- a. Chiếu soi bằng cách nào?
Hồi quang là xoay ánh sáng bên ngoài trở vào trong chơn tâm, đừng để thấy những cảnh vật bên ngoài lôi cuốn mình. Nên nhớ rằng chơn tâm luôn luôn thanh tịnh, vì thế ngoại cảnh loạn động vừa được đưa vào liền trở nên thanh tịnh.
Phản chiếu là chiếu trở ngược lại ngoại cảnh với thứ ánh sáng thanh tịnh vừa được chơn tâm chuyển đổi để có thể thấy như thật tất cả hiện tượng.
Chiếu soi hai chiều như thế sẽ đưa đến kết quả là thấy mà như không thấy mà lại thấy tất cả như thật.
Để cụ thể hóa pháp chiếu soi, chúng tôi xin đưa ra một thí dụ như sau:
Nhận được một bức điện tín báo tin buồn, sau khi đọc xong, người đời thường xúc động vì đau khổ. Nhưng đối với người đã tu lâu pháp chiếu soi thì phản ứng tự nhiên của đương sự là ngưng thần tụ khí, lập tức nhìn trở lại vào chơn tâm trong vài phút, đầu óc không suy nghĩ gì cả. Do đó, y sẽ vượt qua cảm xúc đau khổ và sẽ biết rõ như thật những sự việc đã xảy ra được đề cập trong điện tín.
Mỗi khi đối pháp nghĩa là đối phó với các sự việc xảy đến cho mình, mà mình biết chiếu soi chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua tất cả khổ đau như Tâm Kinh đã khẳng định.
- b. Chiếu soi cái gì?
Chúng ta không thể nào nhìn rõ được bốn thứ ngã của thức Mạt Na, nhưng chúng ta có thể thấy rõ tướng thô của chúng là thất tình, lục dục.
Bị liên tục chiếu soi thì thất tình, lục dục sẽ suy yếu và mất đi, bốn ngã sẽ được dứt trừ, thức Mạt Na liền dứt theo, thứ A lại da biến thành thức bạch tịnh (trong trắng) bởi là Mạt Na và A Lại Da tuy hai mà một.
Do ở chỗ thức Mạt Na là nơi nương tựa của sáu thức đầu (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức), một khi Mạt Na mất thì sáu thức này khi đối pháp sẽ không nhiễm một thứ tình nào trong thất tình.
Như thế người hành pháp chiếu soi mới có cái nhìn vạn pháp như thật.
Tóm lại, chúng ta hãy chiếu soi những tư tưởng nào mang tính chất của thất tình, lục dục, còn ngoài ra cứ để cho tạp niệm xẹt ra và biến mất trong đầu nhưng với điều kiện là chúng ta phải tỉnh táo để biết kịp thời các tạp niệm ấy.
Biết kịp thời tạp niệm sẽ làm cho tạp niệm tan biến. Đó là pháp chánh giác.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày chi tiết pháp chiếu soi mà Tâm Kinh gọi là pháp chiến kiến. Tuy nhiên để giúp cho quý độc giả nắm vững lý do vì sao pháp này có công năng vi diệu trong vấn đề dứt trừ tâm chấp ngã, chúng tôi xin được phép giải thích thêm như sau, dựa trên động lực học (dynamique des forces).
Pháp chiếu soi còn được đặt nhiều tên khác như pháp tu nhĩ căn viên thông mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ tát Văn Thù, theo lệnh của đức Phật đã tự mình lựa chọn trong số hai mươi lăm pháp tu của hai mươi lăm vị Bồ tát và A La Hán, vì theo ngài pháp tu nhĩ căn viên thông của Bồ tát Quán Thế Âm là pháp dễ tu, dễ đắc nhứt, rất phù hợp cho các chúng sanh đời sau, ngay trong thời kỳ mạt pháp. Pháp tu Thiền này rất đơn giản, trong khi các loại thiền khác quá phức tạp, bởi lẽ người tu giờ phút nào cũng thực hành được, không cần phải có chỗ thanh tịnh, hoặc có đủ phương tiện cần thiết.
- Thế nào là viên thông?
Viên là tròn đầy, thông là thông suốt, không ngăn ngại. Do đo nhĩ căn viên thông hàm ý là khi nghe bất cứ âm thanh nào ở ngoại giới cũng như tiếng nói trong lòng mình, người tu cảm thấy rằng mình không bị lôi cuốn bởi sức quyến rũ của các âm thanh ấy.
Pháp chiếu soi hay pháp tu nhĩ căn viên thông còn được gọi là pháp lắng nghe, lắng nhìn vô sở thọ, bởi lẽ khả năng chiếu soi của lỗ tai là nghe, của mắt là nhìn, là thấy mà không cảm thọ, không bị lôi cuốn thì gọi là viên thông.
Tuy khác nhau về văn tự, nhưng cả ba pháp tu này đều có cùng một nghĩa.
Cách giải thích có khả năng thuyết phục nhứt vì sao hành pháp chiếu soi một cách thuần thục có thể giữ tâm bất nhiễm, vô trụ không bị cảm thọ hay bị lôi cuốn bởi ngoại cảnh hay bởi vòng tâm là cách giải thích áp dụng khoa động lực học.
Người tu thiền không chủ trương tận diệt mọi tư tưởng. Họ chỉ tìm cách dứt trừ tư tưởng tham, sân, si, thất tình, lục dục (chấp ngã, chấp pháp), khi đối cảnh, đối pháp hay những hình ảnh có sức quyến rũ được ghi trong ký ức. Họ chỉ muốn làm chủ tất cả những tư tưởng bất luận chơn hay vọng đang diễn biến trong tâm họ, nghĩa là chẳng những họ không để cho các tư tưởng chấp ngã và chấp pháp lôi cuốn khi họ đối pháp, mà còn tùy nghi sử dụng những tư tưởng ấy để làm lợi người và lợi mình. Đó là trường hợp của những vị Tổng Thống, Thủ Tướng biết khắc phục những tư tưởng vị kỷ, cống cao ngã mạn để tìm cách sử dụng địa vị của mình, hầu đem lại lơi ích cho mọi tầng lớp trong dân chúng.
Muốn khỏi bị lôi cuốn bởi ngoại cảnh hay bởi vọng niệm, trước tiên chúng ta phải tỏ thấu chúng khi đối cảnh, đối pháp.
Có đối pháp, tâm liền phát khởi. Tâm phát khởi là tâm bị động, tâm lắng nghe, lắng nhìn bên trong là tâm tịnh.
Tuy nói có hai tâm nhưng cả hai đều sử dụng một lực, đó là tâm lực nói chung, trung tính (neutre) không thiện không ác.
Vì chơn tâm hay chơn như trùm khắp, vừa ở nội tâm mỗi người chúng ta mà cũng vừa ở khắp cùng vũ trụ. Do đó, tâm lực của chúng ta cũng chính là lực của vũ trụ còn gọi là lực năng sanh của chơn như.
Khi đối pháp, nếu chúng ta sanh lòng tham, thì liền đó có một lực thúc đẩy chúng ta phải hành động.
Nếu chúng ta biết lắng nghe, lắng nhìn nội tâm, tất nhiên lực tham sẽ mất, khiến cho tư tưởng tham cũng lần hồi mất theo.
Vậy thì việc cần phải làm ngay là tập cho tâm lắng nghe, lắng nhìn có một lực thật mạnh, đủ sức để hàng phục các tư tưởng tham, sân, si, thất tình, lục dục. Lực thật mạnh ấy chính là tâm lực sẵn có ở nơi mình, từ trước đến giờ chỉ được các tư tưởng chấp ngã, chấp pháp sử dụng, nay nhờ áp dụng pháp chiếu soi nên nó được dồn về tâm lắng nghe.
Nếu thường xuyên đối pháp và mỗi lần đối pháp chúng ta có dịp huân tập lực lắng nghe, phát triển nó cho thật mạnh thì dĩ nhiên các lực tham, sân, si sẽ yếu dần cho đến cuối cùng không còn đủ sức, đủ ma lực để lôi cuốn chúng ta nữa. Chừng đó chúng ta đã được chuyển hóa thành những chủng tử trắng trong (bạch tịnh). Nếu quá trình chuyển hóa được hoàn tất thì chúng ta sẽ không còn bị nhiễm ô nữa tức là chúng ta được giải thoát.
- Cách Thức Thực Hành Pháp Lắng Nghe
Chúng ta làm như vậy nhằm mục đích phát huy pháp chiếu soi cho thật bén nhạy, để khi đối pháp chúng ta kịp thời lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của lòng mình.
Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, tư thế có lợi nhứt là ngồi, vì nó giúp chúng ta dễ dàng theo dõi tư tưởng mà không bị hôn trầm, không bị mệt mỏi.
Sau khi đối pháp mà chúng ta dã áp dụng thuần thục pháp chiếu soi, chúng ta nên chuyển qua chiếu soi bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả.
Mục đích của pháp chiếu soi bốn tướng là để thành tựu tâm không phân biệt, tâm bình đẳng. Chúng ta nên nhớ rằng mình và vạn pháp là một, không sai khác do ở chỗ có cùng một bản thể bất biến, năng sanh, sáng suốt và thanh tịnh. Phàm phu vì không nhận thức được điều này nên sanh tâm phân biệt mình và người, mình và chúng sanh và tâm phân biệt ấy được liên tục kéo dài trong thời gian và không gian. Đó là tâm phân biệt bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả mà các bộ kinh Phật thường đề cập đến.
Vọng tâm chấp ngã tức là chấp ngã tướng. Chữ tướng ở đây có nghĩa vừa là hình tướng vừa là ý nghĩa, khái niệm. Nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cả ba tướng này đều được suy diễn từ ngã tướng. Chiếu soi bốn tướng tức là chiếu soi ngã tướng.
Ngã tướng gồm có thân và tâm, phát sanh từ vô minh.
Vì chấp thân tâm là Ta nên chúng sanh không đủ can đảm tự mình tiêu diệt ngã tướng, nên con người mới tham sống sợ chết.
Vì chấp tâm ta là thật, nghĩa là chấp những cái thấy (nhãn căn), nghe (nhĩ căn) hay còn gọi là cảm thọ (tỷ căn), thiệt căn (thân căn) và biết (ý căn) là của Ta, là do Ta nên người đời thường ra sức bảo thủ, bênh vực ý kiến về quan điểm của mình, từ đó mới sanh ra bao nhiêu mối bất hòa, tranh chấp.
Muốn chiếu soi rốt ráo ngã tướng, chúng ta cần phải tỏ thấu những biểu hiện của ngã tướng. Có hai cách biểu hiện:
- Ngã tướng thô
Ngã tướng thô còn biểu hiện bằng cách phân biệt mình và người, mình và chúng sanh, người này người nọ, phân biệt nam nữ, tốt xấu v.v...
Ngã tướng thô còn được biểu lộ bằng các cuộc đấu tranh, để bênh vực những quan điểm, chủ thuyết của mình qua những điều thấy, nghe, hay, biết.
- Ngã tướng vi tế
Tuy nhiên ngã tướng vi tế khó bề dứt trừ vì nó khó phân biệt. Trong chương 10, kinh Viên Giác, đức Phật dạy cách đề phòng nó như sau:
- Hễ còn biết mình thật có chứng đắc thì vẫn còn ngã tướng vi tế (chứng).
- Nếu trong tâm mình còn một chút hiểu biết về việc chứng đắc ấy thì vẫn còn nhân tướng vi tế.
- Khi cả hai tướng này được dứt trừ mà còn có cái tâm rõ biết thì vẫn còn chúng sanh tướng vi tế.
- Cuối cùng cái tâm rõ biết ấy còn gọi là trí giác ngộ vẫn phải tiếp tục tu các pháp vô lậu trong một thời gian dài nữa để tự tiêu diệt, chừng đó thọ mạng tướng vi tế mới thật sự chấm dứt (giác).
Bốn chữ Hán chứng, ngộ, liễu, giác mô tả trình tự giảm thiểu của tâm chấp ngã trên bước đường dài tu tập để đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Sau khi thuần thục chiếu soi bốn tướng, nghĩa là sau khi tâm tư được yên lặng thì không cần phải tiếp tục hành pháp này nữa.
Chúng ta lại bắt đầu áp dụng pháp chiếu soi các quán hạnh về Mật Tông để phát khởi thần lực. Trong giai đoạn tu tập pháp này được gọi với cái tên là Bí Mật Pháp Thân Tỳ Lô, chúng ta mới ý thức được giá trị cao diệu của Mật Tông trong vấn đề đem tâm mình hòa hợp với tâm của vũ trụ. Thật vậy, khi tâm mình thường xuyên vắng lặng như hư không, thì tâm lực của mình còn gọi là tự lực lúc đó đã biến thành tha lực. Chừng ấy tự lực tức là tha lực, tha lực tức là tự lực, bởi lẽ chúng ta đã hoàn tất quá trình phát triển thần lực với bốn cột mốc dưới đây:
- Cột mốc 1: Mắt thấy được hào quang và các hình tướng trong cõi vô hình, tai nghe được các thứ âm thanh từ thế âm, diệu âm, hải triều âm đến phạm âm.
- Cột mốc 2: Tất cả hạnh nguyện của mình đều được như ý (tùy ý).
- Cột mốc 3: Chẳng những các hạnh nguyện được tùy như ý mà còn được thể hiện trọn vẹn, đầy đủ (như ý túc).
- Cột mốc 4: Cuối cùng tâm mình được hòa nhập với tâm của vũ trụ, với Viên giác.
Tóm lại, muốn được vô sở thọ khi lắng nghe thì không nên nghĩ thiện, nghĩ ác, tâm rỗng rang như hư không.
Trong khi giữ tâm rỗng rang, mà niệm khởi thì cũng mặc tình, chỉ cần tỉnh táo để kịp thời giác niệm là được, vì giác niệm thì niệm tan.
Sở dĩ pháp chiếu soi mang lại hiệu quả nhanh nhất vì nó bao gồm cả Định lẫn Huệ. Trời người và các hàng Nhị thừa vì lầm chấp Định, Huệ là hai pháp riêng biệt nên để mất đi cái diệu thể đồng nhứt, vì thế họ mới tiếp tục rơi vào quỹ đạo nhị nguyên đối đãi.
- Vì sao pháp chiếu soi bao gồm Định, Huệ?
Lắng nghe hay chiếu soi với tâm vắng lặng tức là hòa nhập được tánh Không của vạn pháp, là thấy được Phật tánh nơi lòng mình.
Pháp chiếu soi cuối cùng chỉ là pháp làm cho tâm được bình. Nếu tâm được bình rồi liền bỏ pháp. Tâm bình thường là đạo.
Gọi là bình thường vì đối với pháp, tâm không bị ô nhiễm. Tâm không bình thường khi gặp chi liền đam mê, tham đắm, từ đó phát khởi mọi thứ tham, sân, si, thất tình, lục dục.