Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

...
Chư Phật xuất hiện trong mười phương
Khắp cùng trong tất cả thế gian
Quán tâm chúng sinh hiện điều phục
Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.

‘’ Chư Phật xuất hiện trong mười phương.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, xuất hiện trong mười phương ba đời tất cả thế gian.
‘’ Khắp cùng trong tất cả thế gian.’’ Khắp cùng trong thế gian, tức cũng khắp cùng trong hư không pháp giới.

‘’ Quán tâm chúng sinh hiện điều phục.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, quán sát tất cả tâm chúng sinh, hiển thị ra pháp môn điều phục. Chúng sinh nhiều tham, thì khiến cho họ tu quán bất tịnh, chúng sinh nhiều sân, thì khiến cho họ tu quán từ bi. Chúng sinh ngu si, thì khiến cho họ tu quán nhân duyên. Cho nên phải quán sát căn tính chúng sinh, mà dùng pháp phương tiện, để giáo hóa, để điều phục.
Phật điều phục tất cả chúng sinh chẳng chấp trước nơi tướng. Trong Kinh Kim Cang có nói :

‘’ Phật diệt độ tất cả chúng sinh,
Thật chẳng có chúng sinh được diệt độ.’’


Ðó là không thủ nơi tướng, độ chúng sinh mà chẳng có tướng chúng sinh, tức là chẳng chấp trước chúng sinh.
Chúng ta làm việc gì, thì chấp trước vào việc đó, bố thí cho người một ly nước, hoặc cho người một bát cơm, thì cho rằng mình làm việc tốt, lợi ích cho chúng sinh, đó là chấp trước tướng. Cho nên phải có tư tưởng tam luân thể không :
1. Không thấy có người bố thí, như vậy thì có thể trừ ngã chấp, tức là không có ngã (cái ta).
2. Không thấy có vật thí, như vậy thì có thể trừ san tham, tức là pháp không.
3. Không thấy có người nhận, không phân biệt người thân, kẻ oán, đều bình đẳng bố thí, tức là người không.

Ðược ba điều này đều không, thì mới là bố thí chân thật. Bằng không, nếu vì danh vì lợi, thì biến thành bố thí có xí đồ, là bố thí giả, chẳng phải thật bố thí.
‘’ Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương minh bạch được đạo lý môn giải thoát này.
...
Tất cả an lạc của thế gian
Hết thảy đều từ Phật sinh ra
Công đức Như Lai chẳng ai bằng
Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.

‘’ Tất cả an lạc của thế gian.’’ Tất cả sự an lạc và bình an ở nhân gian và trên cõi trời đều nhờ Phật gia bị, ban bố cho.
‘’ Hết thảy đều từ Phật sinh ra.’’ Vì Phật pháp có công năng vun bồi tưới bón, khiến cho chúng sinh chẳng có căn lành, thì trồng căn lành, đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành tăng trưởng, thì khiến cho thành thục, người căn lành thành thục, thì khiến cho giải thoát, sau đó khiến cho tất cả chúng sinh, đều thành tựu Phật đạo, cho nên nói tất cả đều từ Phật sinh ra.
‘’ Công đức Như Lai chẳng ai bằng.’’ Công đức của Phật thù thắng nhất, chẳng ai có thể sánh được. Vì Phật trong ba đại A tăng kỳ kiếp tu phước tu huệ, trong trăm đại kiếp tu đủ thứ công đức tướng tốt, cho nên Phật là phước huệ lưỡng túc tôn, có ba mươi hai tướng trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp, thành bậc chánh giác, ba giác viên mãn.


Ðầu của Phật có hào quang, trên đỉnh có nhục kế, tóc quắn xanh biếc, mặt như trăng rằm, hào quang trắng phóng quang minh, lông mi cong như trăng non, mắt sáng như gương, mũi chẳng hiện lỗ, môi đỏ như đan (chất màu đỏ tươi), răng trắng như tuyết, bốn mươi cái răng, lưỡi dài quá mũi, tai thon gần đụng vai, toàn thân màu hoàng kim, da trơn mịn, thể thơm như bông lan, ngực có chữ vạn, rún sâu tròn tốt, tay dài quá gối, tay chân có màng mỏng, ngón tay nhỏ dài, móng tay như ngói, mu bàn chân cao dày, đi như thiên nga, tướng mã âm tàng, đầu gối tròn cứng, âm thanh sâu xa .v.v. Ba mươi hai tướng này đều hiếm có trong đời, chúng ta may đâu chỉ có một trong ba mươi hai tướng, tức là quý tướng. Tại sao chúng ta chẳng có những tướng này ? Vì kiếp trước chẳng tu phước chẳng tu huệ, cho nên chẳng có tướng tốt như thế. Nếu muốn tướng mạo đoan chánh trang nghiêm thì phải mau trì giới bố thí, tu phước tu huệ, mới có được tướng tốt.
‘’ Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.’’ Môn giải thoát này vị Tịnh Hoa Quang Thiên Vương minh bạch được.
Ðức Phật là cha đại từ bi của chúng ta, cho nên sớm dự bị sự khoái lạc ở cõi trời và cõi người. Chúng ta giống như lúc còn thơ ấu, cha mẹ mua đến rất nhiều đồ chơi, trẻ con thấy đồ chơi nhảy nhót vui mừng, bèn sinh tâm khoái lạc. Sự khoái lạc này do cha mẹ ban cho. Chư thiên, loài người đều là con, cháu của Phật, cho nên Phật mới cho chúng sinh an lạc. Suy nghĩ như thế mới sinh tín tâm đối với Phật.
...
Ðấng Tự Tại phương tiện giải thoát
Nếu ai thấy được mà cúng dường
Khiến họ tu hành chứng đạo quả
Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy.

"Ðấng tự tại phương tiện giải thoát". Giải thoát nghĩa là : chẳng còn mọi sự chấp trước. Không còn chấp trước mới thật sự tự tại. Không trói không buộc, không quái không ngại, không sầu không lo, không vui không giận, không bị gì ràng buộc, không bị vật chất lung lay, thì "vượt ra khỏi tam giới, không ở trong ngũ hành", như vậy mới hoàn toàn giải thoát. Nếu muốn được giải thoát thì tu đủ thứ phương tiện pháp môn, từ phương tiện pháp môn mà đạt đến tự tại, từ tự tại mới đạt được giải thoát.
Chân chánh giải thoát thì chẳng có tướng giải thoát, chẳng có tính giải thoát, không thể nói giải thoát. Người hay nói thì chẳng phải là thật giải thoát, hơn nữa chẳng phải nói có tư tưởng thì nói tôi giải thoát rồi. Nhưng làm thế nào biết có giải thoát ? vậy vẫn chưa được giải thoát.
Tại sao phải nói có giải thoát ? Giải thoát vốn là giải thoát. Tại sao phải nói tôi phải giải thoát ? Tôi phải đắc được giải thoát ? Vậy bạn đã vứt giải thoát rồi chăng ? hay là đã mất rồi chăng ? cho nên một số người không giữ quy cụ, cho rằng mình đắc được giải thoát (tự do), cho rằng muốn họ giữ quy cụ thì chẳng đắc được giải thoát. Thứ tư tưởng nầy khiến cho họ làm tự liễu hán, họ không biết đến người, người không biết đến họ. Do đó, "quan niệm", chẳng màng đến việc gì hết. Thật ra đại Bồ Tát thì hành Bồ Tát đạo, chuyên lo mọi việc. Di Ðà Phật tiếp dẫn chúng sinh về thế giới Cực Lạc, hoa sen hóa sinh, chẳng có thời giờ nghỉ ngơi, sao nói không thích lo việc thiên hạ ?


Tổ thứ tư Ðạo Tín đại sư khoảng mười bốn tuổi thì đến núi Sùng Công lạy Tổ thứ ba là Tăng Xán.
- Ðạo Tín đại sư nói :"Mong Hòa Thượng từ bi, chỉ dạy pháp môn giải thóat".
- Tổ Tăng Xán nói : "Ai trói buộc ngươi" ?
- Ngài Ðạo Tín nói : "Chẳng ai trói buộc".
- Tổ Tăng Xán nói : "Cầu giải thoát để làm gì" ?

Ngài Ðạo Tín nghe rồi bèn khai ngộ, ở lại hầu Tổ Tăng Xán bảy năm, sau được tâm ấn Cà sa làm Tổ thứ tư.

"Nếu ai thấy được mà cúng dường". Ðấng tự tại phương tiện giải thoát tức là Phật. Nếu có ai thấy được Phật mà phát tâm cúng dường Phật.
"Khiến họ tu hành chứng đạo quả". Hoàn toàn khiến cho chúng sinh cúng dường, tu đủ thứ pháp môn, chứng được quả vị.
"Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy". Vị Trì Ðức Thiên Tử minh bạch được phương tiện pháp môn nầy.
Trong một pháp môn vô lượng môn
Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy
Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn
Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy.

"Trong một pháp môn vô lượng môn". Pháp của Phật nói là một làm lượng, vô lượng làm một. Một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc. Cho nên mới nói : trong một pháp môn, diễn nói vô lượng pháp môn, vô lượng pháp môn, trở về một pháp môn. Ðó là cảnh giới trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
"Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy". Trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, Phật đều nói pháp như thế. Nhưng thứ pháp nầy thủy chung cũng nói không hết.
"Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn". Pháp môn của Phật diễn nói là vô lượng vô biên, cho nên nghĩa lý rộng lớn, vô cùng tận.
"Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy". Phổ Vận Quang Minh Thiên Tử thấy rõ cảnh giới nầy.

...
Chúng sinh chẳng có Thánh an lạc
Trầm mê đường ác thọ các khổ
Như Lai khai thị môn pháp tánh
An Lạc tư duy thấy như thế.

"Chúng sinh chẳng có Thánh an lạc". Tất cả sự an lạc của chúng sinh, đều là an lạc thế gian, tuy nhiên cảm thấy là an lạc, thật ra là chẳng thật an lạc. Thật an lạc là gì ? Tức là an lạc của Thánh nhân, không thọ các khổ, chỉ thọ an lạc, không lo không sầu, không quái không ngại.
"Trầm mê đường ác thọ các khổ". Chúng sinh trầm mê trong sáu nẻo luân hồi, thọ đủ thứ sự thống khổ. Trong sáu nẻo có ba đường lành và ba đường ác. Ba đường lành là cõi trời, cõi người, cõi a tu la. Tu mười điều lành giữ năm giới, thì sinh về đường lành. Ba đường ác là : Súc sinh, ngạ quỷ đạo, địa ngục, làm mười điều ác không giữ giới thì sinh vào ba đường ác. Chúng sinh sinh vào ba đường lành thì khổ nhiều vui ít. Chúng sinh sinh vào ba đường ác thì không có vui, chỉ thọ các sự thống khổ.
"Như Lai khai thị môn pháp tính". Phật khai thị cho chúng sinh, các pháp không rời tự tính, khiến cho chúng sinh, đều đắc được an lạc của bậc Thánh nhân.
"An Lạc tư duy thấy như vậy". Vị An Lạc Thế Gian Tâm Thiên Tử, tư duy thấy được cảnh giới nầy.
...
Phật như hư không không tự tánh
Vì lợi chúng sinh hiện ra đời
Tướng tốt trang nghiêm như bóng hình
Tịnh Giác Thiên Vương thấy như vậy.

"Phật như hư không không tự tánh". Phật thì lấy hư không làm thể, lấy pháp giới làm thể, lấy chúng sinh làm thể. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết hư không. Nếu biết hư không thì biết được Phật. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết pháp giới, nếu biết pháp giới thì biết được Phật. Bạn muốn biết Phật chăng ? Vậy thì trước hết phải biết tất cả chúng sinh, nếu biết được tất cả chúng sinh thì cũng biết được Phật.
Vì Phật chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể, chẳng có tự tướng, lấy hư không làm tự tánh, lấy pháp giới làm tự thể, lấy chúng sinh làm tự tướng, cho nên nói Phật như hư không không tự tánh.
"Vì lợi chúng sinh hiện ra đời". Vì sao Phật xuất hiện ra đời ? Vì Phật có tâm đại bi, muốn lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được lợi lạc, cho nên mới xuất hiện ra đời.
Phật ở cõi Thường Tịch Quang tịnh độ, như như bất động, liễu liễu thường minh, không màng chúng sinh được độ hay không, nhưng tâm đại bi của Phật quá nặng, muốn lợi ích chúng sinh, cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ, cho nên đảo giá từ thuyền, xuất hiện ra đời để độ chúng sinh đáng được độ.

"Tướng tốt trang nghiêm như hình bóng". Tuy nhiên Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đủ thứ trang nghiêm, nhưng giống như bóng, như hình, chẳng có bổn thể chân thật.
"Tịnh Giác Thiên Vương thấy như vậy". Vị Tịnh Giác Nguyệt Thiên Tử biết được cảnh giới nầy.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/ ... ep-Theo-2/
Lại nữa, Trì Quốc Càn Thác Bà Vương, được môn giải thoát, phương tiện tự tại nhiếp tất cả chúng sinh.

Nay giảng tiếp theo. Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương. Càn Thác Bà dịch là "hương thần", hoặc là "nhạc thần". Vị nầy đắc được pháp môn tự tại phương tiện, tức là môn giải thoát nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Tự tại tức là tự do tự tại, tuyệt đối không miễn cưỡng. Phương tiện tức là quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Nhiếp tức là nhiếp thọ, giống như nam châm hút sắt. Nhiếp có hai lối giải thích :
1. Triết nhiếp : là dùng pháp môn mãnh liệt để triết phục những chúng sinh khó điều khó phục.
2. Từ nhiếp : là dùng tâm từ bi đi nhiếp thọ, khiến cho chúng sinh tự động đến tín ngưỡng Phật pháp, đến thấu hiểu Phật pháp, đến thực hành Phật pháp mà chứng đắc Phật quả.

...Cảnh giới chư Phật vô lượng môn
Tất cả chúng sinh chẳng vào được
Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh
Khắp vì thế gian mở chánh đạo.

"Cảnh giới chư Phật vô lượng môn". Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương ở trong định, quán sát quả của chúng sinh trong quá khứ, xuất định thì lại quán sát quả của chúng sinh trong hiện tại. Thấy quả thì biết nhân, quán nhân thì biết quả. Và còn biết ba đời tất cả chư Phật có vô lượng pháp môn.
"Tất cả chúng sinh chẳng vào được". Cảnh giới của chúng sinh và cảnh giới của chư Phật giống nhau. Nhưng cảnh giới của chúng sinh thì phiền não, tịnh náo, điên đảo. Cảnh giới của chư Phật thì thanh tịnh, vô vi mà vô bất vi, gì cũng chẳng có, nhưng có hết thảy. Cảnh giới nầy chúng sinh chẳng hiểu biết được, cho nên chúng sinh không thể đạt đến cảnh giới của chư Phât. Vậy làm thế nào có thể đạt đến được ? Duy chỉ một pháp môn, đó là học tập Phật pháp, tu hành Phật pháp.
"Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh". Thiện Thệ tức là một trong mười hiệu của Phật. Phật thực hành bát chánh đạo mà chứng nhập cứu kính Niết Bàn, tánh của Ngài thanh tịnh như hư không.
"Khắp vì thế gian mở chánh đạo". Khắp vì tất cả chúng sinh thế gian, mà mở ra con đường chánh đại quang minh, khiến cho chúng sinh từ con đường khang trang bằng phẳng, thẳng đến cõi nước Phật.
Biển ưu khổ thế gian rộng lớn
Phật tiêu trừ sạch hết không còn
Như Lai thương xót nhiều phương tiện
Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn nầy.

"Biển ưu khổ thế gian rộng lớn". Chúng sinh hữu tình thế gian ưu sầu khổ não, nhiều như nước trong biển lớn, vừa rộng lớn vừa thâm sâu, do đó "Biển khổ vô biên, quay đầu là bến". Biển khổ vô biên phải làm như thế nào ? Phải quay đầu tức là giác ngộ, giác ngộ tức là đến bờ kia. Bờ kia tức là cảnh giới của Phật, đến được cảnh giới của Phật thì chẳng còn biển ưu khổ nữa.
Làm thế nào để quay đầu ? Tức là buông xả. Buông xả hết tất cả, buông xả được thì đắc được tự tại. Tại sao có ưu khổ ? Vì buông bỏ chẳng đặng. Tại sao buông bỏ chẳng đặng ? Vì nhìn không thấu được. Tại sao nhìn không thấu được ? Vì chẳng có trí huệ. Tại sao chẳng có trí huệ ? Vì chẳng tu đạo. Cho nên trước hết phải tu đạo, sau mới có trí huệ, có trí huệ rồi thì nhìn thấu hết mọi sự mọi vật, nhìn thấu rồi thì buông bỏ đặng. Buông bỏ được thì chẳng còn ưu bi khổ não nữa.
"Phật tiêu diệt sạch hết không còn". Phật hoàn toàn tiêu diệt trừ sạch biển ưu khổ của chúng sinh, một chút ưu sầu khổ não cũng chẳng còn.
"Như Lai thương xót nhiều phương tiện". Phật dùng từ bi giáo hóa chúng sinh, thương xót độ khắp chúng sinh, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giúp đỡ chúng sinh.
Chúng ta người tu đạo, đối với tất cả chúng sinh nên có tâm từ bi, ban vui cho chúng sinh, cứu khổ chúng sinh, và nên có tâm thương xót, đồng khổ với chúng sinh, đáng thương nỗi khổ của chúng sinh, tìm cách giải trừ nỗi khổ của chúng sinh. Người tu đạo trước hết phải có tâm từ bi thương xót, nếu không, bất cứ tu hành gì cũng không thể thành tựu, bất quả chỉ là liễu hán mà thôi.
"Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn này". Vị Tịnh Mục Càn Thác Bà Vương hiểu thấu cảnh giới nầy của Phật.

Mười phương cõi nước không bờ mé
Phật dùng trí quang đều chiếu sáng
Quét sạch tất cả tà ác kiến
Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được.

"Mười phương cõi nước không bờ mé". Cõi nước của mười phương chư Phật chẳng có bờ mé. Không những mười phương cõi nước không có bờ mé, mà một phương cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Ðừng nói chi đến một phương cõi nước chẳng có bờ mé, mà một thân cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Cõi nước mỗi thân người với mười phương cõi nước hổ tương thông với nhau. Thân của mình tức là cõi nước của mình, thân của họ tức là mười phương cõi nước, nếu phân tích tỉ mỉ thì vô lượng vô biên, cho nên nói mười phương cõi nước chẳng bờ mé.
"Phật dùng trí quang đều chiếu sáng". Phàm phu chúng ta không biết có bao nhiêu biển cõi ? Vì chúng ta chẳng có trí huệ quang, nếu khai mở mắt trí huệ thì "Sát trần tâm niệm khả sổ tri" (tâm niệm nhiều như hạt bụi cõi nước đều đếm biết được). Phật là bậc đại giác viên mãn, dùng trí huệ quang minh đồng thời chiếu sáng biển cõi mười phương, do đó "Phật quang chiếu khắp".
"Quét sạch tất cả tà ác kiến". Quét sạch tất cả tà tri tà kiến, của hết thảy chúng sinh biển cõi trong mười phương. Tri kiến tà ác không những lầm người mà còn lầm chính mình.
"Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Thụ Hoa Càn Thác Bà Vương lãnh ngộ được.
Phật trong quá khứ vô lượng kiếp
Tu tập đại từ hành phương tiện
Tất cả thế gian đều yên vui
Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được.

"Phật trong quá khứ vô lượng kiếp". Phật trong vô lượng kiếp về trước, cũng thành tâm cung kính nghe pháp, một chút tâm cống cao ngã mạn cũng chẳng có, ở trong pháp hội đều giữ quy cụ, không cười nói cẩu thả, chuyên tâm nghe giảng, lĩnh hội được nghĩa lý.
"Tu tập đại từ hành phương tiện". Phật tu tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm không người không ta, pháp môn thiện xảo phương tiện. Phật nói pháp đúng với căn cơ người nghe, cho nên người nghe pháp càng nghe càng hoan hỉ, do đó "hoan hỉ tin thọ, làm lễ mà lui ra".

"Tất cả thế gian đều yên vui". Yên vui cũng là an lạc. Ví như có người tâm không thoải mái, hoặc có việc chẳng may xảy đến, lúc đó có người đến an ủi họ, khuyên họ, họ hiểu được chuyển buồn thành vui.
Phật khiến cho tất cả chúng sinh hữu tình thế gian, đều được yên vui, làm cho họ chẳng còn ưu sầu, chẳng còn khổ não. Phật vì khiến cho chúng sinh khoái lạc, mà không nghỉ ngơi, đó là đại từ đại bi.

"Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thác Bà Vương minh bạch, hiểu rõ, chứng ngộ được.

Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy
Sinh ra vui thế gian vô tận
Giải thoát nhân quả thứ tự thành
Mỹ Mục minh bạch cảnh giới nầy.

"Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy". Thân của Phật thanh tịnh không gì sánh bằng. Vì Phật trừ hết sạch mọi nhiễm ô, cũng trừ khử sạch tham sân si, chỉ tồn tại giới định huệ, cho nên thân Phật thanh tịnh. Chúng sinh đều hoan hỉ thấy pháp thân thanh tịnh.
Thân chúng sinh thì ô trược. Tại sao ? Vì chẳng trừ khử tam độc tham sân si, cho nên không thanh tịnh. Thân Phật thanh tịnh, do đó chúng sinh không những thích thấy pháp thân của Phật, mà còn cung kính cúng dường thân Phật.
Phật trong vô lượng kiếp tu hành, còn chúng sinh trong vô lượng kiếp tạo nghiệp. Từ vô thủy kiếp đến hiện tại, vẫn không biết ngừng tạo nghiệp, cho nên thân không thanh tịnh. Thân không thanh tịnh thì chẳng có ai muốn thấy. Tại sao ? Vì không thanh tịnh !
Có ai muốn thấy người không thanh tịnh chăng ?
"Sinh ra vui thế gian vô tận". Ðức Phật ở tại hữu tình thế gian sinh ra vô tận khoái lạc, lúc cuối cùng trong pháp hội giảng Kinh nói : đều đại hoan hỉ, y giáo phụng hành, vì Ðức Phật hay sinh ra vô tận an vui trong thế gian.
"Giải thoát nhân quả thứ tự thành" Giải Thoát phải trải qua một đoạn thời gian, mới có thể đắc được giải thoát, chớ chẳng phải lập tức mà đắc được giải thoát. Thứ tự giải thoát là như vầy : Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành. Người đã trồng căn lành rồi, thì khiến cho tăng trưởng. Người đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Ðó là nói phải có nhân giải thoát mới có quả giải thoát. Tóm lại, tại nhân địa trồng nhân giải thoát, thì đến lúc sẽ kết quả giải thoát. Bốn quá trình nầy sẽ thành tựu từng bước một chứ chẳng phải hốt nhiên mà thành tựu.
"Mỹ Mục minh bạch cảnh giới này". Vị Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thác Bà Vương, khéo khai thị cho tất cả chúng sinh về đạo lý nầy, khiến cho họ minh bạch cảnh giới nầy, mới có thể y pháp tu hành.

Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển
Ngu si chướng che rất kiên cố
Như Lai vì nói pháp rộng lớn
Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được.

"Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển". Mê là không giác ; "hoặc" là không rõ. Mê hoặc tức là không nhận thức rõ ràng về chính mình, tức cũng là cảm thấy mình có trí huệ, cảm thấy mình giỏi hơn kẻ khác, đó tức là mê hoặc. Chúng sinh mê hoặc quá sâu nặng, chính mình còn không thừa nhận, không biết rằng mê tức là không giác, có hoặc thì chẳng sáng suốt. Có mê hoặc rồi thì không rõ lý. Có người đang giảng Phật pháp mà họ nghĩ là thật chăng ? Có Phật chăng ? Có pháp chăng ? Khởi lên nghi hoặc cho rằng việc không thể được.
Nếu như có người dạy họ pháp tà, thì họ chẳng hoài nghi, ngược lại còn cho đó là diệu pháp, là pháp diệu không thể tả. Nếu có người dạy họ pháp thiện, thì họ khởi nghi vấn, không tin là pháp thật, đó tức là mê hoặc.
Vì nghiệp chướng ràng buộc, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Bị nghiệp chuyển, càng lưu chuyển càng xa, càng xa càng mê. Lưu chuyển đi lưu chuyển lại, lưu chuyển đến nơi nào ? Lưu chuyển đến trong sự ngu si.
"Ngu si chướng che rất kiên cố". Sự ngu si chướng che kiên cố phi thường, chẳng cách chi phá được, chẳng cách chi tháo mở được. Che lấp trí huệ khiến cho người biến thành ngu si. Vì quá ngu si cho nên có người bảo họ học chút trí huệ, mà họ cũng chẳng thừa nhận mình có trí huệ. Ai ai cũng đều cho rằng mình thông minh, có trí huệ hơn người. Nhưng nếu họ bị mắc trong lưới, hoặc bị vây hãm trong hầm, thì chẳng biết thoát thân. Vậy đó là có trí huệ hay là ngu si ?
"Như Lai vì nói pháp rộng lớn". Phật vì loại chúng sinh nầy, nói pháp môn rộng lớn, vì họ mà phá mê hiển chánh, khiến cho họ hết ngu si, mà đắc được trí huệ bát nhã của mình vốn có.
"Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được". Vị Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thác Bà Vương, diễn xướng được pháp môn nầy.

Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp
Vô lượng khác biệt đồng chúng sinh
Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian
Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy.

"Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp". Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Không từ đâu đến, cũng không đi về dâu, cho nên gọi là Như Lai. Hoặc là, nương đạo như thật, đến (lai) thành chánh giác. Hiện khắp là chẳng chỗ nào mà không đến gọi là khắp, chẳng chỗ nào mà không đi gọi là hiện. Trên đến cõi Trời Phi Phi Trưởng, dưới đến địa ngục, đều có diệu sắc thân của Phật. Diệu sắc thân là sắc thân diệu tốt đẹp, tức cũng là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Diệu sắc thân nầy khắp cùng pháp giới.
"Vô lượng sai biệt đồng chúng sinh". Chúng sinh có vô lượng vô biên giống loài, tổng quát có bốn loài : Thai, noãn, thấp, hóa.
1. Thai sinh : Thai do tình mà có, chúng sinh trong thai sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
2. Noãn sinh : Noãn do tưởng mà sinh. Chúng sinh ở trong noãn sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
3. Thấp sinh : Thấp sinh do hợp mà cảm. Chúng sinh trong thấp sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
4. Hóa sinh : Hóa dùng sức mà ứng. Chúng sinh trong hóa sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt. Vô lượng những chúng sinh khác biệt nầy đều thấy được diệu sắc thân của Như Lai.
"Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian". Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được bát nhã trí huệ quang. Trí huệ quang minh nầy chiếu khắp hữu tình thế gian.
"Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy". Vị Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, thấy rõ được cảnh giới nầy.
Ðại trí phương tiện vô lượng môn
Phật vì quần sinh khai xiển khắp
Vào thắng bồ đề hạnh chân thật
Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát.

"Ðại trí phương tiện vô lượng môn". Ðại trí tức là trí huệ Bát nhã. Phương tiện cũng là trí huệ Bát nhã. Phương tiện pháp môn có vô lượng vô biên. Tuy nhiên có nhiều pháp môn, nhưng mỗi pháp môn đối với mỗi căn cơ của chúng sinh, có bao nhiêu loại chúng sinh thì có bấy nhiêu loại pháp môn. Những phương tiện pháp môn này là đạo giáo hóa tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh phải xem nhân duyên chúng sinh. Loại chúng sinh nào, thì dùng phương tiện pháp môn đó để giáo hóa, do đó "theo bệnh cho thuốc", thì mới có công hiệu. "Vì người thuyết pháp", pháp vốn không pháp, căn bản chẳng có pháp để nói, nhưng cuối cùng thì, chẳng có một pháp nào mà không nói, tất cả đều phải nói. Chỉ cần nói hết tất cả các pháp, mà không cần chấp trước nơi pháp. Cho nên nói chẳng có pháp để nói. Tâm niệm tư tưởng của chúng sinh đều khác nhau, cho nên nói pháp cũng khác nhau.
"Phật vì quần sinh khai xiển khắp". Phật vì tất cả chúng sinh, mà khai xiển đại trí phương tiện pháp môn, khai xiển vô lượng môn, khiến cho chúng sinh vào đại trí huệ của Phật.
"Vào thắng bồ đề hạnh chân thật". Khiến cho chúng sinh vào giác đạo thù thắng, tu hành hạnh môn chân thật. Chẳng phải nói ở đầu miệng mà là thật hành. Có người giảng được vài quyển Kinh, hoặc là ngồi thiền, hoặc là dịch Kinh bèn cống cao ngã mạn, cho rằng ta có sự tu hành ! Tư tưởng nầy là sai lầm, nên biết chân thật tu hành thì phải đạo đức chân thật, học vấn chân thật, do đó, phẩm học khiêm ưu thì người mới bội phục bạn, mới sùng kính bạn. Bằng không, chẳng có đạo đức, thì thuyết pháp chẳng có người nghe, cũng chẳng ai bội phục. Nếu có đạo đức, bất cứ đi đến đâu cũng có người biết, không tuyên truyền ai ai cũng đều biết, ai ai cũng đều bảo cho biết.
"Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát". Ðạo lý nầy vị Kim Cang Hoa Thụ Tràng Càn Thác Bà Vương khéo quán sát thấy rõ được.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

...Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, trừ sạch biển ái dục của tất cả chúng sinh.

Vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, tiêu diệt được ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn dục khử ái. Ðoạn dục khử ái tức là giải quyết vấn đề sinh tử. Duyên thứ nhất của mười hai nhân duyên đó là : vô minh. Một niệm vô minh khởi thì đọa lạc. Ðọa lạc đi về đâu ? Ðọa lạc trong sáu nẻo luân hồi.
Vô minh thì gì cũng chẳng biết, không biết thì làm việc hồ đồ, không giữ quy cụ, do đó bèn dinh ra tâm dục niệm. Dục tức là mình tưởng đến, bèn sinh ra tâm ái niệm, ái
tức là những gì mình thích, tâm tư dục và tình ái giống như biển cả, không cách chi đầy đủ được, không cách chi lấp bằng được. Nếu triệt để trừ sạch ái dục, thì sẽ chấm dứt sinh tử, đắc được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy làm khô cạn biển tâm ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho họ chứng đắc thanh tịnh pháp thân. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.
...Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, phóng quang minh khắp, tiêu diệt nghiệp chướng nặng như núi.

Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, không những dũng mãnh phi thường, mà còn khéo về chiến đấu. Vì sức cánh tay của vị nầy rất khoẻ mạnh và cứng chắt, thậm chí đao chặt không đứt, cho nên làm Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới phóng quang minh khắp. Quang minh chiếu khắp, khiến cho tất cả nghiệp chướng nặng như núi, tiêu diệt chẳng còn sót, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.
Tâm người tu đạo chúng ta, tại sao không kiên cố ? Vì nghiệp chướng quá nặng, cho nên chướng ngại tâm tu đạo. Chướng có bốn thứ :
1. Nghiệp chướng.
2. Báo chướng.
3. Phiền não chướng.
4. Sở tri chướng.


Nghiệp chướng tức là : nghiệp ác tạo ra, che lấp chướng ngại trí huệ. Báo chướng tức là : nghiệp tạo ra trong quá khứ, cho đến đời nay phải thọ quả báu. Phiền não chướng tức là : khởi nóng giận, không nhẫn nhục và chẳng có định lực. Tại sao chẳng khai ngộ ? Vì sao không thể giải thoát ? Vì có phiền não chướng. Sở tri chướng tức là : mình cảm thấy sự hiểu biết của mình nhiều hơn so với người khác, việc làm đều đúng so với người khác, đó là sở tri chướng.
Bất cứ là phiền não chướng hoặc là sở tri chướng đều nặng như núi, che lấp chướng ngại sự khai ngộ, cho nên không thể được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy hiểu được đạo lý nầy, đắc được môn giải thoát nầy.
Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, hiện thân lưu chuyển khắp các pháp giới.

Vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương quản lý diện tích rất rộng lớn. Vị Cưu Bàn Trà nào không giữ quy cụ, làm việc hại người, thì vị nầy đều tha thứ, đi khuyên giải họ đừng làm hại người nữa. Vị nầy đắc được cảnh giới thân lưu chuyển, tức là sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, sinh sinh chết chết, luân hồi không ngừng, lưu chuyển bất tận. Vị nầy đắc được môn giải thoát hiện thân khắp trong các pháp giới, độ hóa chúng sinh trong các pháp giới, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, hiện thân lưu chuyển khắp các pháp giới.

Vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương quản lý diện tích rất rộng lớn. Vị Cưu Bàn Trà nào không giữ quy cụ, làm việc hại người, thì vị nầy đều tha thứ, đi khuyên giải họ đừng làm hại người nữa. Vị nầy đắc được cảnh giới thân lưu chuyển, tức là sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, sinh sinh chết chết, luân hồi không ngừng, lưu chuyển bất tận. Vị nầy đắc được môn giải thoát hiện thân khắp trong các pháp giới, độ hóa chúng sinh trong các pháp giới, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư
Vì người tu hành vô lượng kiếp
Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian
Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất.


"Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư". Ðức Phật thành tựu được sức nhẫn nhục, mà làm Ðạo sư thế gian và làm Ðạo sư của chư thiên.
Chúa trời cung trời Ðao Lợi, chán nãn sự sinh hoạt ở cung trời, bèn quán sát mình quá khứ có nhân duyên gì mà được làm chúa trời ? Sau khi quán sát thì thấy mình trong quá khứ đã từng nghe Phật pháp, đã làm công đức, cho nên được làm chúa trời, do đó phát tâm từ bi, mong muốn trời người đều nghe được Phật pháp mà trồng căn lành, tương lai sẽ sinh về cõi trời, không còn lẩn quẩn trong sáu nẽo luân hồi, mới thỉnh Phật đến cung trời Ðao Lợi vì chư thiên mà thuyết pháp. Ðức Phật theo sự thỉnh cầu mà đến, rộng nói diệu pháp. Có tám vạn bốn ngàn chúng đắc được lợi ích, đều chứng được không thối chuyển. Cho nên được xưng là thầy của trời người. Phật không những đến cung trời vì chúng sinh thuyết pháp mà còn xuống cung rồng vì chúng sinh thuyết pháp.
"Vì người tu hành vô lượng kiếp". Phật thấy chúng sinh rất đáng thương, suốt ngày sinh sống trong danh lợi, lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử. Phật thương chúng sinh như con, mới phát nguyện lớn, nhất định phải tu hành, khai ngộ rồi mới có trí huệ, mới liễu sinh thoát tử. Có thần thông rồi mới đem pháp môn đã chứng đắc để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng đắc được liễu sinh thoát tử, tức là tu hành Phật pháp. Nhưng pháp môn liễu sinh thoát tử, không dễ gì hiểu được. Phật muốn minh bạch thứ pháp môn nầy, cho nên trong vô lượng kiếp đến nay, không trốn tránh sự khổ, không sợ mọi khó khăn nào, tu đủ thứ khổ hạnh để cứu chúng sinh lìa khổ được vui.
"Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian". Vĩnh viễn xa rời tất cả kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc .v.v.. Chúng ta người tu đạo, nếu diệt trừ được ba thứ ác tập, thì sẽ thành tựu đạo nghiệp.
"Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất". Vì Chẳng có kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc những thứ nhiễm ô nầy, cho nên thân thể của Phật trang nghiêm thanh tịnh nhất.

Xưa kia Phật tu các biển hạnh
Giáo hóa mười phương vô lượng chúng
Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh
Môn giải thoát nầy Long Chúa được.

"Xưa kia Phật tu các biển hạnh". Ðức Phật trong vô lượng kiếp về trước, tu hết thảy đủ thứ hạnh môn, bất cứ pháp gì Ngài cũng đều tu. Phàm là pháp Ngài đều tu hành, tuyệt đối không bỏ qua pháp nào dù nhỏ như sợi tóc, huống chi là pháp lớn lục độ Ba la mật. Ðời này Phật tu bố thí Ba la mật, đời sau tu trì giới Ba la mật, đời sau nữa tu nhẫn nhục ba la mật, đời kế tiếp tu tinh tấn Ba la mật, đời kế tiêp tu thiền định Ba la mật, đời kế tiếp tu trí huệ Bát nhã Ba la mật. Tuy nhiên trong một đời tu một Ba la mật nhưng năm Ba la mật kia cũng tu, bất quá là phụ mà thôi. Vì pháp môn lục độ vạn hạnh pháp quá nhiều, trước hết tu một ba la mật chính yếu, và tu các hạnh môn kia khác, cho nên xưng là các biển hạnh.
"Giáo hóa mười phương vô lượng chúng". Ðức Phật tu các biển hạnh thành tựu rồi, sau đó dùng các pháp môn đã chứng đắc, để giáo hóa vô lượng chúng sinh trong mười phương, khiến cho họ chiếu theo đó mà tu các biển hạnh. Phật pháp là kim chỉ nam, là bản đồ tìm kho báu, tìm báu gì ? Tìm Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
"Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh". Ðức Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để lợi ích tất cả chúng sinh, mỗi cử chỉ hành động, mỗi lời nói mỗi hạnh của Phật đều là pháp, làm mô phạm cho chúng sinh tu hành. Ðức Phật ngàn hạnh vạn khổ tu thành đạo nghiệp, chẳng giữ lại chút nào cho mình, hoàn toàn bày hết ra để giáo hóa chúng sinh, để lợi ích chúng sinh.
Ðức Phật có vị đệ tử tên là Châu Lợi Bàn Ðà, trong quá khứ là một vị đại thiện tri thức, có năm trăm vị đệ tử, nhưng vị này rất bỏn xẻn về pháp, không muốn giảng pháp. Vì vị nầy không đem pháp của mình đã hiểu biết để nói với đệ tử, cho nên tái sinh làm Châu Lợi Bàn Ðà, thì biến thành ngu si nhất. Ðó là quả báu không nói pháp. Muốn có trí huệ thì phải đem pháp của mình biết (chẳng phải là tà tri kiến mà là chánh tri chánh kiến) giảng giải cho chúng sinh biết, dù một câu, cũng được vô lượng công đức. Do đó "một lời hưng bang, một lời tán bang". Phật pháp cũng như thế, một câu chánh pháp có thể làm cho người lầm đường lạc lối quay trở về với con đường chân chánh.
"Môn giải thoát nầy Long Chúa được". Môn giải thoát nầy vị Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương đắc được.

Phật dùng đại trí cứu chúng sinh
Rõ biết tất cả tâm chúng sinh
Ðủ thứ tự tại mà điều phục
Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng.

"Phật dùng đại trí cứu chúng sinh". Ðức Phật là bậc đại giác, không gì mà chẳng biết, không gì mà chẳng làm được, cho nên Phật dùng đại trí huệ để cứu chúng sinh. Muốn cứu chúng sinh gì thì dùng pháp môn đó. Chúng sinh đáng dùng thân gì để độ được, thì hiện ra thân đó để vì chúng sinh thuyết pháp, do đó quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp. Vì căn tính chúng sinh khác nhau, do đó dùng pháp môn cũng khác nhau. Người có đại trí huệ thì cứu hộ được chúng sinh.
"Biết rõ tất cả tâm chúng sinh". Phật hoàn toàn biết rõ tâm ý của chúng sinh, do đó "Tất cả bao nhiêu thứ tâm của chúng sinh, Như Lai đều biết đều thấy". Phật dùng phương pháp đó để giáo hóa, khiến cho chúng sinh được đầy đủ mà tin thọ.
"Ðủ thứ tự tại mà điều phục". Phật dùng đủ thứ thần thông lực, để điều phục chúng sinh. Có những chúng sinh khó điều phục, thì Phật nói đủ thứ pháp môn, khiến cho chúng sinh cang cường phát tâm tín niệm, tin Phật pháp là cứu thế độ người. Gặp chúng sinh xan tham, thì vì họ nói pháp môn bố thí, khiến cho họ sinh tâm từ bi. Gặp chúng sinh không giữ quy cụ, thì vì họ nói pháp môn trì giới, khiến cho họ giữ gìn quy cụ, tiêu diệt tất cả ác tập khí, tu hành tất cả pháp lành, do đó :"đừng làm ác, hãy làm các điều lành". Gặp chúng sinh thích nóng giận, thì dạy họ pháp môn nhẫn nhục, dạy họ lửa vô minh thiêu hủy tất cả công đức. Khiến cho họ bồi dưỡng tính nhẫn nhục, và sống trong sự hòa hợp với mọi người, tha thứ hết thảy, bỏ qua hết mọi sự, do đó :

"Nhẫn được thì yên,
Biết đủ thì an vui".


Cho nên tinh tấn, thiền định, Bát nhã cũng đều như thế. Phải quán sát tất cả chúng sinh, nên dùng pháp nào độ được, thì dùng pháp đó, dùng đủ thứ thần thông diệu dụng, để điều phục chúng sinh, khiến cho họ cải lỗi làm con người mới lại.
"Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng". Vị Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới nầy thì sinh tâm hoan hỉ.

Thần thông ứng hiện như quang ảnh
Pháp luân chân thật đồng hư không
Xử thế như vậy vô lượng kiếp
Nhiêu Ích Vương chứng được môn nầy.

"Thần thông ứng hiện như quang ảnh". Thần thông của Phật là ứng cơ hiện khắp. Trí huệ của Phật là chiếu khắp chúng sinh. Vì Phật có đại trí huệ, có đại thần thông, cho nên tùy loại ứng hiện giáo hóa chúng sinh. Giống như quang và ảnh, nghiệp chướng của chúng sinh là hình, thần thông trí huệ của Phật là quang. Ví như nghiệp chướng của chúng sinh là băng, thần thông trí huệ quang của Phật là mặt trời. Ánh sáng mặt trời chiếu xuống băng, thì băng lập tức tan thành nước, hoặc là bốc thành hơi. Băng tan ra tức là phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng sinh tuy nhiên là có nghiệp chướng, nhưng qua sự thần thông trí huệ quang của Phật chiếu, thì nghiệp chướng hoàn toàn tiêu diệt. Mục đích chúng ta nghiên cứu Phật pháp tức là tiêu trừ nghiệp chướng.
"Pháp luân chân thật đồng hư không". Chuyển đại pháp luân là chân thật, nhưng đừng chấp trước có pháp luân để chuyển, có chúng sinh để độ. Nếu có sự chấp trước thì biến thành pháp chấp. Tuy nhiên pháp luân là chân thật, nhưng giống như hư không, không thể đắc được.
"Xử thế như vậy vô lượng kiếp". Những gì Phật làm, đều chẳng chấp trước, như vậy đến thế giới nầy xử lý thế giới giáo hóa chúng sinh. Phật trong vô lượng vô số đại kiếp, làm Phật sự mà chẳng chấp trước.
"Nhiêu Ích Vương chứng được môn này". Cảnh giới nầy, vị Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, chứng đắc được. Vì vị nầy minh bạch hiểu rõ được đạo lý nầy, mới chứng được môn giải thoát nầy.

Chúng sinh ngu si thường mê hoặc
Phật quang chiếu khắp khiến an ổn
Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ
Khả Úy quán được pháp môn nầy.

"Chúng sinh ngu si thường mê hoặc". Tại sao lại làm chúng sinh ? Vì một niệm vô minh. Một niệm vô minh không giác cho nên đọa lạc làm chúng sinh. Chúng sinh tuy nhiên không giác, nhưng vẫn đầy đủ Phật tánh vốn có, chỉ không giác mà thôi. Không giác tức là ngu si, che lấp trí huệ. Ngu si giống như màn che trong con mắt, nhìn sự vật chẳng rõ ràng. Vì nhìn không rõ nên làm những việc điên đảo hồ đồ. Vì hồ đồ điên đảo, nên sinh ra nhiều mê hoặc. Nghi Phật không tin Phật, nghi Pháp không học Pháp, nghi Tăng không tin Tăng. Không tin, không học, không kính đối với Tam Bảo, cho nên gọi thường mê hoặc.
"Phật quang chiếu khắp khiến an ổn". Vì quang minh của chiếu khắp, cho nên chẳng có tai nạn, chẳng có nguy hiểm, khiến cho chúng sinh an ổn tín ngưỡng Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo.
"Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ". Phật là từ phụ của chúng sinh, là đạo sư của chúng sinh, là hộ sĩ của chúng sinh, giải trừ tất cả khổ của chúng sinh, trừ khổ rồi thì đắc được sự an lạc.
"Khả Úy quán được pháp môn này". Vị Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, quán sát được pháp môn nầy, minh bạch được pháp môn nầy, cho nên chứng được môn giải thoát nầy.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Biển dục trôi nổi đầy sự khổ
Trí quang chiếu khắp diệt không còn
Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp
Diệu Trang Nghiêm Vương ngộ môn nầy.

"Biển dục trôi nổi đầy sự khổ". Dục niệm của chúng sinh vô lượng như biển lớn. Có người muốn làm thủ lãnh, đó là dục thủ lãnh, có người muốn làm phú ông, đó là dục phú ông, hai thứ dục nầy là dục giàu sang. Có người muốn có danh vọng tốt, đó là dục danh vọng tốt. Có người khen họ, thì trong tâm họ cảm thấy ngọt hơn so với mật ong; có người phỉ báng họ, thì trong tâm cảm thấy đắng hơn là huỳnh liên. Có người muốn có đời sống tốt, đó là dục đời sống; và muốn có y phục tốt mặc, có vật ngon ăn, có nhà tốt ở, có xe mới chạy. Tóm lại, phàm là tất cả sự mong muốn đều là lạc dục. Còn có một thứ dục nữa không dễ gì đoạn trừ, đó là dục nam nữ. Do đó, trôi đi trôi lại ở trong biển dục, trôi từ đây sang kia, từ đó lại trôi đến đây. Từ bờ sinh tử bên nầy trôi vào trong dòng phiền não, trôi lạc đến đáy biển không dễ gì đến được bờ Niết Bàn bên kia.
Ví như, chúng sinh nầy vốn ở trên cõi trời. Vì quan hệ dục niệm quá nặng, từ cõi trời trôi lạc xuống nhân gian, từ nhân gian trôi lạc vào cõi A tu la, cho đến địa ngục. Mỗi lần trôi lạc, thì càng sâu hơn, trôi lạc xa hơn, tức cũng là rời tự tính sâu hơn, rời Phật pháp xa hơn. Trôi nổi ở trong biển dục, chịu vô lượng sự thống khổ. Chúng ta tu đạo là đoạn trừ năm dục (tài, sắc, danh, ăn, và ngủ). Tu hành viên mãn thì thăng đi lên; không viên mãn thì đọa đi xuống, tơ hào không sai được, chẳng đếm xỉa gì đế nhân tình, đại công vô tư, mọi người đều bình đẳng. Cho nên nói tài, sắc, danh, ăn, và ngủ là năm tầng địa ngục.
"Trí quang chiếu khắp diệt không còn". Trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp các pháp giới, khiến cho sự khổ của chúng sinh, đều diệt sạch không còn, làm cho chúng sinh đều được an lạc.
"Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp". Không những Phật vì chúng sinh, trừ tất cả mọi sự thống khổ, mà còn diễn nói diệu pháp.
"Diệu Nghiêm Tràng Vương ngộ môn nầy". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương ngộ được.

Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy
Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Âm như sấm sét mưa pháp vũ
Cao Huệ vào được pháp môn nầy.

"Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy". Thân Phật giống như mặt trăng mát mẻ, thường lơ lửng trên hư không, nếu trong tâm nước chúng sinh thanh tịnh, thì ánh sáng mặt trăng của Phật, sẽ chiếu vào trong tâm ảnh bồ đề của chúng sinh. Và giống như ngàn vũng ao đều có mặt trăng. Chỉ cần chỗ nào có nước lắng trong, thì mặt trăng sẽ hiện bóng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, trong nước nhiều cũng có mặt trăng, trong nước ít cũng có mặt trăng. Do đó :

"Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp".

Nghĩa là : một mặt trăng hiện khắp tất cả chỗ nào có nước, mặt trăng trong tất cả chỗ nào có nước, chỉ phản ảnh bởi một mặt trăng. Chúng sinh không chỗ nào chẳng thấy thân Phật, vì thân Phật hiện khắp tất cả . Chỗ nầy có người thắc mắc : "Tại sao tôi không thấy thân của Phật"? Vì tâm nước của bạn không thanh tịnh, có tư tưởng nhiễm ô, cho nên ánh sáng mặt trăng Phật không hiện ra.
"Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh". Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh. Vì người bố thí giáo pháp, với người lợi căn, thì nói pháp chân không diệu hữu, đối với người độn căn, thì nói pháp nhân quả báo ứng. Theo bệnh cho thuốc, bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát giải nhiệt, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy thì mới có hiệu quả và thuốc có công năng chữa hết bệnh.

Phật thuyết pháp, thì tùy người tùy thời tùy nơi mà nói pháp, cho nên một pháp có đủ thứ sự giải thích khác nhau. Ví như bậc tiểu học thì nói đạo lý, bậc trung học thì nói tri thức, bậc đại học thì giảng lý luận. Phật là đạo sư của thế gian, hiểu tâm lý chúng sinh. Pháp của Phật giáo hóa hoàn toàn thành công và triệt để. Chỉ có Khổng Tử và Phật được gọi là nhà giáo dục, là thầy tiêu biểu cho muôn đời, nhưng Khổng Tử chẳng phải là nhà tôn giáo.
"Âm như sấm sét mưa pháp vũ". Âm thanh của Phật thuyết pháp, giống như tiếng sấm sét, bất cứ chúng sinh ở đâu, cũng đều nghe rõ ràng. Và còn mưa pháp vũ thấm nhuần khắp tất cả vạn vật. Phật vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được ích lợi pháp vũ. Người lợi căn, thì được lợi ích pháp nhiều, người độn căn thì được lợi ích pháp ít, tóm lại đều được lợi ích . Chỉ cần thành tâm tin thọ, thì chắc chắn đắc sẽ được diệu dụng. Sự diệu dụng nầy diệu không thể tả, như uống nước, nóng lạnh tự mình biết. Phật pháp không phải ở lời nói, mà là ở việc làm, làm được thì có công đức, có công đức thì sẽ thành tựu.
"Cao Huệ vào được pháp môn này". Pháp môn nầy vị Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương thâm nhập được.

Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy
Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng
Nói công đức Phật không bờ mé
Dũng Tí thâm nhập pháp môn nầy.

"Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy". Trí huệ của Phật là quang minh thanh tịnh, nhưng không phát ra bậy bạ, không phát ra thì thôi, mà phát ra thì sẽ trúng, có công năng như thế. Công năng gì ? Công năng diệt trừ được chướng ngũ nghịch thập ác.
"Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng". Nếu ai gặp được trí huệ quang minh thanh tịnh của Phật chiếu, thì bất cứ nghiệp chướng nặng bao nhiêu cũng đều tiêu trừ.
Chướng nặng tức là : giết cha, giết mẹ, giết bậc A la hán, phá hoại Tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu. Ðó là năm tội nặng nhất. Căn bản không thể sám hối tiêu tội, nhưng quang minh của Phật chiếu đến, thì đều tiêu trừ. Ví như chướng nặng như núi băng, quang minh của Phật như mặt trời. Mặt trời chiếu đến thì núi băng cũng tiêu tan.
"Nói công đức Phật không bờ mé". Nếu nói tỉ mỉ về công đức của Phật, thì chẳng cách chi diễn nói được, vì công đức của Phật chẳng có bờ mé. Do đó :

"Hư không khả lượng phong khả khế,
Vô năng thuyết tận Phật công đức".


Nghĩa là :


Hư không có thể lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật.


"Dũng Tí thâm nhập pháp môn này". Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, minh bạch thâm sâu vi diệu đạo lý nầy.

Vì muốn an lạc các chúng sinh
Tu tập đại bi vô lượng kiếp
Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ
Tịnh Hoa thấy được pháp môn nầy.

"Vì muốn an lạc các chúng sinh". Vì chúng sinh ở trong sự ưu bi khổ não, chấp trước mê hoặc quá sâu nặng, không muốn ra khỏi biển khổ. Phật vì muốn cứu chúng sinh đắc được an lạc, mới hy sinh sự sung sướng an vui của chính mình, đảo giá từ thuyền đến thế giới Ta Bà nầy độ tất cả chúng sinh.
"Tu tập đại bi vô lượng kiếp". Phật tự mình chịu khổ, muốn cho chúng sinh hết khổ, cho nên trong vô lượng kiếp về trước phát nguyện lớn, tu đủ thứ khổ hạnh. Tại sao phải tu khổ hạnh ? Vì tu khổ hạnh thì có thể khai ngộ, khai ngộ thì có trí huệ, có trí huệ mới cứu được chúng sinh, ra khỏi biển khổ tam giới. Phật trong vô lượng kiếp dưỡng thành tâm đại bi, lấy sự phổ độ chúng sinh làm bổn hoài.
"Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ". Phật tu hạnh đại bi, dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để trừ khử khổ não của chúng sinh, khiến cho tiêu trừ hết các khổ, thì tự nhiên sẽ đắc được an lạc.
"Tịnh Hoa thấy được pháp môn này". Cảnh giới nầy vị Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương thấy và biết rõ.

Thần thông tự tại không nghĩ bàn
Thân Phật hiện khắp trong mười phương
Mà khắp các chỗ chẳng đến đi
Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy.

"Thần thông tự tại không nghĩ bàn". Sức thần thông tự tại của Phật vô lượng vô biên, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Thần thông là thành tựu trí huệ rất tự nhiên. Tự tại tức là do thành tựu định lực. Thần thông tự tại từ đâu mà tu được ? Là từ khổ hạnh và trong thiền định đắc được. Có trí huệ chân chánh, thì sẽ có thần thông. Có định lực chân chánh thì sẽ đắc tự tại. Bất cứ là thần thông hoặc tự tại đều là diệu không thể tả.
"Thân Phật hiện khắp trong mười phương". Vì Phật có thần thông tự tại không thể nghĩ bàn, cho nên Thân Phật hiện khắp trong mười phương thế giới, do đó "tận hư không khắp pháp giới ". Pháp thân của Phật vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có).
"Mà khắp các chỗ chẳng đến đi". Phật chẳng đến đi trong mười phương, cho nên nói không đến không đi. Vì có cảnh giới :"một hiện nhiều, nhiều hiện một", cho nên một nhiều hổ tương vô ngại. Tóm lại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không hai.

Trong kinh Kim Cang nói :

"Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ".


Nghĩa là :

"Ðức Như Lai !
Không từ đâu đến
Cũng không đi về đâu".

Không giống như chúng ta, nếu ở chỗ nầy thì chỗ kia chẳng có ; nếu ở chỗ kia thì chỗ nầy chẳng có. Thần thông tự tại diệu dụng của Phật, ở trong đạo tràng không động chỗ ngồi, mà đến được mười phương thế giới diễn nói Kinh Hoa Nghiêm. Tất cả chúng sinh trong mười phương đều thấy được Ðức Phật, đều nghe pháp được.
"Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương đắc được và thấy rõ được.

Lại nữa, Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả sự thống khổ của loài rồng.

Nói tiếp theo Kinh văn ở trước. Vị Tì Lâu Bác Xoa Long Vương (Rồng là một trong tứ linh, có thần thông, biến hóa bay được, nổi mây làm mưa ). Vị nầy đắc được cảnh giới tiêu diệt được tất cả sự khổ của loài rồng. Rồng có những khổ gì?
Có bốn thứ khổ, thống khổ giống như lửa. Bốn thứ khổ là :
1. Khổ về làm thức ăn của chim Kim Sí Ðiểu (chim đại bàng cánh vàng) : Chim Kim Sí chuyên bắt rồng ăn thịt, rồng gần chết thì bị chim bắt ăn.
2. Khổ về khi hành dâm thì biến thân thể : Khi rồng đực rồng cái giao nhau thì phải hiện thân rắn, sự biến hóa nầy thống khổ vô cùng.
3. Khổ về côn trùng ở trong vảy rúc rỉa : Ở trong vảy có rất nhiều trùng nhỏ, rúc rỉa toàn thân phát ngứa, khổ khó tả được.
4. Khổ về nóng đốt thân : Vì toàn thân ngứa ngáy, do đó lên bờ lăn trên các nóng, nhưng cá bị ánh nắng mặt trời, đốt nóng như lửa, bị phỏng mà phát đau.
Tại sao bị đọa làm rồng ? Nếu tâm sân hận quá nặng, thích nóng giận, không có hàm dưỡng công phu, thì sẽ biến làm rồng. Nếu tâm đố kị quá nặng, không có tâm từ bi, thì đọa làm loài trăn. Nếu tâm siểm nịnh quá nặng, chẳng có tâm từ bi, thì đọa làm rắn. Tâm nóng giận của rồng quá lớn, thích phun độc để hại sinh linh. Bất cứ việc gì chúng cũng đều nóng giận. Nhưng rồng tu hành thì rất dụng công, dũng mãnh tinh tấn, không sợ khổ không sợ khó, nhưng chúng không giữ giới luật, không chú trọng về giới luật, do không giữ giới luật cho nên đọa làm súc sinh. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát : tiêu diệt sự thiêu đốt nhiệt não của loài rồng.

Sa Kiệt La Long Vương, được môn giải thoát, trong một niệm tự chuyển hình rồng, thị hiện vô lượng thân chúng sinh.

Vị Sa Kiệt La Long Vương, là Long Vương ở trong biển nước mặn, chỉ trong một niệm tự chuyển hình rồng mà thị hiện tất cả thân chúng sinh. Gặp chúng sinh phi hành thì hiện thân chúng sinh phi hành. Gặp chúng sinh ẩn nổi thì hiện thân chúng sinh ẩn nổi, gặp chúng sinh thai hình thì hiện thân chúng sinh thai hình, gặp chúng sinh noãn hình thì hiện thân chúng sinh noãn hình. Tóm lại, gặp chúng sinh thân hình gì, thì hiện chúng sinh thân hình đó, để giáo hoá chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

Vân Âm Tràng Long Vương, được môn giải thoát, trong tất cả các cõi, dùng âm thanh thanh tịnh, diễn nói vô biên danh hiệu Phật nhiều như biển.

Vị Vân Âm Tràng Long Vương có âm thanh biến mãn trang nghiêm như mây, như tràng. Vị nầy đắc được cảnh giới, ở trong tất cả loài chúng sinh, vì chúng sinh mà diễn nói danh hiệu của chư Phật.
Các cõi tức là : tam giới hai mươi lăm cõi. Vị nầy ở trong tam giới, dùng âm thanh thanh tịnh để thuyết pháp. Mỗi một vị Phật có một vạn danh hiệu, một vạn vị Phật có vạn vạn danh hiệu, cho nên gọi là biển danh hiệu.
Từ trước mỗi vị Phật có một vạn danh xưng. Vì chúng sinh nhớ không hết, cho nên sau đó bớt còn một ngàn danh xưng, nhưng chúng sinh cũng nhớ cũng không hết, về sau bớt còn một trăm danh xưng, chúng sinh cũng nhớ không hết, cuối cùng bớt xuống còn mười danh xưng, như vậy mới nhớ hết.
Mười danh hiệu là : Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trong đó danh hiệu "Thiện Thệ Thế Gian Giải" đáng lý là hai danh hiệu. Ðầy đủ mười danh hiệu nầy mới xưng là Thế Tôn. Thế Tôn là tổng đại biểu mười danh hiệu. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát biển danh hiệu của chư Phật.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Diệm Khẩu Long Vương, được môn giải thoát, hiện khắp vô biên thế giới của Phật, kiến lập đều khác nhau.

Vị Diệm Khẩu Long Vương trong miệng phun ra lửa được, biến thành núi lửa. Vị nầy đắc được pháp môn biến khắp trong mười phương thế giới của chư Phật. Thế giới của chư Phật kiến lập, thành tựu, đều khác nhau. Thế giới Ta Bà là Phật Thích Ca kiến lập, hoằng dương Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Cực Lạc là Phật Di Ðà kiến lập, diễn nói Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Lưu Ly là Phật Dược Sư kiến lập, đang giảng Kinh thuyết pháp. Vì chư Phật kiến lập thế giới, cho nên mỗi thế giới đều khác nhau, do đó mới nói môn giải thoát khác nhau.
Thế giới của Chư Phật kiến lập hoặc là thời gian kiến lập dài một chút, hoặc ngắn một chút, hoặc thế giới kiến lập trang nghiêm, đều là mười phương chư Phật, đối căn cơ của chúng sinh, mà thị hiện ra loại thế giới nầy, để cứu loại chúng sinh nầy, đó là môn giải thoát của vị Long Vương nầy đắc được.

Diễm Nhãn Long Vương, được môn giải thoát, tất cả chúng sinh bị sân si ràng buộc, Như Lai thương xót khiến cho họ trừ diệt.

Vị Diễm Nhãn Long Vương trong con mắt phóng ra hỏa quang. Sự biết được của vị nầy là : tất cả chúng sinh đều có sân hận, đều có vô minh, đều có phiền não, đều có nóng giận. Nhưng Như Lai có lòng từ bi thương xót chúng sinh, khiến cho tất cả sân si che trói đều diệt trừ.
Tâm sân hận quá nặng thì che lấp từ bi. Tâm ngu si quá nặng thì che lấp trí huệ. Bị sân si che quá sâu dày gọi là trói buộc, không được tự tại, sân si của chúng sinh bị che trói, làm chướng ngại sự tu đạo. Phật phát tâm đại từ bi, khiến cho sân si che trói chúng sinh diệt trừ. Khiến cho người tu đạo tiêu diệt tham sân si ba độc, tu thành giới định huệ ba học vô lậu, như thế thì mới có sự thành tựu.

Vân Tràng Long Vương được môn giải thoát, khai thị biển phước đức đại hỉ lạc cho tất cả chúng sinh.

Vị Vân Tràng Long Vương đắc được cảnh giới : khai thị tất cả chúng sinh. Chúng sinh không minh bạch, khi vị nầy khai thị thì minh bạch. Chúng sinh có sự ngu si chướng ngại, khi vị nầy khai thị thì tiêu diệt. Chúng sinh có ưu sầu khổ não, khi vị nầy khai thị rồi thì chẳng còn ưu sầu. Sự khai thị cùa vị nầy có đủ thứ lợi ích. Chúng sinh nghe được vị nầy khai thị thì sinh tâm đại hoan hỉ, sinh tâm đại khoái lạc. Tại sao ? Vì đắc được phước đức và trí huệ. Sự hỉ lạc phước đức nầy, vô lượng vô biên rộng lớn như biển lớn, cho nên sinh đại hỉ lạc, đó là môn giải thoát vị long vương nầy đắc được.
...Vô Biên Bộ Long Vương được môn giải thoát, thị hiện tất cả sắc thân của Phật và thứ tự trụ kiếp.

Vị Vô Biên Bộ Long Vương thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, hốt lớn hốt nhỏ, hốt có hốt không. Vị nầy đắc được cảnh giới : thị hiện được tất cả sắc thân của Phật và tám tướng thứ tự khi Phật ở đời, đó là môn giải thoát vị Long Vương nầy đắc được.

Tám tướng tức là :
1. Hàng sinh : Từ cung trời Ðâu Xuất cõi voi trắng lớn sáu ngà xuống trần gian.
2. Trụ thai : Lựa chọn vua Tịnh Phạn làm cha, Hoàng Hậu Ma Gia làm mẹ. .
3. Xuất thai : Sinh ra dưới cây Vô Ưu trong vườn Lâm Tì Ni, tay trái chỉ trời tay phải chỉ đất mà nói :"Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn".
4. Xuất gia : Vì cầu pháp môn liễu sinh thoát tử mà tu đạo.
5. Hàng ma : Dưới cội bồ đề sắp thành chánh giác thì ma nữ hiện ra ba mươi hai sắc đẹp; nhưng Phật chẳng động tâm, cho nên ma nữ thối lui.
6. Thành Chánh Giác : Ðêm thấy sao mai mọc mà chứng giác đạo.
7. Chuyển pháp luân : Lúc ban đầu tại vườn Lộc Uyển chuyển bánh xe pháp bốn Thánh Ðế, cuối cùng nói Kinh Niết Bàn trong rừng Sa La Long Thọ.
8. Vào Niết Bàn : Vào cứu kính Niết Bàn dưới cây Sa La Song Thọ tại thành Câu Thi Na .

...Tất cả chúng sinh đều khác biệt
Trong một sợi lông đều thị hiện
Thần thông biến hóa đầy thế gian
Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy.

"Tất cả chúng sinh đều khác biệt". Tất cả chúng sinh gồm có : thai, noãn, thấp, hóa bốn sự sinh. Nghiệp báo của họ đủ thứ sự khác biệt. Có nghiệp báo nhiều sự khổ, có nghiệp báo nhiều sự vui. Có nghiệp báo không khổ không vui. Những thứ nghiệp báo nầy làm sao có ? Tức là do khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báo. Khởi cảm là gì ? Tức là thấy cảnh giới bèn sinh nghi hoặc, không phân biệt rõ ràng là thiện hay ác. Tạo nghiệp là gì ? Vì bị mê hoặc, sáu căn thấy sáu trần bèn khởi tâm tham muốn mà đi tạo nghiệp. Thọ báo là gì ? Vì có định luật nhân trước quả sau, trồng nhân gì thì gặt quả đó. Có công đức thiện thì có quả báo vui. Có hành vi ác thì có quả khổ, đó là đạo lý tự nhiên, tơ hào chẳng sai.

"Trong một sợi lông đều thị hiện". Trong một sợi lông của Phật, đều hiện ra đủ thứ nghiệp báo của tất cả chúng sinh.
"Thần thông biến hóa đầy thế gian". Vì Phật có thần thông, cho nên hiện ra được đủ thứ cảnh giới. Một hiện nhiều, nhiều hiện một, lớn dung nhỏ, nhỏ dung lớn, hổ tương vô ngại, quán nhiếp viên dung. Sự thần thông diệu dụng nầy biến hóa vô cùng, đầy khắp tất cả cõi nước trong ba ngàn đại thiên thế giới.
"Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy". Vị Sa Kiệt La Long Vương minh bạch được Phật có cảnh giới nầy, tam muội nầy.
...Tất cả chúng sinh tâm sân hận
Ngu si ràng buộc sâu như biển
Như Lai thương xót đều diệt trừ
Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy.

"Tất cả chúng sinh tâm sân hận". Tất cả chúng sinh trong thế giới, đều có tâm sân hận phẫn nộ. Tại sao ? Vì không thể nhẫn nại, không thể nhẫn nhục, cho nên thích nóng giận.
"Ngu si trói che sâu như biển". Có tâm sân hận phẫn nộ đó là trói che. Trói buộc che đậy quang minh tự tánh. Tức cũng là tự mình dùng dây thừng trói buộc mình, chính mình làm cho mình không tự do, như tằm làm kén tự trói mình ở trong đó.
Chúng sinh dùng tham sân si ba độc, trói chặt thân thể của mình. Tại sao bị ba độc trói chặt ? Vì ngu si, cho nên bị ba độc trói buộc, sâu tợ như biển lớn, chẳng có cơ hội giải thoát.

"Như Lai thương xót đều diệt trừ" Phật dùng tâm từ bi thương xót, để cứu độ tất cả chúng sinh, làm cho tham sân si đều trừ sạch.
"Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy". Vị Diễm Nhãn Long Vương thấy được, hiểu được cảnh giới nầy.
Tất cả chúng sinh nhìn thấu suốt được tham sân si, buông xả được thì đắc được tự tại. Nếu không nhìn thấu suốt được tham sân si, không buông xả được thì chẳng được tự tại. Chúng ta tu đạo phải nhận thức rõ ràng, ba độc là đá buộc chân sự tu hành, có tư tưởng tam độc là quãng đường vực thẳm gập gềnh nguy hiểm; nếu không có tư tưởng ba độc thì là con đường lớn bằng thẳng. Con đường lớn gì ? Con đường trí huệ chánh giác.
Tất cả phước đức của chúng sinh
Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật
Hiện rồi đồng vào biển đại phước
Cao Vân Tràng Vương quán thấy được.

"Tất cả phước đức của chúng sinh" Tất cả chúng sinh vừa có phước vừa có tội. Phước là từ công đức thiện mà có. Tội là từ làm việc ác quấy mà ra. Nếu làm công đức lành, thì có phước báu, hoặc sinh về cõi trời, cõi người, cõi A tu la, đó là lữ khách trong ba đường lành. Nếu làm lỗi quấy thì có ác báo, hoặc đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, làm súc sinh, đó là lữ khách trong ba đường ác. Song, luân hồi trong sáu nẻo chẳng phải là chủ nhân.
Phước là từ công đức lành tích tụ mà có. Ðức cũng từ công đức lành tích tụ mà có. Phật thì đầy đủ phước và huệ, cho nên xưng là Lưỡng Túc Tôn. Phước là do tu, huệ là do nghe. Phước huệ song tu thì công đức mới viên mãn. Nếu tu phước không tu huệ, hoặc tu huệ không tu phước, đó là tu pháp không cân bình, công đức đắc được cũng không quân bình. Chẳng phải phước nhiều thì huệ nhiều, đó vẫn không viên mãn.
Phước đức tu nhiều rồi thì có một sức mạnh. Tu được nhiều rồi thì sức lực càng lớn. Tu được ít thì sức lực nhỏ. Không tu thì chẳng có. Bất cứ là sức mạnh của phước, hoặc sức mạnh của đức, đều cần phải tu mới có được.
"Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật". Ở trong một lỗ chân lông của Phật, tất cả phước đức của chúng sinh, trong tận cùng hư không khắp pháp giới, đều hoàn toàn hiển hiện ra.
"Hiện rồi đồng vào biển đại phước". Ở trong lỗ lông của Phật, hiện ra mười phương pháp giới chúng sinh, khiến cho họ đều quy vào biển đại phước.
"Cao Vân Tràng Vương quán thấy được". Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Cao Vân Tràng Long Vương quán sát được, đắc được.
...Chúng sinh bức bách trong các cõi
Nghiệp hoặc trôi nổi không ai cứu
Phật dùng đại bi khiến giải thoát
Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy.

"Chúng sinh bức bách trong các cõi". Các cõi tức là : cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới. Tất cả chúng sinh do duyên giả hòa hợp mà sinh, đều luân hồi trong tam giới, phiêu bạc lưu lãng chẳng khi nào dừng, cho nên bị các cõi bức bách.
"Nghiệp hoặc trôi nổi không người cứu". Chúng sinh thọ biển nghiệp, phiêu bạc trôi nổi ở trong tam giới, do đó : "ra bụng ngựa, vào thai lừa". Tại sao ? Vì khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báu. Ðó là định luật nhân quả tuần hoàn không thay đổi.
Khởi hoặc : Vì có ba thứ hoặc, mà đi tạo nghiệp :
1. Kiến tư hoặc : Kiến hoặc là những kiến giải không chánh đáng, do đó "Thấy cảnh sinh ra tham ái", người tham tiền tài thì thích tiền tài, tham sắc đẹp thì thích sắc đẹp, tham danh lợi thì thích danh lợi. Tư hoặc là những tâm tư phiền não, do đó "mê lý thì sinh phân biệt", đối với lý không minh bạch, sinh ra tâm phân biệt.
2. Trần sa hoặc : Không rõ sự lý, không biết trái phải tức là mê hoặc. Thứ mê hoặc nầy nhiều như vi trần hà sa, cho nên gọi là trần sa hoặc.
3. Vô minh hoặc : Vì vô minh mới có mê hoặc, thứ mê hoặc nầy chướng ngại đạo lý chân thật, vô minh hoặc là hoặc căn bản.
Tạo nghiệp : Vì không minh bạch đạo lý, cho nên đi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Như vậy đã phạm giới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi rồi, thì đã tạo ba nghiệp thân, khẩu, ý, cũng tạo nghiệp mười điều ác.
Thọ báo : Tạo nghiệp sát sinh thì phải chịu quả báo sát sinh, tạo nghiệp trộm cắp thì phải chịu quả báu trộm cắp, tạo nghiệp tà dâm, nói dối, uống rượu thì phải chịu quả báu tà dâm, nói dối, uống rượu. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì phải chịu quả báu đó, tơ hào không sai được.

Sự tạo nghiệp của mỗi người, trong một đời rất phức tạp nhiều như biển, cho nên bị sóng gió nghiệp, thổi đi thổi lại ở trong biển nghiệp, trôi bên đông dạt bên tây, khi thì làm ngạ quỷ, khi thì làm súc sinh, khi thì đọa địa ngục, chuyển đi chuyển lại ở trong tam đồ, lúc nầy chẳng có ai cứu ra khỏi biển nghiệp, cũng chẳng ai cứu vớt ra khỏi tam giới.
"Phật dùng đại bi khiến giải thoát". Chỉ có thuyền đại bi trí huệ của Phật, mới cứu vớt được chúng sinh ra khỏi biển nghiệp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.
"Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy". Vị Vô Nhiệt Não Long Vương, ngộ hiểu minh bạch được cảnh giới nầy.
Lại nữa, Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương được môn giải thoát, dùng vô biên phương tiện cứu hộ chúng sinh ác.

Vị Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương (Dạ Xoa dịch là khinh tiệp, hành động rất mau chóng, tính tình rất bạo ác). Vị nầy đắc được cảnh giới : quán sát tất cả căn tánh của chúng sinh, mà dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để cứu hộ. Nếu có chúng sinh ác, thì khiến cho họ cải ác hướng thiện, sửa lỗi sám hối. Âm thanh thuyết pháp của vị nầy, rất vi diệu khiến cho người nghe, đắc được tự tại, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.
Dạ Xoa có ba thứ : Thiên hành, không hành và địa hành. Dạ Xoa và La Sát là quỷ dữ, quỷ La Sát nữ rất đẹp. Người nam mà định lực không đủ thì sẽ bị hại, làm thức ăn cho bọn chúng. Nay kể một câu chuyện để mượn làm gương.

Tại đông nam Ấn Ðộ có hòn đảo gọi là nước Sư Tử tức là Tích Lan, toàn quốc đều tin theo Phật giáo tiểu thừa. Xưa kia người ta thường gọi là Ðộ Quốc, có năm người đi buôn, tìm châu báu ở trong biển, thuyền bị hắc phong (gió đen) thổi đến nước quỷ La Sát. Nữ Vương của nước nầy, thấy một người buôn trong năm người nầy tên là Sư Tử, bèn muốn kết hôn với y, nhưng người buôn nầy có huệ căn, không bị nữ sắc mê hoặc, dưới sự an bài của Bồ Tát, mới trốn về bổn quốc (Nam Ấn Ðộ). Còn bốn người buôn kia đều kết hôn với nữ La Sát, vì tham sắc đẹp mà quên mất quê hương xứ sở, sau đó đều bị nữ La Sát ăn thịt.

Người buôn tên Sư Tử sau khi về nước, vị nữ La Sát nầy cũng đến. Y thị nói với quốc vương rằng người buôn tên Sư Tử bỏ y, xin quốc vương khiến cho người buôn tên Sư Tử trở lại sống với y thị. Vị quốc vương nầy cũng là đồ háo sắc, thấy La Sát nữ đẹp bèn động lòng dâm dục, do đó quyết định kết hôn với y thị. Người buôn tên Sư Tử khuyên can quốc vương rằng : "Người nữ nầy là quỷ, dung mạo đẹp mà tâm địa ác độc, chuyên ăn thịt người, đừng nên gần gũi y thị"! Nhưng quốc vương vì sắc đệp mê hoặc, không nghe lời khuyên can, bèn cử hành hôn lễ, tối đêm đó bị La Sát nữ ăn thịt.
Ngày thứ hai, quan đại thần biết quốc vương bị quỷ ăn thịt, bèn tôn người buôn tên Sư Tử lên làm vua, đem binh lính tiêu diệt nước quỷ La Sát, đổi tên là Sư Tử Quốc tức là Tích Lan ngày nay, ra lệnh cho toàn quốc đều tín ngưỡng Phật giáo, lấy Phật giáo làm quốc giáo tức là Phật giáo nam truyền, đó là câu chuyện cảnh tỉnh người tham sắc đẹp, đừng vì sắc đẹp mà mất mạng.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

...Phú Tài Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, tăng trưởng tụ tập phước đức của tất cả chúng sinh, khiến cho họ luôn luôn thọ khoái lạc.

Vị Phú Tài Dạ Xoa Vương nầy có tài sản rất phong phú. Tuy nhiên tài sản rất nhiều nhưng không keo kiệt, thường bố thí cứu giúp những chúng sinh, nghèo cùng khốn khổ không nơi nương tựa, không giống như một số người bỏn xẻn, không chịu cứu giúp, chẳng có tâm thương người. Phải biết tiền tài là vật ngoài thân, sinh ra không mang đến, chết đi cũng không mang theo được. Do đó :"Làm việc thiện là điều sung sướng nhất". Bạn muốn làm một công trình từ thiện có ích cho xã hội, thì sự sung sướng trong tâm của bạn không cách chỉ nói ra được. Ðừng ngại hãy thử xem, giúp người là gốc sung sướng khoái lạc.
Vị Dạ Xoa Vương nầy, khiến cho chúng sinh đều đắc được sự tu tập phước đức, đều đắc được vô biên khoái lạc. Vị nầy chứng được môn giải thoát nầy.


Bây giờ kể một câu chuyện về một phú ông tiếc tài sản mà không tiếc phước. Khi Ðức Phật còn tại thế, tại thành Xá Vệ, có người giữ tiền tài tên là Lô Chí. Y không những keo kiệt với người ngoài, mà cũng keo kiệt với vợ con của mình. Một ngày nọ, y muốn chính mình hưởng thụ một phen, bèn đi mua hai cái bánh. Trong tâm nghĩ, không thể đem về nhà ăn, vì vợ con thấy được thì phải chia ăn. Do đó, bèn đi vào trong rừng ăn hết một mình. Chim trong rừng thấy người đến bèn bay đi, y cho rằng chim đến để chia bánh ăn, do đó đi đến bờ sông để ăn hết một mình. Thình lình chuộc bên bờ sông hoảng sợ bèn chạy tán loạn. Y lại cho rằng chuộc muốn đến chia ăn. Vì quá sợ người khác đến chia ăn, cho nên lập tức bỏ vào miệng nuốt. Ðó là biểu hiện của sự keo kiệt bỏn xẻn.

Lúc đó, Trời Ðế Thích thấy người nầy rất ngu si, sinh ra tâm thương xót tìm cách làm thay đổi tư tưởng của y, bèn hóa ra hình dạng giống như Lô Chí, bèn đến nhà Lô Chí, nói với vợ của Lô Chí :"Tôi trước kia rất keo kiệt với bà và các con, bây giờ tôi đã thức tỉnh. Người giàu có thì phải làm việc có ý nghĩa, nếu không tức là khinh khi tiền bạc. Chúng ta hôm nay phải ăn uống no say". Ông Lô Chí thật sau khi nuốt hai cái bánh ở bờ sông rồi, rất đắc ý trở về nhà. Vào trong nhà thì thấy tình hình như vậy ! Hai ông Lô Chí thật và giả gây lộn, ai cũng nói mình đúng, không cách chi giải quyết được, mọi người cũng đều bó tay, không biết ai thật ai giả. Do đó, cùng nhau đi đến chốn Phật. Phật nói với Trời Ðế Thích :"Người nầy bỏn xẻn quá độ, không chịu làm việc công đức, không lâu sẽ đọa địa ngục, dù có khuyên can y như thế nào, y cũng không nghe sự giáo hóa, ngươi hà tất hao phí tâm cơ, y là người thành tính bỏn xẻn". Phàm là thương tiết gia tài như mạng sống, một sợi lông cũng không giúp người, đều phải phản tỉnh, làm nhiều chút việc có ích cho xã hội, làm nhà đại từ thiện.
...Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ
Trong trăm ngàn kiếp không thấy Phật
Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều
Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế.

"Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ". Chúng sinh vì tạo nghiệp quá nhiều, cho nên chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng. Bị trôi nổi trong biển sinh tử, thọ đủ thứ quả báo. Phật muốn cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ mới xuất hiện ra đời. Vì chúng sinh có vô minh nên khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Tội nghiệp của chúng sinh vừa nhiều vừa sâu rất đáng kinh, đáng sợ.
"Trong trăm ngàn kiếp chẳng thấy Phật". Vì sự quan hệ tội nghiệp của chúng sinh, quá nặng quá sâu cho nên không thấy được Phật, do đó :

"Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe,
Thiện tri thức khó gặp".


Bây giờ chúng ta rất may mắn, đều gặp được những việc mà trên thế gian khó gặp, cũng thấy Phật, cũng nghe Pháp, cũng thấy Tăng. Ðó là nhân lành sở cảm đã trồng trong quá khứ.
"Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều". Chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, chẳng gặp được Tăng, những chúng sinh nầy, đều trôi nổi trong biển sinh tử, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Có lúc làm người trời, làm A tu la, làm người, cho đến đọa địa ngục, phải chịu đủ thứ khổ.
"Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế". Vì cứu chúng sinh lìa khổ được vui, Phật mới xuất hiện ra đời.

Như Lai cứu hộ các thế gian
Ðều hiện trước tất cả chúng sinh
Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi
Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ.

"Như Lai cứu hộ các thế gian". Phật xuất hiện ra đời là vì cứu hộ tất cả chúng sinh thế gian. Trong kinh Pháp Hoa có nói "Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất nhiện ra đời" đại sự nhân duyên gì ? Ðó là việc sinh tử.
"Ðều hiện trước tất cả chúng sinh". Phật như mặt trăng trong hư không. Bạn nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của bạn, tôi cũng nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của tôi. Bất cứ đi ngàn dặm, mặt trăng đều ở trên đầu của mình. Phật cũng như thế, cho nên nói Phật đều ở trước mặt tất cả chúng sinh.
"Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi". Tại sao Phật phải hiện ra trước chúng sinh ? Vì muốn dứt trừ khổ trong sáu nẻo luân hồi. Tin Phật pháp, hiểu Phật pháp, hành Phật pháp, chứng Phật pháp; nếu thực hành được như thế thí chắc chắn sẽ ra khỏi tam giới, chứng được quả vị Niết Bàn.

"Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ". Môn giải thoát nầy vị Tự Tại Âm Dạ Xoa Vương minh bạch, hiểu ngộ được.

Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng
Phật bày diệu lý khiến khai ngộ
Như dùng đèn sáng chiếu thế gian
Nghiêm Trượng quán thấy pháp môn nầy.


"Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng". Tại sao chúng sinh không khai ngộ ? Tại sao không thành Phật ? Vì nghiệp chướng quá nặng quá sâu. Nghiệp chướng từ đâu đến ? Từ thân khẩu ý ba nghiệp. Thân có ba nghiệp ác, tức là : sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng có bốn ác là : nói dối, thêu dệt, chưởi mắng, hai lưỡi. Ý có ba nghiệp ác là : tham sân si.
1. Sát sinh : Tức là giết hại sinh mạng chúng sinh, tạo tội trong ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì mạng sống rất ngắn bị chết yểu.
2. Trộm cắp : Không được sự đồng ý của người mà đi lấy vật của họ, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì luôn luôn bần cùng khốn khổ.
3. Tà dâm : Tức là hành vi không chánh đáng ngoài vợ chồng, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì con gái không trinh lương, vợ không có tiết hạnh.
4. Nói dối : Tức là nói không thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì gặp người phỉ báng hoặc bị người lừa dối.
5. Thêu dệt : Tức là lời dơ bẩn, nói về việc nam nữ không chánh đáng, khiến cho người khởi tưởng đâu đâu, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì lời nói không rõ hoặc bị câm.
6. Chưởi mắng : Tức là chưởi mắng người, hoặc là dùng phương tiện khéo léo để chưởi người; khiến cho người không thể chưởi lại, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì suốt đời gặp nhiều việc tranh tụng.
7. Hai lưỡi : Tức là gặp người nầy nói xấu người kia, gặp người kia nói xấu người nọ, làm cho hai bên chia rẽ. Tạo nhân ba đường ác. Nếu được làm người thì quyến thuộc chống đối nhau.
8. Tham : Tức là xan tham, tham không biết chán, càng tham càng tốt, tuyệt đối không bố thí, tuyệt đối không làm việc lợi ích cho người. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm thường không biết đủ, được một tất muốn một thước.
9. Sân : Tức là sân hận, phát nóng giận, xem tất cả mọi người đều chẳng đúng. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì thường bị người não hại.
10. Si : Tức là ngu si, không rõ trái phải, lấy giả làm thật, thường làm những việc hồ đồ điên đảo, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm siểm khúc không ngay thẳng.

"Phật bày diệu lý khiến khai ngộ". Vì chúng sinh có mười nghiệp ác, mà trôi nổi ở trong biển sinh tử, không đến được bờ bên kia. Phật lấy từ bi làm bổn hoài, phương tiện làm gốc, mà mở bày đạo lý diệu không thể tả. Diệu lý nầy là phương pháp đối trị tất cả nghiệp ác, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ hiểu rõ.
"Như dùng đèn sáng chiếu thế gian". Phương pháp diệu lý nầy giống như đèn sáng, chiếu sáng những nơi tối tăm thành sáng sủa. Phật xuất hiện ra đời giống như mặt trời, chiếu sáng thế gian tối tăm.
"Nghiêm Trượng Quán Thấy Pháp Môn Này". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Nghiêm Trì Khí Trượng Dạ Xoa Vương quán sát và minh bạch được.
...Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn
Phật dùng một câu nói hết được
Giáo lý như vậy đồng thế gian
Dũng Kiện Huệ Vương ngộ môn nầy.

"Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn". Pháp có nghĩa lý vô lượng vô biên, do đó "pháp vi diệu thâm sâu vô thượng", pháp nầy chí cao vô thượng, càng không so sánh thì càng sâu, càng không so sánh thì càng vi diệu. "Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được", pháp nầy trải qua thời gian lâu dài mới gặp được, chớ không dễ gì gặp được. Giống như các nước tây phương, đã bao nhiêu năm mà chẳng có ai chân chánh nghe được Phật pháp, thấy được Phật, thấy được Tăng, bây giờ mới bắt đầu. Cho nên nói thời gian lâu dài không dễ gì gặp được. "Con nay thấy nghe được thọ trì". Bây giờ con đã thấy được Phật pháp, nghe được Phật pháp, được thọ trì, thật là người may mắn ! Kiếp trước đã gieo trồng căn lành, đời nầy mới được thọ trì, chẳng phải là việc dễ dàng. Cho nên phải lễ kính Tam Bảo, phải cúng dường Tam Bảo. Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay đã nghe. "Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai". Phật nói Tam Tạng (kinh, luật, luận), mười hai bộ (trường hàng, trùng tụng, cô khởi, ví dụ, nhân duyên, tự thuyết, bổn sự, bổn sinh, vị tăng hữu, phương quảng, luận nghị, thọ ký.) Nghĩa lý nầy thật rộng lớn, vi diệu không thể tả. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý chân chánh thật tại của Như Lai.
"Như Lai một câu nói hết được". Trong một câu pháp, Phật nói hết được tất cả các pháp, và trong một câu pháp nói ra tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn. Ý nghĩa nầy là một làm vô lượng, vô lượng làm một, tức cũng là đạo lý một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc.
"Giáo lý như vậy đồng thế gian". Ở trên đã nói về nghĩa thâm sâu rộng lớn, Phật một câu thì nói hết được. Giáo nghĩa nầy đầy khắp thế gian, cho nên giáo nghĩa Phật giáo là viên dung vô ngại. Không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, tất cả mọi người đều là Phật giáo đồ. Bạn tin Phật cũng là Phật giáo đồ, bạn không tin Phật cũng là Phật giáo đồ. Tại sao ? Vì Phật giáo là tận hư không khắp pháp giới, mà tất cả chúng sinh đều đầy đủ Phật tánh, đều có thể thành Phật. Bây giờ bạn không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật. Tương lai không tin Phật, thì đời sau nữa sẽ tin Phật. Không những chắc chắn tin Phật, mà còn có thể thành Phật. Pháp môn của Phật giáo là bao la vạn tượng, chẳng có một chúng sinh nào ở ngoài Phật giáo, cho nên nói giáo lý đồng thế gian.
"Dũng Kiện Thệ Vương ngộ môn này". Vị Dũng Kiện Huệ Dạ Xoa Vương, hiểu ngộ và minh bạch được đạo lý môn giải thoát nầy.

Tất cả chúng sinh theo tà đạo
Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn
Khiến khắp thế gian thành pháp khí
Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy.

"Tất cả chúng sinh theo tà đạo". Tất cả chúng sinh tức là : Thai, noãn, thấp, hóa mười hai loài. Tính tình chúng sinh rất kỳ quái. Nói pháp chánh đạo với họ, thì họ hoài nghi chẳng tin, nếu nói pháp tà đạo với họ, thì họ tin không hoài nghi. Vì pháp chánh đạo phải giữ giới luật, không thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, còn pháp tà đạo thì không giữ giới luật, có thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Cho nên chúng sinh đối với chánh đạo chẳng biết thật hoặc là giả mà khởi nghi hoặc, còn đối với tà đạo thì cho là thật, không nghi hoặc, cho nên đi theo tà đạo.
"Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn". Phật muốn cứu chúng sinh không giữ quy cụ, tức là chỉ bày cảnh giới chánh đạo, khiến cho chúng sinh tu học. Cảnh giới chánh đạo là gì ? Tức là quy y Tam Bảo, Phát tâm bồ đề (trên cầu Phật đạo, dưới độ muôn loài), cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, khiến cho tội diệt phước sinh, nghiệp tịnh tình không, có diệu dụng như vậy.
"Khiến khắp thế gian thành pháp khí". Pháp khí tức là tài năng. Ngài Lục Tổ là thành tựu pháp khí. Hám Sơn Ðại Sư cũng là thành tựu pháp khí.
Các ngài tu đắc được thân kim cang bất hoại, nhập diệt rồi mà nhục thể không rữa không thối, trở thành nhục thân Bồ Tát đó là pháp khí.

Ðức Phật khiến cho chúng sinh thế gian đều thành pháp khí, do đó "mượn cái giả tu cái thật", túi da hôi thối nầy là căn phòng tạm thời, chúng ta ở trong căn phòng tu đạo. Ðó là mượn thân giả (sắc thân) tu chân thân (pháp thân). Ðừng xem căn phòng quá quan trọng, nhưng cũng đừng cố ý làm tổn hoại nó. Nếu có chút hư hỏng gì cũng phải sửa lại, nếu không thì chẳng có phòng để ở, không nơi để tu. Bây giờ người ở trong phòng đều có bệnh. Có bệnh gì ? Có bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh đố kị, bệnh ích kỷ. Chúng ta phải mời bác sĩ đến chữa trị. Vì bác sĩ có thuốc hay, thuốc đến thì lành bệnh. Thuốc hay nầy tức là siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Cho nên Phật pháp là "vạn linh đan".
"Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy". Vị Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương chứng đắc được, hiểu được pháp môn nầy.
...Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, thấu đạt tất cả chẳng chấp trước tướng phước đức, tự tại bình đẳng.

Vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương thấy rõ thông đạt, đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng có chỗ chấp trước, cũng chẳng chấp trước tất cả tướng, không rời tất cả tướng. Không chấp trước nơi phước đức, cũng chẳng chấp trước nơi tự tại, cũng chẳng chấp trước nơi bình đẳng, cho nên gọi là tất cả chẳng có chỗ chấp trước.
Phật là ruộng phước của chúng sinh, Tăng cũng là ruộng phước của chúng sinh. Do đó :

"Rồng tuy không thể mưa xuống,
Nhưng cầu mưa phải nhờ rồng;
Phàm Tăng tuy không thể trồng phước,
Nhưng cầu phước phải nhờ Tăng".


Người tu phước phải luôn luôn tiếc phước, thì phước không tổn giảm. Có phước đức thì được tự tại, có tự tại thì được bình đẳng, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

...Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh
Oai quang hiện khắp lợi quần sanh
Khai thị cam lồ khiến mát mẻ
Các khổ diệt hẳn không chỗ nương.

"Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh". Thiện Huệ Oai Quang Vương nói với quyến thuộc Ma Hầu La Già rằng :"Các vị hãy xem Phật tánh là thanh tịnh, không nhiễm ô, thanh tịnh như hư không".
"Oai quang hiện khắp lợi quần sanh". Phật từ bi phóng ra quang minh đại oai đùc, khiến cho chúng sinh nhờ quang minh của Phật chiếu sáng, mà đắc được lợi ích. Sự lợi ích nầy có thể khai mở trí huệ.
"Khai thị cam lồ khiến thanh lương". Vị nầy khai thị chúng sinh đều đắc được vị cam lồ thơm ngon. Chúng sinh đói khác mà được cam lồ, thì lập tức no đủ. Chúng sinh tội nghiệp nặng mà được cam lồ, thì tội nghiệp tiêu trừ. Dù chúng sinh ở trong địa ngục, nếu được cam lồ thì chảo dầu than hồng cũng biến thành hồ sen, bất cứ việc gì không như ý nếu được cam lồ thì đều mát mẻ.
"Các khổ vĩnh diệt không chỗ nương". Bất cứ có bao nhiêu nghiệp khổ, nếu đắc được oai quang của Phật chiếu sáng, thì tất cả nghiệp khổ đều tiêu diệt. Vì nghiệp chướng tiêu diệt rồi, cho nên tất cả sự khổ cũng chẳng còn. Khổ là do nghiệp chướng mà đến. Có nghiệp chướng khổ thì có chỗ nương tựa, không có nghiệp chướng khổ, thì chẳng có chỗ nương tựa.
Tất cả chúng sinh trong biển cõi
Các ác nghiệp hoặc tự ràng buộc
Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh
Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy.

"Tất cả chúng sinh trong biển cõi". Chúng sinh trong tam giới ở trong biển lớn hai mươi lăm cõi, tức cũng là ba cõi. Ba cõi là gì ? Vì chúng sinh trong ba cõi đều có nghiệp nhân quả báo, cho nên gọi là ba cõi.
"Các ác nghiệp hoặc tự che đậy". Chúng sinh ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, các nghiệp ác đều khác nhau. Dục giới thì có nghiệp của dục giới, sắc giới thì có nghiệp của sắc giới, vô sắc giới thì có nghiệp của vô sắc giới.

Do các ác mà tạo ra các nghiệp, có các nghiệp rồi thì mê hoặc càng sâu. Nghiệp hoặc giống như xiềng xích trói người, không được giải thoát, lại còn che đậy chúng sinh ở trong biển nghiệp, cho nên không thấy quang minh; không thấy quang minh thì sinh ngu si; ngu si thì chẳng có trí huệ; chẳng có trí huệ thì làm việc điên đảo mê hoặc.
Chúng sinh tạo các nghiệp ác, nhất định phải sám hối mới tiêu diệt được. Do đó:

"Tội lỗi tày trời, sám hối tiêu sạch".

Song, nghiệp ác của chúng sinh quá sâu, còn không biết sinh tâm sám hối. Người xưa nói :"

Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Nếu tâm diệt thì tội cũng mất,
Tâm mất tội diệt cả hai đều không,
Ðó mới gọi là thật sám hối".


Nghĩa là, chỉ cần chí thành khẩn thiết sám hối, thì tội nghiệp đã tạo ra chắc chắn sẽ tiêu diệt. Nhưng chẳng phải nói, hôm nay sám hối ở trước đức Phật, ngày mai lại tái phạm nữa. Không chân chánh sửa đổi lỗi lầm, thì không những chẳng có ích gì, mà còn có tội thêm, vì biết mà cố phạm thì tội sẽ gia tăng.
"Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh". Khai thị chỉ bày chúng sinh có nghiệp ác, dạy họ pháp tịch tĩnh của Phật tu hành, thì chẳng còn phiền não, bỏ nghiệp ác mà lựa nghiệp thiện.
"Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương hiểu biết rõ.

Trí Phật như biển không nghĩ bàn
Biết tâm chúng sinh vô bất tận
Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh
Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy.

"Trí Phật như biển không nghĩ bàn". Trí huệ của Phật như biển cả, rộng lớn vô biên, không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng có gì mà không biết, chẳng chỗ nào mà không thấy.
"Biết tâm chúng sinh vô bất tận". Vì nguyên nhân nầy, cho nên tâm của chúng sinh Phật đều biết đều thấy. Chúng sinh khởi vọng tưởng gì Phật đều hiểu biết rõ ràng.
"Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh". Vì tâm của chúng sinh, bị danh lợi trói che mà sinh ra vô minh. Phật vì giáo hóa độ cho họ lìa khổ được an vui, mà nói pháp thanh tịnh cho họ nghe. Dạy họ thế nào tu giới, định, huệ ba học vô lậu, làm thế nào dứt trừ tham, sân, si ba độc.
"Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy". Pháp môn nầy vị Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương hiểu ngộ được.

Vô lượng chư Phật hiện thế gian
Vì khắp chúng sinh làm ruộng phước
Biển phước rộng lớn sâu khó dò
Diệu Mục Ðại Vương thấy môn nầy.

"Vô lượng chư Phật hiện thế gian". Có mười phương ba đời vô lượng Phật, do đó :"đồng với số chúng sinh", có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu đức Phật, đó là chủ trương của Phật giáo. Vì ai ai cũng có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Chỉ cần tu hành thì có cơ hội thành Phật. Giống như một số người, đều có tư cách làm tổng thống hoặc chủ tịch, nhưng phải có đủ điều kiện, có học thức phong phú, có khả năng làm việc, có tinh thần phục vụ, có thân thể cường tráng, thì sẽ có cơ hội làm tổng thống hoặc chủ tịch.
"Khắp vì chúng sinh làm ruộng phước". Vô lượng vô biên tất cả chư Phật, xuất hiện khắp trong thế gian, để vì chúng sinh làm ruộng phước, khiến cho tất cả chúng sinh, đều có cơ hội trồng phước. Cúng dường Tam Bảo, có công đùc không thể nghĩ bàn, nhưng phải làm đừng có xí đồ mới có công đức lớn, dùng tâm thanh tịnh cúng dường một trái cây hoặc một cành hoa, thì công đức không thể tính đếm được.

"Biển phước rộng lớn sâu khó dò". Dùng tâm kiền thành không mong cầu, để cúng dường Tam Bảo, thì biển phước tích tập vừa rộng vừa sâu, không cách chi đo lường được. Công đức càng nhiều thì biển phước càng sâu. Chư Phật đều ở trong ba A tăng kỳ tu phước huệ, cúng dường tất cả chư Phật. Khi phước huệ đầy đủ thì mới thành tựu.
"Diệu Mục Ðaị Vương thấy môn nầy". Cảnh giới nầy, vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương hoàn toàn thấy được.

Tất cả chúng sinh lo sợ khổ
Phật hiện ra trước để cứu hộ
Khắp hết thảy pháp giới hư không
Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng.


"Tất cả chúng sinh lo sợ khổ". Tất cả chúng sinh lo âu mà sợ haỉ đó là quả khổ. Vì tham vui nhất thời mà trồng xuống nhân ác, thì chắt chắn không thể tránh khỏi quả báo khổ. Bồ tát thì sợ nhân không sợ quả, lúc trồng nhân thì đặc biệt rất cẩn thận, không khởi chút vọng niệm nào, nhưng khi thọ quả báo khổ thì tâm vẫn an nhiên tiếp thọ, chẳng oán trời trách người, tất cả đều là nhân quả, chẳng sai lầm.
"Phật hiện ra trước để cứu hộ". Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều hiện ra trước tất cả chúng sinh, để cứu hộ chúng sinh giữa đường. Vì vô minh tác quái, che lấp tâm thanh tịnh, mất đi trí tuệ, bỏ con đường chân chánh, mà đi trên con đường nhỏ hẹp nguy hiểm. Phật thương xót những chúng sinh nầy, cho nên nương thuyền từ bi đến thế giới nầy, để cứu hộ chúng sinh ra khỏi biển khổ.
"Khắp hết thảy pháp giới hư không". Pháp thân của Phật là khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói tận hư không biến pháp giới khắp hết thảy. Phàm là chỗ nào có chúng sinh, bất cứ là chúng sinh cang cường hoặc là chúng sinh khó điều phục, đều cứu hộ khiến cho họ lìa khổ được an lạc.
"Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng". Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương chứng đắc được.

Công đức nơi một lỗ lông Phật
Thế gian đo lường không biết được
Vô lượng vô biên đồng hư không
Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy


"Công đức nơi một lỗ lông Phật". Trong một lỗ chân lông của đức Phật có vô lượng vô biên công đức. Những công đức nầy từ đâu đến ? Khi Phật tại nhân địa phát tâm bồ đề, thì luôn luôn làm việc có ích lợi cho chúng sinh. Vì có ích lợi cho chúng sinh, cho nên mới thành tựu công đức.
Tu công đức như thế nào ? Trước hết phải ủng hộ Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo. Tam Bảo tức là ruộng phước của chúng sinh. Làm công đức tức là trồng vào ruộng phước. Phàm là Phật giáo đồ đều phải hết sức mình để làm công đức, đến khi công đức viên mãn, thì chắc chắn sẽ đắc được phước báu.

Khi Phật tại nhân địa thì gần gũi Tam Bảo, quy y Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, phàm là công đức lớn nhỏ Ngài cũng đều làm. Cho nên trong một lỗ chân lông của Phật đầy đủ các công đức. Vì trong một lỗ chân lông của Phật, dung nạp được vô lượng chúng sinh, tận hư không khắp pháp giới, và ở trong lỗ chân lông chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
"Thế gian đo lường không biết được". Tất cả chúng sinh thế gian, cùng chung lại để nghiên cứu vấn đề nầy, cũng không lường được đức Phật có bao nhiêu công đức, cũng chẳng cách chi hiểu biết được cứu kính có bao nhiêu ?
"Vô biên vô tận đồng hư không" Công đức của Phật chỉ có thể nói là vô biên cô tận. Ví như sự rộng lớn của hư không, không cách chi hình dung được. Cổ đức có nói :

"Tâm niệm hạt bụi đếm biết được,
Nước trong biển lớn uống hết được,
Hư không lường được gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật".


Ðó là sự thuyết minh thích hợp nhất.
"Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy". Công đức như vậy chỉ có vị Quảng Ðại Quang Tràng Ma Hầu La Già Vương thấy được cảnh giới nầy.

Như Lai thông đạt tất cả pháp
Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ
Như núi Tu Di không lay động
Sư Tử Ức Vương vào môn nầy.

"Như Lai thông đạt tất cả pháp". Phật muốn lợi ích chúng sinh, muốn cứu hộ chúng sinh, cho nên Ngài tu đủ thứ công đức. Mỗi mỗi công đức viên mãn rồi, thì vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, mới thông đạt được tất cả các pháp, mới hiểu được tất cả các pháp.
"Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ". Ở trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp tính trong mỗi môn đều thấu triệt thông đạt vô ngại, đều hiểu biết vô ngại. Tóm lại, tức là trí huệ quang minh chiếu sáng thật tướng của các pháp.
"Như núi Tu Di chẳng lay động". Pháp tánh giống như núi Diệu Cao, không lay động, bốn vị Thiên Vương ở giữa núi Tu Di (dịch là Diệu Cao), trên đỉnh núi là trời Ðao Lợi. Phật dùng sức dũng mãnh tinh tấn, để cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là chúa cứu hộ tất cả chúng sinh. Pháp tánh của Phật có định lực như núi Tu Di.
"Sư Tử Ức Vương vào môn nầy". Vị Sư Tử Ức Vương minh bạch được, chứng nhập được pháp môn giải thoát nầy.

Phật trong quá khứ kiếp xa xưa
Tập biển hoan hỉ sâu vô tận
Nên ai thấy được đều vui mừng
Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được.

"Phật trong quá khứ kiếp xa xưa". Khi đùc Phật ở trong vô lượng vô biên đại kiếp xa xưa, chưa từng sinh một chút phiền não.
"Tập biển hoan hỉ sâu vô tận". Phật ở trong vô lượng kiếp tích tập hoan hỉ, sâu rộng không bờ bến như biển cả. Khi Phật ở taị nhân điạ thì, bất cứ thấy ai cũng đều sinh tâm hoan hỉ. Ngài phát tâm độ tất cả chúng sinh.
"Nên ai thấy được đều vui mừng". Vì quan hệ như vậy, cho nên chúng sinh thấy được Phật thì chẳng có một chúng sinh nào mà chẳng sinh tâm hoan hỉ.
"Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được". Môn giải thoát nầy vị Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương chứng nhập được.

Biết rõ pháp giới không hình tướng
Biển Ba la mật đều viên mãn
Ðại quang cứu khắp các chúng sinh
Sơn Ức biết được phương tiện nầy.

"Biết rõ pháp giới không hình tướng". Thấy biết rõ pháp giới chẳng có hình tướng. Pháp Giới tức là chân tâm của chúng sinh. Chân tâm thì khắp cùng pháp giới, pháp giới cũng chẳng lìa khỏi chân tâm của chúng ta. Cho nên mới nói :"

"Nếu ai muốn biết rõ,
Tất cả Phật ba đời.
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo".

Giống như làm văn, trước hết phải nhận thức rõ ràng chủ đề. Chân tâm thì chẳng có hình tướng, là tận hư không khắp pháp giới, do đó :"Mười pháp giới không lìa một tâm niệm". Pháp giới là do pháp hóa mà thành giới. Phật pháp giới có vô lượng chư Phật, là do Phật pháp mà hóa thành. Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác pháp giới, Thanh Văn pháp giới .v.v., đều do đủ thứ pháp mà hóa thành, cho nên gọi là pháp giới. Nếu phân ra mà nói thì có mười pháp giới, nói chung lại thì một pháp giới, tức cũng là một niệm chân tâm.
"Biển Ba La Mật đều viên mãn". Biết được pháp giới là vô tướng, thì thông đạt bổn thể, là như như bất động, rõ ràng sáng suốt, là minh bạch tự tánh bổn thể.

Tất cả biển Ba la mật gồm có sáu Ba la mật, mười Ba la mật, trăm Ba la mật, ngàn Ba la mật, vạn Ba la mật, cũng có thể nói có tám vạn bốn ngàn Ba la mật. Nếu minh bạch được pháp giới là vô tướng, thì tấ cả Ba La Mật đều viên mãn đầy đủ.
"Ðại quang cứu khắp các chúng sinh". Ðại quang tức là đại quang minh tạng. Ðại quang chiếu khắp tất cả chúng sinh, cứu hộ tất cả chúng sinh. Chúng simh nào được đại quang minh tạng chiếu đến, thì chúng sinh đó được cứu, được hết khổ.
Ðại quang là từ trí huệ quang tu được. Trí huệ quang nầy là vô lượng vô biên, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến, chiếu khắp pháp giới, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
"Sơn Ức biết được phương tiện nầy". Vị Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương biết được pháp môn phương tiện nầy.

Ông quán Như Lai sức tự tại
Mười phương hóa hiện thảy đồng đều
Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ
Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được.

"Ông quán Như Lai sức tự tại". Bạn hãy xem sức tự tại của Phật, diệu không thể tả. Sức tự tại tức là sức thần thông. Sức thần thông của Phật là không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
"Mười phương hóa hiện thảy đồng đều". Phật hóa hiện pháp thân trong mười phương pháp giới, chẳng có chỗ nào mà không có. Cho nên tất cả chúng sinh đắc được lợi ích cũng khác nhau. Người đại căn thì được thấm nhuần lớn, người tiểu căn thì được sự thấm nhuần ít.
"Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ". Chúng sinh được đaị quang minh tạng của Phật chiếu đến, thì đều khai ngộ, đắc được trí huệ giải thoát.
"Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được". Cảnh giới nầy vị Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương thâm nhập được, thấy rõ quang minh của Phật chiếu sáng chúng sinh, thì tội nghiệp của chúng sinh đều tiêu diệt.
(xin xem tiếp theo 3)


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

http://www.dharmasite.net/HuongDanThienTap.htm


1. Sơ Cơ Tập Thiền

Tiếng Hán, ngồi thiền là “đả tọa”. Tọa là ngồi, còn đả nghĩa là đánh. Ngồi chịu đòn, chịu đánh. Song ai đánh ai đây? Bạn tự đánh bạn đấy! Thế nghĩa là lý gì? Đa số người khi bắt đầu tập ngồi, họ không thực hành một cách thành thật, hễ ngồi vào thì thân nghiêng qua vẹo lại, đầu chúi tới gật lui, loay hoay nhúc nhích hoài mà không an định được. Tóm lại, họ ngồi không yên định được. Tuy vậy, chính cái chỗ, chính cái lúc không an định này mình phải làm chủ: đó gọi là định. Thân không muốn định, mình phải quản thúc, kiềm chế nó, cũng giống như “đập” nó vậy. Do đó gọi là "đả tọa”. Bạn cũng không để tâm ngó ra ngoài. Mỗi khi ý niệm chạy rong bạn phải lập tức kéo nó về lại, khiến cho tâm mình không chạy ra ngoài. Bạn sẽ cảm giác cái việc “kéo lại” này đau khổ thật chẳng khác gì sự khổ sở của kẻ bị đánh vậy. Do đó gọi là "đả tọa”.

Vì vậy, việc tiên quyết của kẻ sơ cơ tập thiền là phải chịu khổ. Cái khổ này không thật là khó nhẫn, cũng chẳng có chi là to lớn lắm đâu, chỉ là đau chân, mỏi lưng, nhức xương vậy thôi. Do thế chữ "đả tọa” không phải là thứ ngọt ngào dễ nuốt đâu. Song, nếu bạn không “đả tọa” thì vĩnh viễn bạn chẳng gặt hái được thứ gì ngọt ngào. Do đó cổ nhân nói:

"Chẳng chịu một phen lạnh thấu xương

Sao đặng hoa mai thơm ngát hương?”




Ở Mỹ ai cũng chủ trương tự do. Con nít tự do phát triển, chẳng ai phiền kỷ luật dân dạy chúng. Đó là một quan niệm lầm lẫn về tự do. Trẻ em nếu không dạy dỗ thì sẽ vô quy tắc, vô lễ độ. Đương nhiên có những em phát triển đúng theo đường hướng tốt đẹp thánh thiện. Song đại đa số trẻ em đều trưởng thành theo khuynh hướng hạ lưu, xấu xa (mà xã hội làm bối cảnh). Thậm chí có trẻ em trở nên du đảng, giết người, đốt nhà, cướp của, buôn bán thuốc phiện, không có chuyện gì mà chúng chẳng thể làm. Đó âu cũng là lầm lẫn và lạm dụng hai chữ “tự do”.

Nhiều phụ huynh biết sanh con đẻ cái, song chẳng biết giáo dục cho con cái đúng đắn. Việc này thật chẳng khác gì trồng cây. Khi cây non đâm cành, nẩy nhánh tứ phía loạn xạ, mà mình không xén, không tỉa chúng thì tương lai cây sẽ chẳng phát triển tốt đẹp đặng. Rốt cuộc cây cũng chỉ đáng dùng làm củi chụm mà thôi. Song le nếu biết tỉa, chẳng lo cây ngay từ lúc còn non nớt thì cây sẽ lớn mạnh, cao thẳng tốt tươi, vòi vọi. Lúc ấy ta có thể dùng cây để làm nhiều chuyện hữu ích: làm đà, làm trụ, xây nhà, xây cửa. Do đó, đã có con cái, phận làm cha mẹ phải dạy dỗ chúng con đường chính. Dẫn dắt chúng hướng về nẻo lành, nếu không phụ huynh thật không tròn trách nhiệm của mình vậy.

Việc dạy dỗ con cái ra sao thì việc tọa thiền cũng hệt như vậy. Mọi người trong ta đều có một trẻ con phải dạy dỗ; đó là “tâm” của mình. Tâm (chỉ vọng tâm) thì cũng giống như đứa con nít, vô cùng non nớt, ấu trĩ. Do đó nó thì lúc muốn lên trời, lúc lại xuống đất; khi thì nghĩ thiện, khi thì tưởng ác. Chỗ dụng công của việc ngồi thiền chính là ngay đó:

Ngay lúc ta chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác chính là chỗ ta phải đem vọng tâm, cuồng tưởng, tạp niệm thu hồi trở lại. Song làm sao thu hồi? Đây,

1. Đừng tranh: lòng tranh giành, tranh cãi, đấu tranh, là lòng sân hận ai cũng có. Tuy chẳng ai miễn được, song le mình phải giảm thiểu tối đa.

2. Đừng tham: không nên tham lam tiền của vật chất, tham lam sắc dục. Một khi tham lam mê mẫn rồi thì chẳng khi nào mình tỉnh ngộ.

3. Đừng cầu: chẳng nên tìm cầu, đòi hỏi, truy đuổi theo những thứ bên ngoài. Càng không nên mong mỏi những thứ bên ngoài. Càng không nên mong mỏi những thứ chẳng thuộc về mình.

4. Đừng ích kỷ: Lòng ích kỷ là gốc của mọi phiền toái, mọi lôi thôi rắc rối. Nếu mọi người chẳng ai ích kỷ thì thiên hạ sẽ thái bình, chiến tranh tai nạn chấm dứt. Người tu càng không nên ích kỷ. Tuy bạn chẳng thể lập tức trừ đoạn nó ngay, nhưng phải hết mình ra sức mà khử nó.

5. Đừng tự làm lợi mình: A! Ngồi thiền chẳng phải là tự lợi sao? Có thể là tự lợi nhưng cũng là lợi tha. Nếu bạn làm tấm gương tốt thì sẽ ảnh hưởng kẻ khác cũng trở thành tốt. Vì sao thế giới không tốt? Bởi vì cá nhân mình không tốt. Nếu cá nhân mình tốt thì mọi người chịu ảnh hưởng, ai cũng sẽ tốt.

6. Đừng dối trá: lúc nào bạn cũng nên chân thật và thành ý. Bạn không muốn lừa ai, cũng không muốn tự lừa mình. Chẳng nên nói dối ai, mà cũng chớ tự nói dối.



Sáu điều trên là điều kiện tiên quyết cho việc tọa thiền. Bạn cần thấu triệt chúng, ngay trước khi co chân xếp bằng.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Kiên Nhẫn và Tôn Trì Quy Củ

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

2. Kiên Nhẫn và Tôn Trì Quy Củ

 

Điều đầu tiên cần học khi thực tập thiền quán là phải kiên nhẫn và tôn trì quy cũ. Nên nói:”bất dĩ quy cũ, bất thành phương viên”, nếu không có côm-pa và thước T, làm sao chúng ta có thể vẽ vòng tròn và hình vuông được? Nếu không giữ quy cũ, làm bất cứ việc gì đều không thành tựu.

Trước hết, các vị phải nhẫn chịu đau chân và đau lưng. Cả trong khi tâm các vị loạn động và trạo cử, các vị phải tìm một cách nào đó để bình tịnh nó. Tốt hơn hết là quý vị ngồi trong tư thế kiết già. Thế ngồi này được gọi là “kim cương tọa”. Khi các vị ngồi trong thế kim cương tọa, các vị có thể dễ dàng nhập định. Khi thấy quý vị nhập kim-cương đại-định, ngay cả chư quỷ cũng sẽ nể sợ và không dám quấy rầy.

Mỗi thời thiền tọa được báo hiệu bằng ba tiếng mõ. Sau khi tiếng mõ đã được đánh lên, mọi cử động đều phải ngưng lại và mọi người đều giữ yên lặng trong suốt thời thiền tọa. Không phải chỉ mọi người phải giữ im lặng, mà ngay cả ma quỷ và các Thiện Thần Hộ Pháp cũng không dám gây ra một tiếng động nào. Điều lý tưởng là ngồi trong tư thế kiết già và giữ tâm bình khí hòa.

Bây giờ tôi sẽ kể cho quý vị câu chuyện về “Quỷ-Bức Thiền-Sư”. Vị này vốn làm nghề tụng kinh thuê cho những người thuê ông ta cầu siêu cho các vong linh quá cố. Ông được gọi là "Ông Nam-Mô” – một ông thầy cúng suốt ngày ông ta tụng “Nam mô, Nam mô, Nam mô” không biết bao nhiêu lần. Ông tụng thật nhiều “nam mô” nhưng cũng chỉ “nam mô” cho người khác và không bao giờ “nam mô” cho chính mình. Ông không bao giờ "nam mô” để thấy mình đang làm gì.

Rồi thì một ngày nọ, ông ta đi “nam mô” cho ai đó và sau đó thì trở về nhà. Có lẽ lúc đó trời đã xế chiều; trên đường về, ông đi ngang qua một làng nhỏ và một con chó sủa lên khi ông đi qua. Trong nhà, tiềng một người đàn bà già nói “Ơ, coi ai ngoài đó mà con chó sủa dữ dội vậy?” Có tiếng một người đàn ông đứng dậy và đến nhìn qua lỗ hổng nơi cửa sổ. Cửa sổ không phải bằng kiếng mà bằng giấy dầu. Người đàn ông nói “Ồ, đó chỉ là con ma chuyên chạy tụng kinh sám”. Ông ta nói lớn tiếng làm cho ông thầy nghe được và tự bảo rằng “Kìa, tại sao anh ta gọi mình là con ma chạy tụng kinh sám? Mình luôn luôn tụng kinh để giúp người, vậy mà ông ta bảo mình là con ma chạy tụng kinh sám!”.

Nhưng dầu sao thì ông ta cũng không làm gì được; vì thật tình chính ông ta đi tụng thuê cho người khác, và nếu có ai muốn gọi ông ta là một con ma tụng kinh thì ông ta cũng không kiện thưa người ấy được. Nghĩ vậy, ông bèn nuốt hận kềm chế sự tức giận của mình.

Một lát sau, ông đến một cái cầu. Trời bắt đầu mưa, cho nên ông chui xuống gầm cầu để trú mưa. Bấy giờ ông ở dưới cầu, được khô ráo, nhưng trận mưa dai dẳng làm cho ông không có cái gì để làm cho qua thì giờ. Vì không có gì để làm, ông tự bảo “Ồ, ai cũng nói rằng ngồi thiền được lắm. Vì rằng mình chẳng có gì làm cả, trong khi chờ đợi, mình thử thiền xem sao”. Rồi ông ngồi xuống, và kéo chân thành thế kiết già. Ông xếp chân và ngồi rất nghiêm túc, và ngay lúc ấy, một sự lạ lùng mầu nhiệm xảy ra.

Hai con quỷ hiện ra. Mặc dầu chưa bao giờ ông thực sự thấy quỷ, ngày này qua ngày khác ông thường độ họ, cho nên ông ta ít nhiều cũng được coi là quyến thuộc của chúng và ông ta không tỏ vẻ sợ hãi. Một con quỷ nói với con kia: “Có một ngôi chùa vàng ở đây. Nhanh lên! Hãy đảnh lễ đi! Có xá-lợi của Đức Phật ở trong ngôi chùa vàng. Nếu chúng ta đảnh lễ xá-lợi Phật, nghiệp chướng của chúng ta sẽ được tiêu trừ." Thế là hai con quỷ bắt đầu đảnh lễ, sau khi chúng nó đảnh lễ hồi lâu thì cái chân của vị tăng được gọi là “con ma chuyên chạy tụng kinh sám” bắt đầu bị đau. Để có thể ngồi thoải mái hơn, vị tăng chuyển thế ngồi kiết già thành thế ngồi bán già, đó là tư thế chân trái nằm trên bắp đùi phải.

Lần này hai con quỷ đến đảnh lễ, thấy có chuyện lạ, một con quỷ nói:

“Nè”! Ngôi chùa vàng kia vừa chuyển thành ngôi chùa bạc. Mày có nhận ra không?”

“Thì sao nào?”, con quỷ kia đáp lại “Chùa bằng bạc vẫn quý rồi, chúng ta nên đảnh lễ đi!”

Rồi cả hai con quỷ đồng đảnh lễ, chúng đảnh lễ một hồi lâu cho đến khi chân của vị tăng lại bị đau và ông ta uể oải duỗi ra nghỉ, giống như khi quý vị từng làm mỗi khi ngồi thiền mệt mỏi. Vị tăng lúc đó suy nghĩ: "Ta nên nằm nghỉ chốc lát.”

Nhưng ngay lúc đó, hai con quỷ thoáng thấy ngôi chùa mình đang lạy biến thành một đống bùn. Một con quỷ kêu lên: “Nè! Coi kìa, nhanh lên! Hãy đánh nó đi!”. Nhận thấy hai con quỷ sắp đánh mình, vị tăng sững người vì sợ hãi, nhẹ nhàng trở lại ngồi gọn gàng trong tư thế kiết già. Vừa đúng lúc hai con quỷ đồng thanh la lên: “Ồ! Thật đúng là xá-lợi của Đức Phật ở trong đó. Thật là trò biến hóa như yêu quỷ. Phút trước đó là ngôi chùa vàng, phút sau là chùa bạc, rồi trở thành đống bùn. Chúng ta tốt hơn chỉ nên đảnh lễ bất luận chuyện gì xảy ra!”, rồi chúng lạy không nghỉ cho đến khi trời sáng.

Sự kiện này có một ảnh hưởng tác động đến vị tăng – “con ma chuyên chạy tụng kinh sám” . Ông ta ngồi suy nghĩ: “Nếu ta ngồi trong tư thế kiết già thì đó là ngôi chùa bằng vàng, nếu ta ngồi với tư thế bán già thì đó là ngôi chùa bằng bạc, còn nếu ta không ngồi với hai tư thế ấy thì chẳng có gì khác ngoài một đống bùn. Tốt hơn là nên bắt đầu tu tập, không nên chạy tụng kinh đám nữa.” Rồi ông ta vùi mình trong đề tài ấy ngay và công phu tham cứu rất nghiêm mật. Sau một thời gian, ông được ngộ đạo, được tặng danh hiệu “Quỷ Bức Thiền Sư” (Thiền Sư bị quỷ bức bách) vì nếu ông không bị hai con quỷ dọa đánh, ông chắc hẳn sẽ còn trì hoãn công phu và sẽ không bao giờ thành công trong việc tu tập.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

3. Mỗi Người Phải Tự Chấm Dứt Sanh Tử Của Chính Mình

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Tham thiền là pháp môn ấn tâm vi diệu do đức Thích Ca thân truyền tại đỉnh Linh Sơn. Dạo ấy, đức Phật cầm một cành hoa trong tay và đưa lên, miệng mỉm cười. Không ai trong pháp hội hiểu đặng ý Phật, duy chỉ có ngài Ma Ha Ca-Diếp minh bạch ý chỉ của Phật. Ngài liền mỉm cười. Đây là lần đầu tiên pháp môn “dĩ tâm ấn tâm” được truyền và từ đó, pháp môn ấy được các vị Tổ truyền thừa cho các thế hệ tiếp nối.

Ngài Đại Ca-Diếp lúc bấy giờ đã trên trăm tuổi. Là vị tu hạnh đầu-đà bậc nhất, luôn luôn phấn chấn nỗ lực dụng công, Ngài không cười cợt bừa bãi đâu. Lý do Ngài mỉm cười là vì liễu ngộ ý chỉ của Phật, rồi biểu thị pháp “lấy tâm ấn tâm” đấy.

Đức Phật Thích Ca truyền pháp môn này cho Ngài Đại Ca-Diếp làm sơ tổ. Sơ Tổ truyền cho Tổ thứ hai là Ngài A-Nan-Đà. Ngài A-Nan-Đà lại truyền cho Tổ thứ ba là Ngài Thương-Na Hòa-Tu, và Ngài Thương-Na Hòa-Tu truyền tiếp cho vị Tổ thứ tư là Ngài Ưu-Ba Cấp-Đa. Cứ như thế “tâm pháp” được truyền thừa cho đến Ngài Bồ Đề Đạt-Ma, vị Tổ thứ 28 ở Ấn Độ. Ngài Bồ Đề Đạt-Ma nhận thấy căn-tánh dân Ấn lúc bấy giờ chưa thuần thục, trong khi căn tánh dân Trung Hoa thì chín mùi, đủ sức tiếp thọ Pháp Đại Thừa. Vì thế Tổ dùng đường biển đi qua Trung Hoa, và đến Quảng Châu vào năm 527 sau Tây lịch. Do đó Quảng Châu còn được gọi là “Tây Lai Sơ Địa”. Nhưng người Quảng Châu bấy giờ chưa có thể tiếp nhận Pháp Đại Thừa này liền vì họ không nhận biết Tổ là ai. Họ miệt thị gọi Ngài là “malacha” (quỷ la sát!). Một từ ngữ khinh miệt dùng để gọi người Ấn Độ. Người bèn đi Nam Kinh bổn ý là muốn độ Pháp Sư Thần Quang. Khi Pháp Sư Thần Quang giảng kinh ở Nam Kinh, biện tài của Ngài vô ngại đến nỗi chư thiên tán hoa trên trời xuống, và dưới đất sen vàng vụt mọc lên.

- Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma hỏi Ngài Thần Quang:

“Ông giảng kinh để làm gì?”

-“Tôi giảng để dạy người liễu sanh thoát tử”

- Ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma lại hỏi: “Trong kinh toàn là giấy trắng mực đen, ông nương vào đâu liễu sanh thoát tử?”

Nghe vậy Ngài Thần Quang bực mình lắm, nghĩ rằng ông râu này phỉ báng Tam Bảo. Nổi giận, Ngài cởi chuỗi tràng hạt bằng sắt nặng chình chịt ra quấn vào mặt Tổ, đánh gãy mất hai chiếc răng của Tổ. Ngày xưa, rất nhiều người biết võ công kể cả những thầy tu.. đã là thầy tu thì không được mang khí giới trong mình, cho nên nhiều thầy đeo chuỗi hạt bằng sắt để làm khí giới phòng thân, sử dụng nó như cây nhuyễn tiên để đối địch.

Lại nói truyền thuyết về hàm răng của những vị Thánh nhân: rằng nếu răng của vị Hiền Thánh rơi xuống đất, thì trời sẽ hạn hán ba năm, và người dân vùng ấy có thể chết đói vì mất mùa. Cho nên khi thấy mình bị đánh gãy luôn một lần hai cái răng, Tổ không nỡ để cho dân chịu khổ vì mình. Thay vì để răng rơi xuống đất, Ngài nuốt chửng hai răng ấy, rồi bỏ đi. [Ở Trung Hoa có câu tục ngữ “Đả nha vãng đổ liễu yến” nghĩa rằng nếu răng ông bị đánh gãy, hãy nuốt vào bụng là từ giai thoại này mà ra.]

Khi lời thốt ra mà không ứng hợp, Tổ liền biết hiện tại cơ duyên Thần Quang chưa đến, Ngài liền tới núi Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam. Trên đường Tổ gặp một con chim oanh vũ bị nhốt trong cái lồng mây. Con chim nhận ra Ngài và hỏi:

“Tây lai ý,

Tây lai ý,

Thỉnh nhữ giáo nhã

Xuất lưng kế”

Tạm dịch:

“Với ý chỉ từ phương Tây,

Với ý chỉ từ phương Tây,

Xin Ngài dạy con,

Kế sách thoát khỏi lồng này”



Bồ-Đề-Đạt-Ma bèn dạy cho chim kế rằng:

“Xuất lung kế,

Xuất lung kế,

Lưỡng thối trường thân,

Lưỡng nhãn bế,

Thử tiện thị nhữ xuất lung kế”

Tạm dịch:

“Kế thoát lồng,

Kế thoát lồng,

Hai chân duỗi thẳng

Mắt nhắm nghiền,

Chính là diệu kế bay thoát lồng”



Con chim lắng nghe xong là hiểu ngay. Rồi nó ngay cẳng ra, nhắm nghiền mắt lại, giả chết. Khi người chủ chim đi làm về, anh ta đến lồng thấy chim, bèn la lên: “Úi da! Chim ơi ngươi làm sao thế?”

Hoảng hốt, anh ta mở cửa lồng, bồng chim ra. Chàng chim nín thở bất động… Người chủ chim thấy làm lạ, coi tới coi lui chàng chim, rồi ngĩ: “Chim không cục cựa, giống y như đã chết. Song chết rồi thì sao thân không lạnh?”. Do dự, phân vân hết sức, anh ta từ từ mở tay ra… Đúng lúc ấy, chàng chim vỗ cánh bay khỏi tay anh ta. Tự do!

Câu chuyện này đáng làm cho chúng ta suy nghĩ. Ai trong chúng ta không như chim nhốt trong lồng? Tuy ngày ngày ta sống nhởn nhơ, song ta nào có tự do, ra ngoài vòng sanh tử. Mà sự thật là ta sanh ra mê muội, rồi thì mê muội chết đi, chưa hề thấy bản lai diện mục của mình. Vì vậy, nếu muốn được tự do sanh tử, thì trước hết hãy coi mình là kẻ đã chết.* Cho nên nói:

“Nhược dục nhân bất tử

Tức hạ tử công phu.”

Tạm dịch:

“Nếu muốn mình không chết

Thì phải tu hết mình”




Mục đích việc tu hành, là muốn thấu rõ mình từ đâu sanh ra và mình chết sẽ đi về đâu? Và để thấu rõ lý do gì mình không thể làm chủ vận mạng của chính mình.

“Có chứ”. Các vị có thể nói: ”Tôi làm chủ thân tôi. Thân này thuộc về tôi”. Nếu các vị thật sự làm chủ thân mình, sao các vị chẳng làm thân trẻ mãi không già? Đến lúc bịnh sao các vị không tự chủ – đừng bịnh? Tới lúc chết, các vị lại càng không thể tự chủ. Cho nên mình cần phải thật sự hiểu rõ ngọn ngành sanh tử. Rằng:

"Lai thời hồ đồ, khứ thời bi

Uổng tại nhân gian, tẩu nhất hồi

Bất như bất lai diệc bất khứ

Diệc vô hoan hỉ diệc vô bi.”

Tạm dịch:

“Đến thật hồ đồ, đi buồn lo

Sống uổng trên đời chạy vòng vo

Chi bằng không đến cũng không đi

Cũng chẳng vui sướng chẳng sầu bi.”



Con người sanh ra trong u mê, chết đi trong u mê. Khi lâm chung thì buồn rầu khổ não. Nếu bị cảnh trạng này xoay chuyển thì làm người thật vô nghĩa. Vòng vo quanh quẩn hoài trong u buồn, khổ bi thì thật uổng đời lắm. Chi bằng không đến không đi, há không khỏe hơn sao? Được vậy tức thoát khỏi vòng hoan hỉ sầu bi, thực sự tự do tự tại.

Chúng ta không nên tự nhốt mình trong lồng. Lồng gì? Chiếc lồng là thân này. Thân người là một tập hợp hư giả của tứ đại: đất, nước, gió, lửa mà bổn hữu Phật tánh thì bị nhốt trong cái lồng tứ đại ấy, y như chim bị nhốt trong lồng, không thể thoát ra được. Nếu muốn thoát lồng mình phải học “vô quái vô ngại, vô khủng vô bố, vô phiền vô não” (không chướng ngại ai, cũng không gì chướng ngại mình, không sợ hãi gì, cũng không làm ai sợ hãi, không có phiền não gì, cũng không làm ai phiền não). Có nghĩa là chúng ta phải làm chủ chính mình. Vì lý do đó, chúng ta nên học ngồi thiền. Mỗi người phải tự chấm dứt sanh tử của chính mình. Không một ai khác có thể làm chuyện ấy thay mình.. người khác có thể chỉ đường, nhưng mình phải tự mình bước đi. Nếu các vị muốn thoát lồng thì phải tự mình nỗ lực, phải một phen khổ công!


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

4. Thiền Là Nhiếp Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Tọa thiền là con đường mà mọi hành giả phải đi. Thiền là gì? THIỀN, từ Phạn ngữ DHYANA, có nghĩa là “tu phép tư duy” và “lắng tư lự”. Người Hoa thường đơn giản hóa ngoại ngữ, nên họ chỉ giữ lại vần đầu của danh từ DHYANA, chỉ còn đọc là CHAN (Thiền).

Tọa thiền thì phải ngồi thiền. Vì sao vậy? Để nhiếp tâm. Khi kẻ sơ cơ tập ngồi thiền, thân y tuy ngồi nhưng tâm chẳng ngồi. Tâm y cứ mãi miết phóng theo vọng tưởng, không biết đến đâu: lúc Đông lúc Tây, chợt Nam chợt Bắc. Giống như được ngồi hỏa tiễn miễn phí, tâm bay lạng khắp nơi. Những vọng tưởng, ý nghĩ lăng xăng ấy, thật khó khống chế vô vàn.

Tại sao người ta không có trí huệ? Bởi vì những suy nghĩ của họ cứ mãi lăng xăng chạy ra ngoài. Tại sao người ta già đi mỗi ngày? Bởi vì tâm của họ luôn luôn truy đuổi hết việc này đến việc khác. Tương tự như một chiếc xe mới: nếu các bạn lái một cách bừa bãi, các bạn sẽ lãng phí rất nhiều xăng. Chẳng những thế, chiếc xe của các bạn sẽ hư cái này, hỏng cái nọ, và có thể chẳng bao lâu nó sẽ nằm liệt. Nguyên lý này cũng áp dụng cho thân thể chúng ta. Nếu các bạn không biết điều hòa nó, ghép nó vào lỷ luật mà lại để cho nó tự do phóng túng, thì rốt cuộc các bạn sẽ tốn rất nhiều xăng. XĂNG ở đây là gì? Chính là cái khí lực tinh thần quý báu của các bạn. Bất luận đổ xăng nhiều bao nhiêu, các bạn ngày nào cũng lái xe vòng vo vô ích, thì bình xăng sẽ chóng cạn. Có kẻ ăn những thứ bổ dưỡng, nghĩ rằng thức ăn ấy có thể tăng thêm tinh thần khí lực của họ; song nếu họ không biết trân quý tinh thần của chính họ, bất luận ăn nhiều thứ bổ đưỡng bao nhiêu, họ cũng không thể bổ sung được cái tinh lực mà họ phung phí. Vì lý do này, nên có câu:



Chế chi nhất xứ

Vô sự bất biện

Nghĩa rằng:

Giữ tâm một chỗ

Không gì chẳng xong.




Các bạn phải tập thu tâm lại, kềm nó nằm yên một chỗ. Như vậy các bạn sẽ không lãng phí tinh lực, làm khô cạn nguyên lực tinh thần của mình. Nguyên tắc này cũng như ví dụ việc lái xe: Nếu các bạn khéo giữ gìn, cẩn thận lái xe thì sẽ không xảy ra tai nạn mà chiếc xe của các bạn sẽ hữu dụng trong một thời gian rất lâu. Cùng thế ấy, nếu các bạn biết điều hòa cơ thể, cơ thể sẽ không già. Thật ra, nó không chết!

“Tôi không như thế”, có người nói. “Ai cũng phải chết. Ngay cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài cũng phải nhập Niết Bàn. Làm sao Thầy có thể nói được là thân xác của chúng con sẽ không chết?”.

Các bạn phải nên biết: Đức Phật nhập diệt sau khi hoàn tất sứ mệnh giáo hóa của Ngài, nhưng Ngài không chết như mọi người. Ngài đã đi vào trạng thái không sanh không diệt, một trạng thái rốt ráo, hoàn toàn thanh tịnh. Đức Phật đã chứng đắc đại trí, và giải thoát khỏi sanh tử. Ngài tự do đến, tự do đi. Ngài khác với kẻ phàm phu chết vì bệnh tật. Khi đã làm xong tất cả việc phải làm, cứu độ hết thảy chúng sinh có nhân duyên với mình, Phật liền nhập diệt. Trước khi nhập diệt Ngài triệu tập tất cả các vị Bồ Tát, Thành Tăng, các vị A La Hán, trời, người, và tất cả chúng sanh trong mười phương đến Pháp hội để họ có thể từ biệt Ngài. Điều này cho thấy rằng Ngài biết trước và thấu triệt sự sống chết của Ngài. Nếu các bạn muốn biết thêm, hãy đọc kinh Đại Bát Niết Bàn.

Mục đích của tọa thiền là nhiếp tâm. Đồng thời các bạn cũng nhiếp tâm, nhiếp khẩu, nhiếp ý, để cho ba nghiệp được thanh tịnh. Thật vậy, khi các bạn ngồi thiền, thân các bạn không phạm giới sát, giới đạo, giới dâm; miệng không nói dối, nói lời thô ác, nói lưỡi hai chiều, nói lời ý ngữ; tâm không tham, không sân, không si; ý nghĩ không tuy đuổi việc bên ngoài. Khi ấy thân tâm các bạn mới yên ổn – thì đây là lúc để các bạn bắt đầu tập ngồi thiền. Ngồi thiền là nhắm đến việc điều hòa thân tâm, để cho thân không bị bịnh tật, miệng không nói lời bất thiện, và tâm không tranh chấp, không tham lam, không truy cầu, không ích kỷ, không thủ lợi cá nhân (tự lợi). Khi ba nghiệp được tịnh, thì trí huệ sanh. Tọa thiền lại trở về nguồn, phục hồi trí huệ bản hữu, phóng đại quang minh.

Tất cả các bạn tới đây học Phật Pháp. Các bạn hãy dành đủ thời giờ, mặc dù công việc có bề bộn bao nhiêu. Dầu cho các bạn có trễ mất một buổi ăn, hay được ít tiền đi, các bạn cần phải kiếm thì giờ để học và hành Phật Pháp. Hãy đem lòng chân thật ra tu, rồi các bạn sẽ được cảm ứng. Nhưng nếu các bạn cho rằng ăn là quan trọng hơn Phật Pháp, hoặc là tiền có ý nghĩa hơn giáo pháp, thì các bạn sẽ không học được pháp nào. Các bạn hãy coi Phật Pháp là thiết yếu và quan trọng hơn mọi sự. Đó là thái độ căn bản của mỗi Phật tử.

 

5. Thu Thập Thân Tâm

 

Các bạn ngồi thiền thì phải biết mục đích ngồi. Thiền là phương pháp tu luyện sự tư duy, cũng là cách làm cho yên lặng mọi tư lự. Lúc bình thường chúng ta không ai nghĩ đến việc tu: do đó, mình bị 6 căn, 6 trần và 6 thức làm mê mờ, khiến quên tu. Do đó, ngồi thiền là cốt để hồi quang tự soi tâm mình, không chạy theo ngoại cảnh mà quét sạch nội tâm. Mình phải quét sạch hết mọi thứ cuồng tâm, dã tánh, tư dục, tạp niệm, vốn dĩ là những thứ chướng ngại sự tu hành. Giả sử bạn là kẻ có tâm cuồng vọng, tự đại đến độ không ai ưa bạn cả, hoặc bạn luôn có ý tưởng làm giàu, phát tài, hưởng thụ, ích kỷ, tự lợi, dối trá, tham lam, tranh giành, chạy theo ngoại vật v.v…thì bạn nên biết những ý tưởng ấy chính là “cuồng tâm” đấy.

Khi bạn ngồi thiền, hãy xoay ánh sáng tâm linh soi sáng cõi lòng: bạn soi cho hết thất tình* lục dục** 6 căn 6 trần. Ngay lúc chiếu soi như vậy, bạn cần phải phản tỉnh tư duy: “Hằng ngày có phải chăng tôi cứ hướng tâm ra ngoài tìm cầu? hay tôi hướng nội, soi lòng để tìm chân lý?” Làm vậy tức là bạn phủi bụi nơi tấm gương tự tánh: Trí Huệ Tròn Đầy (Đại Viên Kính Trí). Tấm gương trí này xưa nay vốn thông thiên triệt địa, song le hiện nó tạm thời bị bụi bặm phủ kín. Do đó, Ngài Thần Tú Thiền sư dạy rằng:

Thân như cây Bồ đề

Tâm như đài kính sáng

Luôn luôn siêng phủi sạch

Chớ để bụi dính đầy.

Cây Bồ đề chỉ sự giác ngộ; đài kính sáng tức là tấm gương trí huệ. Lúc nào bạn cũng phải nhớ lau chùi tấm gương ấy, không để bụi bám vào. Trí huệ tròn đầy như tấm gương này, xưa nay không việc gì mà nó không biết; nó rõ suốt và thấy suốt vạn sự. Song le bởi do ta bị 6 căn, 6 trần, 6 thức dụ hoặc nên cứ hướng tâm ra ngoài, rồi vì thế ta đánh mất đi trí huệ ấy, đắm mình theo việc truy đuổi hướng ngoại, không còn biết tự soi lòng nữa.

Do đó, thiền hay sự tu luyện tư duy thật đơn giản: hồi quang phản chiếu, tìm chân lý ở nội tâm. Các bạn không nên để mình bị cột cứng vào chuyện thăng quan, phát tài, công danh, lợi lộc…

Có vị hỏi: “Nếu chẳng đeo đuổi những thứ ấy, đời còn gì thú vị?” Các bạn cho rằng làm người là ý nghĩa thú vị lắm sao? Những việc bạn làm thực sự có giá trị chăng? Những việc ấy có giúp gì cho trí huệ của bạn không?

Nếu bạn phủi sạch bụi bặm, Trí Huệ Tròn Đầy Như Gương Sáng của bạn sẽ chiếu suốt thiên địa, thấu khắp ba ngàn cõi Đại Thiên Thế Giới. Lúc ấy bạn sẽ chẳng trở lại ngu si phiền não nữa, há đây chẳng phải là tuyệt diệu lắm sao? Trái lại, nếu bạn tối ngày đầy phiền não ưu tư, thì bạn tự tạo địa ngục, tự giam mình vào đó; há đây là chuyện khoái lạc lắm ư?

Tu hành là đoạn phiền não. Hiện tại các bạn ai cũng có phiền não. Nếu các bạn coi phiền não như cơm, mỗi ngày không ăn cơm phiền não, tựa hồ như không sống nổi, thế thì cuộc đời bạn cứu cánh có giá trị lắm sao?

Nhân vậy, khi tọa thiền bạn cần giữ, cột tâm vào một điểm, rồi tuyệt ưu tư phiền não. Mặc cho trời sập, đất long, bom nổ, bạn cứ điềm nhiên, đừng chú ý nó.

Bạn hỏi: “Nếu vậy, há tôi không trở thành thờ ơ, bỏ rơi thế sự sao?” Bạn thật có khả năng khống chế, chủ động việc thế sự sao? Đừng nói đến bạn, là người dân bình thường, ngay cả các vị nguyên thủ, lãnh đạo quốc gia cũng không có năng lực làm chủ thế sự. Họ có khả năng làm người ta hết phiền não chăng? Các vị Cao Ủy Liên Hiệp Quốc có thể làm chủ lòng người chăng? Đừng nói chi tới lòng người khác, ngay cả như chính con tim của họ, họ có làm chủ được không?

Nếu bạn thật có khả năng đoạn hết phiền não, làm cho mọi người bình an, thì bạn mới đáng gọi là một bậc lãnh tụ thế giới. Trước mắt, bạn chưa thể làm vậy, do đó bạn phải bắt đầu từ nơi mình mà hạ thủ. Tức là: ghép mình vào kỷ luật, huấn luyện để tư tưởng bạn không còn tranh chấp, không còn tham lam, không còn mong cầu truy đuổi, không còn ích kỷ, tư lợi, dối trá. Làm được vậy, tối thiểu bạn không gây ô nhiễm môi trường, mà ngược lại bồi tiếp thêm chính khí trong trời đất, hóa giải đi mọi độc khí, sát khí dẫy đầy trong không trung. Nguyên lai, mục đích của tọa thiền là để ta trừ mọi thói hư, tật xấu, tham, sân. Do đó nếu bạn cứ đòi hỏi ăn ngon, mặc đẹp, ở sướng đồng thời lại muốn thành Phật, thì thật là điên cuồng.

Có người nói: “Ấy Thầy mở miệng là chửi mắng người ta!” Không đâu, tôi không chửi mắng các bạn; tôi chưởi mắng những con quỷ. Bởi vì trong bụng nhiều bạn đầy dẫy bọn quỷ. Khi bọn quỷ ấy nghe mắng thì chúng khó chịu bức rức lắm; thế rồi bọn quỷ đó xui khiến, làm những bạn ấy không còn chịu ngồi thiền nữa.

Bây giờ các bạn hãy nhân cơ hội tốt đẹp này mà phủi sạch bụi nơi tấm gương lòng, tức là Trí Huệ Tròn Đầy.

“Nhưng tôi không biết làm sao tu?”

Bạn hãy nhẫn nại. Chịu khó nhịn mắng, nhịn chửi. Từ từ bạn sẽ hiểu làm sao tu.

Khi Thầy Duy-na gõ khánh kết thúc buổi tọa thiền, các bạn từ từ duỗi chân ra và động đậy chút ít. Hãy làm một cách từ tốn khoan thai; không nên thô động, gấp rút. Tuy đây là một điểm nhỏ, song ngay ở việc nhỏ, vi tế ấy bạn học cách điều hòa thân và tâm. Ở trong thiền đường, dù cho có rất nhiều người tham gia, nhưng bạn không bao giờ nghe tiếng động lào xào, huyên náo. Ai ai cũng chuyên ý vào câu thoại đầu để dụng công.

 


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Bí Quyết Khống Chế Vọng Tưởng

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Bí Quyết Khống Chế Vọng Tưởng



Vạn Phật Thánh Thành mỗi năm đều có tổ chức vài Thiền-thất, mỗi thất là bảy ngày. Trước lễ vía A-Di-Ðà thì có một Phật-thất (7 ngày), rồi sau đó là liên tiếp ba Thiền-thất (21 ngày). Hằng năm, những người đến dự Thiền-thất đều tham gia từ đầu đến cuối, khiến công đức được viên mãn. Năm nay, hy vọng quý vị đến tham gia cũng giữ sự chung thủy, chẳng thối lui nửa chừng, bỏ Thiền-đường đi mất; bằng không thì công phu sẽ phải bỏ dở, lãng phí thời giờ, chẳng có sở đắc.

Tư thế lúc ngồi cần phải ngay ngắn, thẳng lưng. Ðầu phải thẳng, không cúi xuống, không ngửa lui, không nghiêng trái, không quẹo phải. Sau đó, bắt tréo hai chân theo thế kiết-già-lấy chân trái bỏ lên đùi phải, kế đó lấy chân phải bỏ lên đùi trái-đó là tiêu chuẩn. Bởi vì tư thế kiết-già phu tọa khiến chúng ta dễ nhập Ðịnh, cho nên còn gọi là thế hàng ma tọa, thế kim-cang tọa, hay thế liên hoa tọa. Tư thế này có thể giúp tiêu trừ nghiệp chướng trong vô lượng kiếp, khiến liễu sanh thoát tử, tạo được vô lượng công đức.

Lúc bắt đầu ngồi Thiền, quý vị cần phải luyện tập tư thế căn bản này. Kế đến, quý vị hãy điều chỉnh thân thể-mắt nhìn xuống chót mũi, từ mũi nhìn xuống miệng, từ miệng nhìn xuống tâm. Ðó là bí quyết để khống chế vọng tưởng. Sau đó mới điều hòa hơi thở-đừng mau, đừng chậm-hãy thở một cách tự nhiên. Lúc này quý vị mới tham cứu câu "Ai là kẻ niệm Phật?" Trải qua một thời gian lâu dài, việc tham Thiền sẽ có tác dụng.

Việc dụng công tham Thiền cũng giống như "gà mẹ ấp trứng" vậy. Gà mẹ lúc nào cũng nghĩ đến gà con, cứ chuyên tâm hết lòng ấp trứng. Chẳng phải ấp được năm phút là chạy đi, rồi một lúc sau lại trở về ấp tiếp, ấp chưa tới năm phút lại chạy mất...; bởi làm như vậy thì vĩnh viễn không bao giờ trứng nở ra gà con đặng. Tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải dụng công miên mật. Ðừng sợ đau lưng, đừng sợ nhức chân, đừng sợ khổ cực, đừng sợ gian nan. Hãy một lòng một dạ tham Thiền. Tham cái gì? Tham câu "Niệm Phật là ai?" Tham cho tới khi "sông cạn, núi cùng, nước dừng, đá hiện" thì lúc đó mới khai ngộ được.

Tham Thiền lại cũng giống như "rồng ấp ủ hạt châu." Rồng lúc nào cũng ôm giữ bảo châu, chẳng hề lơ là hoặc không cẩn thận chú ý. Vì vậy, hạt châu ngày một sáng, còn rồng thì ngày đêm canh giữ hạt châu. Người tham Thiền cũng phải như thế-trong mỗi phút mỗi giây đều không khởi tạp niệm. Cổ nhân nói:

"Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện."

Nghĩa là khi một niệm không sanh khởi thì chân tâm, Phật-tánh hiện bày. Cũng có thể nói rằng:

"Vọng niệm bất sanh, toàn thể hiện."

Hễ vọng niệm không sanh khởi thì lúc ấy toàn thể sẽ hiện rõ. Khi ngừng bặt vọng tưởng, quý vị sẽ có cơ hội thành tựu.

Người tham Thiền không nên nghĩ đến việc thành Phật, đừng để tâm tới chuyện khai ngộ, cũng chớ nghĩ tới chuyện đắc trí huệ. Cứ nỗ lực dụng công, cần cù chăm chỉ tu hành. Khi thời gian chín muồi thì sẽ khai ngộ. Ở trong Thiền-đường, quý vị cứ ngồi Thiền, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi tiếp... Cứ như vậy, tu một thời gian lâu dài thì quý vị sẽ có cơ hội thành tựu, bởi vì "cửu tọa hữu Thiền," ngồi lâu thì sẽ có Thiền.

Tham Thiền lại cũng giống như "mèo rình chuột." Mèo phải định thần chú ý rình tại ổ chuột, chờ chuột chui ra là chụp ngay. Mèo không thể giải đãi; hễ tâm tán loạn thì không còn chú ý đặng. Người tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải giữ chặt chánh niệm, không được sanh vọng niệm. Ðó là kiến thức vào Ðạo sơ cấp nhất của việc tham Thiền.

Người tu Ðạo chớ xuống Nam-sơn cũng chớ lên Bắc-hải mà tìm Ðạo. Ðạo vốn ở ngay thân ta. Nếu quý vị có thể ngồi kiết-già phu tọa, chuyên tâm chú ý tham Thiền, thì đó là Ðạo. Không nên có tâm thích chuyện cao siêu diệu vợi, hướng tâm ra ngoài tìm Ðạo; vì như thế thì vĩnh viễn không tìm ra được đâu. Nếu quý vị bỏ cái gần kề để chạy đi tìm cái xa xôi, thì tới đâu quý vị cũng gặp toàn chuyện khó khăn, phiền toái. Ðó là tự mình chuốc lấy rắc rối, tự mình rước khổ vào thân!

(Thiền-thất, 12/1980)


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.37 khách