Thập Thiện Nghiệp

Chia sẻ, thảo luận học hỏi ngũ giới, tám giới, thập giới, đạo đức, phương pháp giáo dục và những vấn đề liên quan.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Hình bìa Thập Thiện Nghiệp
Hình bìa Thập Thiện Nghiệp
bia(ttn).jpg (156.98 KiB) Đã xem 3174 lần
THẬP THIỆN NGHIỆP
Thích Giác Thiện
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh
Phật lịch 2551

LỜI NÓI ĐẦU
Nhìn thấy nhân loại đắm chìm trong bóng tối vô minh, gây tạo nhiều nghiệp ác để rồi phải lãnh thọ nhiều quả báo đau thương, vì lòng từ bi, đức Phật thị hiện ra đời, nhằm khai thị chúng sanh Ngộ, Nhập, Tri, Phật tri kiến.

Xuyên suốt bốn mươi chín năm hoằng truyền chánh pháp, đức Phật dùng vô số pháp môn, phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Vì đó là nền tảng căn bản cho tất các các pháp lành thế gian và xuất thế gian.

Cho nên, trước khi nhập Niết Bàn, Phật dạy tứ chúng: "Các con hãy y nơi chánh pháp, lấy giới luật làm thầy hướng đạo để vượt bể khổ lên bờ giác".

Chính vì tầm quan trọng đó, đức Phật đến cung rồng Ta Kiệt La thuyết kinh Thập Thiện Nghiệp để cho chúng sanh biết cách ngăn ngừa các điều ác, phát triển những điều lành, tu hành cho đến ngày thành Phật.

Nhận thấy sự lợi ích của Thập Thiện Nghiệp, nên tôi cố gắng nghiên cứu Kinh Luật và sưu tầm rất nhiều tài liệu nói lên tính chất nhân quả, nghiệp báo, phước lành cho người thực hành Thập Thiện. Và tai hại đến với những ai nói, làm ngược lại. Hôm nay, quyển Thập Thiện này có dịp ấn tống là nhờ sự nhiệt tình hợp tác của các huynh đệ. Xin chân thành gởi đến quý đạo hữu món quà tinh thần. Với lòng thành kính nguyện cầu cho chánh pháp được truyền bá khắp nơi, mọi người đều giác ngộ, cải tà qui chánh, từ bỏ Thập ác, sát sanh, hại vật - Phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì Thập Thiện, ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, bố thí, phóng sanh, làm lành lánh dữ. Cầu cho kẻ đui điếc được thấy nghe, người tàn tật, câm ngọng thì lành mạnh nói được, người bệnh hoạn mau bình phục, người hoạn nạn, đói rách đau khổ được bình yên no ấm, an vui, tịnh lạc. Người người nương mình trong ánh hào quang của chư Phật, biết lấy lòng từ bi quí kính lẫn nhau, thế giới hết nghiệp đau binh, mưa hòa, gió thuận, quốc thới dân an. Muôn loài dứt sạch phiền não, oan trái, nghiệp chướng tiêu trừ, thân tâm an lạc, phước huệ song tu, đạo quả chóng viên thành, kẻ âm được siêu, người dương thạnh thới, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.

Bể pháp mênh mông thậm thâm vi diệu, khó mà diễn tả hết ý kinh, nên không sao tránh khỏi những điều sơ suất, thiếu sót. Ngưỡng mong các bậc cao minh từ bi hoan hỉ bổ túc thêm cho quyển Thập Thiện này được hoàn hảo hơn.
  • Thành thật tri ân
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • A. DẪN NHẬP
Cổ Đức từng dạy: "Nước không luật nước loạn, nhà không luật nhà vong". Chẳng những từ gia đình, xã hội, tôn giáo cho đến công việc làm ăn hằng ngày mà thiếu kỹ cương thì khó tránh khỏi hư hại. Nếu nhà trường vô kỷ luật thì học sinh không thể học tốt, tài xế lái xe không đúng luật thời xảy ra tai nạn v.v...

Chẳng những con người có giới luật, mà các loài chim, cá, kiến, ong... đều có quy tắc của nó, như nhạn bay có hàng, kiến bò có lối và chúng cũng có nghĩa chúa tôi, cha con, vợ chồng... Thế đủ biết loài vật còn có kỷ luật huống chi là loài người.

Nếu người nào không tuân theo giới luật thì sẽ trở thành kẻ hư thân, độc ác. Trong gia đình không có kỷ luật thì lộn xộn, một nước không có pháp luật thời chẳng còn phong hóa kỹ cương, dân chúng trở nên hung tàn, thế giới không pháp luật ắt phải loạn ly tứ phía! Muốn tránh khỏi sự tan vỡ, nguy hiểm cho mình và cho xã hội, cho nên chúng ta phải nương tựa vào giới luật làm căn bản tự thân. Nếu không giữ giới luật thì đời sống của chúng ta sẽ xảy ra những sự lôi thôi rắc rối, mất hết phúc lạc an vui ở hiện tại và vị lai. Giới là những điều răn cấm không được phạm, luật là những qui định phải tuân theo để chỉnh đốn những hành vi, lời nói, ý nghĩ cho đúng chánh pháp.

Tại sao Phật bảo các đệ tử phải giữ giới luật? Vì từ vô thủy đến nay, chúng ta bị phiền não, nghiệp chướng chứa nhóm nhiều đời, ô nhiễm trong vật dục, gây tạo nhiều ác nghiêp, nên mới luân hồi trong vòng sanh tử. Muốn thoát ra khỏi bể khổ phải giữ giới luật. Kinh Niết Bàn dạy: "Giới là cội gốc của tất cả thiện pháp. Giới giống như mặt trời phá tan đêm tối. Giới là chuỗi anh lạc trau dồi pháp thân. Giới là cội gốc sanh ra các công đức. Giới có thể dứt hẳng nghiệp ác và ba ác đạo. Giới là pháp trượng đánh dẹp nhưng phiền não hung ác. Giới dạy diệt trừ tất cả những tà kiến. Giới là tư lương trên con đường hiểm sanh tử. Giới như con thuyền to đưa người qua bể khổ". Kinh Hoa Nghiêm nói: Giới là cội gốc của Vô thượng Bồ đề".

Người giữ giới được năm điều lợi:
  1. Tiếng tốt đồn xa.
  2. Lợi lộc dồi dào.
  3. Đi vào hội chúng không sợ hãi.
  4. Khi mạng chung tâm không rối loạn.
  5. Đời sau sanh về cõi lành.
Kinh Pháp Cú nói:
  • Hương chiên đàn, già la
    Chưa phải là thơm phức
    Hương người có giới đức
    Xông ngát khắp mười phương.
Khi hành giả giữ gìn giới luật được trọn vẹn thời thân tâm an lạc, nhẹ nhàng giống như người đâu gặp thuốc hay, tiêu trừ hết bệnh phiền não, thân tâm được an ổn, vững vàng không còn lo sợ gì nữa. Chư Phật, Bồ tát và Thinh văn đều nhờ giữ giới luật mà đạt đến cảnh giới phúc lạc tiêu diêu, giải thoát.

Thế mà đời nay, nhiều người học đạo chỉ muốn tìm những giáo lý huyền diệu cao siêu, nghe cho bùi tai, bàn để vui miệng, nói đến giới luật họ không ưa thích, cho đó là cũ kỹ, bó buộc, tiêu cực, biếng lười - không phù hợp tráo lưu tiến hóa.

Ôi! Khác nào kẻ đi tìm châu báu ngoài biển khơi, còn châu báu trong nhà mình thì quăng bỏ. Muốn xây dựng một tòa lầu đài nguy nga, lại chê cái nền móng là vô ích, bảo sao Phật pháp không suy đồi, nhân loại điêu linh, chúng sanh khổ ải? Vì thế trong kinh Lăng Nghiêm nói: "Người tu thiền định hoặc bất cứ pháp môn nào, mà không giữ giới luật thì rơi vào tà định của tà ma ngoại đạo" Như thế, đủ biết giữ giới luật quan trọng biết dường nào. Người giữ giới được thiên long ủng hộ, ngoại ma khiếp phúc.

Quyển Thập Thiện Nghiệp này tuy là giáo lý căn bản, nhưng nội dung bao quát nhiều khía cạnh, mang tính chất nhân quả, nghiệp báo và cách ứng xử trong đời sống hằng ngày. Lại còn đáp ứng những thắc mắc như: Sát sanh bị quả báo gì và không sát sanh hưởng được phước báo gì, cho đến giới không trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến, mỗi giới đều nêu rõ lành dữ, tội phước ở trong đó. Chẳng những thế thôi còn cho chúng ta biết được gieo nhân gì, gặt quả chi. Vì vậy, quý Phật tử khi xem quyển Thập Thiện Nghiệp này nên xem chầm chậm, có đoạn tạm dừng lại để tư duy, nghiền ngẫm cho tường tận, nhiều lần như vậy mới nhận ra được sự vi diệu vô biên của pháp bảo. Rồi tu cho thuần thục sẽ đạt được bản nguyện thoát lý ác nghiệp, đạo quả chóng viên thành.
  • Luật quả báo chẳng bao giờ trật
    Gieo giống nào thì mọc cây ni
    Trồng từ bi có trái từ bi
    Gieo bạo ác lên cây bạo ác
    Việc lành dữ do mình tạo tác
    Sau này mình hưởng hết không sai
    Cõi Ta bà bất luận gái trái
    Tin như thế hết ai phạm tội.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/04/14 17:26 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • B. NỘI DUNG

    I. ĐỊNH NGHĨA
1. Thập Thiện Nghiệp: Nghĩa là mười điều lành của ba nghiệp như sau:
  • (1) Thân có ba: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.
    (2) Khẩu có bốn: Không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ.
    (3) Ý có ba: Không tham lam, không sân nhuế, không tà kiến.
2. Nghiệp là gì?: Nghiệp là những ý nghĩ, hành động, việc làm hằng ngày kết thành nghiệp lành, nghiệp dữ hoặc không lành không dữ.
  • a. Nghiệp lành: Theo quan niệm của nhà Phật là thân, khẩu, ý đều được trọn lành đem đến sự an lạc, lợi ích cho chúng sanh ở hiện tại và vị lai.

    b. Nghiệp dữ: Là những hành động tạo nên dơ nơi thân, khẩu, ý bất thiện, đem đến sự đau khổ cho chúng sanh.

    c. Nghiệp không lành không dữ: Là chỉ cho việc làm không thiện không ác.
Chính vì con người suy nghĩ, hành động gây nghiệp thiện, ác khác nhau, cho nên nó sanh ra quả khác nhau nào là thọ, yểu, đẹp, xấu, giàu, nghèo, lành mạnh, bệnh tật, trí ngu... Chúng ta tự gieo nhân rồi thừa hưởng gặt lấy kết quả của hành động đó. Nếu ai đã tạo ra nghiệp dữ, dầu trốn ở đâu cũng không thoát được sự báo ứng của nhân quả.

Kinh Pháp Cú nói:
  • Dầu trên trời, giữa biển
    Hay lánh vào động núi
    Không chỗ nào trên đời
    Trốn được quả ác nghiệp.
Trong kinh Pháp Cú, thí dụ Phật dạy: "Người nào làm việc bất chánh, độc ác thời lãnh lấy mười quả báo sau đây:
  • Một sống rất khổ sở.
    Hai thân thể tật nguyền
    Ba bệnh tật triền miên
    Bốn tâm trí tán loạn
    Năm bị người vu báng
    Sáu mắc nạn quan nha
    Bảy tài sản tan nát
    Tám thân quyến chia lìa
    Chín nhà cửa tài sản
    Bị lửa cháy tiêu tan
    Mười là sau khi chết
    Phải đọa vào địa ngục.


    - Nghiệp đen cho quả đen.
    - Nghiệp trắng cho quả trắng
    - Nghiệp đen trắng cho quả đen trắng.
Kinh A Hàm nói: "Một hôm vua Ba Tư Nặc thân hành đến yết kiến đức Phật và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có phải người dòng dõi vua chúa, quý tộc sau khi mạng chung sẽ sanh vào dòng vua chúa, quý tộc. Còn người nào dòng nô lệ thấp hèn thì sanh vào dòng nô lệ thấp hèn có đúng vậy không?.

Phật bảo: "Đại vương nên biết trên đời có bốn hạng người:
  1. Từ tối đi vào tối.
  2. Từ tối đi ra sáng.
  3. Từ sáng đi vào tối.
  4. Từ sáng tiến đến sáng.
- Thế nào là từ tối đi vào tối: Nghĩa là người này sanh ra đời chịu nhiều sự khổ, thế mà chẳng lo tu thiện để chuyển nghiệp xấu, lại làm việc ác chẳng khác nào từ chỗ tối đi vào chỗ tối tăm khổ sở hơn.

- Thế nào từ chỗ tối đi đến chỗ sáng: Là người sanh ra đời từ thân mạng cho đến vật chất không bằng ai, nhưng họ ý thức đó là nghiệp xấu đời trước, nên ăn năn sám hối phát tâm cũng dường, bố thí làm lành, lánh dữ... Người như thế là biết tiến tới ánh sáng tốt đẹp cho hiện tại và tương lai.

- Người từ chỗ sáng đi đến chỗ tối: Tức là người này sanh ra đời hưởng cảnh giàu sang, nhưng không biết tạo thêm phước lành, lại còn tham lam, keo kiệt, kiêu căng, hống hách, tạo nhiều ác nghiệp. Người như thế chẳng khác nào từ chỗ sáng đi vào bóng tối nghèo đói, thấp hèn, khổ đau...

- Người từ chỗ sáng đi đến chỗ sáng: Là người có căn lành đời trước nên sanh vào nhà tôn quý, hưởng cảnh giàu sang lại tiếp tục bố thí, cúng dường làm nhiều việc thiện, trên kính dưới nhường... người như thế là từ chỗ sáng tiến đến ánh sáng tốt đẹp thanh cao hơn". Nói tới nhân quả, nghiệp lực kinh Tăng Chi nói:

- Một thời đức Phật an trú ở thành Xá Vệ, vườn Thắng Lâm. Một hôm, hoàng hậu Ma Li Kà đi đến đức Thế Tôn, sau khi đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên bạch rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Do nhân gì, do duyên gì, có một số nữ nhân, dung sắc xấu, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít?

Do nhân gì, do duyên gì, có một số nữ nhân, dung sắc xấu, tài sản lớn, sở hữu lớn, uy tín ảnh hưởng lớn?

Do nhân gì, do duyên gì, có một số nữ nhân, dung sắc xinh đẹp, nhưng lại nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít?

Do nhân gì, do duyên gì, có một số nữ nhân, dung sắc xinh đẹp, thù thắng giàu sang, tài sản lớn, sở hữu lớn, ảnh hưởng uy tín lớn?

Phật dạy:

- Này Ma Li Kà, nếu hạng nữ nhân nào nhiều phẫn nộ, não hại, bị người ta nói động đến một chút liền nổi nóng, sừng sộ, sân hận, gây hấn, bất mãn; lại không biết cúng dường cho chư vị Sa môn, Bà la môn thức ăn, vật uống, vải mặc, xe cộ, giường nằm, chỗ ở, đèn đuốc... tánh tình keo kiệt, thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường... thì ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người đó sau khi từ bỏ cõi đời này, tái sanh trở lại, do sân hận, keo kiệt nên lãnh thọ thân thể xấu xí, hình dáng hạ liệt, nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít.

- Này Ma Li Kà, nếu nữ nhân nào hay phẫn nộ, não hại, dầu bị nói ít, liền nổi nóng, sừng sộ, gây hấn, biểu lộ sự bất mãn, oán hận... Những người này biết cúng dường cho Sa môn, Bà la môn món ăn, vật uống, vải mặc, xe cộ, giường nằm, chỗ ở, đèn đuốc; tánh không keo kiệt, thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường thì không ganh tỵ, tức tối. Người ấy sau khi mạng chung, tái sanh trở lại, do sân hận... nên bị quả báo dung sắc xấu, hình dáng hạ liệt; nhờ biết cúng dường nên hưởng được phước báu giàu sang, tài sản lớn, uy tín ảnh hưởng lớn.

- Này Ma Li Kà, nếu nữ nhân nào không nổi nóng, não hại, tuy bị nói nhiều, không biểu lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn, gây hấn, nhưng người này keo kiệt không biết cúng dường cho Sa môn, Bà la môn món ăn, vật uống, vải mặc, xe cộ, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; tánh hay đố kỵ, nhìn thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường thì nó ganh tỵ, tức tối, trói buộc bởi ganh tỵ. Người ấy sau khi từ bỏ cõi đời này, tái sanh trở lại, nhờ không sân hận... nên dung sắc xinh đẹp thù thắng, do keo kiệt không biết cúng dường, bố thí, nên phải chịu cảnh nghèo khổ, tài sản ít, sở hữu ít, ảnh hưởng uy tín ít.

- Này Ma Li Kà, nếu nữ nhân nào không phẫn nộ, não hại, tuy bị nói nhiều nhưng không nổi nóng, nổi sân... không có biểu lộ sân hận, gây hấn, bất mãn. Người này lại hay cúng dường cho chư vị Sa môn, Bà la môn món ăn, vật uống, vải mặc, xe cộ, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc, tánh tình không keo kiệt, thấy người khác được lợi dưỡng không ganh tỵ, tức tối. Người đó sau khi thân hoại mạng chung, tài sanh trở lại, nhờ không sân hận, biết cúng dường nên hưởng được phước báu dung sắc xinh đẹp, giàu sang, tài sản nhiều, sở hữu lớn, ảnh hưởng uy tín lớn.

Sau khi Phật thuyết giảng xong, hoàng hậu Ma Li Kà thưa rằng:

- Bạch đức Thế Tôn, bắt đầu từ nay, con sẽ không phẫn nộ, não hại, dầu bị nói nhiều con cũng không nóng giận, oán hận, gây hấn, bất mãn. Con sẽ cúng dường cho chư vị Sa môn, Bà la môn món ăn, vật uống, vải mặc, xe cộ, giường nằm trú xứ, đèn đuốc. Thấy người khác được lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dưỡng, con sẽ không ganh tỵ, tức tối. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn... Mong ngài nhận con làm nữ cư sĩ,từ nay cho đến ngày mạng chung.

Đức Phật hứa khả, truyền trao ngũ giới cho hoàng hậu Ma Li Kà, rồi lại thuyết pháp về nghĩa vô thường. Mọi người đều đắc quả Tu đà hoàn.

Qua bài kinh trên cho chúng ta thấy hoàng hậu Ma Li Kà có một tính đặc biệt là khi nghe pháp, bà biết rõ tai hại của sân hận, phẫn nộ, ganh tỵ, đố kỵ và tánh keo kiệt, bỏn xẻn, cho nên bà hứa với đức Phật là sẽ không nóng giận, oán hận, ganh tỵ, đố kỵ và thành tâm phát nguyện thực hành việc bố thí, cúng dường cho chư vị Sa Mân, Bà la môn.

Trong khi nghe kinh, nếu chúng ta biết xét lại mình và phát tâm làm những việc tốt, thì sự nghe kinh đó mới có lợi ích. Trái lại, nếu chúng ta nghe kinh mà không biết suy xét và cũng không cố gắng nỗ lực làm theo lời Phật dạy thì việc nghe kinh đó chẳng có lợi ích gì.

Chúng ta thấy người xưa nghe một bài kinh hiểu rõ ý nghĩa của bài kinh. Còn chúng ta ngày nay có phong trào khi nghe kinh thì thích nghe vị thầy hoặc sư cô nào đó nói hay, đúng tâm lý của mình thì rủ nhau đi đến nghe. Trong khi đó về phần mình thì chẳng làm được việc gì, mà chỉ nghe cho thỏa thích vậy thôi. Có mấy ai biết suy xét rồi kiểm điểm lại mình coi đã làm được điều gì và chưa làm được điều gì? Trong khi nghe kinh chúng ta phải có lòng tin để tâm thanh tịnh lắng nghe những lời Phật dạy, rồi tinh tấn tu hành để cho đời sống của mình trở nên tốt đẹp, chớ không phải nghe rồi bỏ qua.

Chúng ta thấy sau khi đức Phật thành đạo, ngài giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế cho năm anh em ông Kiều Trần Như. Vừa nghe xong là giác ngộ đắc đạo ngay.

Trường hợp nữa, ông Da Xá, ông sống trong cảnh giàu sang sung sướng. Một hôm ông tổ chức một buổi yến tiệc linh đình. Sau khi tàn cuộc vui, ông nhìn thấy chén bát ngổn ngang, còn các kỹ nữ thì mệt mỏi nằm lăn ra ngủ mồ hôi chảy ra, phấn son loang lỗ trên gương mặt. Ông thấy cuộc vui chơi này không thật, cho nên ông mới đi đến gặp đức Phật. Khi đó đức Phật giảng cho ông nghe bài pháp Tứ Diệu Đế. Nghe xong ông liền giác ngộ.

Người xưa có tịnh tính biết quý trọng pháp hết sức đặc biệt, cho nên mới mau giác ngộ đắc pháp. Còn chúng ta xem kinh, nghe pháp không biết bao nhiêu lần mà tại sao không giác ngộ? Tại vì chúng ta xem nghe là để xem nghe vậy thôi, đa số là học trên lý thuyết, cho nên phiền não, sanh tử triền miên không dứt là vậy.

Muốn diệt trừ phiền não, thoát ly sanh tử, chúng ta phải hội đủ ba yếu tố: Một là Văn, hai là Tư, ba là Tu. Có nghĩa là: "Khi xem kinh, nghe pháp phải thành kính, chú tâm tư duy những lời Phật dạy rồi đem ra thực hành thì chắc chắn sẽ thành tựu được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề".

Trong Khế Kinh, Phật dạy: "Các Tỳ Kheo nên biết những người nghèo khó hình dung xấu xa, bệnh tật, gặp nhiều ách nạn không được tự do... Phải biết rằng, những người ấy quyết định đời trước có phá giới, tật đố, sân hận, không lòng hổ thẹn.

Còn những người thân hình lành mạnh xinh đẹp, giàu sang có thế lực... Phải biết rằng người ấy đời trước có trì giới, bố thí, tinh tấn, không lòng tật đố, sân hận".


Do đó, đức Phật thuyết kinh Thập Thiện nhằm để ngăn chặn những tư tưởng ác, lời nói chẳng lành, hành động bất chánh. Mười giới này y cứ trên lòng từ bi, bình đẳng để diệt trừ mọi tội lỗi, đem lại hành phúc an vui cho chúng sanh ở hiện tại và vị lai.
  • Hạnh phúc thay, đức Phật giáng sanh!
    Hạnh phúc thay, Giáo pháp cao minh!
    Hạnh phúc thay, Tăng già hòa hợp!
    Hạnh phúc thay, Tứ chúng đồng tu!
    • Kinh Pháp Cú
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/04/14 17:33 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ CỦA MƯỜI NGHIỆP LÀNH
  • 1. KHÔNG SÁT SANH:
Sát sanh là đoạn mạng chúng sanh. Tự mình giết, xúi người giết, thấy người giết vui theo đều phạm giới sát cả. Tại sao đức Phật đưa ra điều răn thứ nhất, cấm không cho Phật tử giết người, sát vật, vì tất cả mọi loài đều ham sống sợ chết.

Trong các tội ác, tội lớn nhất là làm thân Phật ra máu, giết A la hán, Tổ Thầy, cha mẹ và phá hòa hợp Tăng. Kẻ đó chắc chắn bị đọa vào địa ngục A Tỳ.

Giết đồng loại, bị quả báo hiện tại, thân nhân người ta sẽ báo thù. Nếu không cũng bị pháp luật trừng trị, cho dù họ có khôn khéo trốn thoát luật thế gian, nhưng không qua luật nhân quả, kiếp sau bị nạn nhân giết lại.

Chưa hết, giết chết một mạng người tức là làm cho ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu người ta phải chịu cảnh cốt nhục chia lìa và phá vỡ những hoài bảo, công danh sự nghiệp, làm cho họ chết trong uất hận, nuối tiếc. Quả báo đến với kẻ đó, đời sau chịu cảnh người thân phân ly, sự nghiệp đổ vỡ, chết trong đau thương, hối tiếc.

Giết thú bị tổn giảm tuổi thọ, luân hồi thường mạng, bệnh hoạn, chết yểu.

Nói đến oan trái của nghiệp sát:

Thuở Phật sanh tiền có anh chàng nọ cưới vợ nhiều năm, nhưng chẳng có con nên mới cưới thêm vợ lẽ, không bao lâu có thai. Vợ lớn nhìn thấy chồng lúc nào cũng chăm sóc vợ lẽ hết sức chu đáo, nên lòng ganh tỵ, ghen tuông nổi lên sanh tâm độc ác, mua thuốc phá thai trộn vào thức ăn làm cho cả mẹ lẫn con đều chết, vì thai già tháng. Người chồng điều tra biết được oan tình, liền đánh đập vợ lớn cho đến chết.

Luân hồi nhân quả trả vay. Sau khi chết người vợ nhỏ sanh làm con chồn, vợ lớn sanh làm con gà mái, mỗi khi gà có con, chồn ta bắt ăn thịt và sau đó ăn luôn cả gà mẹ.

Kiếp thứ ba sau khi gà chết sanh lại làm con beo, chồn sanh lại làm con nai cái. Mỗi khi nai cái có con, beo đến bắt ăn thịt cả mẹ lẫn con.

Kiếp thứ tư, nai sanh làm hung thần, còn beo sanh làm người con gái. Đến tuổi trưởng thành người con gái có chồng, lúc sanh con, hung thần đến bắt ăn thịt, làm cho cô ta vô cùng đau khổ. Trải qua hai lần như vậy, đến lần thứ ba, người chồng đề nghị đưa vợ về quê ngoại sanh. Sau khi sanh được một thời gian, hai vợ chồng bồng con trở về quê nhà, đi dến gần Kỳ Viên Tịnh Xá, bỗng nghe có tiếng gió từ xa thổi tới như cuồng phong vũ bão, người vợ nhìn lên trời, thấy hung thần đuổi bắt, liền ôm con chạy vào Tịnh xá Kỳ Viên, cầu xin Phật từ bi cứu mạng cho con mình. Khi đó hung thần cũng vừa đến nơi, nhưng bị chư thiên giữ cửa ngăn lại không cho vô. Phật bảo A Nan Đà ra gọi hung thần vào, nhờ oai lực của Phật nên thần tỏ ra dễ dạy.

Trước mặt hai nạn nhân, Phật từ tốn khuyên bảo: " Sao các người cứ mãi giết hại lẫn nhau như thế! Oan trái biết bao giờ mới chấm dứt được?" Rồi Phật kể lại mối thù nhiều đời cho họ nghe xong, liền đọc kệ:
  • Nếu lấy oán báo oán
    Oán ấy mãi chất chồng
    Nếu lấy đức báo oán
    Oán ấy tự tiêu tan.
Nghe bài kệ và lời khuyên của Phật, hung thần và người phụ nữ hóa giải hết oán thù, đồng đứng lên đảnh lễ Phật, câu xin quy y, thọ trì ngũ giới.

Lòng từ bị của đức Phật xem chúng sanh như con của mình, nên ngài không cho đệ tử sát sanh hại vật với bất cứ hình thức nào. Vì ngài biết mọi loài đều sợ gươm, đao, giáo, mác.

Thật vậy, khi chúng ta nhìn thấy các cóc, ếch sắp bị cắt cổ, nó liền đưa chân chống đỡ. Trâu, bò, gà, vịt, tôm, cá... khi bị đập đầu, thọc huyết, chặt kỳ, đánh vảy... thì hoảng sợ dẫy dụa, rên là tỏ ra đau đớn vô cùng. Chúng ta hãy xem qua mẫu chuyện đau thương của vợ chồng chú vượn rừng bị sức mạnh và trí khôn của con người hủy diệt.

Chuyện kể: Ở trong một khu rừng hoang vu nọ, có cặp vợ chồng chú vượn. Một hôm vượn vợ sanh được một chú vượn con thật là kháu khỉnh, dễ thương, chúng sống trong cảnh êm đềm hạnh phúc trên cành cây cao giữa núi rừng hoang dã. Rồi một ngày kia, vượn mẹ đang bế vượn con vui đùa, bỗng đâu từ dưới đất mũi tên bắn lên trúng vượn mẹ, vượn mẹ ôm ngực thét lên những tiếng kêu ai oán trộn lẫn đau thương, máu lệ tuôn trào thắm ướt cả thân! Vượn mẹ đau đớn oằn oại dường như muốn buông rơi con mình, nhưng tình mẫu tử thiêng liêng, nên vượn mẹ cố gắng bế vượn con vào lòng cho bú thật no, rồi cẩn thận giao cho vượn chồng và trăn trối: "Hãy cố gắng ở lại nuôi con!" Với ánh mắt bi ai đầy máu lệ, vượn mẹ đưa tay vuốt nhẹ lên mình vượn con, rồi nhìn vượn chồng lần cuối, từ từ trút đi hơi thở sau cùng, nhắm mắt buông tay rơi xuống mắt đất nằm oằn oại trên vũng máu, bên cạnh tiếng cười thỏa mãn của tên thợ săn hiếu sát.

Chính cái thảm trạng đó đã kéo dài từ ngàn xưa, nên đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni phải thốt ra nhưng tiếng nói nghẹn ngào: "Các con ơi! Hãy mở rộng lòng tử để san bằng những hố thẳm đau thương cho vạn loại được sống trong cảnh bình đẳng hạnh phúc, yên vui".

Cũng vì tìm cầu món ngon vật lạ, ăn cho khoái khẩu, phì da mà có lắm người bắn chim, đâm cá. Họ lấy thú vật làm bia để bắn, bẫy rập, câu lưới, treo móc, đập đầu, cắt cổ, lột da, chiên xào, nấu nướng, luộc sống... mặc cho nó kêu gào, dẫy chết, mà họ vẫn thản nhiên coi như không có gì xảy ra! Giống như tên tướng cướp mặt đằng đằng sát khí, giết người đẳm máu mà chẳng gớm tay, vì lạm sát quá nhiều, tri thức của họ trở nên chai đá, không còn cảm nhận sự đau đớn của kẻ khác, những người giết vật lâu ngày cũng giống như thế!

Ngược lại, khi họ bị đứt tay hay nước sôi văng trúng một chút là nhảy dựng lên, kêu trời rên la. Thế mà người ta lại đành lòng giết hại sinh vật để bày tiệc ăn uống, phung phí, đàn ca, xướng hát, vui chơi thỏa thích trên sự đau khổ của chúng. Có người ăn nhiều món độc địa, nào là thích ăn tim, gan, phổi, phèo, bao tử, vạc óc khỉ, nướng cá sống... Bởi thế cái thân của họ sanh ra đủ thứ bệnh như: cao huyết áp, tiểu đường, sỏi thận, đau tim, xơ gan, ung thư phổi, loét bao tử...

Nói đến tai hại của việc ăn thịt, nhà triết gia Sénèque nói: "Nếu mỗi bữa ăn người ta dùng thịt là ngấm ngầm tự đầu độc làm cho cơ thể sanh bệnh chết sớm mà không hay biết..."

Thật vậy, ngày nay những nhà y khoa, bác sĩ trứ danh như Soteyro, Variakiplami nói: "Trong các thứ thịt có rất nhiều chất độc, nguy hiểm cho sức khỏe con người". Bằng chứng là các loài vật mắc nhiều chứng bệnh như: Bò điên, heo lở mồm, long móng, cúm gia cầm, cá có độc... ăn vào dễ bị truyền nhiễm ngộ độc mà chết. Tổ chức Y Tế Thế Giới đã xác minh 40% người bị ung thư ở Mỹ là do ăn nhiều chất mở. Bác sĩ Bulaicơ chuyên gia dinh dưỡng của Viện Y Học Haward (Mỹ) cho rằng: "Những độc tố trong thịt và mở là nguyên nhân sanh ra các thứ bệnh".

Hơn nữa, người ăn chay tăng thêm sức khỏe, giảm bớt những bệnh tật, các nhà khoa học, y học Đông, Tây đều công nhận thức ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết dễ tiêu hóa và có nhiều dưỡng chất bổ ích cho cơ thể. Thế mà có nhiều những quan niệm sai lầm, họ nói ăn thịt cá mới có đủ dưỡng chất và sức mạnh.

Thật ra ăn thịt cá không có sức chịu đựng cực nhọc, dẻo dai bằng những người ăn chay trường. Chình giáo sư Tr. Winfischer ở Đại học Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm đã long trọng tuyên bố rằng: "Ăn thịt của những động vật có nhiều chất đạm sẽ làm cho con người không đủ sức chịu đựng, cực nhọc bằng người ăn chay". Tại Đại học Olympic ở Hà Lan năm 1928, người đạt kỷ lục về môn chạy Marathon là Enranphi ăn toàn đồ chay. Muốn cho cơ thể khỏe mạnh, ít bệnh, sống lâu, nên dùng nhiều rau quả, trái cây. Theo Tiến sĩ hóa học Liên Xô cũ Xatavidina Quydốp người ăn chay kéo dài tuổi thọ, như ở vùng Cô-Ca-Dơ (Liên Xô cũ) có rất nhiều cụ già tuổi thọ cao là nhờ các cụ ăn chủ yếu là rau quả và thức ăn chay. Nhiều thầy thuốc đã thừa nhận rau quả, ngũ cốc có nhiều vitamin ngăn ngừa bệnh thiếu máu, thông mật và góp phần phục hồi các tế bào của cơ thể.

Các loại như cam, quýt có thể ngăn ngừa bệnh ung thư, dư mỡ động mạch, nước cam làm mát phổi, mát gan, mát tim, mát thận, điều hào dạ dầy, giải khát, giải nhiệt, giải độc, nhuận trường. Trái chuối vừa ngon, vừa có giá trị dinh dưỡng cao hơn các loại trái cây khác, chuối chín chừa nhiều đường bột, chất đạm và nhiều sinh tố, giúp cứng xương, quân bình thần kinh, trị luôn bệnh suy nhược, thấp khớp.

Trái vú sữa bổ thận, mát tim, phổi, giải uất nhiệt. Trái lê nhuận phổi, mát tim, giáng hỏa, tiêu đờm, giải khát, giải độc, chữa phổi khô, ho khan, ho có đờm, nói không ra tiếng. Người lạnh bụng, yếu dạ dầy và sản phụ không nên ăn lê. Trái bơ làm giảm mở độc hại trong cơ thể, trị luôn bệnh xơ gan, giúp bảo vệ các mạch máu, lại thêm chống lão hóa. Trái bưởi trị nhiều bệnh về đường ruột và mạch máu. Trái nho, dâu, cà chua chống lão hóa "giữ được tuổi trẻ lâu dài"ư. Cà rốt làm giảm ung thư phổi... giúp tiêu hóa, bổ máu và các chứng tay chân, cơ thể tê cứng, da khô. Ngó sen và củ sen giải được phiền nhiệt, khí nghịch, chảy máu cam, bổ tim tăng dịch vị, trị tiêu chảy, khí huyết lưu thông điều hòa, khiến cho thân thể, tinh thần nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống lâu. Bí đỏ còn chữa được chứng nhức đầu, chóng mặt, đề phòng đau màn óc, trị luôn cao huyết áp, suy tim, suy thận, viêm niệu, biêm ruột. Bí đao thanh nhiệt giải khát, lợi tiểu, tiêu ung nhọt, nhuân trường, giải độc; người bệnh lâu ngày hoặc âm hư thì không nên ăn. Cà chua bổ máu, bổ tim, mát gan, giúp tiểu hóa, nhiều sinh tố A và nhiều chất kháng độc, giảm chứng căng mạch máu và bớt nguy cơ nhồi máu cơ tim. Cà chua xay nát, lược bỏ hột, để đường vào uống, sẽ sáng mắt, mát thận, mát gan, mát máu và mạch tim. Mỗi sáng ăn hai trái cà chua tươi, trị tiểu đường, cao huyết áp, mất ngủ. Trong toàn bộ rau quả không thứ nào tốt hơn cà chua, nhưng ăn nhiều quá sẽ bị phạt hỏa, sưng phù. Mồng tơi giải nhiệt, nhuận trường, giúp đại tiểu tiện dễ dàng, vừa tống khi nóng, khí độc trong ruột già ra. Câu kỷ giải nhiệt, lọc máu, chữa chứng đau khớp, ngứa ngoài da, gan hư, mắt mờ và bệnh tiêu đường. Rau lang vừa bổ vừa ngon, giúp trẻ mau lớn (phát triển chiều cao), phòng ngừa đau mắt, phù thũng và giúp cơ thể đề kháng bệnh tật. Rau má mát gan, giải độc, chữa đau mắt, da sưng đỏ lở, nóng rát trong bụng khó chịu. Rau dền gai thông kinh mạch, giải phong nhiệt, mát gan, mát dạ dày, nhuận trường, giải nhiệt, chữa huyết trắng. Rau đắng mát tim, giáng hỏa, giải nội nhiệt, trừ ban nhiệt nhập lý mê cuồng.

Chế độ ăn uống theo bác sĩ Vêraiêva cho biết "Sự phát triển và sức khỏe của con người đòi hỏi phải có protêin, chất này có nhiều trong các thực vật như: Đậu Hà lan có 23,8%, đậu nành 25% trong khi đó thịt chỉ có 17%, cá 16,5%".

Đề phòng thiếu chất sắt, nên cung cấp Vitamin C cho cơ thể cần dùng thêm (chanh, ngô, cam, rau xanh, bắp cải...) và bổ sung cho khẩu phần ăn các thực phẩm giàu chất sắt như (gạo lức, đậu đen, đậu xanh, đậu đỏ, rau muống, rau dền đỏ, củ dền đỏ...). Vitamin B12 có rất ít trong thực vật, người ăn chay chỉ cần uống thêm Vitamin B12, nếu không ăn rau câu và rong biển. Nước ta có rất nhiều trái cây, rau cải quanh năm, phải thay đổi rau cải trong mỗi bữa ăn để có đầy đủ Vitamin. Nên dành ưu tiên thức ăn, nước uống chế biến từ đậu nành, cần bổ sung thêm sửa, phô mai, sữa chua. Để tăng thêm hương vị và dinh dưỡng các món ăn, nên rắc lên thức ăn: mè, đậu phộng.

Lưu ý: Chúng ta phải ăn đúng theo quy luật âm dương, thí dụ: Bí đao là âm (lạnh), tiêu là dương (nóng) cho nên khi nấu canh bí đao ta phải rắc tiêu vào như thế sẽ điều hòa dùng rất tốt, ngược lại chỉ ăn toàn lạnh hoặc nóng thì dễ sanh bệnh, và không nên thêm bột ngọt vào thức ăn. Theo bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, nguyên giám đốc trung tâm dinh dưỡng TP. HCM cho biết: "Bột ngọt là những chất phụ gia nhằm tăng vị giác, không có giá trị dinh dưỡng. Những người có thể trạng nhạy cảm như hay bị nhức đầu, ói mửa, cao huyết áp, tim, thận v.v... không nên dùng bột ngọt, vì nó làm giảm trí nhớ và tổn thương tim, gan, thận...". Để tránh bệnh tật nên nêm vào thức ăn bằng đường cát, đường phèn...
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/04/14 17:42 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Chúng ta hãy ăn chay để giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái và cứu lấy sự sống của các động vật. Ăn chay có lợi ích như thế, vậy mà có người không hiểu, khi ăn chay bị bệnh chút ít, nghe người ta nói: Ăn chay lợt lạt làm tổn hại sức khỏe nên mới sanh bệnh như thế liền bỏ ăn chay quay sang ăn mặn, đó là quan niệm sai lầm đáng tiếc vô cùng. Xin lỗi mà nói, nếu không nhờ phước ăn chay, họ còn mang những căn bệnh ghê gớm hơn thế nữa!

Thanh Triều, năm Đạo Quang, ở tỉnh Triết Giang, huyện Gia Hưng. Quan Thái Thú họ Trần sinh hoạt xa xỉ. Từ y phục, ngựa xe cho đến những vật trang trí nhà cửa, phòng ốc đều mỹ lệ. Ba bữa ăn hàng ngày, Trần Thái thú rất thích ăn óc vịt, chân gấu, vi cá, mề gà, khô nai... nói chung là ông ta dùng những thực phẩm rất cầu kỳ quý giá để ăn và đãi khách mà nhẫn tâm tàn sát vô số sinh vật vô tội.

Ông thường nói với mọi người: "Đời người sống chẳng được bao lâu, nếu không biết tận hưởng những thức ăn cao lương mỹ vị, thì thật là uổng...".

Những bậc hiền trí đều không đồng tình với quan điểm của ông, có người nói: "Để rồi xem! Chung cuộc một ngày nào đó chắc chắn ông ta sẽ chuốc lấy quả báo xấu!"Quả nhiên, trải qua hơn mười năm, gia cảnh lần lần suy sụp, còn ông thì mang một chứng bệnh điên, không phân biệt đông tây, phải trái, sạch bẩn, thường bốc phẩn bỏ vào miệng... Gặp hòn sỏi, mảnh sắt... cũng cho vào miệng nhai bừa, nuốt đại vì vậy mang thương tích và không tiêu hóa nổi nên phải chết. Đó là hậu quả của sự tham thực.

Thương thay, trên đao dưới thớt, trong khoảng thời gian đó biết bao con vật đau đớn! Chỉ vì miệng, bụng, mà ngày ngày tàn hại không biết bao nhiêu sinh mạng, tạo nên sát nghiệp quá nặng thì làm sao tránh khỏi ác báo!

Xưa kia ở thành Thanh Châu có một ông lão không con, nghe người ta bảo rằng: Ăn rùa sẽ có con. Ông liền đi mua thật nhiều rùa, hàng ngày nấu ăn. Trải qua hơn một năm, toàn thân ông sanh ra ung nhọt, các thầy thuốc đều bó tay, vô phương cứu chữa. Ông nằm trên giường đau đớn, rên la ú ớ, chịu nhiều nỗi thống khổ đến chết.

Nhà trên đàn ca múa hát, dưới bếp đao thớt nhuộm máu đỏ, thịt béo rượu nồng, tổn giảm tuổi thọ, phước đức tiêu mòn. Thiện ác phước họa, người có trí huệ nên cẩn thận.

"Mọi người đều cho rằng tội của người giết nặng, tội của người ăn nhẹ, điều này không đúng. Luật pháp đã qui định, phạm tội cũng chia làm hai loại, đó là thủ phạmtòng phạm".

Thủ phạm chính là tự tay mình làm, còn tòng phạm là những kẻ hùa theo. Vậy thì người trực tiếp giết là thủ phạm hay người ăn thịt là thủ phạm? Điều này không nhất định. Ví như lúc đồ tể giết heo đi bán, lúc này đồ tể chính là thủ phạm, người mua thịt là tòng phạm. Nhưng thịt không đủ bán, người mua thịt nhiều quá, đồ tể bèn giết thêm, lúc này người mua thịt trở thành thủ phạm, đồ tể là tòng phạm. Cho nên gieo nhân như thế nào thì mỗi người tự chịu quả báo như thế ấy. Người thời nay không tin sợ lý nhân quả báo ứng bằng người thời xưa, họ rất sợ nhân quả, mà ngay kẻ đồ tể cũng sợ nhân quả báo ứng, cho nên lúc sắp giết heo, miệng họ luôn nói thế này: Heo này! Heo này! Mày đừng hận tao, mày là món ăn của thế gian, họ không ăn tao không giết, mày hãy đòi nợ người ăn thịt. Bạn xem, chẳng những người ăn, cho đến kẻ giết heo cũng sợ heo đến đòi mạng. Như thế rốt cuộc heo đòi nợ người ăn hay là đòi nợ người giết? Tục ngữ có câu nói rất hay: "Oan có gia, nợ có chủ"". Cho nên ăn có quả báo của ăn, giết quả báo của giết.

Thuở xưa, đức Phật trú tại thành La Duyệt Kỳ. Các nước này năm trăm dặm có một hòn núi là nơi cư trú của một gia tộc gần một trăm hai mươi người. Họ sống bằng nghề săn bắn trong rừng, chẳng ai biết làm ruộng rẫy. Tín ngưỡng của họ là thờ quỷ thần. Đức Phật thấy họ có thể độ được nên ngài đến đó ngồi dưới một gốc cây. Thân Phật tỏa ánh từ quang chiếu khắp đất trời, cây lá trong ngọn núi đều biến thành sắc vàng. Lớn nhỏ ai thấy vậy cũng đều hoan hỷ cho đức Phật là một vị thần linh nên kéo nhau đến lễ bái.

Đức Phật nhân đó thuyết giảng về tội báo sát sanh, phước đức từ bi cho họ nghe. Nghe xong ai nấy đều hoan hỷ nói: "Chúng con sát sanh ăn thịt để sống. Nay muốn dâng cúng thịt thú rừng xin Ngài hãy nhận lấy".

Đức Phật bảo: "Trong giáo pháp của chư Phật không ăn thịt chúng sanh. Ta đã thọ trai rồi, không cần phải dọn ra nữa".

Đức Phật nhân đây dạy rằng: " Người sống ở đời thức ăn chay rất nhiều sao không ăn, lại giết hại mạng sống của chúng sanh mà ăn? Để rồi sau khi chết phải bị đọa vào tam đồ, ác đạo. Làm người nên ăn ngũ cốc, thương yêu mọi loài vì tất cả chúng sanh đều ham sống sợ chết. Giết các loài vật để nuôi sống mình, tội lỗi rất nặng. Người nào có tâm từ bi bất sát đời đời được an vui".

Mọi người nghe Phật dạy, ăn năn hối cải. Phật vì họ giảng giải về công đức của việc không sát sanh, ăn chay và tội báo của việc giết hại ăn thịt. Người đứng đầu bộ tộc tỉnh ngộ liền quỳ xuống bạch Phật: "Chúng con sinh trưởng nơi núi rừng, lấy việc săn bắn làm kế sanh nhai. Tội lỗi chất chồng rất nhiều. Xin Ngài dạy cho các nào để từ bỏ nghề săn bắt này".

Bây giờ, Phật nói kệ:
  • Hành từ bi bất sát
    Thận trọng ý và lời
    Đây là chỗ bất tử
    An lạc không tai họa.
Đức Phật nói xong kệ, tất cả đều phát tâm ăn chay, vâng giữ năm giới. Sau đó, đức Phật đến nói với vua Bình Sa cấp cho họ ruộng đất và hạt giống để làm ăn sinh sống.

Thấy được sự tai hại của sát sanh, ăn thịt. Quý vị tập ăn chay một thời gian, bất chợt thấy người ta cắt cổ gà, đập đầu cá nó giãy chết, mình cảm thấy nỗi đau đớn ghê gớm mà trước đây không hề hay biết.

Trong kinh Niết Bàn, Phật nói: "Người ăn thịt dứt mất hạt giống từ bi, người ăn chay được công đức vô lượng".

Trơng giới Bồ tát, đức Phật dạy rằng: "Này các Phật tử, người nào cố ý ăn thịt của các loài chúng sanh thì mắc vô lượng tội".

Sát sanh cũng là nguyên nhân sanh ra chiến tranh. Con người ỷ mạnh hiếp yếu, giết hại thú vật một cách độc ác. Trước khi chết nó ôm lòng oán hận, đến khi trả hết nghiệp thú, sanh lên nhân gian. Đó là lúc oan gia đối đầu, nên thế giới thường xảy ra những cuộc chiến tranh thảm khốc, họ hăng say bắn giết lẫn nhau để giải quyết món nợ truyền kiếp, giống như truyện dòng họ Thích bị vua Tỳ Lưu Ly giết hại.

Chuyện kể: Một hôm đức Phật ngồi tĩnh tọa dước gốc cây, bỗng nhiên cảm thấy nhức đầu. Trong khi đó, vua Tỳ Lưu Ly đang kéo binh đến đánh dòng họ Thích, đức Phật liền dùng thần thông hiện ra trước đoàn quân. Vua Tỳ Lưu Ly thấy thế, liền xuống ngựa đảnh lễ Phật, rồi kéo quân về. Trải qua ba lần như vậy, đến lần thứ tư, ông ta kéo quân đi ban đêm, đức Phật không hiện ra nữa. Trong khi đó dòng họ Thích, vì giữ giới bất sát, nên đứng thản nhiên cho chúng giết, người nam bị họ bắt chôn sống ló cái đầu lên rồi cho voi giày đạp, còn nữ thì chặt tay chân, xẻo mũi, quăng xuống hố.

Qua cuộc thảm sát, ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Do ác nghiệp gì mà dòng họ Thích bị đoàn quân của Tỳ Lưu Ly giết hại một cách dã man, thảm khốc như thế và do nguyên nhân chi Thế Tôn bị nhức đầu?"

Đức Phật nói: "Thuở xưa, hồi thời quá khứ ở một thôn nọ, nhằm năm hạn hán mất mùa, nên dân chúng kéo nhau đến hồ để bắt cá ăn. Trong hồ có hai con cá chúa là Đa Ngư và Đa Thiệt, tập hợp đoàn cá lại nói rằng: Bấy lâu nay chúng ta sống trong cảnh bình an vui vẻ, không ngờ hôm nay, loài người ỷ mạnh hiếp yếu, vô cớ đến đây giết hại chúng ta, cái hận này quyết trả cho bằng được".

Kể đến đây đức Phật nói: "Do nhân duyên ác nghiệp nó âm thầm ráp nối, những người dân làng thuở xưa, sanh lên nhân gian làm quyến thuộc dòng họ Thích, còn những con cá thuở đó cũng đồng thời sanh lên kết làm quan, quân của Tỳ Lưu Ly, do oan trái đời quá khứ, nên dòng họ Thích mới bị đoàn quân của Tỳ lưu Ly giết hại như thế! Còn ta bị nhức đầu là vì thuở đó là một em bé thấy người lớn bắt cá liệng lên bờ, liền lấy cây gõ vô đầu nó chơi, nên bị quả báo nhức đầu".

Đức Phật khuyến cáo đại chúng: "Sở dĩ ta hiện ra ngăn chận đoàn quân của Tỳ Lưu Ly, không phải là không biết luật nhân quả, mà để cho người đời thấy rằng chính ta đây có đủ thần thông diệu lực, như thế mà còn không ngăn chận được bước tiến của nghiệp lực, đừng nói chi là chúng sanh bình thường thì làm sao thoát khỏi. Các con hãy xem lấy đó mà tự nhắc nhở mình!" Tứ chúng nghe lời Phật dạy, tất cả dều phát nguyện trọn đời tránh xa sát sanh hại vật.

Ở thế gian, người ta quan niệm vật dưỡng nhân, giết thú ăn thịt là chuyện bình thường nhưng lúc xem kinh rồi mới thấy, không đơn giản như quý vị nghĩ đâu. Vì gieo nợ máu thì phải trả bằng máu.

Trong Khế Kinh, Phật nói: "Chúng sanh từ vô thủy đến nay, cứ mãi giết hại, ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác báo sanh tử trả vay trong ba cõi sáu đường".

Kinh Lăng Nghiêm nói: "Hễ giết một mạng là đền một mạng".

Tổ xưa từng dạy:
  • Thây lền trong canh ngọt
    Oán hận thấu trời xanh
    Tiếng kêu trong lò thịt
    Gây thành lửa đau binh.
Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi diễn tả cảnh bi đát của một con lừa bị người đồ tể đem vào lò mổ xẻ thịt:
  • Anh có biết khi em vào lò thịt
    Cả chân tay đều bị trói nằm co
    Thân thể em chờ nước chín trong lò
    Giờ phút cuối lệ trào tuôn khóe mắt.
Qua hai bài kệ trên, chư Tổ chỉ cho chúng ta thấy trong bát canh có rất nhiều sự đau đớn, oán hờn của con vật, chính sự oán hờn đó, nó biến thành đao binh, giặc giã.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 09/04/14 18:05 với 2 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Quý vị xem Ti vi, nghe đài, coi báo thấy trên thế giới thường xảy ra chiến tranh và hàng ngày có không biết bao nhiêu vụ đâm chém, thủ tiêu, âm mưu giết hại lẫn nhau đều do nghiệp sát gây ra.

Ngày nào, con người còn giết hại thú vật để ăn là ngày đó còn các bà mẹ buồn rầu gạt lệ tiễn con ra chiến trường và những người vợ âu sầu đau khổ khóc than khi hay tin chồng tử trận, khiến con cái bơ vơ không biết cha mình là ai. Chiến tranh không bao giờ chấm dứt nếu con người còn tạo ra nghiệp sát.

Trong kinh Bồ tát giới, Phật nói: "Tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc có đầy đủ Phật tánh như nhau không khác". Nếu chúng ta giết chết một con vật, tức bóp chết lòng từ của mình, giết luôn vị Phật tương lai và giết lộn ăn lầm người thân trong quá khứ, quý vị xem qua mẩu chuyện trong kinh Pháp Cú thí dụ sẽ rõ.

Thuở xưa, đức Phật an trú tại nước Xá Vệ vì hàng trời người mà thuyết pháp. Lúc ấy, trong thành có ông trưởng giả rất giàu có, nhưng tính tình quá tham lam, keo kiệt không biết bố thí là gì.

Một hôm, trưởng giả sai vợ giết một con gà béo ướp gừng, tiêu, gia vị rồi đem quay. Các món ăn chẳng mấy chốc đã xong, rồi bưng lên cúng ông bà, cha mẹ. Khi dọn xuống bàn, ông ra lệnh cho đóng cửa lại, hai vợ chồng và đứa con nhỏ ngồi ăn uống với nhau.

Đức Phật biết ông trưởng giả có thể độ được, bèn hóa ra một vị Sa môn ngồi trước bàn ăn của họ.

Trưởng giả ngẩng đầu lên trông thấy liền mắng: "Ông là tu sĩ mà không biết hổ thẹn, nhà người ta đang ăn uống sao lại đường đột xông vào?"

- Ngươi mới thật ngu si, không biết hổ thẹn. Ta là khất sĩ có gì mà hổ thẹn.

- Tôi và vợ con ngồi ăn uống vui vẻ với nhau. Ông nói không biết hổ thẹn là sao?

- Này trưởng giả, con gà trên bàn là cha của ngươi đời trước. Vì quá tham lam bị đọa làm gà. Đứa con của ngươi từ nhiều kiếp trước là quỷ La sát, vì oan trái nhiều đời nên nó đến để hại. Còn vợ của ngươi ngày nay chính là mẹ ngươi đời trước, do vì quá luyến ái nên sanh trở lại làm vợ, sáu nẻo luân hồi, quanh quẩn trong đó, phàm phu khó mà biết được. Chỉ có các bậc chân nhân đắc đạo mới thấy được việc người chết chỗ này sanh chỗ kia.

Để cảnh tỉnh ông, đức Phật liền vận dụng thần thông cho trưởng giả thấy được những việc xảy ra ở đời trước. Trưởng giả kinh sợ toát mồ hôi, liền đảnh lễ Phật cầu xin sám hối tội lỗi, tạ ân đức Phật xin thọ trì ngũ giới, nguyện trọn đời từ bỏ nghiệp sát.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ:
  • Chúng sanh bị não hại
    Lão tử nghiệp trả vay
    Bậc bi trí giải thoát
    Không giết hại chúng sanh
    Người trí thấy rõ ái
    Ngục kiên cố khó ra
    Nên tránh xa các dục
    Dứt ái, được an ổn.
Trưởng giả nghe Phật thuyết pháp xong liền chứng quả Tu đà hườn.

Ở thế gian có lắm nhà đến ngày đám giỗ, tuần thất, thì giết mổ rất nhiều trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, tôm, cá... Tổ chức yến tiệc linh đình, nấu nướng bày vẻ để thứ món ăn đặt lên bàn thờ, cũng vái ông bà, cha mẹ, thân nhân quá vãng về ăn. Nhưng khi đem xuống cá thịt vẫn còn nguyên, rồi cùng nhau ăn uống no say, có khi cãi vã, đánh lộn la lối om sòm, thử hỏi có ích gì cho vong linh người quá cố?

Trong kinh Địa Tạng dạy: "Con người sau khi chết thần hồn vơ vẩn mịt mờ, lúc nào cũng trông ngóng chờ đợi người thân tu tạo phước lành, hồi hướng cho họ được nhẹ nhàng, siêu thoát.

Nếu con cháu, thân bằng quyến thuộc vì nghĩ tưởng đến người thân đã mất, phát tâm thiết lễ trai tăng cúng dường Tam bảo, bố thí phóng sanh thì bảy phần công đức, người mất hưởng được một phần, sáu phần còn lại người đứng ra làm được hưởng.

Trái lại, nếu giết hại sinh vật để cúng tế, thì chẳng có ích lợi gì! Chỉ kết thêm nghiệp tội cho người mất càng thêm sâu nặng. Giống như kẻ lữ hành chất đầy gánh nặng trên vai, lại có người gởi thêm ít đồ vật nữa, càng làm cho họ khốn đốn, khổ sở thêm lên"
.

Liên Trì đại sư Tùy Bút có ghi: Tỉnh Triết Giang ở Tiền Đường, họ Kim một đời kiền thành trì trai. Sau khi từ trần, thần thức báo mộng cho một người trong nhà: "Ta tuy chưa được vãng sanh Tịnh Độ nhưng hiện tại rất an vui". Ngày hôm sau thần thức lại báo mộng: "Ta nay không được tự do như trước nữa vì các ngươi đã giết gà tế mộ nên ta bị liên lụy".

Hiếu tử, hiền tôn chỉ nên hương hoa rau quả cúng tế, cố gắng ăn chay, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, cúng dường, bố thí, phóng sanh lập công bồi đức để hồi hướng cho hương linh quá cố sớm được vãng sanh Tây phương Cực Lạc, thoát khỏi cảnh luân hồi. Đó mới thật là chân chánh báo ân.

Trong kinh Phật dạy như thế, vậy mà có nhiều người nói rằng: Lúc sanh tiền ông bà, cha mẹ tôi ăn thịt, uống rượu, bây giờ đã quá vãng, tôi phải dâng cúng rượu thịt để tỏ lòng tri ân đấng sanh thành, nên họ thẳng tay sát sanh, hại vật cúng tế linh đình. Thật là trái lời Phật dạy, tội báo khó lường.

Chúng ta là đệ tử của Phật, phải biết vâng lời Phật dạy, học hạnh từ bi của ngài. Bất cứ đám tiệc gì chớ có sát sanh, hại vật. Sau đây là mẩu chuyện đáng để lại cho chúng ta noi theo.

Vào thời nhà Minh, tại Côn Sơn có Hứa Thái phu nhân là thân mẫu của quan Hàn Lâm Từ Tích Dư. Cả đời bà chuyên ăn chay, ưa phóng sanh, thích làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo khốn không biết mệt mỏi. Mỗi ngày bà đều có hai thời công phu sớm chiều chưa hề gián đoạn. Những ngày tuần thất, giỗ quải ông bà và đám cưới cho con cháu... bà đều tổ chức cúng kiến, đãi khách toàn là những thức ăn chay lạt.

Đến tuổi lục tuần, trước lễ mừng thọ ba ngày, bà nấu cơm cháo đem bố thí cho nhưng người bần cùng và cho mỗi người một phần tiền.

Đến ngày khánh tuế, bà con thân thích và bạn bè làm lễ chúc mừng cực kỳ linh đình, bà đãi khách toàn bằng món chay tịnh. Nhân dịp chúc thọ, bà tặng cho mỗi người một bộ kinh Pháp Hoa và nói vài lời thăm hỏi cám ơn.

Về sau, bà càng khỏe mạnh hơn, con cháu thăng quan tiến chức, hết lòng hiếu thảo. Còn bà thì hưởng thọ hơn chín mươi tuổi, không bệnh mà chết một cách an lành. Đó là phước báo hiện tiền cho người có tâm nhân từ.

Trái lại, trong kinh Địa Tạng nói: "Nếu ai sát sanh hại vật, nhóm họp quyến thuộc để uống rượu ăn thịt, đờn ca, múa hát, thì đã phạm tội lỗi, tất phải chuốc lấy tai vạ".

Người đời thường gây ác nghiệp, cho nên họ phải chịu nhiều thống khổ vô tận, đến khi thân hoại mạng chung, thần hồn bơ vơ không nơi nương tựa, mình làm mình chịu, thần thức tự thú tội với Diêm vương, quỷ Ngưu đầu, Mã diện, Ngục tốt chẳng vị nể ai, ngày đêm hành tội liên miên.

Kinh Tội Nghiệp, Báo Ứng, Địa Ngục nói: "Thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài Tin Tướng Bồ tát du hành cảnh giới địa ngục, thấy có rất nhiều người bị quỷ sứ bắt quăng vào núi đao rừng kiếm, phanh da xẻ thịt, đau đớn vô cùng! Ngài về hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên, ác nghiệp gì mà họ lãnh thọ ác báo như thế?"

Phật nói: "Những người đó kiếp trước hay giết người, sát vật, treo móc, bằm chặt... làm chúng sanh đau đớn vô cùng không thể chịu nổi. Vì ác nghiệp ấy, nên mắc phải tội như thế".

Kinh Địa Tạng cũng nói: "Mẹ của Quang Mục vì ăn cá quá nhiều, nên mới bị đọa địa ngục".

Đó là lời dạy của Phật và Bồ tát, nếu ai không tin thì cứ giết. Trời, Phật, Bồ tát cũng không ngăn cản được, tới khi quả khổ đau chết chóc, nó đến rồi cho dù có khóc than kêu réo Trời, Phật, Bồ tát ơi, cứu con! Cứu sao nổi mà cứu? Chúng ta phải tự cứu lấy mình bằng cách là luôn luôn cảm nhận nổi thống khổ của chính mình, rồi nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh liền dừng tay thảm sát, thì làm gì có hoạn nạn khổ đau.

Kinh Pháp Cú nói:
  • Mọi loài sợ hình phạt
    Mọi loài sợ tử vong
    Lấy mình làm ví dụ
    Không giết, không bảo giết.
Hay là:
  • Dừng chân thì bóng chẳng theo
    Nhơn tay thì nghiệp chẳng đeo theo mình.
Trong Luật Nghi Khất Sĩ có dạy: "Ngày xưa, vào mùa Đông các nhà đạo đức từ tâm, bắt rận bỏ trong ống tre, phủ bông gòn cho ấm, cạo mồ hôi cho ăn, vì sợ chúng đói lạnh mà chết. Cho đến sự lược nước, vì sợ uống lầm giết mạng vi trùng. Sự che đèn vì sợ con thiêu thân uổng tử. Ấy là việc làm của người chứng đạo từ bi, loài nhỏ bé mà còn lòng thương xót bảo hộ dường ấy. Ta nay là người học đạo, lẽ nào lại đi giết hại hay sao?"

Có lắm kẻ tìm vui thích trên sự đau khổ của người khác, nuôi thân mạng mình bằng xương máu của các loài vật mà lại cầu cho được sống lâu, tự do, hạnh phúc. Đó chẳng khác nào gieo giống đắng cay mà lại mong trổ quả ngon ngọt, chuyện đó không bao giờ có?

Nên Bồ Đề Lão Tổ có dạy:
  • - Sát sanh cầu thọ: Ác lai ác báo.
    - Sát sanh cầu phước: Tai họa trùng lai.
    - Sát sanh cầu lợi: Lão lai thọ khổn.
    - Làm nghề cắt họng: Tự sát hủy mình.
    - Vào rừng săn bắn: Tai họa thình lình.
    - Nuôi thú bán con: Con cháu phân ly.
    - Thiến con lượm trứng: Tuyệt tử vô tôn.
    - Giết người hả giận: Chung thân thọ khổ.
    - Giết người đoạt của: Làm heo chín kiếp.
    - Dùng lửa hại người: Loạn tâm loạn trí.
    - Thuốc độc hại người: Oan gia chết yểu.
Càng tạo nghiệp sát là tự lao mình vào con đường sanh tử luân hồi thường mạng lẫn nhau.

Muốn tháo gỡ hận thù, oan trái, đọa đày, Phật dạy: "Phải mở rộng lòng từ bi, bố đức phóng sanh".

Từ là lòng thương yêu rộng lớn, bi là cứu khổ ban vui cho tất cả chúng sanh. Muốn có lòng từ bi trước tiên chùng ta phải giữ giới, ăn chay, hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ anh chị em, dòng họ, đồng bào, xã hội, vạn loại chúng sanh cho đến kẻ thù ghét và hãm hại mình mà vẫn thương được. Để trưởng dưỡng đạo tâm, giúp người, cứu vật trong lúc lâm nguy sắp chết. Nếu thấy mình có khả năng cứu người thoát chết thì phước đó vô cùng to lớn, còn hơn xây chín ngôi tháp thờ xá lợi Phật, hoặc thấy chim, cá sắp bị cắt cổ, nhổ lông, chặt kỳ, đánh vảy, ta nên xuất tiền ra mua chúng phóng sanh. Con chim vỗ cánh tung bay trên nền trời xanh, cá kia lượn mình tung tăng bơi lội giữa dòng nước sâu. Chúng ta thử tưởng tượng sự vui sướng của chúng biết là dường nào! Cho nên Phật tử, khi đã hiểu đạo, tự mình không giết hại, nếu thấy người ngoài hay con cháu sát sanh, hại vật, ta phải dùng lời khôn khéo khuyên nhắc họ phát khởi từ tâm, rộng ơn tha mạng, khiến cho đang lúc ngặt nghèo, bỗng trở nên yên vui, cám ơn ta vô cùng. Đời này không trả, kiếp sau chúng kết làm quyến thuộc bằng hữu tâm giao, tận tình ủng hộ mình làm nên sự nghiệp dễ dàng.

Thí dụ: Như mua bán mà gặp những chúng sanh đã thọ ơn mình trong hiện tại hay quá khứ, khi đi ngang qua gian hàng, nhìn thấy ta tự nhiên sanh tâm cảm mến vô mua một cách vui vẻ.

Trong Khế Kinh, Phật nói: " Sở dĩ ta đi đến đâu, tứ chúng đều kính trọng, là vì trong quá khứ họ từng thọ ơn ta. Hôm nay gặp lại tự nhiên sanh tâm kính mến, nguyện làm đồ chúng, hoan hỷ cúng dường nghe lời làm theo".

Nói đến chuyện khuyên người chớ sát sanh hại vật. Thuở Phật còn sanh tiền, mỗi khi thấy ai sát sanh hại vật, ngài liền đem lời lành khuyên nhủ. Điển hình như một hôm Phật cùng chư Tăng đang đi khất thực, Phật gặp một nhóm trẻ em đang tụ họp với nhau chơi đùa. Các đứa trẻ này đang hành hạ những con cua nhỏ mà chúng vừa bắt được dưới ruộng. Một đứa trẻ trong bọn chúng lấy bàn tay trái đè lên lưng con cua, tay phải bẻ một cái càng. Bọn trẻ reo hò vang dậy. Đứa kia thích chí, bẻ gãy một cái càng cua khác. Rồi bọn trẻ vỗ tay reo hò. Chúng chơi như vậy cho đến khi tất cả hai càng và tám chân của con của đều bị bẻ gãy hết. Rốt cuộc chúng liệng con của xuống ruộng rồi đi bắt con khác để chơi.

Thấy Phật và chư tăng đi tới, bọn chúng ngẩng đầu lên chào rồi lại cúi xuống chơi trò hành hạ mấy con của. Chúng tàn ác mà không biết là mình tàn ác. Phật bảo bọn trẻ ngừng tay. Ngài nói:

- Này các con, nếu các con bị trặc chân hay gãy tay thì các con có đau không?

- Bạch Phật, con rất đau ạ.

- Con cua bị các con bẻ gãy càng và gãy chân cũng đau đớn như hế đó. Các con có biết không?

Bọn trẻ im lặng, Phật nói tiếp:

- Con cua cũng biết ăn uống, nó cũng có cha mẹ, anh và chị em của nó như là các con vậy. Các con làm khổ con cua như thế, tức là các con đã làm khổ luôn cả cha mẹ và anh chị em của nó. Các con hãy suy nghĩ đi!

Bọn trẻ tỏ vẻ hối hận. Lúc bây giờ đức Phật và chư Tăng đứng quanh bọn trẻ, những người qua lại cũng đến xem. Nhân cơ hội này Phật dạy cả trẻ em lẫn người lớn về lòng từ bi. Ngài nói:

- Chúng ta phải làm sao để cho tất cả mọi loài đều được an ổn và có niềm vui trong sự sống. Chúng ta phải bảo vệ sự sống cho nhau và đem niềm vui cho nhau. Tất cả mọi loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay bằng bốn chân, dù bò trên mặt đất hay bay trên hư không, hoặc bơi lội trong nước, cũng đều có quyền sống. Chúng ta không nên đem tâm hận thù, sát hại nhau mà chúng ta phải biết che chở cho nhau.

Này các con, hãy ban rải tình thương yêu đến các loài vật, như bà mẹ đem thân mạng che chở cho đứa con yêu quý nhất của mình, mỗi người trong chúng ta phải mở rộng lòng ra để đón nhận và che chở cho tất cả các loài sinh vật đang có mặt trên, dưới, trong, ngoài và chung quanh ta. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, trái tim ta phải mang theo tình thương đó, và ta hãy an trú đêm ngày trong tình thương đó.

Dạy xong, đức Phật bảo bọn trẻ cùng ngài đem thả những con cua còn lại xuống ruộng. Rồi Phật cùng chư Tăng tiếp tục đi khất thực.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Cứu vật phóng sanh còn tăng thêm tuổi thọ.

Như trong kinh Hiền Ngu nói: "Thuở xưa, có hai thầy trò chú Sa di tu trên núi. Một hôm ông thầy nhập định, thấy chú Sa di sống không quá bảy ngày nên bảo đệ tử rằng: "Đã lâu rồi con chưa về thăm cha mẹ, hôm nay cho phép con về thăm nhà bảy ngày".

Chú Sa di nghe lời thầy về thăm cha mẹ, đúng kỳ hẹn trở về. Ông thầy ngạc nhiên hỏi: "Từ lúc con về nhà đến nay, có tạo được phước lành gì không?"

- Thưa thầy, khi con đi về dọc đường thấy một đàn kiến bị nước cuốn trôi, nhìn cảnh thương tâm ấy, con liền lấy một cành cây cứu chúng thoát nạn.

- Lành thay! Này con, cứu một chúng sanh thoát khỏi nạn chết, phước đước vô lượng. Đáng lẽ mạng sống của con đã hết, nhưng nhờ con biết phát tâm giải cứu vô sso sanh linh nên tuổi thọ được tăng lên. Vậy từ nay con hãy cố gắng phát huy tinh thần bất sát, cứu vật, giúp người để duy trì tuổi thọ làm lợi ích chúng sanh.

Chú Sa di kính cẩn ghi nhớ lời thầy dạy, thực hành, về sau trở thành một vị cao tăng đức độ sống lâu. Ngoài ra, phát tâm từ cứu vật phóng sanh còn hóa giải những căn bệnh hiểm nghèo.

Khế Kinh kể rằng: Vào thời đức Phật, ở thành Vương Xá có ông trưởng giả, một hôm lâm phải cơn bạo bệnh, chạy chữa rất nhiều danh y, nhưng bệnh tình không hề thuyên giảm.

Tôn giả Mục Kiền Liên quán sát thấy tiền căn của ông có duyên với Tam Bảo, nên một hôm ngài thân hành đến nhà ông ta nói rằng: "Sở dĩ, ông bệnh là vì đời trước và hiện tại hay dánh đập, sát sanh hại vật quá nhiều, nên nay mắc phải quả báo đau đớn như thế! Muốn hóa giải ác nghiệp ấy, hãy phát tâm cứu vật phóng sanh".

Trưởng giả nghe lời, xuất tiền ra mua vật phóng sanh, thời gian không bao lâu hết bệnh, con cháu lại thi đổ làm quan. Kể từ đó lòng tin càng thêm vững mạnh, trưởng giả phát tâm giữ giới ăn chay và phóng sanh cho đến lúc lâm chung được sanh lên cõi Trời.

Chuyện cứu vật phóng sanh từ thuở Phật cho đến nay đều có kết quả tốt.

Tiểu lại họ Trương vốn là người phụ tá cho quan huyện. Tính tình ông ôn hòa nhưng cương trực, ưa làm việc thiện, thường dùng số tiền lương của mình đến lò sát sanh, mua những con vật sắp bị giết đem về nhà để nuôi chúng. Về sau, đến tuổi về hưu, ông trở về sống với gia đình, mỗi khi thấy con vật nào chết, ông liền đem chôn cất tử tế. Những người hàng xóm thấy thế cho ông là một tên điên, nhưng ông vẫn thản nhiên, chẳng cần quan tâm đến họ. Ông thường dạy con cháu không được sát sanh và khuyên cả nhà ăn chay lạt.

Nhờ phúc đức cứu sống nhiều sinh vật nên sức khỏe của ông rất tráng kiện. Sống đến một trăm tuổi, con cháu ngày càng thịnh vượng. Một hôm ông cho gọi người nhà lại nói: "Cả đời ta phóng sanh rất nhiều, chứa đức sâu dày, hôm nay Thiên đế cho thiên sứ đến rước. Sau khi ta qua đời, các ngươi phải vâng theo lời di chúc của ta, không được sát sanh hại vật, cố gắng ăn chay làm việc thiện và cứu vật phóng sanh".

Nói xong, ông từ từ nhắm mắt. Lúc đó mọi người nghe trên không trung tiếng nhạc kêu vang, nghe rất êm tai, con cháu trong nhà đều ngước mắt lên xem. Thế rồi tiếng nhạc lần lần xa dần. Khi mọi người nhìn lại, thì thấy ông đã an giấc ngàn thu nhưng dung nhan vẫn như người còn sống. Tin ông từ trần loan đến triều đình, nhà vua phong cho ông tước hiệu Viên ngoại lang. Về sau con cháu nhiều đời đều hết lòng làm theo lời di chúc.

Chuyện trên cho chúng ta thấy, chỉ có cái âm đức ăn chay, giữ giới, phóng sanh, mới có thể làm tăng thêm tuổi thọ, lộc vị cho mình và con cháu ở hiện tại và vị lai được sanh lên Thiện giới.

Lý Cảnh là một người rất nhân từ, ông vốn không phải là giàu có gì, nhưng rất thích lấy việc phóng sanh làm thú vui tiêu khiển, nên ông thường ra bờ sông đi đến ngư phủ hỏi mua tôm cá... rồi đem tất cả phóng sanh. Nhìn thấy những con tôm, của, cá, tép, ba ba... bơi lội tự tại, trong lòng ông rất hoan hỷ.

Ông là người thích uống thuốc luyện đan. Một hôm trúng phải chất độc đan sa, nên ung nhọt phát sanh sau lưng không có thuốc gì chữa được.

Thế rồi trong một cơn đau ông hôn mê, mơ màng thấy các loài thủy tộc dùng nước bọt thoa vào mụt nhọt. Khi tỉnh lại ông cảm thấy mát sẻ, sảng khoái trong người lạ thường. Chất độc đã được giải trừ, không những sức khỏe của ông hồi phục mà thân thể còn tráng kiện hơn xưa. Nghĩ đến lòng tri ân của loài vật, tâm hồn ông dâng lên một niềm cảm động vô vàn.

Thế rồi, từ đó về sau, hằng ngày ông ung dung ra bờ sông với dáng vẻ hân hoan và tự tin, đi đến ngư phủ tiếp tục mua tôm cá... phóng sanh để làm niềm vui. Nhờ phóng sanh nên hưởng được tuổi thọ rất cao, không bệnh mà chết một cách an lành.

Cứu mạng sống của chúng sanh chẳng khác nào tự cứu mạng mình. Làm thiện chắc chắn có sự báo đáp của việc thiện, trường hợp của Lý Cảnh là một sự kiện đáng để cho chúng ta suy ngẫm.

Giữ giới không sát sanh, tu tập lòng từ, phóng sanh còn thoát khỏi ách nạn và bệnh dịch.

Đất Giang Tô, ở Nhuận Châu, cư dân sanh sống bằng nghề đánh cá, bắt cua, bắt ếch. Toàn thôn chỉ có Khổng bà giữ giới không sát sanh. Tuổi đã bảy mươi nhưng bà vẫn khỏe còn sức dệt vải kiếm tiền mua vật phóng sanh và thường khuyên người giữ giới không sát sanh. Dân chúng không nghe còn cười chê bà, nhưng bà vẫn tự nhiên, lấy sự phóng sanh làm niềm vui.

Càn Long năm Ất Mão, ngày chín tháng chín, Nhuận Châu vỡ đê. Nước tràn mênh mông, nhà cửa bị cuốn trôi, người chết vô số. Trước ngày ấy, Khổng bà dắt cháu lên núi lễ Phật, ở lại Ni am nên thoát nạn.

Dân làng ở Thái Hồ đều làm nghề săn bắn, lưới cá. Duy có nhà Thâm Văn Bửu cả nhà không làm, lại còn mua chim và cá đem phóng sanh.

Năm đó, có dịch khắp làng đều mắc bệnh dịch người chết quá nhiều, duy nhà Thẩm Văn Bửu là tránh khỏi, không ai hề hấn gì.

Những ai giữ giới không sát sanh thì mới có thể thoát khỏi tai ương. Chung cuộc, hễ ai làm việc tốt thì có sự báo ứng tốt, đó là định luật của nhân quả, nghiệp lực.

Lại nữa, phóng sanh còn thay đổi số phận.

Tại địa phương Cối Kê, có hai vị sĩ tử là Đào Thạch Lương và Trương Chi Đinh. Một hôm đi thi ngang qua chợ thấy có nhiều người nhốt vô số lươn để bán. Hai vị thấy thế sinh tâm thương xót, hùn tiền mua đem đi thả xuống sông.

Đêm đến, cả hai vị đều nằm mộng, thấy một đấng thần minh nói với họ: "Bấy lâu nay hai vị thi không đậu, nhưng hôm nay hai vị phát tâm phóng sanh công đức vô cùng thù thắng, cho nên ta báo tin vui cho hai vị biết sẽ thi đỗ khoa này".

Trải qua giấc mộng lạ lùng ấy, khiến hai người nữa tin, nữa ngờ. Nhưng quả thật như lời mách ấy là đúng vì cả hai đều thi đậu. Người có tâm từ thì bao giờ cũng có thần minh gia hộ.

Có người lại nói rằng: "Nếu mọi người đều làm việc phóng sanh, hoặc chẳng còn ai làm việc săn bắt thì các loài chim thú sẽ sanh trưởng tự do, lan tràn ra khắp chốn làm rối loạn cả môi trường, còn chỗ đâu cho con người sống?"

Để giải thích vấn đề đó. Nguyên Minh nói rằng: "Lời nói này mới nghe qua thấy hợp lý. Nhưng trong thực tế, mối đe dọa trước mắt hiện nay không phải quá đông các loài vật mà là nguy cơ phải vĩnh viễn chia tay với nhiều loại động vật. Nếu không có các biện pháp kịp thời ngăn chận thì hành tinh của chúng ta sẽ trở thành một hành tinh chết trong môi trường thiên nhiên bị phá hủy. Thật vậy, hiện nay có nhiều loài động vật quý đã mất hẳn. Hơn nữa, sự giết hại hàng loạt các loài động vật làm biến dạng nhiều cảnh quang xinh đẹp trong thiên nhiên. Nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận ra điều đó và đang mở rộng dần các khu vực bảo vệ tự nhiên, nghiêm cấm tuyệt đối mọi hành động săn bắt, giết hại trong khu vực ấy.

Và là cuối cùng thì con người đã nhận ra những sai lầm của mình trong việc phá hoại môi trường. Như thế để cho chúng ta thấy phải từ bỏ việc giết hại, nhanh chóng thực hành việc phóng sanh mới có thể mang lại kết quả tốt đẹp.

Phóng sanh thật dễ làm và mang lại lợi ích cho chúng ta rất lớn lao. Vậy mà có lắm người dù đã phát tâm phóng sanh nhưng họ không hiểu được ý nghĩa của nó cho nên khi nghe người khác phản bác, công kích thì lại đâm ra hoang mang, hoài nghi rồi từ bỏ không làm nữa.

Kẻ chê bai đã sai lầm mà người nghe chê bai ấy lại động tâm, bỏ việc đáng làm cũng rơi vào chỗ sai làm như họ. Thật là đáng tiếc thay!

Quý Phật tử nên biết, những kẻ chê bai, chỉ trích thường đưa ra lý lẽ, họ nói rằng: "Những kẻ săn bắt, buôn bán chim thú... là dựa theo nhu cầu của người mua mà cũng cấp, nay khuyến khích nhiều người làm việc phóng sanh, có khác nào gia tăng thêm việc săn bắt, mua bán? Chi bằng không gây nghiệp giết hại để tiền làm việc thiện khác tốt hơn".

Mới nghe thoáng qua dường như đúng nhưng cũng nên nghĩ lại, cho dù không có ai làm việc phóng sanh, họ cũng chẳng vì vậy mà không làm việc săn bắt chim thú, bởi mục đích chính của họ là bán cho người ăn thịt chứ không phải bán cho những người phóng sanh.

Bởi vậy, bắt giết có ác báo của việc bắt giết, phóng sanh có thiện báo của việc phóng sanh. Nếu họ vì sự phóng sanh của ta mà gia tăng thêm việc săn bắt, mua bán đó là do lòng tham của họ, không phải là do nơi thiện tâm của ta. Như vậy, ác nghiệp là do lòng tham của họ tạo ra, Còn ta làm việc phóng sanh là xuất phát từ tâm từ bi thì thiện nghiệp rõ ràng, không thể nghi ngờ gì nữa.

Vì thế, lời nói trên phải nói ngược lại: "Chính vì có nhiều người làm việc săn bắt, mua bán chim thú nên cần có nhiều người làm việc phóng sanh". Trong thực trạng hôm nay, mỗi ngày quanh ta đều xảy ra vô số cảnh chim trời, cá nước... mỗi ngày bị bắt giữ, giết hại rất nhiều, không sao đếm hết. Nếu những con vật sắp bị giết hại đó, chúng ta phát tâm từ tìm phương giải cứu, thả nó về với cuộc sống bình thường trong tự nhiên, dù chỉ một con hay nhiều con đều là thực hành việc phóng sanh. Như thế là ta đã tạo ra thiện nghiệp vô cùng to lớn.

Trong việc phóng sanh rất đơn giản. Ví dụ: trước đây hàng ngày ta ra chợ mua cá thịt về ăn. Hôm nay đã biết hồi tâm chuyển ý từ bỏ nghiệp giết hại, ăn thịt cá, chỉ mua rau quả về dùng và để dành tiền mua vài con cá còn sống rồi mang đi thả xuống sông, cứu nó thoát khỏi sự giết hại. Việc làm trước đây là ngày ngày gây thêm ác nghiệp, việc làm bây giờ là ngày ngày tạo thêm thiện nghiệp, hoá giải dần ác nghiệp.
  • Người lúc trước làm ác
    Sau ngưng không tái phạm
    Như trăng khỏi mây mù
    Chiếu sáng khắp thế gian
    .
    • Kinh Pháp Cú.
Tiếp thêm bước nữa, khi có điều kiện cho phép, ta có thể nỗ lực càng nhiều thì thiện nghiệp càng lớn, cũng như người làm ruộng gieo cấy càng nhiều thì thu hoạch càng nhiều.

Không chỉ có cá, tôm, tép, cóc, ếch, cua, rùa, chim, thỏ... mà bất cứ loài vật nào cũng đều có thể mua để phóng sanh. Chỉ cần cứu được chúng thoát khỏi sự giết hại là việc phóng sanh xem như đã thành tựu. Như thế thì việc phóng sinh quả thật rất dễ làm. Dù có nhiều tiền hay ích tiền, đều có thể làm được.

Muốn cho việc phóng sanh thành công tốt đẹp. Trước tiên phải pháp tâm từ, cảm thông nghĩ tưởng đến những con vật sắp bị giết hại mà thực hành việc phóng sanh. Nếu phóng sanh mà không xuất phát từ tâm từ bi thì việc làm đó không bền và dễ rơi vào chỗ sai lệch. Chẳng hạn, có một số người bỏ tiền ra mua vật phóng sanh để lấy tiếng tốt hoặc thấy thân hữu, bè bạn làm việc phóng sanh và kêu gọi mình đóng góp dù không thật lòng nhưng vì sợ người khác chê cười cho ta là keo kiệt mà làm vậy thôi. Người nào phóng sanh theo cách đó thì hôm nay họ phóng sanh con vật này, ngày mai lại ra tay giết con vật khác. Cái vòng lẩn quẩn giết tha, tha giết như thế rõ ràng không phải là ý nghĩa tốt đẹp của việc phóng sanh.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 13/04/14 05:08 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Một trong những sai lệch thường gặp khác nữa là người ta thường đợi đến những ngày có lễ hội, rằm, ba mươi, những dịp có đông người qua lại để làm việc phóng sanh. Vô tình để cho kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của ta mà thừa dịp nay họ đánh bắt nhiều hơn, giam nhốt những con vật trước mấy ngày để chuẩn bị bán kiếm được nhiều tiền.

Trong việc phóng sanh, chúng ta phải sáng suốt đừng để mắc vào những sai lệch như trên. Các loài chim, cá, thú rừng... bị bắt về để bán cho người ăn thịt ngày nào không có. Khi đã phát tâm làm việc phóng sanh thì chỉ sợ không có khả năng chứ không đợi ngày giờ, chỉ cần cứu sống được sanh mạng là ta tự thấy vui vẻ rồi.

Nếu chúng ta âm thầm làm việc phong sanh như thế thì những loài vật được cứu sống rất nhiều mà không kích thích lòng tham của kẻ săn bắt hay buôn bán chim thú... vậy chúng ta hãy phát tâm từ bi, tinh tấn phóng sanh. Đó là hành vi mạnh mẽ nhất để đối trị tập khí giết hại nhiều đời của chúng ta. Nếu không phát tâm ăn chay, phóng sanh thì tập khí giết hại kia vẫn còn đó. Nó luôn luôn thúc dục chúng ta gây tạo nghiệp sát ngày càng sâu nặng.

Công đức phóng sanh to lớn như thế, vậy mà có nhiều người chẳng những họ không phóng sanh, mà còn tìm đủ mọi cách ngăn cản người làm việc phóng sanh, thì tội của họ chẳng khác nào kẻ sát sanh đã hại hàng ngàn hàng vạn vật mạng vô phương được cứu, hàm oan mà chết, tội lỗi đó vô lượng vô biên, nhất định phải nên gấp rút sửa lỗi, sám hối. Nếu không thì địa ngục khổ hình chạy không thoát được.

Trong kinh Phạm Võng, Phật dạy: "Này Phật tử, phải đem lòng lành làm việc phóng sanh vì tất cả chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ của ta cả. Nếu giết mà ăn thịt tức là giết cha mẹ nhiều đời của ta vậy. Vì thế, phải thường làm việc phóng sanh". Khế Kinh có câu: "Làm lợi ích cho chúng sanh tức là cúng dường Phật".

Luận Trí Độ dạy rằng: "Chư dư tội trung sát nghiệp tội trọng, chư công đức trung phóng sanh đệ nhất".

Tại sao phải phóng sanh, phóng sanh tức là trả nợ sát sanh mà chúng ta đã tạo từ nhiều đời, nhiều kiếp đến nay. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì tận hư không cũng không thể dung chứa hết được". Trong kiếp này chúng ta đã tạo ác nghiệp quá nhiều, huống chi là nhiều đời nhiều kiếp, nên biết rằng luật nhân quả có nợ phải trả, có tội phải đền, nghĩ đến mình toàn thân đều là sát nghiệp, sao không kịp thời ăn năn sám hối, cố gắng phóng sanh hầu mong đền trả oan gia túc trái trong muôn một ư!

Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn Nguyện Công Đức dạy rằng: "Phóng chư sanh mạng, bệnh đắc từ vũ, chúng nạn giải thoát, phóng sanh tu phước, linh độ khổ ách, phất tào chúng nạn".

Phóng sanh có những công đước gì? Công đức Phóng sanh rộng lớn, vô lượng vô biện không thể tính đếm. Trong Khế Kinh nói: "Nếu người nào thường làm việc phóng sanh thời hưởng được mười phước báu như sau:
  1. Không có đao binh kiếp, tránh họa chiến tranh tàn sát.
  2. Trường thọ, khỏe mạnh, ít bệnh.
  3. Tránh được thiên tai, hoạn nạn.
  4. Con cháu đời đời hưng thịnh.
  5. Chư thiên gia hộ, sở cầu đều toại nghuyện.
  6. Quan lộc hưng thịnh, thuận buồm xuôi gió.
  7. Hợp lòng trời, chư Phật hoan hỷ, các loài vật cảm ơn.
  8. Giải oán, mở cừu, chư ác tiêu diệt, vô ưu, vô não.
  9. Hỷ khí kiết tường, bốn mùa an ninh.
  10. Sau khi thân hoại, mệnh chung sanh lên cõi trời hưởng nhiều phước báu. Nếu kim tu Tịnh Độ thì được vãng sanh Tây phương Cực Lạc".
Lòng từ còn nhiếp phục được tà thần, thứ dữ... làm cho ngoại cảnh được thanh tịnh, chư Thiên gia hộ, mọi loài yêu mến, tu hành dễ thành công. Chúng ta hãy xem qua câu chuyện sau đây, để thấy được năng lực nhiệm mầu của lòng từ.

Thuở Phật sanh tiền có một số Tỳ kheo đang tu tập trong rừng thường bị các loài thú dữ, thần cây và ma quỷ quấy nhiễu làm cho các ngài tu không được, liền về bạch Phật tìm phương hóa giải.

Phật dạy: "Các con nên khởi tâm từ đối với tất cả chúng sanh thì sẽ được an lạc".

Các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy, quay trở lại rừng tu tâm tâm từ, nhờ thế được chư Thiên gia hộ, quỷ thần quy phục, mọi loài yêu mến. Quý ngài yên ổn tiến tu cho đến khi chứng đắc đạo quả A la hớn.

Trong số các đệ tử Phật, tôn giả Tu Bồ Đề tu tập lòng từ rất nghiêm túc. Trước khi đi khất thực, tôn giả quán sát, nếu thấy có người nào nhìn ngài đi khất thực mà sanh tâm niệm ác thời tôn giả thà nhịn đói, chớ không đi, vì nhìn lại thuở quá khứ ngài sanh tâm niệm ác khi thấy một Tỳ kheo được thí chủ cung kính cúng dường. Do nghiệp ác đó, nên bị đọa vào địa ngục chịu nhiều thống khổ. Bởi thế, tôn giả thà chấp nhận nhịn đói, chứ không đi khất thực, vì sợ người ta sanh tâm hủy báng mà bị sa vào ác đạo như ngài thuở xưa. Tôn giả Tu Bồ Đề thường nói: "Nếu có người nào không bằng lòng cho tôi đứng, tôi sẽ ngồi hoặc chẳng hoan hỷ cho ngồi, tôi đứng mãi". Tôn giả vì thương xót chúng sanh, nên lúc nào cũng thực hành từ tâm vô ngại. Tấm gương trong sáng của tôn giả đáng để cho chúng ta noi theo.

Nói đến phước báu của lòng từ, trong Khế Kinh, Phật dạy: "Trong tiền kiếp, nhờ tu tập lòng từ, ta được sanh lên cõi trời Phạm Thiên, có oai đức tự tại, thống lãnh một ngàn cõi Phạm chúng, cho đến hôm nay thành Phật đều do lòng từ mà được".

Nhân đây Phật nói kệ:
  • Ban bố đức vô úy
    Đó gọi là từ thiện
    Với tất cả chúng sanh
    Nếu sanh được lòng từ
    Đặng phước báu vô lượng
    Giả sử như có người
    Đem thất bảo bố thí
    Và thành tâm cũng dường
    Chẳng bằng tu lòng từ
    Người đó sau khi chết
    Sanh làm trời Phạm Thiên.
Trong kinh Tăng Chi, Phật từng dạy chư Tỳ kheo: "Nếu người tu tập từ tâm thời hưởng được tám sự lợi ích:
  1. Không thấy ác mộng, thức ngủ yên vui.
  2. Người đời ái mộ.
  3. Chư Thiên, Thiên thần phù hộ.
  4. Không bị tai nạn về nước và lửa.
  5. Độc trùng, ác thú, thuốc độc không gia hại.
  6. Dứt sạch phiền não, hóa giải hết oan trái, oán thù.
  7. Mạng sống lâu dài.
  8. Sau khi thân hoại, mạng chung sanh lên cõi trời Phạm Thiên.
Muốn cho giấc ngủ an lành, mau thành chánh quả, trước khi đi ngủ, Phật dạy: "Phải tu tập từ bi quán".

Thế nào là từ bi quán?

Khế Kinh nói: "Thuở Phật còn tại thế, ngài thường khuyên bảo các hàng đệ tử phải hằng nghĩ tưởng đến những chúng sanh bị hành phạt khổ đau ở chốn dịa ngục... ngạ quỷ đói khát bức bách, súc sanh chịu cảnh dao thớt bằm chặt... A tu la đấu tránh chém giết... người thì Sanh Lão Bệnh Tử... Trời năm tướng suy hao... Tứ chúng phải khéo quán sát như thế, cho thấy rõ nỗi thống khổ của chúng sanh trong lục đạo, để nhắc nhở mình cố gắng tu hành thành đạo, cứu độ chúng sanh thoát khỏi cảnh sanh tử, đọa đày".

Quý vị nên nhớ, sau thời tụng kinh, niệm Phật, hành thiền, tu từ bi quán... nên thành tâm cầu xin chư Phật, Bồ tát từ bi cứu độ chúng sanh trong mười phương đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, tránh khỏi các điều rủi ro, tai nạn, bệnh hoạn, bao nhiêu khổ não, kinh sợ đều tiêu tán. Nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, kẻ âm đươc siêu, người dương thơi thới, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo. Quán nguyện được như thế, tâm từ mỗi ngày thêm tăng trưởng, thân tâm an lạc, giấc ngủ an hòa.

Còn những ai hay thấy ác mộng là vì trong hiện tại hay quá khứ sát sanh hại vật, gây oan trái quá nhiều, khiến cho những oan hồn uổng tử nó theo báo oán. Muốn hóa giải oan trái ấy, phải quy y Tam Bảo trì trai, giữ giới, cúng dường, bố thí, phóng sanh, tụng kinh, niệm Phật, trì chú vãng sanh, nguyện đem công đức lành hồi hướng đến những vong linh oan trái với mình, sớm được siêu sanh Tịnh Độ. Phải tu như vậy mới hóa giải nổi.

Khi lòng từ được thuần hóa, xung quanh mình nó tỏa ra những điển lành, ai nhìn thấy cũng đều kính mến, nên làm bất cứ việc gì đều được thành tựu tốt đẹp. Còn người nào cứ mãi chất chứa những phiền não, sân si, ganh ghét, đố kỵ thì trong thân ta phóng ra những trược khí, hỏa điển làm cho người chúng quanh cảm thấy khó chịu khi giao tiếp với mình. Ngay đó, việc làm ăn thường thất bại.

Thí dụ: Như người bán hàng mà an nói cộc cằn, thô lỗ, thì thử hỏi ai dám đến mua. Cho nên người Trung Hoa nói: "Bí quyết mua may bán đắt, là gương mặt phải vui tươi, lời nói êm dịu, chân thật, nhiệt tình, ân cần với khách, mới làm ăn lâu dài được". Đối với chúng ta là người tu lại cần nhẫn nại ôn hòa hơn, mới hướng dẫn người ngoài vào đạo được. Ngược lại, nếu cứ mãi chất chứa những phiền não trọng trược thì chẳng hóa độ được ai.

Nói chung, muốn cho lòng từ bi được thành tựu tốt đẹp, trước tiên chúng ta phải ăn chay, giữ giới... mỗi khi thấy nghe người và vật lầm vào cảnh khổ, liền tìm phương cứu giúp một cách bình đẳng, làm cho chúng sanh hết khổ được vui là mình mừng, không mong cầu chi hơn, nguyện may thành Phật cứu độ chúng sanh. Được như thế, mới phù hợp với bản ý và lời dạy của Phật, nếu không sẽ rơi vào trạng thái thương yêu vị kỷ hẹp hòi do lòng ái nhiễm gây nên khổ đau. Quý vị hãy cùng tôi suy nghiệm qua mẫu chuyện sau đây sẽ rõ.

Thuở Phật còn tại thế, Mạt Lợi phu nhân là tín nữ thuần thành. Một hôm vua Ba Tư Nặc ngồi đàm đạo với bà.

Vua hỏi:

- Này ái hậu, Trẫm nghe Phật nói: "Ái là gốc khổ đau". Ta không chấp nhận, vì ái đem đến khoái lạc cho con người.

- Bệ ha nói Ái là khoái lạc. Vậy thần thiếp xin hỏi: "Trong nước có thiên tai, dân chúng lâm nạn chết chóc, khi đó bệ hạ có khổ không?"

- Trẫm chỉ buồn chứ không khổ.

- Giả sử con gái mình là cành vàng lá ngọc, nó chết, bệ hạ có khổ đau không?

- Sao hậu nói thế! Con mình chết là không khổ đau sao được?

- Chính ái là gốc sinh ra ưu, bi, khổ, não. Bệ hạ không thấy sao?

Vua Ba Tư Nặc nghe qua liền tỉnh ngộ nói: "Nhờ ái khanh giảng giải, trẫm mới hiểu lời Phật dạy, thật là hữu ích!"

Thành ra, lòng từ phải có trí huệ bình đẳng, vô ngã, vị tha mới đạt đến cảnh giới từ tâm tam muội, hóa giải hết phiền não, oan trái hận thù, khổ đau đem lại an lạc giải thoát cho mình và chúng sanh.

Nên có một bài thơ ca ngợi lòng từ như thế này:

  • Lòng từ đẹp tợ như gương
    Không pha ác cảm, không vương hận thù
    Thơm như hoa huệ sương thu
    Nhờ lòng cao thượng người tu hạnh từ.
Hay là:
  • Đường vạn nẻo, đường đời đầy cát bụi
    Nhưng ai ơi còn một nẻo vinh quang
    Có trăng vàng bác ái đượm tình thương
    Có suối ngọt dương chi lờ lững chảy
    Có giống cây từ bi muôn vạn trái
    Có hoa thơm hỷ xả ngát hương thơm
    Có con thuyền Bát nhã độ nhân sinh
    Vượt bể khổ đưa người về bến giác.
Có nhiều người nói, nếu như cái gì cũng từ bi hết. Thử hỏi nhà nông làm ruộng mà không xịt thuốc sâu, mò bắt chim chuột... thì nó phá hại hết mùa màng, lấy cơm đâu mà ăn? Hơn nữa, những loài hung dữ như hùm, beo, sư tử, rắn rết... mình không giết nó, nó cũng hại mình.

Quý vị nói như thế, chỉ đúng về mặt thế gian tranh đấu để sinh tồn, nhưng trái ngược tinh thần từ bi.

Phật dạy: "Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo". Nếu người nào chấp cái thân này là thật rồi giết hại các loài sinh vật để bảo vệ mạng sống, thì sau khi chết phải sanh trở lại chịu cảnh trả vay giống như ai mến nhà tiếc của, đi đâu rồi cũng trở về nhà, chấp cái thân này, phải trở lại thọ lấy thân sanh tử chớ không thể thành Phật, Thánh, Tiên được. Không cần suy diễn nhiều quý vị hãy xem mẫu chuyện trong kinh Pháp Cú thí dụ sau đây thời sẽ rõ.

Thuở Phật còn trụ thế, ở thành La Duyệt Kỳ, một hôm có hai thầy Tỳ kheo cùng đi sang nước Xá Vệ viếng Phật, nhưng gặp năm hạn hán, đường đi xa xôi, bao nhiêu lương thực, nước uống mang theo lần hồi hết sạch. Trong lúc nguy cấp, đói khát cháy cổ, chân tay bủn rủn, bỗng thấy một cái hồ, dưới đáy còn đọng lại ít nước, hai thầy vui mừng quá, liền xuống định múc uống. Nhưng than ôi! Trong nước toàn là côn trùng không biết tính làm sao? Nếu uống thì phạm giới sát sanh, không uống phải chết. Thầy nhỏ nói, mình nên uống để duy trì mạng sống, đi đến viếng Phật, nghe pháp. Thầy lớn tự nghĩ, mình đã thọ giới bất sát, nếu uống thì phạm giới còn mặt mũi nào nhìn Phật, cho nên chấp nhận chết. Người thầy nhỏ thấy người bạn đồng hành lìa trần, trong lòng vô cùng buồn bã, cất bước lên đường. Khi đến nơi gặp Phật, liền đem câu chuyện đau lòng đó, thuật lại và hỏi: "Bạch đức Thế Tôn! Chẳng hay người bạn của con sanh vào chốn nào?"

Phật đáp: "Bạn của ngươi, nhờ giữ giới thanh tịnh, nên sau khi chết, tức khắc sanh làm chư Thiên có oai đức tự tại, trước thấy ta rồi. Còn ngươi, vì mê chấp cái thân giả tạm nên phải chịu cực khổ, vất vả và lặn lội đến nay mới tới, tuy đứng gần bên ta, nhưng cách xa ngàn dặm". Nhân đó, Phật dạy: "Thân này là bất tịnh, do tứ đại giả hợp, chớ có tham mến mà gây ra ác nghiệp, phải lợi dụng nó mà làm lợi ích cho chúng sanh. xả thân cầu đạo mới mong sanh về cảnh giới an lành thành Phật".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lại nữa, giữ giới không sát sanh sẽ có công đức rất lớn, chú nguyện việc chi đều được thánh tựu tốt đẹp.

Như vào thời đức Phật, một hôm Sư Ahimsaka đang đi khất thực, sư gặp một thiếu phụ nghèo đang lâm bồn dưới một cội cây ở lâm viên. Thiếu phụ đau đớn vô cùng mà không sanh nở được. Sư xúc động quá, liền về bạch Phật tìm phương cứu giúp.

Phật bảo: Sư hãy đi mau tới thiếu phụ kia rồi thành tâm nói như vầy: "Này cô, từ ngày tôi xuất gia trong giáo pháp giác ngộ đến nay, tôi chưa bao giờ cố ý xúc phạm đến sanh mạng của một loài nào. Nguyện nhờ công đức lành này mà cô sanh cháu được bình an".

Lập tức sư Ahimsaka đi nhanh tới khu lâm viên nói với người thiếu phụ đúng theo lời Phật dạy. Chỉ một vài phút sau đó, thiếu phụ sanh được em bé bình an.

Song nghiệp sát thật là khó giữ, vì sự ăn uống hàng ngày, người ta phải sát sanh, hại vật, có ý hay vô tình sát hại biết bao sinh vật chết thảm. Cho dù biết rằng, sau này phải bồi thường sanh mạng chịu nhiều thống khổ nhưng họ vãn làm!

Trong kinh Địa Tạng dạy: "Tất cả cử chỉ động niệm của chúng sanh đều gây thành nghiệp". Mỗi bước đi, từng hớp nước có vô số vi trùng phải hy sinh vì mình, cho nên ngài khuyên chúng ta cố gắng bố thí, phóng sanh, lập công bồi đức, hóa giải bớt oan nghiệp. Để có các hàng đệ tử không tạo nghiệp sát, kinh Niết Bàn dạy: "Thời kỳ đầu Phật tạm dùng phương tiện cho ăn ngũ tịnh nhục:
  • Không thấy con vật bị giết.
  • Không nghe tiếng kêu la của chúng.
  • Không nghi người ta giết cho mình ăn.
  • Con thú tự nó chết.
  • Con thú này ăn thịt con thú kia còn dư.
Đó là năm thứ thịt, để cho người sơ cơ mới bước đầu vào đạo, chưa quen ăn chay, tạm dùng như thế. Đến thời kỳ thứ hai, Phật cấm hẳn không cho ăn thịt bất cứ trường hợp nào. Vì người ăn thịt đoạn mất căn lành, không thể thành tựu đạo quả Bồ đề.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói: "Những người ăn thịt dù được khai ngộ nhưng đến khi hết phước báo, ắt phải chìm trong biển khổ, chẳng phải là đệ tử của ta".

Kinh Lăng Già, Phật dạy:"Này Mahàmati, thức ăn của người trí không phải là thịt và máu. Do đó, thịt của trâu, chó, bò, heo, gà, vịt, tôm, cá... hoặc là thịt của bất cứ chúng sanh nào khác, vị Bồ tát không nên ăn. Này Mahàmati, vị Bồ tát an trụ trong Đại bi, thương chúng sanh như đứa con độc nhất, cho nên phải kiêng ăn thịt".

Lời đức Phật nói quả thật là đúng, làm sao người có lòng đại bi mà ăn thịt chúng sanh được?

Trước khi Phật nhập Niết Bàn, ngài vẫn còn căn dặn: "Này Ca Diếp, bắt đầu từ nay trở đi, Như Lai không cho phép hàng Thanh văn đệ tử ăn thịt. Nếu đàn việt dâng thí, phải xem thịt ấy như là thịt của con mình. Như Lai cấm các hàng đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt" (Kinh Đại Bát Niết Bàn).

Ngoài việc không sát sanh và ăn thịt ra, chúng ta còn phải tránh những nghề ác. Trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Phật dạy: "Những nghề ác không nên làm như là nghề đồ tể, nghề buôn bán súc sanh, nghề mua bán cung tên, đao kiếm, súng đạn, nghề bán rượu, nghề bán men, nghề nuôi heo, nghề nuôi gà, nuôi cá, bắt cá, săn bắn, bẫy chim, bắt trăn... Nghề coi ngục, nghề đánh giặc mướn, làm giặc..."

Tại sao đức Phật không cho các hàng Phật tử không được nuôi các loài vật. Nuôi vật, một là phạm tội nhốt chúng, hai tạo điều kiện cho người ta giết hai ăn thịt.

Ngoại trừ trường hợp như ông Tiểu lại họ Trương đến lò sát sanh, mua các loài vật sắp bị giết đem về nhà nuôi chúng cho đến chết rồi đem đi chôn thì được, nếu nuôi để giết hại, ăn thịt và bán thì không được.

Nói đến quả báo của nghề ác, ở Trấn Nam Tường Gia Định, có người dân tên Thái Lục, lâu nay lấy nghề giết chó làm kế sanh nhai. Một hôm vào lúc hoàng hôn, Thái Lục giết một con chó rồi định đem nước sôi rưới lên mình nó để cạo lông thì đột nhiên cảm thấy mắt mờ, tai ú, tâm thần hoảng loạn. Khi đó con chó đang nằm thở thoi thóp sắp chết bỗng nhiên đứng lên dùng hết sức lực cắn vào cánh tay Thái Lục không chịu buông. Thái Lục đau đớn ngã xuống đất, kêu gào thảm thiết.

Tiếng kêu bi ai của ông kinh động đến nhà hàng xóm. Mọi người xúm lại, lấy cây cạy răng con chó ra. Nhưng răng ngập sâu vào thịt, không cách nào kéo ra được. Do vậy, Thái Lục đau đớn nằm lăn qua lăn lại trên mặt đất, nước mắt đầm đìa, phẫn tiểu bắn ra, toàn thân rũ liệt, hai trong mắt trợ ngược, trông phát khiếp. Thế rồi ông kêu rú lên một tiếng như chó sủa, nghe rất thê thảm rồi trút hơi thở cuối cùng, chết một cách tức tưởi.

Câu chuyện Thái Lục giết chó, bị chó cắn chết dần dần được truyền đi khắp nơi, những người trong trấn bàn tán xôn xao. Sự việc này xảy ra, lòng người càng tin chắc lý nhân quả, làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác. Kể từ đó, khi nói đến chó mọi người đều biến sắc mặt, không còn ai dám ăn thịt cho nữa.

Kỷ Hiểu - Sùng Tiên sinh Bút ký có chép: Vợ chồng họ Cổ làm nghề giết bò. Về sau ông chồng đau mù cả hai mắt. Vợ thì bị bệnh da thịt cứ lở loét, chạm vào quần áo, đau đớn vô cùng. Ngày đêm rên la, một tháng thì chết.

Thế mới biết những kẻ ưa sát sanh, thường bị chết thảm; cho nên việc "nhân quả báo ứng" hoàn toàn không phải là chuyện bịa đặt.

Trong quyển Hồi Hương Bút Ký có một đoạn mô tả như sau:

Vào đời Thanh Tuyên Tông, năm Đạo Quang ở huyện Đào Khê, có một kẻ chuyên nghề mổ thịt trâu đem bán mà mọi người ai cũng biết. Đó là Phạm Đăng Sơn suốt đời giết hại không biết bao nhiêu con trâu vừa đem bán, vừa để ăn. Một hôm trên không bỗng nhiên mây đen tụ lại, trời đất tối sầm, rồi nước gió nổi lên dữ dội sấm chớp vang rền. Ngay lúc ấy sét đánh trúng Phạm Đăng Sơn nhưng y không chết, song mặt mày cháy nám, dạ thịt cuộn lại, đau đớn rên la, kêu rống lên một cách thê thảm, hai mắt đẩm lệ trợn lên như sắp lồi ra ngoài.

Do lửa đốt nên da thịt nức nẻ, anh ta dùng tay cào những chỗ thịt bị rã nát, vò lại rồi bỏ vào miệng. Vừa ăn vừa nói: "Thịt trâu ngon quá!" Trải qua chừng vài tháng rồi tắt thở. Những người chứng kiến cảnh ấy ai nấy đền cảm thấy lạnh xương sống.

Nên biết rằng: Sự báo ứng của nghiệp sát sanh hết sức là nghiêm trọng, mà quả báo của nghiệp giết trâu, bò, chó lại càng nghiêm trọng hơn. Vì chúng có công với người đời, tại sao lại nhẫn tâm giết nó để bán và ăn thịt.

Vào năm Ung Chính thứ mười, đời Thanh, tại huyện Quỳ Hưng có một ngươi họ Ngụy làm nghề bắn chim. Những con chim bắn được ông đem bán hoặc giết để ăn thịt vô số kể. Ông cũng bắt lươn, cá, rùa, rắn, ếch, nhái; thậm chí còn thuốc cá, phá hủy ổ chim... chẳng có việc ác nào mà y không làm.

Có người hiền trí thấy thế, khuyên ông: "Này ông Ngụy nên đổi nghề sát sanh đi làm ruộng hoặc chọn một nghề chân chính nào đó mới tốt".

Ông Ngụy chẳng những không nghe mà còn oán thiên hạ là lắm chuyện. Lâu ngày chầy tháng, tội nghiệt của ông càng lúc càng sâu nặng. Sau cùng, ông mắc một chứng bệnh khắp người nổi những bọc nước lớn như trứng bồ câu, da tiêu, thịt rữa, nằm trên giường đau đớn kêu la thảm thiết. Mang bệnh ác nghiệt như thế trong ít ngày rồi ông ta chết.

Sau khi ông chết, hoàn toàn tuyệt tự không có một đứa con nối dõi.

Nghiệp sát quá nặng, tất nhiên phải chuốc lấy tai ương, thế nên mọi người hãy suy gẫm mà tránh xa việc sát hại chúng sanh.

Đất Giang Tô ở ngoại thành Dương Châu có người làm vườn tên là Cửu Tứ Lục. Một hôm y thấy tổ kiến vàng liền đi vào nhà bếp, xách ra một xô nước nóng đang sôi sùng sục đổ ngay xuống ổ kiến. Hỡi ơi! Kiến chết vô số. Tứ Lục thấy thế cười khà khà tỏ ra đắc ý.

Tháng tám năm sau, y nằm mộng thấy có vô số kiến bò đến cắn khắp thân mình. Khi tỉnh dậy, quái lạ thay toàn thân y nổi lên rất nhiều chấm đỏ, rồi biến thành bọc nước, làm cho y đau đớn vô cùng, kêu khóc vài ngày rồi nhắm mắt lìa đời, vô phương cứu chữa.

Kiến tuy nhỏ nhưng cũng có ham sống, sợ chết như người không khác. Thỉnh cầu đại chúng mở rộng lòng từ bi bảo hộ chớ có tàn hại.

Vào thời đức Phật, có một anh đồ tể tên Chuân Đá làm nghề mổ heo. Một hôm anh ta mang một chứng bệnh kỳ quái, miệng mũi lúc nào cũng tuôn ra máu mủ, đau đớn tột cùng, sớm chiều cứ nằm trên giường rên la bi thảm như tiếng heo bị thọc huyết.

Một hôm, Phật cùng A Nan đi khất thực ngang qua bỗng nghe từ trong nhà anh ta vang lên tiếng kêu kinh hãi.

Tôn giả A Nan hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tiếng kêu đó của người hay vật mà nghe ghê gớm quá vậy?

- Này A Nan, đó là tiếng kêu của người đồ tể Chuân Đá, chuyên thọc huyết heo, làm cho chúng sanh đau đớn thấu trời, thấu đất không thể chịu nổi. Do nhân duyên ác nghiệp ấy nên mắc tội khổ như vậy.

Nhơn đó Phật dạy: "Sát nghiệp rất nặng. Khi chết bị đọa vào địa ngục, thọ ngàn vạn khổ hình. Mãn hạn chuyển làm súc sanh. Nợ máu phải hoàn đền. Trăm kiếp, ngàn đời khó có ngày dứt".

Lâm Đạo Trưởng nói: "Người đời tàn nhẫn đã thành thói quen, sát sanh, ăn thịt, tích lũy lâu ngày đã quá sâu dày, tổn giảm phước đức. Tiếng kêu bi ai đầy oán hờn của con vật, khiến cho họ gặp nhiều cảnh thiên tai, địa ách, bệnh hoạn, đói khát, giặc giã, đao binh... cướp đi mạng sống của họ. Đó là báo ứng tự nhiên của trời đất".

Nên biết rằng, nghiệp sát càng nặng thì quả báo càng thê thảm. Vì thế, những người làm nghề sát sanh, hại vật hãy mau thức tỉnh, nhanh chóng rửa tay đổi sang nghề lương thiện, hãy ăn năn, sám hối, ăn chay, niệm Phật, bố thí, phóng sanh, vun trồng cội phúc để đền bù lại những tội lỗi đã qua, mới mong tránh khỏi những tai họa cho con cháu sau này.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Quý Phật tử muốn khi chết được an lạc thì chịu khó giữa giới không sát sanh, ăn chay, phóng sanh. Phần nhiều người ta chỉ thích cúng dường, bố thí, ít ai để ý đến việc phóng sanh. Quý Phật tử nên biết cúng dường, bố thí kiếp sau hưởng dược cảnh giàu sang chớ không hóa giải nổi nghiệp sát sanh. Muốn hóa giải nghiệp sát, chỉ có cách trì trai, giữ giới phóng sanh, mới có thể hóa giải dần sát nghiệp. Nếu không, khi nghiệp sát trổ quả phải lãnh thọ ác báo bệnh hoạn, tai nạn, nằm liệt giường... muốn sống chẳng đặng, cầu chết cũng không xong. Cho nên trong kinh Phật dạy chúng ta hãy lợi dụng lúc quả dữ chưa trổ, mình nên cố gắng làm nhiều việc thiện, háo đức phóng sanh để chuyển hóa ác nghiệp. Nếu không, khi ác nghiệp đến rồi muốn tu hành làm lành thì không còn kịp nữa!

Có nhiều người lúc bình thường, quý sư khuyên giữ giới, ăn chay, phóng sanh... họ không màng đến. Đợi khi chết chóc, khổ đau tới, mới thức tỉnh phát tâm tu hành, phóng sanh... thì thật quá muộn màng! Vì vậy, ngoài việc cúng dường, bố thí ra chúng ta cố gắng đem hết khả năng của mình cứu vật, phóng sanh để chuộc lại những lỗi lầm mà mình đã lỡ tạo ra, có như vậy mới mong khi chết được nhẹ nhàng, an lạc.

Nhân quả, tội phước rõ ràng như thế vậy mà có mấy ai để mắt nhìn vào. Có nhiều người đến chùa, tôi đưa kinh và băng thuyết pháp cho họ xem, nghe cho thấy rõ nhân quả tội phước, làm lành lánh dữ để tránh quả báo xấu về sau. Họ trả lời rằng: Con không dám xem kinh, nghe pháp, vì khi xem, nghe rồi thấy làm việc chi cũng đều có tội!

Tôi nói, thật ra nghề lương thiện rất nhiều điển hình như thợ may, thợ mộc, thợ hồ, mua bán lương thiện v.v... Tại quý vị chê tiền ít không làm. Chúng ta nên nhớ, cho dù có kho vàng, núi bạc... thử nghĩ khi ác báo tới, rồi bị bệnh hoạn, tai nạn, oan gia đòi mạng, tử thần gõ cửa. Khi đó đem theo được gì ngoài hai chữ tội và phước. Đến khi ấy ăn năn đã quá muộn màng.

Lại có người nói: Con bận công chuyện suốt ngày không có thì giờ xem kinh nghe pháp. Tôi nói: Quý vị không có thời giờ xem kinh, nghe pháp, chớ có thời giờ xem phim, nghe nhạc, đi chơi, đọc sách nhảm nhí, ngồi nói chuyện thị phi.

Thật sự mà nói, tại quý vị không thích nên mới trả lời như vậy, chớ khi đã muốn rồi thì môi trường nào cũng có thể xem kinh, nghe pháp được.

Có nhiều người thấy nhiều đáng thương, lúc bình thường thì chẳng lo tu, đến khi hoạn nạn, khổ đau đến thì vô chùa van vái trời Phật và than thở với quý Sư rằng: "Thưa sư, cuộc đời con sao khổ quá, hết bệnh hoạn tới tai nạn, lo âu buồn phiền... cứ xảy ra mãi, không có lúc nào để cho con được yên thân. Cho nên có nhiều khi con muốn chết cho rồi".

Sở dĩ chúng ta khổ là vì đời trước và hiện tại không biết lo tu, hàng ngày cứ mãi sát sanh, gieo đau đớn đến các loài vật và làm phiền lụy biết bao người chung quanh. Vì thế khổ trước chưa nguôi, sầu sau đã tới. Các bậc Thánh mỗi ngày ít nhất là làm cho một chúng sanh được an vui. Còn chúng ta hết làm khổ người tới vật cho nên khổ mãi là vậy.

Châm ngôn nhà Phật có câu: "Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Bồ tát là bậc giác ngộ thấy rõ thập ác, là nhân của khổ đau, quý ngài sợ hãi chăm tu thập thiện, hành lục độ...

Còn chúng sanh là những người si mê, gieo nhân thập ác, đến khi quả khổ đau đến thì kinh hoàng khiếp sợ van xin cầu cứu. Đó là nói lên tính mê muội của con người, được gọi là chúng sanh sợ quả khổ mà không tránh nhân xấu.

Chúng ta sống trong cảnh giới Ta bà này chẳng khác nào ở trong một biển khổ bao la. Trong cái biển khổ bao la này chúng sanh tàn sát não hại lẫn nhau, chẳng khác nào ở chốn địa ngục. Quý vị vô nhà thương, khám đường, những nơi chiến trường và lò mổ gia cầm, đó là địa ngục trần gian, nói gần một chút nữa, nhà bếp của chúng ta là địa ngục, đao sơn, hàng ngày chúng ta biến mình thành quỷ sứ, đập đầu, cắt cổ, lột da, bằm chặt, chiên xào, nấu nướng các loài vật, thì có khác gì quỷ sứ hành hình những tội nhân ở chốn địa ngục.

Trong cái biển khổ mênh mông này có mấy ai giác ngộ lo tu hành, cứ mãi chạy đuổi theo danh lợi, họ tranh chấp lừa dối, dùng mọi thủ đoạn để hãm hại lẫn nhau và thẳng tay tàn sát các loài vật, để thỏa mãn lòng ham muốn của mình. Càng ham muốn thì càng lún sâu vào tội lỗi, như thế là mỗi ngày họ lại tiếp tục gây tạo thêm ác nghiệp chất chồng thì sớm muộn gì cũng lãnh lấy quả báo đau thương.

Để tránh ác báo, trong Khế Kinh nói: "Thuở xưa Phật dạy tín nữ Mạt Lợi. Phải thường khởi lòng từ đối với tất cả chúng sanh, không làm nghề ác, xa lìa sát sanh, hại vật, cố gắng tập ăn chay kỳ, tụng kinh, niệm Phật, cứu giúp mọi loài, lần hồi tiến lên cho đến khi trường chay bất sát".

Là Phật tử, ai ai cũng biết không sát sanh ăn thịt, trường chay bất sát là điều tốt nhưng khi thực hành, vì con người đã có thói quen sát sanh ăn thịt từ thuở còn nhỏ nên bỏ ăn thịt rất khó. Không bỏ được phải làm sao? Chuyện này cần phải quán tưởng những điều sau đây:
  • a. Lo sợ gặp phải chiến tranh:
Xin hỏi mọi người có sợ chiến tranh xảy ra không? Nếu sợ khi đặt chén thịt trước mặt mình, nên quán: Lúc con vật bị giết, nó sợ sệt giống như con người sợ chiến tranh chết chóc đến vậy. Vì muốn tránh cảnh chiến tranh, tôi dứt khoát không ăn chén thịt này.
  • Sợ bị bắt trói khi giặc cướp đến:
Quán tưởng bước hai. Một mai chiến loạn xảy ra, giặc đến, nhân dân bị bắt trói, thật là đáng sợ. Khi đó nên quán tưởng: Chén thịt này, con vật lúc bị người mua bắt trói dắt đi làm thịt, hình ảnh kêu gào của quyến thuộc chúng nó thật đáng tội nghiệp. Vì để tránh sự bị bắt trói bởi giặc giã, làm cho gia đình ly tán bi thương, tôi dứt khoát không nỡ ăn chén thịt này.
  • Chính mình bị giết:
Quán tưởng bước thứ ba: Giả sử thân ta khi sắp bị người khác giết, bản thân mỗi người có muốn hay không? Lúc này nên quán tưởng: Sự đổ máu đau đớn của con vật khi bị đập đầu, cắt cổ, bằm xắt, hầm nấu, chiên nướng. Để tránh thân mình khỏi bị kẻ khác giết hại, bằm xắt, chiên nấu... chén thịt này tôi thật không dám ăn.

Nếu quán tưởng được ba pháp quán này, không những chúng ta chẳng muốn sát sanh, ăn thịt nữa, mà còn "Phát lồ sám hối" những hành vi bất thiện của mình trong quá khứ và hiện tại, đồng thời phát tâm Bồ đề thành kính cầu xin chư Phật và Bồ tát gia hộ cho mình được đạo tâm kiên cố, trì trai, giữ giới, bố thí, phóng sanh, cứu độ mọi loài để chuộc lại những lỗi lầm mà mình đã lỡ tạo ra.

Có một quán cơm chay, treo một câu đối rất hay: "Người ăn chay thiên hạ giết nhau, ta không bị giết". Nghĩa là, người ăn chay hàng vạn chúng sanh bị giết trong đó không có ta. Ăn chay công đức quả thật vô cùng thù thắng, vậy mà có nhiều người không hiểu ý nghĩa ăn chay, họ ăn theo thời cuộc, ăn như vậy sẽ không tăng trưởng tâm từ và bỏ dở giữa chừng. Muốn ăn chay bền phải vì lòng từ phát tâm ta ăn chay mới lâu dài, hưởng nhiều phước lành.

Trong kinh Bát Nhã, Phật dạy: "Các hàng đệ tử phải tinh tấn tu trì pháp thập thiện, đối với các sinh vật thường khởi tâm từ bi, cứu khổ, ban vui".

Lời Phật dạy như thế, vậy mà có nhiều người chẳng những họ không biết ăn chay, tụng kinh, niệm Phật làm lành lánh dữ, trái lại khi thấy người thân trong gia đình hay người ngoài ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, họ không khuyến khích, khen ngợi còn hủy báng và tìm đủ mọi cách ngăn cản phá hoại, cho nên trong kinh Địa Tạng nói: "Nếu người nào ác tâm khinh khi, chê bai, ngăn cản, vu báng người tu hành, thì ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong loài súc sanh".

Nói tóm lại, chúng ta phải biết sợ ác báo mà cố gắng giữ giới không sát sanh. Muốn không sát sanh, cần tu tâm từ, muốn có tâm từ phải ăn chay, thương người mến vật, cứu giúp mọi loài... Giữ giới ăn chay cũng là mọt cách phóng sanh, trưởng dưỡng tâm từ, nêu gương cho đời. Được như vậy, mới tránh khỏi cái họa bồi thường thân mạng, xương thịt, máu huyết. Lòng từ mỗi ngày thêm mở rộng, thân tâm thanh tịnh, phát sinh trí huệ, đạo quả chóng viên thành. Có như vậy, mới mong kiến tạo một thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc.

Đúng như lời Tổ dã dạy:
  • Tất cả chúng sanh không nghiệp sát
    Mười phương thế giới khỏi đao binh
    Mỗi nhà, mỗi nơi đều tu thiện
    Thiên hạ lo chi chẳng thái bình.
Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa nghiệp sát, thời thành tựu mười pháp không còn bức não:
  1. Đối với chúng sanh cùng khắp, bố thí đức vô úy.
  2. Thường khởi lòng đại từ với các chúng sanh.
  3. Dứt sạch tất cả tập khí giận hờn.
  4. Thân thường không bệnh.
  5. Mạng sống lâu dài.
  6. Thường được thiên thần ủng hộ.
  7. Không thấy ác mộng, thức ngủ yên vui.
  8. Diệt trừ oan nghiệp, oán thù tự giải.
  9. Không sợ sa đường dữ.
  10. Khi chết sanh lên cõi trời.
Nếu đem công đức đó hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi thành Phật, được tùy tâm Phật, thọ mạng tự tại".

Nên có câu:
  • Trong thập giới, sát sanh thứ nhất
    Người tu hành giữ đức hiếu sanh
    Vật người một thể hóa thành
    Chẳng nên sát hại ấy danh hành từ
    Ai không sát hại sanh linh
    Tuổi đời trường thọ, thân hình tốt tươi
    Mai sau hưởng được ngôi trời
    Hào quang chiếu sáng trong ngoài đều soi.
Ngược lại, nếu người nào suốt đời chỉ biết hiết hại, bàn tay luôn luôn đẩm máu, gây những sự chết chóc, đau đớn, oằn oại, rên la, đối với chúng sanh chẳng có một chút từ tâm, hạng người như thế trong "Đại Luận" nói: Phải gặt lấy mười ác báo:
  1. Thường chứa độc trong tâm, đời đời chẳng dứt.
  2. Người đời chán ghét, mắt chẳng dám ngó.
  3. Mọi loài nhìn thấy kinh hãi, tránh xa.
  4. Thường thấy chiêm bao dữ.
  5. Khi ngủ giựt mình, lúc thức chẳng yên.
  6. Tổn giảm tuổi thọ.
  7. Khi mạng chung chết một cách thêm thảm.
  8. Gây nghiệp nhân chết yểu cho đời sau.
  9. Sau khi chết, đọa địa ngục.
  10. Sanh lên nhân gian bị quả báo bệnh hoạn, tai nạn, chết vì đao binh, giặc cướp, thiên tai, địa ách, lửa cháy, nước trôi, luân hồi thường mạng lẫn nhau.
Trong Kinh đã nói như thế, người học đạo há chẳng sợ? Hãy tự răn chừa ư!

Cổ Đức cũng than:
  • Ác thứ nhất sát sanh gây vạ
    Tánh hung hăng đâm chém, chặt bằm
    Chất chứa điều hung dữ trong tâm
    Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
    Viết đến đây động lòng rào rạt
    Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân
    Nào kể chi là đạo quân thần
    Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
    Lúc nguy cơ, tớ mong hại chủ
    Trò giết thầy, tội ấy đáng không?
    Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng
    Niềm huynh đệ cùng nhau cấu xé.
    Cũng có lúc con còn giết mẹ
    Giành tổ tiên, cốt nhục giết nhau
    Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào
    Tình nhân loại phân chia yểm bách.
    Giết thú vật đầy lòng kiêu cách
    Tưởng rằng mình như thế là ngoan
    Khuyên bá gia, bá tánh Việt đàn
    Chớ sát hại mạng người như thế.
    Chớ giết vật đặng mà cúng tế
    Gẫm thánh thần đâu có tư riêng
    Rủi ốm đau bởi tại căn tiền
    Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
    Phải ăn năn phước điền tạo tác
    Lo thuốc thang khấn vái Phật Trời
    Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời
    Xuống phước rộng Từ, Bi, Hỷ, Xả.
    Đấng thần minh công bình trực dạ
    Đâu ăn lo đổi họa làm may
    Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này
    Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
    Chẳng biết thân còn toan chứa đựng
    Quả bát lành chưa trả, vay thêm
    Cầu cho đời sóng lặng gió êm
    Đặng bá tánh an nhàn tu niệm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 2. KHÔNG TRỘM CƯỚP:
Trộm: Có nghĩa là thiết mưu kế, rình rập, lén lút để lấy những vật lớn như tiền của, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu, gian dối đủ cách như là lấn ranh đất, mua cân già, bán cân non, đo gian, đong thiếu, lừa người cho đến vật nhỏ như mũi kim, sợi chỉ, củ khoai, trái ớt... đều phạm giới trộm cả.

Cướp: Là ỷ mạnh, hiếp yếu, lập bè, kết đảng, giựt ngang của người, hoặc cậy thế, ỷ quyền làm tiền kẻ yếu là ăn cướp. Thừa cơ hộ bắt chẹt người ta trong lúc lâm nguy, túng thiếu đó cũng gọi là ăn cướp.

Nói tóm lại, bất cứ hình thức nào do lòng gian tham, lấy của người bất chánh đều là trộm cướp cả.

Phật cấm trộm cướp là để trưởng dưỡng lòng từ, nếu chúng ta nhẫn tâm lấy đi tài vật của người làm cho họ phải lâm vào cảnh khó khăn, đứng ngồi không yên, âu sầu tìm kiếm, bỏ dở công việc làm ăn, có khi mất quá nhiều sinh ra buồn rầu, đau ốm, tuyệt vọng, tâm trí rối loạn, điên cuồng, tự tử. Thế là ta đã bóp chết lòng nhân từ, mà lòng nhân mất thì khó mà làm người được. Thử nghĩ mình vô ý đánh mất hay bị người ta lấy đi đôi dép, cái nón, tiền bạc... chút ít, còn cảm thấy buồn phiền, ăn ngủ không yên! Tại sao ta nỡ lòng nào lấy đi của người, làm cho họ phải khóc than, đau khổ. Người đời thường nói: "Tiền của là huyết mạch". Nếu như ai nhẫn tâm lấy đi, tức là cướp đoạt xương máu, giết chết sinh mạng của người ta rồi.

Do đó, đức Phật ngăn cấm trộm cướp. Vì trộm cướp chẳng những trái với tâm từ mà còn gây nhân xấu trong hiện tại bị cảnh tù tội, khảo tra; mọi người khinh khi, phỉ nhổ, làm xấu hổ cho mình và con cháu. Đánh mất tất cả nhân phẩm đạo đức, uy tín bị chôn vùi, công danh sự nghiệp ngay đó sụp đổ. Bởi vì không còn ai dám tin tưởng làm ăn hay giao phó công việc cho hạng người gian tham, tương lai chắc chắn đen tối. Lại thêm cái khổ nữa, khi đi đến nơi nào cũng bị người ta nghi ngờ oán ghét, lỡ có mất cái gì, ai lấy ở đâu cũng đổ thừa họ.

Vả lại của phi nghĩa làm chi nên chuyện, vào cửa trước ra cửa sau, tiêu hao mau lẹ như hoa phù dung sớm nở tối tàn.

Xem chuyện xưa cũng như nay, những phường cường hào, ác bá, vơ vét của dân, lạm dụng của công, đầu đuôi trộm cướp, làm ăn phi pháp, kết quả bị luật pháp trừng trị, tịch thu hết tài sản, trắng tay nhưng vẫn hoàn trắng tay, lại để tiếng nhơ cho đời khinh bỉ. Hiện tại đã khổ như thế, đời sau lại chịu cảnh ưu sầu vì mất của, bần cùng đói rách.

Quý vị cũng thấy có nhiều người rất khôn khéo, siêng năng, lanh lợi, làm lụng vất vả, tính toán hơn thua đủ cách, nhưng nghèo khổ vẫn là khổ nghèo. Giống như người thiếu nợ, làm ra có chút ít, chủ nợ đến lấy hết, nếu không cũng bị tai nạn, bịnh hoạn, làm ăn thua lỗ, hay bị người ta giựt hết của cải. Nếu lòng tham quá độ thời bị dọa làm thân trâu, ngựa... để trả nợ cho người. Chúng ta hãy xem qua bài kệ cảnh tỉnh của Trần Thái Tông:
  • Khoét vách đào tường chi những đâu
    Trăm mưu ngàn kế luống tham cầu
    Của tiền dầu có đời nay được
    Đời sau luôn luôn kiếp trâu.
Qua bài kệ trên, chúng ta thấy những người tham lam, trộm cướp chắc chắn đời sau phải mang lông, đội sừng, cày bừa, lôi kéo nặng nhọc trả nợ cho người. Chẳng những thế thôi, còn bị đọa làm quỷ đói. Chúng ta hãy xem qua câu chuyện trong kinh Tạp Tạng sau đây để thấy rõ tai hại của lòng tham.

Thuở Phật còn tại thế, một hôm tôn giả Mục Kiền Liên du hành cảnh giới ngạ quỷ, thấy một con quỷ, bụng của nó to như cái trống, cổ nhỏ tợ cây kim, ăn uống không được, đói khát khổ sở vô cùng! Nó thấy ngài Mục Kiền Liên liền hỏi: "Thưa Tôn giả, do ác nghiệp gì mà tôi bị đọa làm quỷ đói, khổ sở như thế này".

Ngài Mục Liên đáp: Tại vì đời trước, ngươi tham lam, trộm cướp, thẳng tay vơ vét những của phi nghĩa, nên mới bị đọa làm quỷ đói như thế".

Chuyện trên để cảnh tỉnh những người túi tham không đáy, hãy xem đó mà tự răn dạy mình.

Người xưa có câu: "Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ". Nghĩa là người không tốt không làm bạn, của phi nghĩa không lấy. Ôi! Nhà Nho còn thế, huống chi là Phật tử lại đi tham lấy của người hay sao?

Kinh Thập Độ nói: "Tiền thân Phật có lúc làm người nghèo. Nhưng ngài nói rằng: "Ta thà giữ đạo nghèo đói mà chết, chớ chẳng làm người vô đạo để được giàu sang mà sống. Cho nên các con thà để chặt tay, chớ lấy của quấy. Vì bị chặt tay chỉ khổ một đời, còn trộm, cướp bị đọa trong ba đường dữ, đời đời mắc báo không tay".

Ở đời ai cũng mong cầu cho mình được giàu sang mà cứ gieo nhân tham lam bỏn xẻn. Chuyện đó không bao giờ có, nếu được đi chăng, chẳng qua là hưởng dư phước của đời trước, hưởng hết rồi phải bị đọa mà thôi!

Trong Khế Kinh nói: Thuở Phật, có ông trưởng giả có của cải vô số, nhưng ông ta không biết bố thí, cúng dường là gì, lại chuyên môn làm việc ác. Ngài Mục Kiền Liên lấy làm lạ, nên nhập định thấy bảy đời liên tục ông ta không tạo được chút phước lành gì. Nhưng không hiểu tại sao đời nào cũng được giàu sang. Ngài liền đem chuyện đó hỏi Phật.

Phạt bảo: "Này Mục Kiền Liên, sở dĩ ông trưởng giả độc ác kia, được hưởng liên tục bảy đời như thế là vì trong quá khứ ông ta tạo phước quá nhiều, nên mới được giàu sang đến nay, không lo tạo thêm nhân lành lại gây ác nghiệp tổn giảm phước đức hết đời này qua kiếp sau bị dọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà không hay biết, thật đáng thương thay!".

Qua lời Phật bảo đã giải đáp cho những ai hay than: "Sao tôi tu hành, làm lành mà gặp toàn những chuyện không may, còn những kẻ gian tham, ác đức, bất nhơn lại được giàu sang, sống lâu".

Quý vị nên biết, nhân quả tuần hoàn, thiện ác phân minh, đến chậm hay mau tùy theo nghiệp lành dữ của mỗi người. Chớ vội cho là không có quả báo, mà phải tin sâu lý nhân quả để giữ vững niềm tin, tiến tu đoạn trừ hết ác nghiệp, gieo phước duyên lành cho hiện tại và vị lai. Đó mới thật là người Phật tử có trí huệ nhập đạo.

Kinh Pháp Cú Phật dạy:
  • Khi quả ác nghiệp chưa mùi
    Người ngu lầm tưởng yên vui mật đường
    Đến giờ quả chín như thường
    Người ngu mới thấy chán chường khổ đau.

    Khi quả thiện nghiệp chưa mùi
    Người thiện lầm tưởng sụt sùi khổ đau
    Khi quả thiện nghiệp chín mùi
    Người thiện mới thấy an vui tốt lành.

    Tích lũy thiện nghiệp thì gặp điều thiện, tích lũy điều ác thì gặp điều ác. Phải suy nghĩ cho cẩn thận, trời đất không bao giờ sai lầm đâu. Người làm điều thiện thì có điều thiện trả lại, người làm điều ác thì có điều ác trả lại, nếu không thấy trả lại là tại chưa đến ngày giờ đó thôi.
    (Từ Thần Ông).

    Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Lưới trời lồng lộng tuy thưa mà chẳng lọt. (Người hiền xưa)
Muốn diệt trừ tánh tham lam, trộm cướp trong Khế Kinh, Phật dạy: "Phải tự biết đủ, đừng quá tham cầu, cần kiệm, siêng năng là làm ăn chơn chánh, xem tất cả chúng sanh là quyến thuộc, phát tâm bố thí, đời sống thanh bạch không tham của thế, tự nhiên diệt trừ tánh tham và được người đời tán dương ca tụng".

Như chuyện ông Tư Thánh là vị quan thanh liêm.

Một hôm có người đem viên ngọc quý đến biếu, nhưng ông ta không nhận.

- Tôi quý trọng ngài là quan phụ mẫu của dân, nên mới kính tặng viên ngọc quý, nhưng tại sao ngài không nhận?

- Ngươi biết quý trọng viên ngọc, thì ta cũng biết quý trọng đức thanh liêm. Nếu như nhận viên ngọc đó, ta sẽ mất dức thanh liêm, còn ngươi mất đi viên ngọc, cả hai đều mất, nên ta không nhận.

Câu chuyện quan Tư Thành không nhận viên ngọc được người đời khen ngợi đến nay, sử sách vẫn có ghi lại. Hoặc là thấy của rơi không lấy, khi người ta biết được sự cao thượng đó, ai cũng khen ngợi, tin tưởng, nhờ thế làm việc chi đều được thành công tốt đẹp.

Ngày xưa, Dương Lạc Tử, một hôm đi xa, gặp vàng rơi giữa lộ. Sau khi tri hô, nói nhiều lần mà chẳng có ai đến nhận lại. Dương Lạc Tử bèn lượm vàng lên rồi vội vã đem về nhà. Người vợ thấy thé nghiêm nghị trách chồng rằng: "Em nghe nói kẻ chí sĩ uống nước trước phải hỏi xin, nếu người ta không cho thì không uống và chẳng ăn cơm mời lơi, có đâu lang quân lại muốn giữ của rơi rớt này làm nhơ phẩm hạnh của mình".

Nghe vợ nói đúng lý, Dương Lạc Tử lấy làm hổ thẹn, lật đật đem vàng ấy quăng ra ngoài đồng hoang.

Chuyện vợ chồng Dương Lạc Tử thấy vàng không tham được người đời kính phục, tin tưởng nên về sau làm ăn mỗi ngày mọt phát đạt.

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: Nếu thấy vật rơi, như tiền của, vàng bạc, ngọc ngà, châu báu... Khi chúng ta lượm lên rồi nên hỏi rằng: "Vật này là của ai? Nếu như có người nhận thì phải gạn hỏi hình tướng, nếu đúng như thật nên trả lại cho họ. Nếu nói nhiều lần mà không có người nhận thì đem gởi cho các cơ quan hữu trách".

Hơn nữa, người không trộm cướp, có công đức thù thắng được chư thiên thần gia hộ, không ai dám xâm phạm tài sản của họ và vượt qua mọi ách nạn. Điều đó quý vị cũng thấy có nhiều trận giặc giã, bom đạn, đốt phá, cướp bóc, thiên tai, lũ lụt tàn phá nhiều nhà đổ nát, tiêu tan, nhưng cũng có nhà vẫn còn nguyên vẹn. Như thế đủ biết, người không gian tham, dù sống ở nơi nào cũng không có gì xâm phạm được, lại không hề khiếp sợ trước nghịch cảnh và thoát nạn tu hành đắc quả.

Đúng như trong kinh Pháp Cú thí dụ nói:

- Thuở Phật, ở thành Xá Vệ có ông thiện nam Tiểu Ka Lá. Một hôm ông đến Tịnh xá thọ bát quan trai, khi trời gần sáng ông ra bờ hồ súc miệng, rửa mặt, lúc đó có tên ăn trộm chạy đến quăng túi đồ trước ông rồi bỏ chạy.

Những người đuổi bắt kẻ trộm tới bờ hồ, thấy tang vật trước mặt ông, nên họ hỏi: "Có phải ngươi là ăn trộm không?"

Ông Tiểu Ka Lá bình tĩnh đáp: "Tôi không có ăn trộm".

Họ không tin túm lấy ông đánh đập. Khi đó có nhóm nữ tỳ đi đến hồ múc nước, thấy thế tới can ngăn, phân giải về ông Tiểu Ka Lá là người giữ giới rất tốt. Nhờ vậy, họ mới chịu buông tha. Tiểu Ka Lá đi vào tịnh xá thuật lại với chư Tỳ kheo về chuyện này.

Chư Tỳ kheo, đem chuyện đó trình lên đức Thế Tôn. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, thiện nam Tiểu Ka Lá nhờ giữ giới không trộm cướp mà được toàn mạng. Chúng sanh tự mình làm ác, tự mình nhiễm ô, sa xuống địa ngục và cũng tự mình giữ giới thanh tịnh, thoát khỏi ách nạn, sanh lên nhàn cảnh, giải thoát Niết Bàn.

Cuối thời pháp, thiện nam Tiểu Ka Lá đắc quả Tu Đà Hoàn.

Nói tóm lại, người không gieo nhân trộm cướp, tức là không gây oán thù với ai, nên thân tâm được an lạc, đi dến đâu cũng được người khác tin cậy, giao phó cho mình những địa vị quan trọng, làm nên sự nghiệp. Ngoài xã hội, nếu không có người trộm cướp thì nhà nhà chẳng cần đóng cửa, của rơi không mất, cảnh tượng gianh giật chẳng còn diễn ra nữa. Nhờ vậy mà thế giới được thái bình, nhân dân yên ổn, thật không có gì vui sướng hơn!

Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa trộm cướp mà làm việc bố thí thời hưởng được mười pháp lành như sau:
  1. Giàu có của cải: vua, giặc, nước, lửa và con hư không thể phá hoại.
  2. Nhiều người thương mến.
  3. Người không phụ gạt.
  4. Không lo tổn hại.
  5. Mười phương khen ngợi.
  6. Tiếng tốt đồn khắp.
  7. Ở trước đại chúng không hề khiếp sợ.
  8. Của cải, tính mạng, hình sắc, sức lực an vui, biện tài đầy đủ.
  9. Thường sẵn lòng bố thí.
  10. Mạng chung sanh lên cõi trời.
Nếu đem công đức lành ấy hồi hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật được chứng trí thanh tịnh đại Bồ Đề".

Nên có câu:
  • Giới thứ nhì cấm trừ trộm, cướp
    Vật của người chẳng đặng gian tham
    Người tu của cải chớ ham
    Chẳng nên khởi ý lấy làm của ta
    Ai không trộm cướp của ai
    Tự nhiên vàng bạc của tiền đầy kho
    Cung điện thất bảo thật to
    Thân tâm vui thú, không lo chi mà.
Ngược lại trong kinh A Hàm, Phật nói: "Nếu ai tham lam, trộm cướp, hiện tại người khinh kẻ oán, tâm trí bất an, thường vướng ách nạn, bị chủ bắt giao cho quan, giam vào lao ngục, cực hình tra tấn, hành phạt đủ cách. Sau khi mạng chung đọa vào địa ngục, lửa dữ thiêu đốt, bị ngục tốt bắt trụng vào chảo nước sôi, gươm đao đâm chặt, bỏ chỗ dơ bẩn, cối xay nghiền nát, chua chát, đau nhức, đủ cách hình phạt không sao kể xiết, trải qua trăm ngàn năm như thế. Tội địa ngục vừa mãn, sanh làm ngạ quỷ, đói khát, khổ ngặt không thể nói hết. Những nỗi khổ đó kéo dài đến trăm ngàn năm. Hết kiếp ngạ quỷ, kế sanh làm voi ngựa, trâu, bò, lạc đà, dê, lừa, chó... ra sức đền bù nợ người.

Tội súc sanh hết, sanh lên làm người hạ tiện, nghèo cùng đói rách, lại thường bị cảnh nước trôi, lửa cháy, vua bắt, quan đói, giặc dữ cướp đoạt, con hư phá hủy... làm tiêu tan hết tài sản và mong cầu việc chi đều không thành tựu".

Những ai hay trộm cướp hãy nau nghe lời Phật dạy, ăn năn, cải sửa. Nếu không, đến khi bị tội mới hối hận thì quá muộn màng.

Cổ Đức kệ răn:
  • Lấy của người sắm ăn, sắm mặc
    Chẳng kể công nước mắt mồ hôi
    Phá lương dân dạ luống bồi hồi
    Ngày làm lụng đêm lo gìn giữ
    Trốn pháp luật tập tành đủ thứ
    Nào đào tường, khoét vách khuân đồ
    Tội chập chồng đâu biết ở mô
    Trốn người khỏi, trốn trời sao khỏi.
    Nay đuốc huệ từ bi đã rọi
    Vào thân tâm những kẻ gian phi
    Hãy tu thân chừa thói vô nghì
    Của phi nghĩa làm chi nên chuyện
    Luật nhân quả thật là cao viễn
    Suốt cổ kim chẳng lọt một ai
    Vậy ta nên làm việc thẳng ngay
    Cứ bền chí có ngày thong thả.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Thập Thiện Nghiệp

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 3. KHÔNG TÀ DÂM:
Tà dâm: Có nghĩa là nói đến sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Phật dạy, người xuất gia phải dứt hẳng dâm dục, vì nó là động cơ gây ra ác nghiệp trôi lăn trong vòng sanh tử. Kinh Lăng Nghiêm dạy: "Lòng dục không trừ, trần lao khó ra khỏi. Muốn thành tựu đạo quả Bồ đề, phải đoạn trừ dâm dục cả thân lẫn tâm".

Còn Phật tử tại gia, Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là vợ chồng có cưới hỏi chánh thức mới được ăn ở, nhưng phải biết hạn chế để giữ gìn sức khỏe làm việc ích lợi cho đời, cấm lén lút lang chạ ngoại tình với vợ, chồng, con, cháu người khác.

Trong kinh Bảo Tích nói: "Tà dâm nó tiềm ẩn rất là tinh tế, như liếc mắt đưa tình, ưa trang điểm, thích bóng sắc, nói năng hành động bất chánh, khêu gợi lòng dục người khác, đều đồng nghĩa với tà dâm".

Phật cấm tà dâm nhằm bảo vệ nhân cách để duy trì hạnh phúc trong gia đình và ngăn ngừa những tai hại đem lại sự an vui cho mọi người. Quý vị cũng từng biết, từ xưa đến nay ái dục là thứ lửa rất nguy hiểm. Nó có sức mạnh xúi dục con người phạm biết bao tội ác, gieo nhiều thảm họa như chuyện Võ Tòng sát tẩu, Trụ vương đam mê Đắc Kỷ giết hại trung thần làm cho nước mất mạng vong. Khổng Tử nói: "Vạn ác dâm vi thủ". Nghĩa là muôn ngàn điều ác dâm đứng đầu là vậy.

Những ai đã từng nghe đài, xem báo và nhìn chúng quanh ta có nhiều vụ thảm sát bằm chặt tình địch đều do tà dâm! Không có oán thù nào bằng sự lừa dối, phụ rẫy tình cảm, đã gây ra vô số đau thương đầy tội lỗi. Những chuyện đó xảy ra là do con người đánh mất nhân tình chạy đuổi theo văn minh vật chất, phế bỏ hết thuần phong mỹ tục nề nếp của ông cha. Do đó, nền đạo đức xuống cấp trầm trọng, nam nữ tự do tư tình hết yêu người này đến thương kẻ nọ, lăng nhăng với những cuộc tình đầy lãng mạn.

Bởi thế, mới xảy ra những cảnh đâm chém, rạch mặt, tạt axít, thanh toán, thủ tiêu... Nếu không cũng bị nhiễm HIV khó mà tránh khỏi, vì đi đêm có ngày gặp ma. Kinh Phật có câu: "Thiện lai, thiện tai. Ác lai, ác báo". Người ác cảnh ác theo, người ôm lòng dục giống như kẻ cầm đuốc đi ngược gió phải bị họa cháy tay.

Thế mà có lắm người lại kiêu hãnh, tự vỗ ngực khoe khoang cho ta đây có số đào hoa, phong nhã được nhiều người yêu thương, say mê đắm đuối. Họ lấy đó làm đắc ý, hí hửng vui đùa trên sự đau khổ của kẻ khác, làm cho người ta phải thất tình ôm hận, có khi tự tử chết một cách thê lương ảm đạm.

Để nói lên nỗi khổ của người tương tư, có một nhà thơ diễn tả như thế này:
  • Tương tư sầu não phải làm sao?
    Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào
    Khi đứng, lúc ngồi luôn ngớ ngẩn
    Lúc say, khi tỉnh vẫn tương tư!
Nói đến quả báo của sự lừa dối tình cảm, trong Kinh kể: "Có anh chàng tên là Sư Ha Ta Ra tốt mã, giàu sang, nhưng cô ham tài, thích sắc, thấy đẹp giàu là đam mê theo đuổi. Anh ta thừa cơ hội, gạt hết cô này đến nàng khác, đùa cợt trên sự đau khổ của các cô nhẹ dạ phải lầm vào cảnh thất tình, tuyệt vọng quyên sinh.

Kết quả, sau khi anh ta chết, tái sanh trở lại thọ thân người nữ hết bị người này gạt tới gặp kẻ khác lừa, sau cùng đi vào lầu xanh làm gái, tủi nhục mà chết". Ở thế gian, tình cảm thật mong manh, tạm bợ. Cho dù đó là tình nghĩa vợ chồng, phần nhiều chỉ được hạnh phúc lúc ban đầu, lần hồi ngày qua, tháng lại gặp cảnh khó khăn hay bất mãn điều gì đó, rồi xảy ra xung đột lẫn nhau, hoặc có khi chồng hay vợ không tự kềm chế được dục vọng, bồ bịch lăng nhăng làm cho hạnh phúc gia đình đổ vỡ.

Quý vị nên nhớ, mình vạch vách sang nhà người ta, chính là tự mở cửa nhà mình mời người khác vào. Vì bản chất con người rất ích kỷ, những gì của họ không muốn ai xen vào. Nếu thấy người khác xen vô, tức thì họ trả đũa bằng cách ông ăn chả, bà ăn nem, ghen tuông thù hận, giết hại lẫn nhau, thương đậm thù sâu là vậy.

Theo các nhà tâm lý nói: Cách trả thù đối với tình địch không có gì bằng giao con người phụ bạc đó cho họ luôn, giữ làm chi cho sanh phiền muộn, trong khi người ta không còn thương mình. Hơn nữa, trên đời này cha, mẹ và tự do là quí báu nhất, chẳng lẽ ta lại vì một con người vong tình, bội bạc đó mà giết hại họ, để rồi phải chịu cảnh tù tội làm cho cha mẹ buồn rầu, mất hết hiếu đạo có phải là dại lắm không?

Viết dến đây tôi bỗng nhớ đến thầy tôi là Hòa thượng Giác Đức. lúc còn sanh tiền có giảng cho chư tăng và Phật tử nghe về sự tai hại của tà dâm. Hòa thượng kể: Tôi có một đứa cháu, mấy hôm trước nó đến chùa gặp tôi than thở:

- Vợ con nó ngoại tình, con bắt gặp định ly dị, cha con nói: "Thôi vợ con nó lỡ một lần, con tha thứ cho nó đi". Con nghe lời cha nên bỏ qua, nhưng chứng nào tật nấy, vợ con lại dẫn tình nhân vô nhà, con đi làm về thấy họ đang ân ái, con vô cùng tức giận định la lên, nhưng chưa kịp la thì người tình của vợ con đã cầm dao rượt, may là con chạy thoát thân, nó lấy vợ con, còn định giết con thật là quá đáng. Kỳ nầy về con định giết nó. Sư thấy con làm vậy có được không?

- Con giết nó được quá, sao lại không được, con về nhà mài dao cho thiệt bén rồi rình nó vô nhà, chém một dao là nó tiêu đời, rồi con chuẩn bị đi.

- Thưa sư, con chuẩn bị cái gì?

- Con chuẩn bị đi vô nhà tù, con nên biết: "Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại". Con tính sao, nếu không thì suốt đời con phải trốn chui trốn nhủi, không dám nói tên mình cho ai biết. Đâu con thử nghĩ lại coi, cái chuyện lỗi lầm của vợ con với kẻ đó nó quan trọng hơn hay cái đời sống tự do của con quan trọng. Hơn nữa, cha mẹ con và vợ con ai quý nhất?

- Thưa sư, tự do và cha mẹ con quý hơn, vợ con làm sao mà so sánh bằng.

- Con thấy không, nếu con vì sự lỗi lầm của vợ con mà giết người tình của nó, để rồi vô ngồi tù, trong khi đó cha mẹ con ai nuôi, có phải con vì tình để rồi trở thành kẻ sát nhân và bất hiếu, con nên xét lại coi việc đó có nên làm hay không?

- Sư nói vậy, con hiểu ra rồi con không dại gì giết nó đâu?

Hòa thượng nói tiếp:

- Câu chuyện này cho chúng ta thấy, sở dĩ con người ta khổ là do muốn ngược lại với sự thật. Cái tính của con người dù nam hay nữ nó thường thay đổi, mà đứa cháu tôi nó lại muốn rằng vợ nó phải chung thủy, trong khi vợ nó lại thay lòng đổi dạ, làm cho nó tức tối, muốn gây ra án mạng.

Chúng ta nên biết rằng: "Mọi sự đều bị xê dịch, không bao giờ cố định, nếu hiểu được như vậy, chúng ta sẽ có cái tâm quảng đại thì chuyện ngoại tình kia không thành vấn đề nữa. Chính vì thiếu đức vị tha, cho nên mới bị tình cảm che mờ lý trí trở thành kẻ mù quáng, chỉ biết thù hận, người như thế không thể khuyên giải họ tha thứ cho kẻ khác được. Trong khi đó phải chỉ cho họ thấy tai hại của nó. Còn dùng lời khuyên lơn là để dành cho người có trí, tâm còn định tỉnh. Còn người không có trí, tâm bị rối loạn mà khuyên bằng những lời đạo đức, thì họ khó mà nghe theo ta. Phải dùng cách đánh mạnh vào tâm trí của họ, để họ thức tỉnh bằng cách nói làm sao cho họ được thỏa mãn sự tức tối, rồi mình lại nói sự thỏa mãn dó thật là nguy hiểm, kết quả là chết chóc, tù tội... Như vậy thì tự nhiên họ sợ mà không dám làm".

Muốn khắc phục những tâm niệm ghen tuông thù hận, Phật dạy: "Phải bình tâm quán chiếu cho thấu đáo luật nhân quả, coi như là nghiệp phải trả. Lấy sự tác nghịch làm sự tác thành". Chính cái nghịch cảnh ngang trái đó để cho mình thấy rõ ái tình là gốc sanh ra phiền não khổ đau, mà tỉnh thức nương về Tam Bảo tu hành chuyển hóa ác nghiệp không hay hơn là giết hại lẫn nhau, oan trái biết bao đời mới chấm dứt.

Không có nỗi bất hạnh nào bằng trong gia đình, chồng hoặc vợ sanh tâm ngoại tình. Khi đó mất hết niềm tin tưởng lẫn nhau, thì thử hỏi làm sao có nghị lực gầy dựng cơ nghiệp. Gia đình xào xáo, con cháu tủi nhục, mất hết lòng tôn kính. Danh dự, nhân phẩm bị chôn vùi, có khi đưa đến cảnh đường ai nấy đi, nếu bước thêm bước nữa thì con nó gặp cảnh cha ghẻ, mẹ ghẻ, con mày, con tao, tất cả đều khổ!

Bởi thế, những ai là bậc hiền trí, hãy mau nghe lời Phật dạy. Đừng vì một chút tình dục nhơ bẩn, thấp hèn mà làm khổ mình, hại người, liên lụy đến con cháu thì không nên.

Bồ Đề Lão Tổ từng dạy:
  • Gái không trung tiết, chuyển kiếp ghen tuông
    Lường trai, gạt trai, chồng bỏ bất ngờ
    Lường gái, gạt gái, vợ bỏ thình lình
    Cố dâm ép người, thê loạn hữu quyền.
Qua lời dạy của Tổ đã chỉ cho người đời thấy, những ai lường gạt tình cảm người khác sẽ mất hết âm đức, tự nhiên gia đạo của họ bất an, ghen tuông đổ vỡ, sau khi chết bị dọa làm quỷ trùm đầu.

Thuở Phật, một hôm tôn giả Mục Kiền Liên du hành đến cảnh giới ngạ quỷ. Khi đó có một con quỷ đến hỏi: "Thưa Tôn giả, do ác nghiệp gì mà tôi bị đọa làm quỷ, đi đâu cũng trùm cái đầu lại, khổ sở thế này?"

Ngài Mục Liên đáp: "Tại vì, những đời trước ngươi gian dâm vô đạo, lấy vợ, giựt chồng phá hoại trinh tiết con cháu nhà người. Vì ác nghiệp ấy, nên mắc phải quả báo như thế". (Kinh Tạp Tạng)

Tà dâm còn dẫn đến tình trạng uống thuốc phá thai, nạo thai phạm tội giết người, chắc chắn bị đọa địa ngục.

Trong Kinh Trường Thọ Diệt Tội, đức Phật Phổ Quang Chánh Kiến Như Lai dạy nữ Điên Đảo rằng: "Nếu người nữ nào ác tâm uống thuốc phá thai, người này hiện đời, mắc báo bệnh nặng mạng sống ngắn ngủi, sau khi chết sa đọa ngục A Tỳ, chịu nhiều khổ não".

Chẳng những người uống thuốc phá thai cho đến người làm việc phá thai đều bị sa đọa.

Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỷ bạch với ngài Mục Kiền Liên rằng: "Thân hình tôi như một khối thịt, không có tay chân, mắt, mũi, lưỡi... Thân thường bị trùng rúc, chim mổ cắn rứt mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi, vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?"

Ngài Mục Liên đáp: "Đời trước ngươi cho người ta uống thuốc độc phá thai, khiến cho chúng sanh mạng sống không còn. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy".

Muốn không vi phạm tà dâm, Phật dạy: "Không nên dòm ngó sắc đẹp. Khi đối diện trước người nam hay nữ phải nghĩ như thế này: Người lớn tuổi hơn mình, thì kính như cha mẹ, cô bác, anh chị. Người nhỏ tuổi thì coi như em cháu trong nhà. Người ngang tuổi, thì xem như bà con ruột thịt". Và phải thận trọng từng ý nghĩ, hành vi bất chánh, mang tính chất ái nhiễm phải đoạn trừ ngay, cho đến sự ăn mặc sao cho kín đáo, đi đứng, ngồi nằm, nói cười phải đúng chỗ hợp thời. Giữ giới tà dâm không phải chỉ giữ cho mình thôi mà còn phải giữ cho người khác nữa. Có nhiều người ăn mặc không kín đáo, nói cười lã lơi khêu gợi lòng dục của người khác, nên xã hội thường xảy ra lắm vụ cưỡng hiếp, đó là tự hại mình, hại người.

Trong Lương Hoàng Sám nói: "Làm người ăn mặc mỏng manh, suồng sã, cho thế là hơn, đời sau sanh vào nước lõa thể".

Trong Khế Kinh Phật dạy: "Phàm làm vợ chồng chung sống với nhau, muốn có hạnh phúc an lạc ở hiện tại và tương lai, phải thọ trì ngũ giới, sống phải có trung có hậu, lấy lòng từ, bi, hỷ, xả, quý kính chăm sóc lẫn nhau, thì gia đạo được đầm ấm yên vui".

Các nhà tâm lý học nói: Có mười hai điều mà vợ chồng cần biết để áp dụng trong đời sống gia đình được tốt đẹp:
  1. Không được nhắc lại những việc chẳng tốt trong quá khứ.
  2. Không thóa mạ nhau.
  3. Hãy kềm chế cơn nóng giận.
  4. Không dành phần phải về mình.
  5. Không gây phiền nhau vào những lúc chẳng thuận lợi như: đang ngủ, buổi trưa nóng nực, đi làm về mệt mỏi, vừa có chuyện buồn bực, bệnh hoạn...
  6. Không mang cái bực bội ở ngoài về nhà, trút lên đầu người khác.
  7. Đối xử chu đáo, tế nhị cả hai gia đình bên vợ, bên chồng.
  8. Trung thành, chăm sóc nhau từ những chuyện nhỏ nhặt nhất.
  9. Việc chung của gia đình nên bàn bạc lẫn nhau.
  10. Nên có những cử chỉ, lời nói làm đẹp lòng nhau.
  11. Thỉnh thoảng nên mua sắm đồ trang sức, phẩm vật dâng tặng lẫn nhau.
  12. Khi có lỗi lầm vợ chồng đóng cửa dạy nhau trong tinh thần tôn trọng yêu thương. Dấu hiệu không tôn trọng là dấu hiệu báo trước sự tan vỡ.
Nói tóm lại, nếu trong gia đình vợ, chồng không tà dâm thì cuộc sống được đầm ấm hạnh phúc yên vui, làm ăn tấn phát, sự nghiệp vững bền, con cháu vui vẻ, dòng họ bà con lối xóm đều quý mến khen ngợi và có oai đức, ai nhìn thấy vợ chồng, con cháu mình đều khởi tâm kính trọng không hề có ý tà dại.

Trong kinh Thập Thiện, Phật dạy: "Nếu ai xa lìa tà hạnh thời thành tựu được bốn điều lợi ích như sau:
  1. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều được vẹn toàn.
  2. Dứt sạch phiền não rộn ràng.
  3. Được người đời khen ngợi.
  4. Vợ chồng, con cháu không ai dám xâm phạm.
Nếu ai hồi hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sau khi thành Phật, được tướng trượng phu ẩn mật tàng của Phật".

Nên có câu:
  • Giới thứ ba cấm trừ sắc dục
    Chớ tư tình lén lút ngoại duyên
    Trăng hoa lòng chớ đảo điên
    Chánh dâm cũng phải răn khuyên từ từ.
    Gái trai không phạm dâm tà
    Thân hình đẹp đẽ như hoa thơm lừng
    Lại thêm tư chất đoan trang
    Tự nhiên đức hạnh sạch trong làu làu.
Ngược lại, trong kinh Bát Sư, Phật nói: "Nếu người nào, tối ngày cứ mơ tưởng làm việc tà dâm. Khi vợ chồng, con cháu... của người ta biết được, phải chịu cảnh dao gậy đánh đập, bắn giết... làm cho tay chân đứt gãy, pháp luật gia hình, thân thể bầm dập. Lúc chết đọa vào địa ngục, bị quỷ sứ bắt nằm giường sắt, ôm cột đồng, rồi nổi lửa đốt cháy cả thân. Tội địa ngục hết, sanh làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương... Khi được làm người phải chịu cảnh ghen tương, gia đình đổ vỡ, sống đời cô độc, thường vướng ách nạn, xa Phật, trái Pháp, chẳng gần thánh hiền, tâm thường lo sợ, nhiều khổ, ít vui".

Phật lại nói bài kệ:
  • Dâm là hạnh bất tịnh
    Mê lầm mất đạo chánh
    Hình gầy hồn phách sợ
    Giảm thọ và chết non
    Mắc tội dại đột quá
    Ta vì sợ quá sợ
    Bỏ nhà thích núi non.
Lại nữa, tà dâm có mười tội:
  1. Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi luôn.
  2. Các điều ác càng tăng, điều lành càng giảm.
  3. Của cải ngày càng hao mòn.
  4. Có xảy ra việc xấu, thường bị người nghi.
  5. Dòng họ bạn bè chẳng ai ưa mến.
  6. Kẻ oan gia được cơ hội.
  7. Tấm thân chẳng giữ được, vợ con côi cút.
  8. Các khổ vây quanh.
  9. Chết bị đọa địa ngục.
  10. Được tái sanh làm người, gái thời bị cảnh chồng chung, trai thời vợ chẳng trinh chánh.

    Luận Trí Độ.
Cổ Đức cũng từng dạy:
  • Ác tà dâm thứ ba càng tệ
    Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần
    Làm đảo huyền tất cả quốc dân
    Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn.

    Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng
    Từ xưa nay trời dất đâu dung
    Giàu của nhiều dâm kiếp bần cùng
    Quan lấn thế dâm ô dân khổ.

    Trai liều lĩnh điều này nên bỏ
    Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn
    Gái lẳng lơ, tiếng huyễn lời đờn
    Hoa có chủ đèo bồng tình mới.

    Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi
    Bỏ những điều điếm nhục tông môn
    Đấng nam nhi học lấy điều khôn
    Lòng trung hiếu gìn theo đạo lý.

    Hàng phụ nữ gương xưa nối chí
    Những mẹ hiền dâu thảo noi truyền
    Niệm Phật mà tạo lấy thiện duyên
    Cho đẹp mặt tổ tiên nòi giống.

    Thờ Phật đạo tỉnh cơn ác mộng
    Thoát mê đồ thường phóng quang minh
    Ráng hiểu rành tiếng kệ lời kinh
    Thời mới được thân sau vinh hiển.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.21 khách