Bạn Thánh_tri thân! Chúng ta đang thảo luận “vì sau Ngài Huyền Trang dịch là Quán Tự Tại Bồ Tát mà không dịch là Quán Thế Âm Bồ Tát, nó có vai trò gì đối với Tâm Kinh khi Ngài dịch như thế”?. Còn ý nghĩa của từ Quán Tự Tại là gì thì thiết nghĩ bạn binh nói đã quá rỏ “Quán Tự Tại là quán sát chính mình”.Thánh_Tri đã viết:Muốn tu theo hạnh Quán Thế Âm thì phải tu phép Quán.
Tại sao không gọi là nghe tiếng âm thanh thế gian mà gọi là Quán?
Bởi vì dùng tai để nghe âm thanh thế gian tức là chạy theo thanh trần ở bên ngoài. Đó chính là chúng sanh. Do vì chấp dính vào thanh trần ở bên ngoài mà theo nó sanh diệt khổ đau, chấp dính là ràng buộc, cho nên đâu gọi là Tự Tại được?
Do vậy không phải dùng tai để nghe, mà dùng Tâm để Quán.
Do vậy Kinh Pháp Hoa toàn là dùng chữ Quán:
“Chân quán, Thanh Tịnh quán
Rộng lớn Trí Huệ quán
Bi quán cùng Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng”.
Do vậy Kinh Lăng Nghiêm mới nói "Phản văn, văn tự tánh". Phản văn nghĩa là không dùng tai để nghe thanh trần rồi chấp lấy thanh trần sinh ra nhĩ thức. Mà phải quay ngược lại vào trong tự tánh của mình.
Mà quay ngược lại vào trong tự tánh tức là dùng cái Tâm Năng Quán, để Quán cái Sở Quán.
Mà cái Sở Quán vốn không, nên Năng Quán không tìm được Sở Quán, không chấp dính được sở Quán. Nên dần hồi sở quán tiêu tan, nên Kinh Lăng Nghiêm Nhĩ Căn Viên Thông nói: "Bước đầu ở trong sự nghe được nhập lưu (chẳng chạy theo lục trần) mà quên cái sở nghe (vong, sở: vong nghĩa là quên). Sở nhập đã tịch, thì hai tướng động và tịnh chẳng sanh"
Nhập Lưu có nghĩa là đi ngược dòng nghiệp thức đồng nghĩa với "Phản Văn".
Đi ngược dòng nghiệp thức tức là không nhân nơi tiền trần (ở đây thanh trần) mà sanh vọng thức (nhĩ thức). Tức là căn không còn chạy theo trần để sanh thức.
Lâu ngày thì quên trần cảnh (sở quán), Lên nữa khi sở quán đã vong, thì năng quán cũng không. Dần dần mà tiến lên. Căn Trần đều sạch. Cứ thế mà dần tiến lên nữa đến khi hoàn toàn Giác Ngộ.
Khi đó mới gọi là Quán Tự Tại.
Do vậy phải tu tập. Không thể nói hết được, nói hoài tức là cứ theo dòng nghiệp thức hiểu biết chấp dính mãi thì không thể Tự Tại, không thể Phản Văn, không thể Nhập Lưu.
Đôi khi chú giải Kinh mà chưa thật hiểu, vì chưa hành tới nơi thì viết chú giải cũng không trúng vào đâu tất cả. Không liên cang gì đến việc giác ngộ giải thoát.
Chú giải là sự hiểu biết của thức. Vậy thì chưa thể tin vào lời chú giải của mình viết được.
Thành ra tôi có viết Kinh Lăng Nghiêm Học Giải và Kim Cang Bát Nhã Học Giải. Bây giờ tôi đọc lại tôi thấy mình ngây thơ quá! Chỉ viết để đó thôi chứ tôi đâu có cho ai xem, ngoại trừ vài thầy và thiện tri thức để xem tôi hiểu đúng không.
Còn thực hành như thế nào để được gọi là quán sát chính mình (Quán Tự Tại) thì ở đây chúng ta chưa thảo luận đến. Tuy nhiên thông qua từ “quán sát chính mình (Quán Tự Tại)”chúng ta có thể hiểu được phải thực hành điều đó như thế nào.( quán sát chính mình, mà chính mình là Không vậy quán sát chính mình là không có gì để quán) như thế đã quá rỏ, không cần phải chia cắt ra năng quán- sở quán…. Rồi phân tích dài dòng đến cuối cùng cũng chỉ để nói “không có gì để quán”. Tuy nhiên nói như thế cũng có cái dụng của nó.