Về Phép Tắc Đối Với Những Câu Hỏi
Đã gửi: 05/09/08 00:02
English | Vietnamese
Về Phép Tắc Đối Với Những Câu Hỏi
Ngày 02 Tháng Muời Một, năm 1973. Chiều thứ sáu. (Timely Teachings, trang 75).
Quý vị không nên trả lời các câu hỏi nêu ra bởi bất kỳ các vị thầy nào đến đây, ngoại trừ trong giờ thuyết pháp hoặc ở trong lớp học. Khi vừa mới trả lời thì quý vị đã sai, không có cách gì đúng đuợc. Tại sao? Phần lớn những câu hỏi của các vị khách tăng là để moi móc yếu điểm quý vị, cho dù có nói đúng nhung họ vẫn khăng-khăng cho là sai, nhờ đó họ mới có thể tỏ ra tài giỏi hơn nguời. Thật ra những ai có học vấn thì tự biết là không nên đến các đạo tràng để chất-vấn bằng những câu hỏi. Họ không nên trắc-nghiệm kẻ khác về trình độ hiểu biết cao hay thấp. Nếu như có nguời đắp giới y, quỳ xuống và chấp tay lại thỉnh cầu quý vị chỉ giáo cho, thì lúc đó quý vị có thể trả lời. Nếu có nguời muốn đuợc khai thị cho một vấn đề nào đó mà không đắp giới y, không trãi tọa cụ, thì quý vị không nên đáp lại, cũng không yêu cầu họ giải thích. Yêu cầu họ giải thích chứng tỏ quý vị không biết gì hết, còn nếu trả lời thì thể hiện sự ngu dốt của mình. Tất cả mọi nguời cần hiểu rõ điều này.
Nếu có ai đó cho dù là tăng hay tục, muốn hỏi điều gì, quý vị có thể bảo họ biết là thời điểm để hỏi là trong giờ thuyết pháp hay trong các lớp học, ngoài ra thì mọi nguời đều bận vào những lúc khác.
Tại sao khi vị Thầy đó vừa mới hỏi về vô-ngã thì quý vị đã vội vàng lý luận hàm hồ như vậy? Thật ra, sự không hiện hữu của bản ngã có hàng triệu cách khác nhau để giải thích nhưng trong đó không có cách nào là đúng hay sai. Cái bản ngã chính nó còn không có thì còn gì để mà nói nữa. Làm gì mà có Tiểu ngã, Đại ngã hay Thần ngã. Tất cã những thứ đó đều không có, ngay cả khi nói về nó cũng là sai rồi. Nếu quý vị chưa hiểu rõ chân tuớng và ý nghĩa chân thật của Phật Pháp thì làm sao có thể trả lời ông ta đuợc. Quý vị đã sai lầm khi mới vừa mở miệng. Mỗi nguời đều có lối nhìn và lý luận riêng của họ, làm sao có đúng hay sai. Quý vị giải thích theo cách quý vị, tôi giảng theo cách của tôi, cho dù tôi cho là quý vị sai nhưng tôi cũng không thể dựa vào đâu để chỉ-trích. Cho nên nếu đã không có nền tảng nào để dựa vào thì có cần phải nhất thiết bàn thảo vấn đề chăng?
Quý vị hồ đồ trả lời ông ấy là vì cho rằng nếu không trả lời sẽ là sai. Trên thật tế, không trả lời mới là phương pháp đúng nhất. Ông ta không có quyền yêu cầu quý vị giải thích về sự không hiện hữu của bản ngã. Sự không hiện hữu của ngã chính là vô ngã, có gì để bàn luận thêm nữa. Tại sao quý vị lại không biết điều này khi mình là nguời thông minh? Thật ra quý vị muốn thân thiện với ông ấy là vì truớc đó tôi có nói vài lời khen ông ta. Đúng ra tôi luôn tránh nói xấu về nguời khác, thậm chí tôi còn nói tốt cho nguời xấu vì tôi xem tất cả chúng sanh là Phật. Tuy vậy tôi không thể đảm bảo là mọi nguời đều đúng như tôi nói.
Những kẻ thật sự tu đạo thì không nói chuyện. Đây có nghĩa là không những không nói chuyện với nguời phụ nữ mà nguyên tắc là không hàn huyên tâm sự, thậm chí nhìn bề ngoài giống như một kẻ nhà quê khờ khạo. Khi xưa lúc tôi dụng công khi đi du hành, cả ngày tôi đều nhắm mắt không nhìn ai cả, cũng không nói chuyện với kẻ khác. Dụng công thì phải như vậy, càng nói nhiều chỉ càng vô ích. Nếu quý vị kính trọng các bậc tu hành, thì càng nên tránh nói chuyện nhiều với vị ấy. Cần phải xem ai là nguời nói ít nhất. Khi nguời nào hiểu đuợc nguyên tắc này, họ sẽ xem thuờng những kẻ nhiều chuyện. Trong quá khứ ở Trung Hoa, tại chùa Kim Sơn và chùa Cao Mân, nhiều nguời sống chung bên nhau nhiều năm mà vẩn không hề biết tên nhau. Họ ăn ở, nằm ngũ kế cạnh nhau, nhưng cho dù năm tháng trôi qua vẫn không biết tên tuổi nhau, và cũng không hề nói với nhau một câu.
Về Phép Tắc Đối Với Những Câu Hỏi
Ngày 02 Tháng Muời Một, năm 1973. Chiều thứ sáu. (Timely Teachings, trang 75).
Quý vị không nên trả lời các câu hỏi nêu ra bởi bất kỳ các vị thầy nào đến đây, ngoại trừ trong giờ thuyết pháp hoặc ở trong lớp học. Khi vừa mới trả lời thì quý vị đã sai, không có cách gì đúng đuợc. Tại sao? Phần lớn những câu hỏi của các vị khách tăng là để moi móc yếu điểm quý vị, cho dù có nói đúng nhung họ vẫn khăng-khăng cho là sai, nhờ đó họ mới có thể tỏ ra tài giỏi hơn nguời. Thật ra những ai có học vấn thì tự biết là không nên đến các đạo tràng để chất-vấn bằng những câu hỏi. Họ không nên trắc-nghiệm kẻ khác về trình độ hiểu biết cao hay thấp. Nếu như có nguời đắp giới y, quỳ xuống và chấp tay lại thỉnh cầu quý vị chỉ giáo cho, thì lúc đó quý vị có thể trả lời. Nếu có nguời muốn đuợc khai thị cho một vấn đề nào đó mà không đắp giới y, không trãi tọa cụ, thì quý vị không nên đáp lại, cũng không yêu cầu họ giải thích. Yêu cầu họ giải thích chứng tỏ quý vị không biết gì hết, còn nếu trả lời thì thể hiện sự ngu dốt của mình. Tất cả mọi nguời cần hiểu rõ điều này.
Nếu có ai đó cho dù là tăng hay tục, muốn hỏi điều gì, quý vị có thể bảo họ biết là thời điểm để hỏi là trong giờ thuyết pháp hay trong các lớp học, ngoài ra thì mọi nguời đều bận vào những lúc khác.
Tại sao khi vị Thầy đó vừa mới hỏi về vô-ngã thì quý vị đã vội vàng lý luận hàm hồ như vậy? Thật ra, sự không hiện hữu của bản ngã có hàng triệu cách khác nhau để giải thích nhưng trong đó không có cách nào là đúng hay sai. Cái bản ngã chính nó còn không có thì còn gì để mà nói nữa. Làm gì mà có Tiểu ngã, Đại ngã hay Thần ngã. Tất cã những thứ đó đều không có, ngay cả khi nói về nó cũng là sai rồi. Nếu quý vị chưa hiểu rõ chân tuớng và ý nghĩa chân thật của Phật Pháp thì làm sao có thể trả lời ông ta đuợc. Quý vị đã sai lầm khi mới vừa mở miệng. Mỗi nguời đều có lối nhìn và lý luận riêng của họ, làm sao có đúng hay sai. Quý vị giải thích theo cách quý vị, tôi giảng theo cách của tôi, cho dù tôi cho là quý vị sai nhưng tôi cũng không thể dựa vào đâu để chỉ-trích. Cho nên nếu đã không có nền tảng nào để dựa vào thì có cần phải nhất thiết bàn thảo vấn đề chăng?
Quý vị hồ đồ trả lời ông ấy là vì cho rằng nếu không trả lời sẽ là sai. Trên thật tế, không trả lời mới là phương pháp đúng nhất. Ông ta không có quyền yêu cầu quý vị giải thích về sự không hiện hữu của bản ngã. Sự không hiện hữu của ngã chính là vô ngã, có gì để bàn luận thêm nữa. Tại sao quý vị lại không biết điều này khi mình là nguời thông minh? Thật ra quý vị muốn thân thiện với ông ấy là vì truớc đó tôi có nói vài lời khen ông ta. Đúng ra tôi luôn tránh nói xấu về nguời khác, thậm chí tôi còn nói tốt cho nguời xấu vì tôi xem tất cả chúng sanh là Phật. Tuy vậy tôi không thể đảm bảo là mọi nguời đều đúng như tôi nói.
Những kẻ thật sự tu đạo thì không nói chuyện. Đây có nghĩa là không những không nói chuyện với nguời phụ nữ mà nguyên tắc là không hàn huyên tâm sự, thậm chí nhìn bề ngoài giống như một kẻ nhà quê khờ khạo. Khi xưa lúc tôi dụng công khi đi du hành, cả ngày tôi đều nhắm mắt không nhìn ai cả, cũng không nói chuyện với kẻ khác. Dụng công thì phải như vậy, càng nói nhiều chỉ càng vô ích. Nếu quý vị kính trọng các bậc tu hành, thì càng nên tránh nói chuyện nhiều với vị ấy. Cần phải xem ai là nguời nói ít nhất. Khi nguời nào hiểu đuợc nguyên tắc này, họ sẽ xem thuờng những kẻ nhiều chuyện. Trong quá khứ ở Trung Hoa, tại chùa Kim Sơn và chùa Cao Mân, nhiều nguời sống chung bên nhau nhiều năm mà vẩn không hề biết tên nhau. Họ ăn ở, nằm ngũ kế cạnh nhau, nhưng cho dù năm tháng trôi qua vẫn không biết tên tuổi nhau, và cũng không hề nói với nhau một câu.