Phật lại bảo ông A Nan:" Những chúng hữu tình ấy nếu nghe danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì, không sanh lòng nghi hoặc mà đọa vào ác thú thì thật vô lý vậy.
Đó là Kinh Đại Thừa, từng chữ từng câu trong Kinh điển Đại Thừa đều hàm chứa vô lượng nghĩa tùy theo kiến giải của mỗi người, và các Kinh điển Đại Thừa đều kiến lập trên nền tảng của Tiểu Thừa. Cần phải có thầy giảng thì anh mới hiểu chứ chẳng phải dựa vào kiến giải của mình là hiểu đâu anh.
Anh hiểu thế nào là Văn (nghe), Chí Tâm trong đoạn Kinh trên. Xưa kia nguynlinhtam đọc Kinh cũng y vào văn tự mà hiểu nghĩa nhưng mà sau đó khi nghe Pháp Sư Tịnh Không giảng Kinh rồi thì mới biết mình đã hiểu sai, hiểu méo mó hết rồi.
Chữ Văn này là 1 trong 3 chữ Văn, Tư, Tu đây Tam Huệ của Bồ tát.
http://niemphat.net/Luan/chugiai/phatdaithenguyen.htm
“Chí tâm” là tâm chí thành, tâm chí cực. Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: “Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm nên bảo là chí tâm”. “Nguồn tâm” là nguồn gốc của bản tâm. “Thật tế” là Chân Thật Tế nói trong kinh này.
“Chí” (至) còn có nghĩa là chân thành, thành thật. “Tâm” (心) là trân trọng, thành thật.
Đừng nên nghĩ rằng ta đây rất thành kính, ta không dối người, dối vật thì gọi là chân thành, không phải vậy đâu nếu như vậy thì anh không có chân thành tâm, Tâm chân thành tức là 1 niệm không sanh gọi là thành. Nó là tướng trạng của BỒ ĐỀ TÂM.
Vậy căn cứ vào đoạn Kinh trên anh hiểu như thế nào vậy anh:
" Những chúng hữu tình ấy nếu nghe danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì, không sanh lòng nghi hoặc mà đọa vào ác thú thì thật vô lý vậy.
Muốn có Bồ Đề Tâm thì phải theo thứ tự mà làm:
Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư Trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì Tam Quy y, đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.
Ba là phát tâm Bồ Ðề, sâu tin nhơn quả, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành. Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp.
Nầy Vi Ðề Hi! Nay bà có biết chăng? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại”.
Đó là 3 tầng lầu vậy. Nếu anh đã làm được phước thứ nhất thì Anh chắc chắc sẽ hưởng phước trong 2 cõi trời, người. Phước ở đâu mà anh có? Cái đó còn tùy thuộc vào sự bố thí của anh tức Lục Ba La Mật.
Như vây đó em hiểu nguyện của Đức Dược Sư như vậy đó anh ạ. Anh có đồng ý không?
Kinh Dược Sư, và Kinh Địa Tạng nguynlinhtam xem qua rất tương đồng:
Trong đời vị lai. Nếu có kẻ nam, người nữ.
Không làm lành mà làm ác
Cho đến kẻ chẳng tin nhân quả, kẻ tà dâm nói dối, kẻ nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, kẻ hủy báng Đại Thừa, những chúng sanh có các nghiệp như thế ắt phải đọa vào đường ác.
Nếu gặp được thiện tri thức
Khuyên bảo khiến trong chừng khảy móng tay
Quy y Địa Tạng Bồ Tát
Giảng:
Hai chữ ‘Quy y’ quan trọng vô cùng, chẳng phải là quy y trên hình thức, quy y trên hình thức chẳng có lợi ích gì, chỉ có hình thức nhưng chẳng thành tâm thì đâu có ích gì! Tại sao có hình thức mà chẳng có thành ý, chẳng phát tâm nổi? Vì chẳng thấu triệt, hiểu rõ Sự Lý. Đương nhiên đây là vấn đề của thiện tri thức, ‘tri thức’ vẫn chưa đủ, phải là ‘thiện’ tri thức, phải giảng rõ ràng, giải thích cặn kẽ về sự tướng, công đức lợi ích chân thật của sự Quy Y. ‘Quy’ là quay về, ‘y’ là nương dựa, nương dựa ai? Nương dựa ‘Địa Tạng Bồ Tát’. ‘Địa’ là ai? Là ‘Tánh’, ‘Tâm Tánh’. ‘Địa’ là gì? Vô tận trí huệ, công đức, đức tướng trong tự tánh, đó là ‘Địa Tạng’. Nếu bạn nhìn thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát, bạn cứ cho là bạn quy y hình tượng ấy, đó là như trong nhà Phật thường nói: ‘Bồ Tát bằng đất qua sông còn khó bảo toàn thân mình’. Đó là hình tượng, giúp cho bạn khi nhìn thấy hình tượng này có thể khải phát, biết được đó là Kho Báu Tâm Địa, chúng ta phải nương dựa vào cái này, nương dựa tánh đức, như vậy thì bạn mới quy y chân chánh. Kho Báu Tâm Địa trong tâm tánh đầy đủ viên mãn công đức, chúng ta chẳng biết, nó ở đâu? Ở trong bộ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kinh này, Thế Tôn khai hiển kho báu tự tánh cho chúng ta, chúng ta mới có được nơi nương dựa chân chánh. Quy y Địa Tạng Bồ Tát tức là tu học y theo lý luận, phương pháp, cảnh giới ghi trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện kinh, như vậy mới gọi là ‘quy y’. Lúc trước quan niệm, ngôn ngữ, hành vi của chúng ta trái nghịch với những lời dạy trong kinh này thì chúng ta hãy mau quay đầu lại, noi theo lời dạy của kinh điển mà sửa đổi trở lại chính là ‘Y’, từ chỗ sai lầm quay trở lại tức là ‘Quy’, y theo kinh điển sửa đổi từng việc sai lầm trở lại thì gọi là ‘Y’. Quy y tức là tu hành chân chánh. Có thể làm được như vậy, đức Phật nói:
Những chúng sanh đó lập tức được thoát khỏi quả báo của tam ác đạo.
Nếu có thể chí tâm quy kính.
Và chiêm lễ, tán thán.
Hương hoa y phục
Các thứ trân bảo.
Hoặc cúng đồ ăn, thức uống.
Cúng phụng như vậy thì trong trăm ngàn muôn ức kiếp về sau thường được ở cõi Trời, hưởng thọ sự vui thù thắng vi diệu.
Nếu phước trời hết, sanh xuống nhân gian thì vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm đế vương.
Lại nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.
Giảng:Câu này vô cùng quan trọng! Nếu chẳng có câu này thì một khi hưởng phước sẽ lại mê muội. Một khi mê muội thì hưởng phước báo chẳng khi nào không tạo nghiệp, lúc tạo tội nghiệp thì quả báo lại chẳng thể suy tưởng nổi. Họ có thể biết được túc mạng, biết quả báo là từ chỗ này mà có, biết lúc trước tu thiện nhân gì cho nên họ hưởng phước vẫn tiếp tục tu phước, phước báo của họ sẽ hưởng chẳng hết. Truy tìm căn nguyên của họ chính là công đức chí tâm quy kính Địa Tạng Bồ Tát. Nói Địa Tạng Bồ Tát nhất định phải hiểu đức năng vốn sẵn có trong tâm địa, như vậy mới là chân chánh quy y Địa Tạng Bồ Tát. Hết thảy chư Phật Như Lai đều chí tâm quy kính Địa Tạng Bồ Tát nên mới tu hành thành công, chứng Vô Thượng Bồ Đề. Nếu chẳng y theo pháp môn Địa Tạng thì nhất định sẽ chẳng thành Phật nổi. Không những không thành Phật được, nói thật ra thành A La Hán cũng chẳng nổi, đây là sự thật, chẳng phải giả. Hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều xây dựng noi theo tâm địa pháp môn. Có thể thuận theo tánh đức, thành tựu hết thảy thiện quả, nếu trái nghịch tánh đức thì sẽ biến thành lục đạo tam đồ, biến thành cảnh giới ác. Thế nên cảnh giới thiện ác gì cũng do tự tánh biến hiện thành, chỉ dựa trên một niệm này của chúng ta là thuận tánh đức hay nghịch tánh đức, quả báo cảnh giới hiện ra chẳng tương đồng. Họ còn có thể nhớ được ‘túc mạng nhân quả bổn mạt’, đây là oai thần của Bồ Tát gia trì, đây là cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng, nhất định phải dùng tâm chân thành, thanh tịnh mới có thể cảm. Tại sao phần đông người ta chẳng có cảm ứng cùng Phật, Bồ Tát? Vì tâm chẳng thành, tâm chẳng thanh tịnh, thì làm sao có cảm ứng cho được! Nếu tâm có sự suy tưởng tà vạy, giống như tạo thập ác nghiệp nói ở phía trước, những gì bạn cảm được đều là các ác quỷ ác thần, đều tạo ác hết. Tạo ác tương cảm cùng người tạo ác, tu thiện tương cảm cùng người tu thiện, đây là đạo lý nhất định. Trong kinh Dịch, Khổng Phu Tử có nói: ‘Những vật cùng loại tụ hợp với nhau, người chia ra thành đoàn’ [6]. Người thiện đều ưa thích ở gần người thiện, người ác nhất định đi cùng đường với người ác. Nếu tâm chúng ta thiện thì sẽ ở gần với Phật, Bồ Tát, thiện thần; nếu tâm ác thì sẽ ở gần ác quỷ, ác thần, đây là nguyên lý cảm ứng đạo giao.
Nếu Anh muốn làm được điều trên thì Anh phải làm cho bằng được Phước thứ nhất, nếu không anh sẽ mất thân người, và khi đầu thai anh sẽ quên hết nếu như Anh có thể chí tâm tu hành thì như Kinh Địa Tạng phần trên nói vậy. Đức Phật Dược Sư sẽ giúp cho anh nhớ được túc mạng cùng cội ngành nhân quả.Thanh Tịnh Lưu Ly đã viết:TTLL không nói là TTLL biết kiếp sau mình sẽ thế nào và bản thân TTLL không đủ khả năng để biết kiếp sau của mình. Đó chỉ là cái nguyện đời đời kiếp kiếp đi trên con đường Chánh Pháp. TTLL cũng là chúng sinh, cũng còn nghiệp chướng sâu dày, còn tham - sân - si, còn ái ố hỷ lộ, TTLL cũng không thể khẳng định rằng kiếp này mình sẽ thành tựu ngay. Vậy thì dùng chút ít công đức kiếp này hồi hướng để nguyện kiếp sau được tu tập tiếp. TTLL tin vào con đường mình đi, tin vào thành tựu dù ít dù nhiều mà TTLL đang xây dựng cũng như tin vào lời Đức Thế Tôn dạy.