Đại Bồ Tát Bồ Tát Đã Nhập Vào Trong Thập Địa Là Từ Sơ Địa Cho Đến Đẳng Giác.
Bồ Tát Còn Trong Bậc Tam Hiền Thì Không Gọi Là Đại.
Có chỗ nói thế cũng có chỗ nói khác, nhưng thiết nghĩ chỗ nói trên không thỏa đáng...
Nếu bảo là
"Đại Bồ Tát" thì phải vượt xa những Bồ Tát thông thường.
Thông thường là sao??? là ...bị thoái chuyển..... Thất Địa vẫn còn bị thối chuyển, vì vẫn còn
khởi tâm độ sanh, không khéo bị...lôi vào lục đạo. Bị thối chuyển, vẫn còn hạn chế cho nên gọi là "Đại" thì không thỏa đáng.
Còn bậc Tam Hiền thì dĩ nhiên không thể là đại.
Chữ Đại dịch ra thì giống nhau là To Lớn, Nhiều, Rộng.
Nhưng hàm nghĩa ở mỗi nơi thì khác nhau.
Nếu ở nơi A La Hán mà gọi là Đại (Đại A La Hán) thì có nghĩa là: Các vị Bồ Tát Pháp Thân Đại Sĩ hóa hiện ra làm Thanh Văn để độ chúng sanh.
Chỗ này dct muốn nói về chữ "Đại" và chữ "Ma Ha Tát". Như bài đầu.... "Đại Bồ Tát Ma Ha Tát".
Đó là các Bồ Tát Đẳng Giác so với Bồ Tát trong thập địa đã vượt xa rất nhiều.
Ai chả biết Đẳng Giác vượt xa Thập Địa.
Ma ha tát là nói gọn của Ma ha (đại) tát đóa( hữu tình): Đại Hữu Tình = Đại Từ Đại Bi. Là các Bồ Tát trong Thập Địa về sau.
Bậy ...!!!
Trong thập địa, có một móc quan trọng là Địa thứ 7, là bậc đủ năng lực tự tại ra vào sanh tử,
Dạ xin thưa .... khỏi cần tới Địa, Sơ Phát tâm Viên Giáo là tự tại sanh tử rồi.
So với các Bồ Tát trước Địa thứ 8 xem là ĐẠI, là siêu vượt.
Cái này thì ok...
Tóm lại, chữ "Đại" chẳng thể dùng một mình mà hiểu trong mối quan hệ: So Sánh, tương quan qua lại,.....
"Nghiên cứu kinh luận"
Ở đây mình chỉ nên tìm hiểu chỗ
"Ma Ha Tát" và "Đại"...Còn chỗ ai dịch kinh thì mình tính sao...
....
"Đại" ... là nói Bồ Tát phát tâm rộng lớn, chứng địa vị cao hơn so với Bồ Tát thông thường, như trên đã trình bày rồi. Chỉ nên nói Bồ Tát từ Bất Động trở lên thì gọi là "Đại Bồ Tát".
Còn "Ma Ha Tát"....Thì phải biết loại Bồ Tát này phải vượt xa chữ "Đại" trên nữa...
Ma Ha Tát là những vị
Đại Thượng Thủ trong pháp hội, nhưng trong kinh A Di Đà các vị có rất nhiều vị A La Hán nhưng chỉ liệt kê những
vị thượng thủ.
Là những người nối gót Như Lai dẫn dắt
giáo hóa chúng sanh trong 3 thừa.
Còn đối với những Bồ Tát thông thường cho đến "Đại Bồ Tát" (từ địa 8 trở lên)
thì "Bồ Tát Ma Ha Tát" này làm thượng thủ dẫn dắt cho những Đại Bồ Tát. làm thượng thủ cho tất cả chúng sanh. Nên gọi là "Ma Ha Tát".
Cho nên KimCang ban đầu có nói kinh dịch dư ...là không đúng....
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát:
Đại: Tâm rộng lớn
Bồ Đề
Tát Đỏa: Giác Hữu Tình
Chúng Sanh (hoặc nói
Tâm Giác Ngộ)
Ma Ha Tát Đỏa: Tâm lượng Rộng lớn.
Nếu ở chỗ này dịch chữ "Ha Ma Tát" nghĩa là tâm rộng lớn thì nó trùng nghĩa với "Đại" ở trên...(hổng lẽ dư).
Vì thế chữ "Ma Ha Tát" là chỉ những Bồ Tát từ Địa 10 đến Đẳng Giác.
Cho nên trong kinh A Di Đà chữ "đại" là nói các vị A La Hán làm thượng thủ.
Còn kinh có nêu các vị "Bồ Tát Ma Ha Tát" là nói nói các vị Bồ Tát đã chứng từ địa 10 trở lên,
giáo hóa tất cả các bậc Thánh cho đến phàm ở dưới.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Dữ Đại Bồ-tát Ma-ha-tát thập vạn nhân câu, kỳ danh viết: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát, Phổ Nhãn Bồ-tát, Kim Cang Tạng Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát...
Đó là các Bồ Tát Đẳng Giác so với Bồ Tát trong thập địa đã vượt xa rất nhiều.
Nãy ở trên nói Ma Ha Tát là nói Thập Địa về sau, ở đây nói là Đẳng Giác
Bồ Tát Địa Tạng còn gọi là "Ma Ha Tát", nhưng Ngài đâu phải Đẳng Giác Bồ Tát, Ngài là thượng thủ của thời pháp chúng hội. Địa vị của Bồ Tát trong kinh nói là:
Từ lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập-địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên, huống là những thuở Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật! .
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nếu có gì sai, sơ xuất, mọi người chỉ dạy cho.
A Di Đà Phật.