Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/ ... ep-Theo-3/
Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Tất cả chúng sinh không lường được
Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu
Ý vui rộng lớn không cùng tận.

‘’ Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới. Bổn lai không nhiều, không ít, không lớn, không nhỏ. Vậy còn có cảnh giới gì ? Nếu nói có cảnh giới tức là chấp trước tướng, cho nên nói không nghĩ bàn tức là chẳng có cảnh giới.
Các pháp không tướng tức là cảnh giới của Phật. Các pháp không tướng là gì ? Cảnh giới này từ hàng Bồ Tát cho đến chúng sinh địa ngục, chúng sinh chín pháp giới này, chẳng có một giới chúng sinh nào biết được, chỉ có Phật mới biết được.
Trong bổn Kinh này có nói :

"Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không".


Tức là nói nếu muốn biết cảnh giới của Phật, trước hết phải quét sạch rác rến trong tâm của mình cho thanh tịnh, không còn sự phân biệt giống như hư không, thì mới biết được cảnh giới của Phật.

Cảnh giới của Phật là gì ? Tức là hư không. Không vô sở không, sở không cũng không, đó tức là cảnh giới của Phật.
‘’ Tất cả chúng sinh không lường được.’’ Ðạo lý của các pháp không tướng, tất cả chúng sinh không dò được, không hiểu được, không thấu suốt được, không rốt ráo được, cho nên nói tất cả chúng sinh không lường được.

‘’ Khiến cho tâm họ sinh tin hiểu.’’ Ðức Phật khiến cho tất cả chúng sinh sanh tâm tin hiểu. Học Phật pháp có bốn giai đoạn. Tức là : Tín, giải, hạnh, chứng (tin, hiểu, thực hành và chứng ngộ). Trước hết phải tin. Tin các pháp do đức Phật nói ra, tin Tam Tạng mười hai bộ là chân thật nghĩa. Có tâm tin rồi mới nghiên cứu Phật lý, thấu hiểu rồi, mới y theo những gì Phật nói mà tu hành, từ từ sẽ chứng được quả vị.
‘’ Ý vui rộng lớn vô cùng tận.’’ Phật lấy sự lợi ích của chúng sinh làm ý vui, bao quát hết thảy cho nên rộng lớn không cùng tận. Ðó là kệ của vị Khả Ái Lạc Pháp Quang Minh Tràng Thiên Vương tán thán chư Phật.

Nếu ai thọ được pháp của Phật
Phật dùng thần lực khai đạo họ
Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền
Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.

‘’ Nếu ai thọ được pháp của Phật.’’ Giả sử, có một loài chúng sinh nào, có thể tiếp thọ được pháp của Phật, tức cũng là trình độ có thể gần tiếp thọ được pháp.
‘’ Phật dùng thần lực khai đạo họ.’’ Phật xử dụng đại oai thần lực, để gia bị cho họ, khiến cho họ tiến từng bước từng, bước trên con đường Phật pháp. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện, để dẫn dụ chúng sinh, khiến cho họ đi trên bồ đề đại đạo. Nếu pháp này không thành tựu, thì đổi pháp khác, khi nào họ tiếp thọ được thì thôi. Khiến cho chúng sinh, từ ngu si đắc được trí huệ, từ trí huệ đắc được giác ngộ. Giác ngộ cái gì ? Giác ngộ pháp thế gian là khổ, pháp xuất thế gian là vui, do đó lìa khổ được vui, đó tức là khai đạo.
‘’ Khiến cho thường thấy Phật hiện tiền.’’ Làm cho chúng sinh thường thấy được phật, không những mở mắt thấy được chân thân của Phật, mà nhắm mắt cũng thấy được kim thân của Phật. Tóm lại, là luôn luôn đều thấy Phật ở trước mắt, luôn luôn vì họ mà thuyết pháp.
‘’ Nghiêm Hải Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Thanh Tịnh Trang Nghiêm Hải Thiên Vương thấy được.
Oai thần lực của Phật là không thể nghĩ bàn, chúng ta phàm phu, chẳng có cách chi có thể hiểu được, cho nên bây giờ chúng ta vẫn còn là phàm phu, không hiểu thấu được cảnh giới của Phật. Nhưng Phật hiểu được tâm của chúng sinh. Bất cứ trong tâm tưởng gì ? Phật đều biết. Kinh Kim Cang có nói :

"Tất cả chúng sinh có những tâm gì,
Như Lai đều biết đều thấy".


Nghĩa là tất cả hết thảy chúng sinh, không màng có bao nhiêu thứ tâm, Phật hoàn toàn biết bạn đang nghĩ gì ? Thích gì ? Chán bỏ cái gì ? Phật đều nhìn thấy rõ ràng.

Tất cả pháp tánh không chỗ nương
Phật hiện ra đời cũng như thế
Hết thảy các cõi không chỗ tựa
Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.

‘’ Tất cả pháp tánh không chỗ nương.’’ Tất cả pháp tánh vốn là không, không chẳng chỗ có. Vì là không cho nên không cần nương tựa, chẳng có nương tựa chỗ nào hết.
‘’ Phật hiện ra đời cũng như thế.’’ Phật hiện ra trong thế gian, cũng giống như pháp tánh, là không. Không cái gì ? Không tất cả đều có. Nếu không có cái có, làm sao có cái không ?

‘’ Hết thảy các cõi không chỗ tựa.’’ Khắp trong hết thảy các cõi không chỗ nương tựa. Phật là không, không tất cả cõi, không nương tất cả các cõi. Phật là vô tướng, giáo hóa chúng sinh không có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Còn bốn tướng này là chúng sinh, không còn bốn tướng này là Phật. Cho nên Phật dạy chúng sinh phá trừ bốn tướng, chẳng chấp trước bốn tướng, mới có thể giác ngộ.
‘’ Nghĩa này Thắng Trí quán sát được.’’ Nghĩa lý này vị Tối Thắng Huệ Quang Minh Thiên Vương quán sát được cảnh giới này, hiểu được đạo lý này.

Tùy tâm sở thích của chúng sinh
Phật dùng thần lực để thị hiện
Hết thảy khác nhau không nghĩ bàn
Môn giải thoát này Trí Tràng biết.

‘’ Tùy tâm sở thích của chúng sinh.’’ Phải tùy thuận tâm chúng sinh, phải tùy thuận sở thích của chúng sinh, phàm là chúng sinh có mong cầu gì, đều khiến cho họ được như ý.
Mười hạnh nguyện lớn của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra, là tùy sở thích của tâm chúng sinh. Mười hạnh nguyện lớn là :
1. Kính lễ các đức Phật.
2. Khen ngợi Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường.
4. Sám hối nghiệp chướng.
5. Tùy hỷ công đức.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp.
7. Thỉnh Phật ở lại đời.
8. Thường học theo Phật.
9. Luôn thuận chúng sinh.
10. Hồi hướng khắp hết.

1. Lễ kính chư Phật : Lễ có bảy thứ :

a. Ngã mạn lễ.
b. Cầu danh lễ.
c. Cung kính lễ.
d. Vô tướng lễ.
e. Khởi dụng lễ.
f. Nội quán lễ.
g. Thật tướng lễ.


Khi nào giảng đến phẩm này, thì sẽ giải thích cặn kẽ.
Trong sự lễ có một thứ lễ "ngã mạn lễ". Tức là khi lạy xuống thì tâm không quán tưởng, không nghĩ ta đang lễ mười phương Phật, lễ mười phương Pháp, lễ mười phương Tăng. Thân cũng chẳng cung kính, chỉ là hình thức mà thôi, là việc phô diễn, cẩu thả, không thành tâm, không trang nghiêm.
Phải lễ như thế nào ? Phải nên thân tâm cung kính lễ. Trong tâm quán tưởng ta đang lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng. Tư thế thân lạy phải tự nhiên, năm thể (đầu, hai tay, hai chân) phải đụng đất, như thế mới có công đức.
2. Khen ngợi Như Lai : Tức là khen ngợi công đức mười phương Như Lai, đem công đức của Phật nói cho chúng sinh nghe, tốt đẹp như thế nào ! Trang nghiêm ra sao ! Khen ngợi tán thán lợi ích của Như Lai, trừ được chướng ác khẩu đắc được biện tài vô ngại.
3. Rộng tu cúng dường : Tức là phải luôn luôn cúng dường Tam Bảo, cúng dường tài vật là tu phước, cúng dường pháp là tu huệ. Phước huệ đều đủ mới có công đức.
4. Sám hối nghiệp chướng : Tức là đem tội lỗi của mình nói ra hết, do đó :

"Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu".

Những tội lỗi đã tạo trong quá khứ phải thật tâm hối cải, mới mong cứu được. Ðó là cho chúng sinh cơ hội sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới. Người xưa nói:

"Người chẳng phải Thánh Hiền,
Ai mà chẳng có tội,
Có tội mà biết cải,
Còn việc thiện nào hơn" !

5. Tùy hỷ công đức : Tức là tùy thuận vui vẻ tất cả công đức pháp lành. Phật thuyết pháp độ chúng sinh, công đức dạy người không mỏi mệt, chúng ta phải tùy hỷ. Công đức của Phật vì pháp mà xả thân cũng phải tùy hỷ. Thậm chí công đức của Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn .v.v., cũng phải tùy hỷ.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp : Tức là chúng sinh thỉnh Phật nói diệu pháp. Ðức Phật vào Niết Bàn rồi thì, chúng sinh thỉnh đại thiện trí thức, đại pháp sư để chuyển bánh xe pháp, tiếp nối huệ mạng của Phật.
7. Thỉnh Phật ở lại đời : Tức là thỉnh mười phương chư Phật và các đại Bồ Tát, các đại A La Hán, các đại thiện tri thức đừng vào Niết Bàn, vì lợi lạc chúng sinh mà ở lại đời.
8. Thường học theo Phật : Tức là thường học theo hạnh của Phật. Mỗi cử chỉ hành động của đức Phật đều là quy cụ, không những phải học theo lời dạy của Phật (ngôn giáo) mà còn phải học theo oai nghi cử chỉ của Phật (thân giáo). Ngôn giáo (lời dạy) là Kinh điển, thân giáo là giới luật.
9. Luôn thuận chúng sinh : Tức là thường tùy thuận căn tính của chúng sinh, khiến cho họ đắc được lợi ích, khiến cho họ đắc được thành tựu. Cúng dường chúng sinh, khiến cho họ hoan hỷ, lấy chúng sinh đáng làm cha mẹ để cung kính, lấy chúng sinh đáng làm chư Phật để cung kính.
10. Hồi hướng khắp hết : Tức là đem tất cả căn lành công đức của mình tu được, hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình không cần. Bất cứ pháp hội gì, cuối cùng nhất định phải hồi hướng. Do đó :‘’ Nguyện đem công đức này, hướng vế khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.’’
‘’ Phật dùng thần lực để thị hiện.’’ Trong tâm của chúng sinh thích gì thì đều được như ý. Phật đại từ đại bi dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh đạt được nguyện vọng, không làm cho chúng sinh thất vọng. Tóm lại, phàm là sự mong cầu chánh đáng, đức Phật nhất định có cảm ứng. Chúng sinh mong cầu gì ? Phật bèn thị hiện cái đó.
‘’ Hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.’’ Tất cả tâm chúng sinh đều không giống nhau. Có những người có tín tâm đối với Phật pháp, có những người chẳng có tín tâm đối với Phật pháp. Có những người bán tín bán nghi đối với Phật pháp. Có người vì nghe Kinh điển, cảm thấy có đạo lý mà sinh tín tâm, do đó đến nghiên cứu Phật pháp. Có người nghe Kinh như gió ngoài tai, qua rồi chẳng lưu lại, quên hết tất cả. Có người nghe Kinh thì khởi vọng tưởng, tưởng đi du lịch đến cung trăng. Có người nghe Kinh thì sinh chấp trước, đây là ta, đó là họ, Kinh này là Kinh đời nhà Tấn, Kinh nọ là Kinh đời nhà Ðường, đó là tâm phân biệt. Những người này đều có tư tưởng khác nhau, suy nghĩ khác nhau, cho nên nói hết thảy khác biệt không nghĩ bàn.
‘’ Môn giải thoát này Trí Tràng biết.’’ Nhiều thứ cảnh giới khác nhau, chẳng có cách chi hiểu được, nhưng vị Vua Trời Tự Tại Trí Huệ Tràng này đắc được pháp môn giải thoát này.

Tất cả cõi nước trong quá khứ
Ðều thị hiện trong lỗ chân lông
Ðó là thần thông của chư Phật
Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.

‘’ Tất cả cõi nước trong quá khứ.’’ Quá khứ chẳng có quá khứ, hiện tại chẳng có hiện tại, vị lai chẳng có vị lai, đó là đạo lý trong Kinh Kim Cang nói. Kinh văn nói như vầy :


"Tam tâm liễu bất khả đắc,
Quá khứ tâm bất khả đắc,
Hiện tại tâm bất khả đắc,
Vị lai tâm bất khả đắc".


Sao lại nói tâm quá khứ không thể được ? Vì quá khứ đã qua rồi, qua rồi thì chẳng có, cho nên nói :‘’ Quá khứ tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm hiện tại không thể được ? Vì hiện tại thì không ngừng lại, nói bây giờ là hiện tại, nói xong cũng qua rồi, thời gian không thể ngừng lại bất động cho nên nói ‘’ Hiện tại tâm bất khả đắc.’’
Sao lại nói tâm vị lai không thể đắc được ? Vì vị lai thì chưa đến, không có đến cũng không thể được, cho nên nói : ‘’ Vị lai tâm bất khả đắc.’’

Do đó :

"Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ quán yếu minh kim dã hóa".


Tạm dịch :


Ba tâm không thấu nước khó tiêu
Năm quán tỏ rõ vàng cũng tiêu hoá được.

Nghĩa là nói : Nếu tồn tại tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, dù thí chủ cúng dường một ly nước trà, cũng không tiêu thọ được, càng không cách chi tiêu hóa được tách trà. Nếu hiểu được đạo lý năm quán niệm thì dù vàng cũng tiêu hóa được.
Năm quán là gì ? Tức là khi ăn Quá đường thì phải niệm năm quán niệm :


1. Tính xem công bao nhiêu, thức ăn từ đâu đến ?
2. Xem xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ, để nhận đồ cúng dường.
3. Phòng ngừa tâm tạo tội, tham là gốc.
4. Thức ăn là thuốc hay, chữa được bệnh khô gầy.
5. Vì thành đạo nghiệp mới dùng cơm này.


Người xuất gia khi ăn cơm, thì phải quán tưởng năm điều này, mới thọ sự cúng dường.
‘’ Ðều thị hiện trong lỗ chân lông.’’ Tất cả các cõi Phật trong quá khứ, tuy nhiên là vô lượng vô biên, nhưng trong một lỗ chân lông thị hiện ra các cõi Phật.
Có người nói : ‘’ Ðạo lý này tôi không tin.’’ Ðương nhiên bạn không tin, vì bạn là phàm phu. Nếu bạn tin thì minh bạch được cảnh giới của Phật. Vì căn lành của bạn không đủ, gặp được Phật pháp chân chánh, nghe được Phật lý chân chánh, còn không tin. Vì sao không tin ? Vì nghiệp chướng quá nặng, nghiệp chướng quá sâu ! Cho nên bạn không tin Phật pháp là thuốc hay cứu đời cứu người.

Ma vương mong muốn chúng sinh đừng tin Phật pháp, vì sao ? Nếu chúng sinh tin Phật pháp, thì quyến thuộc của chúng bớt đi, cho nên Ma vương phái con ma cháu ma phá hoại Phật pháp, thấy người tu hành thành tựu, thì chúng bèn đến dẫn dụ, đến uy hiếp. Ðịnh lực của người tu hành không đủ, thì dễ tẩu hỏa nhập ma, chịu sự khống chế của chúng. Cho nên người tu đạo phải chú ý, phải cẩn thận, bất cứ cảnh giới gì hiện ra, tốt cũng đừng chấp trước, xấu cũng đừng chấp trước, căn bản tâm đừng lay động. Lúc này phải một lòng một dạ, niệm danh hiệu của Phật, cảnh giới thật càng niệm càng sáng sủa, càng niệm càng rõ ràng ; nếu là cảnh giới giả, càng niệm càng đen tối, càng niệm càng lờ mờ. Ðó là phương pháp Kinh nghiệm thật giả.

Cảnh giới ảo diệu bất khả tư nghì này, bạn không cách chi thấu hiểu được. Ðợi khi nào có ngũ nhãn lục thông, thì mới biết là việc rất bình thường, chẳng có gì là lạ. Giống như hai mươi năm về trước, có người nói con người có thể lên mặt trăng, tương lai có thể du hành đến mặt trăng, bạn sẽ cho rằng đó là thần thoại. Bây giờ thực hiện được, mọi người đều tin. Trong một lỗ chân lông, hiện ra cõi nước chư Phật cũng là đạo lý này.
‘’ Ðây là thần thông của chư Phật.’’ Tức là đại thần thông lực của mười phương chư Phật, mới hiện ra được cảnh giới này.

Phật giáo lấy pháp giới làm tánh, ai cũng chạy không ra khỏi ngoài pháp giới. Tất cả các tôn giáo, đều bao dung ở trong Phật giáo. Nhất là bộ Kinh Hoa Nghiêm này, chỗ diệu dụng là lấy pháp giới làm tông, chuyên nói về đạo lý, lý sự vô ngại trong pháp giới.
‘’ Ái Lạc Tịch Tĩnh diễn nói được.’’ Thần thông lực của Phật là tận hư không khắp pháp giới. Vị Ái Lạc Tịch Tĩnh Thiên Vương diễn nói được đạo lý này.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Tất cả biển pháp môn vô tận
Ðồng vào một pháp trong đạo tràng
Ðó là pháp tánh của Phật nói
Trí Nhãn thấu được phương tiện này.

‘’ Tất cả biển pháp môn vô tận.’’ Tất cả pháp tức là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, lại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, là vô lượng vô biên, trùng trùng vô tận, cho nên nói tất cả biển pháp môn vô tận.
‘’ Ðồng vào một pháp trong đạo tràng.’’ Pháp môn có rất nhiều không thể nói, bây giờ đem dung vào thành một pháp môn. Tức cũng là vô lượng pháp môn nhiếp làm một pháp môn, một pháp môn tán làm vô lượng pháp môn, cho nên nói đồng vào một pháp trong đạo tràng.
‘’ Ðó là pháp tánh của Phật nói.’’ Pháp này một tức là nhiều, nhiều tức là một. Một nhiều vô lượng, một nhiều vô ngại, pháp tính này là Phật Thích Ca Mâu Ni nói.
‘’ Trí Nhãn thấu được phương tiện này.’’ Phổ Trí Nhãn Thiên Vương đắc được môn giải thoát : biển tam muội vô tận này, cho nên vị này thấu rõ phương tiện pháp môn này.

Tất cả cõi nước trong mười phương
Ðều ở trong đó mà thuyết pháp
Thân Phật không đến cũng không đi
Ðây là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.

‘’ Tất cả cõi nước trong mười phương.’’ Trên thế giới không những chỉ có thế giới Ta Bà, mà còn có mười phương thế giới, mỗi phương lại có vô lượng vô biên thế giới. Do đó, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới, cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước.
‘’ Ðều ở trong đó mà thuyết pháp.’’ Trong tất cả cõi nước chư Phật mười phương, trong mỗi cõi nước đều có Phật Thích Ca Mâu Ni, đang thuyết pháp ở trong đó, đang giáo hóa chúng sinh ở trong đó.
’ Thân Phật không đến cũng không đi.‘’ Ở trong mỗi thế giới này đều có Phật đang nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật. Phải chăng thân Phật đi đến mỗi thế giới ? Chẳng phải, vì thân Phật không đến cũng không đi.
Trong Kinh Kim Cang nói :

"Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ,
Cố danh Như Lai".



Nghĩa là :


Bậc Như Lai,
Không từ đâu đến,
Cũng không về đâu,
Nên gọi Như Lai.


‘’ Ðó là cảnh giới Lạc Huệ Toàn.’’ Ðây là cảnh giới của vị Ái Lạc Huệ Toàn Thiên Vương biết rõ được, cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn. Người không hiểu Phật pháp, cho rằng Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, là bộ Kinh đại vọng ngữ, thật ra đạo lý của Kinh này nói là lý chân thật, ngàn chân vạn thật, bất quá chúng ta phàm phu chưa đạt được cảnh giới này, cho nên không hiểu được cảnh giới này.

Phật quán thế pháp như hình bóng
Vào nơi thâm sâu tối u ám
Nói các pháp tánh thường tịch nhiên
Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.

‘’ Phật quán thế pháp như hình bóng.’’ Phật quán sát pháp thế gian như hình như bóng, không thường, không thật. Trong Kinh Kim Cang nói :

"Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bọt bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên quán sát như thế".


‘’ Vào nơi thâm sâu tối u ám.’’ Tức nhiên pháp thế gian không thường, không thật, là hư vọng. Nhưng Phật đến nơi thâm sâu đen tối không thể nghĩ bàn, ở trong thế gian để hoằng dương Phật pháp.
‘’ Nói các pháp tánh thường tịch nhiên.’’ Phật nói các pháp là tướng tịch diệt, không thể diễn nói. Tức là nói không ra, đó là pháp tánh tịch diệt.
‘’ Thiện Chủng Tư Duy thấy môn này.’’ Vị Thiện Chủng Tư Duy Thiên Vương, thấy được cảnh giới này, hiểu được pháp môn này.

Phật khéo biết rõ các cảnh giới
Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ
Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường
Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.


‘’ Phật khéo biết rõ các cảnh giới.’’ Phật không có gì mà không biết, không có gì mà không làm được, không có chỗ nào mà không đến, không có gì mà không thông. Phật biết rõ tất cả cảnh giới, tất cả căn tánh của chúng sinh.
‘’ Tùy tâm chúng sinh mưa pháp vũ.’’ Căn tính chúng sinh giống như cây cỏ hoa lá, rễ lớn thì hút lượng nước mưa nhiều, rễ nhỏ thì hút lượng nước mưa ít. Chúng ta chúng sinh cũng như thế, chúng sinh căn lành sâu dày, thì đắc được mưa pháp của Phật nhiều một chút, chúng sinh căn lành cạn cợt thì đắc được mưa pháp của Phật ít hơn một chút.
‘’ Nói pháp xuất thế khó nghĩ lường.’’ Vì mở bày diệu pháp không thể nghĩ bàn, đó là pháp môn xuất thế quan trọng hơn hết.
‘’ Môn này Tịch Tĩnh Thiên ngộ được.’’ Vị Vô Cấu Tịch Tĩnh Quang Thiên Vương minh bạch được cảnh giới này.

Thế Tôn thường dùng đại từ bi
Lợi ích chúng sinh hiện ra đời
Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy
Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.

‘’ Thế Tôn thường dùng đại từ bi.’’ Phật là đấng chí tôn, Ngài thường dùng tâm đại từ đại bi, để giáo hóa chúng sinh, bất cứ chúng sinh có sai lầm gì, Phật cũng đều tha thứ, cho nên nói Thế Tôn thường dùng đại từ bi.
‘’ Lợi ích chúng sinh hiện ra đời.’’ Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên mới xuất hiện ra đời, hiện tám tướng thành đạo ở thế giới Ta Bà.
‘’ Mưa pháp cam lồ nhuận hết thảy.’’ Phật là bình đẳng nhất, chẳng có quan niệm phân biệt, về giai cấp, về chủng tộc, về quốc tịch. Ngài thuyết pháp thì tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Bồ Tát thì đắc được lợi ích của Bồ Tát, A La Hán thì được lợi ích của A La Hán. Tu pháp đại thừa thì đắc được lợi ích đại thừa, tu tiểu thừa thì được lợi ích tiểu thừa, hết thảy đều có lợi ích khác nhau. Giống như bồn đựng nước, bồn lớn thì chứa nhiều nước một chút, bồn nhỏ thì chứa ít nước một chút.
‘’ Thanh Tịnh Quang Thiên diễn nói được.’’ Vị Quảng Ðại Thanh Tịnh Quang Thiên Vương diễn nói được cảnh giới này.
Ở trên là mười bài kệ của mười vị Quảng Quả Thiên Vương, trời Tứ Thiền thuộc về sắc giới, nói để tán thán công đức của Phật.

Lại nữa, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, thấu rõ phương tiện, con đường giải thoát cho tất cả chúng sinh.

Ý nghĩa ở trước chưa nói hết, bây giờ nói tiếp theo, khiến cho mọi người càng minh bạch càng hiểu rõ.
Vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, thuộc về cõi trời Biến Tịnh, trong cõi sắc giới trời Tam Thiền (cõi trời thứ chín thuộc về sắc giới). Vị này có trí huệ thanh tịnh, ở trong các Thiên Vương, vị này rất có danh vọng được mọi người tôn làm lãnh tụ để chỉ đạo tất cả. Vị này ngộ được Tam muội gọi là : Thấu đạt tất cả đạo giải thoát của chúng sinh. Vị này hiểu rõ chúng sinh trong chín pháp giới. Bồ Tát là chúng sinh đại đạo tâm. Duyên Giác là chúng sinh trung đạo tâm. Thanh Văn là chúng sinh tiểu đạo tâm. Thiên đạo, nhân đạo, A tu la là chúng sinh trong ba đường lành. Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục là chúng sinh trong ba đường ác. Ðó là chúng sinh trong chín pháp giới, mỗi loài đều có nhân, có quả của mỗi loài.
Do đó trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tức là trồng nhân lành kết quả tốt, trồng nhân ác kết quả xấu. Trong bổn Kinh này có nói :

‘’ Nếu ai muốn biết rõ,
Hết thảy Phật ba đời,
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo.’’

Vạn pháp đều từ tâm tạo ra. Người xưa nói :

"Tâm sinh vạn pháp sinh,
Tâm diệt vạn pháp diệt".

Bây giờ phân tích chữ "Tâm" này, ý nghĩa đại khái là :

"Tam điểm như tinh bố,
Loan quân tự nguyệt nhạ,
Phi mao tùng thử khởi,
Tác Phật dã do tha".


Tạm dịch :


Ba điểm bày như sao
Uốn cong tợ trăng non
Mang lông khởi từ đây
Thành Phật cũng do nó.


Ba điểm chữ tâm, giống như sao bày la liệt trên bầu trời. Chữ tâm, cong giống như hình trăng non mồng ba. Làm trâu bò, ngựa dê đều từ tâm tạo ra ; thành Phật làm Tổ cũng từ tâm tạo ra. Cho nên nói :‘’ Mười pháp giới không ngoài một niệm tâm.’’ Mười pháp giới này do mình lựa chọn. Muốn đến pháp giới nào, thì làm nghiệp pháp giới đó. Tạo ra nghiệp pháp giới nào, thì vãng sinh về pháp giới đó, đó thật là tuyệt đối công bằng.
Tâm của chúng ta không ổn định, giống như hạt bụi trong hư không, lúc cao, lúc thấp, lúc trái, lúc phải, lúc lên trời, lúc xuống đất, lúc cõi Phật, lúc nhân gian.

Lại có lối giải thích khác về tâm :

‘’ Thao chi tắc tồn, xả chi tắc vong,
Xuất nhập vô thời, mạc chi kỳ hướng.’’

Nghĩa là : Giống như một con ngựa, dắt nó thì nó không chạy ; nếu không dắt nó thì nó chạy. Tâm của chúng ta cũng như thế, tiết chế nó, xem giữ nó thì nó ở, không tiết chế, không xem giữ nó thì nó chạy. Cho nên người tu hành tức là tu tâm. Luôn luôn niệm Phật, luôn luôn tham thiền. Tu hành như vậy thì tâm không chạy đi, do đó ‘’ Tâm viên ý mã,’’ tâm không an tĩnh giống như con khỉ, chạy nhảy lăn xăn. Ý không an phận giống như con ngựa, chạy rong bên ngoài. Hai loài súc sinh này khó điều phục được. Chúng ta hằng ngày khởi vọng tưởng, tức là tâm chạy bên ngoài ; niệm Phật tham thiền là pháp môn duy nhất khống chế tâm ý tại một chỗ.
Xuất nhập vô thời : Tức là tâm ra đi lúc nào ? Lúc nào trở về ? Ðều không biết. Mạc tri kỳ hướng : Khi tâm ra đi thì không biết tâm đi về đâu ? Khi đến cũng không biết đến đâu ?
Vị Thiên Vương này thấu đạt được tâm của tất cả chúng sinh, biết cách làm thế nào để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu rõ sự giải thoát. Cho nên vị này dùng đủ thứ phương tiện, khiến cho chúng sinh đắc được môn giải thoát xuất thế.

Tối Thắng Kiến Thiên Vương được môn giải thoát, khắp thị hiện như hình bóng, tùy sự ưa thích của tất cả chúng chư Thiên.

Vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương này, kiến giải nhạy bén phi thường, chính xác phi thường. Vị này đắc được môn giải thoát, khắp thị hiện tùy sự ưa thích của tất cả Thiên chúng như hình như bóng.
Có hình thì có bóng, có bóng mới có hình, hình là ánh sáng, bóng là đen tối. Hình tức là mặt trăng, mặt trăng trong nước tức là bóng. Mặt trăng chẳng đến, nước cũng chẳng đi, đó đây hổ tương chiếu soi, mà sinh ra bóng này.
Lại giống như gương sáng, nếu có vật rọi vào thì hình xuất hiện, vì quan hệ có sáng thì mới hiện ra bóng. Cho nên ánh sáng bóng này thị hiện khắp. Giống như đạo lý một ngàn vũng nước, đều có ngàn mặt trăng trong nước. Bổn thể của mặt trăng chẳng đến trong nước, nó chỉ có một, chỉ cần ngàn vũng nước thì hiện ra ngàn mặt trăng trong nước. Vạn vũng nước thì có vạn mặt trăng trong vũng nước. Bất cứ vũng nước lớn hoặc nhỏ, chỉ cần chỗ nào có nước, thì đều hiện ra bóng mặt trăng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, là bình đẳng.
Phật và chúng sinh cũng như thế. Phật tương tợ như mặt trăng, tâm chúng sinh giống như nước. Tâm nước của chúng sinh thanh tịnh thì hiện Phật quang minh ; tâm nước của chúng sinh không thanh tịnh, thì không hiện Phật quang minh. Trong bổn Kinh này nói :

"Bồ Tát thanh lương nguyệt,
Thường du tất kính không,
Chúng sinh tâm cấu tịnh,
Bồ đề ảnh hiện trung".


Tạm dịch :


Bồ Tát như trăng sáng
Thường lơ lửng trên trời
Tâm chúng sinh trong sạch
Bóng bồ đề hiện ra.


Quang minh của Phật, giống như mặt trăng sáng mát mẻ ở không trung, hiện ra ở trong tất kính không, nếu tâm nước chúng sinh thanh tịnh thì, bồ đề giác đạo tùy thời hiện bóng ở trong tâm.

Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương được môn giải thoát, đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật.

Vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương này, có đức tịch tĩnh. Ðức tịch tĩnh là gì ? Tức là có công phu thiền định. Vị này không những có công phu thiền định, mà còn khiến cho chúng sinh, cũng có công phu thiền định. Phàm là chúng sinh thấy được vị này, đều sinh ra thứ định tâm này. Vị này cũng khiến cho chúng sinh, tinh tấn tu thiền định. Lâu dần tích tụ được vô lượng vô biên công đức, có đức tịch tĩnh, cho nên xưng là Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương.
Môn giải thoát của vị này đắc được gọi là : đại phương tiện trang nghiêm thanh tịnh, khắp tất cả cảnh giới của Phật. Vị Thiên Vương này trong khoảng một niệm, có thể trang nghiêm khắp cõi Phật trong mười phương. Ðồng thời, đó đều là trang nghiêm tốt đẹp thù thắng, và thanh tịnh hết thảy tất cả cảnh giới của Phật, lại có thể trang nghiêm thần thông tất cả cõi Phật trong mười phương, và vị này lại có thể hiển hiện cảnh giới này làm đại phương tiện.
Ðại phương tiện là gì ? Tức là phương tiện trong sự bất phương tiện. Bổn lai pháp phương tiện này không thể dùng, nhưng vị này dùng được phương tiện này, không những dùng được mà còn không chướng ngại.

Tu Di Âm Thiên Vương được môn giải thoát, tuỳ thuận các chúng sinh, vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử.

Vị Tu Di Âm Thiên Vương này. Tu Di dịch là "Diệu cao", âm thanh của vị này rất vi diệu, ở cõi trời Ðao Lợi đều nghe được. Môn giải thoát của vị này đắc được là : tùy thuận chúng sinh. Chúng sinh thích gì ? Thì đều làm cho họ thỏa mãn nguyện vọng, làm cho họ được toại nguyện. Nhưng sự mong muốn của chúng sinh chẳng giống nhau.
Nguyện vọng của A La Hán là tự độ mà không độ người, do đó :‘’ Ma Ha Tát bất quản tha, Di Ðà Phật các cố các.’’ Chỉ lo cho mình liễu sinh thoát tử, không muốn đi cứu vớt sự khổ của chúng sinh. Bạn khổ là việc của bạn, chẳng liên can gì đến tôi, tự liễu hán không muốn đi độ chúng sinh.

Dục vọng của chư Thiên là, cứ lo hưởng thụ phước báu, nghĩ đến y phục thì có y phục, nghĩ thức ăn thì có thức ăn. Nghĩ mặc y phục đẹp thì có y phục đẹp, không lớn không nhỏ, vừa vặn thích hợp. Y phục của người trời không những nhẹ nhàng, mà còn không có đường khâu, không bao giờ cần giặt, không dính bụi bặm, sạch sẽ vô cùng. Muốn ăn đồ ngon thì có ngay, có khi nhiều một chút, có khi ít một chút, không giống như thế giới Cực Lạc không nhiều không ít ăn vừa đủ no.
Chư Thiên tuy nhiên sung sướng, nhưng cũng có đau khổ. Ðau khổ gì ? Ðau khổ về sinh tử. Khi phước trời hưởng hết rồi, thì có năm tướng suy hiện ra. Năm tướng suy là gì ?
1. Hoa trên đầu héo : Người trời có mũ bằng hoa, dùng hoa tươi làm thành, hoa này không những không héo, ngược lại ngày càng xanh tươi tốt đẹp. Nhưng đến khi sắp hết tuổi thọ, thì hoa trên đầu khô héo.
2. Y phục dơ bẩn : Y của người trời mặc rất sạch sẽ không dơ bẩn, vĩnh viễn không cần giặt. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì y phục dơ bẩn. Sự dơ bẩn này từ đâu đến ? Là từ nghiệp chướng hiện ra.
3. Hai nách ra mồ hôi : Thân thể người trời không ra mồ hôi, luôn luôn sạch sẽ. Nhưng đến khi tuổi thọ hết, thì hai nách chảy ra mồ hôi, thân thể nhơ nhuốc.
4. Thân thể có mùi hôi : Người trời thân thể luôn luôn có hương thơm, vì người trời tu mười điều lành, và giữ năm giới cấm, cho nên thân cảm ứng có mùi thơm. Nhưng khi tuổi thọ hết rồi, thì thân phát ra mùi thây chết, làm cho người bịt mũi không dám lại gần.
5. Ngồi không yên : Người trời thường tu thiền định, tham thiền đả tọa, công phu sâu dày thì thăng lên, công phu ít thì trầm xuống. Lúc bấy giờ đã phát sinh ra bốn hiện tượng, biết được thọ mạng sắp kết thúc, cho nên ngồi không yên, ngồi xuống lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ như vậy nhiều lần, thọ mạng chấm dứt thì chuyển sinh trong sáu nẻo luân hồi. Ðó là hiện tượng năm tướng suy, phàm là chư Thiên trong tam giới đều có sinh tử, ngay cả Thượng Ðế cũng còn sinh tử.


Dục vọng của A Tu La là muốn được hưởng phước ở trên trời, muốn chư Thiên sớm về nhân gian, để nhường việc trên trời cho chúng quản lý. Chúng còn ham muốn làm lãnh tụ chư Thiên, việc gì cũng muốn tranh đệ nhất, muốn đứng đầu.

Dục vọng của con người là giàu sang danh lợi. Muốn làm quan, muốn phát tài, không cầu danh thì cầu lợi, không thoát ra được vòng danh lợi.
Hoàng đế Càn Long đời nhà Thanh, giá lâm Trấn Giang Kim Sơn Tự, lên chỗ cao để ngắm phong cảnh bèn hỏi Thiền sư Pháp Khánh :‘’ Mỗi ngày sông Trường Giang này có bao nhiêu chiếc thuyền qua lại ? ‘’
- Thiền sư đáp : ‘’ Chỉ có hai chiếc thuyền.’’
- Hoàng đế lại hỏi : ‘’ Hai chiếc thuyền sao ? ‘’
- Thiền sư đáp : ‘’ Phải ! Một chiếc là danh, một chiếc là lợi.’’ Sự tham muốn của con người không bao giờ ngừng, được danh lại muốn được lợi, được lợi rồi lại muốn có danh, đều muốn được cả danh và lợi, do đó :

‘’ Nhân tâm bất túc xà tôn tượng.’’

Nghĩa là : "Tâm con người không biết đủ giống như rắn nuốt voi", làm được Hoàng đế lại muốn sống mãi không chết.

Dục vọng của loài súc sinh : Vừa có lòng tham ngu si và điên đảo. Sở thích của chúng là không làm mà muốn có đồ ăn. Không phấn đấu sinh hoạt. Chúng ta người tu đạo phải học tinh thần loài ong. Chúng hút mật trăm loài hoa về tụ tập một chỗ, meo lên mà thành mật ong, không những lợi mình mà cũng lợi người.
Dục vọng của loài ngạ quỷ là muốn ăn đồ vật, nhưng chẳng có vật gì để ăn ; dù uống nước, nước cũng biến thành lửa. Vì nghiệp chướng quá nặng, cổ họng nhỏ như cây kim, bụng thì to như trống, không có khi nào ăn no, thật đáng thương !

Dục vọng của loài địa ngục là tâm sân hận, luôn luôn muốn nóng giận, chẳng có tâm từ bi. Chúng sinh nóng giận như lửa thì chịu sự khổ lửa đốt thân ; chúng sinh nóng giận như đao thì chịu sự khổ cắt thịt. Nóng giận như thế nào, thì có phiền não như thế đó.
Các pháp giới chúng sinh đều có lòng tham muốn của họ. Phàm là chúng sinh có lòng tham muốn, thì vĩnh viễn lưu chuyển trong biển sinh tử, ngóc đầu lên lại chìm xuống, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, luân hồi trong sáu nẻo không khi nào ngừng. Ðó gọi là biển sinh tử.

Vị Thiên Vương này hiểu rõ đạo lý này, cho nên tùy thuận chúng sinh lưu chuyển trong biển sinh tử, khiến cho chúng sinh giác ngộ, mà ra khỏi biển sinh tử đắc được giải thoát. Vị này đắc được môn giải thoát này.

Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, nghĩ nhớ hạnh của Như Lai điều phục chúng sinh.

Vị Thanh Tịnh Nhãn Thiên Vương này, nhờ công đức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, mà đắc được mắt thanh tịnh. Và còn đắc được định lực nghĩ nhớ của Như Lai. Nghĩ nhớ tức là không quên. Không quên ai ? Không quên Như Lai. Cho nên chúng ta là người tu đạo phải bỏ vọng tồn chân. Khử sạch tâm vọng, chỉ tồn tâm chân thành. Yêu thích cõi nước chư Phật, phát nguyện vãng sanh, đó là nghĩ nhớ. Nghĩ nhớ pháp thân của Phật, nghĩ nhớ hóa cảnh của Phật, nghĩ nhớ Tam Bảo thì hàng phục được các hạnh của chúng sinh.
Chúng sinh trong thế giới Ta Bà, không dễ gì điều phục được, trong Kinh Ðịa Tạng có nói : ‘’ Chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Ðề căn tánh khó điều phục.’’ Chúng sinh thế giới này chấp trước cái ta, ngã mạn, cho nên khó điều phục. Họ không chịu nghe, dù có bạn tốt thầy hiền khéo dụ, khiến cho họ phát bồ đề tâm, lợi mình lợi người, nhưng họ không tin, không nghe dạy bảo. Cho nên chúng sinh thường làm chúng sinh, không siêu thoát được.
Vị Thiên Vương này điều phục được chúng sinh hạnh. Ðiều là điều hòa, giống như nước hòa với sữa, lập tức điều hòa thành một thể. Phục là điều phục, giống như cọp, xem người là thức ăn. Hòa Thượng Hư Vân khiến cho cọp quy y Tam Bảo, không ăn thịt mà ăn chay đó là điều phục. Chúng sinh không giữ quy cụ mà dạy họ giữ được quy cụ, đó là điều phục chúng sinh hạnh. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.

Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương được môn giải thoát, phổ môn chảy ra từ biển Ðà La Ni.

Vị Khả Ái Lạc Phổ Chiếu Thiên Vương này, bất cứ là người ở trên trời, hoặc người ở tại nhân gian, ai thấy được vị này, đều sinh tâm hoan hỷ và ái hộ. Vì quang minh của vị này, chiếu khắp tất cả chúng sinh, thì tất cả đều có nhân duyên. Vị này đắc được pháp Tam muội Phổ môn biển Ðà la ni.
Phổ môn là gì ? Tức là do một cửa mà sinh ra vô lượng cửa (một môn sinh ra vô lượng môn), từ vô lượng cửa trở về một cửa, là cửa viên dung vô ngại chu khắp pháp giới.
Ðà la ni là gì ? Dịch là "tổng trì". Tổng là tổng tất cả pháp, trì là trì vô lượng nghĩa. Tóm lại, tổng thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh. Trì giới, định, huệ ba học viên minh.
Biển tổng trì là gì ? Tức là từ trong một tổng trì sinh ra vô lượng vô biên tổng trì. Trong mỗi tổng trì lại sinh ra bất khả thuyết, bất khả thuyết tổng trì. Sự biến hóa nhiều này giống như biển cả, cho nên gọi là biển tổng trì.
Tuy nhiên có biển tổng trì nhiều như thế, nhưng đừng chấp trước. Không chỗ chấp trước, thì viên dung vô ngại. Chẳng giống như chúng ta có một thì chấp một, có hai thì chấp hai, có ba thì chấp ba, cho đến có vô lượng thì chấp vô lượng. Phải lìa tất cả chấp trước tướng, thì biển tổng trì cũng chẳng có. Nếu không bỏ sự chấp trước tướng, thì chẳng bao giờ được giải thoát. Vị Thiên Vương này được môn giải thoát này.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho chúng sinh gặp được Phật thì sinh tín tạng.

Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này, tức là Thiên Chúa hoặc là Thượng Ðế mà một số người tin. Vị này tuy nhiên làm Chúa Trời nhưng vẫn không biết đủ (tri túc). Lại đến nhân gian để làm Tự Tại Chủ, dạy người nhân gian khởi tâm tham, tâm sân, tâm si, dạy người nhân gian tin mình, tín ngưỡng mình, sùng bái mình, còn phán giáo nói rằng :
1. Tin ta thì được cứu, không tin ta thì không được cứu. Người có tâm tham, nghe rồi thì nghĩ rằng họ sẽ được cứu bèn tin Thuợng đế.

2. Người nào tin ta thì được sinh về nước Chúa, ai không tin thì đọa địa ngục. Tóm lại bất cứ có bao nhiêu tội lỗi, chỉ cần tin Thượng đế, thì sẽ được sinh lên thiên đường. Bất cứ có bao nhiêu thiện nghiệp, nếu không tin Thượng đế thì sẽ đọa vào địa ngục. Người có tâm sân hận nghe rồi thì muốn nổi nóng, tạo ra nhiều nghiệp, bây giờ tin Thượng đế thì sẽ được cứu cho nên liền tin.
3. Tin ta thì là con của Thượng đế, không tin ta thì là quyến thuộc của ma quỷ. Người có tâm si mê, nghe rồi thì một lòng muốn làm con của Thượng đế, tôi phải sinh về đất Chúa, do đó bèn tin Thượng đế.
Người ngu si thì bất cứ ai nói điều gì, họ đều tin là thật. Nếu có ai nói : ‘’ Trứng gà đẻ ở trên cây ‘’ họ cũng sẽ tin. Tại sao ? Vì họ chẳng có năng lực biện rõ thị phi, đó tức là mê tín.

Cho nên vị Thế Gian Tự Tại Chủ ở tại nhân gian lập giáo mà hành đại đạo, đến khắp nơi dùng quan hệ tình cảm để thuyết giáo, dạy người tin Chúa trời, Chúa trời là thần vạn năng, sáng được thế giới, tạo vạn vật, xét đoán tội người, nhưng không công bằng, là giáo đồ thì có quyền ưu tiên thăng lên thiên đường, chẳng phải giáo đồ thì không thể tha thứ, còn phải chịu tội.

Nói về vị Chúa trời này bây giờ đã phản tỉnh. Vị này đã kiểm thảo lại những gì đã làm trong quá khứ, biết phạm sự sai lầm, cho nên bây giờ sám hối nói : ‘’ Tin ta thì nương tựa không vững, chết rồi tuy nhiên sinh lên thiên đường, nhưng khi hưởng hết phước trời thì vẫn phải chịu sinh tử, chẳng phải pháp rốt ráo. Chỉ có tin Phật pháp mới chân chánh được cứu, vĩnh viễn chấm dứt sinh tử.’’

Vị Thiên Vương này, khiến chúng sinh gặp được Phật, thì sinh tín tạng. Phật là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ Thần, Thánh, Chúa trời đều không thể so sánh với trí huệ của Phật. Vì Phật có đại trí huệ không thể sánh được. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.

Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe pháp tin vui mà ra khỏi ba cõi.

Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương này, có trí huệ quang minh giống như lửa ngọn. Vị này đắc được sự giác ngộ, khiến cho chúng sinh trong chín pháp giới, nghe pháp mà sinh tín tâm, và còn hoan thiên hỷ địa tín thọ. Như vậy mới ra khỏi tam giới, ra khỏi luân hồi, ra khỏi đời ác năm trược. Vị Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.

Tam giới là gì ? Tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục giới thì có dục (tham muốn) nam nữ, tham muốn về vật chất và tư tưởng tham muốn. Cho nên gọi là dục giới. Sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, nhưng có sự tham muốn vật chất và tư tưởng tham muốn, cho nên gọi là sắc giới. Vô sắc giới chẳng còn tham muốn nam nữ, cũng chẳng còn tham muốn vật chất, chỉ có tư tưởng tham muốn, tức là thức, cho nên gọi là vô sắc giới.

Luân hồi là gì ? Tức là bánh xe sinh tử, chạy trong vòng sáu nẻo, bị nghiệp lực sở cảm chi phối. Lúc còn sống, thực hành thượng phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì được sinh về cõi trời. Lúc còn sống, thực hành trung phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì sinh về cõi người. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều lành, giữ năm giới, thì sinh về cõi A Tu La. Lúc còn sống, thực hành hạ phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì sinh về đường súc sinh. Lúc còn sống, thực hành trung phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì sinh về ngạ quỷ. Lúc còn sống, thực hành thượng phẩm mười điều ác, không giữ năm giới, thì đọa vào địa ngục.

Ðời ác năm trược là gì ? Thế giới này chúng ta đang ở có năm thứ cấu nhiễm.
1. Kiếp trược : Ðến thời đại mạt pháp, tuổi thọ con người đến lúc thấp nhất thì thành diệt kiếp, có ba tai nạn lớn.
2. Kiến trược : Trong tâm con người đầy dẫy tư tưởng ngũ chủng kiến (năm thứ thấy không chân chánh) tức là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến.
3. Phiền não trược : Trong tâm con người đầy dẫy năm thứ ngu độn tức là : Tham dục, sân hận, ngu si, ngã mạn, nghi hoặc.
4. Chúng sinh trược : Sinh mạng của chúng sinh là do năm uẩn giả hợp mà thành, phải chịu sinh già bệnh chết, đủ sự thống khổ và phiền não, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo.
5. Mạng trược : Sinh mạng của chúng sinh khổ nhiều vui ít, thọ mạng như sương buổi sáng, khoảng nháy mắt thì quỷ vô thường đến, thì sinh mạng sẽ chấm dứt.
Thân chúng sinh dễ được, nhưng thân người khó được, vì con người là thông minh nhất trong các loại chúng sinh, cho nên được thân người chẳng phải dễ. Cổ đức nói :

"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe,
Nước lớn khó sinh, bạn hiền khó gặp".


Bây giờ người Mỹ đều có phước báu, nếu không có phước báu thì không thể sinh vào nước Mỹ. Có người nói : ‘’ Tây phương Cực Lạc Thế Giới là nước Mỹ bây giờ.’’ Mới nghe còn có chút nghi ngờ, không tin lời nói như thế, nhưng phân tích tỉ mỉ thì thật có lý. Thế giới Cực Lạc, căn cứ tên gọi mà suy nghĩ nghĩa của nó, là vui sướng đến cùng cực, mà chẳng có chút lo lắng gì. Bây giờ khắp nơi trên thế giới chịu sự uy hiếp về chiến tranh, uy hiếp về lương thực kinh tế, mà nước Mỹ là một nước giàu mạnh, không bao giờ sợ thiếu lương thực và chẳng sợ có chiến tranh, đây là thế giới cực lạc ở nhân gian.

Bây giờ Phật pháp đã truyền đến đất Mỹ, quang minh của Phật chiếu khắp, Phật pháp độ khắp. Phàm là người ở nước Mỹ đều đắc được lợi ích Phật pháp. Hạt giống bồ đề đã trồng xuống mười năm về trước, bây giờ là thời kỳ mầm non, hy vọng thiện nam tín nữ nước Mỹ cố gắng nỗ lực tài bồi, luôn luôn cạo cỏ, luôn luôn thêm phân tưới nước, khiến cho mầm bồ đề lớn dần phát triển tươi tốt, khai hoa kết quả. Ai ai cũng tin Phật pháp thì thế giới chẳng có chiến tranh.

Chúng ta hôm nay sanh vào nước lớn, lại có bạn hiền, thật là cơ hội tốt ngàn năm khó gặp, cho nên phải nắm lấy cơ hội, đừng để trôi qua. Bốn điều khó được đều đã được, thật là hy hữu, may mắn, cũng là nghiệp lực sở cảm. Cho nên nghe pháp phải sinh tín tâm mới có công đức, không sinh tín tâm thì bất cứ nghe pháp gì cũng chẳng ích lợi gì. Bây giờ chúng ta không những tin còn phải tu hành. Do đó :

‘’ Thân người khó được nay đã được,
Phật pháp khó nghe nay đã nghe,
Thân này đời nay không độ,
Còn đợi chừng nào độ thân này.’’


Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương, được môn giải thoát, nhập vào tất cả hạnh điều phục của Bồ Tát, vô biên vô tận như hư không.

Vị Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương này, hoan hỷ tu pháp môn tư duy. Pháp tư duy tức là thiền định. Vị này hiểu rõ tất cả các pháp, biến hóa vô cùng hổ tương vô ngại. Hiểu rõ pháp này, nhập vào được tất cả cảnh giới của Bồ Tát, thấu hiểu điều phục được hạnh chúng sinh, hiểu rõ làm thế nào điều phục loại chúng sinh đó. Vị này đắc được môn giải thoát này.
Vị này còn hiểu rõ tự tánh như hư không chẳng có bờ mé, cho nên nói vô biên vô tận, chẳng có bờ mé là lớn nhất, chẳng có cùng tột là dài nhất. Thiên Vương này hiểu được pháp môn này, cho nên đắc được môn giải thoát này.

Biến Hóa Tràng Thiên Vương được môn giải thoát, phổ bi trí quán sát vô lượng phiền não của chúng sinh.

Vị Biến Hóa Tràng Thiên Vương này, có tràng báu biến hóa vô cùng, có thể biến lớn biến nhỏ, có thể biến nhiều biến ít, biến hóa đủ loại bảy báu để trang nghiêm tràng báu. Vị này quán sát được tất cả phiền não chúng sinh. Phiền não từ đâu mà có ? Nói đơn giản là từ vô minh mà sinh ra. Vô minh khởi mà biến làm phiền não tham sân si. Phiền não có đại phiền não, trung phiền não và tiểu phiền não. Lại sinh ra vô lượng vô biên phiền não, cho nên nói vô lượng phiền não.

Chúng sinh có phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng tức là chấp ta quá nặng. Sở tri chướng tức là chấp pháp quá nặng. Do hai sự chướng ngại này, mà chúng ta lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi, không giải thoát được.
Mỗi một chúng sinh đều có phiền não của họ. Người giàu thì có phiền não kiêu ngạo, kẻ nghèo thì có phiền não tự ti. Phiền não là gì ? Tức là không biết đủ. Nếu biết đủ thì chẳng có phiền não. Do đó :‘’ Biết đủ thì vui, nhịn được thì yên.’’

Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát : phổ biến từ bi trí huệ, phát nguyện độ chúng sinh, xem chúng sinh bình đẳng, không phân biệt người thân kẻ oán, hết thảy đều như nhau.

Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân thân khẩu ý của Phật, để nhiếp hóa chúng sinh.

Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương này, phóng quang minh, quang minh như tinh tú rất vi diệu trang nghiêm các cõi nước chư Phật. Vị này đắc được môn giải thoát, phóng quang hiện tam luân nhiếp hóa của Phật. Phật tức là Phật Thích Ca hoặc là mười phương chư Phật. Tam luân tức là thân khẩu ý. Tam luân của Phật, tam luân của Bồ Tát, tam luân của A La Hán, tam luân của chúng sinh đều khác nhau.

Tam luân của Phật có thể nói là một luân, lại có thể nói là chín luân. Trong mỗi một luân có ba luân tác dụng. Ví như miệng. Miệng không chỉ riêng thuyết pháp luân, cũng có thể nói là ý niệm luân, cũng có thể nói là thần túc luân. Như vậy mỗi một luân đầy đủ công dụng ba luân, luân chuyển không ngừng, chuyển đại pháp luân. Cho nên tam luân của Phật, với tam luân của chúng sinh chẳng giống nhau.
Tam luân của chúng sinh, thân tức là thân, miệng tức là miệng, ý tức là ý, không thể dùng lẫn nhau, mà có sự chướng ngại.

Tam luân của Phật lấy bốn pháp nhiếp làm chủ, cho nên nói nhiếp hóa chúng sinh. Nhiếp là nhiếp thọ, giống như hút sắt vậy. Nhiếp phân làm hai thứ :

1. Nhiếp hữu hình, giống như có người ở Nữu Ước, tiếp được thơ hoặc điện thoại của bạn bè ở Cựu Kim Sơn, bèn đến Cựu Kim Sơn.

2. Nhiếp vô hình, tức là nhiếp tinh thần, tức cũng là thần túc thông, có thể nhiếp người đến. Ví như có người vốn chưa từng thấy mặt, hoặc là chỉ thấy trong mộng, thì người này bèn đến, đó là tác dụng về nhiếp tinh thần.
Phật thường dùng nhiếp hữu hình và vô hình, để nhiếp hóa chúng sinh, dùng đủ loại thần thông để nhiếp hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả để nhiếp hóa chúng sinh. Tóm lại có bốn loại nhiếp :
1. Bố Thí : Phân làm ba loại :
A. Bố thí tài : Thấy người khốn khổ hoạn nạn, dùng vàng bạc vật chất để cứu họ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
B. Bố thí pháp : Thấy người không rõ sự lý, dùng Phật pháp nhân quả để khai đạo cho họ, khiến cho họ khai mở trí huệ, họ sẽ cảm động mà tin bạn.
C. Bố thí không sợ hãi : Thấy người bất hạnh, dùng lời khéo để an ủi họ, làm cho họ không hoảng hốt sợ hãi, họ sẽ cảm động mà nương tựa bạn. Như vậy sẽ phát sinh cảm tình với chúng sinh thì dễ gần gũi chúng sinh.

2. Ái ngữ : Tức là lời nói thái độ giống như cha mẹ nói với con cái, không những nhu hòa mà còn từ bi, đối với chúng sinh cũng lại như thế, khiến cho chúng sinh có hảo cảm. Do đó :


‘’ Lời hay nửa câu ấm suốt ba mùa Ðông.’’

Lời nói là biểu đạt sự cảm tình. Biết dùng người thì kết duyên lành khắp nơi, không biết dùng người thì kết duyên ác kháp nơi. Cho nên người tu đạo phải rộng kết duyên lành.

Có câu chyện như vầy, lúc Ðức Phật còn tại thế, Ðức Phật và hai vị Tôn giả Ca Diếp và A Nan đi đến xứ nọ thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh. Gặp lúc mùa hạ thời tiết nóng bức, mồ hôi chảy nhễ nhại, bèn đến nghỉ dưới gốc cây. Lúc bấy giờ Ðức Phật thấy một phụ nữ đến giếng gánh nước bèn sai Tôn giả A Nan đi xin nước. A Nan dến bên giếng, người thiếu phu nổi giận, không những không cho nước, mà còn mắng chửi Tôn giả A Nan. Tôn giả A Nan im lặng cúi đầu trở về chỗ Phật. Phật sai Tôn giả Ca Diếp đến xin nước, Tôn giả Ca Diếp đến bên giếng, người phụ nữ cười hỏi : ‘’ Thầy đến đây làm gì ? ‘’ Tôn giả Ca Diếp nói rõ ý của mình đến, thì người phụ nữ này múc đầy hai bầu nước, một bầu cúng dường Phật, một bầu cúng dường ngài Ca Diếp. Tôn giả A Nan thấy như vậy, trong tâm nghi vấn, bèn hỏi Phật là nhân duyên gì ? Phật bèn nói ra một đoạn nhân duyên trong vô lượng kiếp. Lúc đó người phụ nữ này là con chuột, vì quan hệ nghiệp chướng, chuột bị xe cáng chết ở giữa đường, thân thể đã hôi thối. Tôn giả A Nan là một vị Tỳ kheo đi ngang qua, ngửi thấy mùi chuột thối muốn mửa ra, tâm nghĩ lão chuột đáng chết, rồi bịt mũi đi qua. Ðằng xa cũng có một Tỳ kheo đi đến, đó là tiền thân Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả phát tâm từ bi, thấy chuột chết thật đáng thương xót, mới mai táng xác chuột dưới đất, rồi vì nó mà niệm bảy lần Chú Vãng Sinh, cho nên nó mới có duyên sinh làm người. Ðó là nhân quả kết duyên lành hoặc kết duyên ác.

3. Lợi hành : Tức là có lợi gì thì phân chia đồng đều cho mọi người, không thể chiếm làm của riêng. Nên học Bảo Thúc Nha và Quản Trọng về việc chia vàng. Hai người hợp tác làm ăn, đến khi chia lợi nhuận thì Quản Trọng lấy phần nhiều, còn Bảo Thúc Nha thì ít hơn. Có người cho rằng không công bằng, mới hỏi Bảo Thúc Nha tại sao lại như thế ? Bảo Thúc Nha nói : ‘’ Quản Trọng có mẹ già còn sinh tiền, ăn uống phải có dinh dưỡng, cho nên mới lấy phần nhiều.’’ Quản Trọng nghe được điều này rất cảm động vô cùng, rất cảm kích nói rằng : ‘’ Cha mẹ là người sinh ta, người biết ta là Bảo Thúc Nha.’’

4. Ðồng sự : Bồ Tát nghĩ muốn độ người gì, thì hiện ra thân đó, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm có ba mươi hai thân tướng. Ðáng dùng thân người nam độ được, thì hiện thân người nam để độ, đáng dùng thân người nữ độ được, thì hiện ra thân người nữ để độ. Ðáng dùng thân sĩ, nông, công, thương độ được thì hiện ra thân sĩ, nông, công, thương để độ. Tóm lại, phải hiện ra thân cùng thân, cùng thân phận, thì mới độ được dễ dàng. Nếu với chúng sinh giống nhau, chẳng có giới hạn, không phân biệt đó đây, như vậy thì bạn với chúng sinh thành một thể, lúc đó thuyết pháp cho chúng sinh nghe, thì hiệu quả trăm phần trăm.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát : bốn pháp nhiếp, để nhiếp hóa chúng sinh. Ở trên là môn giải thoát của mười vị Biến Tịnh Thiên Vương. Dưới đây là những bài kệ của các vị đó.

Bấy giờ, Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng cõi trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh mà nói ra bài kệ.

Tức là lúc đó, vị Thanh Tịnh Huệ Danh Xưng Thiên Vương, trời Tam Thiền thuộc về sắc giới, nương đại oai thần lực của chư Phật, quán sát khắp hết tất cả Thiên chúng trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ở trong ba cõi trời này, lại phân ra vô lượng vô biên trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Vị Thiên Vương này, nói ra mười bài kệ để tán thán công đức của Phật.

Trời Tam Thiền gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc, ở cõi trời này chẳng cần hoan hỷ cảnh giới nữa, cảnh giới thuần túy rất vi diệu khoái lạc. Trời Tam Thiền này có ba cõi trời :
1. Trời Thiểu Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này đã thoát khỏi tâm vui mừng, đắc được khoái lạc tịch tĩnh vi diệu. Sự khoái lạc này là từ nội tâm sinh ra, chẳng phải từ ngoại cảnh mà có.
2. Trời Vô Lượng Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, thân tâm đắc được khinh an như hư không, là cõi trời khoái lạc nhất (người tu đạo không nên ở cõi trời này, vì quá khoái lạc mà quên tu hành, rất dễ đọa lạc).
3. Trời Biến Tịnh : Thiên chúng ở cõi trời này, đắc được thuần chân thanh tịnh diệu lạc, tiêu diệt tất cả tâm hoan hỷ.

Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Nói cảnh giới Phật khó nghĩ bàn
Khiến chúng đồng về biển giải thoát.

‘’ Bậc biết rõ pháp tánh vô ngại.’’ Chỉ có Phật mới biết rõ và hiểu được pháp thế gian và pháp xuất thế gian, thấy rõ được tất cả các pháp đều viên dung vô ngại. Phật không những tự mình thấy rõ được đạo lý này mà cũng dạy chúng sinh thấy rõ được đạo lý này.
‘’ Hiện khắp mười phương vô lượng cõi.’’ Phật hiện khắp hết cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa chúng sinh. Phàm phu chúng ta cho rằng, Phật chỉ hiện ở thế giới Ta Bà, để giáo hóa chúng sinh, thực ra mười phương thế giới, đồng thời đều có Phật xuất hiện ra đời, cho nên nói hiện khắp mười phương vô lượng cõi.
‘’ Nói cảnh giới Phật không nghĩ bàn.’’ Phật ở trong vô lượng vô biên cõi Phật, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh hiểu được, cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn, là diệu không thể nói. Tóm lại, tâm phàm phu nghĩ không đến, miệng nói không ra cảnh giới.
‘’ Khiến chúng đồng về biển giải thoát.’’ Khiến cho chúng sinh đồng đắc được giác ngộ, Phật đem chân lý của mình đã giác ngộ để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ đắc được biển giải thoát này.

Thế gian Như Lai không chỗ nương
Ví như hình bóng hiện các cõi
Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi
Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.

‘’ Thế gian Như Lai không chỗ nương.’’ Phật ở trong thế gian, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có quốc độ giáo hóa nhất định. Tại sao ? Vì tất cả cõi nước trong mười phương, đều là nơi Ðức Phật giáo hóa. Trong Kinh Phạm Võng nói : ‘’ Ta đến thế giới Ta Bà này giáo hóa chúng sinh đã tám ngàn lần.’’
‘’ Ví như hình bóng hiện các cõi.’’ Tại sao nói Phật chẳng có chỗ nương ? Chẳng có cõi nước nhất định ? Vì thân của Phật giống như ánh sáng, hình bóng, hiện khắp trong tất cả cõi nước, tất cả thế giới.
‘’ Pháp tánh rốt ráo không sinh khởi.’’ Bổn thể của pháp tánh rốt ráo chẳng sinh diệt. Trong Kinh Bát Nhã nói : ‘’ Không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt,’’ tức là đạo lý các pháp không tướng.
‘’ Thắng Kiến Thiên Vương vào môn này.’’ Ðây là đạo lý thấy được của vị Tối Thắng Kiến Thiên Vương, vị này còn nhập vào trong môn giải thoát này, và tinh tấn tu hành pháp môn các pháp không tướng này.

Vô lượng biển kiếp tu phương tiện
Tịnh các cõi nước khắp mười phương
Pháp giới như như thường bất động
Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.

‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’ Phật tu hành công đức thành Phật, chẳng phải trong một đời một kiếp mà thành tựu được, mà là trong vô lượng đại kiếp tu nhiều pháp môn mà thành tựu. Do đó :

"Ba Tăng Kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt".

Trải qua thời gian lâu dài, tu lục độ vạn hạnh, nhiều phương tiện pháp môn, không thể nhẫn cũng nhẫn được, không thể xả bỏ cũng xả bỏ được, không thể nhường cũng nhường được, đó mới là tu hành. Nếu người nhẫn được, bạn nhẫn được, người xả được bạn xả được, người nhường được bạn nhường được, vậy đó chẳng phải người tu đạo, mà là một nhóm người.

Những gì không nhẫn được cần phải nhẫn ? Giống như lúc Ðức Phật tại nhân địa tu hạnh nhẫn nhục. Lúc đó tên gọi là Nhẫn Nhục Tiên Ông, tu hành trong núi Tuyết. Một ngày nọ vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ đi vào trong núi săn bắn. Cung phi mỹ nữ phát hiện có một người ngồi dưới gốc cây, mới đến hỏi Tiên Ông hoàn cảnh tu hành. Lúc đó Tiên Ông thuyết pháp cho bọn cung phi mỹ nữ. Vua Ca Lợi phát hiện bọn cung nữ đi đâu mất mới đi tìm, thấy bọn cung nữ ngồi xung quanh Tiên Ông khi nói khi cười. Vua Ca Lợi bèn sinh tâm hoài nghi, nghi rằng vị Tiên Ông này động lòng phàm tục mới đến hỏi tội, nổi giận hỏi Tiên Ông rằng : ‘’ Nhà ngươi tu hạnh gì ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Tu hạnh nhẫn nhục.’’
- Vua nói : ‘’ Ta sẽ chặt tứ chi của nhà ngươi ra, xem nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’ Nói xong bèn chặt tứ chi của Tiên Ông, rồi hỏi : ‘’ Nhà ngươi nhẫn được chăng ? ‘’
- Tiên Ông nói : ‘’ Nhẫn được.’’
- Vua nói : ‘’ Có gì để chứng minh nhà ngươi nhẫn được ? ‘’
- Tiên Ông đáp : ‘’ Nếu tôi không nhẫn được thì tứ chi đã chặt ra không thể khôi phục lại. Nếu thật sự tôi nhẫn được thì tứ chi của tôi sẽ khôi phục lại như cũ.’’ Vừa nói xong thì tứ chi khôi phục lại bình thường, đó là câu chuyện chứng minh được sự nhẫn nhục.

Những gì không xả được cần phải xả ? Lúc đức Phật tu hành tại nhân đîa, thì lóc thịt bố thí cho chim ưng, xả thân cứu hổ đói. Một ngày nọ chim ưng hung ác rượt bắt chim cáp. Chim cáp kinh sợ bay đến chỗ đức Phật, cầu Phật bảo hộ. Chim ưng bay đến nói với đức Phật rằng : ‘’ Ông là người tu đạo, đều có tâm từ bi, ông cứu sinh mạng chim cáp, nhưng tôi phải chết đói, làm thế nào đây ? ‘’ Do đó Phật bèn cắt thịt thân mình để cho chim ưng, cắt hết thịt mới ngừng. Ðó là hành Bồ Tát đạo.

Một ngày nọ đức Phật tu hành ở trong núi Tuyết, trời tuyết rơi quá nhiều, khắp nơi đều biến thành màu trắng, động vật chẳng có thức ăn, khổ sở khó tả được. Ðức Phật thấy một con cọp mẹ dẫn cọp con đi tìm thức ăn. Cọp mẹ đói quá thể lực kiệt sức, cọp con kiệt sức cũng đi không muốn nổi. Ðức Phật thấy thảm trạng như vậy bèn sinh tâm từ bi : ‘’ Ta xả thân của ta có thể cứu sống hai sinh mạng này.’’ Do đó hy sinh thân mạng cứu sống cọp mẹ cọp con. Ðó là tinh thần thật là vĩ đại ! Chúng ta là người tu đạo ít nhất phải có tâm từ bi, ban bố cho chúng sinh phương tiện. Do đó người xuất gia, lấy từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm gốc, tiến thêm bước nữa phải đạt được sự hy sinh tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.

Phải nhường những gì không thể nhường ? Ðức Phật trong quá khứ, làm thái tử nước Diệp Ba tên là Tu Ðại Noa. Thái tử rộng tu bố thí, sau đó bị vua cha Thấp Ba đuổi ra khỏi hoàng cung. Thái tử dẫn vợ là Man Viên và hai con trai và gái vào rừng sâu sinh sống. Thái tử cõng con trai, vợ bồng con gái trải qua nhiều ngày mới đến rừng sâu núi thẳm làm am mà ở.

Lúc đó, có vị Bà La Môn từ xa đến xin hai đứa con, thái tử đều bố thí. Trời Ðế Thích biết cũng hiện ra thân khác đến xin người vợ, thái tử cũng bố thí, nhưng gửi chỗ thái tử, thái tử thấy lạ bèn hỏi : ‘’ Tại sao ? ‘’ Trời Ðế Thích biết tâm thái tử kiên cố, vì bố thí mà hy sinh tất cả, mới hiện ra thân trời nói với thái tử : ‘’ Tôi là Thích Ðề Hoàn Nhân, đặc biệt đến đây để thử tâm của Ngài phải chăng trước sau như một ? Nay mới thấy, quyết thật như thế, đáng kính đáng phục ! ‘’
Việc không thể nhường mà nhường được, Ðức Phật cũng làm được. Do đó :

"Trong thì xả bỏ đầu mắt tủy não,
Ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con".

Sự khổ hạnh khó làm mà làm được, đó là pháp phương tiện, cho nên nói :‘’ Vô lượng biển kiếp tu phương tiện.’’
‘’ Tịnh khắp cõi nước trong mười phương.’’ Ðức Phật dùng trí huệ quang minh để chiếu soi, để thanh tịnh, để trang nghiêm cõi nước chư Phật trong mười phương. Do đó, quang minh của Phật chiếu khắp tận hư không khắp pháp giới. Tóm lại, không có chỗ nào mà chẳng thanh tịnh, chẳng chỗ nào mà chẳng trang nghiêm.
‘’ Pháp giới như như thường bất động.’’ Pháp giới chẳng có biến đổi, như như bất động.
‘’ Tịch Tĩnh Ðức Thiên ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Tịch Tĩnh Ðức Thiên Vương thấy được.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Chúng sinh ngu si bị chướng che
Mù tối thường ở trong sinh tử
Như Lai mở bày đạo thanh tịnh
Giải thoát này của Tu Di Âm.

‘’ Chúng sinh ngu si bị chuớng che.’’ Chúng sinh là do chúng duyên giả hợp mà sinh. Chúng sinh thông minh thì đi trên con đường chánh, chúng sinh ngu si thì đi theo con đường tà. Người ngu si, vì họ mà nói chánh pháp thì họ không tin. Tại sao ? Vì họ ngu si ! Tại sao ngu si ? Vì không tin Phật pháp, cho nên càng ngày càng ngu si. Phải học Phật pháp thì càng ngày càng thông minh. Người thông minh thì chẳng có nghiệp chướng che đậy, kẻ ngu si thì có nghiệp chướng che đậy.

Che đậy là gì ? Tức là bị một vật che đậy, chẳng được giải thoát. Giống như La Hầu La con của Ðức Phật. La Hầu La dịch là "che đậy". Vì nghiệp chướng quá nặng, ở trong thai mẹ sáu năm mới sinh ra, tại sao ? Vì trong quá khứ, La Hầu La là một đứa trẻ nghịch ngợm. Một ngày nọ, thấy một con chuột chạy vào hang động, La Hầu La lấy đá lấp hang động sáu ngày, tạo ra ác nghiệp này, do đó mới thọ quả báo che đậy ở trong thai mẹ sáu năm.

Có thuyết nói rằng : Ðức Phật Thích Ca lúc mười bảy tuổi, thì kết hôn với Gia Du Ðà La. Kết hôn rồi, Gia Du Ðà La muốn có con, đức Phật dùng tay chỉ vào bụng thì phu nhân thọ thai. Ðức Phật xuất gia rồi, tu hành ở trong núi Tuyết sáu năm, La Hầu La mới sinh ra. Lúc đó hoàng tộc Thích Ca nói Gia Du Ðà La không giữ đạo làm vợ. Không có chồng mà sinh con ? Bèn dùng lửa để thiêu sống Gia Du Ðà La, để bảo tồn danh dự dòng họ Thích Ca, Gia Du Ðà La vì muốn chứng minh sự thanh bạch của mình mới phát thệ rằng :’’ Nếu tôi giữ đạo làm vợ, thì lửa đỏ biến thành hoa sen, nếu tôi không giữ đạo làm vợ thì lửa sẽ thiêu hủy thân của tôi, không một lời oán trách.’’ Nói xong bồng con là La Hầu La, nhảy vào trong đống lửa cháy dữ dội, quả nhiên lửa biến thành hoa sen màu đỏ, do đó ‘’ Hoa sen trong lửa,’’ là để chứng minh quyết thực không phải là không giữ quy cụ.

‘’ Mù tối thường ở trong sinh tử.’’ Người mù tối thì vừa điếc vừa câm. Nghĩa là sinh thì hồ đồ mà đến, chết thì hồ đồ mà đi, luôn luôn ở trong biển sinh tử, vĩnh viễn không được giải thoát.

‘’ Như Lai mở bày đạo thanh tịnh.’’ Vì người mù tối, không biết đạo lý sinh tử, luôn luôn sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Cho nên Phật từ bi thương xót chúng sinh, hướng dẫn chỉ dạy họ tu đạo thanh tịnh. Ðạo thanh tịnh là gì ? Tức là chẳng có tư tưởng ô nhiễm. Tóm lại, tức là chẳng có quan hệ tình dục nam nữ. Ai ai cũng đoạn dục khử ái, thì thức thứ tám tuy nhiên có hạt giống, nhưng chẳng có duyên với cha mẹ thì cũng chẳng sinh ra. Cho nên đoạn dục khử ái, là phương pháp cơ bản giải quyết vấn đề sinh tử, chẳng có gì là huyền diệu. Ai ai cũng biết nhưng chẳng làm được. Tại sao ? Vì ngu si che đậy. Vua Ðường Thái Tông có nói câu này : ‘’ Xuất gia mới là việc đại trượng phu.’’ Xuất gia thật là như thế, ném vứt năm dục lên chín từng mây, thứ nhất là không tham tài, thứ hai là không cưới vợ, thứ ba là không cầu danh, thứ tư là không ăn thịt, thứ năm là không ngủ nhiều. Tại sao phải khổ như thế ? Là vì muốn chấm dứt sinh tử, cầu tự tại, cầu giải thoát.
‘’ Giải thoát này của Tu Di Âm.’’ Vị Tu Di Âm Thiên Vương đắc được cảnh giới môn giải thoát này.

Chư Phật tu hành vô thượng đạo
Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Thị hiện đủ thứ môn phương tiện
Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.

‘’ Chư Phật tu hành vô thượng đạo.’’ Vô thượng đạo của chư Phật tu hành, là pháp môn cao nhất, sâu nhất và rộng lớn nhất, cho nên nói tu hành vô thượng đạo.
‘’ Tất cả chúng sinh chẳng biết được.’’ Hết thảy tất cả chúng sinh không thể dò biết được vô thượng đạo của Phật tu. Tại sao ? Vì chúng sinh bị vô minh che đậy. Cho nên chẳng có chân chánh trí tuệ, không thể suy lường cảnh giới của Phật, cứu kính là gì ?
‘’ Thị hiện đủ loại môn phương tiện.’’ Vì chúng sinh không cách chi hiểu được cảnh giới của Phật, cho nên Phật từ bi đến chỉ thị cho tất cả chúng sinh, tu vô thượng đạo như thế nào, dùng đủ thứ pháp môn quyền xảo phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng biết được phương pháp tu vô thượng đạo của Phật.
‘’ Tịnh Nhãn quán rõ thấy môn này.’’ Ðạo lý này Tịnh Niệm Nhãn Thiên Vương quán sát thấy rõ, cho nên hiểu được cảnh giới này.

Như Lai thường dùng môn tổng trì
Ví như hạt bụi các cõi nước
Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy
Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.

‘’ Như Lai thường dùng môn tổng trì.’’ Bài kệ này vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được, cho nên mới nói Phật thường dùng pháp môn tổng trì, để giáo hóa chúng sinh. Pháp môn tổng trì này, lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì, rồi lại phân ra vô lượng vô biên pháp môn tổng trì nữa. Do đó, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.
‘’ Ví như cõi nước số hạt bụi.’’ Môn đại tổng trì này, giống như cõi nước chư Phật, nhiều như số hạt bụi, tóm lại có bất khả thuyết, bất khả thuyết biển cõi nhiều như số hạt bụi.
‘’ Giáo hóa chúng sinh khắp hết thảy.’’ Ðức Phật khai thị giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được môn tổng trì, khắp cùng tất cả cõi nước chư Phật.
‘’ Phổ Chiếu Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới này, vị Khả Ái Lạc Tối Thắng Quang Phổ Chiếu Thiên Vương, đắc được pháp môn giải thoát này.

Như lai ra đời rất khó gặp
Vô lượng biển kiếp gặp một lần
Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu
Tự Tại Thiên Vương được môn này.

‘’ Như Lai ra đời rất khó gặp.’’ Vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương này nói : ‘’ Như Lai xuất hiện ra đời, không dễ gì gặp được.’’ Do đó :

‘’ Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn ức kiếp khó gặp được,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’

Ðây là bài kệ mở đầu Kinh. Bất cứ tụng niệm Kinh gì, thì trước hết đọc bài kệ này. Bài kệ này là pháp khen ngợi, do Võ Tắc Thiên vào đời Ðường trước tác. Tuy trong việc chính trị nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên là người lãng mạn, nhưng trong Phật giáo bà ta là người đại hộ pháp. Nếu chẳng có bà ta đề xướng Phật pháp, thì chúng ta hôm nay sợ chẳng thấy được bộ Kinh Hoa Nghiêm này.
‘’ Vô lượng biển kiếp gặp một lần.’’ Diệu giác quả vị Phật này, là Phật chí tôn vô thượng, chẳng có gì so sánh cao hơn Ngài được, chẳng có gì so sánh tôn quý hơn Ngài được. Phải trải qua trăm ngàn vạn ức kiếp mới có thể gặp một lần, chẳng phải thường gặp được.


‘’ Khiến khắp chúng sinh sinh tin hiểu.’’ Mục đích Phật xuất hiện ra đời là : làm cho tất cả chúng sinh sanh chánh tín, khiến cho tất cả chúng sinh y theo pháp mười hai nhân duyên tu hành, mới có thể chấm dứt sinh tử, chấm dứt bốn sự khổ lớn : Sinh, già, bệnh, chết. Tại sao Phật xuất gia ? Vì muốn biết rõ sinh từ đâu đến ? Chết sẽ đi về đâu ? Cho nên mới đi tầm đạo sáu năm tu khổ hạnh, cũng không giải quyết được vấn đề sinh tử. Cuối cùng ngồi tĩnh tọa dưới cội bồ đề, mà ngộ được sinh tử, pháp mười hai nhân duyên. Pháp này tuy nhiên là pháp tiểu thừa, nhưng là pháp cơ bản sinh tử. Người đại thừa đừng có chấp trước, cho rằng pháp tiểu thừa là pháp tự liễu hán, có tư tưởng như thế là hoàn toàn sai lầm. Ví như Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo là cơ bản của Phật giáo, nếu không hiểu rõ Bát chánh đạo, không tu Bát chánh đạo, chỉ tu pháp đại thừa, e rằng công đức chẳng viên mãn.
‘’ Tự Tại Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này, vị Thế Gian Tự Tại Thiên Vương thấy rõ, đắc được môn giải thoát này.

Phật nói pháp tánh đều không tánh
Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn
Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh
Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.

‘’ Phật nói pháp tánh đều không tánh.’’ Vị Quang Diệm Thiên Vương và vị Thế Gian Tự Tại Chủ Thiên Vương, thấy cảnh giới của Phật chẳng giống nhau. Vị Thiên Vương này nói :‘’ Phật nói các pháp đều chẳng có tự tánh.’’
‘’ Thâm sâu rộng lớn không nghĩ bàn.’’ Các pháp không tánh, vậy chẳng phải là đoạn diệt chăng ? Chẳng phải. Vì nó là thâm sâu, rộng lớn, không nghĩ bàn. Muốn nói thâm sâu, chẳng thể so sánh sự thâm sâu của pháp này. Muốn nói lớn, chẳng thể so sánh sự rộng lớn của pháp này. Không thể dùng tâm ý để suy lường, cũng không thể dùng lời nói để diễn đạt.
‘’ Khiến khắp chúng sinh tin thanh tịnh.’’ Phật dùng sức đại trí huệ, sức đại thần thông của Ngài, khiến cho tất cả chúng sinh sanh ra tâm tin chân chánh thanh tịnh, tức cũng là chánh tri chánh kiến, chẳng phải tà tri tà kiến.
‘’ Quang Diệm Thiên Vương khéo rõ được.’’ Vị Quang Diệm Tự Tại Thiên Vương, khéo minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.

Ba đời Như Lai công đức đầy
Giáo hóa chúng sinh không nghĩ bàn
Khiến họ tư duy sinh vui mừng
Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.

‘’ Ba đời Như Lai công đức đầy.’’ Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Phật tu công đức trong ba đời đều viên mãn. Dù phước nhỏ nhất cũng chẳng mất đi, huệ nhỏ nhất cũng phải tu, phước nhỏ huệ nhỏ cũng phải bảo tồn.
‘’ Giáo hóa chúng sinh chẳng nghĩ bàn.’’ Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Tại sao ? Vì phải tài bồi phước huệ của mình, phước huệ chưa đầy thì phải giáo hóa chúng sinh, phước huệ đầy rồi vẫn giáo hóa chúng sinh. Vì phước huệ càng nhiều càng tốt, cho nên xưng đức Phật là Lưỡng Túc Tôn. Nghĩa là phước của Phật đã đầy đủ, huệ của Phật cũng đầy đủ. Công đức của Phật giáo hóa chúng sinh không thể nghĩ bàn.
‘’ Khiến họ tư duy sinh vui mừng.’’ Khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có phiền não, suy nghĩ Phật pháp đều sinh tâm vui mừng, đó là niềm an lạc không gì sánh bằng, là sự vui nội tâm chẳng có cách chi có thể hình dung được.
‘’ Môn này Lạc Pháp ngộ vào được.’’ Ðạo lý cảnh giới này vị Lạc Tư Duy Pháp Biến Hóa Thiên Vương hiểu rõ.

Chúng sinh chìm trong biển phiền não
Ngu si kiến trược rất đáng sợ
Ðại sư thương sót cứu ra khỏi
Môn này Hóa Tràng quán sát được.

’ Chúng sinh chìm trong biển phiền não.’’ Chúng sinh tức là chúng sinh trược, biển phiền não tức là phiền não trược. Chúng sinh chìm đắm trong phiền não trược, phiền não trược giống như biển. Phiền não có tám vạn bốn ngàn thứ. Nói tổng quát không ra ngoài phạm vi ba độc tham sân si, đơn giản hơn nữa tức là vô minh.
Vì chúng sinh trược là vô biên vô tận, cho nên Bồ Tát phát nguyện muốn độ khắp chúng sinh.

‘’ Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’

Ðó là bốn thệ nguyện lớn của Bồ Tát, dùng bốn thệ nguyện này để độ chúng sinh trong đời ác năm trược, là pháp môn hay nhất. Phàm là người học pháp đại thừa, đều phải phát tâm bồ đề như vậy.
‘’ Ngu si kiến trược rất đáng sợ.’’ Ngu si tức là mạng trược. Vì sao ? Vì vận mạng người ngu si là ô trược, sinh ra thì chẳng thông minh, đều có mối quan hệ với nhau. Kiến trược tức là sự thấy chẳng chánh quyết, không thanh tịnh, có năm thứ kiến giải (thấy hiểu) không chánh đáng.
1. Thân kiến : Chấp trước thân thể là thực tại, chẳng biết là do các duyên giả hợp mà có.
2. Biên kiến : Chấp trước sinh mạng là vĩnh viễn bất biến, đó là thường kiến. Chấp trước sinh mạng tùy nhục thể mà tiêu diệt, đó là đoạn kiến. Ðều rơi vào hai bên.
3. Tà kiến : Tức là nhận thức chẳng sáng suốt, thiện ác chẳng rõ, điên đảo thị phi, phán đoán sai lầm.
4. Kiến thủ kiến : Chấp kiến giải sai lầm của mình, cho rằng đúng, cuối cùng chấp mê chẳng ngộ.
5. Giới thủ kiến : Chấp trước giới điều không hợp lý của mình, hoặc hành vi sai lầm cho rằng đúng, không chịu sửa lỗi làm lành. Năm thứ ác kiến này đáng sợ nhất.

‘’ Ðại Sư thương sót cứu ra khỏi.’’ Ðại sư tức là đức Phật, lại xưng là Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người). Bậc Thánh nhân đều có tâm thương xót chúng sinh trôi nổi ở trong biển sinh tử, mới chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng sinh ra khỏi đời ác năm trược, sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc là sinh về Thế Giới Cực Lạc, chân chánh lìa khổ được vui.
‘’ Môn này Hóa Tràng quán sát được.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hóa Tràng Thiên Vương quán thấy được.

Như Lai thường phóng đại quang minh
Trong mỗi quang có vô lượng Phật
Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh
Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.

‘’ Như Lai thường phóng đại quang minh.’’ Vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương, thấy mười phương Như Lai thường phóng đại quang minh, đại quang minh tạng này khắp pháp giới.
‘’ Trong mỗi quang có vô lượng Phật.’’ Ở trong mỗi đạo quang minh hiện ra vô lượng vô biên chư Phật. Mỗi vị Phật lại phóng ra trăm ngàn ức quang minh.
‘’ Thảy đều giáo hóa độ chúng sinh.’’ Những vị Phật này đều ở tại đó giáo hóa chúng sinh, khiến chúng sinh nghe pháp tu hành, đắc đạo thành Phật. Ðó là trách nhiệm của mỗi vị Phật.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương vào môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Tinh Tú Âm Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương vào được. Ở cõi trời này có mười một vị Thiên Vương.

Trên đây là những bài kệ của mười một vị Thiên Vương cõi Tam Thiền Trời Biến Tịnh, thuộc về sắc giới, nói ra để tán thán công đức của Phật. Dưới đây bắt đầu giảng về những bài kệ của Quang Âm Thiên Vương thuộc về trời Nhị Thiền.


Hết tập 1
tangbong kinhle
Nam mô A Di Đà Phật

Hình ảnh


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/ ... iai-Tap-2/
...
Tối Thắng Niệm Trí Thiên Vương được môn giải thoát, khiến cho kiếp thành trụ hoại không của tất cả thế gian, thảy đều thanh tịnh như hư không.

Vị Tối Thắng Niệm Trí Thiên Vương này, đắc được cảnh giới, khiến cho tất cả kiếp : Thành, trụ, hoại, không của tất cả thế gian, hoàn toàn thanh tịnh như hư không.
Thế giới có : thành, trụ, hoại, không, bốn trung kiếp (một trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp). Kiếp là đơn vị tính thời gian, lại dịch là "tai nạn". Cuối thời kỳ diệt kiếp của mỗi tiểu kiếp ở trong trụ kiếp có ba tai tạn nhỏ :
1. Nạn đói.
2. Nạn dịch.
3. Nạn binh đao.


Thời kỳ bây giờ là diệt kiếp, trong tiểu kiếp thứ chín của trụ kiếp. Lúc Phật Thích Ca ra đời thì tuổi thọ con người là một trăm tuổi. Từ khi Ðức Phật vào Niết Bàn gần khoảng ba ngàn năm, cho nên bây giờ tuổi thọ của con người khoảng bảy mươi tuổi. Nếu qua bốn ngàn năm thì tuổi thọ con người giảm còn ba mươi tuổi thì sẽ bắt đầu phát sinh ba tai nạn nhỏ.

1. Nạn đói : Thời xưa đại địa thanh tịnh, nhân dân hòa lạc, sau đó từ từ phát sinh các điều ác như : giết hại, trộm cắp, tà dâm và nói dối, đợi đến khi tuổi thọ con người còn khoảng ba mươi tuổi, thì tâm con người chẳng như xưa, tà kiến điên đảo làm đủ mười điều ác. Trời rồng nổi giận mà không mưa xuống, chẳng có cây cỏ, ngũ cốc, thậm chí người ăn người. Trải qua bảy năm bảy tháng bảy ngày nhân loại chết đói phân nửa, đó là nạn đói.

2. Nạn ôn dịch : Tuổi thọ của con người, vào khoảng hai mươi tuổi, thì tâm con người ác đến cực điểm, bèn phát sinh bệnh ôn dịch, ai bị cũng chết, chẳng có thuốc trị được. Bịnh ôn dịch này, truyền nhiễm nhanh chóng, xương khô phơi đầy đồng. Trải qua bảy tháng bảy ngày mới hết, nhân loại chết gần hết, chỉ còn lại một phần mười.

3. Nạn đao binh : Khi tuổi thọ con người còn khoảng mười tuổi, thì thân cao chỉ được một thước (kiếp diệt thì một tuổi giảm một tấc, kiếp tăng thì một tuổi tăng lên một tấc), con người đều chẳng hiếu chẳng kính, giết hại lẫn nhau, không cha mẹ, không vợ chồng, không con cái, không nhìn nhận lục thân quyến thuộc. Vì nghiệp lực sở cảm, cỏ cây có thể dùng vũ khí mà giết chết người. Ai ai cũng cho rằng : mình không giết chết họ thì họ giết mình, cho nên thấy người thì giết, gặp người thì chém, chém giết vô số, trải qua bảy ngày nhân loại chết hết khoảng chín mươi chín phần trăm. Còn lại chẳng bao nhiêu người. Người còn lại không bị giết thì chạy vào núi trốn, có thiện thần bảo hộ. Sau đó tai nạn qua rồi, họ từ trong núi đi ra, gặp người thì ôm nhau khóc lóc, vui mừng an ủi với nhau, kết làm bạn bè. Lúc bấy giờ, ai cũng sinh tâm hổ thẹn, cải ác làm lành, có quan niệm luân lý, đạo đức, từ bi, nhân quả .v.v., từ từ tăng trưởng hướng thượng, ai ai cũng hòa bình tương xứ, nói nhân nghĩa, nói đạo đức, cảm tình dung hợp, chẳng có tư tưởng ích kỷ tư lợi, chẳng có hành vi xấu ác. Lúc bấy giờ sinh sống an định, cơm no áo ấm, ai ai cũng có tâm từ bi hỷ xả bốn vô lượng tâm, ai ai cũng tin chân lý nhân quả báo ứng.

Khi kiếp hoại, ở trong mỗi đại kiếp phải phát sinh một lần nạn lửa lớn. Trải qua bảy lần nạn lửa lớn (đại hoả tai) rồi, bèn có một lần nạn nước lớn (đại thuỷ tai). Trải qua bảy lần nạn nước lớn rồi, bèn có một lần nạn gió lớn (đại phong tai). Có năm mươi sáu lần nạn lửa lớn, có bảy lần nạn nước lớn, có một lần nạn gió lớn. Tóm lại, trong sáu mươi bốn đại kiếp, thì phát sinh ba tai nạn lớn. Nạn lửa lớn thì thiêu hủy đến trời Sơ Thiền, nạn nước lớn thì ngập đến trời Nhị Thiền, nạn gió lớn thì thổi đến trời Tam Thiền. Trừ khi tu đến trời Tứ Thiền thì mới thoát khỏi sự uy hiếp của ba nạn lớn này.

Pháp tính về kiếp số : Bắt đầu từ tuổi thọ con người, mỗi một trăm năm thì tăng thêm một tuổi, tăng đến bốn vạn tám ngàn tuổi thì ngừng. Rồi lại cứ một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm đến mười tuổi thì ngừng. Một tăng một giảm như vậy là một tiểu kiếp. Công thức tính là : (84.000 - 10) x 100 x 2 = 16.798.000 năm (mười sáu triệu, bảy trăm chín mươi tám ngàn năm) đó là số mục một tiểu kiếp. Một trung kiếp thì gấp hai mươi lần tiểu kiếp (16.798.000 x 20 = 335.960.000 năm. Ba trăm ba mươi lăm triệu chín trăm sáu chục ngàn năm). Một đại kiếp thì gấp bốn lần trung kiếp (335.960.000 x 4 = 1.343.840.000 năm). Một tỷ ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm bốn chục ngàn năm).
Thế giới thành : Trong hai mươi tiểu kiếp không, thì thế giới chẳng có gì. Ðến khi kiếp thành thì đầu tiên trời đổ mưa to, nước dâng đến Ðại Phạm Thiên, từ từ hết mưa nước rút, gió thổi mà thành thế giới. Thế giới thành thì có chúng sinh và thực vật sinh trưởng, dần dần có bộ lạc, có văn hóa, có quốc gia, có chiến tranh. Từ trụ kiếp diễn biến đến hoại kiếp ; hoại kiếp qua rồi thì kiếp không ; kiếp không qua rồi thì đến kiếp thành. Cứ hết rồi lại bắt đầu, tuần hoàn không ngừng.

Khả Ái Lạc Tịnh Diệu Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, ưa thích tin thọ tất cả pháp của Thánh nhân.

Vị Khả Ái Lạc Tịnh Diệu Âm Thiên Vương này, đắc được cảnh giới, khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ khoái lạc, tự động đến nghe pháp, và còn tin thọ tất cả pháp của Thánh nhân. Pháp Thánh nhân là gì ? Tức là pháp bốn Thánh pháp giới :
1. Pháp giới của Phật : Một thừa pháp chân thật, pháp chân không diệu hữu trung đạo đệ nhất nghĩa.
2. Pháp giới của Bồ Tát : Pháp lục độ vạn hạnh.
3. Pháp giới của Duyên Giác: Pháp mười hai nhân duyên.
4. Pháp giới của Thanh Văn : Pháp bốn Diệu Ðế. Ðó đều là pháp tu hành của các bậc Thánh nhân, pháp giáo hóa chúng sinh. Ðó là môn giải thoát của vị Vua Trời này đắc được.

...
Diễn Trang Nghiêm Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, đại phương tiện cúng dường tất cả Bồ Tát, từ cung trời Ðâu Suất muốn hạ sinh xuống nhân gian.

Vị Diễn Trang Nghiêm Âm Thiên Vương này, âm thanh trang nghiêm phi thường. Vị này đắc được cảnh giới tất cả Bồ Tát muốn thành Phật. Những vị Bồ Tát này, hậu bổ Phật vị, ở tại nội viện cung trời Ðâu Suất, đợi nhân duyên chín mùi, thì cỡi voi trắng sáu ngà, hàng sinh xuống nhân gian, bắt đầu tám tướng thành đạo :
1. Hàng thế : Từ cung trời hàng xuống nhân gian.
2. Trụ thai : Lựa chọn cha mẹ có duyên.
3. Xuất thai : Sinh ra từ bên hông người mẹ.
4. Xuất gia : Từ bỏ nhà năm dục.
5. Hàng ma : Hàng phục thiên ma ngoại đạo nhiễu loạn.
6. Thành chánh giác : Chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác.
7. Chuyển pháp luân : Diễn nói bốn Diệu Ðế, mười hai Nhân Duyên, Lục Ðộ .v.v.
8. Niết Bàn : Ðắc được cứu kính Niết Bàn.


Niết Bàn có ba :
A. Hữu Dư Niết Bàn : Là Niết Bàn của các bậc A La Hán đắc được.
B. Vô Dư Niết Bàn : Là Niết Bàn của Bồ Tát đắc được.
C. Cứu Kính Niết Bàn : Là Niết Bàn của chư Phật đắc được.

Báo thân phàm phu của chúng ta là : vô thường, khổ, không, vô ngã bốn sự khổ. Pháp thân của chư Phật là : thường, lạc, ngã, tịnh bốn sự vui. Mục đích chúng ta học Phật pháp là : lìa khỏi bốn sự khổ của báo thân, mà đắc được bốn sự vui của pháp thân.
Cơ bản luân lý của Phật giáo tức là chân không và diệu hữu. Tiểu thừa nói về có, đại thừa nói về không, rơi vào sự thấy hai bên có và không. Cuối cùng Phật nói trung đạo chân không diệu hữu, không thiên về có, cũng không thiên về không, đó là trung đạo, khiến cho chúng sinh không chấp trước. Trong không có cái có, trong có có cái không. Không, có chẳng hai. Trong Tâm Kinh có nói :

"Sắc chẳng khác không,
Không chẳng khác sắc.
Sắc tức là không,
Không tức là sắc".
Ðạo lý này nói rất rõ ràng.


Vị Thiên Vương này, dùng đủ thứ pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
...
Tôi nhớ xưa kia Như Lai tu
Cúng dường vô lượng các đức Phật
Là gốc tâm tin nghiệp thanh tịnh
Nhờ thần lực Phật nay thấy được.

‘’ Tôi nhớ xưa kia Như Lai tu.’’ Vị Khả Ái Lạc Quang Minh Thiên Vương này nói : ‘’ Tôi nhớ trong quá khứ Như Lai tu các công đức lành.’’ Công đức gì ?
‘’ Cúng dường vô lượng các Ðức Phật.’’ Trong quá khứ cúng dường vô số Ðức Phật, và tu các công đức lành. Ðức Phật Thích Ca tại nhân địa tu hành, gặp Ðức Phật Nhiên Ðăng ra đời, Ngài cúng dường năm cành hoa sen và dùng tóc trải dưới bùn, thỉnh Ðức Phật bước qua, cho nên được thọ ký vị lai sẽ thành Phật.
Cúng dường mới là y giáo phụng hành, y pháp tu hành mới có công đức. Một số người cho rằng trang nghiêm đạo tràng, cúng dường pháp cụ, hương đèn hoa quả thì có công đức. Tuy nhiên có công đức nhưng công đức nhỏ.


- Vua Lương Võ Ðế hỏi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma : ‘’ Tôi tạo rất nhiều chùa, biên chép rất nhiều Kinh, Luận, độ rất nhiều Tăng, Ni, có công đức gì chăng ? ‘’
- Tổ Ðạt Ma đáp : ‘’ Chẳng có công đức gì hết !
‘’
- Vua Lương Võ Ðế lại hỏi : ‘’ Tại sao chẳng có công đức ? ‘’
- Tổ đáp : ‘’ Công đức này, bất quá là quả báo nhỏ ở cõi trời cõi người, là nhân hữu lậu, là nhân thế tục, giống như bóng theo hình, xem thì có nhưng thực tế là hư vọng.’’
- Vua lại hỏi : ‘’ Chân công đức là gì ? ‘’
- Tổ đáp : ‘’ Công đức chân chánh là trí huệ thuần tịnh, thần diệu và viên dung, bổn tính của nó là không tịch. Công đức này chẳng phải dùng phương pháp thế tục mà có được.’’

‘’ Là gốc tâm tin nghiệp thanh tịnh.’’ Cúng dường mười phương chư Phật, là dùng gốc để sinh ra tâm tin, thì tu gì cũng đều là nghiệp thanh tịnh, mà chẳng phải là nghiệp nhiễm ô, tức cũng là thân thanh tịnh, miệng thanh tịnh, ý thanh tịnh, ba nghiệp thanh tịnh chẳng có một chút nhiễm ô.
‘’ Nhờ thần lực Phật nay thấy được.’’ Hiện tại nhờ đại oai thần lực của Phật, mới hiểu được cảnh giới này. Nhờ Phật gia bị cho nên thấu hiểu được hạnh môn của Như Lai tu trong quá khứ.
Thân Phật vô tướng lìa cấu nhiễm
Thường trụ từ bi thương chúng sinh
Ưu hoạn thế gian thảy tiêu trừ
Giải thoát này Diệu Quang đắc được.

‘’ Thân Phật vô tướng lìa cấu nhiễm.’’ Pháp thân của Phật là khắp pháp giới. Tuy nhiên đầy khắp pháp giới, nhưng chẳng có hình tướng. Vì chẳng có hình tướng, mới đầy khắp pháp giới. Nếu có hình tướng thì có giới hạn, có bờ mé. Vì vô hình tướng cho nên tất cả trần cấu chẳng nhiễm ô. Nếu như có hình tướng thì sẽ có trần cấu. Vô tướng thì tự nhiên chẳng dính bụi trần.
Trần cấu là gì ? Trần cấu này chẳng phải trần cấu có hình tướng, mà là vô minh phiền não cấu, tức cũng là khởi vọng tưởng. Phàm là trong tâm chẳng thanh tịnh, tư tưởng không chân chánh, đều là hiện tượng của sự dơ bẩn.
Ðức Phật thì chẳng còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Bốn tướng này đều không, muốn có trần cấu cũng chẳng có được. Cho nên nói lìa cấu nhiễm, tức cũng là lìa tất cả pháp ô nhiễm.
‘’ Thường trụ từ bi thương chúng sinh.’’ Thường trụ đại từ, đại từ là thương xót chúng sinh. Tóm lại, Phật dùng đại từ đại bi luôn luôn thương xót chúng sinh, luôn luôn phát nguyện cứu chúng sinh, khiến cho chúng sinh thoát khỏi sự khổ trong tam giới, đắc được sự vui sướng Niết Bàn.
‘’ Thế gian ưu hoạn thảy tiêu trừ.’’ Thế gian tức là thế giới, ưu hoạn tức là ưu sầu hoạn nạn. Ưu hoạn thế giới này quá nhiều. Vì quá nhiều cho nên chúng sinh ở trong biển ưu hoạn, chìm đắm không ngộ. Song, Phật dùng tâm từ bi, tâm thương xót để giải thoát ưu hoạn, khiến cho không tồn tại nữa.
‘’ Giải thoát này Diệu Quang đắc được.’’ Môn giải thoát tam muội này vị Vua Trời Thanh Tịnh Diệu Quang đắc được.
Phật pháp rộng lớn không bờ mé
Tất cả các cõi hiện ở trong
Các tướng thành hoại đều chẳng giống
Tự Tại Âm Thiên ngộ môn này.

‘’ Phật pháp rộng lớn chẳng bờ mé.’’ Ở trên vị Thanh Tịnh Diệu Quang Thiên Vương, thấy được cảnh giới của Phật là vô hình tướng, là lìa cấu nhiễm. Bây giờ vị Tự Tại Âm Thiên Vương, thấy được cảnh giới của Phật rộng lớn không bờ mé.
Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, đối trị tám vạn bốn ngàn bịnh phiền não. Tóm lại, chúng sinh có bao nhiêu phiền não, thì chư Phật có bấy nhiêu pháp môn để đối trị. Mỗi một pháp môn trị một thứ phiền não, cho nên mới nói Phật pháp rộng lớn không bờ mé.
‘’ Tất cả cõi nước hiện ở trong.’’ Tất cả cõi nước đều hiện ra ở trong Phật pháp, lại có thể nói tất cả Phật pháp hiện ra ở trong các cõi nước.
‘’ Các tướng thành hoại đều chẳng giống.’’ Thế giới có thành, trụ, hoại, không bốn tướng. Chúng sinh có sinh, già, bệnh, chết bốn tướng. Tâm niệm có sinh, trụ, dị, diệt bốn tướng, tất cả đều là vô thường.

Mỗi thế giới đều có thành, trụ, hoại, không bốn giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều có hai mươi tiểu kiếp ; tám mươi tiểu kiếp làm một đại kiếp. Tóm lại, một thế giới từ thời kỳ thành cho đến diệt vong, phải trải qua tám mươi tiểu kiếp. Trong mỗi đại kiếp bao gồm thành, trụ, hoại, không. Thế giới này thành thì thế giới kia hoại. Thế giới kia thành thì thế giới này hoại. Khi thành thì địa cầu sinh tồn. Khi hoại thì địa cầu hủy diệt. Ðịa cầu này diệt thì địa cầu khác lại sinh. Ở trong hư không có vô lượng thế giới, vô lượng cõi nước. Thế giới này chẳng giống thế giới kia, cõi nước này khác với cõi nước kia. Thế giới Ta Bà mà chúng ta đang ở, chẳng giống thế giới Cực Lạc. Thế giới Ta Bà thì cực khổ còn thế giới Cực Lạc thì cực lạc. Trong mỗi thế giới có rất nhiều quốc gia, mà mỗi quốc gia lời nói, văn hóa, phong tục đều chẳng giống.
‘’ Tự Tại Âm Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này là vị Tự Tại Âm Thiên Vương đắc được.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Như Lai thần biến vô lượng môn
Một niệm hiện trong tất cả chỗ
Ðản sinh thành đạo đại phương tiện
Trang Nghiêm Âm được giải thoát này.

‘’ Như Lai thần biến vô lượng môn.’’ Thần thông biến hóa của Phật vô lượng vô biên. Chẳng giống như thần thông của A La Hán, chỉ có mười tám thứ biến hóa. Cũng chẳng giống như thần thông của Bồ Tát. Tuy nhiên có trăm ngàn vạn ức biến hóa, nhưng vẫn còn có bờ mé. Còn thần thông của Phật thì biến hóa vô cùng vô tận.
Thần biến là gì ? Thần là thần diệu không dò được. Phàm phu chúng ta không thể dùng tâm để suy nghĩ, cũng không thể dùng lời nói để hình dung. Biến là thiên biến vạn hóa, biến hóa vô cùng, từ một môn mà sinh ra vô lượng môn, vô lượng môn quy về một môn.
‘’ Một niệm hiện trong tất cả chỗ.’’ Thần thông biến hóa, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không hai, một nhiều vô lượng. Như vậy thì mới có thể khoảng một niệm hiện tiền, hiện trong tất cả chỗ. Phật không động đạo tràng mà biến khắp pháp giới, vẫn ngồi nhập định ở đó. Song, ở trong hư không khắp pháp giới, chẳng có một chỗ nào mà chẳng phải Phật hiện tiền. Cho nên nói : một niệm hiện trong tất cả chỗ.
‘’ Ðản sinh thành đạo đại phương tiện.’’ Tất cả Bồ Tát muốn thành Phật, trước hết đều phải ở cung trời Ðâu Suất, đợi cơ duyên chín mùi, sẽ hàng sinh xuống nhân gian hậu bổ Phật vị, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.

Bây giờ Bồ Tát Di Lặc, đang ở tại cung trời Ðâu Suất, đợi tương lai sẽ đến thế giới này thành Phật, làm giáo chủ. Khi nào Bồ Tát Di Lặc mới thành Phật ? Bây giờ là trụ kiếp, kiếp thứ chín của kiếp giảm. Tuổi thọ của con người khoảng bảy mươi. Mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, giảm đến mười tuổi thì mới tăng thêm tuổi thọ, cũng một trăm năm tăng lên một tuổi. Tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì mới giảm, giảm xuống tuổi thọ con người còn tám vạn tuổi, thì Bồ Tát Di Lặc bèn cưỡi voi trắng sáu ngà, từ cung trời Ðâu Suất hàng sinh nhân gian, giáo hóa chúng sinh. Chỉ cần thời gian một ngày một đêm, những chúng sinh đáng được độ thì độ xong. Vào thời Ðức Phật Thích Ca, còn lại những chúng sinh không thể giáo hóa, họ có duyên với Bồ Tát Di Lặc, tương lai sẽ được giáo hóa mà được giải thoát. Bây giờ Bồ Tát Di Lặc ở Nội Viện cung trời Ðâu Suất, trong hội Long Hoa vì chúng sinh mà thuyết pháp.
Ngài Vô Trước lúc còn ở Ấn Ðộ, mỗi ngày đi lên cung trời Ðâu Suất nghe Kinh, về lại nhân gian ghi chép lại thành bộ Du Già Sư Ðịa Luận. Nội dung là nói về pháp tướng vạn pháp duy thức, do Phật Thích Ca nói, lược thành sáu trăm sáu mươi pháp. Sau đó, em của Ngài là Thế Thân Bồ Tát đúc kết lại thành Bách Pháp Minh Môn Luận.
‘’ Trang Nghiêm Âm được giải thoát này.’’ Cảnh giới này vị Trang Nghiêm Âm Thiên Vương minh bạch được.

Oai lực gia trì diễn nói được
Chư Phật thị hiện các thần thông
Tùy theo sở thích khiến thanh tịnh
Vua Trời Quang Âm chứng môn này.

‘’ Oai lực gia trì diễn nói được.’’ Ðại oai thần lực của Phật, là do đức hạnh tích tập nhiều kiếp mà thành tựu. Bổn lai thế giới này sẽ hư hoại, nhưng Ðức Phật dùng đại oai thần lực, bảo trì cho thế giới được bình an, và còn diễn nói đủ thứ pháp lành, dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh, làm cho chúng sinh giác ngộ, biết : ‘’ Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn.’’ Nghĩa là : biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ.
‘’ Chư Phật thị hiện các thần thông.’’ Chư Phật hiện tất cả thần thông diệu dụng, khiến cho căn tính chúng sinh và sở thích thanh tịnh không ô nhiễm. Không những thân thanh tịnh mà tâm cũng thanh tịnh.
‘’ Tùy theo sở thích khiến thanh tịnh.’’ Chúng sinh nào có căn lành, là do trong kiếp trước đã trồng rất nhiều căn lành, rất nhiều công đức trong ruộng phước, cho nên đời này có phước báu, có căn lành.


Có những chúng sinh trong đời này, không làm lành mà làm ác, tại sao chẳng có quả báo ác ? Vấn đề này có một số người không hiểu được. Ðó là vì kiếp trước họ đã trồng căn lành, đời này tuy làm ác, nhưng quả lành kiếp trước chín mùi, còn quả ác chưa chín mùi. Ðợi khi nào quả ác chín mùi thì họ sẽ thọ quả báo ác.
Có những chúng sinh đời này, làm lành không làm ác, nhưng lại chịu quả báo ác, đó là vì kiếp trước trồng rất nhiều nhân ác, đời này tuy làm việc lành, nhưng thọ quả báo ác. Ðợi đến khi quả lành chín mùi thì sẽ được quả lành, hoặc đời này hoặc đời sau. Ðạo lý này rất đơn giản, giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Tóm lại trồng nhân gì ? Ðược quả đó.

Căn tính chúng sinh mỗi người đều khác nhau, do đó cảnh giới của mỗi người cũng chẳng giống nhau. Sự tham muốn của mỗi chúng sinh cũng khác biệt, có người muốn làm quan, có người muốn phát tài, có người muốn ở nhà cao cửa rộng, có người muốn chạy xe mới. Ðủ thứ tham muốn về vật chất này, làm cho khí chất bẩm tính của con người mai một, và che lấp trí huệ quang minh của con người.
Tất cả chư Phật, tùy theo sở thích của chúng sinh để giáo hóa họ, khiến cho họ trồng căn lành. Có căn lành rồi thì sở thích cũng thanh tịnh, chẳng có tất cả dục niệm.
Tại sao chúng ta không giải thoát được ? Vì bị tài, sắc, danh, ăn, ngủ năm dục trói buộc. Tu đạo tức là cởi mở sự trói buộc của năm dục. Khi nào cởi mở được sự trói buộc thì lúc đó đắc được tự tại.
‘’ Vua Trời Quang Âm chứng môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Thậm Thâm Quang Âm Thiên Vương chứng được.

Trí huệ Như Lai không ngằn mé
Trong đời chẳng bằng chẳng chấp trước
Tâm từ hiện khắp trước chúng sinh
Quảng Ðại Danh Thiên ngộ môn này.

‘’ Trí huệ Như Lai không ngằn mé.’’ Phật là bậc đại giác đại trí huệ. Phật là bậc Thánh nhân thông minh nhất, chẳng có gì mà không biết, không có gì mà không giác, không có gì mà không thấu rõ, không có gì mà không làm được. Vì trí huệ của Phật tận hư không khắp pháp giới, chẳng có giới hạn, chẳng có phạm vi, cho nên nói trí huệ Như Lai không ngằn mé.
‘’ Trong đời chẳng bằng chẳng chấp trước.’’ Trí huệ của Phật không thể sánh, không những tại nhân gian không ai bằng được, mà trên cõi trời cũng chẳng có ai bằng được. Trí huệ của Phật tuy chẳng ai bằng, nhưng Phật cũng chẳng chấp trước.
‘’ Tâm từ hiện khắp trước chúng sinh.’’ Phật không những có đại trí huệ mà còn có đại từ bi. Dùng đại trí huệ quang minh, tâm đại từ bi để giáo hóa tất cả chúng sinh, độ khắp tất cả chúng sinh. Ai có duyên thì người đó được cứu. Cho nên Phật hiện khắp tất cả chúng sinh.
‘’ Quảng Ðại Danh Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Quảng Ðại Danh Xưng Thiên Vương minh bạch được.

Quá khứ Phật tu hạnh bồ đề
Cúng dường tất cả Phật mười phương
Mỗi chỗ đức Phật đều phát nguyện
Tối Thắng Quang Vương đại hoan hỷ.

‘’ Quá khứ Phật tu hạnh Bồ đề.’’ Phật Thích Ca khi còn ở tại nhân địa, thì rộng tu hạnh Bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Hạnh bồ đề là gì ? Tức là hạnh nguyện giác đạo, đó là:

"Tự tính chúng sinh thệ nguyện độ,
Tự tính phiền não thệ nguyện đoạn,
Tự tính pháp môn thệ nguyện học,
Tự tính Phật đạo thệ nguyện thành".


Bồ Tát đạo là gì ? Tức là hành vi bỏ mình cứu người, ‘’ Ngoài thì, thí đất nước vợ con, trong thì, thí đầu mắt tủy não.’’ Phải có tinh thần bố thí như thế mới hành Bồ Tát đạo được. Khi đức Phật tại nhân địa thì tu vạn hạnh, tập thiền định, do đó :

"Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si".


Vun bồi công đức, khi phước huệ đầy đủ thì mới thành Phật.
‘’ Cúng dường tất cả Phật mười phương.’’ Vì Phật tu đạo bồ đề, trên thì cầu thành Phật, dưới thì độ chúng sinh, không tiếc thân mạng, cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương, hà huống là vật ngoài thân càng không tiếc. Mỗi hạt bụi trên thế giới này, đều là chỗ của chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại và chư Phật vị lai xả bỏ thân mạng.

‘’ Mỗi chỗ chư Phật đều phát nguyện.’’ Ðức Phật ở trước mỗi vị Phật, đều phát thệ nguyện lớn, cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương. Trong quá khứ hạnh lực và nguyện lực của Phật, đều vĩ đại cho nên mới thành tựu. Chúng ta là người học đạo phải phát đại nguyện lực, tất cả đều vì chúng sinh, mà chẳng vì chính mình. Nếu chỉ có tâm tu hành, mà chẳng có tâm phát nguyện, thì cũng giống như hoa nở mà chẳng kết trái, chẳng thành tựu được.
‘’ Tối Thắng Quang Vương đại hoan hỷ.’’ Cảnh giới này, vị Tối Thắng Tịnh Quang Thiên Vương minh bạch được, cho nên vị này sanh đại tâm hoan hỷ.
Ở trên là mười bài kệ của Quang Âm Thiên Vương trời Nhị Thiền thuộc về sắc giới nói ra, tán thán công đức của Phật. Dưới đây là kệ của Ðại Phạm Thiên Vương, trời Sơ Thiền nói.
Lại nữa, Thi Khí Phạm Vương được môn giải thoát, thuyết pháp khắp các đạo tràng trong mười phương, mà các sự tu hành thảy đều thanh tịnh không nhiễm trước.

Ðạo lý ở trên chưa nói hết, bây giờ lại tiếp tục.
Vị Thi Khí Phạm Vương này là Ðại Phạm Thiên, trong cõi Sơ Thiền thuộc về sắc giới. Vị này nói về pháp thanh tịnh của mình tu hành, khắp hết tất cả đạo tràng trong mười phương. Pháp thanh tịnh là gì ? Tức là không ích kỷ, không tự lợi, không đố kỵ, không chướng ngại, không có ô nhiễm tham sân si ba thứ độc.
Tất cả các đức Phật ở đời hiện tại, đều kiến lập đạo tràng. Ðạo tràng là gì ? Tức là chỗ tu đạo. Ðức Phật Thích Ca nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật ở tại bảy đạo tràng :
1. Bồ Ðề Ðạo Tràng.
2. Ðiện Phổ Quang Minh.
3. Cung trời Ðao Lợi.
4. Cung trời Dạ Ma.
5. Cung trời Ðâu Suất.
6. Cung trời Tha Hóa.
7. Rừng Thệ Ða.

Phàm là chỗ nào có giảng Kinh thuyết pháp, đều gọi là đạo tràng. Giảng Kinh gì thì gọi là pháp hội đó, ví như pháp hội Hoa Nghiêm, pháp hội Pháp Hoa .v.v.
Vị Thiên Vương này, đắc được môn giải thoát không nhiễm không ngại.

Huệ Quang Phạm Vương được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh nhập thiền định tam muội.

Vị Huệ Quang Phạm Vương này, có trí huệ quang minh, khiến cho tất cả chúng sinh nhập thiền định tam muội. Thiền dịch là "tĩnh lự" ; tĩnh tức là chỉ tức, lự tức là tư lự. Tóm lại, tức là ngưng bặc tất cả mọi sự suy nghĩ vọng tưởng. Tam muội dịch là "định", cho nên danh từ thiền định này nửa là tiếng Phạn, nửa tiếng Tàu.
Vọng tưởng là mây trôi, chân tâm là mặt trời. Mây che lấp mặt trời, cho nên ánh sáng mặt trời không hiện được. Thiền định là gió, thổi tan sạch mây trôi. Mây bay đi rồi thì ánh sáng hiện ra. Tu thiền định tức là ngưng bặc vọng tưởng, không còn vọng tưởng thì trí huệ hiện tiền, tức cũng là khai ngộ. Do đó :

‘’ Vọng niệm không sinh là thiền,
Ngồi thấy bản tánh là định.’’


Vị Thiên Vương này minh bạch được cảnh giới này, vị này ở trong tam muội, thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn, đắc được môn giải thoát như thế.
...
Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại Phạm Vương, được môn giải thoát, nghĩ nhớ phương tiện của Bồ Tát, giáo hóa tất cả chúng sinh.

Vị Quán Thế Ngôn Âm Tự Tại Phạm Vương này, quán sát tất cả ngôn ngữ và âm thanh trên thế gian mà đắc được tự tại. Vì đắc được tam muội ngôn ngữ và âm thanh, cho nên nghĩ nhớ được. Bất cứ pháp gì ? Chỉ cần lọt qua căn tai của vị này, thì vĩnh viễn không bao giờ quên.
Tất cả Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sinh, đều dùng phương pháp phương tiện khéo léo, chẳng phải là pháp hằng thường không đổi. Pháp phương tiện này, lúc này có thể dùng, nhưng đến lúc khác thì không nhất định có thể dùng. Ðó là pháp phương tiện quán căn cơ thí giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc.
Ví như Tì Sương, bổn thể của nó rất kịch độc, nếu biết xử dụng thì thuốc hay, có thể trị được tất cả bệnh độc, đó là pháp phương tiện "dùng độc trị độc". Tì Sương tuy nhiên trị được bệnh, nhưng không thể dùng quá lượng. Pháp phương tiện cũng như thế, không thể lạm dụng, cần đối trị thì mới dùng được.

Bây giờ tôi kể một câu chuyện về "tay không độ em bé". Lúc Ðức Phật còn tại thế, một ngày nọ, đi ra ngoài khất thực, đi ngang qua một cái giếng nước, ở xa trông thấy một em bé bò đến bên giếng (em bé chưa biết đi), mắt trông thấy em bé muốn rơi xuống giếng. Lúc này thật là sợi tóc treo ngàn cân, Ðức Phật muốn chạy đến bên giếng để cứu sinh mạng em bé, nhưng thời gian đã không kịp nữa. Do đó, Ðức Phật bèn lớn tiếng nói với em bé rằng : ‘’ Này em bé ! Em bé ! Trong tay của ta có kẹo, mau bò đến đây.’’ Ðứa bé nghe có kẹo ăn bèn bò qua chỗ đức Phật. Thật ra trong tay đức Phật chẳng có kẹo, đó là gạt đứa bé, vì cứu sinh mạng của nó, cho nên chỉ dùng được pháp phương tiện. Phật độ chúng sinh cũng như thế, xem chúng sinh thích gì ? Thì cho chúng sinh cái đó ! Sau đó từ từ thuyết pháp cho họ nghe, đó là pháp môn phương tiện khéo léo. Vị Phạm Vương này đắc được môn giải thoát này.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương, được môn giải thoát, hiện tất cả tướng nghiệp báo thế gian, thảy đều khác biệt.

Vị Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương, được tướng nghiệp báo tất cả thế gian. Tướng nghiệp báo là gì ? Tức là trồng nhân gì thì được quả đó. Tóm lại, trồng nhân lành thì được quả lành, trồng nhân ác thì được quả ác. Quả lành có thể thành A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Ðó là quả báo lành của bốn pháp giới bậc Thánh. Lại có thể sinh về cõi trời, có thể làm người, đó là quả báo trời, người. Quả ác thì làm súc sinh, làm ngạ quỷ, đọa địa ngục, đó là quả báo ba đường ác. Nhân quả nghiệp báo tơ hào cũng không sai. Do đó có câu :

‘’ Muốn biết nhân đời trước làm gì ?
Hãy xem quả đời này mình có ;
Muốn biết quả đời sau thế nào ?
Xem mình làm gì trong đời này.’’


Muốn biết đã trồng nhân gì trong đời trước ? Thì đời này mình đang gặp những gì, hưởng thụ những gì, đó là nhân đã trồng trong đời quá khứ. Nếu trồng nhân lành thì đời này sẽ gặt quả lành, tất cả đều thuận cảnh. Nếu trồng nhân ác thì đời này gặt quả ác, tất cả đều nghịch cảnh. Muốn biết về tương lai như thế nào ? Thì hãy xem đời này đang làm gì ? Nếu làm công đức lành thì đời sau được phước báu ; nếu làm nghiệp ác quá nhiều thì đời sau nhất định làm bò làm ngựa, đố kỵ thì làm mãng xà, gạt người thì làm gà. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì thọ cái đó.

Mỗi chúng sinh đều có tướng nghiệp báo của mỗi người, chẳng ai giống ai. Người thì có tướng nghiệp báo của người, bò có tướng nghiệp báo của bò, heo thì có tướng nghiệp báo của heo. Bò ở Ấn Ðộ không bị giết, heo ở xứ Hồi giáo không bị giết, đó cũng là tướng nghiệp báo của chúng sinh khác nhau. Có người rất giàu có mà không có con cái, đó là có sự giàu có mà không con. Có người rất nghèo mà đông con cái, đó là đông con cái nhưng không giàu có. Mỗi người đều có hoàn cảnh riêng, đều khác nhau. Việc trong trời đất tuyệt đối không thập toàn thập mỹ. Dù thập toàn thập mỹ nhưng người vẫn cảm thấy không đầy đủ. Tại sao ? Vì lòng tham muốn không đáy.
Vị Phạm Vương này minh bạch được tướng nghiệp báo thế gian đều khác biệt, vị này đắc được môn giải thoát này.
...
Quang Diệu Nhãn Phạm Vương được môn giải thoát, thường siêng xuất hiện trong tất cả các cõi, mà không chấp trước, không bờ mé, không chỗ nương tựa.

Vị Quang Diệu Nhãn Phạm Vương này, có trí huệ quang minh chiếu soi chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được mắt biết chọn pháp, biết được pháp này là đúng hay sai. Vị này biết được pháp thân của Phật như hư không. Trong tất cả các cõi chẳng có chấp trước, tức là không chấp không, cũng chẳng chấp có. Không chấp vào có không hai bên.
Vì pháp thân của Phật như hư không, chẳng có bờ mé, cho nên chẳng có chỗ nương tựa. Pháp thân của Phật tuy nhiên như hư không, nhưng Phật luôn luôn xuất hiện ra đời. Tại sao ? Vì vấn đề sinh tử của chúng sinh chưa chấm dứt, cho nên Phật thường thị hiện ra đời để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, hết khổ được vui sướng. Vị Phạm Vương này đắc được tam muội pháp môn giác ngộ giải thoát này.

...
Cõi Phật hạt bụi biển pháp môn
Một lời diễn nói hết không thừa
Như vậy biển kiếp nói không hết
Thiện Tư Huệ Quang thấy môn này.

"Cõi Phật hạt bụi biển pháp môn". Cõi nước chư Phật trong mười phương có bao nhiêu ? Nhiều giống như hạt bụi. Biển pháp môn gọi là gì ? Trong một hạt bụi làm một biển cả, trong một biển cả đầy đủ vô lượng pháp môn, đó là hình dung nhiều pháp môn giống như biển cả, cho nên gọi là biển pháp môn.
"Một lời diễn nói hết không thừa". Một lời tức là thật tướng, thật tướng tức là vô tướng, vô tướng tức là vô sở bất tướng. Chỉ cần nói ra thật tướng thì tất cả các pháp đều bao quát trong đó. Cũng có thể nói là chân như, lại có thể nói là Phật tánh. Vì tất cả pháp môn đều từ Phật tánh chảy ra, chỉ cần nói ra một lời thì tất cả pháp môn đều bao quát không thừa.
"Như vậy biển kiếp nói không hết". Biển pháp môn nhiều giống như số hạt bụi, tận hư không khắp pháp giới. Muốn diễn nói pháp môn này hết thuở vị lai, suốt kiếp vị lai cũng diễn nói không hết, nói không hết biển pháp môn, đó là vì phương tiện mà nói.

Lúc này có người đề ra vấn đề : "Vậy câu trước nói một lời thì nói hết, câu sau lại nói dù nói thế nào cũng nói không hết, đó chẳng phải là trước sau mâu thuẫn chăng" ? Trên thực tế thì trước sau chẳng mâu thuẫn. Câu trước thì dùng thật tướng để nói, cho nên nói một lời diễn nói hết không thừa. Câu sau dùng quyền xảo phương tiện để nói, nói đến khi nào cũng nói không hết. Câu trước là tổng, câu sau là biệt. Tổng lại để nói, một câu có thể nói hết : phân biệt để nói thì hết kiếp vị lai cũng nói không hết. Theo hiển giáo mà nói thì, những gì người biết thì, một câu có thể nói hết. Theo mật giáo mà nói thì có vô lượng nghĩa, nói không hết.
‘’ Thiện Tư Huệ Quang thấy môn này.’’ Môn giải thoát này vị Thiện Huệ Quang Phạm Vương minh bạch được.
...
Tất cả nghiệp chúng sinh khác biệt
Tùy theo nhân chiêu cảm quả báo
Thế gian như vậy Phật đều hiện
Tịch Tĩnh Quang Thiên ngộ nhập được.


"Tất cả nghiệp chúng sinh khác biệt". Tất cả chúng sinh mỗi người đều khác nhau về nghiệp báo. Làm lành thì quả lành, làm ác thì quả ác. Lành là gì ? Phàm là việc có ích lợi cho chúng sinh tức là lành, ví như sửa đường làm cầu, xây trường học, mở nhà thương (lấy từ thiện làm mục đích, chẳng phải vì kiếm tiền làm mục đích). Ác là gì ? Phàm là việc lợi mình mà hại người tức là ác. Ví như mở lò sát sinh (lò thịt), mua bán vũ khí, lò chế bom đạn, lợi mình mà hại chúng sinh.
"Tùy theo nhân chiêu cảm quả báo". Tùy theo nhân của chúng sinh trồng mà cảm thọ quả báo. Tóm lại trồng nhân gì thì được quả đó. Ví như giết cha của người thì người giết cha của mình ; giết con của họ thì họ giết con của mình. Người không giữ giới sát thì tương lai nhất định sẽ bị người giết, đây là quả báo thế gian.

"Thế gian như vậy Phật đều hiện". Nhân như vậy, quả như vậy, nghiệp như vậy, báo như vậy, đó là đạo lý tự nhiên, cho nên Phật tại thế gian hiện ra đủ thứ cảnh giới để nói rõ đạo lý này, để đối trị nghiệp báo của chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy được cảnh giới này mà sinh ra tâm giác ngộ, cầu vô thượng đạo.
"Tịch Tĩnh Quang Thiên ngộ nhập được". Ðạo lý này Tịch Tĩnh Quang Minh Nhãn Phạm Vương minh bạch được.
Vô lượng pháp môn đều tự tại
Ðiều phục chúng sinh khắp mười phương
Cũng chẳng ở trong khởi phân biệt
Ðây là cảnh giới Phổ Quang Thiên.

"Vô lượng pháp môn đều tự tại". Vị Phổ Quang Minh Phạm Vương này, đắc được tất cả pháp môn, tùy ý tự tại thuyết pháp, nói ngang nói dọc đều là viên dung vô ngại.
"Ðiều phục chúng sinh khắp mười phương.’’ Dùng triết, nhiếp hai môn để điều phục chúng sinh, triết là triết phục, khiến cho chúng sinh thấy oai đức mà triết phục, đó là môn triết phục. Nhiếp là nhiếp thọ, dùng tâm từ bi để cảm hóa, dùng đạo đức để nhiếp thọ, đây là môn nhiếp thọ. Vị này dùng hai pháp môn này đến khắp mười phương để giáo hóa chúng sinh.
"Cũng không ở trong khởi phân biệt". Ở trong phần chúng sinh, chẳng khởi tất cả tâm phân biệt. Không thể nói chúng sinh này là thiện, tôi đi độ họ ; chúng sinh kia là ác tôi không đi độ họ. Cũng không thể nói chúng sinh này có duyên với tôi, tôi phải độ họ ; chúng sinh kia không có duyên với tôi, tôi không cần độ họ. Chẳng có tâm phân biệt như thế mà dùng từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, tuyệt đối chẳng có tâm phân biệt, một luật bình đẳng.
"Ðây là cảnh giới Phổ Quang Thiên". Cảnh giới này vị Phổ Quang Biến Thập Phương Phạm Vương đắc được.
Thân Phật vô tận như hư không
Không tướng không ngại khắp mười phương
Tất cả ứng hiện đều như huyễn
Biến Hóa Âm Vương ngộ môn này.


"Thân Phật vô tận như hư không". Thân thể của Phật giống như hư không, tuy nhiên như hư không nhưng không thể cùng tận.
"Không tướng không ngại khắp mười phương". Thân thể của Phật chẳng có hình, cũng chẳng có tướng, nhưng khiến cho chúng sinh nhìn thấy được. Vì chẳng có hình tướng cho nên mới không ngại. Nếu có hình tướng thì có chướng ngại. Tuy nhiên chẳng có tướng, nhưng thường hiện khắp mười phương.
"Tất cả ứng hiện đều như huyễn". Tất cả chư Phật ứng hiện đều như huyễn như hóa, giống như ánh trăng dưới ngàn con sông, chỉ có một mặt trăng mà mặt trăng ứng hiện dưới ngàn con sông.
‘’ Biến Hóa Âm Vương ngộ môn này.’’ Ðạo lý này vị Biến Hóa Âm Phạm Vương minh bạch được.
Tướng thân Như Lai không ngằn mé
Trí huệ âm thanh cũng như thế
Hiện ra trong đời chẳng chấp trước
Quang Diệu Thiên Vương vào môn này.

"Tướng thân Như Lai không ngằn mé". Tướng thân của Phật là tận hư không khắp pháp giới, cho nên nói tướng thân của Như Lai không ngằn mé, cũng chẳng có chỗ nương tựa, không chấp trước vào tất cả các cõi (có), cũng không chấp trước nơi tất cả không, từ bỏ có, không, hiển hiện trung đạo. Cho nên nói thân tướng không ngằn mé.
"Trí huệ âm thanh cũng như thế". Không những trí huệ của Như Lai chẳng có bờ mé mà âm thanh của Như Lai cũng chẳng có bờ mé.
Một ngày nọ, Tôn giả Mục Kiền Liên dùng sức thần thông đi về hướng tây, đi qua vô số cõi Phật, muốn thử âm thanh của Phật đến đâu, kết quả không biết được, bất cứ đi xa bao nhiêu, thì âm thanh của Phật cũng giống như ở trước mắt. Do đó, có thể chứng minh âm thanh Như Lai chẳng có bờ mé.
"Hiện ra trong đời chẳng chấp trước". Phật hiện ra đời thuyết pháp độ chúng sinh, nhưng chẳng chấp trước, phá tất cả các chấp. Vì rời tất cả chấp trước cho nên mới thành Phật, nếu không thì chẳng thể thành Phật.
"Quang Diệu Thiên Vương nhập môn này". Môn giải thoát này vị Quang Diệu Phạm Thiên Vương nhập được.
Pháp Vương an trụ Diệu pháp đường
Pháp thân quang minh chiếu hết thảy
Pháp tánh không tướng chẳng gì bằng
Giải thoát này của Hải Âm Vương.

"Pháp Vương an trụ diệu pháp đường". Pháp Vương tức là Phật, vì Phật ở trong các pháp đắc được tự tại thù thắng, cho nên gọi là Pháp Vương. Ðịa vị tột đỉnh của phàm phu là Chuyển luân thánh vương. Ðịa vị tột đỉnh của Thánh nhân là Pháp Vương. Chuyển luân thánh vương cũng có ba mươi hai tướng, Pháp Vương cũng có ba mươi hai tướng. Vị Hải Âm Phạm Thiên Vương này, luôn luôn tư duy quán sát, pháp môn giải thoát vô tận, tư duy Phật là bậc Pháp Vương, tự tại nơi các pháp, lại tư duy Pháp Vương an trụ ở trong Diệu pháp đường.
"Pháp thân quang minh chiếu hết thảy". Pháp thân quang minh của Phật, chiếu khắp tất cả cõi nước chư Phật, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến.
"Pháp tánh không tướng chẳng gì bằng". Pháp tánh không thể so sánh. Pháp tánh tuy nhiên có tên, nhưng chẳng có hình tướng. Pháp tính đầy khắp pháp giới, chẳng có bất cứ cảnh giới nào có thể so sánh được.
"Giải thoát này của Hải Âm Vương". Môn giải thoát này vị Hải Âm Phạm Thiên Vương minh bạch được.
Hiện tại đã giảng xong sở đắc được môn giải thoát và kệ của năm chúng năm mươi vị Thiên Vương thuộc về Sắc giới. Dưới đây tiếp tục giảng về sở đắc môn giải thoát và kệ của bảy chúng bảy mươi vị Thiên Vương thuộc về dục giới.
...
Thiện Mục Chủ Thiên Vương, được môn giải thoát, quán sát tất cả sự vui sướng của chúng sinh, khiến cho họ nhập vào cảnh giới vui sướng của bậc Thánh.

Vị Thiện Mục Chủ Thiên Vương này cặp mắt rất hiền từ. Vị này dùng mắt từ bi để nhìn chúng sinh, quán sát sự vui sướng của chúng sinh, không quán sát sự khổ của chúng sinh. Tại sao ? Vì vị này chẳng có khổ, cho nên chẳng biết chúng sinh có sự khổ, chỉ quán sát sự vui sướng của chúng sinh. Sự khoái lạc của chúng sinh tức là thành tựu danh và thành tựu lợi, tức cũng là muốn gì được nấy. Cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, cầu giàu sang được giàu sang, cầu công danh được công danh, đó là sư khoái lạc của thế gian. Vị Thiên Vương này đều làm cho sở cầu của chúng sinh được mãn nguyện. Muốn dạy cho chúng sinh hiểu Phật pháp, thì trước hết làm cho chúng sinh được đầy đủ sự ham muốn.

Tóm lại, phàm là những gì chúng sinh ưa thích, vị Thiên Vương này đều làm cho họ mãn nguyện về sở cầu, khiến cho họ hoan hỷ, sau đó khiến cho họ nhập vào cảnh giới khoái lạc của Thánh nhân. Cảnh giới khoái lạc của Thánh nhân là gì ? Tức là Niết Bàn bốn đức : Thường, lạc, ngã, tịnh. Sự khoái lạc này là cứu kính. Sự khoái lạc thế gian là trong khổ làm vui sướng. Tại sao nói khoái lạc thế gian là trong khổ làm vui ? Vì sự khoái lạc nhất của thế gian là phát tài, nhưng có tiền rồi thì một đồng một xu cũng tính đếm rõ ràng, thậm chí tối ngủ cũng không yên, lăn qua trở lại không ngủ được, thử nghĩ đây là khổ hay là sướng ?

Sự vui sướng thế gian ngoài việc phát tài, kế tiếp là làm quan. Do đó, sự vui sướng nhất chẳng gì bằng làm quan có quyền có thế. Người làm ông quan tốt, thì lo cho dân cơm no áo ấm, vì hạnh phúc của nhân dân. Còn ông quan ác, thì chuyên bóc lột giấu làm của riêng, tức cũng là quan tham ô hối lộ. Thứ tham quan ô sử này, tuy nhiên sung sướng đến cực điểm, cậy quyền cậy thế lường gạt người, nhân dân phẫn nộ mà không dám nói, nhưng trong biển hoạn nạn trôi nổi hốt lên hốt xuống, có lúc sẽ gặp họa bị giết, nghĩ xem đó là khổ hay vui ?
Vị Thiên Vương này hiểu rõ lý này, cho nên khiến cho chúng sinh bỏ sự khổ thế gian, đắc được môn giải thoát cứu kính tự tại.

Sự vui sướng xuất thế gian mới là vui sướng chân thật, tức cũng là thường, lạc, ngã, tịnh Niết Bàn bốn đức. Tóm lại, tức là chứng được thanh tịnh pháp thân, ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, hoặc ở cõi Cực Lạc Thế Giới, hoa sen hóa sinh, chẳng có khổ về sinh tử, đó mới là vui sướng chân thật.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

... Vậy sự khoái lạ
Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, vô lượng vô biên chư Phật tùy sự nghĩ nhớ mà đến.

Vị Diệu Luân Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương, đắc được thân Phật trong mười phương không cách chi tính đếm được, chư Phật tùy sự nghĩ nhớ mà phóng quang, đều đến đạo tràng. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :

‘’ Hiện tiền nhớ Phật niệm Phật,
Tương lai nhất định thấy Phật.’’


Bạn nhớ nghĩ mười phương chư Phật thì mười phương chư Phật cũng nghĩ nhớ bạn. Nếu bạn không nghĩ nhớ chư Phật thì chư Phật cũng không nghĩ nhớ bạn, bất quá đó là một phương diện, cần phải hai phương diện thì mới cảm ứng đạo giao được. Sở cầu của chúng sinh là cảm, Phật và Bồ Tát ban cho là ứng.

Phật thì luôn luôn nghĩ nhớ tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện độ chúng sinh. Nếu Phật không nghĩ nhớ chúng sinh thì không thể phát nguyện độ chúng sinh. Chúng sinh nghĩ nhớ Phật thì nên cúng dường Phật, gần gũi Phật, cung kính Phật, lễ bái Phật, hổ tương nghĩ nhớ thì sẽ có cảm ứng, sẽ tiếp được quang minh của Phật. Ai nghĩ nhớ Phật thì Phật hiện ra trong tâm người đó. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
...
Tất cả dục lạc trong thế gian
Vui Thánh tịch diệt là tối thắng
Trụ ở trong pháp tánh rộng lớn
Diệu Nhãn Thiên Vương quán thấy được.

"Tất cả dục lạc trong thế gian". Sự khoái lạc trong thế gian là gì ? Người thích uống rượu thì cho rằng uống rượu là sự hưởng thụ khoái lạc nhất của con người. Khi uống rượu thì cảm thấy tự tại, uống say thì cảm thấy không tự tại. Người thích đánh bạc thì cho rằng đánh bạc là thú vui nhất của con người. Khi ăn thì cảm thấy tự tại, còn thua thì cảm thấy không tự tại. Ðó là khổ hay là sướng ? Người thích thi đấu thì cho rằng thắng lợi là sung sướng nhất, nhưng khi thất bại thì không đau khổ chăng ? Tóm lại việc khoái lạc nhất trên thế gian tức là nhân đau khổ nhất.

"Trụ ở trong pháp tính rộng lớn". Có niềm vui tịch diệt của bậc Thánh này rồi, thì mới trụ ở trong pháp tính rộng lớn chẳng có ngằn mé.
"Diệu Nhãn Thiên Vương quán thấy được". Vị Diệu Nhãn Thiên Vương quán sát cảnh giới này và đắc được môn giải thoát này.

Như Lai xuất hiện khắp mười phương
Theo tâm chúng sinh mà thuyết pháp
Tất cả nghi hoặc đều dứt trừ
Môn giải thoát này Diệu Tràng chứng.


‘’ Như Lai xuất hiện khắp mười phương.’’ Phật xuất hiện ra đời là đến khắp mười phương pháp giới, do đó : ‘’vô tại vô bất tại, vô sở bất tại.’’ Lại có thể nói tận hư không khắp pháp giới.
‘’ Theo tâm chúng sinhh mà thuyết pháp.’’ Phổ biến ứng khắp căn cơ của chúng sinh, vì họ mà thuyết pháp. Người đáng dùng quyền giáo độ được thì, Phật vì họ mà nói pháp quyền giáo ; người nên dùng thật giáo độ được thì, Phật vì họ mà nói pháp thật giáo. Người căn tính đại thừa thì, Phật vì họ mà nói pháp đại thừa, người căn tính tiểu thừa thì, Phật vì họ mà nói pháp tiểu thừa. Người không gieo căn lành thì, Phật vì họ nói pháp gieo căn lành. Người đã trồng căn lành thì, Phật vì họ nói pháp thành thục căn lành. Người đã thành thục căn lành thì, Phật vì họ mà nói pháp giải thoát. Phật thì quán sát căn tính của chúng sinh để vì họ thuyết pháp.
‘’ Tất cả nghi hoặc đều dứt trừ.’’ Nếu chúng sinh có tâm nghi hoặc, thì Phật vì họ nói pháp, khiến cho họ dứt trừ tất cả nghi hoặc, mà sinh ra tâm chánh tín.
‘’ Môn giải thoát này Diệu Tràng chứng.’’ Diệu Tràng Quan Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
...
Chư Phật khắp nơi diễn diệu âm
Trong vô lượng kiếp nói diệu pháp
Chỉ dùng một lời diễn nói hết
Dũng Mãnh Huệ Thiên thấy môn này.

‘’ Chư Phật khắp nơi diễn diệu âm.’’ Mười phương chư Phật ở trong khắp mười phương thế giới. Bất cứ trong thế giới nào, cũng đều có chư Phật ở trong đó, diễn nói diệu âm. Diệu âm của chư Phật diễn nói khắp tận cùng hư không khắp pháp giới. Bất cứ có âm thanh hoặc không âm thanh, có hình hoặc không hình, diễn nói hoặc không diễn nói, tất cả hết thảy đều là sự diễn diệu âm của chư Phật. Vào đời Tống, Tô Ðông Pha viếng thăm núi Lư Sơn có làm bài thơ, trong đó có hai câu rằng :


‘’Khê thanh tận thị quảng trường thiệt
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.’’

Tức là nói âm thanh nước chảy, là Phật đang nói pháp, hình thái màu sắc núi non đâu chẳng phải là thanh tịnh pháp thân của Phật.
Không những "khê thanh" là "quảng trường thiệt" mà tất cả âm thanh trên thế giới đều là tướng lưỡi rộng dài của Phật (âm thanh thuyết pháp), do đó : ‘’ nước chảy, gió thổi ‘’ đều là diễn nói pháp âm, tất cả hình sắc trên thế giới đều là pháp thân của Phật. Lời vi diệu của Phật là vô thuyết vô bất thuyết. Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại. Diệu âm và diệu sắc này, khi chúng sinh thấy được rồi, thì hiểu rõ tức là giác ngộ, nếu không minh bạch thì bị cảnh giới làm mê hoặc, mà không thể giác ngộ. Cho nên nói giác và không giác chỉ ở tại một niệm.
‘’ Trong vô lượng kiếp diễn diệu pháp.’’ Từ vô lượng kiếp đến nay, Phật luôn nói diệu pháp, phổ độ chúng sinh. Ngày ngày nói pháp, thời thời nói pháp chẳng gián đoạn. Ban đầu Phật nói Kinh Hoa Nghiêm trong hai mươi mốt ngày, kế tiếp nói Kinh A Hàm khoảng hai mươi năm. Rồi nói Kinh Phương Ðẳng tám năm, và nói Kinh Bát Nhã hai mươi hai năm. Sau nói Kinh Pháp Hoa tám năm, cuối cùng khi nhập Niết bàn nói Kinh Ðại Bát Niết Bàn. Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng hơn ba trăm hội, không bao giờ nghỉ ngơi, tinh thần truyền đạo thật là vĩ đại ! Có thể nói trước sau chẳng có ai so sánh được.
‘’ Chỉ dùng một lời diễn nói hết.’’ Tuy nhiên Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp, nhưng pháp này chỉ dùng một lời nói, thì có thể nói hết. Phật trong vô lượng kiếp nói pháp, đó là quyền xảo phương tiện, khiến cho chúng sinh hiểu rõ Phật pháp. Nếu dùng một lời nói mà nói hết các pháp thì, hầu hết chúng sinh sẽ không hiểu. Phật muốn dùng thật giáo để thuyết pháp, nhưng thật giáo là vô pháp khả thuyết (không có cách chi nói được). Nếu vô pháp khả thuyết thì chúng sinh vô pháp khả văn (không cách chi nghe được).
‘’ Dũng mãnh Huệ Thiên thấy môn này.’’ Vị Dũng Mãnh Huệ Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.

Tất cả quảng đại từ thế gian
Chẳng bằng một phần của Như Lai
Lòng từ của Phật như hư không
Diệu Âm Thiên Vương ngộ môn này.

‘’Tất cả quảng đại từ thế gian.’’ Tâm từ lớn nhất trong thế gian như cha mẹ đối với con cái, nhưng tâm từ rộng lớn này, không bằng tơ hào tâm từ của Ðức Phật.
‘’Chẳng bằng một phần của Như Lai.’’ Một phần tâm từ của Phật ái hộ chúng sinh, lớn hơn nhiều so với tâm từ của cha mẹ thương con cái. Tâm đại từ của Phật là cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ, dù có thể hy sinh tánh mạng của mình. Giống như Bồ tát Ðịa Tạng Vương, Ngài cứu chúng sinh ở trong địa ngục, Ngài phát đại nguyện rằng :

‘’ Ðịa ngục không trống không,
Thề không thành Phật
Chúng sinh độ hết
Mới chứng Bồ đề.’’


Hạnh của Ngài là Bồ Tát đạo, nguyện của Ngài phát ra là cứu chúng sinh. Mười phương chư Phật trong quá khứ vô lượng kiếp đều phát đại nguyện này. Tâm từ của cha mẹ làm sao so sánh với tâm từ của Ðức Phật ? Cha mẹ thương con cái chỉ một đời, còn Phật thì thương chúng sinh nhiều đời. Phật đối với chúng sinh đều có tâm từ bi rộng lớn, vì giáo hóa chúng sinh, mà xả bỏ thân thể của mình, bất cứ nguy hiểm thế nào cũng không từ, nhất định phải cứu chúng sinh, khiến cho họ đắc được an lạc.
‘’ Lòng từ của Phật như hư không.’’ Tâm từ của Phật rộng lớn cỡ nào ? Lớn giống như hư không vô cùng tận, chẳng khi nào hết được.
‘’ Diệu Âm Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Diệu Âm Cú Thiên Vương hiểu được cảnh giới lòng đại từ của Phật đối với chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
...
Huệ quang thanh tịnh đầy thế gian
Nếu ai thấy được trừ si tối
Khiến họ thoát khỏi các đường ác
Tịch Tĩnh Thiên Vương ngộ pháp này.

‘’ Huệ quang thanh tịnh đầy thế gian.’’ Trí huệ quang của Phật, là tận hư không khắp pháp giới, do đó : ‘’Phật quang phổ chiếu.’’ Quang minh của Phật không những thanh tịnh mà còn trang nghiêm. Nếu chúng sinh nào bị quang minh của Phật chiếu đến, thì nhất định sẽ khai mở đại trí huệ. Muốn được quang minh của Phật chiếu, thì phải tinh tấn tu hành.
‘’ Nếu ai thấy được trừ si ám.’’ Nếu như người có căn lành lớn, thấy được quang minh của Phật, thì nhất định sẽ tiêu trừ sự đen tối ngu si của họ. Tại sao chúng sinh phải ngu si ? Vì tâm cảnh không chánh đại quang minh, luôn luôn ích kỷ tư lợi, chỉ nghĩ lợi ích cho cá nhân mình, cho nên vô minh càng ngày càng đen tối, càng đen tối thì càng ngu si, càng ngu si thì càng đen tối. Trong sách Luận Ngữ có câu :

"Những gì mình không muốn,
Ðừng bố thí cho người khác".


Nghĩa là việc gì mình không muốn, thì đừng gây tổn hại đến người khác, khiến cho họ sinh phiền não, do đó :‘’Suy bụng ta ra bụng người ’’, đó là đạo lý nhà Nho, cũng là nhân sinh quan tiêu cực. Phật giáo đề xướng từ bi, tức cũng là nhân sinh quan tích cực. Ðáng tiếc một số Phật tử hiểu lầm ngã Phật chân thật nghĩa, chuyên vì chính mình mà không đếm xỉa gì đến kẻ khác, cách xa tư tưởng Bồ Tát mười vạn tám ngàn dặm, nếu không hồi đầu thì càng đi càng xa.
‘’ Khiến họ thoát khỏi các đường ác.’’ Phật khiến tất cả chúng sinh đều thoát khỏi đường A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục. Tóm lại thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui, đạt đến Niết bàn.
Tịch Tĩnh Thiên Vương ngộ pháp này.’’ Vị Tịch Tĩnh Thiên Vương minh bạch pháp môn này.
...
Lại nữa, Thiện Hóa Thiên Vương được môn giải thoát, khai thị tất cả nghiệp lực biến hóa.

Ở trên đã giải thích xong những bài kệ và môn giải thoát của mười vị Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương. Bây giờ giải thích kệ tụng tán thán công đức của Phật và các môn giải thoát đắc được của mười vị Hóa Lạc Thiên Vương.
Vị Thiện Hóa Thiên Vương này là Thiên Vương từng trời thứ năm thuộc về dục giới. Vị này khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, lìa khổ được vui, phá vô minh, hiển pháp tính. Vì chúng sinh vô minh cho nên sinh ra mê hoặc. Do đó : ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo.’’ Hiểu rõ thì tạo nghiệp lành, mê hoặc thì tạo nghiệp ác. Tạo nghiệp lành thì thọ quả báo lành, tạo nghiệp ác thì thọ quả báo ác.

Nghiệp phân ra làm ba thứ :
1. Nghiệp thiện : Bạn tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, đó là lục độ vạn hạnh, lợi ích chúng sinh đó là nghiệp thiện.

2. Nghiệp ác : Bạn không tu lục độ vạn hạnh, không lợi ích chúng sinh, chuyên làm việc tổn hại người lợi mình, đó là nghiệp ác.

3. Nghiệp thiện ác hỗn tạp : Tạo nghiệp thiện thì có thể sinh về cõi trời, tạo nghiệp ác thì có thể đọa vào địa ngục. Nếu tạo nửa nghiệp thiện nửa nghiệp ác thì có thể làm người, cũng có thể làm súc sinh. Thiện nhiều ác ít thì gặp thuận cảnh, nếu ác nhiều thiện ít thì gặp nghịch cảnh, cho nên nếu chúng ta :‘’đừng làm các điều ác, mà làm các điều thiện‘’, thì sẽ dứt sạch nghiệp ác, tăng trưởng nghiệp thiện, như thế thì sẽ đắc được giải thoát.

Vị Thiên Vương này dùng đủ thứ ngôn ngữ văn tự, để nói rõ về lý thiện ác, khiến cho chúng sinh biết nghiệp thiện và nghiệp ác, đều hổ tương biến hóa. Nếu trong thiện có ác, thì quả báo đắc được cũng có tốt có sấu. Nếu trong ác có thiện thì quả báo đắc được cũng có khổ có vui. Ðó là sức lực hổ tương biến hóa. Tóm lại, trồng nhân gì thì kết quả đó. Trồng nhân thiện thì kết quả tốt, trồng nhân ác thì kết quả xấu, đó là môn giải thoát của vị Thiên Vương này đắc được.

Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, lìa bỏ tất cả sự phan duyên.

Vị Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương đắc được môn giải thoát, xả lìa tất cả phan duyên. Một số chúng sinh thường có đủ thứ tâm phan duyên. Phan duyên là gì ? Tức là muốn được lợi ích, dùng đủ thứ thủ đoạn để phan duyên, đó là vì danh mà phan duyên. Nếu khiến được sáu căn không phan duyên với sáu trần, thì tâm sẽ thanh tịnh. Trên thế giới này có hai loại người, một là vì danh mà phan duyên, một là vì lợi mà phan duyên. Cầu danh thì chết về danh, chết ở trong lửa, cầu lợi thì chết về lợi, chết ở trong nước. Danh thuộc về lửa, lợi thuộc về nước. Kẻ vì danh lợi mà phan duyên, thì không bị lửa thiêu chết thì cũng bị chết vì nước. Vị Thiên Vương này buông xả hết tâm phan duyên, đắc được môn giải thoát tự tại.
Hình ảnh


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương được môn giải thoát, diệt trừ tâm si tối của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được trí huệ viên mãn.

Vị Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương này, khiến cho tất cả chúng sinh tiêu diệt tâm ngu si đen tối, khiến cho trí huệ của tất cả chúng sinh đều viên mãn. Tại sao có tâm si ám ? Vì không có trí huệ. Vị Thiên Vương này, khiến cho chúng sinh tu tập Bát Nhã. Bát Nhã càng ngày càng tăng trưởng thì, đen tối càng ngày càng tiêu diệt. Như vậy thì trí huệ sẽ viên mãn, viên mãn tức là giác ngộ, giác ngộ tức là giải thoát. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
...
Các môn quán Phật không chỗ có
Tìm khắp mười phương không thể được
Pháp thân thị hiện không chân thật
Tịch Tĩnh Âm Thiên thấy môn này.

‘’ Các môn quán Phật không chỗ có.’’ Chúng sinh muốn quán pháp thân của Phật, dùng hết đủ loại phương pháp cũng không nhìn thấy Phật. Vậy nhìn không thấy Phật, phải chăng không có Phật ? Không phải. Giống như chúng ta nhìn hư không, nhìn thấy hư không chăng ? Không thấy. Vì hư không chẳng có hình tướng, nhìn không thấy hư không, mà dùng đủ thứ phương pháp để xem hư không ra sao ? Kết quả vẫn nhìn chẳng thấy, nếu nhìn thấy thì chẳng phải là hư không.
Pháp thân Phật cũng thế. Bạn nhìn không thấy hư không, nhưng không thể nói là chẳng có hư không. Bạn nhìn không thấy Phật, nhưng không thể nói là chẳng có Phật, đó là đạo lý tương đồng.

‘’ Tìm khắp mười phương không thể được.’’ Muốn đến mười phương để tìm Phật, chẳng thể được vì pháp thân Phật là vô tại vô bất tại.
‘’ Pháp thân thị hiện không chân thật.’’ Pháp thân của Phật như hư không. Chỗ nào có hư không thì chỗ đó có pháp thân Phật tồn tại, cho nên nói pháp thân không có tánh chân thật.
‘’ Tịch Tĩnh Âm Thiên thấy môn này.’’ Vị Tịch Tĩnh Âm Quang Minh Thiên Vương thấy được, hiểu được môn giải thoát này.
Phật trong biển kiếp tu các hạnh
Vì diệt si tối hoặc thế gian
Trí huệ thanh tịnh chiếu sáng nhất
Lực Quang Thiên Vương ngộ môn này.


‘’ Phật trong biển kiếp tu các hạnh.’’ Mỗi vị Phật đều ở trong vô lượng biển kiếp mà tu thành, cho nên tất cả chư Phật đều siêu việt hơn người. Vì tâm nhẫn nại của Phật lớn nhất, bất cứ gặp việc gì cũng đều nhẫn nhục được, nhẫn được những gì người khác không thể nhẫn. Bất cứ gặp việc gì cũng đều khiêm nhường, nhường những gì người khác không thể nhường. Bất cứ gặp việc gì cũng đều chịu được, chịu những gì người khác không thể chịu được. Phật tu đủ thứ hạnh môn như vậy, đều tu hành viên mãn.
Phật có đại nhẫn nhục, đại khiêm nhường, đại chịu đựng, đều do tu tập các hạnh mà được. Phật đại bố thí, đại trì giới, đại nhẫn nhục, đại tinh tấn, đại thiền định, đại Bát nhã cũng do tu các hạnh mà được.
‘’ Vì diệt si tối hoặc thế gian.’’ Tại sao Phật phải tu các hạnh ? Vì muốn diệt trừ tất cả : vô minh, ngu si, đen tối của chúng sinh thế gian. Vô minh sinh ra tức là ngu si. Ngu si tức là đen tối. Phải diệt sạch si, ám, hoặc thì sẽ đắc được đại quang minh tạng.

‘’ Trí huệ thanh tịnh chiếu sáng nhất.’’ Trí huệ của Phật thanh tịnh nhất, chiếu khắp tất cả quang minh, khiến tất cả chúng sinh dứt sạch si ám hoặc, cũng đắc được trí huệ quang minh.
‘’ Lực Quang Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới này vị Biến Hóa Lực Quang Minh Thiên Vương ngộ được.

Tất cả diệu âm thanh thế gian
Không thể sánh được tiếng Như Lai
Phật dùng một âm khắp mười phương
Trang Nghiêm Thiên Vương chứng môn này.

‘’ Tất cả diệu âm thanh thế gian.’’ Trong thế gian có nhiều âm thanh hay, ai ai cũng đều thích nghe, nghe rồi thì sinh tâm mê hoặc. Do đó Lão Tử có nói : ‘’

Ngũ sắc khiến cho người mờ mắt,
Ngũ âm khiến cho người tai điếc,
Ngũ vị khiến người miệng lầm lỡ.’’


Ngũ sắc : Tức là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Ngũ sắc này hổ tương tạp loạn, khiến cho con mắt phân biệt không rõ ràng cứu kính là màu gì ? Giống như người mắt mờ, cho nên nói năm màu làm cho người mờ mắt.
Ngũ âm : Tức là cung, thương, giác, chủy, vũ. Năm âm thanh này êm tai vô cùng, làm cho người nghe rồi sinh mê hoặc, bị ngũ âm mê hoặc rồi thì chẳng có trí huệ. Người chẳng có trí huệ thì sẽ làm việc điên đảo, cho nên nói ngũ âm khiến cho người tai điếc.
Ngũ vị : Tức là ngọt, mặn, đắng, chua, cay. Năm vị này điều hòa hợp khẩu vị, khiến cho người thích ăn, càng thích ăn thì càng ăn, khiến cho chân chánh trí huệ của con người bị mê hoặc, cho nên nói ngũ vị khiến cho người miệng lầm lỡ.

‘’ Không thể sánh được tiếng Như Lai.’’ Bất cứ âm thanh gì trên thế gian, đều không thể sánh với âm thanh của Ðức Phật. Âm thanh của Phật là hay nhất, biến hóa vô cùng, bất cứ một loài chúng sinh nào nghe cũng đều hiểu được.
‘’ Phật dùng một âm khắp mười phương.’’ Phật dùng một thứ âm thanh thuyết pháp, mà mười phương thế giới đều nghe được diệu âm này, không những nghe được mà còn hiểu được nghĩa lý pháp của Phật nói.
‘’ Trang Nghiêm Thiên Vương chứng môn này.’’ Vị Trang Nghiêm Chủ Thiên Vương được cảnh giới môn giải thoát này.
Tất cả phước báu của thế gian
Không bằng một tướng của Như Lai
Phước đức Như Lai đồng hư không
Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy.

‘’ Tất cả phước báu của thế gian.’’ Tại sao chúng ta thọ khổ ? Vì chúng ta chẳng tu phước. Tại sao Phật không khổ ? Vì Phật tu phước tu huệ trong ba đại A tăng kỳ kiếp. Do đó :

‘’ Chịu khổ thì hết khổ,
Hưởng phước thì hết phước.’’


Phước là do tích lũy từng chút từng chút mà thành. Chúng ta luôn luôn làm lợi ích cho người là tu phước, luôn luôn giúp đỡ người là tu phước, luôn luôn không ích kỷ là tu phước, luôn luôn không tư lợi là tu phước. Tóm lại luôn luôn phải vun bồi tu phước.
‘’ Chẳng bằng một tướng của Như Lai.’’ Tất cả phước báu của thế gian, không thể so sánh bất cứ một tướng nào, trong ba mươi hai tướng của Phật. Do đó :

‘’ Ba Tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt.’’


Khi Ðức Phật tại nhân địa thì, dù phước rất nhỏ cũng phải tu, không bỏ qua, thời gian trải qua ba đại A tăng kỳ tu hành, mới đắc được ba mươi hai tướng tốt.
‘’ Phước đức Như Lai đồng hư không.’’ Phước đức của Phật vô lượng vô biên giống như hư không.
‘’ Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy.’’ Cảnh giới này vị Niệm Quang Thiên Vương quán sát thấy được, và hiểu được đạo lý này.
...
Nhân duyên tánh nghiệp không nghĩ bàn
Phật vì thế gian mà diễn nói
Pháp tánh vốn sạch không dơ bẩn
Môn này Hoa Quang thấu triệt được.

‘’ Nhân duyên tánh nghiệp không nghĩ bàn.’’ Tánh của ghiệp vốn chẳng có, vì chúng sinh vô minh cho nên sinh ra hoặc, hoặc sinh ra rồi thì tạo nghiệp. Khi hiểu biết thì tạo nghiệp thiện ; khi hồ đồ thì tạo nghiệp ác. Tạo nghiệp thiện thì có nhân duyên thiện ; tạo nghiệp ác thì có nhân duyên ác. Như vậy chẳng có pháp nhất định, không thể nói nhất định là như vầy, cũng không thể suy lường, chẳng phải một số người minh bạch được.
‘’ Phật vì thế gian mà diễn nói.’’ Phật vì tất cả chúng sinh thế gian, cho nên thường nói pháp nhân duyên tánh của nghiệp. Khiến cho chúng sinh minh bạch nguồn gốc tánh của nghiệp, nhân duyên gì thì sinh tánh nghiệp đó.
’ Pháp tánh vốn sạch không dơ bẩn.’’ Bất cứ pháp gì, bản tính của nó đều thanh tịnh, chẳng có dơ bẩn.
‘’ Môn này Hoa Quang thấu triệt được.’’ Hoa Quang Kế Thiên Vương, do cảnh giới này mà ngộ nhập đắc được môn giải thoát này.
Hãy quán một lỗ lông của Phật
Tất cả chúng sinh đều ở trong
Ðó đây không đến cũng không đi
Phổ Kiến Thiên Vương ngộ môn này.

‘’ Hãy quán một lỗ lông của Phật.’’ Bạn hãy quán sát kỹ càng trong mỗi lỗ chân lông của Phật có những gì ?
‘’ Tất cả chúng sinh đều ở trong.’’ Chỉ cần quán sát kỹ thì, sẽ thấy tất cả chúng sinh, đều ở trong lỗ lông của Phật, đó là đạo lý gì ?
‘’ Ðó đây không đến cũng không đi.’’ Chúng sinh cũng không đến trong lỗ chân lông Phật, Phật cũng chẳng đi bên cạnh chúng sinh. Nhưng chúng sinh đều xuất hiện ở trong lỗ lông của Phật, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Phật cũng chẳng đến, chúng sinh cũng chẳng đến ; Phật cũng chẳng đi, chúng sinh cũng chẳng đi, nhưng cảnh giới này xuất hiện, cho nên nói đó đây chẳng đến cũng chẳng đi.
‘’ Phổ Kiến Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới này Phổ Kiến Thiên Vương thấy rõ mà đắc được môn giải thoát không thể nghĩ bàn này.

(xin xem tiếp theo 1)
Tập tin đính kèm
Kinh Kim Cang
Kinh Kim Cang
VajraPrajnaViet_L.jpg (16.94 KiB) Đã xem 1534 lần


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

http://www.chuakimquang.com/vn/Tu-Lieu/ ... ep-Theo-1/
Lại nữa, Tri Túc Thiên Vương, được môn giải thoát, tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, đều chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn.

Vị Tri Túc Thiên Vương này thuộc về từng trời thứ tư (trời Ðâu Xuất) của dục giới, vị này biết tri túc cho nên thường an lạc. Không tri túc thì luôn luôn khổ. Như Bồ Tát Di Lặc, Ngài thường tri túc cho nên Ngài luôn luôn hoan hỷ, mở miệng liền cười chẳng có sầu lo. Do đó :‘’ tâm rộng thể mập‘’, tôn dung của Ngài đầu to tai lớn, mặt đầy sự hoan hỷ vui cười, bụng to lớn, chịu đựng được những việc thiên hạ không thể chịu đựng được. Bất cứ ai biết tri túc thì dù nghèo cũng an vui. Nay có bài thơ tả về sự không biết đủ :

‘’ Suốt ngày bận rộn chỉ vì đói
Vừa mới ăn no nghĩ áo quần
Cơm áo hai thứ đều đầy đủ
Lại mơ dung nhan người vợ đẹp
Hỏi được vợ đẹp sinh con cái
Hận không ruộng vườn ít đất đai
Tậu được nhiều ruộng lắm đất đai
Ra vào không kiệu chẳng ngựa cưỡi
Mua được một số lừa và ngựa
Lại than chẳng được làm quan bị người khinh
Ðược làm quan huyện hiềm còn nhỏ
Lại muốn làm vua trong thiên hạ.’’


Ðó là hình dung của người tham lam không biết chán. Không bao giờ biết đủ.
Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát : tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, xuất hiện ra đời chuyển pháp luân giáo lý viên mãn.
Giáo lý viên mãn là gì ? Căn cứ theo Hiền Thủ Giáo thì phân làm : Tiểu giáo, thủy giáo, chung giáo, đốn giáo, viên giáo. Tiểu, thủy, chung ba giáo này là bán tự giáo. Ðốn, viên hai giáo này là viên mãn giáo. Căn cứ theo Thiên Thai Giáo thì phân làm tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo. Tạng, thông hai giáo này là bán tự giáo, biệt giáo là đối với bán tự giáo nói rõ mãn tự giáo, viên giáo là mãn tự giáo. Thiên Thai Giáo còn có đốn, tiệm, bí mật, bất định bốn giáo, đây là thuộc về bất viên giáo.
Những gì nói bây giờ là giáo lý viên mãn tức là viên giáo. Chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn, tức là pháp đại thừa. Kinh điển đại thừa là gì ? Như : Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già, Kinh Kim Cang, Kinh Di Ðà .v.v., đều là pháp đại thừa. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát chuyển bánh xe pháp giáo lý viên mãn.

Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương, được môn giải thoát, thân thanh tịnh quang minh tận cõi hư không.

Vị Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương này hoan hỷ và khoái lạc phi thường. Vị này đắc được cảnh giới, trí huệ thân thanh tịnh quang minh, tận cõi hư không, và còn hiểu được pháp thân của Phật, tận hư không khắp pháp giới, quang minh chiếu sáng khắp tất cả.

Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, biển nguyện thanh tịnh, tiêu diệt khổ của thế gian.

Vị Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương này đầy đủ công đức thù thắng nhất, giống như tràng báu cho nên được tên này.
Khổ thế gian có ba sự khổ, tám sự khổ, vô lượng sự khổ, những sự khổ này không dễ gì tiêu diệt được. Nhưng vị Thiên Vương này tiêu diệt được những sự khổ này, còn phát nguyện thanh tịnh nhiều như nước trong biển, đó là môn giải thoát vị này đắc được.

Nay giải thích ba sự khổ, tám sự khổ và vô lượng sự khổ. Ba sự khổ tức là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
1. Khổ khổ : Là khổ của người nghèo. Tuy nhiên ăn không được no, mặc không đủ ấm, nhưng vẫn có nhà để ở, một ngày nọ chẳng may bị cháy, không nhà để ở, đó là sự khổ trong sự khổ.
2. Hoại khổ : Là khổ của người giàu. Buôn bán chẳng may bị thua lỗ, hoặc nhà cửa bị cháy, tài sản bị cháy sạch, hoặc bị trộm cướp, tất cả đều mất hết, đó là khổ về sự hủy hoại.
3. Hành khổ : Chẳng phải khổ khổ của người nghèo, cũng chẳng phải hoại khổ của kẻ giàu, mà là khổ về sinh già bệnh chết của con người. Là con người đến lúc thì sinh già bệnh chết đều đến để tìm phiền não, chính mình chẳng làm chủ được, đó là hành khổ.


Tám sự khổ là sinh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh.
1. Khổ về sinh : Sinh khổ như thế nào ? Khi sinh ra thì giống như rùa bị lột mu, sự khổ không thể nói được.
2. Khổ về già : Về già thì tai điếc, mắt mù, tay chân yếu ớt, bạn nói khổ chăng ?
3. Khổ về bệnh : Bệnh thì toàn thân đau khổ, không tự tại, cũng rất khổ.
4. Khổ về chết : Chết thì giống như bò bị lột da, khó mà tả được. Lúc này dù muốn niệm Phật, cũng niệm không ra. Cho nên lúc bình thường phải niệm Phật cho nhiều, huấn luyện thành tự nhiên, thành tập quán, đến khi lâm chung thì tâm miệng nhớ niệm Phật, không bị hoảng hốt.
5. Khổ về ái biệt ly : Khi người thân sinh ly tử biệt là việc đau khổ nhất của con người.
6. Khổ về ghét mà gặp nhau : Người mà bạn không thích, ghét mà thường gặp, đó cũng là một nỗi khổ.
7. Khổ về cầu không được : Cầu tài không được tài, cầu danh không được danh, cầu con cái không được cũng khổ.
8. Khổ về năm ấm xí thạnh : Sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm ấm này giống như lửa lớn thiêu đốt, khiến cho bạn không được tự tại mát mẻ cũng là khổ.


Vô lượng khổ tức là khổ không nói hết được. Thế giới Ta Bà này đầy dẫy sự thống khổ, nhưng chúng sinh thế giới này lấy khổ làm vui, còn không muốn ra khỏi tam giới, thật đáng thương xót !
...
Thân Phật hiện khắp trong mười phương
Vô trước vô ngại không thể lấy
Ðủ thứ sắc tướng thảy đều thấy
Hỷ Kế Thiên Vương được môn này.

‘’ Thân Phật hiện khắp trong mười phương.’’ Pháp thân của Phật, hiện khắp cõi nước chư Phật trong mười phương, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, phát vô thượng bồ đề tâm, thành vô thượng bồ đề quả.
Ðức Phật chẳng phải cố ý biểu hiện thần thông, mà là vì giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo, cho nên mới thị hiện đủ loại thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn.
‘’ Vô trước vô ngại không thể lấy.’’ Tuy nhiên Phật thị hiện thần thông diệu dụng, nhưng chẳng chấp trước về thần thông diệu dụng, cũng chẳng chấp trước về chân không và cũng không ngại diệu hữu, do đó :

‘’ Vô trước nơi chân không, cho nên có diệu dụng ;
Vô ngại nơi diệu dụng, cho nên có chân không.’’


Chân không diệu hữu là không thể lấy không thể bỏ, tức là giữ lấy chẳng đặng mà xả cũng chẳng đặng, đó là cảnh giới chân không diệu hữu.
‘’ Ðủ thứ sắc tướng thảy đều thấy.’’ Vì quan hệ diệu hữu, cho nên Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chúng sinh thế gian đều có thể nhìn thấy được.

‘’ Hỷ Kế Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Hỷ Lạc Hải Kế Thiên Vương đắc được.
Quá khứ Như Lai tu các hạnh
Thanh tịnh đại nguyện sâu như biển
Tất cả Phật pháp đều đầy đủ
Thắng Ðức Thiên Vương ngộ môn này.

‘’ Quá khứ Như Lai tu các hạnh.’’ Phật tại nhân địa tu lục độ vạn hạnh, tu tất cả các pháp môn. Vì hành Bồ tát đạo, đã từng bố thí sinh mạng của mình, chỉ cần tất cả chúng sinh, cần tất cả mọi sự thì Phật đều bố thí, tuyệt đối không xan tham.
‘’ Thanh tịnh đại nguyện sâu như biển.’’ Phật tại nhân địa tu đủ thứ hạnh môn, để lợi ích chúng sinh và còn phát đại nguyện thanh tịnh để hóa độ chúng sinh. Ðại nguyện thanh tịnh tức là, chẳng còn một chút tâm dục niệm, tức cũng là đoạn dục khử ái. Nguyện đời đời kiếp kiếp xuất gia tu hành, tu giới tu định tu huệ, xa rời tất cả pháp nhiễm ô. Nguyện lực của Phật sâu rộng như biển, cao như núi Tu Di.
‘’ Tất cả Phật pháp đều đầy đủ.’’ Vì đại nguyện sâu hơn biển cả, cao hơn núi, cho nên tất cả Phật pháp, đều đầy khắp thế gian, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Phật đắc được Phật pháp viên mãn, cũng dạy chúng sinh đắc được Phật pháp viên mãn, đó là biểu hiện đại từ đại bi của Phật.

‘’ Thắng Ðức Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Tối Thắng Công Ðức Tràng Thiên Vương biết được pháp môn phương tiện này, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
...
Chúng sinh bị nghiệp hoặc ràng buộc
Kiêu mạn phóng dật tâm buông lung
Như Lai vì nói pháp tịch tĩnh
Thiện Mục thấu rõ pháp môn này.

‘’ Chúng sinh bị nghiệp hoặc ràng buộc.’’ Chúng sinh : khởi hoặc, tạo nghiệp, cho nên phải chịu quả báo. Giống như bị dây thừng trói buộc, không thể động đậy và giống như ở trong lu, bị đậy nắp lại không thể động đậy được.
‘’ Kiêu mạn phóng dật tâm buông lung.’’ Kiêu là kiêu mạn, mạn là ngã mạn. Kiêu ngạo là khinh khi người, chẳng coi ai ra gì, ngã mạn là chẳng có lễ phép. Phóng dật là không giữ quy cụ. Ba hành vi không chánh đáng này, khiến cho tâm thần lêu lổng. Phật dạy chúng sinh phải thu tâm lại, tâm đừng chạy bên ngoài, đừng lêu lổng, phải xa rời ba tư tưởng không chánh đáng này.
‘’ Như Lai vì nói pháp tịch tĩnh.’’ Làm thế nào để từ bỏ tư tưởng kiêu ngạo, ngã mạn và phóng dật ? Phật vì chúng sinh nói pháp tịch tĩnh, đó là thuốc rất hiệu nghiệm, tiêu diệt ba thứ tư tưởng không tốt này.
‘’ Thiện Mục thấu rõ pháp môn này.’’ Ðó là cảnh giới môn giải thoát vị này đắc được.
Tất cả chân đạo sư thế gian
Vì cứu chúng sinh mà xuất hiện
Khiến khắp chúng sinh được an lạc
Phong Nguyệt thâm nhập pháp môn này.

‘’ Tất cả chân đạo sư thế gian.’’ Thế gian chẳng phải là một, mà là có vô lượng vô biên thế gian, cho nên nói tất cả thế gian. Trong tất cả thế gian phân làm ba thế gian :
1. Chánh giác thế gian : Tức là lúc Phật còn tại thế.
2. Khí thế gian : Tức là sơn hà đại địa, tức cũng là y báo.
3. Chúng sinh thế gian : Tức là thế giới chúng sinh ở, tức là chánh báo.

Còn có lối nói khác, phân ra thế gian này, thế gian kia và vô lượng các thế gian. Thế giới này, thế giới kia và vô lượng thế giới. Quốc độ này, quốc độ kia và vô lượng các quốc độ, đó cũng gọi là tất cả thế gian.
Chân đạo sư tức là đạo sư chỉ dẫn chân chánh, cũng là đạo sư chân chánh hiểu biết tất cả chân lý, chẳng có tâm ích kỷ tự lợi, là đại công vô tư, đại từ bình đẳng, giáo hóa hết thảy tất cả chúng sinh, bất cứ là thiện hay ác đều chẳng có tâm phân biệt, đều giáo hóa bình đẳng. Chúng sinh thiện thì khiến cho họ thiện căn tăng trưởng, chúng sinh ác thì khiến cho họ cải ác hướng thiện. Ðức Phật chẳng bỏ một chúng sinh nào, cho nên mới là đạo sư chân chánh.

Phật là Ðạo sư xuất thế gian, hướng dẫn bạn từ con đường đen tối chỉ dẫn đến con đường ánh sáng, khiến cho vô minh phiền não của bạn thành bồ đề trí huệ, khiến cho bạn bỏ mê về giác, bỏ tà theo chánh, cho nên là chân chánh đại đạo sư.
‘’ Vì cứu chúng sinh mà xuất hiện.’’ Phật xuất hiện ra đời, là vì cứu độ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được chánh giác, đạt được Niết Bàn.
Trong Kinh Pháp Hoa có nói : ‘’ Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.’’ Ðại sự nhân duyên đó là : sinh tử của chúng sinh. Phật vì sinh tử của chúng sinh mà đến thế giới này.
‘’ Khiến khắp chúng sinh được an lạc.’’ Phật độ tất cả chúng sinh, không riêng gì chúng sinh thiện mới độ, mà chúng sinh ác cũng đều độ họ, khiến cho tất cả đều bỏ mê về giác, bỏ tà về chánh. An lạc tức là chẳng có tham sân si tất cả phiền não. Khi đắc được an lạc chân chánh thì sinh ra giới tâm, định tâm và huệ tâm.

‘’ Phong Nguyệt thâm nhập pháp môn này.’’ Bảo Phong Nguyệt Thiên Vương minh bạch môn giải thoát này.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn
Ðều bao khắp tất cả pháp giới
Vào nơi các pháp đến bờ kia
Dũng Huệ chứng ngộ sinh vui mừng.

‘’ Cảnh giới chư Phật không nghĩ bàn.’’ Cảnh giới của mười phương chư Phật diệu không thể tả, chẳng phải phàm phu hiểu biết được. Cảnh giới này tuy nhiên không thể nghĩ bàn, nhưng không ra ngoài một niệm tâm hiện tiền.
‘’ Ðều bao khắp tất cả pháp giới.’’ Pháp giới rộng lớn phi thường, lớn mà không ở ngoài. Pháp giới cực nhỏ phi thường, nhỏ mà không ở trong. Tất cả pháp giới tức là tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh tức là tất cả pháp giới. Quang minh của Phật chiếu khắp tất cả pháp giới, mỗi chúng sinh đều tiếp thọ được quang minh của Phật chiếu sáng, khiến cho chúng sinh hiểu được nghĩa lý các pháp, y theo pháp mà tu hành.
‘’ Vào nơi các pháp đến bờ kia.’’ Nếu y theo pháp tu hành, thì sẽ đạt đến bờ bên kia không sinh không diệt.
Từ tâm tham biến thành bố thí, bèn đạt đến bờ bên kia bố thí. Từ không giữ giới mà giữ giới được, bèn đạt đến bờ bên kia giới luật. Nguồn gốc tâm nóng giận quá lớn, vì tâm sân hận quá nặng, khi hiểu Phật pháp rồi thì tu pháp môn nhẫn nhục ; nhẫn nhục thì đối trị tâm sân hận. Tâm sân hận chẳng còn, thì đạt được bờ bên kia nhẫn nhục. Nguồn gốc rất lười biếng, việc gì cũng chẳng muốn làm, khi hiểu Phật pháp rồi, thì tinh tấn không giải đãi, tức là đạt được bờ bên kia tinh tấn. Nguồn gốc chẳng muốn ngồi thiền vì lưng ê chân đau phát chán nản, khi hiểu Phật pháp rồi thì tự động muốn tu thiền định, tức là đạt được bờ bên kia thiền định. Nguồn gốc rất ngu si, không rõ lý sự, khi hiểu Phật pháp rồi thì siêng tụng Kinh điển, nghiên cứu tạng luận, đắc được trí huệ, đó là bờ bên kia trí huệ.
‘’ Dũng Huệ chứng ngộ sinh vui mừng.’’ Vị Dũng Huệ Kiến Thiên Vương minh bạch được cảnh giới này, cho nên trong tâm sinh ra đại hoan hỷ.

Nếu có chúng sinh đáng được độ
Nghe công đức Phật phát bồ đề
Trụ ở biển phước thường thanh tịnh
Diệu Quang quán thấy pháp môn này.

‘’ Nếu có chúng sinh đáng được độ.’’ Nếu như có chúng sinh, đáng được sự giáo hóa của Phật, thì khiến cho họ, tiếp thọ được sự giáo hóa của Phật. Những chúng sinh không đáng được độ, tức là chúng sinh phạm ngũ nghịch mười điều ác. Ngũ nghịch tức là : Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Mười điều ác tức là : Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chưởi mắng, tham dục, sân hận, ngu si. Những loại chúng sinh này không kham thọ được sự giáo hóa.
‘’ Nghe công đức Phật phát bồ đề.’’ Những chúng sinh kham thọ sự giáo hóa, khi nghe công đức của Phật, thì đều phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ muôn loài. Phật khiến cho những chúng sinh phát bồ đề tâm, vĩnh viễn không sinh tâm thối chuyển.

‘’ Trụ ở biển phước thường thanh tịnh.’’ Phật khiến cho họ trụ ở trong biển phước, luôn luôn đắc được thanh tịnh, chẳng có tư tưởng nhiễm ô.
‘’ Diệu Quang quán thấy pháp môn này.’’ Vị Kim Cang Diệu Quang Thiên Vương quán sát và minh bạch được cảnh giới môn giải thoát này.

Mười phương cõi nước số hạt bụi
Hết thảy đều tụ nơi chư Phật
Cung kính cúng dường nghe Phật pháp
Trang Nghiêm Tràng thấy rõ môn này.

‘’ Mười phương cõi nước số hạt bụi.’’ Mười phương tức là : Ðông, tây, nam, bắc, tứ duy, thượng, hạ. Mười phương cõi nước chư Phật nhiều như số hạt bụi, cho nên gọi là cõi nước số hạt bụi.
Thế giới mà chúng ta đang ở, chỉ là một hạt bụi trong thế giới mà thôi. Ngoài ra các thế giới khác, số lượng không cách chi mà tính đếm được. Trong một số Kinh điển đều dùng Hằng hà sa số (số cát sông Hằng) để đại biểu, bổn Kinh này dùng số hạt bụi để đại biểu. Tên gọi tuy chẳng giống, nhưng ý nghĩa đều giống nhau.
‘’ Tất cả đều tụ nơi chư Phật.’’ Những bậc Bồ Tát đều tụ tập nơi chỗ Ðức Phật.
‘’ Cung kính cúng dường nghe Phật pháp.’’ Mười phương chư Phật trong mười phương thế giới, nói pháp không điên đảo, tất cả chúng sinh nghe Phật nói pháp không điên đảo rồi, liền minh bạch pháp không điên đảo. Pháp không điên đảo là gì ? Tức là pháp phá vô minh. Nếu phá được vô minh thì dứt được tập khí phiền não, chẳng còn điên đảo nữa.
Vì có vô minh mà sinh hoặc, sinh hoặc thì đi tạo đủ thứ nghiệp, sau đó thì thọ đủ thứ quả báo, đó là khởi hoặc tạo nghiệp thọ quả báo.
‘’ Trang Nghiêm Tràng thấy rõ môn này.’’ Tất cả chúng sinh đến chỗ chư Phật để nghe pháp, cung kính Phật, cúng dường Phật, cảnh giới này vị Trang Nghiêm Tràng Thiên Vương thấy rõ.

Biển tâm chúng sinh không nghĩ bàn
Không trụ không động không chỗ nương
Phật trong một niệm đều thấy rõ
Diệu Trang Nghiêm Thiên ngộ môn này.


‘’ Biển tâm chúng sinh không nghĩ bàn.’’ Chúng sinh tức là chúng duyên giả hợp mà sinh. Có rất nhiều giống loài, mỗi loài có nhân duyên của mỗi loài mà sinh. Thông thường có bốn thứ sinh :
1. Sinh bằng thai, như loài thú đi bằng bốn chân.
2. Sinh bằng trứng, như phi cầm hai chân.
3. Sinh bằng ẩm thấp như loại côn trùng.
4. Sinh bằng biến hóa như bươm bướm.


Con người thì sinh bằng thai. Người trời thì hóa sinh, chúng sinh cõi Cực Lạc Thế Giới là hóa sinh trên hoa sen, chúng sinh địa ngục là nghiệp cảm hóa sinh.

Nói rộng hơn, chúng sinh có chín loài :
1. Thai sinh.
2. Noãn sinh.
3. Thấp sinh.
4. Hóa sinh.
5. Có sắc.
6. Không sắc.
7. Có tưởng.
8. Không tưởng.
9. Chẳng có tưởng chẳng không tưởng.


Trong Kinh Lăng Nghiêm, tám loài đồng như ở trên, riêng còn vài loài nữa là : Chẳng có sắc, chẳng không sắc, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, cộng thành mười hai loài. Thật ra đại đồng tiểu dị, nội dung chẳng khác mấy.
Tâm chúng sinh như biển cả, không thể nghĩ bàn. Pháp giới tuy lớn nhưng không ra ngoài tâm của chúng sinh. Tâm chúng sinh tuy nhỏ, nhưng bao khắp pháp giới. Vì quan hệ như vậy cho nên nói : Tâm pháp, Phật pháp, chúng sinh pháp chẳng có sự khác nhau. Pháp giới lớn, tâm lượng chúng sinh cũng lớn, Phật tánh cũng lớn, cho nên biển tâm của chúng sinh, chẳng có cách chi dùng ngôn ngữ để diễn đạt. Vì nó không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.
‘’ Không trụ không động không chỗ nương.’’ Tâm chúng sinh chẳng chấp trước trụ vào chỗ nào. Trong Kinh Kim Cang nói : ‘’ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,’’ tâm là như như bất động, liễu liễu thường minh. Bát nhã trí huệ vốn hiện tiền, tâm chẳng có một xứ sở nào. Vì tâm là vô trụ vô bất trụ.
‘’ Trong một niệm Phật đều thấy rõ.’’ Phật ở trong một niệm đều biết và thấy rõ tất cả mọi tâm niệm, mọi tư tưởng của chúng sinh.
‘’ Diệu Trang Nghiêm Thiên ngộ môn này.’’ Cảnh giới này vị Diệu Trang Nghiêm Thiên Vương minh bạch được.
...
Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng Thiên Vương, được môn giải thoát, đại bi luân diệt trừ tất cả hoạn nạn.

Vị Vô Tận Huệ Công Ðức Tràng Thiên Vương này, trí huệ không cùng tận và công đức như tràng báu. Vị này diệt trừ tất cả hoạn nạn như bệnh hoạn, tai hoạn, họa hoạn, hỏa hoạn, thủy hoạn, phong hoạn .v.v.
Và còn có một thứ hoạn nữa đó là tâm hoạn, tức là hoạn được hoạn mất. Nếu không được vật mong muốn thì, nghĩ hết biện pháp để chiếm cho được đó là hoạn được. Ðã được rồi thì lại sợ mất đó là hoạn mất. Vị Thiên Vương này dùng đại bi luân, đến khắp tất cả chỗ hoạn nạn. Nơi nào mà có hoạn nạn thì, có vị này dùng đại bi luân đi diệt trừ. Ðại bi luân tức là tâm đại bi. Vị này dùng tâm đại bi đi cứu tất cả khổ hoạn nạn của chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
...
Quang Chiếu Thiên Vương, được môn giải thoát, vượt khỏi tất cả nghiệp chướng, không thuận theo chỗ làm của ma.

Vị Quang Chiếu Thiên Vương này, phóng đại quang minh, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, cho nên không tùy thuận theo chỗ của ma. Ma thuộc về đen tối, nhưng đại quang minh phá trừ đen tối. Vị này đắc được môn giải thoát vượt khỏi tất cả nghiệp chướng.

Tất cả nghiệp chướng có báo chướng và phiền não chướng. Nghiệp chướng tức là tạo tất cả nghiệp ác làm chướng ngại tâm tu đạo. Báo chướng tức là nghiệp đã tạo ra phải thọ quả báo, quả báo này cũng chướng ngại sự tu đạo. Làm súc sinh thì không dễ gì nghe Kinh nghe pháp, làm ngạ quỷ thì càng không dễ gì nghe được Phật pháp, những loại chúng sinh này không dễ gì tu đạo. Phiền não chướng tức là người tu đạo phiền não quá nhiều, cũng sẽ chướng ngại sự tu đạo. Tất cả chướng này đều gần với ma, nếu không cẩn thận thì sẽ lạc vào đường ma.
Vị Thiên Vương này dùng trí huệ để chiếu soi, chiến thắng ma quân, không tùy thuận chỗ làm của ma. Ma vương dạy đừng bố thí, nhưng vị này nhất quyết bố thí. Ma vương dạy đừng trì giới, nhưng vị này nhất định phải trì giới. Ma vương dạy đừng tinh tấn, vị này nhất định phải tinh tấn. Ma vương dạy nóng giận, nhưng vị này nhất định phải nhẫn nhục. Ma vương dạy đừng chuyển bánh xe pháp, vị này nhất định phải chuyển bánh xe pháp. Ma vương dạy đừng tham thiền, vị này nhất định tham thiền. Tóm lại, vị này không chuyển theo ma cảnh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
...
Sinh già bệnh chết ưu bi khổ
Thế gian bức bách không ngừng nghỉ
Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ
Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.

‘’ Sinh già bệnh chết ưu bi khổ.’’ Phật vì muốn chấm dứt : sinh già bệnh chết bốn sự khổ lớn, mới xuất gia tu hành. Phật tầm đạo tu khổ hạnh sáu năm, nhưng không được phương pháp giải thoát, cuối cùng tĩnh tọa dưới cội bồ, đề hốt nhiên đại ngộ, biết được nguồn gốc vòng sinh tử, là từ vô minh khởi, tiêu diệt được vô minh thì tiêu diệt được bốn thứ khổ này.
Một số người trên thế giới này, không những không giác ngộ khổ về : sinh già bệnh chết, mà còn nhiễm khổ cho là vui, mà không biết giác ngộ. Khi sinh thì hồ đồ đến thế giới này, khi chết thì hồ đồ rời khỏi thế giới này. Khi đến thì không rõ vì sao mà đến ? Khi đi thì cũng chẳng biết vì sao mà đi ? Tóm lại, sinh từ đâu đến ? Chết đi về đâu ? Vấn đề này chẳng ai muốn biết, cũng chẳng có ai muốn giác ngộ, cho nên hồ đồ mà đến, hồ đồ mà đi.
Ðức Phật trong vô lượng kiếp tu đủ thứ hạnh môn, đều vì chấm dứt sinh tử. Cho nên đời người từ nhỏ lớn dần, trưởng thành rồi già đi, già sinh ra đủ thứ bệnh, do bệnh mà chết, đó là bốn sự khổ lớn của đời người.
‘’ Thế gian bức bách không ngừng nghỉ.’’ Ưu sầu bi ai đều là khổ, những sự khổ này, bức bách tất cả chúng sinh thế gian, chẳng có thời gian dừng nghỉ.

‘’ Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ.’’ Ðại sư tức là Phật, Phật thương sót tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện diệt trừ tất cả khổ của chúng sinh.
‘’ Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.’’ Cảnh giới này vị Vô Tận Huệ Quang Thiên Vương giác ngộ, hiểu biết được.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
laitutran247
Bài viết: 1113
Ngày: 16/08/07 05:59
Giới tính: Nữ
Đến từ: vô minh
Nghề nghiệp: Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)

Re: Kinh hoa nghiêm ( Hòa Thượng Tuyên Hóa )

Bài viết chưa xem gửi bởi laitutran247 »

Trí Phật như huyễn không gì ngại
Thấu rõ các pháp trong ba đời
Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh
Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.


‘’ Trí Phật như huyễn không gì ngại.’’ Trí huệ của Phật như huyễn, giống như chẳng chân thật, nhưng thật ra là chân thật. Trí huệ này chẳng gì chướng ngại được, thấy rõ thật tướng của tất cả các pháp, thấy rõ nghiệp tướng, đạo tướng, phiền não tướng của tất cả chúng sinh. Tóm lại, thấu triệt được tư tưởng của tất cả chúng sinh.
‘’ Thấu rõ các pháp trong ba đời.’’ Thứ trí huệ như huyễn này, liễu đạt được các pháp quá khứ, các pháp hiện tại, các pháp vị lai. Cho nên nói pháp của Phật nói trong ba đời, đều thấy rõ thâm sâu, thông đạt vô ngại.
’ Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh.’’ Trí huệ của Phật như huyễn tam muội, thứ trí huệ hư huyễn này, biết được trong tâm tất cả chúng sinh nghĩ tưởng gì ? Làm những gì ? Và còn nhập vào được trong tâm hạnh của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo.
‘’ Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.’’ Cảnh giới này vị Thiện Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương minh bạch được.

Bờ mé tổng trì không thể được
Biện tài như biển cũng vô tận
Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh
Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.

‘’ Bờ mé tổng trì không thể được.’’ Tổng trì tức là : tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ ba học viên minh. Tổng là tổng tất cả các pháp, trì là hành tất cả các pháp. Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Ý nghĩa tổng trì có vô lượng vô biên sự giải thích, cho nên nói bờ mé không thể được.
‘’ Biện tài như biển cũng vô tận.’’ Bốn biện tài vô ngại của Phật, giống như biển cả, chẳng cùng tận.
Bốn vô ngại tức là bốn thứ trí biện thuyết pháp của Phật Bồ Tát, nơi ý nghiệp giải là trí, nơi khẩu nghiệp giải là biện. Bốn vô ngại biện tài là :
1. Pháp vô ngại biện tài.
2. Nghĩa vô ngại biện tài.
3. Từ vô ngại biện tài.
4. Lạc thuyết vô ngại biện tài.


Tóm lại tức là biện tài vô ngại, nói ngang nói dọc, nói thô nói tế, bất cứ nói thế nào cũng đều có lý.
‘’ Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh.’’ Thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không thể nghĩ bàn, phá trừ tâm ô nhiễm của chúng sinh, mà đắc được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh thì pháp tự nhiên thanh tịnh.

‘’ Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.’’ Cảnh giới này vị Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương minh bạch được.

Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận
Trí huệ giác ngộ khéo khai thị
Tất cả phương tiện không nghĩ bàn
Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.


’ Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận.’’ Nghiệp của chúng sinh rộng lớn vô biên, không cùng tận. Vì nghiệp chẳng có hình tướng, nếu có hình tướng thì sớm đã đầy khắp hư không, không chỗ dung chứa.
Nghiệp là gì ? Phàm dấy khởi tâm niệm, bất cứ là thiện hoặc là ác đều là nghiệp. Khởi niệm thiện thì tạo ra nghiệp thiện. Khởi niệm ác thì tạo ra nghiệp ác. Mọi sự việc nếu chấp tướng là tạo nghiệp, không chấp tướng là giải thoát. Phàm phu chỉ hiểu được tạo nghiệp, Bồ Tát thì hiểu được giải thoát. Vì phàm phu khởi tâm vọng đi làm, cho nên là tạo nghiệp. Bồ Tát dùng một phiến tâm thanh tịnh đi làm, cho nên là giải thoát. Giải thoát là trừ sạch phiền não ba độc ở trong tâm, thì đắc được tự tại. Tạo nghiệp là thấy cảnh khởi tâm tham mà tạo thành ba nghiệp (thân, khẩu, ý) nhiễm ô và mê hoặc.

‘’ Trí huệ giác ngộ khéo khai thị.’’ Phật là người có trí huệ lớn, minh bạch tất cả đạo lý, cho nên khéo khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh minh bạch sự vui thế gian là tạm thời, sự vui xuất thế gian là vĩnh viễn.
‘’ Tất cả phương tiện không nghĩ bàn.’’ Phật dùng tất cả phương tiện để giáo hóa chúng sinh, pháp phương tiện này không thể nghĩ bàn, bất cứ loài chúng sinh nào cũng đều minh bạch tiếp thọ, y pháp phụng hành.
‘’ Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.’’ Môn giải thoát pháp phương tiện này, vị Bất Khả Tư Nghì Huệ Thiên Vương đắc được.

Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn
Hiển bày tu tập đạo bồ đề
Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh
Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.

‘’ Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn.’’ Phật thường chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh, chuyển động bánh xe pháp vi diệu không thể nghĩ bàn. Diệu là không thể tả, bánh xe pháp là chuyển động hằng thường, như bánh xe tiến về phía trước mà không thối lùi.
‘’ Hiển thị tu tập đạo bồ đề.’’ Phật chỉ thị chúng sinh rất rành mạch rõ ràng, tu hành như thế nào ? Dụng công như thế nào ? Ðắc được giác đạo như thế nào ? Nếu không dụng công tu hành, thì không thể đắc được giác đạo. Do đó : ‘’ Có làm thì có thu hoạch, làm nhiều thì thu hoạch nhiều ‘’ chẳng có chuyện không làm mà có thu hoạch. Người tu đạo dụng công một phần thì có một phần lợi ích, gần giác đạo một bước. Làm những việc khác thường, lãng phí công phu, mà không được kết quả. Chỉ có tu hành pháp môn này, làm một chút thì có hiệu quả một chút.
‘’ Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh.’’ Phải thật tâm tu hành, thì mới đắc được đạo lý giác ngộ, mới vĩnh diệt được thống khổ của chúng sinh. Tại sao chúng sinh khổ ? Vì không giác ngộ, vì có vô minh cho nên tạo đủ thứ nghiệp, do đó thọ đủ thứ quả báo. Nếu phá trừ vô minh, thì sẽ giác ngộ, thì khổ của chúng sinh vĩnh viễn tiêu diệt.
‘’ Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới phương tiện pháp môn này vị Luân Tề Thiên Vương đắc được.

Thân thật Như Lai vốn không hai
Vật ứng theo hình khắp thế gian
Chúng sinh đều thấy ở trước họ
Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.

‘’ Thân thật Như Lai vốn không hai.’’ Thân thật tức là pháp thân. Thân thật của Phật không những không hai mà một cũng chẳng có. Tại sao ? Vì thân thật của Phật vô tướng vô bất tướng, vô tại vô bất tại.
‘’ Vật ứng theo hình khắp thế gian.’’ Thân thật của Phật, ứng cơ của chúng sinh, theo căn tính của chúng sinh, để vì chúng sinh mà thuyết pháp. Do đó :‘’ Quán cơ đầu giáo ‘’ (theo bệnh cho thuốc), tức cũng là vì chúng sinh thuyết pháp. Ðối với người căn tính tiểu thừa thì nói pháp tiểu thừa, người căn tính đại thừa, thì nói pháp đại thừa. Tức là theo bệnh bốc thuốc. Ðối với bệnh nhiệt thì dùng thuốc giải nhiệt để đối trị, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt để đối trị, như thế thì mới hết bệnh. Cho nên thân của Phật sung mãn thế gian, đi cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ.
‘’ Chúng sinh đều thấy ở trước họ.’’ Tất cả chúng sinh đều cảm thấy Phật đang ở trước mặt mình, đối diện thuyết pháp cho mình.
‘’ Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Quang Diệm Thiên Vương đắc được.

Nếu có chúng sinh thấy được Phật
Tất sẽ dứt sạch các nghiệp chướng
Lìa các ma nghiệp hẳn không còn
Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.

‘’ Nếu có chúng sinh thấy được Phật.’’ Giả sử chúng sinh nào, thấy được báo thân của Phật, thì nghiệp chướng sẽ tiêu diệt. Phật có ba thân :
1. Pháp thân : Chẳng có hình tướng, là chân như thật tướng. Phật không trụ thế, cũng chẳng phải không trụ thế. Về thời gian thì dọc cùng tam tế, về không gian thì ngang khắp mười phương, đó cũng là tánh linh của Phật, hiệu là Tỳ Lô Giá Na, dịch là "biến nhất thiết xứ" (khắp cùng mọi nơi).
2. Báo thân : Là thân tướng trang nghiêm quang minh thanh tịnh, là thân thường trụ bất diệt. Phật trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, tu vô lượng phước đức và trí huệ mới đắc được báo thân, hiệu là Lô Xá Na, dịch là "tịnh mãn". Báo thân này thanh tịnh, như ánh sáng mặt trời, chiếu đầy khắp toàn thế gian.
3. Ứng thân : Là tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà hiện tướng, chuyên vì giáo hóa chúng sinh, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch là "năng nhân", biểu thị đại bi. Mâu Ni dịch là "tịch mặc", biểu thị đại trí. Lại là hóa thân, ứng theo sở cầu của chúng sinh, mà biến hóa trăm ngàn ức thân. Không những Phật có hóa thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có vô lượng hóa thân. Bồ Tát dùng tâm để quán sát chúng sinh thế gian thọ khổ, bất cứ có bao nhiêu chúng sinh cầu cứu, thì Bồ Tát đều đồng thời cứu ra khỏi biển khổ. Vì Bồ Tát có thần thông lực hóa thân.

‘’ Tất khiến dứt sạch các nghiệp chướng.’’ Ai thấy được báo thân của Phật thì nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, tất cả chướng của người đó đều sẽ dứt sạch. Tất cả nghiệp chướng đều sẽ biến thành thanh tịnh.
‘’ Khỏi các ma nghiệp tất không còn.’’ Nghiệp chướng trừ sạch rồi, thì sẽ có ma đến nhiễu loạn dẫn dụ, khiến cho người tu hành mất đi định lực, mất đi đạo tâm. Làm thế nào vượt khỏi các ma ? Tức là siêng tinh tấn không giải đãi, bất cứ cảnh giới gì trước mắt, tâm không động, ý không loạn thì thiên ma, không có cách chi phá được, tự nhiên sẽ thối lui. Do đó, sẽ vượt khỏi tất cả ma nghiệp, vĩnh viễn không bị các ma nhiễu hại.
‘’ Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này vị Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được.

Tất cả chúng hội lớn như biển
Phật ở trong đó oai sáng nhất
Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh
Danh Xưng Thiên Vương vào môn này.

‘’ Tất cả hội chúng lớn như biển.’’ Phật ở trong mỗi thế giới đều có pháp hội thuyết pháp. Trong mỗi pháp hội có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ Tát, vô lượng A La Hán, vô lượng chúng sinh. Trong chúng hội rất rộng lớn, giống như biển cả, rộng không thể lường, sâu không thể dò.
‘’ Phật ở trong đó oai sáng nhất.’’ Phật ở trong mỗi pháp hội, có oai đức nhất, có quang sáng nhất. Do đó, đại oai đức thần thông lực, quang minh của Phật chiếu khắp mười phương.
‘’ Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh.’’ Phật thuyết pháp khắp hết thảy, giống như trời mưa, cây lớn thì hút lượng nước nhiều, cây nhỏ thì hút lượng nước ít, thảy đều được lợi ích pháp vũ, tùy theo mỗi loại, tùy theo căn tính, mà thấm nhuần tất cả chúng sinh.
‘’ Danh Xưng Thiên Vương nhập môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Phổ Quán Ðại Danh Xưng Thiên Vương minh bạch được.

Lại nữa, Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, được môn giải thoát, đại hoan hỷ ghi nhớ ba đời chư Phật xuất hiện ra đời, cho đến thấy rõ cõi thành hoại.

Tiếp theo Kinh văn ở trên. Vị Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, là từng trời thứ hai (trời Ðao Lợi) thuộc về dục giới. Thích Ca dịch là "năng". Nhân Ðà La dịch là "thiên chủ", nghĩa là làm chủ trên trời. Vị này đắc được một môn giải thoát là : trong khoảng một niệm có thể nghĩ biết, trong quá khứ chư Phật xuất hiện ra đời như thế nào ? Cho đến cõi Phật thành như thế nào ? Hoại như thế nào ? Vị này nhớ được cảnh giới này rất rõ ràng, và còn hiểu biết đạo lý này. Không những là đời quá khứ, mà đời hiện tại và đời vị lai cũng thấy rõ. Vì minh bạch được nhiều cảnh giới, cho nên sinh đại hoan hỷ, đại khoái lạc.
Nhân Ðà La còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân. Trong vô lượng kiếp về trước, vị này là người nữ độc thân.


Một ngày nọ, vị này thấy một ngôi chùa cổ hư hoại, chẳng có ai phát tâm trùng tu lại. Vị này thấy như vậy thì trong tâm nghĩ : nếu không sửa lại thì tượng Phật bị mưa dột, gió thổi, nắng rọi, thật không đành làm ngơ. Do đó, vị này phát tâm trùng tu ngôi chùa cổ ngày, nhưng sức lực của một người có hạn, không thể hoàn thành tâm nguyện. Do đó, bèn đi tìm bạn bè và thân hữu, mọi người đều phát tâm trùng tu. Người có chí thì việc sẽ thành, tìm được ba mươi hai người phụ nữ. Ai có tiền thì cúng tiền, có sức thì dùng sức, cùng nhau nỗ lực, chẳng bao lâu thì sửa xong ngôi chùa cổ hư hoại, biến thành ngôi chùa trang nghiêm.
Nhờ công đức trùng tu sửa chùa, ba mươi ba người nữ này, sau khi chết sinh về trời Ðao Lợi mà làm Thiên chủ. Bốn hướng của cõi trời này mỗi hướng có tám vị trời, đông tây nam bắc cộng có ba mươi hai vị trời. Chính giữa có một vị trời là chỗ của Ðế Thích ở. Ba mươi ba vị trời này là ba mươi ba người phụ nữ làm thiên chủ, đó là nguồn gốc Thiên chủ.

Người không biết nhân duyên của Thiên chủ thì nói bậy bạ, nói Thiên chủ là độc hữu, là vạn năng. Thật ra chẳng phải là độc hữu, cũng chẳng phải là vạn năng. Vì vị này chỉ biết sự việc mấy vạn năm, mà không biết sự việc mấy vạn đại kiếp.
Vì không biết nhân duyên vô lượng kiếp, mới bịa ra khái niệm một vị chân thần, tạo ra một vị thần cứu kính, hoặc là thần viên mãn, hoặc thần vạn năng. Ðó là tùy ý tạo ra, muốn tạo bao nhiêu thì tạo bấy nhiêu, chẳng có ai để khống cáo. Chân thần cũng xong, thần vạn năng cũng xong, đều chẳng đúng, cho nên lấy sai lầm truyền sai lầm, truyền cho đến hiện tại. Bây giờ là thời đại khoa học, bất cứ việc gì đều phải trải qua sự khảo nghiệm. Tôn giáo cũng như thế, nếu không hợp với sự khảo nghiệm của khoa học thì sẽ bị đào thải, những người tín ngưỡng tôn giáo phải phân tích kỹ càng, đừng nên ai sao mình cũng vậy, chẳng có sự phán đoán mà dưỡng thành mê tín, như vậy thì sẽ biến thành cuồng tín.

Trời Ðao Lợi ở trên đỉnh núi Tu Di, thành tên là thành Thiện Kiến. Trong thành có lầu báu trọng các, thiên cung rất hoa lệ là chỗ ở của Thích Ðề Hoàn Nhân, tức cũng là Ngọc Hoàng Ðại Ðế của Ðạo Giáo, chỗ ở của thượng đế Gia Tô Giáo. Tuy nhiên tên chẳng giống nhau, thật ra tức là chủ của cõi trời Tam Thập Tam, cũng chỉ một người mà thôi.

Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này còn có tên là trời Ðế Thích, là chúa cõi trời Tam Thập Tam, cõi trời này rất sung sướng, cho nên chư Thiên không thích tu thiền định, rất dễ đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, ngay cả Thích Ðề Hoàn Nhân cũng không ngoài lệ ấy. Chư Thiên khi gần chềt thì phát sinh năm hiện tượng suy. Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này hưởng hết phước báo thì phải đi đầu thai, vị này biết mình sắp chết, bèn đi đến chỗ Ðức Phật cầu cứu, thỉnh giáo làm thế nào liễu sinh thoát tử ? Phật nói : ‘’Chiếu theo nhân quả mà nói thì ông phải đầu thai làm lừa, chẳng có cách chi cứu vãn.’’ Vị này nghe rồi sợ hãi vô cùng, bèn ba lần khẩn cầu Ðức Phật cứu. Phật bèn cho thọ tam quy và ngũ giới làm đệ tử Phật.

Chẳng bao lâu quả nhiên chuyển nhập vào thai lừa, con lừa cái này không duyên cớ gì bèn chạy vào trong nhà chủ tiệm làm bễ đồ bằng sứ, chủ nhân nổi giận, dùng gậy đánh con lừa cái, làm cho con lừa cái xẩy thai. Do đó Trời Ðế Thích bèn trở về lại thiên cung, kiền thành tín ngưỡng Phật pháp. Phàm là chỗ nào trong thế gian có cao Tăng giảng Kinh thuyết pháp, thì vị Trời Ðế Thích này, dù bận rộn trăm việc, cũng nhất định tranh thủ thời giờ đến nghe pháp, do đó mà dẫn đến sự hiểu lầm của vợ ông ta mà phát sinh một cuộc chiến giữa chư Thiên và A Tu La.

Con gái của vua A Tu La đẹp tuyệt trần, trời Ðế Thích tham sắc đẹp mà cưới làm vợ, do đó có thể chứng minh chư thiên sáu cõi trời dục giới, không những còn tham dục mà còn có dục tính nam nữ.
Phàm là chúng sinh ở thế gian tu mười điều lành giữ năm giới cấm, thì sẽ được tái sanh về cõi trời này. Nhưng ở đây chẳng phải là nơi cứu kính. Do đó :

‘’ Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trời Tam Thiền có nạn gió lớn,
Dù sinh về cõi trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng về cõi Tây Phương Cực Lạc.’’

Thế giới Cực Lạc mới là nơi cứu kính, cõi đó hoa sen hóa sinh, sung sướng vô ngần chẳng có phiền não.


Đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.(Ấn Quang Đại Sư)
Có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi!

http://www.niemphat.net/
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.20 khách