PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Có những đoạn kinh luận đọc không hiểu, hiểu mà không thấu đáo, chẳng biết hỏi ai ? Mời đem vào đây để mọi người cùng nhau thảo luận học hỏi...

Điều hành viên: binh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

Hình ảnh
HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ TỊNH
ĐẠO PHẬT VÀ ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI


PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Pháp Hoa là bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt độ, được lưu thông nhất và được nhiều người trì tụng nhất trong các bộ kinh lớn. Phải chăng, do kinh này hợp cơ duyên với chúng sanh đời ngũ trược? Hay là nhờ oai thần ủng hộ truyền trì của Phổ Hiền, Dược Vương cùng vô lượng hằng sa Bồ Tát? Hay cũng vì tất cả quần sanh đều sẵn đủ tự tâm Phật tri kiến?

Cổ đức đua nhau giải thích kinh này rất nhiều, nào huyền nghĩa, văn cú, nào thông nghĩa, cú giải v.v... Bộ thời hiển lý, bộ thời giải văn, làm cho kinh Pháp Hoa đã chói sáng càng thêm chói sáng; làm cho tiếng Pháp Hoa đã vang dội càng thêm vang dội. Người tụng được lợi, người trì được nghiệm, hoặc hiện tiền thâm nhập Tam muội, hay lai thế siêu thăng Thánh địa, hoặc tiêu tai, hoặc giải nạn v.v... Đó là diệu lực bất tư nghì của kinh, mà cũng là công cổ võ của cổ đức.

Tụng trì kinh Pháp Hoa có hai môn:
  • 1. Sự tụng trì.
    2. Lý tụng trì.
Nếu chỉ một mặt về Sự tụng trì, nghĩa là chỉ biết đọc tụng kinh văn, hoặc mặt chữ, hoặc thuộc lòng, thời phước đức vô lượng. Nhưng đối với người kiêm cả Sự Lý tụng trì, nghĩa là chẳng những chuyên đọc tụng kinh văn mà cũng rõ thấu chỉ thú của kinh, thời nghìn muôn phần không kịp một, bởi vì Phật tri kiến mà được khai thị, được ngộ nhập là ở nơi Lý tụng trì vậy. Do đây, nên người trì tụng muốn được công đức viên mãn, phải nghiêm tâm chỉ thú kinh này.

Trọn bộ kinh Pháp Hoa bảy quyển, hai mươi tám phẩm, trên sáu vạn lời. Nghĩa lý đã sâu, văn tự lại quá rộng. Nghĩa lý đã sâu thời khó hội khó lãnh, văn tự rộng tất khó tóm phăng. Tóm phăng đã không được tất không thể nắm lấy cương lãnh của toàn kinh. Đã không nắm lấy được cương lãnh thời có thể nào lãnh hội lý thú! Lại thêm, trong kinh Pháp Hoa này, lý thú rất sâu, rất nhiệm. Đọc tụng kinh Pháp Hoa mà không lãnh hội được lý thú, thời huệ giải không do đâu phát sanh, đại thiện công đức không từ đâu thành tựu, chỉ được phần phước lành hữu lậu cũng làm viễn nhơn Phật chủng thôi.

Tôi từ lâu thường trì tụng Pháp Hoa, mãi gian lao vì văn rộng nghĩa sâu, đối với kinh vẫn chưa có chút phần gì đáng gọi là lãnh hội. Tự mình đã vậy, tất lại có nhiều người cũng thế, hoặc hiện tại, hoặc tương lai. Nghĩ mình, lo người, nhơn đó là sưu Đông, tầm Tây, phỏng theo các bổn chú sớ của cổ đức, gắng gổ chép quyển Cương Yếu này, lược chỉ cương lãnh của kinh văn, tóm bày yếu chỉ của phẩm mục, ngỏ hầu nhơn đây làm trợ duyên cho người trì tụng Pháp Hoa tự phát trí huệ, lãnh hội ý mầu, đạt Phật tri kiến, thành tựu đại thiện công đức.

Trong bộ Cương Yếu này, về phần phán thuộc phẩm mục cùng lược giải, yếu chỉ là nương theo của ngài Hải Ấn đại sư, đem toàn kinh mà phân hợp bốn phần khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến.

Như đoạn trên đã nói, quyển Cương Yếu này lược chỉ cương lãnh của kinh văn, tóm bày yếu chỉ của phẩm mục, thời đủ biết nội dung đại thể của quyển kinh này rồi.

Trong kinh nói: "Kinh tạng Pháp Hoa này rất sâu xa thầm kín". Lại nói: "Trí huệ của chư Phật rất sâu, vô lượng môn trí huệ đó khó hiểu, khó vào". Rất sâu thầm kín, đó là yếu chỉ của kinh này rất sâu xa, phần nhiều ở ngoài lời nói, chẳng phải chỉ dùng tai mắt mà có thể rõ biết được. Người trì tụng muốn thâm nhập lý kinh cần phải lóng thân, lặng lòng quan sát kinh văn, thẩm thấu thâm ý của đức Phật. Quyển Cương Yếu này là một tài liệu giúp vào công việc đây vậy.

Trông mong người đọc, lãnh ý quên lời. Nếu có sơ sót, nhờ các bậc cao minh bổ đính!
  • Viết tại Liên Hải Phật Học Đường
    PL. 2492 - DL. 1948
    Ngày An cư năm Mậu Tý
    Hân Tịnh Tỳ Kheo THÍCH TRÍ TỊNH.
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG I
TỔNG TỰ
Ba mươi tuổi thành đạo, tám mươi tuổi nhập Niết Bàn, ngót năm mươi năm, đức Phật trải qua hơn ba trăm hội, từ hội thứ nhất nơi Bồ Đề Đạo Tràng, đến hội rốt sau nơi rừng Ta La, thuận theo cơ sai khác của chúng sanh mà nói pháp giáo hóa, tất cả đều chỉ mục đích lợi sanh, một mục đích tối cao thượng. Còn gì cao thượng bằng khắn khít một lòng cố làm sao cho tất cả chúng sanh đều được dứt hẳn sanh tử khổ, thành tựu quả vị viên mãn giác, hoàn toàn giải thoát an vui như đức Phật đã được.

Trong kinh đức Phật tự nói: "Ta hằng nghĩ thế này: làm sao cho chúng sanh đặng vào huệ Vô thượng, mau thành tựu Phật thân"Đức Phật lại nói: "Ta trước lập thệ rằng: muốn cho tất cả chúng sanh đồng như Ta không khác". Lại nói: "Bổn nguyện của các đức Phật, khắp muốn cho chúng sanh cũng đồng đặng Phật đạo, như Phật tu hành".

Cao quý thay! Tôn trọng thay! Nếu không phải là một đấng đã cứu cánh lòng đại từ bi, đại bình đẳng, tất không thể có bổn nguyện cao thượng ấy.

Vì bổn nguyện Vô thượng bình đẳng, sau khi chứng quả đại Bồ Đề, đức Phật liền diễn nói kinh Hoa Nghiêm, phô bày pháp giới duyên khởi viên dung quả hải, đó là Thật giáo (Phật thừa chơn thật). Trong hội Hoa Nghiêm, vô lượng chúng sanh hạng căn tánh Viên thừa, siêu nhập Phật huệ. Ngoài ra, hạng người căn tánh chậm lụt hẹp nhỏ, chướng sâu nghiệp nặng, khó lòng đảm nhận được giáo lý tối thâm thượng thừa, đến như các hàng Tiểu Thánh, Đại Đức, Thanh Văn chính thân dự đại hội mà còn như đui như điếc, huống nữa là phàm phu.

Muốn độ hạng sau này, đức Phật phải tự thấp mình chìu theo chúng, chỉ dạy lần lần. Nào nói pháp Tứ Đế, nào nói pháp Nhân Duyên, hoặc tướng, hoặc tánh, lúc ức, lúc dương, khi hiển có, khi hiển không, song khiển v.v... dắt dìu chúng từ thấp lần đến cao, từ cao lần vào sâu, đó là Quyền giáo (Tam thừa phương tiện).

Trong kinh đức Phật tự nói: "Nếu Ta gặp chúng sanh, đều đem Phật đạo dạy kẻ vô trí rối lầm, mê tối không lãnh thọ". Lại nói: "Ta biết các chúng sanh chưa từng tu cội lành, ham mê theo ngũ dục, chấp chặt pháp hư vọng, bền giữ không bỏ được, ngã mạn tự khoe cao, dua dối tâm không thật... Người như thế khó độ, cho nên Xá Lợi Phất, Ta bày chước phương tiện nói đạo pháp dứt khổ, chỉ cho kia Niết Bàn. Ta dù nói Niết Bàn, cũng chẳng phải thật diệt... Ta có sức phương tiện chỉ bày pháp Tam thừa..." Trong các đoạn kinh văn dẫn trên đây, trước nói duyên do ẩn thật, kế bày căn tánh chúng sanh, cuối sau chỉ đầu mối có Quyền thừa. Xem đây, thấy rõ Quyền giáo không phải chính bổn ý của đức Phật, mà là phương tiện bất đắc dĩ phải tạm dùng để dụ dẫn chúng sanh thôi. Quyền giáo là gì? Là những giáo lý ngoài việc chỉ thẳng đến Phật huệ, ngay về Phật tri kiến, chứng vào cảnh giới cứu cánh Phật quả, mà đức Phật chìu theo căn tánh chúng sanh tạm thời dùng để dìu dắt uốn nắn. Dìu dắt hạng căn tánh thấp hèn lần đến bậc cao thẳng, uốn nắn cơ Quyền thừa trở thành pháp khí viên thật. Thế nên sau hội Hoa Nghiêm, từ vườn Lộc nói pháp Tứ Đế, độ bọn ông Kiều Trần Như nhẫn lại trên bốn mươi năm, là thời kỳ uốn nắn dìu dắt của đức Phật.

Như trên đã nói, bổn nguyện của đức Phật chỉ một mục đích duy nhất là muốn cho tất cả chúng sanh đều được như Phật, đều đồng với Phật. Chúng sanh được đồng với Phật tức là đồng một trí huệ cứu cánh hoàn toàn của Phật. Muốn cho chúng sanh đủ trí huệ đó thời phải dạy ngay con đường chơn thật cho chúng sanh vào. Đức Phật đã sẵn sàng, chỉ còn nhờ chúng sanh có đủ tư cách, đủ năng lực đi vào con đường ấy.

Nhờ trải qua một thời gian dài dìu dắt uốn nắn, một số lớn trong chúng hiện tại, dưới sự dạy dỗ của đức Phật, đã có đủ tư cách cùng năng lực đi vào con đường chơn thật, kham lãnh giáo pháp thẳng đến trí huệ cứu cánh, đức Phật liền nói kinh Pháp Hoa.

Trong kinh đức Phật nói: "Các đức Thế Tôn chỉ vì một đại sư nhân duyên mà hiện ra trong đời. Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là các đức Phật Thế Tôn hiện ra trong đời chỉ vì một đại sự nhân duyên?

Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai hiển Phật tri kiến để được thanh tịnh mà hiện ra trong đời. Vì muốn chỉ thị Phật tri kiến cho chúng sanh mà hiện ra trong đời. Vì muốn làm cho chúng sanh tỏ ngộ Phật tri kiến mà hiện ra trong đời. Vì muốn làm cho chúng sanh chứng nhập Phật tri kiến mà hiện ra trong đời. Xá Lợi Phất! Đó là các đức Phật Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra trong đời vậy
".

Xem lời đức Phật dạy, rõ ràng các đức Phật Thế Tôn ra đời chỉ vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến. Chúng sanh được khai thị ngộ nhâp Phật tri kiến, lòng đức Phật mới hả, nguyện của đức Phật mới hoàn, đại sự nhân duyên ra đời của đức Phật mới xong. Lòng hả, nguyện hoàn, duyên xong, chính là hoàn xong khi mãn hội Pháp Hoa vậy. Nhơn đây, cũng có thể dự rõ được một vài phần đại ý nội dung của kinh Pháp Hoa, tức là không ngoài ý thú:
  • - Khai bày Phật tri kiến.
    - Chỉ thị Phật tri kiến.
    - Tỏ ngộ Phật tri kiến.
    - Chứng nhập Phật tri kiến.
    - Chỉ có nhất chơn Phật thừa, không hai cũng không ba.
(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG II
ĐỀ KINH
Phàm đầu đề của kinh tức là cương lãnh của toàn bộ, như giềng lưới, như bâu áo. Nắm cương lãnh mà phăng, thời chi tiết lần lần tuần tự theo về.

Ta quen gọi Pháp Hoa, đó là gọi tắt của bốn chữ Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp thuộc về pháp, Liên Hoa là dụ, dùng dụ để hiển pháp.

Diệu Pháp là gì? chính là Phật tri kiến đã nói ở đoạn trên vậy, Phật tri kiến chính là Bổn giác diệu tâm. Tâm vi diệu linh giác này là bổn tánh chơn thường bình đẳng của tất cả Thánh, phàm, của cả pháp giới, Phật cùng chúng sanh bổn lai vẫn đồng một tâm thể, vẫn không hai tánh. Thể tánh dù đồng, nhưng mê thể tánh đó là chúng sanh, còn ngộ thể tánh đó là Phật. Ngộ thời thuận tánh, thuận tánh thời hưởng dụng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh bốn đức chơn thường an vui, vì tánh là thể chơn thật viên thường vậy. Mê thời xa tánh theo trần, theo trần thời sanh tử luân hồi đảo điên khổ sở, vì trần lao là cảnh hư vọng vô thường vậy.

Vì lòng đại bi thương xót quần sanh, đức Phật ra đời dùng đủ cách phương tiện để điều luyện ngự phục tâm mê vọng của quần sanh, để đưa chúng sanh đến trí huệ cứu cánh của đức Phật, đó là mục đích duy nhất của đức Phật ra đời.

Trong kinh đức Phật nói: "Ta lập phương tiện đó, khiến đặng vào Phật huệ". Sở dĩ Phật ra đời vì nói Phật huệ, nay chính là phải thời.

Đức Phật lại nói: "Chưa từng nói các ông sẽ đặng thành Phật đạo. Sở dĩ chưa từng nói vì chưa phải lúc nói, nay chính đã phải lúc quyết định nói Đại thừa".

Phải lúc, phải thời tức là thời kỳ nói kinh Pháp Hoa. Đại thừa đây tức là Phật huệ, là Phật tri kiến, là tâm thể của chúng sanh, là chơn tánh của pháp giới, cũng gọi là Diệu Pháp. Vì Diệu Pháp này là tự tâm sẵn đủ của chúng sanh, nên đức Phật nói kinh này để làm cho chúng sanh được khai thị ngộ nhập tự tâm ấy mà đổi phàm thành Thánh, như trong kinh đức Phật nói: "Nếu có người nào nghe pháp, không ai chẳng thành Phật". Pháp nghĩa dường ấy, há lại không phải diệu ư!

Bậc đại căn nghe Diệu Pháp liền ngộ tự tâm, liền giải tự tánh Pháp Hoa tam muội. Nhưng hàng Trung Hạ không thể lãnh hội ngay Diệu Pháp, nên mượn Liên Hoa để tỷ dụ diệu lý thanh tịnh, nhơn dụ mà trực nhận bổn tâm Diệu Pháp, chính cũng là ý Tam căn kiêm lợi vậy.

Hoa sen đại khái có hai phần: cánh nhụy là hoa thuộc nhơn, gương hột là quả. Có cánh nhụy là có gương hột, đó là lý nhơn quả đồng thời. Quả không ngoài nhơn, nhơn không ngoài quả, quả tức nhơn, nhơn tức quả, nên gọi Liên Hoa. Tự tánh bổn tâm cũng thế, trong khi tu nhơn vẫn tự viên mãn cụ túc, nên gọi là Giác tâm bổn cụ. Như thế thời tất cả chúng sanh hiện tiền đã tự đủ tự tánh quả giác như Phật không khác, nhưng ngặt vì mê bỏ không tự nhận, nên không thể tự thọ dụng được, vì đó mà đức Phật phải ra đời. Kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai Phật tri kiến để được thanh tịnh, nên Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời". Phật tri kiến chính là tự tánh quả giác sẵn có của chúng sanh.

Lại, hoa để dụ cho Quyền giáo, quả dùng chỉ Chơn thừa. Có ba nghĩa:

1. Hàng trung Hạ căn tánh ám độn không kham lãnh Chơn thừa, nên phải quyền lập tam thừa để dụ dẫn. Như trong kinh nói: "Chúng sanh căn tánh ám độn, làm thế nào đặng độ? Ta nay đã đắc đạo nên vì nói tam thừa". Lập Tam thừa chính là phương tiện để đem về Nhất thừa, đó là vì Chơn thừa mà lập Quyền giáo vậy. Kinh nói: "Dù nói trăm ngàn muôn ức vô số pháp môn, kỳ thật vì Nhất thừa". Như hoa sen, vì gương hột mà sanh hoa vậy.

2. Dụ dẫn đã lâu, căn tánh đã thuần, liền chỉ ngay Quyền giáo, phương tiện trước kia đều là Nhất thừa chơn thật. Trong kinh nói: "Hạnh của quí ngài tu là đạo của Bồ tát, đều sẽ đặng thành Phật". Đó là điểm thị hạnh tu Quyền giáo chính là thành Phật Chơn thừa. Kinh lại nói: "Các ngài nên biết, đây là con Ta". Gã cùng tử làm thuê chính thật đích tử của Phật. Đó là khai bày Quyền giáo hiển lộ Thật thừa. Như hoa sen, hoa nở đặng thấy gương hột.

3. Chúng đã thành đại căn, Phật liền phế bỏ danh tự Quyền giáo giả nói trước, chỉ nói thẳng giáo lý Nhất thừa chơn thật Vô thượng đạo để chúng được tự trụ. Như kinh nói: "Chính lúc bỏ phương tiện, chỉ nói đạo Vô thượng. Khắp mười phương cõi Phật, chỉ có một Phật thừa, không hai cũng không ba". Đó là phế quyền tồn Thật. Như hoa sen, cánh nhụy rụng sạch chỉ còn gương hột.

Ba nghĩa trên, ước về căn cơ của chúng sanh mà thi thiết Quyền và Thật. Nếu ước nơi giáo chủ là Phật mà luận, thời hoa dùng lệ đức Phật, thị hiện Tích môn còn quả lệ Bổn môn của đức Phật. Tích và Bổn đây cũng có ba nghĩa:

1. Vì Bổn thật mà thi thiết Quyền Tích. Kinh nói: "Ta lúc nhỏ xuất gia chứng đặng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác". Như vì gương hột mà có hoa sen.

2. Khai bày Quyền Tích hiển lộ Bổn thật. Kinh nói: "Thật từ khi ta thành Phật đến nay, thọ mạng vô lượng vô số kiếp". Như hoa nở lộ bày gương hột.

3. Bỏ Tích tồn Bổn. Kinh nói: "Vì độ chúng sanh vậy, hiện có diệt độ, không diệt độ, thật thời chẳng diệt độ, thường ở tại đây nói pháp". Như hoa rụng chỉ còn gương hột.

Đủ các nghĩa như trên, cả pháp lẫn dụ, nên gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Bậc lợi căn nghe đề kinh bốn chữ ấy, liến chứng ngộ Diệu lý Pháp Hoa tam muội, không cần giải dụ. Hàng độn tánh không thể nghe danh ngộ lý, cần phải suy dụ để hiểu pháp, từ hoa sen thường mà thể ngộ diệu lý Pháp Hoa, nên gọi là Tam căn kiêm lợi vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG III
TỔNG PHÁN PHẨM MỤC
Như ở trong chương Tổng Tự đã lược chỉ nội dung của toàn kinh Pháp Hoa không ngoài lý thú: "khai bày, chỉ thị, tỏ ngộ, chứng nhập Phật tri kiến". Toàn kinh là hai mươi tám phẩm, nội dung của toàn kinh tức là nội dung hai mươi tám phẩm. Như thế hai mươi tám phẩm liệt bày để cùng hiển lộ lý thú "khai, thị, ngộ, nhập" vậy.

Ngài Hải Ấn đại sư y theo ý này mà phán thuộc các phẩm: Phẩm "Tự" là tổng hiện sự tướng của pháp giới. "Phương Tiện, Thí Dụ, Tín Giải, Dược Thảo, Thọ Ký, Hóa Thành, Ngũ Bá Đệ Tử, Học Vô Học Nhơn, Pháp Sư" cả thảy chín phẩm, là khai Phật tri kiến. Kế đến một phẩm "Hiện Bảo Tháp" là thị Phật tri kiến. Phẩm "Đề Bà Đạt Đa, Trì Phẩm, An Lạc Hạnh, Dũng Xuất, Thọ Lượng" năm phẩm là ngộ Phật tri kiến. Cùng sáu phẩm "Phân Biệt, Tùy Hỷ, Pháp Sư Công Đức, Thường Bất Khinh, Thần Lực, Chúc Lụy" là diệu ngộ cùng cực, hợp chung lại thời về phần ngộ Phật tri kiến, có mười một phẩm. Kế đến sáu phẩm "Dược Vương, Diệu Âm, Quán Âm, Đà La Ni, Diệu Trang Nghiêm, Phổ Hiền" là nhập Phật tri kiến. Cuối phẩm Phổ Hiền từ câu: "Phật thuyết thị kinh thời" đến câu: "Tác lễ nhi khứ" là phần lưu thông.

Đã tổng phán toàn kinh, trước sau tuần thứ xâu suốt bốn môn "khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến". Người thọ trì kinh nhơn đây dự rõ bổn ý của đức Phật vì một đại sự nhơn duyên mà hiện ra đời. Nhơn đây mà khi trì kinh, cảnh giới Nhất chơn pháp giới hiển bày trước mắt nếu người trì kinh chuyên chú tư duy để quán.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

CHƯƠNG IV
ĐẠI Ý MỖI PHẨM

A. PHẦN TỔNG HIỂN
1. TỰ PHẨM
Trong phẩm này, tổng hiển Nhất chơn Bình đẳng pháp giới. Nhất chơn pháp giới chính là Bổn giác diệu tâm bình đẳng của Thánh phàm, của tất cả. Tổng hiển Nhất chơn pháp giới để chỉ rõ đức Phật hiện ra nơi đời từ trước đến sau vẫn không ngoài: "Phổ Quang Minh Trí Sát Na Tế Tam Muội". Trước chính là hội Hoa Nghiêm nơi Bồ Đề Đạo tràng. Sau là hội Pháp Hoa nơi Linh Thức sơn này. Trước sau đức Phật vẫn trụ tam muội đó mà chuyển pháp độ sanh. Phổ Quang minh Trí tức là Phật tri kiến vậy. Chẳng những đức Phật tự trụ mà muốn cho chúng sanh liễu ngộ chơn cảnh thật tướng này, nên trong kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến mà đức Phật hiện ra trong đời". Liễu ngộ chơn cảnh thực tướng này để làm chánh nhơn thật thành tựu Phật quả.

Trước khi chỉ bày Phật tri kiến, đức Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, rồi tự nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ Tam Muội, đó là ý gì? Chính để chỉ rõ rằng tất cả những sự đi đứng, nói nín v.v... của đức Phật không phải cảnh giới tâm thức tư lương của phàm tình. Không thể dùng tâm thức tư lương này mà suy bàn đến được.

Đức Phật tự trụ trong Tam muội mà trời rưới bốn thứ hoa, đất lay sáu điệu, đó là chỉ rõ sức vô tác diệu lực của đức Phật. Phật chấn động hang sâu vô minh mê tối của chúng sanh, suốt trừ tất cả sự chướng ngại của bốn đại sáu căn vậy. Tướng lông trắng phóng hào quang chiếu thấu một vạn tám nghìn thế giới ở phương Đông đó, chính chỉ rằng căn, trần, thức loạn động của chúng sanh không rời Phổ Quang Minh Trí. Phương Đông là nguồn động hóa, mười tám nghìn thế giới là lệ sáu căn, sáu trần: sáu thức, mười tám giới. Mười tám giới không ngoài Phổ Quang Minh Trí, cũng như mười tám nghìn thế giới lộ ra trong bạch hào tướng quang của đức Phật. Trong quang minh hiện ra sự tướng của pháp giới, dưới thấu địa ngục A Tỳ, trên suốt cõi trời Hữu Đảnh. Nào Phật ra đời, thuyết pháp, Niết Bàn; nào Bồ Tát tu tập đạo hạnh y báo, chánh báo đồng hiện, cả Thánh lẫn phàm chưng bày, đó là gì? Là Phật cùng chúng sanh, tất cả đồng một tánh thể, không hai không khác. Chỉ khác là đức Phật chứng ngộ nơi đó, an trụ nơi đó, tự tại giải thoát, thuyết pháp độ sanh; còn chúng sanh mê nơi đó, dù rằng không bao giờ rời được đó, nhưng không tự nhận mà phải lưu chuyển. Dù lưu chuyển nhưng vẫn không một phút xa rời, nên chính cảnh giới thường ngày trước mắt chúng sanh là thật tướng chơn cảnh. Nếu có thể phản tỉnh xoay về, liễu ngộ tánh thể thật tướng này, thời đó là chánh nhơn thành Phật mà Phật quả không xa vậy. Đức Như Lai hiện ra đời chính là vì việc này, đó là đại sự nhơn duyện, đó là Nhất thừa chơn thật. Trên bốn mươi năm thuyết pháp vẫn nói không hết những việc nhất thời hiện ra trong bạch hào quang minh. Trên bốn mươi năm qua, đức Phật chưa từng hiển phát cảnh giới này là vì căn cơ của chúng sanh chưa thuần thục, còn phải đợi thời tiết. Đến nay phải lúc nên đức Phật hiển phát.

Ngài Di Lặc Bồ Tát sanh lòng nghi không quyết, phải hỏi ngài Văn Thù Bồ Tát, đó là ý chỉ rằng cảnh giới thật tướng này không phải tâm thức có thể biết thấu đáo được, phải dùng chơn trí mới tương ưng. Đại trí Văn Thù dẫn việc sau trước của Cổ Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh chứng thoại tướng hôm nay cũng thế, để rõ rằng đức Phật đạo đồng, xưa cùng nay vẫn một lý thôi. Do những nghĩa trên nên phẩm "Tự" này là tổng hiển cảnh tượng một đại sự nhơn duyên, vì đó mà đức Phật hiện ra trong đời vậy.
B. PHẦN KHAI PHẬT TRI KIẾN
2. PHƯƠNG TIỆN PHẨM
Vừa rồi, đức Thế Tôn nhập Vô lượng Nghĩa xứ Tam muội phóng bạch hào quang minh hiện chơn cảnh diệu minh ý muốn chúng hội đương cơ, hiện tiền mục kích, khế ngộ biểu tượng chơn thuyên, khỏi cần phải nói phô bày vẽ.

Nhưng ngặt vì cơ liệt, mắt chậm, trí mờ không thấu được đạo tịch diệt ly ngôn, chẳng đạt được thể tánh chơn vô niệm, nên đức Phật từ Tam muội dậy, lại dùng lời nói phô tự tán tự dương, trước khích động sau chỉ bày, mở mối tri kiến, gọi đó là phương tiện. Vì phàm hể xen vào vòng nói năng tức là phương tiện vậy.

Cứ theo trong lời sớ kinh Hoa Nghiêm, về phương tiện có hai:
  • 1. Viễn phương tiện.
    2. Cận phương tiện.
Suy cùng về trước, các kinh của đức Phật tuyên nói trong hơn bốn mươi năm, đều là phương tiện của kinh Pháp Hoa. Kinh nói: "Dù là chỉ bày các đạo hạnh, nhưng chính thật vì một Phật thừa", đó là Viễn Phương tiện. Còn luận về hiện tại, thời tất cả việc như nhập định, phóng quang, động địa, khai phát v.v... đều là phương tiện của đương hội. Kinh nói: "Nay, đức Phật phóng quang minh để trợ phát nghĩa thật tướng", đó là Cận phương tiện.

Bởi từ trước, vì căn cơ của chúng chưa thuần, nên mục đích hiện ra nơi đời, đức Phật chưa từng thổ lộ.

Hiện nay, khí tánh của chúng đã thục, đã phải lúc phải thời, đức Phật cùng tận phô bày chủ ý ra đời, phế ba thừa Quyền giáo để hiển nhất thừa chơn thật. Do đó mà sau khi xuất định, đức Phật cùng cực khen ngợi trí huệ rộng sâu của Phật. Ngoài Phật cùng Phật ra, không một ai có thể suy lường thấu đáo được, để làm cho chúng hội sanh lòng hâm mộ. Kinh nói: "Trí huệ của Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào". Lại nói: "Tri kiến của Như Lai rất rộng lớn sâu xa, vô lượng cũng vô ngại. Thập Lực, Tứ Vô Úy, thiền định, giải thoát, tam muội đều sâu xa không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp vị tằng hữu". Lại nói: "Pháp ít có thứ nhất rất khó hiểu của đức Phật trọn thành. Chỉ có Phật cùng Phật mới có thể rõ thấu cùng tận thật tướng của các pháp".

Sau khi tán thán công đức trí huệ của Phật, đức Phật còn chưa vội chỉ thị thật bày, vì e rằng trong chúng bỗng nhiên nghe pháp Chơn thừa cao sâu, khó nổi sanh lòng kinh hãi. Đức Phật đợi ngài Xá Lợi Phất thay mặt chúng hội ba phen thưa thỉnh, lòng cầu khẩn đã thiết, ý khí đã thuận tùng, rồi sau mới nói. Đức Phật nói những gì? Đức Phật thận trọng dạy rằng: "Mọi người rồi sẽ thành Phật cả". Kinh nói: "Nếu có loài chúng sanh gặp Phật quá khứ hoặc nghe pháp bố thí; hoặc trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền trí, thảy tu các món phước huệ, tất cả hạng người đó đều đã thành Phật đạo. Những người xây tháp Phật, người đắp tượng, dựng chùa, cho đến đồng tử chơi vun cát làm tháp, các hạng người như thế đều đã thành Phật đạo... Hoặc người lòng vui mừng ca ngâm khen đức Phật... cho đến đem một bông cúng dường nơi tượng vẽ... Hoặc có người lễ bái, hoặc lại chỉ chắp tay, dơ tay cùng cúi đầu để cúng dường tượng Phật, lần thấy vô lượng Phật tự thành đạo vô thượng... Nếu có người nghe pháp, không một ai chẳng thành Phật..."

Đức Phật thuật lại ngày trước, khi mới thành đạo, trong hai mươi mốt ngày, ngài suy nghĩ phương thế độ đời, độ mọi loài trong đời đều thành Phật như Phật. Dù bổn nguyện của đức Phật muốn khắp tất cả chúng sanh thẳng vào Phật huệ, song vì căn khí chúng sanh ám độn, nên đức Phật phải chìu theo, dùng phương tiện huyền xảo dẫn dắt dụ dỗ lần lần. Kinh nói: "Lúc ta ngồi Đạo tràng, xem cây cũng kinh hành, trong khoảng hai mươi mốt ngày, suy nghĩ việc như vầy. Trí huệ của ta đặng, vi diệu tột bậc. Chúng sanh các căn độn, bị tham si làm mù, các hạng người như thế này, làm sao độ đặng... Ngày nay ta đặng đạo, cũng nên nói ba thừa". Mười phương chư Phật cũng nói: "Chúng ta đều đặng pháp thứ nhất rất mầu, vì các hạng chúng sanh phân biệt nói ba thừa". Trí hèn ưa pháp nhỏ, chẳng tin mình làm Phật, nên Phật dùng phương tiện phân biệt nói các quả. Dù lại nói ba thừa chỉ dạy Bồ Tát. Kinh lại nói: "Ta lại nghĩ như vầy: Ta hiện ra nơi đời ác trược, cũng nên tùy thuận làm theo, như lời các đức Phật ở mười phương vừa nói".

Như thế ba thừa là quyền giả, gốc từ Nhất thừa mà ra, như kinh nói: "Chư Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa, phương tiện nói thành ba".

Mặc dù là phương tiện dẫn dụ, nhưng kỳ thật là đưa đến con đường chơn đạo, con đường thẳng đến quả Vô thượng. Trong kinh nói: "Sở dĩ Phật ra đời vì để nói Phật huệ, nay chính đã đến giờ. Nay Ta vui mừng không lo sợ, ở nơi trong chúng hội Bồ Tát, bỏ phương tiện trước, chính trực tuyên bày, chỉ nói đạo giáo Nhất thừa Vô thượng... Trăm nghìn La hán cũng đều sẽ làm Phật, sanh lòng rất vui mừng tự biết sẽ làm Phật".

Bắt đầu từ phẩm "Phương tiện thứ 2" này đến phẩm Pháp sư thứ 10". chính là khai hiển chơn tri kiến của Như Lai, nên thuộc về phần "Khai Phật tri kiến".
3. THÍ DỤ PHẨM
Nhơn vì trong phẩm Phương Tiện trước, đức Thế Tôn thẳng một mực thổ lộ Chơn thừa, mục đích duy nhất của đức Phật hiện ra nơi đời. Ngài Xá Lợi Phất, trí huệ thượng thủ trong chúng hội Thanh Văn, nghe pháp Chơn thừa liền lãnh hội tỏ ngộ trước nhất, nghĩ nhớ lại từ trước mê lầm không chịu tự nhận, nên tự trách tự hờn, đến nay mới tin chắc rằng sẽ đặng làm Phật không còn nghi ngờ. Khi nói: "Nhưng vì chúng con không hiểu rằng Phật phương tiện tùy cơ nghi nói pháp, vừa nghe Phật nói pháp liền tin nhận nghĩ suy chứng quả. Thế Tôn! Con từ trước đến nay trọn ngày mãn đêm thường tự khắc trách... Ngày nay mới biết mình thật là Phật Tử, từ miệng nói mà sanh ra, từ pháp hóa sanh, đặng phần Phật pháp... Lòng con rất vui mừng, nghi hối đã trừ hẳn, an trụ trong Phật trí. Con quyết sẽ làm Phật, được trời người cung kính, chuyển pháp luân vô thượng, giáo hóa các Bồ Tát". Vì ngài Xá Lợi Phất đã tự tin nhận làm Phật, đã lãnh hội Chơn thừa, nên liền đặng đức Thế Tôn thọ ký, sẽ thành Phật hiệu Hoa Quang ở cõi nước Ly Cấu rộng độ vô lượng chúng. Hàng Thanh Văn từ lâu trầm trệ nơi Quyền thừa, nay một phen nghe Thật giáo sanh tín tâm liền đặng thọ ký, đó chính là: "Rõ tất cả các pháp tức tâm tự tánh, thành tựu huệ thân, tỏ ngộ chẳng phải do người khác". Dù vậy, song còn phải trải qua nhiều kiếp số tu hành mới đặng thành, vì vô minh chưa hết, cần phải lâu dài theo Phật, tu tập dứt trừ, đến khi vô minh hết hẳn, mới thật chứng Phật quả, Thọ ký. Ý nghĩa đại khái như thế.

Trong chúng hội Tiểu Thừa, từ trước tình chấp sâu nặng nghi ngờ không tin, mỗi người đều tự cho rằng: mình quyết không đặng dự phần làm Phật, cũng không có chí mong cầu. Nay, chính tai nghe, tận mắt thấy ngài Xá Lợi Phất được đức Thế Tôn thọ ký sẽ thành Phật, ngài Xá Lợi Phất đã vậy, chắc mình cũng thế, nên cả thảy đều sanh lòng rất vui mừng, liền cởi y tung lên cúng dường đức Thế Tôn để tiêu biểu ý hướng thượng giải thoát. Kinh nói: "Thế Tôn nói pháp đó, chúng con đều tùy hỷ. Đại trí Xá Lợi Phất nay đặng Phật thọ ký, chúng con cũng thế, quyết sẽ đặng làm Phật, trong tất cả thế gian, rất tôn quí vô thượng". Dù tự mình đã quyết định tin chắc, nhưng còn lo trong chúng hội chỗ tin nhận chưa hoàn toàn thấu đáo, nên ngài Xá Lợi Phất lại ân cần cầu thỉnh đức Thế Tôn vì tứ chúng mà nói rõ: "Sở nhơn vì sao thuở trước Phật lại nói Quyền, nay lại bỏ Quyền nói Thật để dứt hẳn lòng nghi của toàn chúng hội.

Đức Thế Tôn nói nhà lửa để tỷ dụ:

Tả cảnh nhà lửa hư sụp nguy hiểm, đầy những ác quỷ, trùng độc, thú dữ, lại thêm lửa dậy tứ bề để lệ vòng sanh tử khốn khổ trong Tam giới.

Các con ngu dại, tự thân ở trong chỗ hiểm nguy họa diệt vong ập đến, mà vẫn mê say vui đùa không hay không biết, để lệ sự mê lầm tham chấp của chúng sanh.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

Trưởng giả vì cứu các con mà phải tự mình vào nhà lửa, đôi ba phen kiệt tâm tư tìm phương dụ dẫn để đem các con ra khỏi nạn chết. Trước nói thực trạng hiểm nguy mà các con không hiểu, không nghe theo; sau cực chẳng đã phải quyền hứa nói cho ba thứ xe để ở ngoài cửa. Trúng tâm bệnh, các con ham xe mà ra khỏi nhà lửa, để lệ đức Thế Tôn lòng từ tha thiết vì độ quần sanh mà phải vào trong đời ác trược khốn nguy, phải kiệt tâm tư suy tìm phương thế cứu vớt, nói thật không hiểu, không tin, bất đắc dĩ phải nói Quyền giáo ba thừa để dụ dẫn.

Trước hứa ba xe, mà lúc sau, khi các con đã ra khỏi chốn khổ nguy, đồng ban một thứ xe trân báu cao rộng đẹp nhất trong đời, chính chỉ rõ ý nghĩa ngày nay đức Phật lập Thật giáo phế Quyền thừa, mọi người sẽ đặng cứu cánh Phật quả.

Kinh nói: "Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả đó, ban đầu dùng ba thứ xe để dụ dẫn các con, nhưng về sau chỉ cho đồng một thứ xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn hạng nhất, mà ông trưởng giả đó không có lỗi hư vọng. Đức Như Lai cũng lại như thế, không có hư vọng. Ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh, về sau chỉ dùng Đại thừa mà độ thoát đó. Bởi vì sao? Vì đức Như Lai có vô lượng trí huệ, Thập lức, Tứ vô úy, tạng các pháp mầu, có thể ban cho tất cả chúng sanh pháp Đại thừa, chỉ vì chúng sanh không thể lãnh thọ được hết. Xá Lợi Phất! Do vì nhơn duyên đó, nên phải biết rằng, các đức Phật dùng sức phương tiện nơi một thừa phân biệt nói ba".
4. TÍN GIẢI PHẨM
Ngài Ma Ha Ca Diếp v.v... bốn vị đại đệ tử, thấy ngài Xá Lợi Phất đã lãnh hội tỏ ngộ, được thọ ký thành Phật, lại nhơn nghe lời thí dụ vừa rồi của đức Thế Tôn: "Phương tiện nói ba thừa, hội quy về một Phật thừa", cho nên sanh lòng vui mừng vô lượng, hiểu rõ quả vị của mình đã chứng trước kia là Quyền, tin chắc Phật thừa được nghe hôm nay là Chơn; hối hận ngày xưa si mê, vừa được tiểu quả Thanh Văn thoát ly Tam giới đã tự lấy làm đủ, không lập chí hương thượng, không mong cầu đại quả, như kinh nói: "Chúng con ở đầu hàng chúng Tăng, tuổi đều già suy, tự cho rằng đã đặng Niết Bàn, không còn kham nhiệm tu pháp Đại thừa, nên chẳng tấn cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác". Hôm nay, nghe đức Phật thọ ký cho Thanh Văn thành Phật, từ lâu tưởng rằng: đối với Phật thừa mình đã tuyệt phần, nay bỗng nhiên lại đặng, mừng này còn mừng nào hơn nữa, như kinh nói: "Nay chúng con ở trước Phật, nghe thọ ký đạo Vô thượng cho Thanh Văn. lòng chúng con rất vui mừng, đặng điều từ nào chưa từng có. Chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên đặng nghe pháp mầu hy hữu, mừng rỡ chẳng xiết, đặng lợi lành lớn, vô lượng trân bảo chẳng cầu mà đặng".

Rồi bốn ngài ở trước đức Phật, tự nói dụ cùng tử, nào bỏ cha trốn đi, nào gặp cha không nhận mà lại sợ, nào chỉ ham hốt rửa phân nhơ để được tiền công từng ngày, cho đến trên mười mấy năm sau, một ngày kia bỗng nhiên được cả gia tài to lớn của cha. Bốn ngài mượn việc của cùng tử để lệ cảnh huống của mình, mà cũng là của mọi người, thơ ngây xa Phật lưu lạc trong luân hồi, nổi trôi trong sanh tử, đến ngày gặp đặng Phật, lại không biết là chính cha lành mà lại sợ. Nhờ Phật phương tiện cho ở quả Tiểu thừa, tự an phần nơi đó, không tin mình chính là con của Phật, có phần ở Phật đạo, sợ hãi pháp Chơn thừa, mãi đến ngày nay mới tự hiểu tự tin. Kinh nói: "Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ ở trong sanh tử, bị các nhiệt não, mê lầm không biết, ham ưa pháp nhỏ. Ngày nay, Thế Tôn bảo chúng con suy nghĩ dứt trử phân nhơ hý luận của các pháp. Chúng con ở pháp đó siêng năng tinh tấn đặng đến Niết Bàn, tiền công một ngày. Đã đặng đó rồi, lòng rất vui mừng tự cho đã đủ. Chúng con từ xưa nhẫn lại, chính là Phật Tử mà chỉ ưa pháp Tiểu thừa. Nếu chúng con có lòng ưa mến pháp Đại thừa, thời đức Phật vì chúng con nói pháp Đại thừa. Ở nơi hội nói kinh Pháp Hoa này, đức Phật chỉ nói pháp Nhất thừa... Cho nên chúng con nói từ trước lòng không mong cầu, hôm nay Pháp vương đại bảo tự nhiên mà đến..."

Hiểu trước Quyền, tin nay Thật nên gọi phẩm này là Tín Giải.
5. DƯỢC THẢO DỤ PHẨM
Nhơn vì vừa rồi, bốn vị đại đệ tử đã tín giải, lập dụ để tự trần đã hiểu nơi Quyền tin nơi Thật của mình, đức Thế Tôn liền ấn chứng cho. Song, do vì còn chưa có thể biết thấu sức tri kiến bình đẳng thâm diệu của đức Như Lai, hoặc giả những hàng chấp tướng lại cho rằng: Đức Như Lai thật có tác ý tùy cơ. Do đức Như Lai tác ý tùy cơ nói ba thừa sai khác, và thật có quả vị ba thừa nên chứng và đáng được. Nếu chấp cho như thế thời thành có thật Niết Bàn cùng thật pháp. Niệm Niết Bàn cùng chấp pháp không tiêu thời có thể nào triệt suốt nguồn đáy của các pháp, đáy nguồn của các pháp không triệt suốt thời tất là Phật tri kiến khó khai hiển được. Dù đức Như Lai nói pháp ba thừa, nói quả vị, nói Niết Bàn, nhưng kỳ thật đức Như Lai bao giờ cũng vẫn vô tâm hành bình đẳng thuyết pháp. Viên âm nhất vị vang khắp. Chỉ vì chúng sanh chủng tánh không đồng, nên tùy theo căn, tùy theo tánh, tùy theo loại mà tự thành lãnh thọ sai khác thôi.

Vì muốn giải quyết nghĩa bình đẳng để ngừa sự nhận lầm, nên đức Như Lai nói dụ Dược Thảo. Mây đầy khắp trời che trùm muôn vật, đồng thời một loạt mưa xuống, chỉ rưới một thứ nước, cũng không chỗ ít chỗ nhiều. Mặc dù một trận mưa không mảy mún riêng tư, nhưng ba thứ cỏ cùng hai loại cây tùy phận được đượm nhuần mỗi mỗi riêng khác. Cứ xem nơi cây cỏ thời thấy sự hấp thụ không đồng, nhưng không đồng là tự nơi cỏ cây giống loại sai khác, chớ nước mưa chỉ một vị mà thôi.

Đức Như Lai thuyết pháp cũng thế. Lòng từ rộng lớn bao bọc cả quần sanh, dùng Viên âm ban cho phép Nhất vị bình đẳng. Pháp của Như Lai vốn không sai khác, mà có sai khác là tự nơi cơ của chúng sanh không đồng. Do đây mà thấy rõ ý thú "chỉ có một Phật thừa, không hai cũng không ba" làm cho người nghe xong dụ Dược Thảo liền trừ chấp kiến, có thể sâu vào pháp huệ bình đẳng của Như Lai, chính là khai hiển Phật tri kiến vậy.

Kinh nói: "Đức Như Lai làm vua các pháp. Nơi tất cả pháp dùng trí phương tiện mà diễn ra đó, pháp nói ra đó thảy đều dến bậc Nhất thiết trí".

Kinh lại nói: "Mây kia tuôn ra nước thuần một vị, cỏ cây lùm rừng tùy phận thọ nhuần. Tất cả các cây hạng lớn, vừa, nhỏ, xứng theo lớn nhỏ đều đặng sanh trưởng. Gốc, thân, nhánh, lá, bông, trái tươi sáng, một trận mưa rưới đều đều đặng tốt tươi. Xứng như thể tướng của cỏ cây kia, tánh loại chia lớn nhỏ, mưa nhuần vẫn một vị mà mỗi thứ đều sum suê. Đức Phật cũng thế, hiện ra nơi đời ví như mưa lớn che khắp cả... Ta là đấng tôn trọng nhất trong đời không ai có thế sánh bằng, vì muốn làm cho chúng sanh được an ổn mà hiện ra đời, vì hàng đại chúng nói ra pháp cam lồ thanh tịnh, pháp đó thuần một vị giải thoát Niết Bàn. Dùng một thứ diệu âm diễn thông nghĩa đó, thường vì Đại thừa mà làm nhơn duyên. Ta đều bình đẳng khắp xem chúng sanh không có lòng bỉ thử ưa ghét. Ta không tham chấp, cũng không hạn cuộc trệ ngại, hằng vì chúng sanh mà bình đẳng nói pháp. Tất cả chúng sanh nghe Ta nói pháp. tùy theo sức mình mà lãnh thọ, an trụ nơi các địa vị, hoặc ở nơi nhơn thiên, vua Chuyển Luân Thánh Vương, Đế Thích, Phạm Vương như giống cỏ thuốc nhỏ. Hoặc đặng Niết Bàn, chứng quả Duyên Giác như cỏ thuốc bậc Trung. Hoặc hạng cầu quả Phật. Ta sẽ làm Phật là cỏ thuốc lớn. Lại có các Phật Tử chuyên lòng cầu Phật đạo, thường hành đạo từ bi, tự biết mình làm Phật quyết định không nghi, đó gọi là hạng cây nhỏ. Bậc an trụ thần thông chuyển pháp luân Bất thối, độ vô lượng ức trăm ngàn chúng sanh, Bồ Tát như thế gọi là đại thọ". Đức Phật bình đẳng nói pháp như mưa một vị, tùy nơi tánh chúng sanh mà tự bẩm thọ không đồng... Đạo hạnh của các ông tu chính là đạo Đại thừa Bồ tát, lần lần tu học đều sẽ thành Phật.
6. THỌ KÝ PHẨM
Do ngài Ma Ha Ca Diếp v.v... bốn vị đại đệ tử từ trong phẩm trước lãnh ngộ ý chỉ bình đẳng Nhất vị, đã hiểu ba thừa vốn không thật, Phật tri kiến bổn hữu khai hiển, thời chánh nhơn chơn thật thành Phật đả đủ, nên đức Thế Tôn tuần tự thọ ký cho bốn ngài.
7. HÓA THÀNH DỤ PHẨM
Nghe pháp thuyết khai Quyền hiển Thật, ngài Xá Lợi Phất đã sớm lãnh ngộ Chơn thừa. Dụ thuyết vừa tuyên bày, bốn vị đại đệ tử tin sâu hiểu chắc, đều được thọ ký.

Trong pháp hội còn có một loại Thanh Văn căn tánh chậm lụt, từ lâu cho rằng quả vị Đại giác của Phật không phải trí phần của mình, không thể đến, không thể chứng. Đến nay, thói quen kém hèn vẫn chưa dứt, hoặc giả lo toan cho rằng: Năm ngài là bậc đại đệ tử của Phật, là bậc đạo thủ trong chúng, nên đáng đặng thọ ký, còn chúng ta chắc khó đặng dự phần. Nhơn thế nên vẫn còn ôm lòng tuyệt phận.

Đức Thế Tôn dự biết lòng chúng, bèn mượn việc mười sáu vị vương tử giáo hóa vô lượng chúng trong thời kỳ Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua vi trần số kiếp về trước, để cho chúng hội biết rằng: đức Phật với đại chúng đã cùng kết thiện duyên với nhau từ lâu xa. Vi trần số kiếp trước, đức Phật, vị vương tử thứ mười sáu đã từng gieo duyên chủng Pháp Hoa Nhất thừa vào tâm điền của đại chúng rồi. Từ đó về sau, đời đời vẫn không rời Phật, đều được đức Phật tiếp tục giáo hóa. Nay cơ duyên đã thuần thục, chính đã đến lúc ấn hứa làm Phật để phá nghi tình chấp trước của đại chúng, làm cho chúng phát khởi lòng hâm mộ Đại thừa, quyết định Phật tri kiến. Đức Phật nhắc việc Đại Thông Trí Thắng thuở xưa, dẫn việc mười sáu vị vương tử giảng kinh Páp Hoa ngày trước, để hiển rõ duyên nhơn Phật tánh. Phật tri kiến đã sẵn, duyên nhơn Phật tánh lại đã đủ, thời liễu nhơn tự thành.

Bổn ý của đức Phật bao giờ cũng muốn đưa toàn chúng thẳng một đường đến quả vị giác mãn của Phật, ngặt vì chúng sức kém, chí chúng lụt, tánh chúng chậm, nguyện chúng yếu, ngó quả cao xa sanh lòng chán nản sợ sệt, bất đắc dĩ đức Phật phải quyền lập Tam thừa Niết Bàn để cho chúng tạm thời an nghỉ, để cho lòng chúng bớt sợ hết nhàm. Lòng sợ nhàm đã hết, đức Phật liền dắt chúng thẳng bước đến mục đích chánh của Phật đã định.

Muốn hiểu rõ Tam thừa Niết Bàn rốt ráo là Quyền, tạm lập ra chỉ để trừ lòng chán nản sợ sệt của chúng mà thôi, nên đức Phật nói dụ Hóa Thành. Đức Phật là vị đạo sư tài trí, dẫn đường đưa chúng vượt qua con đường hiểm trở dài xa vô minh hoặc chướng, để đến Bảo Sở chơn thường. Nửa đường chúng mệt, chúng sợ, chúng muốn trở lại. Đạo sư phải dùng thần lực hóa ra thành trì để cho chúng có chỗ tạm nghĩ khỏi phải trở lui. Thành trì do thần lực biến hóa ra chớ nào phải thật. Chúng hết mệt hết sợ, Đạo sư liền nhiếp thần lực diệt Hóa thành, lại đưa chúng tiến lên con đường thẳng dến Bảo Sở. Trước sau cũng chỉ là một con đường phải noi theo để đến Bảo Sở thôi.

Tam thừa Niết Bàn nào khác Hóa Thành, tạm thời trụ nơi đó rồi lại phải rời ra mà thẳng đến trước, vì nào phải là cơ sở chơn thật mà ở mãi được, thỉ chung rồi cũng chỉ một Phật thừa là chơn thật, một con đường suy nhất đến quả Vô thượng Chánh giác.

Kinh nói: "Các vị Sa Di đó..., mỗi vị ngồi pháp tòa nói kinh Đại thừa này..., mỗi vị Sa Di đó độ các hàng chúng sanh có sáu trăm muôn ức hằng hà sa các chúng... Chúng được nghe pháp đó, nơi trong các cõi Phật, thường cùng thầy sanh chung... Ta trong số mười sáu, cũng từng vì các ông nói kinh Pháp Hoa, cho nên dùng phương tiện dẫn dắt các ông đến Phật huệ. Do nhơn duyên trước đó, nay lại nói kinh Pháp Hoa đưa các ông vào Phật đạo, cẩn thận chớ sanh lòng kinh sợ...".

Mọi người đều mỏi mệt mà thưa cùng Đạo sư rằng: "Nay chúng tôi mỏi mệt, nơi đây muốn trở lại". Đạo sư nghĩ như vầy: "Bọn chúng rất đáng thương, làm sao lại muốn trở lại mà đành mất trân bảo lớn. Liền nghĩ chước phương tiện, nên dùng sức thần thông hóa làm thành quách lớn, các nhà cửa trang nghiêm... Hóa xong rồi bảo chúng: Chớ sợ, các người vào thành này đều đặng tùy ý ưa muốn... Vị đạo sư biết chúng nghỉ ngơi xong bèn nhóm chúng mà bảo rằng: Đây là thành quách biến hóa thôi, các ngươi nên đi đến, đồng nhau đến Bảo Sở".

Ta cũng lại như thế, là Đạo sư của tất cả, thấy những người cầu đạo giữa đường mà trễ bỏ, chẳng có thể vượt qua các đường hiểm sanh tử phiền não. Ta dùng sức phương tiện nói Niết Bàn để chúng nghỉ ngơi. Biết đã đến Niết Bàn đều đặng A la hán, bèn nhóm đại chúng lại vì đó nói pháp chơn thật. Các đước Phật có sức phương tiện phân biệt nói ba thừa, vì để nghỉ nên nói hai, kỳ thật chỉ có một Phật thừa.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

8. NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ PHẨM
Năm trăm vị đệ tử trước kia nghe năm vị thượng thủ được thọ ký, vừa rồi lại được nghe việc nhơn duyên đời trước, đốn ngộ tích nhơn, mới biết rằng đức Phật dùng vô lượng thần thông phương tiện dẫn dắt chúng sanh, tự tin chắc mình quyết định thành Phật. Lòng nghi ngờ đã dứt, mối lo lắng đã tan cho nên nói rằng "tâm tịnh", chí hân mộ được đức Phật thọ ký nên nói rằng "dũng đước", tự biết đã kham đảm đương gia nghiệp Phật thừa, nên nói rằng "chỉ có đức Thế Tôn biết rõ được thâm tâm bổn nguyện chúng ta". Phật huệ đã hiển, tri kiến đã khai, nên đức Phật tuần tự thọ ký cho cả.

Được thọ ký xong, năm trăm vị nói dụ "Hệ Châu" để tỏ chỗ mê lầm của mình ngày trước, bày ý ngộ túc nhơn ngày nay, từ lâu không hề rời Phật thừa nửa bước mà trước không tự nhận, đến nay mới tin chắc.
9. THỌ HỌC VÔ HỌC NHƠN KÝ PHẨM
Do vì từ trước, đức Thế Tôn nhiều lần khai thị, nào "pháp", nào "dụ", nào "nhơn duyên", ba phen nói bày đã cùng, đã khắp, mọi người trong pháp hội đều tin ở nơi lời Phật dạy, chẳng còn nghi ngờ đều đã nhận thật. Cho nên các vị đại đệ tử, từ bậc thượng thủ, năm trăm đệ tử nhẫn đến cả một ngàn hai trăm A la hán đều được thọ ký, như thế là đã an ủi lòng đại chúng rồi. Nhưng còn hàng tân học Thanh Văn, như các ngài A Nan, La Hầu La v.v... đều muốn được thọ ký để toại lòng trông mong của chúng, mà cũng là chủ ý để thấy rằng Phật pháp không hề thừa sót. Nhơn đó đức Phật đều thọ ký cho.

Luận về Phật tánh có ba thứ nhơn, tức là "chánh nhơn", "duyên nhơn" và "liễu nhơn". Ba nhơn nếu đầy đủ thì quyết định thành Phật không nghi vậy. Tự tánh Phật mọi người đều sẵn đủ, đó là "chánh nhơn Phật tánh". Cần phải nhờ giáo pháp của Phật, các thiện trí thức v.v... trợ giúp cho khai phát, đó là duyên nhơn Phật tánh. Còn tự tin liễu ngộ, đó là "liễu nhơn Phật tánh". Các ngài Xá Lợi Phất v.v... mau tỏ ngộ, đó là chính vì chánh nhơn Phật tánh thâm hậu vậy.

Với năm trăm vị A la hán, đức Phật rộng dẫn duyên xưa để thấy rằng các vị đã được đức Phật giáo hóa từ lâu xa, đó là duyên nhơn Phật tánh đặng thuần thục vậy. Trong duyên nhơn lại có hai phần, tức là thân duyên cùng sơ duyên. Các bậc học, vô học gần kề bên đức Phật, dự pháp hội của Phật, đó là thuận duyên. Vả lại A Nan là em, La Hầu La là con, thời lại là tối thân trong thân duyên, có lý nào không đặng độ, nên đều được thọ ký cả. Mọi người thấy rõ lòng từ bi của đức Phật thật là rốt ráo bình đẳng.
10. PHÁP SƯ PHẨM
Do vì về trước, đức Thế Tôn cùng cực rộng khen pháp Nhất thừa nhiệm mầu rất sâu, người nào có thể tin được liền thành Phật. Các đại đệ tử đã tin, đã nhận, nên đều đặng thọ ký làm Phật ở tương lai.

Pháp Nhất thừa này chính là chánh nhơn Phật tánh bổn lai sẵn đủ của tất cả chúng sanh. Nay nhờ đức Như Lai, lòng từ bình đẳng, khai thị phương tiện, nói Diệu Pháp Liên Hoa này, để làm duyên nhơn trợ giúp cho chánh nhơn hiển phát. Đức Phật là duyên thân nhất, Diệu Pháp là duyên thắng nhất. Được gặp duyên nhơn thân thắng. không một ai là không liễu ngộ trọn thành liễu nhơn Phật tánh. Ba nhơn đã đủ bèn có thể kham đảm đương sự nghiệp của Phật.

Xem kết quả của chúng hội hiện nay, chứng rõ việc gieo mầm trong vi trần kiếp trước, dù lâu xa, thay đổi nhiều thân, trải qua nhiều đời, nhưng chỉ càng tăng trưởng nẩy nở, vẫn không một mảy bớt hao.

Đã biết rõ bổn nhơn của đức Phật thuở đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, trong tâm điền đã một phen huân nạp thắng pháp, thời rốt ráo thuần thục ở pháp hội ngày nay.

Suy quá khứ, chứng hiện tại, xưa đã thế thời nay cũng thế. Một hội pháp duyên hiện nay là chủng tử thắng diệu vô tận mãi mãi, để rồi sẽ rốt ráo thuần thục ở tương lai, đó chính là "nếu có người nào nghe pháp không một ai chẳng thành Phật", nhẫn đến "chỉ một niềm vui theo thời cũng đều nên Phật quả". Vì thế nên dùng hai chữ "Pháp sư" nêu tên phẩm này. Đây là chú ý, rằng chánh nhơn Pháp Hoa ngày nay, cần nhờ các vị Pháp sư để khai hiển, để truyền đăng làm thắng duyên vô tận cùng kiếp vị lai. Dù rằng tất cả chúng sanh đều có chánh nhơn Phật tánh, nhưng nếu không có Diệu Pháp để làm thắng duyên giúp cho phát lộ, thời tất khó mong chóng thành giác quả. Vì có "nhơn" mà không có "duyên" thời tất không sanh "liễu". Liễu nhơn đã không, làm thế nào đặng cứu cánh! Do các nghĩa như thế, nên chủng tử Phật tánh cần phải nhờ duyên khởi huân. "Duyên" huân có hai phần: "tân huân" và "cựu huân". Thuở Phật Đại Thông Trí Thắng, mười sáu vị vương tử khai hóa đó là "cựu huân". Hiện, pháp hội hôm nay là "tân huân" vậy.

Pháp sư có năm hạng:
  • 1. Tùy hỷ Pháp sư.
    2. Đọc tụng Pháp sư.
    3. Thọ trì Pháp sư.
    4. Thơ tả Pháp sư.
    5. Giảng thuyết Pháp sư.
Trong năm hạng trên đây, nếu có thể hoàn toàn một tức là vị Pháp Hoa Pháp sư.

Kinh Pháp Hoa này là toàn thân của Như Lai, gánh vác kinh này chính là gánh vác đức Như Lai. Vì thế phải kính trọng Pháp sư, xem như đức Phật. Để hiểu rõ pháp mầu thù thắng, cần phải nhờ nơi người hoằng truyền. Có hoằng truyền thời giống Phật không mất, đó là: "Pháp thâm diệu như thế, nếu không người tuyên nói, dù có trí cũng không hiểu biết". Kính trọng thời phước đức vô lượng, còn nếu hủy báng mắc tội báo rất nặng. Vì kính trọng là nối giống Phật, còn hủy báng là dứt giống Phật vậy.

Đến đây, thấy rằng bổn tâm hiện ra nơi đời của đức Phật cũng có thể gọi rằng là đã vừa khắp đủ.

Kinh nói: "Đức Phật bảo ngài Dược Sư Bồ tát: Tất cả đại chúng trong pháp hội này, từ hàng tứ chúng đến Thiên, Long, Bát bộ v.v... đều ở trước đức Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Một bài kệ một câu nhẫn đến một niệm tùy hỷ đó, ta đều thọ ký cho những người ấy sẽ đặng đạo Vô thượng Bồ đề... Sau khi ta diệt độ cũng thế, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ một câu, một niệm tùy hỷ đó, Ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Bồ đề cho những người ấy... Nếu lại có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối quyển kinh này xem như Phật, các thứ cúng dường... Phật biết những hạng người như trên đã từng cúng dường mười muôn ức đức Phật, nơi các đức Phật đã thành tựu nguyện lớn, vì thương chúng sanh mà sanh trong nhân gian này. Dược Vương! Nếu có người hỏi, chúng sanh nào sẽ làm Phật ở tương lai? Thời nên chỉ những hạng người trên đó, ở đời vị lai chắc đặng làm Phật... nếu có trai lành gái tín nào, sau khi ta diệt độ có thể riêng vì một người giảng nói kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một câu, phải biết người đó là sứ thần của đức Như Lai sai làm việc Phật, huống lại là người ở trong đại chúng rộng vì người mà nói".

Dược Vương! Nếu có người ác dùng tâm chẳng lành, nơi trong một kiếp, hiện ở trước Phật thường mắng nhiếc Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có một người dùng lời ác chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa này, tội đây rất nặng...".

"Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, người mà có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường kinh này vì người khác diễn nói, thời là đức Như Lai lấy y trùm người đó, lại được các đức Phật hiện tại ở mười phương hộ niệm... thời được đức Như Lai lấy tay xoa nơi đầu... Nếu sau khi Ta diệt độ, người nào có thể giảng thuyết kinh này, Ta liền sai hóa tứ chúng cúng dường vị Pháp sư đó, dẫn dắt các chúng sanh nhóm lại nơi đó khiến nghe pháp".

Từ phẩm Pháp Sư này trở về trước, phán thuộc về phần "Khai Phật tri kiến".

Khai có hai ý nghĩa:

1. Ở nơi đức Phật, thời đức Phật vì chúng khai thị, khai hiển, khai pháp, cốt yếu làm cho người nghe pháp tự hiểu, tự tin Phật tri kiến.

2. Ở nơi người nghe pháp, thời là khai ngộ Phật tri kiến. Bởi chúng từ lâu mê lầm không tin, nay nghe đức Phật giảng nói thời bỗng nhiên liễu ngộ, chính là liễu ngộ tự tâm, ví như hoa sen nở.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

C. PHẦN THỊ PHẬT TRI KIẾN
11. HIỆN BẢO THÁP PHẨM
Trong phẩm đây, hiển thị Pháp thân thường trú của Như Lai, cùng cảnh tịch tịnh thật tướng chơn thật muốn làm cho chúng sanh biết và thấy. Pháp thân cùng chơn cảnh đồng hiện bày trước mắt đại chúng, đó là nghĩa "Thị" vậy.

Trong pháp hội Pháp Hoa đây, trước nhất đức Phật phóng quang soi thấu phương Đông, hiện đủ sự tướng trong pháp giới, chúng sanh cùng Phật v.v... trước sau đều khắp, đó chính là chung hiển thị tâm cảnh Phật tri kiến thâm diệu của chúng sanh. Do vì chúng hội đương cơ chưa ngộ được diệu tâm, lại dùng tình thức suy nghĩ đo lường. Phàm hễ tình thức sanh, thời trí huệ bị cách ngại, chính trước mắt mà không tự đạt được, lại cho là không phải trí phần của mình. Sau đó đức Như Lai dùng đủ cách khai thị, nào "tuyên pháp thuyết", nào dẫn "dụ thuyết", nào thuật "nhơn duyên", nhờ thế mà chúng hội đương cơ đã tin lời của Phật tự nhận mình có làm Phật nên đều được đức Phật thọ ký.

Mặc dầu đã được thọ ký, nhưng đó chỉ mới tin tự tâm thôi, còn chưa nhận rõ Pháp thân chơn cảnh. Đây thời là niệm chấp chặt nghĩa sanh diệt chưa trừ, lòng cho có tịnh uế chưa dứt. Vì thế, nên đức Như Lai toan hiển Pháp thân thường trú mà tháp đẹp bảy báu từ dưới đất vọt lên. Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu, toàn thân hiện còn nguyên vẹn, để làm tan niệm chấp sanh diệt của chúng. Rồi chính cõi Ta Bà uế độ này, ba phen biến thành Tịnh Độ cực kỳ trang nghiêm, để dứt trừ lòng lầm cho thật uế thật tịnh của đương hội.

Vả lại, vô lượng chư Phật ở mười phương đồng câu hội nơi thế giới này, để chỉ bày trong pháp giới, không luận một trần hay một cõi, phạm chạm mắt đều là chơn cảnh thật tướng cả. Đây chính là tri kiến chơn thật của Phật vậy.

Tháp cao năm trăm do tuần. Trong tháp, toàn thân của đức Đa Bảo Như Lai y nhiên chẳng rã, để chỉ rõ cho chúng sanh biết rằng, chính thân ngũ uẩn sanh diệt của mọi người là nhà ở của pháp thân thường trú. Đến như cõi ta Bà ba lần biến thành Tịnh Độ, để chỉ rõ rằng: Hoa Tạng chơn cảnh Thật Báo Trang Nghiêm chẳng rời ngoài nghiệp dụng ngũ trược vậy.

Nơi đây, đức Thế Tôn chỉ bày Pháp thân thường trú y chánh trang nghiêm, là chủ ý muốn cho chúng hội đương cơ biết nghĩa vi diệu của tự tâm cảnh, ngõ hầu liền nơi trước mặt mà hiện chứng, chẳng sanh lòng lo sợ rằng Phật đạo dài xa, như bọn người đến Bảo Sở sợ đường hiểm trở, nhàm mỏi nẻo dài xa trong phẩm trước.

Thâm ý dẫn Quyền thừa của Phật rõ thấy nơi phẩm này. Do đâu mà rõ thấy?

Như trong kinh thường nói: "Khai môn phương tiện, hiển thị tướng chơn thật". Tướng chơn thật là gì? Chính là Pháp thân chơn thân của đức Tỳ Lô Giá Na do nhiều kiếp tu nhơn chứng đặng, cũng cõi Thường Tịch Quang chơn độ của Phật trụ. Rồi từ Pháp thân, hiện Báo thân Lô Xá Na ở nơi Tịnh Độ Thật Báo Trang Nghiêm. Nhưng thân cùng độ trên đây đều chơn thật, cho nên là chơn thật tướng.

Còn đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn là từ báo thân mà hiện ứng thân, vì tùy cơ duyên nên cõi của đức Phật ở cũng đồng với chúng sanh, tức là cõi uế độ Ta Ba ngũ trược này. Thân cùng độ này đều là giả. Vì giả nên phàm giáo pháp của đức Phật, ứng thân Phật thi thiết ra đều thuộc về Quyền, bởi tùy theo quyền cơ của uế chúng. Quyền là danh từ khác của phương tiện vậy.

Nhơn vì đức Tỳ Lô Giá Na khi thành Chánh giác, hiện thân Lô Xá Na ngồi tòa Kim cương nơi Bồ Đề Đạo Tràng cũng vì trần pháp tánh Đại sĩ nói kinh Hoa Nghiêm, đây là cả thân cùng độ đều chơn mà giáo pháp cũng thật. Ngặt vì trong hội Hoa Nghiêm, chỉ lợi cho bậc viên căn Đại thừa thôi, còn hàng căn khí Tiểu thừa cùng bậc tích hạnh Bồ Tát tuyệt phần, nên có câu: "Hàng nhị thừa đích thân ngồi tại tòa trong hội mà như đui như điếc".

Vì thế, nên đương lúc đức Tỳ Lô Giá Na thuyết Hoa Nghiêm, chẳng hại gì hiện thân ứng hóa Thích Ca Mâu Ni tám tướng thành đạo. Bắt đầu từ pháp hội nơi vườn Lộc, đem đạo Nhất thừa mà phân biệt nói thành ba thừa, để tiếp dẫn cơ hạng Trung và Tiểu. Dùng sức phương tiện nói Pháp Tứ Chơn đế, pháp Thập nhị Nhơn duyên, sự Lục độ v.v... đồng hóa độ ba căn. Mặc dù cũng có nói pháp giáo hóa Bồ Tát nhưng đều thuộc về Quyền giáo. Như ông trưởng giả trong phẩm Thí Dụ hứa ba thứ xe để quyền cứu các con, chẳng phải có thật. Ngày nào trong toàn chúng hội, hàng đệ tử của Phật, còn chưa chứng thấy Pháp thân chơn cảnh, thời là ngày đức Thế Tôn, đấng đại bi bình đẳng chưa toại lòng. Như nói: "Ta vốn lập thệ nguyện muốn làm cho tất cả chúng sanh đồng như Ta không khác". Ý của đức Thế Tôn vẫn muốn cho chúng sanh mau chứng chơn cảnh Pháp thân của Như Lai, để thẳng đến thật quả Hoa Tạng trang nghiêm. Ngặt vì chúng hội hạ liệt, một mực chấp Quyền là Thật mà chẳng chịu thẳng đến trước. Vã lại, đối với chơn thuyên của đức Thế Tôn đúng thật tuyên bày lại nghi ngờ không tin không nhận, làm cho đức Thế Tôn phải hao sức nhọc lòng, hơn bốn mươi năm dùng đủ phương tiện uốn nắn dạy dỗ.

Đến nay, căn tánh của chúng hội đã thuần thục, mà cơ duyên giáo hóa của Thế Tôn cũng xong, cho nên trong hội Pháp Hoa này, đức Thế Tôn thổ lộ bản hoài khai trừ của ba thừa Quyền giáo ngày trước, để hiển Nhất thừa chơn thật. Trưởng giả gia nghiệp giàu lớn, chính là dụ cho pháp Nhất thừa viên diệu của hội Hoa Nghiêm. Hàng Thanh Văn chỉ nhận ứng thân Thích Ca Mâu Ni Phật là chơn, mà chẳng biết chính còn có chơn Phật. Chỉ thấy cõi uế độ Ta bà đáng nhàm mà không thể đạt được chơn cảnh thật tướng. Vì thiên nhận thiên kiến như thế, nên khư khư một mực nắm chặt chỗ chấp sanh diệt, cùng niệm cho tịnh uế không chịu rời bỏ, bởi không đạt lý "duy tâm sở hiện" nên dến đổi thế đó.

Sắp sửa nói kinh này, đức Thế Tôn trước phóng quang minh soi suốt mười tám nghìn thế giới phương Đông, chỉ toàn chơn cảnh của pháp giới chính là trong hàng ngày của chúng sanh chớ không đâu khác. Cảnh trí này không phải dùng tâm tư mà có thể đến được, nên liền sau đó, đức Thế Tôn từ Tam muội dậy, lại dùng ngôn thuyết phương tiện, nhiều cách chỉ bày. Trong đại chúng đều tin tự bổn tâm, đức Thế Tôn liền thọ lý làm Phật cho cả. Đúng như trong kinh Hoa Nghiêm nói: "Lúc mới phát tâm, biết tất cả pháp chính là tâm tự tánh, thành tựu huệ thân, tỏ ngộ chẳng do người khác". Đây chỉ mới rõ tự tâm chơn, còn chưa đạt được tự cảnh thật. Tâm cùng cảnh chưa dung thông thời chưa phải chơn nhơn thành Phật, còn thuộc về tri kiến của chúng sanh chớ chưa phải là tri kiến của Phật. Các phẩm trước đức Phật thọ ký cho chúng hội, đã khai hiển tâm chơn, nên nói phẩm này để chỉ cảnh thật, để thị Phật tri kiến.

Trong phẩm này, ý nghĩa rất sâu xa, nếu không chinh chắn tham cứu thời rất khó lãnh hội diệu chỉ. Đem dung hội với Hoa Nghiêm, lại càng rõ quy thú trong phẩm này thật là thâm huyền vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

D. PHẦN NGỘ PHẬT TRI KIẾN
12. ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA PHẨM
Trong phẩm này, chỉ bày ngộ Phật tri kiến có khó có dễ. Khó để chúng hội sanh lòng trân trọng hy hữu, dễ để chúng hội sợ sệt dài xa, nhắc túc nhơn của đức Phật cùng Đạt Đa, nhơn đây mà đặt tên phẩm.

Do vì trước kia, các hàng Thanh Văn từ xưa ôm lòng sợ sệt Phật đạo dài xa cho nên không lòng ưa muốn. Đến nay, dù đã nhờ đức Phật thọ ký, nhưng còn phải trải qua nhiều kiếp mới đặng Phật quả. Sợ rằng trong thời gian đó, túc tập phát khởi, nửa chừng ngưng trệ không khứng siêng cầu, nếu rời Diệu Pháp Nhất thừa này thời Phật đạo không do đâu thành tựu.

Đức Thế Tôn tự dẫn việc đời trước của mình, dẫn việc một đời để lệ vô lượng đời khác, cần cầu kinh Diệu Pháp Nhất thừa, không màng giàu sang, không sợ nhọc nhằn, không tiếc thân mạng. Dù làm vua mà cũng phủi bỏ, xả thân để cầu Tiên nhơn, tiền thân của Đề Bạt Đạt Đa truyền cho Diệu Pháp, nhờ đó mà nay mới đặng viên thành đạo quả Bồ đề, lại đem diệu pháp đó tuyên dạy cho chúng hội hiện tại. Đức Phật lãnh thọ Pháp Hoa, Đề Bà Đạt Đa tuyên truyền Pháp Hoa. Một hiện thành Phật, một sẽ thành Phật để hiển rõ thành Phật chung quy không ngoài Diệu Pháp Liên Hoa. Như thế, há lại không nên cố gắng cần cầu tu tập? Há lại không nên phát tâm kính trọng hy hữu?

Đức Phật từ lâu khổ nhọc cầu Diệu Pháp mới đặng thành Phật, đó là biểu nghĩa "ngộ Phật tri kiến" rất khó vậy. Vả lại, sợ rằng hàng đệ tử hạ liệt vì thấy khó mà không gắng tấn, cho nên kế đó hiển bày việc giáo hóa của ngài Văn Thù Sư Lợi ở Long cung, chưa bao lâu đã có vô lượng chúng thành Bồ Tát vị, cũng có người trước kia là Thanh Văn mà nay tu tập hạnh Bồ Tát. Lại thêm Long Nữ mới tám tuổi đầu mà trong khoảng hiến bảo châu, bỗng nhiên biến thành nam tử qua thế giới Vô Cấu ở phương Nam thành bậc Đẳng Chánh giác giáo hóa chúng sanh. Tất cả những kết quả vĩ đại mau chóng như trên đều nhờ sức của Diệu Pháp Liên Hoa.

Vả lại, biển là chốn sanh tử trầm nịch, rồng là đầu dọc Tam độc, người nữ là căn khí âm nhu cấu trược. Long Nữ đủ cả ba điều ty tệ này mà trong một thời gian ngắn, liền có thể hiện chứng Bồ Đề, sao lại quá dễ thế! Nhân vì gần gũi bậc đại trí để làm chổ y quy vậy. Cũng là chủ ý bảo chúng hội đương cơ sau khi Phật diệt độ, nên gần gũi bậc tối thắng trí thức, có thể chắc chắn được rốt ráo diệu ngộ, trọn không còn phải lui vào hạng Nhị thừa nữa.

Kinh nói: "Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát cùng Thiên, Nhơn, Tứ chúng rằng: Ta ở trong vô lượng kiếp về quá khứ, cầu kinh Pháp Hoa không trễ nải mỏi mệt. Ở trong nhiều kiếp thường làm Quốc Vương phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ đề tâm không lui sụt. Vì muốn trọn đủ sáu pháp Ba la mật, nên siêng năng thực hành hạnh bố thí trong lòng không chút lẫn tiếc, từ của cải, vợ con đến đầu, mắt, tay, chân không tiếc thân mạng...".

"Khắp vì chúng sanh, cần cầu pháp Đại thừa, cũng chẳng vì thân mình... Do đó, bèn đặng thành Phật, nên nay vì các ông mà diễn nói...".

Ngài Trí Tich Bồ Tát hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: "Kinh Pháp Hoa này rất sâu vi diệu, là báu nhất trong các kinh, trong đời rất ít có. Vả có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau đặng thành Phật chăng?"

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp: "Có con gái của Ta Kiệt La Long Vương mới tám tuổi mà lợi căn trí huệ, hay biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, đặng Đà la ni... Trong khoảng Sát na, phát tâm Bồ đề đặng trụ bậc Bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh dường như con đỏ, công đức đầy đủ... có thể đến bậc Bồ đề...". Đương lúc cả chúng hội đều thấy Long Nữ bỗng nhiên biến thanh nam tử, đủ đạo hạnh Bồ Tát, liền qua thế giới Vô Cấu phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng Chánh giác, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi hình đẹp, khắp vì mười phương tất cả chúng sanh diễn nói Diệu Pháp.
13. TRÌ PHẨM
Do về trước, chúng hội đương cơ đã khai ngộ, dù được thọ ký, nhưng còn phải trải qua nhiều kiếp mới thành Phật. Đức Thế Tôn sợ rằng tập quán hẹp hòi hèn yếu, sợ khó, ngại xa, hoặc giả giữa đường lại sanh lòng lo sợ Phật đạo dài xa, nên đức Thế Tôn tự thuật tiền thân cầu pháp dù khó nhọc đủ điều, nhưng vẫn không một niệm nhàm mỏi, để làm gương cho chúng hội phấn khởi, để cho tập quán yếu hèn tiêu tan. Rồi lại việc Long Nữ thành Phật trong khoảnh khắc, để thấy lực dụng thù thắng của Pháp Hoa, làm cho chúng dứt kiến chấp xa gần, mau chậm. Lòng phấn khởi không yếu hèn, quên bặt gần xa, thời có thể an trú nơi Phật đạo.

Chúng hội được cơ đã được đủ nhơn đủ duyên như thế, còn chúng sanh sau khi Phật diệt độ thời thế nào mà được trụ Nhất thừa. Do vấn đề sau đây nên có phẩm "Trì" này.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này là huệ mạng của chư Phật, là chánh nhơn Phật tánh của chúng sanh. Trong thời kỳ sau khi đức Phật diệt độ, người nhiều tệ ác, tội nặng, phước mỏng, chướng sâu, huệ kém, khó có thể phụng trì được. Nếu không người phụng trì thời giống Phật phải dứt mất, đây là chỗ đức Phật thầm lo vậy. Các vị Bồ Tát cũng thầm hiểu ý của đức Thế Tôn, mới cung kính an ủi đức Thế Tôn chớ lo, các ngài đều nguyện phụng trì kinh này ở đời vị lai rộng bày diễn nói chẳng quản khổ nhọc, chẳng tiếc thân mạng.

Năm trăm vị đệ tử cùng hàng học vô học, tất cả chúng hội vừa được thọ ký, cũng lãnh hội ý đức Thế Tôn, nên đều nguyện rộng tuyên diễn ở tương lai, song lại nguyện truyền pháp ở các thế giới phương khác, vì người cõi nước Ta Bà này phần nhiều tệ ác, thượng mạn, các ngài tự lượng sức mình chẳng kham hóa độ được.

Các vị đại Tỳ kheo Ni như Đại Ái Đạo, Liên Hoa Sắc v.v... từ giờ vẫn tự cho thân phụ nữ nhiều cấu chướng không dám vọng cầu Phật quả, nhơn vừa rồi tận mắt thấy Long Nữ thành Phật, nên cũng tự tin rằng mình cũng có phần được làm Phật, mới khao khát mong đợi đức Thế Tôn thọ ký. Sau khi đã được thọ ký, liền phát nguyện tuyên truyền kinh Pháp Hoa ở tha phương thế giới, để tự bày tỏ tâm chí không lui sụt trễ nải.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bèn ngó tám mươi ức na do tha chúng Bồ Tát mà vẫn chẳng thốt lời. Chính ý đức Thế Tôn sợ rằng: Chúng Thanh Văn dù nguyện trì kinh mà chưa quen những công hạnh thiệp tục lợi sanh, pháp lực không đủ, e lại bị chướng nạn mà làm cho pháp duyên khó rộng, nên muốn nhờ các vị Bồ tát hỗ trợ. Các vị Bồ Tát hội được ý của đức Thế Tôn nên đồng phát nguyện trong thời kỳ Phật đã được diệt độ, các ngài sẽ qua lại cùng khắp mười phương thế giới, dùng sức nhẫn nại giúp cho chúng sanh thọ trì kinh này, song không dám tự phụ sức mình, nên nói hộ trì được đó là nhờ thần lực của Như Lai.

Kinh nói: "Bấy giờ, Dược Vương Bồ Tát và Đại Nhạo Thuyết Bồ tát cùng hai vạn Bồ Tát đều ở trước đức Phật thệ rằng: Cúi xin đức Thế Tôn chớ lấy thế làm lo. Sau khi đức Phật diệt độ, chúng con sẽ phụng trì, đọc tụng, diễn nói kinh này. Chúng sanh trong đời ác sau này căn lành càng ít, nhiều tăng thượng mạn, tham lợi cúng dường, thêm căn chẳng lành, xa lìa giải thoát, dù khó giáo hóa được, chúng con sẽ khởi sức đại nhẫn đọc tụng kinh này, phụng trì, biên chép, các thứ cúng dường chẳng tiếc thân mạng...".

Lại có hàng học, vô học tám nghìn người được thọ ký cũng phát thệ rằng: "Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi nước khác rộng diễn thuyết kinh này. Vì trong quốc độ Ta Bà này, người nhiều tánh tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, sân trược dua dối, tâm không thật vậy...".

Na do tha chúng Bồ tát bạch Phật: "Chúng con chẳng tiếc thân mạng, chỉ tiếc đạo Vô thượng. Chúng con nơi đời sau hộ trì Diệu Pháp của đức Phật phó chúc. Trong các tụ lạc, thành ấp, có người cầu đại pháp, chúng con là sứ thần của đức Phật, ở trong chúng không sợ sệt. Chúng con sẽ khéo nói pháp, mong đức Phật an lòng".
14. AN LẠC HẠNH PHẨM
Nhơn vừa rồi, hàng Thanh Văn cùng chúng bồ tát phát nguyện trì kinh, Thanh Văn thời nguyện ở tha phương, Bồ Tát thời nói dùng sức nhẫn nại để đương lại với những điều hoạn nạn khó khăn ở thời mạt thế. Ý của ngài Văn Thù cho rằng: Dù dùng nhẫn lực để trì kinh đã hay, song không làm thế nào cho khỏi có xảy ra những điều hoạn nạn khó khăn thời ổn thỏa hơn, nên ngài bèn thưa thỉnh cũng đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn bèn nói bốn hạnh an lạc. Các vị Pháp sư trì kinh Pháp Hoa ở đời ác sau, nếu có đủ bốn hạnh này thời có thể vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa khỏi các chướng nạn, thường được an vui.

Bốn hạnh an lạc là:

1. Hành xứ và thân cận xứ. Chỗ sở hành và chỗ thân cận của Bồ tát phải thường tương ưng với tánh giới. Bề trong thời an trụ nơi đệ Nhất nghĩa thật tướng, bề ngoài thời xa những mầm nạn, những ác hạnh, tránh tất cả những điều cơ hiềm. Tương ưng tánh giới, an trụ thật tướng thời tâm an, xa tránh ác hạnh, cơ hiềm mầm nạn thời thân an. Thân và tâm an thời vì chúng sanh nói kinh Pháp Hoa tất khỏi bị chướng nạn.

Cũng có vị cổ đức cho rằng, hành xứ cùng thân cận xứ là thân nghiệp an lạc hạnh. Lấy ý mà suy thời cũng với nghĩa trên cũng vẫn tương đồng.

2. Ngừa lỗi nơi khẩu nghiệp và khéo nói pháp, làm cho mọi người đều hoan hỉ thời khỏi chướng nạn mà được an vui, chính là khẩu nghiệp an lạc hạnh vậy.

3. Dứt trừ những tánh đê hèn, như dua dối, ghét ganh v.v... tức là nơi tâm xa rời tất cả phiền não cấu trược. Kính trọng người trên, không khinh kẻ dưới. Được như thế thời không xúc ngổ tâm của mọi người, khỏi những điều oán hận mà tự mình được an vui. Đây là thuộc về ý nghiệp an lạc hạnh.

4. Bồ Tát ở đời sau phải sanh lòng từ bi thệ độ tất cả, như thế thời không xa bỏ chúng sanh mà thường nguyện giáo hóa, không sanh niệm mỏi mệt nhàm chánh. Đây tức là thệ nguyện an lạc hạnh.

Đủ bốn hạnh trên đây thời là có đủ sức thủ hộ giảng thuyết kinh Pháp Hoa ở đời ác trược vị lai, khỏi chướng nạn được an ổn vui vẻ.

Bốn hạnh này là phép tắc của đức Thế Tôn truyền dạy để giữ gìn gia nghiệp vĩ đại của đấng cứu thế. Tất cả luật hạnh oai nghi đều gồm nhiếp trong bốn hạnh này. Người xuất gia trong đời mạt pháp, nếu có thể giữ hạnh này hoàn toàn, thời có thể gọi là chẳng phụ ân sâu của đức Thế Tôn vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

15. TÙNG ĐỊA DÕNG XUẤT
Trong phẩm này, đại ý là để hiểu rõ tự tâm khi phát ngộ, thời hằng ha sa tánh đức hiện tiền, mới cùng tột đến chỗ cực diệu trì kinh Pháp Hoa vậy.

Dù rằng đã có nhiều Thanh Văn cùng Bồ Tát phát nguyện trì kinh, nhưng Thanh Văn tự lượng sức không đủ, chẳng kham ở Ta Bà mà nguyện truyền Diệu Pháp ở tha phương. Các vị Bồ Tát dù đông nhưng vẫn hữu hạn. Thế giới vô biên, chúng sanh vô tận, kinh Pháp Hoa lại khó trì thứ nhất, như trong phẩm Hiện Bảo Tháp nói: "Nếu có người để cõi đại địa trên móng chân mà bay lên cõi trời Phạm Thiên cũng chưa lấy làm khó. Sau khi đức Phật diệt độ, trong đời ác, người đọc tụng kinh này, đây là rất khó... Nếu có người trì tám muôn bốn ngàn pháp tạng, mười hai bộ kinh vì người diễn nói, làm cho những người nghe pháp đều đặng sáu món thần thông nhẫn đến chứng A la hán cũng chưa lấy làm khó. Sau khi Phật diệt độ, nếu có người phụng trì kinh điển như thế này thời là rất khó...".

Xứ rộng vô biên, người đông vô lượng, pháp lại khó trì thứ nhất, mà người hoằng pháp có số hạn thời thật là khó nổi hoàn toàn. Tất cả phải có số đại Bồ tát vô lượng vô hạn, công việc trì kinh mới được trọn vẹn, đức Thế Tôn mới thật an lòng. Vì cớ này nên các vị Bồ Tát ở hạ phương đúng thời dũng xuất để ứng tâm của đức Phật.

Đức Phật trước khước từ lời nguyện hộ trì kinh nơi cõi Ta Bà của tám hằng hà sa Bồ Tát ở tha phương, chính là để hiển rõ ý từ ngoài đến không quý bằng tự nhà có sẵn. Cho nên, đức Phật nói: "Cõi Ta Bà của Ta tự có sáu vạn hằng hà sa chúng đại Bồ Tát, mỗi vị Bồ Tát đều có sáu vạn hằng hà sa quyến thuộc. Những người đó có thể sau khi Ta diệt độ, kham hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh này...". Ứng theo lời đức Phật, đại địa rúng nứt, vô lượng nghìn muôn ức Bồ tát từ dưới đất vọt lên, đến tháp báu lễ Phật... Đến đây, thời kiến chấp sanh diệt dứt, lâu mau đồng thời, cho nên năm mươi tiểu kiếp mà cho như trong khoảng bữa ăn. Do vì xứng tánh đức mà thành hạnh, nên bốn vị thượng thủ trong vô lượng Bồ Tát đều dùng chữ "Hạnh" đặt tên, chính là ý dùng tánh đức thành hạnh này trì kinh, mới đúng với bản hoài của Phật.

Tánh đức hiện tiền trọn chẳng phải là tâm thức có thể lường biết được, cho nên ngài Di Lạc Bồ tát cùng tám hằng ha sa Bồ Tát đều sanh lòng nghi, nhẫn đến không biết đặng một người. Các vị Thị giả của mười phương Phật cũng đồng thưa hỏi.

Đây không phải duyên sự nhỏ, không phải là dễ tin cho nên đức Phật trân trọng răn gắng, báo trước khi nghe lời đức Phật tuyên bày, phải mặc giáp tinh tấn, phát ý kiên cố, mới khỏi sanh lòng nghi sợ.

Đức Như Lai nói: "Nay đức Như Lai muốn hiển phát tuyên thị trí huệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức Sư tử phấn tấn của chư Phật, sức oai mảnh đại thế của chư Phật". Tất cả công đức quảng đại thâm diệu của chư Phật đều gồm đủ trong những lời sẽ nói của đức Như Lai há lại là việc nhỏ thay! Xét đây thì thấy rằng, ý chỉ trong đoạn văn của đức Phật sắp tuyên bày rất sâu, không thể dùng tri kiến thông thường mà đến được. Mà đúng thật như thế, nên lúc đức Phật nói, đại chúng Bồ Tát từ đất vọt lên đó, đều là từ khi đức Như Lai thành đạo giáo hóa khiến cho đó phát tâm, thời Ngài Di Lạc và chúng hội đều sanh lòng nghi. Bởi vì chính mắt các ngài thấy đức Như Lai từ khi thành đạo đến nay, trải qua hơn bốn mươi năm, những người được Phật giáo hóa đều đủ mặt tại hội Linh Sơn.

Còn đại chúng Bồ tát đó, chứng hội không biết mặt được một người, huống nữa là đại chúng Bồ Tát đó đã nhiều đời nhiều kiếp vun trồng cội đức căn lành mới đặng đầy đủ thần thông đạo hạnh như thế, đức Như Lai mới thành đạo đây sao lại nói các vị đó ban đầu do đức Phật giáo hóa mà phát tâm. Vì vậy nên các ngài nói dụ "cha trẻ con già", thuật lòng nghi ngờ của mình để cầu đức Như Lai giải quyết, chẳng những để quyết nghi cho chúng sanh ở đời vị lai. Phẩm kế đức Như Lai tự nói thọ lượng để quyết nghi vậy.
16. NHƯ LAI THỌ LƯỢNG PHẨM
Do vì vừa rồi ngài Di Lặc cùng chúng hội nghi việc đức Thế Tôn mới thành Phật trong thời gian ngắn mà thế nào gió hóa thành tựu được vô lượng đại Bồ Tát từ nhiều kiếp huân tu công đức, cho nên đức Thế Tôn tự nói thọ lượng của Phật. Vì tùy cơ duyên giáo hóa, đức Như Lai dùng sức bí mật thần thông hiện thân ra nơi đời, tất cả chúng sanh đều cho rằng: Nay đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni giáng sanh nơi cung vua dòng họ Thích ngồi nơi Đạo Tràng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là chúng sanh chỉ biết một phần Tích môn quyền hiện của đức Thế Tôn. Nhưng kỳ thực về Bổn môn chơn thật, thời từ khi đức Thế Tôn thành Phật đến nay, trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp.

Đức Thế Tôn hiển bày tự Bổn và Tích để phá kiến chấp sanh diệt của hàng Nhị thừa, để hiển Pháp thân thường trú, tùy cơ duyên khắp ứng để giáo hóa, hoặc ẩn hoặc hiện đều vô ngại. Đủ thấy trí huệ của Như Lai phương tiện độ sanh rất sâu vô lượng, khó hiểu, khó vào.

Người ngộ đạo tu hành nếu chẳng đạt Pháp thân thời trọn chẳng phải là chơn ngộ, đều còn thuộc về tri kiến chúng sanh, chớ chưa phải Phật tri kiến.

Phẩm Hiện Bảo Tháp ở trước, mượn đức Đa Bảo Như Lai để hiển bày Pháp thân chơn cảnh, mà trong hàng chúng hội chỉ tin Đa Bảo mà chưa tin Thích Ca đồng là một thân một sức trí huệ, mặc dù từ khi tháp báo hiên ra dến đây, hai đức Như Lai đồng ngồi chung một tòa Sư Tử trong tháp. Bởi hàng Thanh Văn cố chấp sanh diệt pháp, tập quán quá sâu, chỉ nhân đức Như Lai nói pháp, bắt đầu từ vườn Lộc nơi thành Ba La Nại đó là chơn thật Thích Ca Mâu Ni Như Lai mà thôi, chẳng còn biết chơn Phật bổn thật. Lại nghe nói đức Như Lai sắp sẽ diệt độ, thời càng tăng trưởng kiến giải sanh diệt. Dù đã được thọ ký, nhưng chỉ mới tin lời của đức Như Lai chớ chưa thấy được tâm của đức Như Lai, chưa thấy Phật tâm thời khó thành tựu Phật quả vậy. Vì còn chưa phải chơn ngộ thì chỗ tu hành cũng chẳng phải chơn tu, ngộ cùng tu không phải chơn làm thế nào kết chơn quả được. Cứ đây mà suy, thời thấy rằng từ trước, những phương pháp khai thị của đức Thế Tôn thi thiết đó đều thuộc về tùy cơ phương tiện. Dù cũng có ám chỉ chơn thường cùng hiển thật tướng, song chưa lộ bày rõ rệt. Đến phẩm Thọ Lượng này, thời thật là đức Thế Tôn trải hết bổn tâm, bày hết thần lực, chỉ rõ toàn thể Pháp thân mà nói thọ lượng vô lượng.

Pháp thân chơn thường là chỗ mà tất cả chúng sanh khó hiểu khó vào, mặc dù Phật có hết cách giải bày, nên trước khi tuyên nói, đức Như Lai ba phen đinh ninh dạy bảo đại chúng nên gắng tin lời nói chắc thật của đức Như Lai, rồi lại chờ chúng hội ba phen cần cầu thưa thỉnh lòng khát ngưỡng đã thiết, rồi sau đức Như Lai mới nói. Vì nếu trong lòng chưa quyết chắc lời Phật thời tình thức phân biệt dễ sanh, mà tình thức phân biệt là bức tường thành ngăn cách Pháp thân, là con đường đi ngược hướng của thật tướng. Vả cũng vì Pháp thân của Như Lai thường trú, hiện diệt độ mà không phải thật diệt độ khó hiểu khó vào, nên tiếp đó đức Như Lai nói dụ "Thầy Thuốc" vì chữa bệnh cho các con mà phương tiện nói chết, kỳ thật thời vẫn còn.

Ngộ được pháp thân chơn thường này thời mới là chơn ngộ. Chưa ngộ mà tu thời là tu chơn. Chơn ngộ chơn tu là chơn nhơn. Dùng chơn nhơn mới kết thành chơn quả được.

Đến phẩm đây thời đức Như Lai hiển lý đã viên mãn, mà cũng là thố lộ hết cả bản hoài vậy. Kinh nói: "Tất cả Người, Trời, A tu la trong đời đều nói đức Thích Ca Mâu Ni sanh trong cung vua dòng họ Thích ngồi nơi Đạo Tràng cách thành Già Da không bao xa mà chứng thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp... Ta tùy theo chúng nên dùng phép gì để được độ, nơi nơi nói danh tự không đồng, niên kỷ lớn nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ vào Niết Bàn. Vì muốn cho chúng sanh sanh các căn lành, nên dùng ngần ấy nhân duyên thí dụ ngôn từ nhiều cách nói pháp, chỗ làm Phật sự chưa từng tạm bỏ. Ta thành Phật đến nay rất là lâu xa như thế, thọ mạng vô lượng vô biên kiếp, thường trú bất diệt. Nhưng nay chẳng phải thật diệt độ, mà bèn xướng rằng sẽ diệt độ". Đức Như Lai dùng phương tiện đó để giáo hóa chúng sanh... Vì nếu đức Như Lai ở lâu trong đời, nhưng chúng sanh hạ tiện thấy đức Như Lai thường còn không diệt bèn sanh lòng kiêu tứ biếng trễ... Nay nghe Như Lai nhập diệt, tất sẽ sanh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật bèn vun trồng căn lành, cho nên đức Như Lai dù thật chẳng diệt độ mà nói diệt độ... Như thầy thuốc chước khéo vì để trị cuồng tử, thật còn mà nói chết... nên kinh ghi: "Ta thường tự nghĩ rằng: Lấy gì cho chúng sanh đặng vào đạo Vô thượng, mau thành tựu thân Phật".
17. PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC PHẨM
Do nghe lời Phật nói thọ mạng dài xa, đã ngộ Pháp thân thường trú, cùng trước thấy ba phen biến cảnh Tịnh Độ. Đã rõ ba cõi duy tâm sở hiện, đây là bèn dùng chơn tín giải để làm chơn nhơn, có thể khế hợp chơn quả thường trú Như Lai, dùng đây trì kinh mới đặng diệu lợi. Bởi Pháp thân vẫn thường trú ở thế gian, cảnh Tịnh Độ không rời cõi trược, nên đức Thế Tôn khuyến gắng trong chúng hội: "Nếu có người quán được như thế, phải biết đó là tướng thâm tín giải, là tin và hiểu Pháp thân thường trú duy tâm chơn cảnh. Thân và cảnh đây rất sâu rất diệu, tin hiểu được thời công đức vô lượng vô biên". Nên sau khi đức Thế Tôn nói thọ lượng rồi, tuyên nói có đến vi trần số Bồ Tát đắc pháp lợi, để chứng thành công đức diệu ngộ Pháp thân thường trú. Diệu ngộ đã cùng tột, thời mới thật là chơn trì kinh.

Do đây nên biết rằng: Chơn trì kinh chính tại diệu ngộ, chẳng phải chỉ một mặt thế gian văn tự, cho nên đức Như Lai phân biệt công đức trí kinh bất khả tư nghì siêu việt tất cả hữu vi công đức ấy.
18. TÙY HỶ CÔNG ĐỨC PHẨM
Dù rằng vừa rồi đức Thế Tôn phân biệt công đức của người trì kinh đã là thù thắng vô lượng, nhưng còn muốn cho rõ thêm công đức lợi ích bất khả tư nghì, nên trong phẩm này, lấy một niệm công đức tùy hỷ của người lần lượt nghe pháp thứ năm mươi, còn gấp bội hơn phước đức của nhà đại thí chủ trải tám mươi năm đem thất bảo và đồ tư sanh bố thí cho tất cả bốn loài chúng sanh trong bốn trăm muôn ức vô số thế giới, cùng giáo hóa cho cả thảy đều chứng tứ Thánh quả. Huống là công đức của người ban đầu nghe pháp mà sanh tâm tùy hỷ, có thể nào nghĩ hay bàn đến đặng.

Đại khái trong phẩm đây, cùng tột hiển bày sự lợi ích rộng lớn thù thắng của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chủ ý để làm cho tâm nguyện của hàng Nhị thừa và sơ tâm Bồ tát được bền vững chắc chắn vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

19. PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC PHẨM
Trước đã rộng khen công đức trì kinh, nay trong phẩm này nói vị Pháp sư trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa liền đặng sáu căn thanh tịnh, để chỉ rõ sự lợi ích thù thắng của Pháp Hoa Tam muội, chính đương hiện tiền lên bậc Bất thối, để phát khởi lòng tinh tấn không nhàm mỏi cho đương hội và vị lai.

Về phẩm Pháp Sư trước trong phần Khai Phật tri kiến, chỉ nói nhiệm vụ của năm cách trì kinh Pháp Hoa. Đến phẩm này mới chánh chỉ rõ công đức trì kinh của Pháp sư được diệu đức thù thắng tại hiện tiền. Bởi chủng tử Phật tánh cần phải nhờ duyên huân mới sanh trưởng phát hiện, Phật tánh sanh phát thời huệ mạng chẳng dứt. Huân trưởng nhờ nơi Pháp sư nên công đức rất thù thắng vô lượng.

Như kinh nói: "Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm nhãn công đức, một nghìn hai trăm nhĩ công đức, tám trăm tỷ công đức, một nghìn hai trăm thiệt công đức, tám trăm thân công đức và một nghìn hai trăm ý công đức. Mắt thường của người đó thanh tịnh thấy suốt cả vật sắc trong Tam thiên đại thiên thế giới; tai thường của người đó thanh tịnh nghe rõ cả tiếng trong đại thiên thế giới; mũi thường của người đó thanh tịnh ngửi biết cả mùi trong đại thiên thế giới; lưỡi thường của người đó thanh tịnh nói thông vô lượng pháp; thân thường của người đó thanh tịnh ảnh hiện cả vạn vật trong đại thiên thế giới; tâm ý của người ấy thanh tịnh rõ biết vô lượng pháp, thông đạt vô lượng nghĩa, biết tất cả tâm niệm của mọi loài, kham lãnh thọ tất cả pháp của tất cả đức Phật...".
20. THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT PHẨM
Từ trước, trong nhiều phẩm nói công đức trì kinh rất thù thắng. Đến đây, đức Phật chỉ rõ công hạnh trì kinh bền vững như thế nào, kết quả như thế nào, nên đức Phật tự thuật tiền thân của đức Phật để chứng thật.

Đức Phật nói từ thuở quá khứ lâu xa vô lượng kiếp về trước, trong thời tượng pháp của Phật Oai Âm Vương, đức Phật là một vị Bồ tát tên Thường Bất Khinh, trì kinh Pháp Hoa này, chỉ muốn đem Phật huệ bình đẳng giáo hóa chúng sanh, nhẫn đến nhiều phem bị hủy nhục. Nào bị mắng nhiếc, nào bị đánh đập v.v... mà vẫn tuyệt nhiên không hề móng một niệm chán nản, cũng không chút giận hờn, cũng không biết mỏi nhọc.

Do đức nhẫn nại trì kinh kiên cố như thế, mà hiện thân trong đời có được sáu căn thanh tịnh, biện tài vô ngại, thần thông quảng đại, tuổi thọ thêm dài, vì mọi người mà nói kinh Pháp Hoa. Những người trước kia khinh hủy Bồ Tát, lúc thấy Bồ tát được đạo lực thần thông như thế đều trở lại kính tin. Nhờ công hạnh trì kinh Pháp Hoa thuở xưa như thế, nên hiện ngày nay mới đặng thành Phật.

Công hạnh trì kinh Pháp Hoa kết thành diệu quả rộng lớn hiện thật của đức Phật, đủ để khuyến tấn hàng Nhị thừa cùng sơ tâm Bồ Tát nếu tuân theo quy phạm đó mà trì kinh Pháp Hoa trong đời mạt thế sau này, thời dù có gặp muôn nghìn nghịch duyên chướng ngại, cũng có thể không nhàm không nản, tâm chí không bị thối đọa.

Kinh nói: "Bất Khinh Bồ Tát qua đến chỗ của tứ chúng cố chấp nơi pháp kia mà bảo đó rằng: Ta chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài hành đạo đều sẽ đặng thành Phật. Những người đó nghe Bồ tát nói thế, bèn khuynh hủy mắng nhiếc, Bất Khinh Bồ Tát hay nhẫn thọ. Khi tội Bồ Tát hết rồi, đến lúc mạng chung đặng nghe kinh này, sáu căn thanh tịnh, do sức thần thông thêm dài thọ mạng, lại vì mọi người mà rộng nói kinh này... Vì diễn nói kinh này đặng vô lượng phước. lần lần đủ công đức mau thành Phật đạo. Bất Khinh Bồ Tát thuở đó chính là thân Ta...".

"Ức ức muôn kiếp đến bất khả nghị lâu mới đặng nghe kinh Pháp Hoa này. Ức ức muôn kiếp đến bất khả nghị các Phật Thế Tôn mới nói kinh này, đời đời gặp Phật, mau thành Phật đạo".

Từ phẩm Đề Bà Đạt Đa đến đây đều là nói những việc về sự tỏ ngộ trì kinh, nay tuân theo công hạnh của đức Phật sau mới là trì kinh được tinh thuần vậy.
21. NHƯ LAI THẦN LỰC PHẨM
Từ trước, đức Thế Tôn rộng nói công đức trì kinh, lại thuật công hạn trì kinh của Phật, đây thời đương cơ pháp hội chỗ viên ngộ cùng tột, bổn nguyện xuất thế của đức Thế Tôn đã thỏa mãn. Kế lại vô lượng chúng Bồ Tát từ đất vọt lên phát thệ trì kinh. Chúng hội hiện tiền đã viên ngộ, quần sanh ở vị lai, cũng sẽ được bảo vệ vững vàng, cho nên đức Như Lai vui lòng bèn tận hiện thần lực mà ấn chứng, và cũng chỉ pháp giới bình đẳng cho đương cơ, làm cho chúng hội hiện tiền thấy Phật cảnh, đương hạ nhận Tịnh Độ để hiển bày sự lợi ích của Diệu Pháp đã trọn vẹn, đức Thế Tôn sắp sẽ đem gia nghiệp của Pháp vương mà phó chúc vậy.

Chúng Bồ tát từ đất vọt lên phát thệ làm duyên khải phát đó, chính là để chỉ rằng, tánh đức nơi tự tâm đầy đủ mới thật là toàn thể của Pháp Hoa.

Đức Như Lai liền hiện sức thần thông, khắp tất cả chân lông đều phóng ánh sáng soi khắp mười phương thế giới, lưỡi rộng dài đến trời Phạm Thiên, tiếng vang khắp mười phương, cõi đất sáu điệu vang động, đó là toàn thân thổ lộ, triệt để khích dương vậy. Đương hội chư Phật, tất cả đều phóng ánh sáng, hiện tướng lưỡi rộng dài, tiếng vang khắp mười phương, đó là hiểu rõ nghĩa "Phật Phật đạo đồng" vậy.

Thập phương chúng sanh đều ở tại cõi mình mà đồng thấy cõi Ta Bà, thấy Bảo tháp, thấy các đức Như Lai, thấy chúng hội v.v..., đó là chỉ rằng: Hễ tình mê cố chấp thời tri kiến chỉ hạn trong gang tấc, nay nhờ thần lực của đức Phật, tình chấp tạm thông nên chỗ thấy triệt thấu.

Thập phương xướng truyền đức Phật cùng kinh Pháp Hoa, chúng sanh mười phương cũng đồng quy kính, đó là biểu nghĩa: Phật, tâm và chúng sanh đồng tương ưng, tất cả mọi loài đồng đủ tự tánh Phật tri kiến vậy.

Mười phương thế giới thông đạt không ngại như một cõi Phật chính là soi rỗng Pháp thân chơn cảnh để tiêu tâm hẹp hòi hữu hạn của sơ tâm cùng Nhị thừa.

Thần lực của đức Phật quảng đại tự tại như thế, mà đức Như Lai còn nói rằng: "Dù ta có dùng thần lực trải qua vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức vô số kiếp cũng không thể nói hết công đức của kinh Pháp Hoa này, đó chính bởi vì kinh này gồm nhiếp tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai cùng tất cả sự vụ của Như Lai. Cũng vì thế nên ý nghĩa của kinh này rất rộng sâu vi diệu. Vì rộng sâu vi diệu nên khó tin hiểu. Vì khó tin hiểu nên từ lâu Như Lai vẫn không tuyên nói, đến nay thời cơ phải lúc nên Như Lai mới hiển bày".

Vì ý nghĩa của kinh rộng sâu vô hạn, nên người tin hiểu tỏ ngộ phụng trì Diệu Pháp này thời công đức cũng rộng sâu vô hạn chẳng thể nghĩ bàn được.

Kinh nói: "Chư Phật trụ nơi đại thần lực, vì để vui đẹp lòng chúng mà hiện vô lượng thần lực, tướng lưỡi đến Phạm Thiên, thân phóng vô số quang minh... Tiếng tằng hắng cùng tiếng khảy móng tay của Phật vang khắp mười phương, cõi đất sáu điệu vang động". Bởi sau khi đức Phật diệt độ, các Bồ Tát trì được kinh này, nên các đức Phật đều vui mừng hiện vô lượng thần lực.

Sau khi đức Như Lai diệt độ, phàm chỗ nào có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này, đều nên dựng tháp cúng dường. Phải biết chỗ đó chính là Đạo tràng, các đức ở nơi đây chuyển pháp luân, các đức Phật ở nơi đây nhập Niết Bàn.
22. CHÚC LỤY PHẨM
Đức Phật từ trước đã nhiều phen khai thị hiển lý đã viên mãn, chúng hội ngộ tự bổn tâm đã thấu đáo, lòng tín giải đã chơn, như thế thời chơn nhơn thành Phật đã đầy đủ. Vô lượng đại Bồ tát thệ quyết dốc lòng trì kinh ở đời vị lai. Đức Như Lai đã hiện đại thần thông ấn chứng để cho tâm chí kia vững chắc. Đến đây, đức Như Lai đem kinh này hai ba phen đinh ninh thận trọng phó thác dặn dò các đại Bồ Tát gắng gổ hộ trì ở tương lai để cho Phật chủng khỏi tổn dứt. Nếu có thể hộ pháp lợi sanh thời là báo ơn các đức Phật.

Kinh nói: "Bấy giờ, đức Phật từ pháp tòa đứng dậy hiện đại thần lực, lấy tay hữu xoa đảnh của vô lượng đại Bồ Tát mà bảo rằng: Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức vô số kiếp, tu tập pháp Vô thượng khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông. Các ông phải dốc lòng thọ trì, đọc tụng, tuyên nói, rộng truyền pháp này, làm cho khắp tất cả chúng sanh đều đặng nghe biết... Các ông nếu đặng như vậy, thời là đã báo ơn các đức Phật...".

Từ phẩm "Chúc Lụy" này về trước, gồm có mười một phẩm thuộc phần "ngộ Phật tri kiến". Sau khi nhờ đức Như Lai chỉ thị Pháp thân chơn cảnh trong phần "Thị Phật tri kiến" mà đặng tỏ ngộ, lần đến phẩm "Dõng Xuất", "Thọ Lượng" chỗ tỏ ngộ mới chơn. Đến phẩm "Thần Lực", chỗ tỏ ngộ được viên cực, mà phẩm "Chúc Lụy" là ngộ trì hoàn mãn vậy. "Ngộ Phật tri kiến" tức là ngộ tự Pháp thân. Tự Pháp thân chính là thể tánh bình đẳng, chúng sanh và Phật vẫn đồng, mình và người không khác.

Mình và người đã đồng không khác, thời người tức là mình. Do vậy mà có Sự trì kinh ở vị lai. Trì từ nơi ngộ mà khởi, nên toàn trong phần "Ngộ Phật tri kiến" này, phần nhiều nói về việc trì kinh. Tự ngộ chính là tự trì, ngộ tha tức là vị tha trì. Trì từ ngộ khởi thời trì mới tinh, ngộ có trì ngộ mới diệu. Như thế thời tự độ độ tha, độ tha chính là tự độ, đó là chơn thật Bồ tát hạnh vậy.

Gồm cả ba phần: Khai, Thị, Ngộ và hai mươi hai phẩm thuộc về phần "Tín giải" trong "Tín giải hạnh chứng", đều đã hiển lý nên thuộc về "nhơn" trong "nhơn quả".

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: PHÁP HOA KINH CƯƠNG YẾU

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

E. PHẦN NHẬP PHẬT TRI KIẾN
23. DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ PHẨM
Từ trước hiển "lý" đã viên, nay sẽ hiện "hạnh" để chỉ rõ "chứng nhập Phật tri kiến" vậy.

Trong phẩm đây, nói bổn sự của ngài Dược Vương để hiển "hạnh", nhưng vào tục lợi sanh, ắt cần nhờ thuốc hay chỉ quán, phương thần điều trị để chỉ sạch vô minh phiền não, phá ngã chấp và pháp chấp, thành "Diệu hạnh", mới có thể thật "chứng nhập" vậy.

Tú Hoa Vương trước đem việc khổ hạnh của ngài Dược Vương hỏi đức Phật, để chỉ rõ rằng: chánh hạnh của Bồ tát phải trừ phiền não vô minh, mà muốn dứt trừ phiền não vô minh phải dứt ngã chấp và pháp chấp. Muốn trừ hai món chấp ấy phải nhờ định huệ. Muốn có định huệ phải gắng công nơi chỉ quán. Chỉ quán viên thành, định huệ viên pháp, không gì thù thắng bằng nương kinh Pháp Hoa.

Ngài Hỉ Kiến Bồ Tát, nhơn nghe kinh Pháp Hoa, cần khổ tinh hành mà đặng "Hiện nhất thiết sắc thân Tam Muội", phá ngã và pháp hai món chấp. Do đâu mà biết hai phá chấp? Vì dùng thần lực cúng dường đức Phật vậy. Do phá pháp chấp nên đối với pháp được tự tại, mà có thể hiện ra các thứ cúng dường thù thắng. Ngã tùy pháp sanh, pháp chấp phá thời ngã chấp cũng tùy phá. Thiêu thân cúng Phật là biểu tượng phá ngã chấp, đốt tay cúng tháp là biểu tượng phá pháp chấp. Hai món chấp đặng phá đó là nhờ diệu lực của kinh Pháp Hoa, để chỉ rõ sự lợi ích của kinh rất thù thắng. Phàm người nào chuyên tinh tu hành theo, không một ai chẳng đặng thắng quả vậy.

Ngã và pháp đều có Phân biệt chấp và Câu sanh chấp. Ban đầu phá hai món Phân biệt chấp thời lên Sơ địa, rốt sau phá hai món Câu sanh chấp cứu cánh thời lên Phật địa.

Phá xong hai món chấp phân biệt bèn là Diệu hạnh, bước lên Thánh địa Bồ Tát. Đến phẩm Dược Vương này mới thấy rõ ràng nghĩa đó, Thập địa Bồ Tát là bậc phần phá hai món chấp Câu Sanh, phần thân chứng pháp thân. Vì thế nên phán định, từ phẩm này về sau thuộc phần Nhập Phật tri kiến vậy.

Trong Lăng Già kinh nói: "Bồ Tát dùng sức chỉ quán phá hai món chướng, thật chứng chơn lý. Bắt đầu từ Sơ địa đến đệ Thất địa liền bỏ tàng thức vào đệ Bát địa, nhẫn đi chứng đặng ba môn Ý sanh thân:
  • 1. Tam muội ý sanh thân.
    2. Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân.
    3. Chủng loại Câu sanh vô hành tác ý sanh thân
    ".
Trong phẩm này, nói rõ ngài Hỉ Kiến Bồ Tát mới bắt đầu đặng "Hiện nhất thiết Tam muội", thời chính là đệ Bát địa Bồ Tát đặng món "Tam muội nhạo ý sanh thân". Bởi môn ý sanh thân này lúc nhập định thời có, lúc xuất định thời không nên gọi là "Tam muội nhạo".

Hai phẩm kế là Diệu Âm và Quán Âm, theo thứ tự phối thuộc hai món ý sanh thân thứ hai và thứ ba.

Được ba môn ý sanh thân này thời là chứng nghiệm thật chứng vậy.
24. DIỆU ÂM BỒ TÁT PHẨM
Trong phẩm này, đại ý chỉ rõ do diệu lực của Pháp Hoa Tam muội mà thật lên đệ Bát địa. Đệ Bát địa đã chứng "bình đẳng chơn như" tấn lên đệ Cửu địa, phát "chơn như dụng", sắc tâm tự tại đặng, như huyễn Tam muội, trụ Pháp sư vị, nhẫn đến Đẳng giác. Phân thân thuyết pháp khắp mười phương để độ sanh nên gọi là "Diệu Âm".

Từ nhục kế cùng bạch hào của đức Như Lai đồng phóng quang minh. Nhục kế là đảnh tướng biểu "quả giác", bạch hào biểu "trung đạo nhơn tâm". Hai tướng đồng ánh sáng để biểu lộ nhơn cùng quả khế hội.

Cõi nước tên Tịnh Quang là biểu thức tạng thanh tịnh, còn Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí là biểu trí hải thanh tịnh khế hội quả giác.

Diệu Âm Bồ Tát diệu khế Phật tâm cho nên nhơn cúng dường Phật mà đặng vô lượng môn Tam muội.

"Đem quả hội nhơn", nên quang minh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật suốt chiếu thân Bồ tát. Từ thể khởi dụng, nên nguyện qua Ta Bà, đem nhơn hội quả nên Bồ tát muốn qua ra mắt Phật.

Thực hành Phật sự chính là dùng vô tác diệu lực nên chẳng rời khỏi tòa mà những hoa sen báu hiện ra trước núi Kỳ Xà Quật.

Diệu Âm cùng tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đồng qua Ta Bà, đó chính là Bồ Tát trụ trong địa vị này. Trí thanh tịnh đã Diệu viên, chuyển tám muôn bốn nghìn trần lao làm thành tám muôn bốn nghìn Diệu hạnh.

"Đem nhơn hợp quả" nên đảnh lễ hỏi han đức Thế Tôn. "Diệu khế Pháp thân" nên cùng Phật Đa Bảo ra mắt nhau.

Toàn kinh Pháp Hoa này dùng chánh trí để lập thể, nên trong "Tự Phẩm", tổng tướng Pháp giới vừa hiện thời ngài Văn Thù phát biểu, đó là lấy quả giác làm bổn nhơn tâm. Nay đã chứng chơn, Thỉ giác nhơn hợp nơi Bổn giác quả, cho nên Diệu Âm cũng ra mắt Văn Thù. Diệu nhơn, diệu quả khế hợp liền có thể hiện thân trong mười phương để nói pháp. Tùy loại hiện thân ấy chính là môn "Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân" vậy.

Tùy loại hiện thân trong đây cùng với ứng thân của đức Quán Thế Âm khác hẳn nhau, vì đây là còn tác ý xuất nhập Tam muội, cho nên có qua có lại. Còn về Quán Âm thời là phổ môn thị hiện không khứ lai, không xuất nhập vậy.
25. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM
Do Pháp Hoa Tam muội mà thỉ giác nhơn viên, diệu khế Bổn giác quả hải, hiện thập giới thân, không tư niệm, không tác ý, mà không chỗ nào không ứng. Đây là Thánh chủng loại thân đồng thời đều hiện, là biểu tượng của "chủng loại Câu sanh vô hành tác ý sanh thân".

Bởi diệt căn bản vô minh, Đại viên cảnh trí bình đẳng hiển hiện, cho nên nói rằng: Phổ môn thị hiện.

Do ngài Quán Âm đại sĩ ban sơ dùng như huyễn văn huân, văn tu Kim cang Tam muội, nên sanh diệt đã diệt, tịch diệt hiện tiền, bỗng nhiên siêu việt thế xuất thế gian, liền đặng trên cùng mười phương chư Phật đồng một sức từ, dưới cùng lục đạo chúng sanh cùng một bi ngưỡng. Dùng một thân ứng khắp tất cả, hiện ba mươi hai tướng, mười bốn vô úy, mười chín loại thuyết pháp, tám món nạn, hai điều cầu thảy đều cảm ứng. Đây là Diệu hạnh viên mãn. Sự thành công của Pháp Hoa Tam muội diệu cực nơi đây, dùng ba món ý sanh thân chứng hạnh thành đức.

Dù rằng đến đây, Diệu hạnh đã viên, mà còn lo chứng tập của người tu hành đời vị lại khó điều, khó phục, nên kế tiếp sau đây nói ba món "gia trì", bèn chắc chắn khắc thành diệu quả, cho nên đến ba phẩm kế thời chung kết pháp hội.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.24 khách