Ý Nghĩa Về Niết Bàn

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Ý Nghĩa Về Niết Bàn

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

(Trích đăng sách: Sơ Lược Tiểu Sử ngài Hư Vân Hòa Thượng, trang 288-294)
Ý NGHĨA VỀ NIẾT BÀN
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói về giờ phút trước khi và trong khi Phật nhập Niết Bàn. Như Lai nói bài kệ:
  • Các hành vô thường
    Là pháp sanh diệt
    Sanh diệt diệt rồi
    Tịch diệt là vui.
Ý nói: Sự vật không thường còn, vì đó là những thứ hễ có sanh ra là phải có diệt đi.

Nghĩa là có sanh là có tử, có đầu là có đuôi, có khởi đoạn là có chấm dứt.

Nếu diệt được cái "sanh diệt" ấy, tức là nếu chấm dứt được sự "sanh tử" thì được cái vui là "tịch diệt"
.

Sinh tử ở đây là sinh tử của thân, là vật sinh diệt. Vì vậy Như Lai nói tiếp:

"Các vị nên biết, hết thảy mọi hình tướng đều là vô thường. Thân tôi nay, tuy là thể kim cương, vẫn không khỏi lẽ vô thường biến thiên. Trong nẻo sanh tử rất đáng sợ hãi, các vị nên siêng làm hạnh tinh tấn; cầu mưu ra khỏi hố lửa sanh tử này, đó là lời dạy của tôi. Thời nhập Niết Bàn của tôi đã đến" (Phẩm Phó Chúc).

Ngay khi ấy Như Lai vào Sơ thiền; ra Sơ thiền, vào Nhị thiền; ra Nhị thiền vào Tam thiền; ra Tam thiền vào Tứ thiền; ra Tứ thiền và Không xứ; ra Không xứ vào Thức xứ; ra Thức xứ vào Vô Sở Hữu xứ; ra Vô Sở Hữu xứ vào Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ,; ra Phi Tưởng, Phi phi tưởng xứ vào Diệt Tận Định.

Lúc đó, A Nan thấy Như Lai im bặt không nói, thân thể chi tiết không xao động, liền sa lệ nói: "Thế Tôn nay đã nhập Niết Bàn rồi".

Bấy giờ A Nậu Lâu Đà (Anuridha) bảo A Nan: "Ngay bây giờ Như Lai chưa nhập Niết Bàn đâu! Sở dĩ ngài im bặt, thân không xao động, chính vì ngài nhập Diệt Tận Định.

Đức Thế Tôn ra Diệt Tận Định, lại trở vào Phi Tưởng, Phi phi tưởng xứ, và lần lượt cho đến vào Sơ thiền. Rồi ngài lại ra Sơ thiền vào Nhị thiền; ra Nhị thiền vào Tam thiền; ra Tam thiền vào Tứ thiền... Và ngay ở nơi ấy... ngài Nhập Niết Bàn (Phẩm Niết Bàn).

Hai đoạn kinh trên đã chỉ cho chúng ta thấy Phật không có chết, cái chết của phàm phu, mà ngài đã nhập định; không phải một nhập định hữu hạn mà vô cùng vĩnh viễn, vì ngài đã diệt tận phiền não, sanh tử, đã lìa mọi tướng, vào chỗ vắng lặng vô cùng tận.

Đây là nghĩa đại khái của danh từ "Nhập Niết Bàn". Điểm cần ghi nhớ là dừng nghe nói "Phật nhập Niết Bàn" rồi tưởng Phật sẽ về một nơi nào đó, hưởng phước đời đời, như Thiên đường của nhiều tôn giáo khác.

Cũng đừng hiểu rằng Phật đã tiêu tan trong hư vô (néant) khi đọc kinh điển thấy nói "Phật tịch diệt" hay viên tịch.

Vậy "nhập Niết Bàn" là đi vào đâu? Niết Bàn là phiên âm chữ Nirvana của Ấn Độ. Tàu dịch nghĩa là "Diệt". Người Pháp dịch là "Extinction", với cái nghĩa: thổi trên ngọn đèn cho tắt. (Diệt ngọn lửa mà một hơi thở làm cho mất tích, đó gọi là Niết Bàn).

Nhưng ngọn lửa mà một hơi thở - hơi thở của chúng ta - làm tắt ngọn lửa đó là gì?

Một ẩn sĩ Bà la môn hỏi ngài Xá Lợi Phất (Sariputa), một đại đệ tử của Phật: "Niết bàn! Niết bàn! Này ông bạn Xá Lợi Phất, đó là gì?"

- Đó là sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận, hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê, sai lạc - đó thưa ông bạn... là cái mà người ta gọi là Niết Bàn (Samyata Kikaya).

Vậy Niết Bàn chỉ là một danh từ để chỉ, nói lên cái kết quả cứu cánh của sự tu hành theo Phật giáo, mà mục dish cứu cánh là diệt tam độc: Tham, sân, si!

Để rõ hơn, chúng ta hãy nghe tiếp theo đây lời Phật dạy:

"Người nào từ bỏ được thú vui và ham muốn, đã đầy đủ trí huệ, là ngay ở cõi đời này, đã đạt đến sự giải thoát sinh tử, sự tịch tĩnh, đã đạt đến Niết Bàn, nơi an dưỡng thường tồn, vĩnh cửu.

Kẻ nào ra khỏi những con đường nào bị gạt gẫm của luân hồi, kẻ nào đã lội qua bên kia sông và đã tới bờ, giữ tâm chánh định, không quá thất, không nghi hoặc - kẻ nào đã giải thoát mọi sự vật thế gian và đạt đến Niết Bàn, kẻ ấy là một tu sĩ chân thực".

- Xin thưa: những chữ "Nơi an dưỡng" dùng ở đây là một lối nói tạm để ám chỉ cái thường đối là với cái vô thường là cảnh thế gian.

Trong kinh Dvyatānupassanda, Phật dạy: "Cái không tiêu diệt là Niết Bàn, hạng người cao cả quan niệm nó như thật có; nhờ thấu triệt được sự thật này, họ được giải thoát khỏi mọi thèm khát tham muốn và hoàn toàn được an lạc".

Vậy Niết Bàn chỉ cái "Thường" mà còn chỉ cái "An lạc" của những tâm hồn giải thoát. Có giải thoát, có diệt dục, mới có Niết Bàn.

Trong kẻ từ bi, bố thí, cây đạo đức sẽ mọc lên. Trong kẻ chế ngự được, không một cơn giận hờn nào có thể nổi lên.

Người chân chánh gạt bỏ mọi điều ác.

"Bởi sự tận diệt tham, sân, si, người sẽ đạt Niết Bàn (Maha Parinibhana Sutra).
  • THẾ THÌ NIẾT BÀN CÓ PHẢI LÀ MỘT TÂM TRẠNG KHÔNG?
Cũng không. Vấn đề thật là rắc rồi và khó hiểu. Chính Phật cũng đã nhìn nhận như thế trong kinh Aldāna như sau:

"Này các đệ tử! Có một quốc độ mà ở đấy không có đất, nước, không có nóng, không có gió, không có không gian vô tận, không có thức vô biên, cũng không phải hoàn toàn không có gì cả, cũng không có sự cảm thọ hay không cảm thọ, cũng không có thế giới này, thế giới kia mà vừa là mặt trời, vừa là mặt trăng.

Cái ấy, này các đệ tử, ta không gọi là khứ, là lai, là trụ, là sinh, là tử... nó không nhân, không thành, không diệt. Đó là chỗ chấm dứt của sự khổ".

Khó mà thực nghiệm được cái thể, chân lý không phải dễ nhiếp thọ, nắm lấy. Kẻ nào thật biết mới làm chủ được lòng ham muốn, và kẻ nào thật thấy mới thấy vạn vật không có một giá trị chân thật nào cả.

Từ trước đến nay, chúng ta thấy Niết Bàn không phải là một cõi, một cảnh, một tâm trạng, cũng không phải là cái không ngơ (hư vô). Vậy Niết Bàn có hay không có?

Trong kinh Na Tiên Tỳ kheo, vua Milinda đã đặt ra câu hỏi ấy; Và đây là câu trả lời của ngài Na Tiên:

- Tâu Hoàng thượng, có Niết Bàn và cái ấy có thể lấy trí mà nhận. Còn hễ là đệ tử Phật mà giữ được tâm thanh tịnh và chánh trực, thoát khỏi các nghiệp chướng, thoát khỏi được các ham muốn thấp hèn... thì thấy được Niết Bàn.

Vua bảo: "Xin cho một thí dụ".

- Hoàng thượng có biết một cái gọi là gió? Vậy Hoàng thượng chỉ cho tôi xem coi gió màu sắc gì, hình dung nó ra sao, dày hay mỏng, dài hay ngắn.

- Không thể chỉ được như thế, vì làm sao nắm bắt nó được, nhưng dù vậy chớ gió là cái gì có đó.

- Cũng thế tâu Hoàng thượng, Niết Bàn là cái gì có mà không thể chỉ được cho thiên hạ thấy hình sắc của nó được.

Cái lý Niết Bàn đầy an lạc, rất nhiệm mầu, có. Và người nào ăn ở chân chánh, thấu hiểu tánh của các tướng, tuân hành giáo pháp của chư Phật, người ấy thực chứng Niết Bàn, cũng như một đứa trẻ học nghề, nhờ thầy chỉ dẫn, rồi tự tạo, tự biết thành một thợ giỏi trong nghề.

- Nhưng làm sao biết được Niết Bàn? Vua hỏi.

- Nhờ sự thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng, nhờ sự an ổn, an lạc, thanh tịnh.

Rồi ngài Na Tiên đưa ra vài thí dụ:

- Người té vào đống lửa ngùn ngụt, cố gắng vượt ra và lên chỗ mát mẻ. Người ấy cảm thấy sung sướng vô cùng. Cũng thế, người thoát ra khỏi lửa tham, sân, si sẽ hưởng cái sung sướng Niết Bàn.

- Người té vào hầm phẩn dơ mà cố thoát ra khỏi và lên chỗ sạch sẽ, cảm thấy sung sướng. Ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh già bệnh chết, người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết Bàn.

Vậy tìm Niết Bàn ở đâu?

- Ở trong đạo đức. Nếu sống luôn trong đạo đức, trong tịnh tâm, thì dù ở Đông hay ở Tây, Nam hay Bắc, ở dưới Long cung hay trên chốn Thiên cung, bất luận chỗ nào, người sống trong chánh thân như thế tìm được Niết Bàn.

Cứ như trên thì Niết Bàn là cái gì mà ngay đây mỗi chúng ta có thể đạt được, miễn thực hiện những điều kiện Phật dạy. Vâng, quả đúng như thế. Về điểm này, bà Alexandra David Néel, trong sách "Le modernisme Boudhiste et le Boudhisme du Boudha có viết: "Niết Bàn là mục đích, là hải cảng trú ẩn, là sự an nghỉ miên viễn. Hải cảng ấy, bậc A la hán đã vượt khỏi ngưỡng cửa cái thế giới bên kia, rất cách biệt với những tri kiến và quan niệm của chúng ta và tuy chúng ta thấy ngài cũng vẫn còn đi, đứng, nằm, ngồi y như chúng ta và giữa đám chúng ta. La Hán không còn là người của thế giới chúng ta, thế giới vọng tưởng và vô thường. Ngài sống trong bất biến, bất sinh, trong chân thường. Ngài là cái bất biến, bất sinh, chân thường".

Tu hành mà đạt đến kết quả này, gọi là "dắc Niết Bàn tại thế" hay "đắc Hữu Dư Niết Bàn" hay nữa "đắc Hữu Dư Y Niết Bàn".

Kinh Bảo Quật nói: "Kinh Kim Cang tâm đoạn biến dịch nhân tận, nhi biến dịch quả du tồn, hữu dư lụy, cố viết hữu dư" (Cái nhân biến dịch đã bị Tâm Kim Cang (tức là chân tâm) chặt đứt, nhưng cái quả biến dịch vẫn còn. Cho nên còn phải chịu một phần nợ nần, bó buộc nào. Vì vậy nên gọi là còn dư, chưa dứt).

Nói một cách khác, Hữu Dư Niết Bàn là kết quả giải thoát nội tâm hoàn toàn, nhưng về mặt thân xác thì sự giải thoát chưa được hoàn toàn hẳn, vì còn thân là còn nợ nần với cái sống, ăn, sống mặc, với già, bệnh, chết.

Cao hơn "Hữu Dư Niết Bàn" có "Vô Dư Niết Bàn" hay là "Vô Dư Y Niết Bàn" là "Vô sanh tử chi nhận, diệc vô quả dã". Đó là kết quả mà Phật đã đạt đến vào một đêm rằm tháng tư (âm lịch), cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm. Cái nhân sanh tử trong tâm đã chết mất từ lâu, rồi nay cái quả sanh tử của nhân tiền kiếp (thân) cũng bỏ lại và sẽ tan rã, thì còn nợ nần chỗ nào mà không bảo là "Vô dư".

Tóm lại "Vô Dư Niết Bàn" là Niết Bàn dạt đến khi bỏ xác, là giải thoát hoàn toàn.

Nhưng dầu hoàn toàn (Vô Dư) hay chưa hoàn toàn "Hữu Dư), Niết Bàn chỉ có một thể, cũng như đường chỉ có một vị là ngọt, dù đo là đường tán, đường thẻ, đường cát hay đường phèn. Để chỉ vị duy nhất này, kinh điển bảo Niết Bàn có bốn đức hay bốn đặc điểm (propriétés essentielles) là: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nói cho đúng, chính bốn cái đó là Niết Bàn và ai thực chứng được thì gọi là "đắc Niết Bàn" vậy.

Bốn thứ này, chúng ta đã nghe thấy trong những đoạn kinh đã dẫn trước:

Sống trong, vì là bởi cảnh thế gian sống trong biến dịch, vô thường, cảnh giới của vật chất và tình cảm thấp thỏi. Bỏ được lối sống này mà được đời sống nội tâm không biến dịch, là sống trong cái ngược với vô thường, tức là sống trong cái thường (éternel).

Sống trong "Thường" là bất biến, nhưng không phải không tùy duyên. Tùy duyên mà vẫn bất biến. Thí dụ: đến giờ ăn là phải ăn (tùy duyên), nhưng không để cái ăn làm xáo động lòng mình (bất biến).

Thường: Trước cảnh đau khổ của người khác, lòng không bị kích thích như thế tình (bất biến), nhưng hết sức giúp đỡ (tùy duyên). Được như thế gọi là Thường.

Tâm không bồn chồn, lo muốn, nóng nảy, gọi là An. Có An là có Vui (Lạc), cái vui khác thường vì không cần có mồi mới sanh vui, như cá muốn ăn mà không gặp được mồi, không sướng. Vậy cái vui sướng của thế nhân là cái vui sướng cảm thấy khi lòng ham muốn, thèm khát đã được thỏa mãn.

Lạc: Cái Lạc của người giải thoát là cái vui hồn nhiên phát xuất từ chỗ không tham, không cầu gì cả. Đó là cai mội nước tự nó phun lên, mà không cần có máy bơm. Vây là một ái vui bất chấp ngoại cảnh, hoàn toàn giải thoát mọi kích thích, cái vui "bí mật" mỉn cười của Phật. Được như thế gọi là Lạc.

Thế nhân ai là người không sống cho ta và vì ta, cho và vì cái ta nhỏ mọn (tiểu ngã). Đó là lối sống ích kỷ. Bỏ lối sống đó mà sống vì người, vì tất cả là sống cho cái ta to lớn (đại ngã). Gọi là Đại ngã vì là toàn thể những cái "ta" nhỏ góp lại. Vậy sống vị tha là sống cho Đại ngã hay Ngã, sốn gnhw cái sống của nước đại dương, không sống cái sống chật hẹp của nước biển đựng trong chai.

Được như thế gọi là Ngã.

Tịnh: Sống theo thế tình, thế tục... là sống trong ô nhiêm. Càng đi xa trên con đường ấy càng lún chân trong bãi lầy của phiền não, nghiệp chướng do tham, sân, si, tài, sắc, danh, lợi, thực, thùy, tạo ra... Bỏ lối sống ấy mà sống một lối sông hoàn toàn trong sạch, lòng không dính một chút bụi nhơ thế sự... Đó gọi là Tịnh.

Tất cả những cái Thường, Lạc, Ngã, Tịnh này đều do chỗ "Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên" mà có.

Ai thực hiện được tất cả bốn dức ấy thì được gọi là "Đắc Niết Bàn" hay "Nhập Niết Bàn".
  • KẾT LUẬN:
Niết Bàn chỉ là một danh từ dùng để chỉ một cái gì mà ngũ quan không nhận được, ý thức không tưởng tượng được, nhưng mà Có và có một cách chân thật đối với những ai đã thực chứng, thực nghiệm được nó.

Nhưng, xin đừng hiểu là muốn có Niết Bàn phải đi tìm nó. Vì vàng tìm, nó lại càng xa, vì có tìm là tâm còn ham muốn, mà còn ham muốn là trái với Tịnh, với Lạc, với Ngã.

Cũng đừng tưởng tới nó, vì có tưởng là tại có muốn. Như thế là sai rồi.

Cứ ăn ở, cứ sống như Phật dạy trong Thường Lạc Ngã Tịnh, rồi Niết Bàn tự nhiên sẽ đến và chừng ấy chúng ta sẽ biết Niết Bàn là gì.

Đừng tưởng đọc sách rồi biết Paris - Saigon - Huế... là gì?

Cũng đừng nghe người ta nói nước mát... rồi tưởng đã biết cái mát của nước rồi. Muốn biết rõ, hãy uống nước đi. Ngoài ra chỉ là ức tưởng, lấy bóng làm hình.

Cũng đừng tưởng Niết Bàn rất xa chúng ta.

Không, Niết Bàn rất gần chúng ta. Chúng ta cọ vai sát cánh với Niết bàn hàng phút, nhưng chúng ta chưa bắt tay (bonjour) với nó được... chỉ vì chúng ta chưa bước qua khỏi lằn ranh phân cách cái giả với cái chân, vì chúng ta chưa thoát khỏi chứng mù mắt vì bị căng một tấm màn dày chặt giữa cái sống rộng bao la và cái thấy bó rọ trong ranh giới của cái hình dáng và tên tuổi (tài sắc) mà mỗi giờ, mỗi phút đều biến đổi... trong khi chúng ta cứ lầm tưởng cho đó và chấp nhận nó là "Ta".
    • Thiện Hữu


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.8 khách