Vô Ngã

Chia sẻ, thảo luận học hỏi ngũ giới, tám giới, thập giới, đạo đức, phương pháp giáo dục và những vấn đề liên quan.
hien nhan
Bài viết: 136
Ngày: 22/09/08 06:13
Giới tính: Nam

Vô Ngã

Bài viết chưa xem gửi bởi hien nhan »

Mặc dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải thoát cho nên dù chỉ học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho thấu đáo cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu là phải thực hành chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.

Đạo là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên đường cái. Đường cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao nhiêu cây số là bấy nhiêu thời gian tương ứng, có điểm khởi hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì không như thế. Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến đích giác ngộ, thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.

Thế mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta cứ ngăn chận làm cho trễ nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo lui ba bước. Muốn tinh tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn cái đã, để ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp đó càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to càng dễ gây đụng chạm với cái ngã của người khác. Người khác cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại va chạm với ta. Ví như có một ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không khắp, thế mà một khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm nhau đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn thấy chật. Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề ngã chấp này:

Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:
-- Ai đó?
-- Tôi, Linh hồn đáp.

Thượng Đế hỏi:
-- Tôi là ai?
-- Tôi là tôi.

Thượng Đế bảo:
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.

Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại.

Thượng Đế hỏi: -- Ai đó?
Đáp: -- Tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.

Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.

Thí dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã chấp, thì không vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, mới vào được, vì hết ngã chấp. Vì ta với mình tuy hai mà một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ không phải đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.

Một hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang: "Đạo ở đâu?" Sư đáp: "Đạo ở trước mắt" - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không thấy" -" còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Hễ còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy" - "Khi không còn bận nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi, thì bấy giờ ai hỏi đạo ở tại đâu?"

Giả sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài cũng đáp tương tự như thế, và câu đáp cuối cùng hẵn là: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tơi ta, ngươi thì bây giờ ai hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào được? Vì đã không còn tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm thanh tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ có phải ở đâu xa mà phải tìm kiếm?"

Vậy cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là Niết bàn. Cho nên chúng ta thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng. Cái chung là ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc. Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho ta con đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:

"Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)

Vậy thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân biệt chữ "độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần đức tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc lạc của Ngài ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại chữ "độ", nghĩa là vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi chìm trong biển phiền não sanh tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não không còn đất đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất cứ đang ở đâu, bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần phải cất bước đi đến một nơi nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn đại, năm uẩn tạo nên thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà thành chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.

Đức Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất cả các pháp, vào tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào sáu trần, không bị chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong một thời gian nào đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó, trong một thời gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc khác, thì ta lại bị ràng buộc, cho nên ta không được như Phật xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các pháp và tất cả các thời, xứ.

Muốn được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái duyên cho ta tu, hoặc trở thành bình thường không có gì bận tâm cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân thể cho rắn chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động bên ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau khổ sơ sơ và cuối cùng thì không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ nữa. Nên kinh Pháp Cú nói:

Như ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)

Kết luận: Cái Trí ở đây chính là cái trí thấy lý vô ngã vậy.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu (Niết bàn và vô ngã)


hien nhan
Bài viết: 136
Ngày: 22/09/08 06:13
Giới tính: Nam

Re: Vô Ngã

Bài viết chưa xem gửi bởi hien nhan »

TINH THẦN VÔ NGÃ TRONG ĐẠO PHẬT
Thiện Nhân

Là người con Phật ai ai cũng nghe qua hai chữ ‘vô ngã’, nhưng cái tinh thần vô ngã trong đạo Phật thì hình như ít có người quan tâm, nhất là về phương diện áp dụng trong đời sống hàng ngày.

Tôi tin rằng đề tài ‘vô ngã’ đã có nhiều người viết, thậm chí còn là một đề tài để giảng dạy trong các khoá học về Phật Pháp nữa. Tuy nhiên về phương diện thực hành thì có nhiều vấn đề cần được nêu ra ở đây.

Nghĩa thông thường của hai chữ vô ngã rất đơn giản, mặc dù nó là chữ Hán Việt. Trong phạm vi bài viết nầy, chúng ta có thể bắt đầu với cái nghĩa đơn giản và bình dân là nó trái ngược với ‘chấp ngã’ và đôi khi người ta còn đối chiếu với ‘chấp hữu’ nữa.

Theo lối định nghĩa bình dân thì vộ ngã chắc ai cũng biết vô là ‘không’ còn ngã là ‘tôi’. Vậy ‘vô ngã’ có nghĩa ‘không có cái tôi’ hay ‘cái tôi’ không có thực’ theo sự dẫn giải trong đạo Phật, tức là bản sắc của mọi hình tướng mà chúng ta có thể thấy được bằng mắt thông thường là do cái duyên kết hợp của nhiều thành phần vật chất khác nhau. Nếu các thành phần nầy không có mặt thì cái hình tướng đó sẽ không hiện hữu. Bản thân của mỗi người chúng ta được kết hợp bằng bốn thứ vật chất - đất, nước, gió, lửa. Nếu một trong những thứ nầy bị kém khuyết hay thiếu hụt thì thân thể chúng ta có vấn đề thường gọi bệnh!
Như vừa nêu, vô ngã là không có cái tôi; ngược lại, chấp ngã là có cái tôi. Đây là hai khía cạnh triết lý trái nghịch nhau rất quan trọng trong đạo Phật, bởi vì nó chi phối mọi hành vi như lời nói và hành động của con người.

Chúng ta biết rằng, trong cuộc sống hàng ngày bất cứ cá nhân nào cũng cần có người khác về hai nhu cầu vật chất và tinh thần. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, không ai có thể tồn tại được mà không cần phải nhờ vã hay lệ thuộc vào người khác, ngoại trừ trường hợp người đó chỉ sống bằng rau quả thiên nhiên và không cần đến bất cứ một thứ vật chất nào do người khác tạo ra! Trường hợp nầy hoàn toàn không có trong thế giới loài người!

Như vậy, khi nhận biết cuộc sống của mình cần có người khác thì mình phải nghĩ tới người khác; không biết ơn thì cũng phải tôn trọng hay kính trọng họ như là những ân nhân của mình, bất kể họ là người trên hay kẻ dưới thấp kém hơn mình về một khía cạnh nào đó! Như vậy mới gọi là người biết cách sống một cách hợp lý và công bằng.

Muốn tỏ ra mình là một người biết cách sống hợp lý và công bằng thì cần phải quên đi cái tôi của mình, tức là mình không chấp ngã trong từng lời nói và hành động mỗi ngày. Người chấp ngã được định nghĩa theo tinh nthần đạo Phật với từ ngữ ‘cống cao ngã mạng’ còn theo từ ngữ thông thường ngoài đời là người phách lối.

Tinh thần vô ngã trong đạo Phật là kim chỉ nam trong cuộc sống hàng ngày để giúp ta cư xử hài hoà với mọi người, biết tôn trọng người khác cho dù mình đang đứng ở vị thế nào trong tập thể loài người. Tinh thần nầy phải được thể hiện bằng hành động và lời nói. Một ông thầy dạy cho học trò phải biết khiêm tốn mà chính ông thầy không có thái độ khiêm tốn là một điều nghịch lý vô cùng. Hai chữ khiêm tốn phát xuất từ tinh thần vô ngã trong đạo Phật, tức là phải biết hạn chế thái độ cống cao ngã mạn và tưởng mình là quan trọng.

Một giảng sư dạy về thuyết vô ngã mà không thực hành cái thuyết nầy trong các tình huống sinh hoạt thực tế ngoài đời, thì đương nhiên sẽ bị các đạo sinh đánh giá thấp. Nhờ được giảng dạy mà đạo sinh biết được cái thần vô ngã trong đạo Phật; nếu vị giảng sư không áp dụng tinh thần nầy trong sinh hoạt hàng ngày thì sẽ bị chính các môn đệ của mình đặt vấn đề. Đó chính là ‘gậy ông đập lưng ông’ vậy! Tuy nhiên truyền thống của đạo Phật không cho phép môn đệ phê bình, chỉ trích chư tăng vì họ sợ phạm giới.

Ở ngoài đời, nhất là trong các xã hội dân chủ, giới lãnh đạo thu nhận ý kiến của quần chúng để đưa ra các chính sách ‘hợp lòng dân’. Trong các tổ chức chuyên môn, người ta cũng thường thu góp ý kiến của nhiều người để có quyết định về một vấn đề gì đó. Phương thức thu góp ý kiến chung thường là các buổi họp của tổ chức. Trong sinh hoạt Phật Giáo cũng vậy, có nhiều buổi họp khác nhau, thông thường được tổ chức riêng cho giới tì kheo và riêng cho một số thành viên trong Ban Trị Sự. Mục đích các buổi họp như vậy là để đúc kết các quyết định chung trước khi thực hiện các công tác Phật sự bởi một vài thành viên được phân nhiệm trong phiên họp. Như vậy, khi một thành viên không được phân nhiệm mà thực hiện một công tác nào đó thì có thể gây xáo trộn hay bất hoà trong sinh hoạt của tổ chức. Có nhiều khi một thành viên được phân nhiệm, khi thừa hành thì lại không theo đúng tinh thần quyết định chung của tập thể trong phiên họp. Đây là một trường hợp thiếu tinh thần vô ngã, vì họ tự quyết định trong hành động của mình, vì họ tự cho rằng mình có thẩm quyền quyết định, mặc dù nó trái ngược với quyết định của tập thể trong một phiên họp.

Thái độ tự quyết định tuỳ hứng như vậy đã gây ra biết bao khó khăn cho tổ chức. Nó còn là một thái độ coi thường người khác, kể cả người chỉ huy của mình. Và như vậy không làm sao tránh được sự bất hoà trong một tổ chức, không làm sao đạt được hiệu quả tốt trong việc điều hành tổ chức.

Người lãnh đạo có nhiều khi cũng bó tay vì không muốn gây thêm sự xáo trộn hay bất hoà trong tổ chức. Do đó người lãnh đạo có rất nhiều khó khăn phải đương đầu bằng nhẫn nhục, kiên trì thật đáng kính.

Một thành viên cống cao ngã mạn, coi cái tôi của mình lớn quá, mà không có cơ hội tự nhìn lại chính mình để biết mình có đi lạc đường hay hay không thì bản thân sẽ không được tinh tấn trên con đường học đạo đồng thời gây ra nhiều khó khăn cho tổ chức.

Mỗi cá nhân thành viên trong một tổ chức Phật Giáo cần phải có cơ hội thúc đẩy để tự quán chiếu để hy vọng biết được hành vi, thái độ của mình có theo đúng giáo pháp hay không. Nếu cứ chủ quan, nghĩ mình am hiểu, cứ bước đi theo phương cách cá nhân, không có cơ hội tự quán chiếu trong tinh thần giác ngộ của đạo Phật thì làm sao tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc trong hành vi, lời nói của mình? Chủ quan chính là chấp ngã, là tự coi mình là hay, là đúng, hoàn toàn đối nghịch với tinh thần vô ngã trong đạo Phật.

Một sư cô đưa ra nhận xét khá chua cay về thái độ của một số cư sĩ tại một đạo tràng nọ: ‘Sau khi họ tham dự một vài khoá tu, họ tưởng mình đã thành Phật rồi!’ Dù đây chỉ là một nhận xét cá nhân, không có gì bảo đảm trung thực 100%; tuy nhiên nó cũng phản ảnh một hiện tượng thiếu tinh thần vô ngã trong đạo Phật, nhất là trong giới cư sĩ có ý chí tu học để biết thêm giáo lý của Đức Phật; ngặt nỗi cái ‘biết’ thật khó đo lường mà người ta chỉ có thể tự đánh giá về cái ‘biết’ của mình mà thôi. Bản chất của sự hiểu biết đã là trừu tượng rồi, còn lệ thuộc vào sự ‘tự đánh giá’ nữa thì ôi thôi sự hiểu biết của con người thật là mơ hồ và rất dễ chủ quan, chưa kể ‘biết’ mà không thực hành thì lại càng không có nghĩa lý gì! Trên đời nầy, có mấy ai đo lường được cái mình biết là bao nhiêu? Nói cho cùng, sự hiểu biết còn gọi là ‘kiến thức’ không phải của riêng ai hết. Một cá nhân có được một chút hiểu biết về một vấn đề gì đó cũng chỉ qua là vay mượn của người khác mà thôi. Vay mượn từ sách vỡ, từ ‘giảng sư’, hay từ bạn bè thân hữu cũng chỉ là vay mượn! Vậy thì trong tinh thần đạo Phật, chúng ta không ‘vay mượn’ của người khác làm của mình, tức là chúng ta không chấp hữu, bởi vì chấp hữu hay nhận làm của mình những thứ không phải là của mình, tự nó phản lại tinh thần vô ngã trong đạo Phật như đã định nghĩa ở trên – đã không có cái ‘tôi’ thì làm gì có những thứ khác, kể cả cái gọi là kiến thức?

Hiện tượng bất hoà trong một tổ chức Phật Giáo gây ra do chính các thành viên không thể hiện tinh thần vô ngã trong đạo Phật. Trong sinh hoạt Phật Giáo, mục tiêu tối thượng của mỗi người là muốn tạo cho mình có thêm phước báu, duyên lành để hy vọng được về một cảnh giới an lạc của Đức Phật sau khi lìa trần. Nhưng tiếc thay có nhiều người vì hăng say với công việc hay vì thiếu tinh thần vô ngã trong đạo Phật, đã đi lạc hướng và quên cái mục tiêu tối thượng của mình. Bao nhiêu công sức họ bỏ ra trong công tác Phật sự do đó mà không còn có ý nghĩa theo mục tiêu ban đầu.

Vấn đề cốt lỏi là làm sao phổ biến được tinh thần vô ngã trong đạo Phật để cho mọi người noi theo? Xem chừng như chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn giữa vô ngã và chấp ngã, giữa giới lãnh đạo và người thừa hành, bởi vì chúng ta chưa có giải pháp để làm sao cho mọi người giác ngộ hay tự quán chiếu để tránh được thái độ ngã mạn trong từng hành vi và lời nói khi tiếp cận với mọi người chung quanh. Tự nhận biết được khi nào mình có thái độ chấp ngã để tránh, chính là một bước tiến thành công theo tinh thần giác ngộ của đạo Phật vậy.

Thiện Nhân
Melbourne tháng 8 năm 2008


Chanhientam
Bài viết: 959
Ngày: 11/09/07 15:44

Re: Vô Ngã

Bài viết chưa xem gửi bởi Chanhientam »

Bài dài quá nhưng rất hay! Không đọc là rất uổng chư vị ơi! :x


Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Vô Ngã

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:
-- Ai đó?
-- Tôi, Linh hồn đáp.

Thượng Đế hỏi:
-- Tôi là ai?
-- Tôi là tôi.

Thượng Đế bảo:
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.

Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại.

Thượng Đế hỏi: -- Ai đó?
Đáp: -- Tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.

Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.
Ông thượng đế này chấp ngã quá xá, Ai không phải là Ổng thì ổng không cho vào.

Ông thượng đế này có một nơi cư ngụ (thiên đường) để trụ, và công việc là cai trị đám dân ở dưới trần.

vừa không " Vô sở trụ" vừa không "vô vi "


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Chanhientam
Bài viết: 959
Ngày: 11/09/07 15:44

Re: Vô Ngã

Bài viết chưa xem gửi bởi Chanhientam »

binh đã viết: Ông thượng đế này chấp ngã quá xá, Ai không phải là Ổng thì ổng không cho vào.

Ông thượng đế này có một nơi cư ngụ (thiên đường) để trụ, và công việc là cai trị đám dân ở dưới trần.

vừa không " Vô sở trụ" vừa không "vô vi "
Hi hi ... Bác Bình muốn vào chỗ vô sở trụ thì bác Bình phải dùng tâm vô sở trụ hay là tâm năng trụ của chúng sinh? Nhất định là không thể dùng tâm năng trụ mà có thể tương ưng với tâm vô trụ đó rồi. Vậy thì ... cái tâm vô sở trụ đó chấp ngã quá xá! Ai không như nó thì nó không cho vào? :)


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.16 khách