Đốt nhà phá mả, hoang đàng lưu xứ.
    - Mưu sâu kế độc, câm khùng đền tội.
    - Dùng tà ma hại người, đau oan trái bệnh.
    - Dùng lửa hại người, loạn tâm loạn trí.
    - Mắng gió chửi mưa, ngây cuồng đền tội.
    - Được khôn chê khở, lãng tâm mất trí.
    - Truyền khôn bất chánh, trả quả loạn tâm.
    - Em côi anh bỏ, giản cảnh thất thời.
    - Phá cầu đào lộ, oan gia nghiệp chướng.
    - Rào đường lấp ngõ, lo việc không thành.
    - Bỏ người hoạn nạn, cầu phước vô linh.
    - Nghe rên không trợ, cầu phước không thành.
    - Thờ Phật lấy danh, phi tai lai vãng.
    - Biết mà không nói, chịu đời lầm lạc.
    - Chỉ đường lạc nẻo, nhãn mục vô quang.
    - Thuốc hay không cứu, có bệnh oan gia.
    - Lương y giả trị, quả báo ba đời.
    - Binh người đặng thế, chuyển kiếp thất thế.
    - Thấy đánh không can, lâm nạn cô thế.
    - Trước thân sau phản, vô duyên bất tính.
    - Tự gian làm loạn, tai họa thình lình.
    - Gần người hung dữ, lây họa liên can.
    - Tánh giận hóa độ, hư gan sanh bệnh.
    - Ăn vật độc phong, tỳ vị sanh trùng.
Ngày đêm phải biết bình tâm tỉnh trí suy xét để diệt trừ tham, sân, si... Nếu để tâm loạn động, buông lung, phóng dật, lâu ngày thành nghiệp, kiếp sau phải luân hồi đền tội".

Trong Nghệ Thuật Sống cũng nói:
  • "- Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin.
    - Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt cao thượng.
    - Nếu bạn gieo khiêm tốt, bạn sẽ gặt cao thượng.
    - Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt hòa thuận.
    - Nếu bạn gieo chăm chỉ, bạn sẽ gặt thành công.
    - Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giải.
    - Nếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật.
    - Nếu bạn gieo chịu đựng, bạn sẽ gặt cộng tác.
    - Nếu bạn gieo niềm tin, bạn sẽ gặt phép mầu.
    - Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực.
    - Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn.
    - Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt.
    - Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt thất bại.
    - Nếu bạn gieo cay đắng, bạn sẽ gặt cô lập.
    - Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tổn hại.
    - Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù
    - Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu lo.
    - Nếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi. Vì vậy bạn hãy cẩn thận những gì bạn gieo hôm nay, nó sẽ quyết định những gì bạn gặp ngày mai".
Vì thế chúng ta phải ham làm điều thiện, tránh xa điều ác. Khi rảnh rỗi nên suy xét, kiểm điểm lại những việc làm thường ngày của mình. Lúc nào cũng theo con đường ngay thẳng thì tự nhiên trời đất sẽ không phụ lòng tốt của mình.
  • Nhà mà chứa điều thiện, sẽ có phước dư thừa
    Nhà mà chứa điều ác, sẽ có tai họa dư thừa.
      • Cổ Đức
Muốn có cuộc sống hạnh phúc yên vui ở trong hiện tại và vị lai, chúng ta phải tu thập thiện, trau dồi thân, khẩu, ý cho được thuần thiện, thanh tịnh.
  • Giữ thân trong sạch, hạnh phuc biết bao.
    Giữ khẩu thanh tịnh, hạnh phúc biết bao.
    Giữ ý thanh tịnh, hạnh phúc biết bao.

    Thân cùng khẩu ý trọn lành
    Xa lìa tội lỗi gần cành hoa sen
    Ai mà thân, khẩu, ý rèn
    Giữ theo thiện nghiệp thân bèn đặng an
    Ba nghiệp hằng đặng rảnh rang
    Thác rồi nhập Thánh là đàng xưa nay
    Bị mắng chửi lòng chẳng phai.
    Với người tham lẫn giận gay chẳng sờn
    Giữ mình trong sạch là hơn
    Dầu ai gây giữ, oán hờn mặc ai.
    • Pháp Tịnh Tâm


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • C. KẾT LUẬN:
Khi hành giả tự mình không làm mười điều ác và không khen ngợi người làm mười điều ác, thực hành hoàn hảo Thập Thiện Nghiệp, thời thân, khẩu, ý được thanh tịnh, lòng từ bi, hỷ xả, thương người mến vật mỗi ngày thêm tăng trưởng. Hiện tại đời sống cá nhân, gia đình được cải thiện tươi sáng, tốt đẹp. Xã hội trở nên thuần lương, thiện mỹ. Đời đời thiện căn chẳng mất, thường gặp Tam Bảo tu hành, nên không bị đọa vào ba đường dữ là: "Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh". Thường sanh Nhơn, Thiên hưởng nhiều phước lạc, được sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí huệ. Nếu người nào không cầu phước báu nơi cõi nhân, thiên, nguyện đem công đức tu Thập Thiện này hồi hướng về Tịnh Độ, thời khi lâm chung được Phật A Di Đà và chư Thánh chúng phóng quang tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc quốc.

Trong Giới bổn nói: "Người giữ giới, khi mạng chung thân tâm an nhiên, thị tịch vào cảnh tốt lành. Còn người không giữ giới, khi chết thần thức hôn mê, hoảng sợ, sa đọa vào ác đạo". Vào thời đức Phật, một hôm ngài cùng tôn giả A Nan và chư đệ tử đi ngang qua cánh đồng thấy người ta đang lùa bò.

Nhân đây Phật hỏi:

- Này A Nan, ông có biết người ta lùa đàn bò di đâu không?

- Bạch đức Thế Tôn! Con không biết!

- Này A Nan, người ta lùa đàn bò đến lò mổ để làm thịt mà nó không hay biết. Chúng cứ lo chạy nhảy, húc đẩy, kêu rống vui giỡn. Cũng vậy, chúng sanh vì đam mê ngũ dục, phá giới, phạm trai gây tạo nhiều ác nghiệp, nhưng họ lại quên rằng, mỗi ngày trôi qua là mỗi ngày bước dần vào cõi chết mà không chịu lo tu hành, giống như đàn bò đi gần dến chỗ chết vẫn không hay biết. Thật đáng thương thay!

Nhân đó Phật nói bài kệ:
  • Ví như người cầm gậy
    Chăn dắt đàn bò si
    Già chết cũng như vậy
    Đang lùa mạng sống đi.

    Kinh Pháp Cú Thí dụ
Vì thế, chúng ta hay cố gắng giữ giới, ăn chay cho trọn vẹn. Được như vậy, mới đáng gọi là người có trí huệ biết làm theo lẽ phải.

Tôi ước mong quý Phật tử sau khi xem qua quyển Thập Thiện Nghiệp này, thấy được sự lợi ích của lời Phật dạy, tinh tấn áp dụng trong đời sống hằng ngày để tạo hạnh phúc cho mình và chúng sanh ở hiện tại và tương lai. Vì thân người khó được, pháp Phật khó nghe. Hôm nay, chúng ta có duyên lành gặp được Tam Bảo mà không lo tu để tiến hóa lên con đường giải thoát, nếu cứ mãi chần chờ đến khi mất thân rồi muôn kiếp khó trở lại được. Cho nên chúng ta phải cố gắng tu hành làm lành lánh dữ.
  • Không làm các điều ác
    Chăm làm các hạnh lành
    Giữ tâm ý trong sạch
    Là lời chư Phật dạy.

    Kinh Pháp Cú
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
KHUYÊN ĐỪNG GIẾT THÚ:

Muôn loài nào khác chi ta
Cũng tìm sự sống, lánh xa tai nàn
Có cha mẹ, có họ hàng
Kết bè sinh hoạt, hiệp đoàn siêng năng
Ta dừng giết nó mà ăn
Cũng đừng bắt nó trói trăn giam cầm
Bẫy, câu, chước độc mưu ngầm
Làm cho chúng nó âm thầm đớn đau
Lạc bầy dớn dác xôn xao
Lại e cái nạn thớt, dao hầu gần
Mình có thân, nó cũng có thân
Nuôi mình, giết nó trái cân công bằng
Làm mình cảnh ấy khổ chăng?
Giả như có kẻ bắt phăng chúng minh
Mẹ, cha, cô, bác thảm tình
Xót xa đã lắm, bất bình biết bao
Ruột rà ai cắt chẳng đau
Tình thương ai dứt chẳng đau gan vàng
Nếu ta suy nghĩ kỹ càng
Tình nầy, cảnh ấy rõ ràng tương thân
Làm người, ta có lòng nhân
Hãy khơi tánh Phật lần lần lần sáng ra
Người cùng muôn vật một nhà
Ta là anh chị, chúng là đàn em
Khôn hơn ta phải xét xem
Trông mon giúp đỡ đàn em dại khờ
Khi lâm nạn chúng bơ vơ
Mau tau tiếp cứu chớ ngơ mắt nhìn
Thấy ai giết thác sinh linh
Lấy lời khuyên giải, dụng tình cản ngăn
Thú kia nó cũng là thân
Cũng xương, cũng thịt có phần như ta
Đánh đau chúng nó kêu la
Tiếng rên đứt ruột, tiếng la xé lòng
Tánh linh người vật cũng đồng
Xuống tay bao nỡ, cầm lòng sao đang
Thân ta thì muốn cho an
Mà thân kẻ khác lại toan xéo dày
Lòng ta muốn tránh nạn tai
Sao cùng kẻ yếu ra oai dữ dằn?
Nếu ta biết lẽ công bằng
Biết câu phước tội, biết căn luân hồi
Chớ nên giết nó đành rồi
Cũng đừng hành hạ tỏ lời dễ khinh
Chớ cho chúng khổ như mình
Mở lòng thương xót tấm hình hài kia
Đừng làm chúng nó chia lìa
Con này xa mẹ, vợ kia cách chồng
Đừng bày cắt cổ, nhổ lông
Việc làm cũng phải dự phòng về sau
Dây oan ai lại buộc vào
Kiếp này gây nợ, kiếp nào trả xong
Muốn cho mình được thong dong
Đừng làm kẻ khác khổ lòng làm chi
Chớ vì một chút sân si
Mà bao oan trái kéo trì cuốn lôi
Muốn ra khỏi biển luân hồi
Quả kia phải hái cho rồi đừng gieo
Dừng chân là bóng chẳng theo
Nhơn tay thì nghiệp chẳng đeo bên mình.
Ai ơi! Nên khá giữ gìn.

NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠM LINH CẢM ỨNG
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT MA HA TÁT

PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
:

Đệ tử chúng con từ vô thủy
Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê
Đắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài vô thượng giác.
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sanh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng.
Đàn con dại từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Con hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát.
Trí huệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sinh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi.
Theo gót ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời ngài bờ giác không xa
Hành Thập thiện cho đời tươi sáng.
Bỏ việc ác để đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi.
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh
Để theo ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ.
Chúng con khổ, nguyền xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê, trí huệ tuyệt vời
Con nhớ đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức từ bi tiếp độ.

NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT

LỜI KHUYẾN KHÍCH
:
Thuyết pháp, giảng kinh, viết sách về giáo lý nhà Phật cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, bỏ ác hành thiện. Được như thế thì công đức vô lượng.

Nếu không có điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách, rồi chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, hoặc đọc cho những người lớn tuổi nghe, nhất là những người không biết chữ để họ hiểu thêm về giáo lý nhân quả, lành dữ, tội phước của những người giữ giới và không giữ giới. Và đây cũng là phương pháp diệt khổ, bỏ ác, hành thiện, tạo phước đức cho mình và chúng sanh ở hiện tại và vị lai.

Việc làm cố giống như một ngọn đèn mồi qua trăm ngàn ngọn đèn khác đều được sáng tỏa, thì công đức đó, quả thật vô lượng vô biên.

Chính đức Phật đã dạy: "Trong các sự bố thí chỉ có pháp thí là công đức lớn nhất không có công đức nào sánh bằng". Người nào thường làm việc bố thí pháp, thì hưởng được vô lượng phước báu thù thắng, thiên thần ủng hộ, tránh khỏi nạn ôn dịch, thiên tai, địa ách, trộm cướp, giặc giã, lao tù, ác quỷ, rắn độc, thú dữ... không thể làm hại. Người bệnh mau được lành, lúc khốn khó sẽ hanh thông, thân tâm an ổn, sức khỏe dồi dào, thông minh sáng suốt, tướng mạo doan chánh, việc làm kiết lợi, tuy không mong cầu mà cơm ăn, áo mặc tự nhiên đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước thọ lâu dài, nói ra điều gì cũng được trời người kính mến. Nhờ phước đức bố thì Pháp bảo, khiến cho oan gia trái chủ nhiều đời trước đều được giải thoát, không còn phải khổ vì nạn oán thù, những tội lỗi lỡ gây tạo trước đây nếu nhẹ sẽ được tiêu trừ, còn nặng chuyển thành nhẹ. Nếu là phụ nữ lúc xả báo thân liền được chuyển thành thân nam, xa hẳn người ác, đời đời sanh vào chỗ nào cũng gặp được Phật, nghe pháp, tu hành cho đến ngày thanh công đắc đạo".

Vì thế, chúng tôi tha thiết mong cầu các hàng đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia, chúng ta cố gắng đóng góp kẻ công, người của ấn tống kinh sách truyền bá giáo lý để duy trì mạng mạch Phật pháp làm lợi ich an lạc cho chúng sanh.
NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
audible
Bài viết: 75
Ngày: 30/01/15 22:36
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: SAIGON

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi audible »

Kính Thầy !

Thầy cho con hỏi về vấn đề này :

Ngũ giới cấm của nhà Phật như : không sát sanh, không trộm cướp, không rượu chè, cờ bạc, không tà dâm, không vọng ngữ.

Nhưng trong chùa nơi cửa ra vào con thấy có cái trống to, mặt trống thì lại sử dụng bằng da con trâu, con bò. Mà muốn dùng được da của nó thì phải giết nó, như thế thì ta lại phạm tội sát sanh.

Thầy giúp con giải tỏa thắc mắc vấn đề này với

Con xin cám ơn

Chúc Thầy thân tâm an lạc
audible


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách