CHƯƠNG HAI
LUẬN GIẢI
Sau phần Chú Giải, nay chúng tôi xin đề cập tổng quát đến giá trị của Tâm Kinh về mặt hành trì. Chính mặt này mới đáng được đào sâu để mọi người có thể thấu triệt lý Trung Đạo của Bát Nhã và tu tập cho thành tựu trí huệ Bát Nhã.
I. BÁT NHÃ VÀ TÁNH KHÔNG
Tuy ở phần trước chúng tôi đã giải thích sơ lược về trí Bát Nhà và Tánh Không, nhưng vì muốn cho quý độc giả trực ngộ nội tâm, nên ở đây chúng tôi không ngần ngại trình bày thêm những gì thường diễn biến trong tâm chúng ta.
1.
TRÍ BÁT NHÃ
Trước tiên chúng ta nên biết rằng, Trí khác với Thức. Thức thường hay phân biệt, tính toán, so đo, thường khởi phát mọi thứ tình. Do đó mới có danh từ ghép là tình thức được sử dụng để chỉ cái biết còn sai lầm vị bị thất tình, lục dục làm mê mờ.
Trí thuộc về tánh biết chơn thật của Chơn tâm, còn gọi là Chơn giác. Vì thế trí không khởi tình, không bị tham, sân, si cũng như thất tình lục dục ngăn che. Trí là tánh biết vượt ra ngoài các cặp đối đãi của cảnh giới nhị nguyên tương đối như chơn vọng, động tịnh, phiền não, Bồ đề v.v...
Vọng tâm, vọng niệm chuyển biến như dòng thác trong thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Nguồn gốc của chúng là vô minh, do đó bản chất của chúng là tham ái, chấp ngã.
Do vọng tâm, chúng ta ôm ấp, nhớ tưởng quá khứ để rồi hãnh diện hay rầu buồn với những giây phút của dĩ vãng oai hùng hay đau khổ. Do vọng tâm, chúng ta mới tưởng đến một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp để trốn tránh cái thực tại đang chuyển biến mà không lúc nào chúng ta vừa ý vì nó âm thầm sanh diệt vô cùng nhanh chóng, khiến cho mọi niềm vui đều mau tàn, mọi nỗi khổ đều triền miên ray rứt.
Do vọng tâm nên chúng ta thường bị động. Đó là vọng động. Mà một khi tâm vọng động thì thất tình dấy lên.
Động bắt nguồn từ tánh năng sanh, năng hóa của chơn tâm. Sở dĩ chơn tân động là để tận biết và thâm hiểu mọi sự diễn biến trong đời sống thực tại của chúng ta, động như thế nhưng không bao giờ bị lôi cuốn bởi ngoại cảnh.
Không bị lôi cuốn là trí Bát Nhã.
Tâm chúng sanh không thể động theo kiểu ấy, trái lại nó bị động vì bị nhiễm ô. Kinh thường nói Phật là đấng Như Như Bất Động có nghĩa là tâm ngài không bị động như phàm phu chúng ta. Mỗi lần động là mỗi lần ngài điệu dụng chơn như tâm để đem lại lợi ích cho muôn loài chúng sanh. Ngài không bị động mà ngài cũng không tịnh như kiểu gượng ép của Tiểu Thừa chủ trương ngoan không (ngoan là ngu si, ngoan không là cái rỗng không trong đầu làm cho mình trở nên ngu si), biến thân tâm thành cỏ, đá, biến hột giống Bồ đề của mình thành chồi khô mộng lép.
Chơn tâm còn có đặc tánh thanh tịnh. Tịnh khác với Định, vì định là ngưng tâm, bặt niệm khi đối cảnh, đối pháp do tác động của định lực, để tránh khỏi sức lôi cuốn của ngoại cảnh.
Tịnh giống như động, cả hai đều là bản chất tự nhiên, là đặc tánh của chơn tâm.
Trong trí Bát Nhã không có tướng văn tự, không tướng lời nói, không có bất cứ một hình tướng nào. Nếu tâm chúng ta không chấp, không trụ tướng, thì ngay lúc đó trí Bát Nhã được hiện bày.
Tâm không trụ chấp, không nhiễm ô tức là tâm Không hay tánh Không. Tâm Không là đối với con người, Tánh Không là đối với vạn vật, vạn pháp. Tuy khác nhau về danh xưng nhưng chúng đều có cùng một nghĩa.
Nhờ có Tâm Không, tâm không trụ, không chấp nên người tu Bát Nhã mới có thể thấy biết tất cả sự việc, vạn vật, vạn pháp trên đời đều như thật, đúng theo tướng đồng nhất còn gọi là tướng Chơn như.
Chơn như là một thuật ngữ tối quan trọng trong Phật giáo. Chơn có nghĩa là chơn thật. Chơn như là như thật, mà như thật còn có nghĩa là như một, không hai, không sai khác. Mọi người chúng ta, ai ai cũng đều có chơn như. Vì thế kinh Phật mới nói rằng tất cả chúng sanh tuy tướng trạng bề ngoài có vô cùng sai khác, đều đồng một thể, còn gọi là tướng chơn thật, nhưng thật tướng này lại vô hình.
2.
TÁNH KHÔNG
Tuy ở phần trước, chúng tôi đã giải thích về tánh Không, nhưng trong tinh thần tìm cầu chơn lý, chúng tôi xin trình bày tiếp ở đây những nét chánh yếu, nhưng gì mà khoa học ngày nay đã tìm được qua các chương trình nghiên cứu vật chất hay cơ cấu vật lý của vũ trụ.
Trước hết chúng tôi xin nêu ra đây một vài sai lầm thường thấy về ý nghĩa của chữ Không. Gần đây có nhiều giới Phật tử hiểu chữ Không theo nghĩa Không Cố Định, Không Thường Còn. Do đó, khi nói sắc tức là không thì họ hiểu rằng sắc là cái tướng không cố định, không thường còn.
Hiểu như thế là hiểu theo tính chất vô thường của sắc tướng; đó là hiểu theo trí thức phân biệt hay biện luận thông thường. Như thế cần gì phải chiếu kiến để thấy biết cái lẽ vô thường đương nhiên của vạn vật.
Trong cảnh giới nhị nguyên này, vạn vật, vạn pháp đều ở trong vòng tương đối, đều không cố định, luôn luôn biến đổi.
Khi xưa ở Việt Nam, hàm răng đen huyền là biểu tượng của vẻ đẹp, nhưng thử hỏi biểu tượng này ngày nay có còn được ưa chuộng nữa không? Hành động ăn thịt người là dã man, trái đạo đối với thế giới văn minh, nhưng đối với một vài bộ lạc sơ khai ở Phi Châu, việc ăn thịt người là một việc thông thường, không có gì trái đạo cả. Tính chất tương đối của vạn pháp trong thời gian và không gian là như thế!
Cảnh giới nhị nguyên là cảnh giới của hai đầu, hễ có tối thì có sáng, có thiện thì có ác, có thường còn thì có đoạn diệt, có gốc thì có ngọn, tức là có bản thể thì có hiện tượng v.v... Đó là những cặp đối đãi, mâu thuẫn luôn xảy ra trong cảnh giới sanh diệt, vô thường của thế gian.
Nếu chỉ nhìn thấy một đầu như thấy ngọn mà không thấy gốc, thì gọi là biên kiến, có nghĩa là thấy một bên. Chỉ nhìn thấy một bên là nhìn thấy không thật, vì gốc và ngọn không rời nhau.
Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy: "Thấy tất cả là không, không thấy cái chẳng không thì không gọi là Trung đạo, cho đến thấy tất cả là vô ngã mà không thấy cái ngã (ngã ở đây là chủ tể chơn thật đang ngự trị trong thân mình cũng như trong vũ trụ), thì không gọi là Trung đạo. Trung đạo còn gọi là Phật tánh".
Nhìn thấy như thật hay nhìn thấy Trung đạo là nhìn thấy hai mặt của một vấn đề, một sự vật, mặt ngoài là huyễn tướng, mặt trong là thật tướng, mặt của tánh Không.
Như Tổ Long Thọ đã nói, nhờ điệu dụng được tánh Không này mà tất cả được thành tựu và hợp lý.
Do đó chúng ta mới thấu hiểu được rằng tánh Không là ý niệm căn bản nhứt trong giáo pháp Bát Nhã, không phải tiêu cực, trái lại vô cùng tích cực. Tích cực là vì người có trí Bát Nhã lúc nào cũng hành động theo tinh thần Không vô tướng, vô tác. Không là tâm không, vô tướng là tâm không chấp tướng, vô tác là tâm không chấp kết quả việc làm.
Nhờ có tâm không chấp, không trụ nên mọi việc mới được thành tựu tốt đẹp, hợp tình, hợp lý, luôn tùy thuận theo sở nguyện của chúng sanh.
- Ý NGHĨA CỦA CHỮ KHÔNG ĐÓI VỚI KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
Vật chất là một chất đa dạng có trọng lượng và điện tích. Đó là những chất hóa học như các chất hữu cơ và vô cơ, mỗi chất có những hiện tượng phản ứng nhất định.
Căn bản của vật chất được khoa học phát minh đến ngày hôm nay, trước sau vẫn là nguyên tử. Trong nguyên tử có những vật thể vi tế, chỉ có thể thấy được qua kính hiển vi.
Nguyên tử được cấu tạo như sau:
Ở tâm mỗi nguyên tử có một hạt nhân mang điện tích dương (charge électrique positive) gọi là proton có kích thước rất nhỏ. Cạnh hạt nhân, còn có hạt neutron, không điện tích, có khối lượng gần bằng khối lượng của proton.
Xung quanh hạt nhân còn có các électron mang điện tích âm, chuyển động theo những quỹ đạo khác nhau, dưới tác dụng của lực hút coulom từ phía hạt nhân. Nguyên tử có số thứ tự Z trong bảng tuần hoàn sẽ có Z électron.
Vì nguyên tử trung hòa về điện tích nên điện tích dương của hạt nhân bằng điện tích âm của các électron hợp lại.
Trong một vài trường hợp, các nguyên tử có thể cho mượn électron để tạo những hợp chất khác.
Một số hạt nhân của một vài nguyên tố có khuynh hướng dễ phân tán để giải phóng vô số năng lượng (
tính phóng xạ.
Đại loại, đó là những gì mà khoa học có thể biết về căn bản vật chất đến ngày hôm nay.
Thật ra, nguyên tử chưa phải là căn bản của vật chất. Trong tương lai, nhân loại có thể sẽ phát minh thêm một số siêu nguyên tử nữa nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước và khối lượng của nguyên tử hiện được biết.
Theo tin khoa học, hiện nay Nhật và Anh đang hợp tác để khảo sát, bằng tia sáng, vật chất ở dạng nhỏ hơn nguyên tử, có tên là Muons.
Trong số các siêu nguyên tử của ngay mai, cái nhỏ nhứt mà chúng tôi xin tạm gọi là
lân trần, là một thứ vật thể vô cùng vi tế, có thể ví như hư không[/b]. Do đó, hư không mà chúng ta thường xem như một bầu trời trống rỗng, trong đó không có một thứ vật chất nào hết, có thể nói mà không sợ sai lạc, là cái kho chứa vô lượng, vô biên lân trần.
Mà lân trần chính là vật chất, là tứ đại: đất, nước, gió, lửa; bởi lẽ tứ đại bắt nguồn từ sự phối hợp của các lân trần.
Tư tưởng của con người càng rung động thì càng tạo ra những làn sóng với những tần số sai biệt, từ đó mới tạo ra những hình ảnh trong đầu óc của mỗi người.
Những hình ảnh này còn được gọi là pháp tướng tâm, cũng không ngoài các lân trần tụ họp lại mà hình thành.
Có lẽ danh từ
pháp tướng tâm có phần nào khó hiểu đối với một số độc giả.
Tiện đây chúng tôi xin giải thích cho rõ thêm về ý nghĩa của danh từ này.
Tâm là nguồn gốc sanh ra vạn pháp. Khi pháp chưa hiện hành, còn đang biến chuyển trong tâm gọi là pháp tướng tâm. Một khi đã biến chuyển xong, pháp xuất hiện ra ngoài thành pháp tướng
có thể nhìn thấy, sờ mó hay hình dung được.
Như thế pháp tướng tâm là trung gian giữa tâm và pháp tướng, chính là pháp tướng còn trong giai đoạn chuyển biến ở nội tâm.
Thân người là pháp tướng, phát xuất từ tâm chúng sanh, nhưng phải qua trung gian là
sắc uẩn còn gọi là pháp tướng tâm.
Theo khoa học không có cái gì mất mà cũng không có cái gì tự lập (
rien ne se perd, rien ne se crée). Khi thân người chết đi, tất cả vật chất làm thành thân này liền trở về với hư không dưới dạng lân trần, vì thế mới nói không có cái gì mất.
Thân này cũng không thể tự tạo lập. Dù cho khoa học tiến bộ tột đỉnh đi nữa cũng không thể tự nó làm ra con người, bởi lẽ con người là kết quả của một số nhân duyên hợp lại làm thành.
Sau khi tiến hành tận cùng công cuộc chia chẻ vật chất, khoa học sẽ đi đến một nhận định chính xác theo đó thì trong vũ trụ này không có một hiện tượng nào được tự lập cả. Vạn pháp đều do lân trần, một thứ siêu nguyên tử của ngày mai, kết hợp lại mà thành.
Như trên đã nói, tâm là nguồn gốc còn gọi là tánh của vạn pháp. Tánh này còn gọi là tánh Không. Tuy nói là Không nhưng lại sanh hóa muôn loài, vạn vật, vì cái Không chưa đựng vô lượng vô biên lân trần.
Đó là lý do vì sao Chơn Không mà trở thành Diệu Hữu. Dưới ánh sáng của khoa học, chúng ta mới thấu rõ "KHÔNG" là chẳng phải không có gì cả, trái lại nó là nguồn gốc sanh ra vạn vật, vạn pháp. Nhờ cái Không ây nên mới có vũ trụ và thế giới ngày hôm nay, có sông, có suối, có các cảnh đẹp, có những kỳ quan hùng vĩ, tráng lệ. Khi tìm cách giải thích những hiện tượng kỳ bí trong thiên nhiên, một vài nhà lãnh đạo tôn giáo vội cho rằng tất cả những thứ lạ lùng, vĩ đại hoặc vi tế ấy đều do bàn tay của một đấng Tạo Hóa làm ra. Rồi từ quan niệm ấy, họ không ngần ngại bảy ra những nghi thức tôn thờ, lễ lái, cúng kiến đối với đấng Tối Cao,
chính đấng ấy, cách nay trên 2.500 năm, đức Phật Thích Ca đã đơn thuần tạm gọi là Không với dụng đích ám chỉ cái không thể mô tả, không thể định danh, không thể nghĩ bàn.
Kiểm điểm lại những gì đã được một nhà hiền triết của thế kỷ 20 nói lên gần đây, chúng tôi thấy quan niệm của vị ấy về đấng sáng tạo, về khởi thủy của đời sống cũng không khác gì nhiều với phần trình bày về chữ Không của chúng tôi.
Nhà hiền triết được đề cập chính là ông Krishnamurti, trong câu chuyện ông nói lần cuối tại Madras, Ấn Độ ngày 4-1-1986, một tháng mười ba ngày trước khi ông từ giã cõi đời, thọ chín mươi mốt tuổi.
Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa nhứt được chúng tôi trích dẫn để chứng minh.
- We have talked about life, the very complexity of life, the beginning of like. What is life? What is the origin of all this, the marvelous earth, the lovely evening and the early morning sun, the rivers, the valleys, the mountains and the glory of the land which is being despoiled? If you say the origin of all this is god, then it is finished, then you can trot along quite happily, because you've solved the problem. But if you begin to question, doubt, as one should, all gods, all gurus, if you begin to question all that man has put together through a long evolution, down the corridors of history, you will find this question asked: "What i the beginning, what is the origin, how has all this come about?
Tạm dịch:
Chúng ta đã nói về đời sống, về chính cái tánh chất phức tạp của nó, về sự khởi thỉ của cuộc sống. Sự sống là cái gì, cái gì là nguồn gốc của tất cả sự vật sau đây: quả đất kỳ diệu, cảnh hoàng hôn xinh đẹp, mặt trời lúc bình minh, các sông rạch, các thung lũng, các ngọn núi và vẻ huy hoàng của dâtđai đang bị tước đoạt. Nếu quý vị cho rằng nguồn gốc của tất cả những thứ ấy là "Thượng Đế", thì không còn gì để nói nữa, khi đó quý vị có thể cỡi ngựa rong chơi vô cùng hạnh phúc vì quý vị đã giải quyết xong vấn đề. Nhưng nếu quý bị bắt đầu tìm hiểu, nghi ngờ, đó là việc mà ai ai cũng phải làm, về các cị thần linh, các vị chân sư, nếu quý vị bắt đầu tìm hiểu về tất cả những gì mà con người đã đóng góp chung suốt một thời kỳ tiến hóa dài, tận các hành lang của lịch sử, quý vị sẽ thấy câu hỏi được đặt ra như sau: Cái gì là khởi thỉ, cái gì là nguồn gốc, làm sao mà tất cả những cái này đã xảy ra?
Và đây là lời giải đáp của ông Krishnamurti:
- What is the origin of life? - This is much too serious a subject for you to play with, because we are trying to inquire into something that has no name, no end. I can kill a bird; there is another bird. I can;t kill all birds; there are too many of them in the world. So, we are inquiring into what makers a bird? What is creation behind all this?
No description can ever describe the origin. The origin is nameless. The origin is absolutely quit; it's not whirring about making noise. Creation is something that is most holy; that's the most sacred thing in life and, if you have made a mess of your life, change it. Change it today, not tomorrow. If you are uncertain, find out why and be certain. If your thinking is not straight, think straight, logically. Unless all that is prepared, all that is settled, you can't enter into this world, into the world of creation.
Tạm dịch:
Nguồn gốc của sự sống là gì? Đây là một đề tài hết sức hệ trọng, quý vị không thể hý luận được, bời vì chúng ta đang thử tìm hiểu một sự việc, một sự việc vô danh, vô tận. Tôi có thể giết một con chim, liền đó có một con chim khác. Tôi không thể giết hết tất cả loài chim, vì chúng có rất nhiều trên thế giới. Do đó, chúng ta đang tìm biết cái gì tạo ra con chim? Cái gì là tạo hóa đằng sau tất cả những thứ này?
Không có một sự mô tả nào có thể mô tả cái khởi nguyên? Khởi nguyên là vô danh. Khởi nguyên hoàn toàn vắng lặng. Nó không quay vù vù để gây nên tiếng động. Tạo hóa là cái gì tối ư thánh thiện. Đó là cái tối ư thiêng liêng trong đời sống và nếu quý vị có một cuộc hỗn độn, xin quý vị hãy thay đổi nó đi, thay đổi nó ngày hôm nay, đừng để qua ngày mai. Nếu quý vị còn nghi ngờ hãy tìm hiểu vì sao và hãy tin chắc đi. Nếu sự suy nghĩ của quý vị chưa được chinh chắn, hãy suy nghĩ chính chắn lại cho hợp lý đi. Nếu tất cả những điều này không được chuẩn bị, không được giải quyết thì quý vị không thể nào đi vào thế giới ấy, thế giới của tạo hóa.
Theo ông Krishnamurti thì tạo hóa là một cái gì không tên, không cùng tận, vắng lặng, tối ư thiêng liêng.
Để qua một bên khía cạnh thiêng liêng ấy, chúng ta rất đồng ý với ông Krishnamurti về cách nhìn của ông đối với nguồn gốc của sự sống; mà ông gọi là tạo hóa, trong khi nhà Phật gọi nó là Chơn Không Diệu Hữu.