Giới luật lấy tâm tư làm gốc
Đã gửi: 02/12/09 07:56
THIỀN CỦA LUẬT
Hòa Thượng Kim Cang Tử
Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học Số 6 /1992 (Hà Nội)
Người ta thường coi giới thuộc về sự tướng. Vì giới luật chủ trương sự phòng ngừa điều sai trái và uốn nắn tình hình xảy ra mà thi hành cho đúng đắn nên phải bầy ra tỉ mỉ mọi chi tiết xuất phát từ thân miệng (hai nghiệp) của người ta gây nên rõ rệt, pháp đoán mọi lý lẽ để sửa chữa cho được nghiêm chỉnh.
Phàm điều gì đã bộc lộ hành vi phạm tội lỗi là đều do đầu mối ở cái tâm (hay ý) bất chính và si mê mà ra.
Mỗi khi xử đoán một điều gì về giới luật cho ai, cần phải xét cái tâm người đó xem có phải cố ý hay vô tâm (cố tình hay vô tình). Cố ý làm thì đúng là sai phạm, vô tâm thì kết nhẹ hay vô tội.
Như vậy rõ ràng: giới luật lấy tâm tư làm gốc. Nói về làm các điều lành hay điều đúng giới luật, muốn được tinh vi cũng phải xét ở cái tâm như thế.
Về Thanh văn đạo giới luật của bảy chúng thụ trì gọi là “giới tâm”- giới bản là tâm yếu của giới luật.
Mỗi khi người nào trót phạm điều gì thì bậc thầy răn bảo:
“Tự trách tâm ngươi, nên phải từ bỏ điều đó”.
Về Bồ Tát đạo, các thứ giới pháp của Đại thừa đều gọi một tên chung là “Tâm giới”, chủ yếu ngăn ngừa cái tà phi từ lúc tâm niệm mới bắt đầu manh nha ra. Đây là đối lại với Tiểu thừa. Giới của Tiều thừa nếu chỉ kể theo hai nghiệp thân và miệng gây ra chính thì lại thường gọi là “thân giới”.
Kinh Đại thừa lăng nghiêm nói “Tiếp tâm là giới”.
Không tĩnh tâm thì lỗi lầm hay mắc phải.
Tâm giới lại thâm ý của luật Tứ phận tôn sùng.
Ngài Nam sơn luật sư đối với chế giáo (chế giáo là luật trạng Thính giáo là Kinh tạng. Thính giáo cũng gọi là Hoá giáo nhưng nghĩa có khác chút ít) lập ra hai thứ giới thâm phòng và phận hạn. Phận hạn tức là tâm giới.
Giữa luật và thiền có những danh từ : “thiền giới”, “thiền luật” tương quan. Nghĩa là thiền định với giới pháp, thiền tông với luật tông có liên quan mật thiết với nhau. Vì thiền là tâm của Phật, luật là hạnh của Phật. Cho nên thiền với luật đi sát với nhau. Trong luật pháp có đủ cả thiền định tính.
Chiếu theo tinh thần Tứ phận luật tông biểu thị về thiền pháp, ngài Đạo Tuyên đã căn cứ vào tôn chỉ, mục đích của luật về thiền, nêu lên phương hướng gọi là “Thường nhất chi giáo”.
Đặc điểm là điều trong luật dạy “Ưu nhất thiết thời thường nhỉ nhất, tâm niệm trừ chư cái”. Nghĩa là: “lúc nào cũng nhất tâm luôn chuyên niệm diệt trừ năm thứ che lấp”.
Ham muốn : ham mê dục lạc bị che tâm tính.
Tức giận : trái ý giận bực, bị che lấp tâm tính.
Hay ngủ : mờ mịt lòng dạ, bị che lấp tâm tính.
Ngủ vừa để đề nuôi mắt dưỡng thân thì là đúng, nếu ham ngủ li bì vô điều độ thì là nết hư, chướng ngại đạo pháp.
Lời Phật dạy: “Đừng vì ham ngủ mà bị thiệt mất lợi ích của cả cuộc đời”.
Phải nghĩ lửa vô thường đốt cháy thế gian, nên mau cầu độ thoát.
Bọn giặc phiền não thường rình giết người quý hơn kẻ thù, sao cứ mê mết không tỉnh táo ra? Rắn độc phiền não nó ngủ ở trong tâm người; ví như có con rắn độc nằm lịm trong buồng đem cái móc trì giới khử nó đi! Rắn ngủ ra rồi thì mình mới nằm yên được, nếu cứ để nó đấy mà ngủ lấy được, đó là người không biết tự thẹn.
Ngài Sa Môn Thủ Toại chú thích, viện dẫn thêm:
Ngủ là che lấp chân tính thêm lớn “vọng hoặc vô minh”). Trong lúc ngủ mệt thân thể thô tháo không biết xấu hổ. Ngài Tôn giả A na luật đà là con trai vua Bạch Phạn, em thúc bá của Phật xuất gia vẫn cứ ham ngủ, Phật quở rằng:
Này này ngủ chi gì lắm,
Như trai hến ngao sò;
Giấc ngủ chướng nghìn năm,
Không được nghe hiệu Phật.
Nghe vậy Tôn giả khóc lóc trách mình, suốt bảy ngày liền không ngủ, bị hỏng đôi mắt thịt, nhưng lại được có thần thông “Mắt đạo thiên nhỡn” soi khắp thế giới Đại thiên rõ như nhìn trong lòng bàn tay; lại được chứng phép Tam muội rất kỳ diệu (trích dịch trong Kinh Di giáo, tiết Hổ thẹn thứ tư.
Trong kinh Đại thừa thường nói:
“Chư Phật, chư đại Bồ Tát trong giấc ngủ cũng vẫn làm Phật sự, lợi ích vô lượng chúng sinh.”
Trạo hối: não loạn không ngừng, bị che lấp tâm tính.
Nghi pháp: ngờ vực giáo pháp, bị che lấp tâm tính.
Trừ bỏ được năm điều trên thì tâm tính phẳng lặng sáng suốt không bị huỷ phạm, dẫn tới đắc định phát tuệ mà thành đạo vậy.
Có năm đoạn kệ dạy răn như sau:
Kệ nói và ham muốn:
Dục lạc khi cầu khổ, được thì hay sợ hãi
Khi mất lại não nùng, không có lúc nào vui.
Vạ dục lạc như thế, sao lại không chịu bỏ.
Đắc mọi thiền định lạc, không bị cái gì lừa.
Dục lạc thật khó gỡ, lấy gì mà gỡ ra.
Chí có quán “thực tướng” là không bị ràng buộc.
(Quán thực tướng là quan sát mọi hành tướng trong thế gian, do thể tính chân thực ứng hiện ra tất cả, không bị lầm lạc theo đuổi những cái mà bị sa đoạ sinh tử luân hồi)
Như vậy các pháp quán, hay diệt mọi lửa dục.
Như trận mưa rào lớn dập tắt lửa cháy đồng.
Kệ nói về tức giận:
Dù không tội gieo vào không bị sự khiển trách.
Còn nên sẵn lòng lành nữa là họ đã khổ.
Hãy xét lão bệnh tử nào ai tránh khỏi đâu.
Nên khởi lòng từ bi sao nỡ đối xử tệ.
Thường đem lòng từ bi Định tâm tu thiền định.
Không nên mang mối hận Mã não hại người ta.
Nếu muốn diệt tức giận Nên suy nghĩ lòng thành.
Ở một nơi tĩnh mịch Đẹp mọi sự não lòng
Kệ nói về hay ngủ:
Lửa chết đương đốt khắp thế gian
Không cầu thoát khỏi còn ngủ yên.
Như người bị trói giong đi chết.
Mất mạng đến nơi ngủ được sao.
Ngủ là mê nuội chỉ mơ màng,
Nó cướp ánh sáng của người đó.
Màng ngủ phủ lòng chẳng biết gì
Ham ngủ mất nhiều công đức lợi.
Kệ nói về trạo hối:
Trạo loạn khó tiếp tâm
Như voi say thả rổng.
Hối não như trúng tên
Đâm sâu không rút ra.
Điều đáng kiêng thì làm
Đáng làm lại không làm
Lửa áo não đốt lòng
Sau phải sa đường dữ
Người có tội hay hối
Biết hối rồi thì thôi.
Như vậy tâm yên vui.
Đừng nên vướng vấn mãi
Có hai thứ hối tâm
Không làm hay đã làm
Hối hận như vậy mãi
Đó là hạng người ngu.
Kệ nói về nghi pháp:
Như người giữa đường rẽ
Ngờ vực cứ quanh co
Với “thực tướng” mọi pháp
Ngờ vực cũng như vậy.
Ngờ nên không cần cầu
Thực tướng của mọi pháp
Bởi si mê sinh ngờ
Trong pháp lành chẳng lành
Sinh tử và Niết bàn
Quyết định có thực pháp
Điều đó chớ sinh ngờ.
Nếu sinh lòng ngờ vực
Tử ngục tự giam mình
Hươu bị sư tử vồ.
Không thể giải thoát được.
Năm đoạn diệu kệ trên trích dịch trong bộ Đại Trí Độ luận quyển thứ 17.
http://www.thuvienhoasen.org/kct-thiencualuat.htm
Hòa Thượng Kim Cang Tử
Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học Số 6 /1992 (Hà Nội)
Người ta thường coi giới thuộc về sự tướng. Vì giới luật chủ trương sự phòng ngừa điều sai trái và uốn nắn tình hình xảy ra mà thi hành cho đúng đắn nên phải bầy ra tỉ mỉ mọi chi tiết xuất phát từ thân miệng (hai nghiệp) của người ta gây nên rõ rệt, pháp đoán mọi lý lẽ để sửa chữa cho được nghiêm chỉnh.
Phàm điều gì đã bộc lộ hành vi phạm tội lỗi là đều do đầu mối ở cái tâm (hay ý) bất chính và si mê mà ra.
Mỗi khi xử đoán một điều gì về giới luật cho ai, cần phải xét cái tâm người đó xem có phải cố ý hay vô tâm (cố tình hay vô tình). Cố ý làm thì đúng là sai phạm, vô tâm thì kết nhẹ hay vô tội.
Như vậy rõ ràng: giới luật lấy tâm tư làm gốc. Nói về làm các điều lành hay điều đúng giới luật, muốn được tinh vi cũng phải xét ở cái tâm như thế.
Về Thanh văn đạo giới luật của bảy chúng thụ trì gọi là “giới tâm”- giới bản là tâm yếu của giới luật.
Mỗi khi người nào trót phạm điều gì thì bậc thầy răn bảo:
“Tự trách tâm ngươi, nên phải từ bỏ điều đó”.
Về Bồ Tát đạo, các thứ giới pháp của Đại thừa đều gọi một tên chung là “Tâm giới”, chủ yếu ngăn ngừa cái tà phi từ lúc tâm niệm mới bắt đầu manh nha ra. Đây là đối lại với Tiểu thừa. Giới của Tiều thừa nếu chỉ kể theo hai nghiệp thân và miệng gây ra chính thì lại thường gọi là “thân giới”.
Kinh Đại thừa lăng nghiêm nói “Tiếp tâm là giới”.
Không tĩnh tâm thì lỗi lầm hay mắc phải.
Tâm giới lại thâm ý của luật Tứ phận tôn sùng.
Ngài Nam sơn luật sư đối với chế giáo (chế giáo là luật trạng Thính giáo là Kinh tạng. Thính giáo cũng gọi là Hoá giáo nhưng nghĩa có khác chút ít) lập ra hai thứ giới thâm phòng và phận hạn. Phận hạn tức là tâm giới.
Giữa luật và thiền có những danh từ : “thiền giới”, “thiền luật” tương quan. Nghĩa là thiền định với giới pháp, thiền tông với luật tông có liên quan mật thiết với nhau. Vì thiền là tâm của Phật, luật là hạnh của Phật. Cho nên thiền với luật đi sát với nhau. Trong luật pháp có đủ cả thiền định tính.
Chiếu theo tinh thần Tứ phận luật tông biểu thị về thiền pháp, ngài Đạo Tuyên đã căn cứ vào tôn chỉ, mục đích của luật về thiền, nêu lên phương hướng gọi là “Thường nhất chi giáo”.
Đặc điểm là điều trong luật dạy “Ưu nhất thiết thời thường nhỉ nhất, tâm niệm trừ chư cái”. Nghĩa là: “lúc nào cũng nhất tâm luôn chuyên niệm diệt trừ năm thứ che lấp”.
Ham muốn : ham mê dục lạc bị che tâm tính.
Tức giận : trái ý giận bực, bị che lấp tâm tính.
Hay ngủ : mờ mịt lòng dạ, bị che lấp tâm tính.
Ngủ vừa để đề nuôi mắt dưỡng thân thì là đúng, nếu ham ngủ li bì vô điều độ thì là nết hư, chướng ngại đạo pháp.
Lời Phật dạy: “Đừng vì ham ngủ mà bị thiệt mất lợi ích của cả cuộc đời”.
Phải nghĩ lửa vô thường đốt cháy thế gian, nên mau cầu độ thoát.
Bọn giặc phiền não thường rình giết người quý hơn kẻ thù, sao cứ mê mết không tỉnh táo ra? Rắn độc phiền não nó ngủ ở trong tâm người; ví như có con rắn độc nằm lịm trong buồng đem cái móc trì giới khử nó đi! Rắn ngủ ra rồi thì mình mới nằm yên được, nếu cứ để nó đấy mà ngủ lấy được, đó là người không biết tự thẹn.
Ngài Sa Môn Thủ Toại chú thích, viện dẫn thêm:
Ngủ là che lấp chân tính thêm lớn “vọng hoặc vô minh”). Trong lúc ngủ mệt thân thể thô tháo không biết xấu hổ. Ngài Tôn giả A na luật đà là con trai vua Bạch Phạn, em thúc bá của Phật xuất gia vẫn cứ ham ngủ, Phật quở rằng:
Này này ngủ chi gì lắm,
Như trai hến ngao sò;
Giấc ngủ chướng nghìn năm,
Không được nghe hiệu Phật.
Nghe vậy Tôn giả khóc lóc trách mình, suốt bảy ngày liền không ngủ, bị hỏng đôi mắt thịt, nhưng lại được có thần thông “Mắt đạo thiên nhỡn” soi khắp thế giới Đại thiên rõ như nhìn trong lòng bàn tay; lại được chứng phép Tam muội rất kỳ diệu (trích dịch trong Kinh Di giáo, tiết Hổ thẹn thứ tư.
Trong kinh Đại thừa thường nói:
“Chư Phật, chư đại Bồ Tát trong giấc ngủ cũng vẫn làm Phật sự, lợi ích vô lượng chúng sinh.”
Trạo hối: não loạn không ngừng, bị che lấp tâm tính.
Nghi pháp: ngờ vực giáo pháp, bị che lấp tâm tính.
Trừ bỏ được năm điều trên thì tâm tính phẳng lặng sáng suốt không bị huỷ phạm, dẫn tới đắc định phát tuệ mà thành đạo vậy.
Có năm đoạn kệ dạy răn như sau:
Kệ nói và ham muốn:
Dục lạc khi cầu khổ, được thì hay sợ hãi
Khi mất lại não nùng, không có lúc nào vui.
Vạ dục lạc như thế, sao lại không chịu bỏ.
Đắc mọi thiền định lạc, không bị cái gì lừa.
Dục lạc thật khó gỡ, lấy gì mà gỡ ra.
Chí có quán “thực tướng” là không bị ràng buộc.
(Quán thực tướng là quan sát mọi hành tướng trong thế gian, do thể tính chân thực ứng hiện ra tất cả, không bị lầm lạc theo đuổi những cái mà bị sa đoạ sinh tử luân hồi)
Như vậy các pháp quán, hay diệt mọi lửa dục.
Như trận mưa rào lớn dập tắt lửa cháy đồng.
Kệ nói về tức giận:
Dù không tội gieo vào không bị sự khiển trách.
Còn nên sẵn lòng lành nữa là họ đã khổ.
Hãy xét lão bệnh tử nào ai tránh khỏi đâu.
Nên khởi lòng từ bi sao nỡ đối xử tệ.
Thường đem lòng từ bi Định tâm tu thiền định.
Không nên mang mối hận Mã não hại người ta.
Nếu muốn diệt tức giận Nên suy nghĩ lòng thành.
Ở một nơi tĩnh mịch Đẹp mọi sự não lòng
Kệ nói về hay ngủ:
Lửa chết đương đốt khắp thế gian
Không cầu thoát khỏi còn ngủ yên.
Như người bị trói giong đi chết.
Mất mạng đến nơi ngủ được sao.
Ngủ là mê nuội chỉ mơ màng,
Nó cướp ánh sáng của người đó.
Màng ngủ phủ lòng chẳng biết gì
Ham ngủ mất nhiều công đức lợi.
Kệ nói về trạo hối:
Trạo loạn khó tiếp tâm
Như voi say thả rổng.
Hối não như trúng tên
Đâm sâu không rút ra.
Điều đáng kiêng thì làm
Đáng làm lại không làm
Lửa áo não đốt lòng
Sau phải sa đường dữ
Người có tội hay hối
Biết hối rồi thì thôi.
Như vậy tâm yên vui.
Đừng nên vướng vấn mãi
Có hai thứ hối tâm
Không làm hay đã làm
Hối hận như vậy mãi
Đó là hạng người ngu.
Kệ nói về nghi pháp:
Như người giữa đường rẽ
Ngờ vực cứ quanh co
Với “thực tướng” mọi pháp
Ngờ vực cũng như vậy.
Ngờ nên không cần cầu
Thực tướng của mọi pháp
Bởi si mê sinh ngờ
Trong pháp lành chẳng lành
Sinh tử và Niết bàn
Quyết định có thực pháp
Điều đó chớ sinh ngờ.
Nếu sinh lòng ngờ vực
Tử ngục tự giam mình
Hươu bị sư tử vồ.
Không thể giải thoát được.
Năm đoạn diệu kệ trên trích dịch trong bộ Đại Trí Độ luận quyển thứ 17.
http://www.thuvienhoasen.org/kct-thiencualuat.htm