Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Trì Địa Bồ Tát liền đứng dạy, đảnh lễ bạch Phật:
- Con nhớ kiếp xưa, khi Phật Phổ Quang ra đời, con làm Tỳ Kheo, thường hay sửa sang những đoạn đường, bến nước, nơi gập ghềnh, lối lõm làm cản trở xe cộ, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng chịu cực, trải qua nhiều đời Phật. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa cần người mang đồ, con liền mang giúp đến nơi đến chốn mà chẳng lấy tiền.
- Khi Phật Tỳ Xá Phù ra đời, nhằm lúc đói kém, con cõng giứp người chẳng kể gần xa, chỉ lấy một xu. hoặc có xe trâu bị sa xuống bùn lầy, con dùng thần lực xô kéo, khiến ra khỏi khổ não. Thuở đó vua thiết trai cúng dường Phật, con bèn sửa đường chờ Phật đi qua. Tỳ Xá Như Lai xoa đỉnh đầu con bảo rằng "Nên bình tâm địa thì tất cả địa trên thế giới đều bình". Con liền khai ngộ, thấu rõ vi trần của thân thể với vi trần tạo thành thế giới đều chẳng sai biệt. Vi trần tự tánh không, nên mỗi mỗi đều chẳng đụng chạm nhau, cho đến binh lính giao chiến cũng chẳng đụng chạm. Con do pháp tánh ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn đắc quả A La Hán, hồi tâm hướng Đại Thừa, vào ngôi vị Bồ Tát, nghe chư Phật khai diễn Diệu Pháp Liên Hoa, nhập Tri Kiến Phật, con được chứng minh là bậc thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, con do QUÁN THÂN THỂ VÀ THẾ GIỚI, HAI THỨ VI TRẦN CHẲNG SAI BIỆT, VỐN LÀ NHƯ LAI TẠNG, DO HƯ VỌNG PHÁT SANH RA CẢNH TRẦN. TRẦN TIÊU THÌ TRÍ HIỆN, THÀNH VÔ THƯỢNG ĐẠO là hơn cả.

Nguyệt Quang Đồng Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Thủy Thiên ra đời, dạy chư Bồ Tát tu tập Thủy Quán, vào Tam Ma Địa. Con quán tánh thủy trong thân, từ nước mũi, nước bọt cho đến các thứ dịch vị, tinh huyết, đại tiểu tiện lưu chuyển trong thân đều đồng một tánh thủy, thấy nước trong thân cùng nước các bể Hương Thủy của Liên Hoa Tạng thế giới chẳng khác.
- Khi con mới tu hành quán này, tuy thấy được nước, chưa quên được thân. Lúc ấy con là Tỳ Kheo tọa thiền trong phòng, đệ tử con từ cửa sổ nhìn vào, thấy nước đầy trong phòng, nó nhỏ dại không biết, liền lấy một miểng ngói ném vào nước,phát ra tiếng, thích thú bỏ đi. Khi con xuất định, liền thấy đau tim như Xá Lợi Phất bị quỉ Vi Hại đập. Con tự nghĩ: Nay con đã đắc quả A La Hán, lìa khỏi bệnh duyên đã lâu, sao bỗng bị đau tim ? chẳng lẽ lại bị lui sụt chăng ? Lúc bấy giớ đệ tử đến kể lại việc trên, con mới bảo nó : Sau này nếu lại thấy nước thì mở cửa vào lấy miểng ngói ra. Đệ tử vâng lời, khi con nhập định nó lại thấy nước với miểng ngói rõ ràng, liền mở cửa lấy ra. Sau đó con xuất định thì thân thể lại được như cũ.
- Con đã trải qua nhiều đời, gặp vô số Phật. Đến đời Sơn Hải Đại Tự Tại Thông Vương Như Lai thì con mới quên được thân. Từ đó cả thân đều hóa thành nước, cùng với các bể Hương Thủy nơi mười phương thế giới đồng một tánh Chơn Không, chẳng hai, chẳng khác. Nay ở nơi Như Lai được danh hiệu là Đồng Chơn, dự hội Bồ Tát. Phật hỏi về viên thông, con do QUÁN TÁNH NƯỚC MỘT MỰC LƯU THÔNG ĐƯỢC VÔ SANH NHẪN, BỒ ĐỀ VIÊN MÃN là hơn cả.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lưu Ly Quang, Pháp Vuơng Tử liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật :
- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Quang ra đời, khai thị Bản Giác Diệu Minh cho hàng Bồ Tát, dạy quán thế giới và thân chúng sanh đều theo sức gió của vọng duyên xoay chuyển.
- Bấy giờ con quán sự an lập của không gian, sự động chuyển của thời gian, hành động của thân thể, sự động tịnh của tâm niệm. Những thứ động ấy đều chẳng hai, chẳng khác. Lúc đó con liền giác ngộ tánh của những thứ động ấy, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu. Mười phuơng vô số điên đảo chúng sinh đều đồng một hư vọng như vậy, cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới, giống như hàng trăm con muỗi đựng trong bình, vo ve kêu ầm ĩ, ở nơi nhỏ hẹp phát ra náo loạn. Con gặp Phật chưa bao lâu, được Vô Sanh Nhẫn, lúc bấy giờ khai ngộ, thấy cõi Phật Đông Phuơng Bất Động, làm Pháp Vuơng Tử, phụng sự mười phuơng Phật, thân tâm phát ra ánh sáng, thấu triệt chẳng ngại. Phật hỏi về viên thông, con do QUÁN SỨC GIÓ CHẲNG NƠI NUƠNG TỰA, NGỘ TÂM BỒ ĐỀ, VÀO TAM MA ĐỊA, KHẾ HỢP VỚI DIỆU TÂM CỦA MƯỜI PHUƠNG PHẬT là hơn cả.

Hư Không Tạng Bồ Tát liền đứng dạy, đảnh lễ bạch Phật :
- Con cùng Như Lai chứng Vô Biên Thân nơi Phật Định Quang. Lúc ấy tay con cầm bốn hạt châu lớn, chiếu sáng mười phuơng, vô số Phật sát đều thành hư không, lại ở nơi tự tâm hiện Đại Viên Cảnh, phóng ra mười thứ hào quang vi diệu, soi khắp Liên Hoa Tạng thế giới và tận mười phuơng hư không đều vào trong viên cảnh, xen nhập vào thân con như xen vào hư không chẳng ngăn ngại nhau. Thân con hay vào vô số quốc độ, tùy thuận đại thần lực, rộng làm Phật sự. Con quán tứ đại chẳng nơi nuơng tựa, vọng tưởng, sanh diệt, với hư không và cõi Phật vốn đồng, do phát minh tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con do QUÁN HƯ KHÔNG VÔ BIÊN, VÀO TAM MA ĐỊA, DIỆU LỰC SÁNG TỎ là hơn cả.

Di Lạc Bồ tát liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật :
- Con nhớ vô số kiếp trước, có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời, con dù theo Phật xuất gia, còn ham danh dự thế gian, ưa giao du với các quí tộc. Lúc ấy Thế Tôn dạy con tu tập Duy Tâm Thức Định, vào Tam Ma Địa. Từ nhiều kiếp đến nay dùng Tam Ma Địa này phụng sự hằng sa chư Phật, sự ham cầu danh dự đã dứt sạch. Đến đời Phật Nhiên Đăng, con mới được thành "Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội", ngộ các pháp dơ-sạch, có-không, nơi tất cả cõi Phật, đều do tâm thức biến hiện.
- Thế Tôn ! Vì con ngộ Duy Tâm Thức như thế, nên từ thức tánh hiện ra vô số Như lai , nay được thọ ký sẽ thừa kế ngôi Phật ở cõi này. Con QUÁN MƯỜI PHUƠNG DUY THỨC, TÂM THỨC SÁNG TỎ, CHỨNG NHẬP VIÊN THÀNH THẬT, LÌA TÁNH Y THA KHỞI VÀ BIẾN KẾ CHẤP, ĐẮC VÔ SANH NHẪN là hơn cả.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI

Từ bắt đầu tu tập Duy Tâm Thức Định, đến khi thành "Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội", tức là đã chuyển thức thành trí, nên nói vào Viên Thành Thật.
Khi chưa chuyển thức còn bị cảnh buộc, gọi là Biến kế chấp. Phá được Biến kế chấp , còn bị pháp buộc, gọi là Y tha khởi.

Ham danh dự thế gian, thích giao du với quí tộc, là cái tướng Biến kế chấp.
Sự ham cầu danh lợi thế gian đã dứt sạch, là cái tướng chấp Y tha khởi.
Đến khi liễu ngộ tất cả duy tâm thức, nên thức tánh hiện ra vô số Như lai, ấy là tướng Viên Thành Thật vậy.

Kinh giải Thâm Mật có nói:
Người mắt nhậm như Biến kế chấp,
hiện màu xanh vàng như Y tha khởi,
con mắt trong sáng như Viên Thành Thật vậy.


Bố Tát Di Lạc tu pháp môn Duy Tâm Thức Định, chuyển thức thành trí.
Chúng ta biết rằng mỗi vọng niệm đều là một niệm chúng sanh. Sau khi được chuyển thành trí thì mỗi niệm đều là một niệm Phật. Cho nên nói “Độ tận chúng sanh, cùng thành Phật đạo”. Do đó Bồ Tát thấy
“ từ thức tánh hiện ra vô số Như lai ”.

Con mắt nhậm tức là còn vô minh thì chấp vạn pháp đều có thật. Gọi là biến kế chấp.
Dựa vào giáo pháp của Thế Tôn thì thấy vạn pháp đều hư vọng. Nhưng vẫn còn chấp vào Pháp của Thế Tôn, như người chỉ thấy màu vang, màu xanh v.v… nên gọi là Y tha khởi.
Đến khi mắt hết đau, nhìn thấy mọi sự thật , nên gọi là Viên Thành Thật.


Đại Thế Chí Pháp Vuơng Tử cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu ,liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật:
- Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Quang ra đời, thuở đó mười hai vị Như Lai kế tiếp nhau thành Phật trong một kiếp. Vị Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyêt Quang, dậy con tu "Niệm Phật Tam Muội", ví như có người chuyên nhớ, có người chuyên quên. Nếu hai người ấy nhớ nhau, không kể gặp hay chẳng gặp, thấy mặt hay chẳng thấy. Cứ nhớ mãi, in sâu vào tâm niệm, cho đến đời này, đời khác, thì như hình với bóng, chẳng cách xa nhau.
- Mười phuơng Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh thì dù mẹ nhớ cũng chẳng làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì đời này hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ phuơng tiện, tâm tự khai ngộ. Như người ướp huơng, thân có mùi huơng, ấy gọi là Huơng Quang Trang Nghiêm. Bản nhân của con là dùng tâm niệm Phật, đắc vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này tiếp người niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do THU NHIẾP LỤC CĂN, TỊNH NIỆM TUƠNG TỤC, VÀO TAM MA ĐỊA là hơn cả.

LƯỢC GIẢI

Người niệm Phật chẳng có một sát na niệm ngũ dục của thế gian, mới được gọi là Tịnh niệm (Tâm niệm trong sạch).
Tịnh niệm tuơng tục như con nhớ mẹ, là miệng niệm tâm nhớ, oai nghi nghiêm chỉnh, tai chẳng nghe tiếng khen chê, mũi chẳng ngửi thấy mùi thơm hay thối, lưỡi chẳng nếm vị ngon dở, thân chẳng tiếp xúc lạnh ấm, ý chẳng phân biệt buồn vui. Ấy mới được gọi là nhiếp cả lục căn, cho đến nhất tâm bất loạn, như thế thì trong Tam Ma Địa ắt phải thấy Phật.
- Nói chẳng nhờ tu tập, tự được khai ngộ, như người ướp huơng, chẳng mong mùi hương mà tự có mùi huơng, ấy là nguyện lúc bất khả tư nghị của Phật A Di Đà. Dù nói nhờ nguyện lực của Phật Di Đà nhưng cần phải có đại nguyện của chính mình để tuơng ưng với đại nguyện của Phật thì mới được thành tựu.
- Đại nguyện, nếu chỉ dùng tâm nghĩ, miệng nói ấy là nguyện suông, cần phải thực hành theo đúng đại nguyện mình phát ra, mới là nguyện chân thực, và mới có thể tuơng ưng với Đại nguyện của Phật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Kính các đ/h. Phần này sẽ tiếp theo phần nói về pháp tu Quán Âm của Bồ Tát Quán Thế Âm, nên các đ/h thấy có cách quãng.
Mong các đ/h thông cảm, vì phần Bồ Tát Quán Thế Âm đã đăng trước rồi.

A Nan ở trong chúng sửa áo chỉnh tề, chắp tay đảnh lễ, cúi đầu bạch Phật :
- Bạch Thế Tôn ! Nay con đã ngộ pháp môn thành Phật, theo đó tu hành, chẳng còn nghi hoặc. Con thường nghe Như Lai nói "Tự mình chưa độ mà độ người khác trước, ấy là chỗ phát tâm của Bồ Tát. Tự Giác đã trọn, hay giác ngộ người khác, ấy là sự thế độ của Như Lai". Con dù chưa được độ, nhưng nguyện độ tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp. Thế Tôn ! Những chúng sanh này cách Phật ngày càng xa, muốn nhiếp tâm họ nhập Tam Ma Địa, thì nên khiến họ dựng lập đạo tràng như thế nào để xa lìa các ma sự, được chẳng lui sụt nơi tâm Bồ Đề ?

Bấy giờ Thế Tôn ở trong chúng khen ngợi A Nan:
- Lành thay! Lành thay! Như nguơi hỏi về pháp an lập đạo tràng, cứu giúp chúng sanh trong đời mạt pháp, nguơi hãy lắng nghe, Ta sẽ vì nguơi mà nói .

- Nguơi thường nghe Ta khai giảng ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong luật tạng, ấy là : Nhiếp tâm thành giới, từ giới sanh định, từ định phát huệ. Ấy gọi là ba vô lậu học.

- A Nan ! Làm sao nhiếp tâm gọi là giới ?

1) - Nếu chúng sanh lục đạo trong thế giới, tâm chẳng dâm dục, thì chẳng theo dòng sanh tử tuơng tục.
Người tu Chánh Định cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục chẳng trừ, thì chẳng thể ra khỏi, dẫu cho có nhiều trí huệ, thiền định hiện tiền, nếu chẳng đoạn dâm ắt phải lạc vào ma đạo, hạng trên thành ma vuơng, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ.
- Nguơi dậy người đời tu Tam Ma Địa, trước nhất phải chấm dứt dâm dục, ấy là lời dạy bảo rõ ràng, trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ nhất của chư Phật.
- A Nan ! Nếu chẳng dứt dâm dục mà tu thiền định, cũng như nấu cát muốn thành cơm, dù trải qua trăm ngàn kiếp, cũng chỉ là cát nóng.
Tại sao ? Vì cát vốn chẳng phải là cơm vậy.
Cũng thế, nếu lấy tham dâm mà cầu diệu quả của Phật, dẫu được khai ngộ, cũng chỉ là gốc dâm. Cội gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong tam ác đạo, chẳng thể thoát khỏi, vậy làm sao có thể tu chứng đạo Niết Bàn ! Phải khiến thân tâm đều dứt hết sự dâm, cả cái dứt cũng chẳng có, thì mới có thể hy vọng chứng quả Bồ Đề.
- Như lời Ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế là tà ma thuyết.

2) - A Nan ! Lại chúng sanh lục đaọ trong thế giới, nếu tâm chẳng sát hại, thì chẳng theo dòng sanh tử tuơng tục.
- Người tu chánh định, cốt ra khỏi trần lao, Nếu tâm sát hại chẳng trừ, thì chẳng thể ra khỏi. Dẫu có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, mà chẳng dứt sát hại, ắt phải lạc vào đạo quỷ thần. Hạng trên thành Đại lực quỷ, hạng giữa thành phi hành dạ xoa và các loại quỷ soái, hạng dưới thành địa hành la sát.
- Nguơi dạy người đời tu Tam Ma Địa, phải dứt trừ sát sanh, , ấy là dạy rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ hai của chư Phật !
- A Nan ! Nếu có người chẳng dứt sát hại mà tu thiền định, cũng như người tự bịt lỗ tai ,lớn tiếng kêu to, mà mong người khác chẳng nghe. Bọn này gọi là muốn giấu mà càng lộ. Hàng Tỳ Kheo trong sạch và chư Bồ Tát đi trên đường tẻ còn chẳng dẫm lên trên cỏ, huống chi là nhổ cỏ. Làm sao người có lòng đại bi lại ăn thịt chúng sanh ?
- Nếu Tỳ Kheo chẳng mặc tơ lụa, chẳng mang giáy dép da cừu, chẳng ăn những tô lạc, đề hồ... thuộc bộ phận thân thể của chúng sanh, thì Tỳ Kheo này nơi thế gian gọi là chơn giải thoát, khi nợ xưa trả sạch thì chẳng sanh vào tam giới.
Tại sao ? Vì dùng những bộ phận thân thể của chúng sanh để ăn mặc, thì phải trả nợ chúng sanh. Như người ăn thóc lúa mọc từ đất thì chân chẳng lìa đất. Cũng vậy, người mà đối với thân thể của chúng sanh chẳng ăn chẳng mặc, Ta nói người này là chơn giải thoát.
- Như lời Ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế gọi là ma thuyết.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3) - A Nan ! Lại như chúng sanh lục đạo trong thế giới, tâm chẳng trộm cắp thì chẳng theo dòng sinh tử tuơng tục.
- Người tu hành chánh định, cốt ra khỏi trần lao, nếu tâm trộm cắp chẳng trừ thì chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, mà chẳng dứt tâm trộm cắp, ắt phải lạc vào tà đạo. Hạng trên thành linh tinh, hạng giữa thành yêu mỵ, hạng dưới thành kẻ tà.
- Ta dạy các Tỳ Kheo tùy nghi khất thực, xả bỏ lòng tham, mới thành đạo Bồ Đề. Các Tỳ Kheo chẳng tự nấu ăn, huyễn thân tạm gởi nơi tam giới, thị hiện một đời sinh tử, đi rồi chẳng về (giải thoát sanh tử thì ra khỏi luân hồi, chẳng về tam giới). Tại sao bọn giặc mặc áo đạo Phật, giả mạo Tỳ Kheo, buôn bán Như Lai, tạo đủ thứ nghiệp, đều nói là Phật pháp ! Kỳ thật, họ chẳng phải là người chánh thức xuất gia, có thọ giới Tỳ Kheo của đạo Tiểu thừa. Do vậy khiến vô số chúng sanh mắc phải nghi lầm, đọa địa ngục A Tỳ.
Sau khi Ta diệt độ, nếu có Tỳ Kheo phát tâm quyết định tu Tam Ma Địa,ở trước hình tượng Phật, đốt một lóng tay hay đốt một liều trên thân, Ta nói người ấy, những nợ xưa từ vô thỉ đều sẽ được nhất thời trả hết, từ giã thế gian, thoát hẳn phiền não, dù chưa ngộ được đạo vô thượng, nhưng đối với Phật pháp đã có lòng tin quyết định. Nếu chẳng làm cái nhân xả thân nhỏ mọn này, thì dẫu thành vô vi, ắt còn phải sanh cõi người, trả các nợ xưa, như quả báo mã mạch của Ta chẳng có sai khác. (Mã mạch là lúa cho ngựa ăn. Phật dù đã thành đạo vẫn bị quả báo phải ăn lúa ngựa)
Ngươi dạy người đời tu Tam Ma Địa, thì phải dứt tâm trộm cắp, ấy là lời dạy rõ ràng, trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ ba của chư Phật
- A Nan ! Nếu chẳng dứt tâm trộm cắp, mà tu thiền định, cũng như người lấy nước rót vào cái bình thủng, dù trải qua vô số kiếp cũng không thể đầy.
- Nếu hàng Tỳ Kheo, ngoài y bát ra, mảy may không tích trũ, xin ăn có dư, bố thí cho kẻ đói. Giữa nơi nhóm họp, chắp tay đảnh lễ chúng, có người đánh mắng, xem như khen ngợi, quyết định xả bỏ thân tâm. Với tất cả chúng sanh, cộng chung một da thịt xương máu. Chẳng lấy thuyết bất liễu nghĩa của Như lai làm của mình, rồi dạy lầm mà hại cho kẻ sơ học, thì Phật ấn chứng người đó được chơn Tam Muội.
- Như lời Ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế, gọi là ma thuyết.

4) - A Nan ! Chúng sanh lục đạo trên thế giới, dù nơi thân tâm chẳng còn SÁT, ĐẠO, DÂM, nếu mắc phải đại vọng ngữ thì với Tam Ma Địa chẳng được trong sạch, thành giống ma ái kiến lạc mất giống Phật.
Chưa đắc quả, nói đã đắc, chưa chứng ngộ nói đã chứng. Như bảo người khác rằng :"Nay tôi đã được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát Thập Địa". Hoặc vì cầu sự thù thắng bậc nhất nơi thế gian, hoặc vì tham sự cúng dường, bảo họ lễ sám. Bọn Nhất Xiển Đề này tiêu diệt giống Phật, như người lấy dao chặt cây Đa La, Phật thọ ký người ấy mất hẳn thiện căn, chẳng có chánh kiến, chìm đắm trong tam ác đạo, chẳng thể thành tựu chánh định.

- Ngươi dạy người đời tu Tam Ma Địa, sau cùng phải dứt trừ đại vọng ngữ, ấy là lời dạy rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ tư của chư Phật.
- A Nan ! Nếu chẳng dứt đại vọng ngữ, cũng như lấy phẩn khắc hình cây chiên đàn, muốn được mùi thơm thì chẳng có chỗ đúng.
- Ta dạy Tỳ Kheo " TRỰC TÂM LÀ ĐẠO TRÀNG", tất cả hạnh nơi tứ oai nghi còn chẳng giả dối, làm sao lại tự xưng đã được pháp Thượng Nhân, ví như người nghèo tự xưng là vua , chỉ tự cầu tội chém, huống là trộm cắp danh hiệu của Pháp Vương !
- Cần phải biết nhơn địa chẳng chơn thì chiêu quả quanh co, nếu như thế mà cầu đạo Bồ Đề, cũng như người muốn tự cắn rốn mình, đâu thể thành tựu.
- Nếu các Tỳ Kheo , tâm ngay thẳng như dây đàn, tất cả chơn thật, vào Tam Ma Địa, hẳn không kẹt ma sự, Ta ấn chứng người ấy thành tựu Bồ Tát vô thượng tri giác.
Như Lời Ta thuyết gọi là Phật thuyết, chẳng thuyết như thế tức là ma thuyết.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật bảo :
- A Nan nên biết ! Diệu tâm sáng tỏ, lìa những danh tướng, vốn chẳng có thế giới chúng sinh. Do vọng có sanh, do sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy tức là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn, cũng là hai hiệu chuyển y của Như Lai (Chuyển vọng giác thành Bồ Đề; chuyển sanh diệt thành Niết Bàn, gọi là hai hiệu chuyển y).
- A Nan ! Nguơi muốn tu chơn Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn, trước hết phải biết hai nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh. Nếu điên đảo chẳng sanh tức là chơn Tam Ma Địa của Như Lai.
- A Nan ! Sao gọi là chúng sanh điên đảo ?
Do tánh sáng tỏ nơi tâm, vì chấp tánh sáng tỏ , nên từ sáng tỏ ấy phát sanh vọng tánh. Tánh vọng thì kiến chấp sanh khởi. Từ tất cánh "Vô" thành cứu cánh "Hữu". Cái năng hữu, sở hữu này chẳng có tướng năng nhân-sở nhân, và năng trụ-sở trụ, trọn chẳng có nguồn gốc. Từ chỗ vô trụ này kiến lập thế giới và chúng sanh.
- Vì mê cái bổn tâm sáng tỏ, nên sanh ra hư vọng, tánh vọng chẳng tự thể, chẳng có chỗ nuơng tựa. Toan muốn trở về chơn, thì cái "muốn chơn" ấy đã chẳng phải chơn tánh của Chơn Như. Chẳng chơn mà cầu trở về chơn , rõ ràng thành phi tướng, phi sanh, phi trụ, phi tâm, phi pháp, xoay vần phát sanh, sanh mãi không thôi, huân tập thành nghiệp, đồng nghiệp cảm nhau, do sự cảm nghiệp, nên có tướng diệt, tướng sanh, do đó thành chúng sanh điên đảo.

- A Nan ! Sao gọi là thế giới điên đảo ?
Do năng hữu - sở hữu, phân đoạn vọng sanh, từ đó an lập Giới (không gian)
Từ chỗ chấp năng nhân - sở nhân, năng trụ - sở trụ, dời đổi chẳng ngừng,nên vọng lập Thế (thời gian).
Tam thế (thời gian), tứ phương (không gian) hòa hợp lẫn nhau, chúng sanh biến hóa thành 12 loài.

- Vì giác tri của chúng sanh, nên trong thế giới do động có Thanh, do Thanh có Sắc, do Sắc có Hương, do Hương có xúc, do Xúc có Vị, do Vị biết Pháp. sáu thứ vọng tưởng nhiễu loạn thành nghiệp tánh, nương theo tướng điên đảo luân chuyển này mà có 12 loài : Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, lưu chuyển chẳng ngừng.
****


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

12 loại chúng sinh gồm :

1- A Nan ! Bởi do thế giới có hư vọng, luân hồi, điên đảo về động, hòa hợp thành khối, vọng tưởng thăng trầm, vì thế có loài noãn sanh lưu chuyển nơi quốc độ như loài cá, chim, rùa rắn, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
2- Bởi thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảovề dục, hòa hợp thành sanh, vọng tưởng ngang dọc, vì thế nên có loài thai sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như giống người, súc vật, rồng, tiên, đủ tám vạn bốn ngàn tràn đầy thế giới.
3- Bởi do thế giới có chấp trước luân hồi, hướng về điên đảo, hòa hợp thành noãn, vọng tưởng lăng xăng, vì thế nân có loài thấp sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài côn trùng, sâu bọ, đủ tám vạn bốn ngàn , tràn đầy thế giới.
4- Bởi do thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hòa hợp thành xúc, vọng tưởng mới cũ, vì thế nên có loài hóa sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thối xác phi hành, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
5- Bởi do thế giới có ngăn ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hòa hợp thành trước (chấp), vọng tưởng tinh diệu, vì thế nên có loài hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như tất cả thần vật tinh sáng, đều hay dự đoán kiết hung, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
6- Bởi do thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về mê hoặc, hòa hợp thành ám (ám muội), vọng tưởng u ẩn, vì thế nên có loài vô sắc lưu chuyển nơi quốc đôh, như cõi vô sắc và Thần Hư Không, cho đến quỷ mị u ẩn, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
7- Bởi do thế giới có mường tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, hòa hợp thành nhớ, vọng tưởng thầm kết, vì thế nên loài hữu tưỏng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài quỷ thần linh tinh, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
8- Bởi do thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, hòa hợp thành ngu, vọng tưởng khô khan, vì thế nên có loài vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, tinh thần hóa ra đất, gỗ, kim thạch, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
9- Bởi do thế giới có đối đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, hòa hợp thành nhiễm, vọng tưởng ỷ nhờ, vì thế nên có loài phi hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thủy mấu, lấy tôm làm mắt, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
10- Bởi do thế giới có dẫn dụ luân hồi, điên đảo về tánh, hòa hợp thành chú, vọng tưởng kêu gọi, vì thế nên có loài phi vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài chú nguyền rủa, yêu mị, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
11- Bởi do thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về mường tượng, hòa hợp thành dị, vọng tưởng xoay vòng, vì thế nên có loài phu hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài tò vò, hay bắt con vật khác làm con mình, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
12- Bởi do thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát (sát hại), hòa hợp thành quái, vọng tưởng ăn thịt cha mẹ, vì thế nên có loài phi vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như con chim thổ cưu và chim phá kính, ôm trái cây độc làm con, khi con lớn lên thì ăn thịt cả cha mẹ, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.

Ấy gọi là mười hai loại chúng sanh.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Như vậy chúng sinh trong mỗi loài đều gồm đủ 12 thứ điên đảo, cũng như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng. Thảy đều từ Diệu Tâm sáng tỏ vọng sanh điên đảo, nên có đủ thứ tư tưởng hư vọng, tán loạn như thế. Nay người tu chứng Tam Ma Địa đối với Bản Nhân của tư tưởng tán loạn ấy, phải lập ba tiệm thứ, mới có thể diệt trừ, cũng như muốn trừ mật độc trong bình để đựng cam lộ thì phải dùng nước sôi và tro rửa sạch cái bình, rồi mới đụng cam lộ.
-Thế nào gọi là ba tiệm thứ ?
Một là tu tập trừ các trợ nhân
Hai là chơn tu, nạo sạch chánh tánh (sát, đạo, dâm)
Ba là tinh tấn, xoay ngược hiện nghiệp.

1- Sao gọi là trợ nhân ?
A Nan ! 12 loại chúng sanh trong thế giới chẳng thể tự sống, phải nhờ bốn cách ăn để tự nuôi dưỡng, ấy là :
- Ăn bằng cách nhai xé như con người,
- Ăn bằng cách ngửi hơi như quỷ thần
- Ăn bằng niệm tưởng như cõi Tứ Thiền
- Ăn bằng ý thức như cõi Tứ Không
Cho nên Phật nói tất cả đều nhờ ăn mà tồn tại.

Vậy chúng sanh cầu Tam Ma Địa, nên dứt bỏ ngũ tân. Ngũ tân này hễ ăn chín thì lòng phát dâm, ăn sống thì thêm sân hận.
- Người ăn ngũ tâm mà tu Tam Ma Địa thì Bồ Tát, Thiên Tiên,mười phuơng thiện thần chẳng đến hộ vệ. Đại lực ma vuơng có cơ hội hiện ra thân Phật, thuyết pháp cho họ, chê bai giới cấm, tán thán dâm dục và sân si. Người ấy chết thành quyến thuộc ma, khi hết phước báo của ma liền đọa địa ngục A Tỳ.
- A Nan ! Người tu đạo Bồ Đề phải dứt hẳn ngũ tân, ấy là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ nhất.

GHI CHÚ : Ngũ tân là :hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu.

2- Sao gọi là chánh tánh ? (Các tánh gây tạo nghiệp)
- A Nan ! chúng sanh muốn vào Tam Ma Địa, trước tiên phải giữ giới trong sạch, dứt hẳn lòng dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ nấu chín, chẳng ăn đồ sống.
- A Nan ! Người tu hành nếu chẳng dứt dâm dục và sát sanh,mà muốn ra khỏi ba cõi thì chẳng có chỗ đúng. Nên phải xem sự dâm dục như rắn độc, như kẻ thù.
- Đã chẳng trộm cắp thì chẳng mắc nợ nhau và khỏi phải trả nợ của thế gian.
- Người trong sạch ấy tu Tam Ma Địa, với cái thân của cha mẹ sanh, chẳng cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phuơng thế giới, gặp Phật, nghe pháp, vâng lãnh thánh chỉ, được đại thần thông, dạo khắp cõi mười phuơng, túc mạng trong sạch, chẳng còn những điều khó khăn nguy hiểm. Ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ hai.

3- Sao gọi là hiện nghiệp ?
- A Nan ! Người giữ giới trong sạch như thế, tâm chẳng tham dâm thì chẳng rong ruổi theo lục trần bên ngoài, do sự chẳng rong ruổi, tự xoay về bản tánh. Đã chẳng duyên theo trần cảnh, thì lục căn chẳng có chỗ nuơng tựa, ngược dòng về MỘT, lục dục chẳng thành, mười phuơng quốc độ sáng suốt trong sạch, ví như lưu ly bên trong có trăng sáng (tự chiếu, vô năng-sở), thân tâm an lạc, diệu viên bình đẳng, được đại an ổn, tất cả mật viên, tịnh diệu của Như Lai đều hiên trong đó, người ấy liền được vô sanh pháp nhẫn. Từ đó dần dần tùy theo cấp bậc tu chứng an lập Thánh vị. Ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ ba.

- A Nan ! Thiện nam tử ấy, dục ái khô cạn, căn và cảnh chẳng duyên nhau. Cái báo thân hiện tiền này chẳng còn tiếp tục sanh nữa, giữ tâm rỗng sáng, thuần là trí tuệ. Tánh trí tuệ sáng suốt, chiếu mười phuơng cõi, chí có cái huệ khô cạn ấy, gọi là Càn Huệ Địa.

TÓM TẮT :
Người tu Tam Ma Địa cần làm dần dần 3 thứ:
1) Không ăn mặn và ngũ vị tân.
2) Dọn sạch các tánh : Sát, đạo, dâm.
3) Sửa đổi hiện nghiệp (bằng cách giữ gìn giới hạnh, và điều tâm chẳng rong ruổi theo lục trần bên ngoài, do sự chẳng rong ruổi, tự xoay về bản tánh. Đã chẳng duyên theo trần cảnh, thì lục căn chẳng có chỗ nuơng tựa, ngược dòng về MỘT).


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tu tập hạnh Bồ Tát, phải trải qua các cấp bậc sau : Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ gia hạnh, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác.

THẬP TÍN
1) TÍN TÂM TRỤ: cạn ái dục, tất cả vọng tưởng đều dứt sạch, Có lòng tin không lay chuyển vào Tâm Thường Trụ.
2) NIỆM TÂM TRỤ : Chơn tính sáng tỏ. Trong vô số kiếp quá khứ, tất cả tập khí xả thân, thọ thân, thảy đều hiện ra trước mắt và ghi nhớ chẳng quên.
3) TINH TẤN TÂM : Thuần chơn diệu viên, diệu dụng, những tập khí từ vô thỉ đều hóa thành một tâm chơn tịnh.
4) HUỆ TÂM TRỤ : Tinh tấn tâm hiện tiền, thuần dùng trí tuệ.
5) ĐỊNH TÂM TRỤ : Trí huệ sáng tỏ, tịch lặng cùng khắp, thường định.
6) BẤT THOÁI TÂM : Từ định tâm trụ phát ra ánh sáng, tánh sáng sâu vào, tiến tới chẳng lui.
7) HỘ PHÁP TÂM : Tâm an nhiên, duy trì giao tiếp với tinh thần của mười phuơng Như Lai.
8) HỒI HƯỚNG TÂM : Tánh sáng của Bổn Giác được duy trì, dùng từ quang của Phật chiếu tự tánh. Như ánh sáng của hai guơng đối nhau trong đó, các bóng nhiệm màu trùng trùng vô tận.
9) GIỚI TÂM TRỤ : Từ quang của bản tâm miên mật, an trụ nơi vô vị, vô thượng trong sạch, thường trụ của Phật.
10) NGUYỆN TÂM TRỤ : Trụ giới tự tại, hay dạo khắp mười phuơng, ở đi tùy nguyện.

THẬP TRỤ

1) PHÁT TÂM TRỤ : Thiện nam tử ấy trải qua mười bậc tín tâm kể trên, tâm phát sáng, mười thứ dụng xen lẫn nhau, viên dung thành một tâm.
2) TRỊ ĐỊA TRỤ : Trong tâm sáng suốt như lưu ly trong sạch, trong hiện vàng ròng tinh túy, dùng Diệu Tâm trước kia sửa sang thành đất địa để đi đứng (thực hành).
3) TU HÀNH TRỤ : Tâm địa biết khắp, tất cả rõ ràng, đi khắp mười phuơng, chẳng được ngăn ngại.
4) SANH QUÝ TRỤ : Hạnh đồng với Phật, thọ tinh thần Phật, như cái thân trung ấm tự tìm cha mẹ, trung ấm dung thông với lòng tin, thầm nhập vào giống Như Lai.
5) PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ : Đã vào đạo thai, nối dòng của Phật, như thai đã thành hình, tướng người đầy đủ.
6) CHÁNH TÂM TRỤ : Dung mạo và tâm tướng đều giống như Phật.
7) BẤT HÔI TRỤ : Thân tâm dung hợp, ngày càng tăng trưởng.
8) ĐỒNG CHƠN TRỤ : Linh tướng của thập thân, nhất thời đầy đủ.
9) PHÁP VƯƠNG TRỤ : Hình đã thành, ra khỏi thai, làm con của Phật.
10) QUÁN ĐẢNH TRỤ : Khi Pháp Vuơng Tử đã trưởng thành, ví như Thái tử vua Sát Lợi đến tuổi trưởng thành, sẽ được phụ vuơng ủy nhiệm việc nước, nên làm lễ quán đảnh (Lễ trưởng thành)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP HẠNH

1)HOAN HỶ HẠNH: Thiện nam tử ấy, đã thành con Phật, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai, tùy thuận mười phuơng chúng sanh, phuơng tiện tiếp dẫn.
2) NHIÊU ÍCH HẠNH: Hay lợi ích cho tất cả chúng sanh
3) VÔ SÂN HẬN HẠNH: Tự giác, giác tha, được chẳng chống trái.
4) VÔ TẬN HẠNH: Tam thế bình đẳng, mười phuơng thông đạt, vì được "ý sanh thân", nên tùy mỗi loài chúng sanh mà hiện thân hóa độ cho đến cùng tột vị lai.
5) LY SI LOẠN HẠNH: Nơi mỗi mỗi pháp môn, tất cả hòa đồng, được chẳng sai lầm.
6) THIỆN HIỆN HẠNH: Nơi tướng đồng hiện ra nhiều tướng dị. Nơi những tướng dị, mỗi mỗi thấy đồng.
7) VÔ TRƯỚC HẠNH: Như thế cho đến vi trần đầy khắp mười phuơng hư không, mỗi mỗi trần hiện mười phuơng cõi. Hiện trần, hiện cõi chẳng ngăn ngại nhau.
8) TÔN TRỌNG HẠNH: Các thứ hiện tiền đều là đệ nhất Ba La Mật Đa.
9) THIỆN PHÁP HẠNH: Viên dung như thế, hay thành tựu quy tắc lợi sanh của mười phuơng chư Phật.
10) CHƠN THẬT HẠNH: Mỗi mỗi đều trong sạch vô lậu, nhất chơn vô vị, Bản Tánh vốn như thế.

THẬP HỒI HƯỚNG

1) CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, LY CHÚNG SANH TƯỚNG HỒI HƯỚNG: Thiện nam tử ấy , thần thông đầy đủ, Phật sự đã thành. Tự tánh tinh túy thuần chơn, xa lìa các lỗi lầm, ngay khi hóa độ chúng sanh mà diệt tưởng năng độ, sở độ. Hồi tâm vô vi, hướng đạo Niết Bàn.
2) BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG: Hoại cái có thể hoại, tức xa lìa chúng sanh tướng, tướng xa lìa cũng phải lìa, vậy tướng hoại thì sở không, lìa cái lìa thì năng không. Năng sở đều không, Bản Giác bất hoại.
3) ĐẲNG NHẤT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG: Bản giác trạm nhiên, tâm giác đồng như Phật giác.
4) CHÍ NHẤT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG: Tinh túy sáng tỏ, tâm địa đồng như Phật địa.
5) VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI HƯỚNG: Thế giới và Như Lai xen lộn lẫn nhau, được chẳng ngăn ngại.
6) TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN CĂN HỒI HƯỚNG: Nơi đồng Phật địa, mỗi mỗi sanh ra cái nhân trong sạch, nuơng vào nhân ấy mà phát huy, vào đạo Niết Bàn.
7) TÙY THUẬN ĐẲNG QUÁN NHẤT THIẾT CHÚNG SINH HỒI HƯỚNG: Chơn thiện căn đã thành, thì mười phuơng chúng sanh đều là Bản Tánh của ta, thành tựu tánh tròn đầy, chẳng bỏ chúng sanh.
8) CHƠN NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG: Tức nơi nhất thiết pháp, mà lìa nhất thiết tướng. Cái "tức" cái "lìa" , cả hai đều chẳng dính mắc.
9) VÔ PHƯỢC GIẢI THOÁT HỒI HƯỚNG: Thật đắc Chơn Như mười phuơng vô ngại.
10) PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI HƯỚNG: Đức tánh viên mãn thành tựu, số lượng của pháp giới tiêu diệt.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TỨ GIA HẠNH
1- NOÃN ĐỊA : Tức đem Phật Giác, dụng làm tự tâm, cũng như dùi cây lấy lửa, cây chưa đốt cháy, lửa sắp ra mà chưa ra.
2- ĐẢNH ĐỊA : Lại dùng tâm mình thành chỗ hành của Phật, cũng như người đứng trên chót núi, toàn thân đã vào hư không, nhưng dưới chân đôi còn hơi dính đất, như có chỗ nuơng tựa mà chẳng phải nuơng tựa.
3- NHẪN ĐỊA : Tâm với Phật đồng, khéo đắc trung đạo, như người hay nhẫn nại, niệm chẳng phân biệt, chẳng nhớ chẳng quên, chẳng thể nói ra.
4- THẾ HỆ ĐỆ NHẤT ĐỊA : Số lượng tiêu diệt mê, giác, và trung đạo đều chẳng thể gán tên.

THẬP ĐỊA

1- HOAN HỶ ĐỊA : Thiện nam tử ấy khéo được thông đạt nơi Đại Bồ Đề, chỗ giác ngộ thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật.
2- LY CẤU ĐỊA : Tánh dị nhập đồng, tánh đồng cũng diệt.
3- PHÁT QUANG ĐỊA : Trong sạch thì phát ra ánh sáng.
4- DIỆM HUỆ ĐIA : Sáng tỏ thì giác tánh sung mãn.
5- NAN THẮNG ĐỊA : Tất cả đồng dị đều chẳng thể đến.
6- HIỆN TIỀN ĐỊA : Tánh trong sạch hiển lộ, chơn như vô vi.
7- VIỄN HÀNH ĐỊA : Cùng tột bờ bến của chơn như.
8- BẤT ĐỘNG ĐỊA : Nhất tâm chơn như.
9- THIỆN HUỆ ĐỊA : Chơn như phát dụng.
10-PHÁP VÂN ĐỊA : Công hạnh tu tập của Bồ Tát từ trước đến đây công đức viên mãn, cũng gọi địa này là TU TẬP VỊ, dùng đám mây nhiệm màu đầy đủ từ bi, trí tuệ che chở chúng sinh khắp biển Niết Bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một số ý tưởng theo kinh Lăng Nghiêm.

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

ĐẲNG GIÁC

Như Lai ngược dòng từ quả vị trở lại nhân địa, cứu độ chúng sanh. Bồ tát thuận hành từ chúng sanh tu đến quả vị Phật. Thuận nghịch đều giao tiếp nơi Bổn Giác, gọi là ĐẲNG GIÁC

DIỆU GIÁC

- A Nan ! Từ Càn Huệ Tâm đến bậc Đẳng Giác rồi, giác ấy mới đuọc viên mãn nơi Tâm Kim Cang. Bắt đầu từ Càn Huệ Địa từng lớp tiến lên, trải qua 12 ngôi vị đơn và phức (1) mới đến DIỆU GIÁC, thành Vô Thượng Đạo.
- Mỗi mỗi địa ấy đều lấy trí Kim Cang quan sát mười thứ ví dụ như huyễn, dùng Xa Ma Tha (chỉ) và Tỳ Bà Xá Na (quán)của chư Như Lai tu chứng trong sạch lần lượt vào sâu.
- A Nan ! Như thế đều dùng ba tiệm thứ tiến tu nên khéo thành tựu 55 quả vị trong đạo Bồ Đề chơn thật, Quán như thế gọi là chánh quán, chẳng quán như thế gọi là tà quán.

GHI CHÚ
12 ngôi vị đơn và phức:
Năm ngôi vị phức, mỗi ngôi vị gồm mười cấp bậc là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa
Bảy ngôi vị đơn là : Càn Huệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, Đẳng Giác và Diệu Giác


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.26 khách