Những việc khó
Đã gửi: 28/04/08 03:04
Những việc khó, Phật khuyên gắng tu.
Khi tự nhận là con phật (Phật tử), nhiều người củng luôn phân vân phãi làm như thế nào để đạt được như Phật_ Tứ Vô Lượng Tâm(Từ, Bi, Hỷ, Xã). Kinh tạng thì củng vô lượng, vô biên, Pháp môn thì tới tám muôn, bốn vạn. Thế nhưng, chẳng tìm cầu đâu xa, khi khát uống được một ngụm nước hơn là mơ tưởng cã một biển hồ, củng như thà là một chén nhỏ đựng được tý nước còn hơn một cái thùng to không có đáy. Bao nhiêu kinh pháp đỗ vào củng trôi tuốt tuồn tuột.
Trong những lời dạy, khi là phương tiện để đạt nghĩa rốt ráo, củng có khi chỉ thẳng Đệ nhất nghĩa đế, nhưng bất kỳ lời dạy nào của Như Lai củng vì một nhơn duyên duy nhất là “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri kiến Phật .
Dứơi đây, là Phật dạy “chúng sanh có hai mươi việc khó nên làm” trong kinh Bốn mươi hai chương. Nghe qua tiêu đề chúng ta thấy hơi là lạ, sao không khuyên chuyện gì dể làm mà khuyên chuyện khó làm, nhưng ý lời này là khuyên nên làm nhửng việc mà những việc đó không phải dể đối với bất cứ người bình thường nào, tưởng củng nên xét qua chử “khó” ở trên.
Có lời rằng: Phật cao một thì Ma cao gấp mười (Phật cao nhất xích, Ma thắng nhất trượng), nghe vậy đừng nghĩ là Ma hơn Phật, mà câu này có nghĩa là khi thuận theo Ma (Dòng luân hồi, rong ruổi theo nó, nên chẳng thấy gì là phiền nảo, nghiệp chướng đó là ma, cùng lắm là thấy khi khổ, khi đau, khi lâm tới cảnh sinh tử) thì thấy Phật cao một(chỉ cầu phù hộ), nhưng khi ngược trở về chơn tâm (Phật) thì lại quá nhiều nghiệp chướng, phiền nảo (ma) hơn là khi xưa tưởng tới Phật. dụ như có một con thuyền xuôi dòng nước chảy mạnh có cã đá, đất, cây gổ mục, rác… vì xuôi dòng nên những thứ ấy như không làm trở ngại, nhưng thử ngược dòng thì biết, hàng ngàn hàng vạn, cây trôi, đá cuội đá tảng, luôn đập vào thuyền, lướt qua được là việc “khó” chẳng phải dể tý nào!.
Củng như người nghiện thuốc lá, khi đang còn nghiện thì không thấy trở ngại gì, có chăng là lúc hết tiền mua thuốc, hay hút nhiều quá bị lao, ung thư phỗi, khi hiểu rằng hút thuốc không có lợi, tốn tiền mà mang bịnh thì quyết tâm bỏ hút thuốc, nói thì vậy nhưng bỏ thuốc là chuyện không phãi dể, tức là “Khó” làm, nhưng là việc nên làm. Quý vị nếu nghiện thuốc lá thì thấy việc bỏ thuốc là việc dể làm hay khó làm?
Phật dạy : Chúng sinh có hai mươi việc khó:
1. Bần cùng mà bố thí là khó
Thường trong kinh Phật, mang rất nhiều ý ẩn dụ.
Bần cùng có ba ý, Tướng bần cùng, tánh bần cùng và trí bần cùng.
_Tướng bần cùng là ý chỉ về con người nghèo xơ nghèo xác. Đói cơm rách áo.
_Tánh bần cùng là tánh tham lam, bỏn xèn. Tánh bần cùng này dứt khoát sẻ thọ lảnh tướng bần cùng hoặc ngay đời hiện tại hoặc về sau. Bởi vì tánh tham lam bỏn sẻn sẻ tự chiêu lấy nghiệp báo bần cùng. Cho nên, mở rộng câu dạy trên không dành cho riêng tướng bần cùng đói cơm rách áo, mà cả những người có tánh bần cùng.
_Trí bần cùng là vô minh điên đảo trong sắc trần, chấp thân ngũ uẩn làm Ngã sở, thiếu trí tuệ nhận biết tự tánh thanh tịnh, trôi lăn trong sáu nẻo. Gả cùng tử trong kinh Pháp Hoa là ẩn dụ này.
Trí bần cùng củng rất khó “Bố thí”.
Trong ba dạng bần cùng đó thì cái sau sanh cái trước, nghĩa là vì vô minh điên đảo (trí bần cùng) nên sanh tham lam bỏn sẻn, vì tham lam bỏn sẻn(tánh bần cùng) nên tạo nghiệp dẩn sanh ra tướng bần cùng đói khỗ.
Bố thí, gồm có ba hình tướng, thí tài vật, thí Pháp, và Vô uý thí.
Thí tài : Đem cho tài vật ngoại thân bố thí thì gọi là thí tài. Tài vật là duyên sanh phiền nảo, bố thí tài vật là xã bõ chấp đắm vào tài vật tức là xã bỏ phiền nảo, bố thí tài vật thường sẻ không còn tánh tham lam bỏn xẻn nên người thí tài nhất định đời này sẻ an lạc, đời sau sẻ sanh thiên, hết phước báu cỏi trời sẻ sanh vào nơi giàu có, do nhân duyên bố thí sẻ gặp được bậc thiện tri thức dẩn dắt vào chánh pháp và nhất định sẻ được quã Niết bàn.
Người mắc phải nghiệp thọ tướng bần cùng, chuyện thí tài là hy hửu, nhưng không tham lam bỏn xẻn củng là bố thí, khen ngợi công đức người thí tài củng là bố thí. Đó là việc khó làm.
Thí Pháp : Dùng hành động hoặc lời nói chỉ bảo, can ngăn nhằm đem lại lợi lạc cho người khác, rốt ráo đi đến chỗ giải thoát sanh tử đó là thí pháp. Người thí pháp phải có lòng từ bi, và có trí tuệ như một người lương y giỏi tuỳ bịnh bốc thuốc.
Thí pháp phải xã bỏ tâm chấp trước nhân ngã, Tâm chấp trước Pháp, đầy đũ từ bi và trí tuệ ít ra củng phải rành rẻ thế trí, Thanh Văn trí..
Trí tuệ không trụ chấp vào đâu nhưng luôn luôn học hỏi trao dồi bổ xung. Như lương y rành rẻ các vị thuốc, các loại bệnh.
Thiếu trí tuệ như kiểu :”Phúc thống phục nhân sâm… tắc tử” là chết ngay.
Vô uý thí : Đây là cái thí của Chư vị Đại Bồ Tát, Phật. Hoặc của hoá thân Bồ Tát, Hoá Phật. Vô úy thí là hành đưa đến Vô lậu giải thoát.
Qua những ẩn ý về Bần cùng và Bố thí, Lời dạy của Phật bao hàm hết tất cã không xót một ai, Một người chưa dến “bến bờ kia” thì còn là hạng bần cùng không ở tướng thì ở tánh, không ở tánh thì ở chổ vô minh điên đảo. Và thực hành pháp bố thí là một pháp tu để chứng đạt quã vị Vô thượng nên là một việc khó.
Vì vậy, dù là hạng nào, cư sỉ tại gia hay xuất gia, giàu có hay nghèo hèn phải luôn luôn tinh tấn hành hạnh bố thí. Đi đường không chen lấn, nhường khoảng trống cho xe sau, xe ngược chiều là “bố thí”, Lên xe buýt nhường chỗ ngồi là “Bố thí”, ở tại gia sống dung hoà không bỉ xử, hơn thua, không tham lam ích kỷ bỏn sẻn là đã “bố thí”, Ở chùa sống lục hoà, tôn trọng, không ganh tỵ, tỵ hiềm, là bố thí. Thường ngày nhịn một câu cho đến không khởi giận dử là đã bố thí. Trong xã hội biết thương yêu đùm bọc trong tình nghĩa xóm làng là bố thí. Người Việt có câu : “Một nắm khi đói” thể hiện tính Đạo trong văn hoá ứng xử.
Trong Đạo Phật, Niệm Phật là Bố thí, Hành Thiền là Bố thí, Tu Tứ niệm xứ, Bát Chánh đạo, Ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, thất bồ đề phần cho đến Lục độ Ba la Mật… là Bố thí, Xuất gia là Bố thí, và không pháp nào mà không ẩn tàng tâm “bố thí” trong đó.
Pháp dẩn đến thành tựu Vô Thượng Chánh Dẳng Chánh Giác mà thiếu vị “Bố thí” thì đó là Pháp dõm không thể nào thành tựu được. Vì Bố thí củng đồng như xã bỏ.
Bố thí Ba La Mật_ Ba la mật nghĩa là cho đến bến bờ kia. Như thế nào là bố thí cho đến bến bờ kia?
Có một câu chuyện trong kinh đại ý như sau: Biết Xá Lợi Phất phát đại nguyện hạnh Bố thí, một vị trời đã hoá thân thị hiện thành thường dân đến xin Ngài một con mắt.Ngài tự tay móc lấy mắt phải cho. Nhưng người lại bảo là nhầm rồi, xin mắt trái, thế là ngài móc tiếp mắt trái. Nhưng người xin lại bủi môi nói mắt xấu quá không xài được, vứt cã hai mắt xuống đất và lấy chân dẫm lên. Lúc đó Ngài Xá lợi Phất biết như vậy mới bảo rằng : “Người như vậy ta không thể độ !”. Ngài nói như vậy xong thì Vị thiên nhơn hiện trở lại. Nói rằng: hạnh bố thí của ngài chưa đến bến bờ kia.
Đó là vì tâm Ngài đã động, còn thấy Ta thí, chấp vật thí và người thọ vật thí. Bậc thánh còn vướng như vậy huống hồ là phàm phu. Còn phàm phu thì tu hạnh bố thí không phải một lần là đặng Ba la mật, mà phải luôn luôn tinh tấn hành bố thí và xã luôn cái thấy ta thí, người thọ thí, và pháp thí , phải tập liên tục như vậy tâm mới thành thục và chắc chắn sẻ thành tựu Pháp ba la mật. Thành tựu Pháp Ba la Mật tức là xuất tam giới, liểu thoát sanh tự luân hồi.
(còn tiếp)
Khi tự nhận là con phật (Phật tử), nhiều người củng luôn phân vân phãi làm như thế nào để đạt được như Phật_ Tứ Vô Lượng Tâm(Từ, Bi, Hỷ, Xã). Kinh tạng thì củng vô lượng, vô biên, Pháp môn thì tới tám muôn, bốn vạn. Thế nhưng, chẳng tìm cầu đâu xa, khi khát uống được một ngụm nước hơn là mơ tưởng cã một biển hồ, củng như thà là một chén nhỏ đựng được tý nước còn hơn một cái thùng to không có đáy. Bao nhiêu kinh pháp đỗ vào củng trôi tuốt tuồn tuột.
Trong những lời dạy, khi là phương tiện để đạt nghĩa rốt ráo, củng có khi chỉ thẳng Đệ nhất nghĩa đế, nhưng bất kỳ lời dạy nào của Như Lai củng vì một nhơn duyên duy nhất là “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri kiến Phật .
Dứơi đây, là Phật dạy “chúng sanh có hai mươi việc khó nên làm” trong kinh Bốn mươi hai chương. Nghe qua tiêu đề chúng ta thấy hơi là lạ, sao không khuyên chuyện gì dể làm mà khuyên chuyện khó làm, nhưng ý lời này là khuyên nên làm nhửng việc mà những việc đó không phải dể đối với bất cứ người bình thường nào, tưởng củng nên xét qua chử “khó” ở trên.
Có lời rằng: Phật cao một thì Ma cao gấp mười (Phật cao nhất xích, Ma thắng nhất trượng), nghe vậy đừng nghĩ là Ma hơn Phật, mà câu này có nghĩa là khi thuận theo Ma (Dòng luân hồi, rong ruổi theo nó, nên chẳng thấy gì là phiền nảo, nghiệp chướng đó là ma, cùng lắm là thấy khi khổ, khi đau, khi lâm tới cảnh sinh tử) thì thấy Phật cao một(chỉ cầu phù hộ), nhưng khi ngược trở về chơn tâm (Phật) thì lại quá nhiều nghiệp chướng, phiền nảo (ma) hơn là khi xưa tưởng tới Phật. dụ như có một con thuyền xuôi dòng nước chảy mạnh có cã đá, đất, cây gổ mục, rác… vì xuôi dòng nên những thứ ấy như không làm trở ngại, nhưng thử ngược dòng thì biết, hàng ngàn hàng vạn, cây trôi, đá cuội đá tảng, luôn đập vào thuyền, lướt qua được là việc “khó” chẳng phải dể tý nào!.
Củng như người nghiện thuốc lá, khi đang còn nghiện thì không thấy trở ngại gì, có chăng là lúc hết tiền mua thuốc, hay hút nhiều quá bị lao, ung thư phỗi, khi hiểu rằng hút thuốc không có lợi, tốn tiền mà mang bịnh thì quyết tâm bỏ hút thuốc, nói thì vậy nhưng bỏ thuốc là chuyện không phãi dể, tức là “Khó” làm, nhưng là việc nên làm. Quý vị nếu nghiện thuốc lá thì thấy việc bỏ thuốc là việc dể làm hay khó làm?
Phật dạy : Chúng sinh có hai mươi việc khó:
1. Bần cùng mà bố thí là khó
Thường trong kinh Phật, mang rất nhiều ý ẩn dụ.
Bần cùng có ba ý, Tướng bần cùng, tánh bần cùng và trí bần cùng.
_Tướng bần cùng là ý chỉ về con người nghèo xơ nghèo xác. Đói cơm rách áo.
_Tánh bần cùng là tánh tham lam, bỏn xèn. Tánh bần cùng này dứt khoát sẻ thọ lảnh tướng bần cùng hoặc ngay đời hiện tại hoặc về sau. Bởi vì tánh tham lam bỏn sẻn sẻ tự chiêu lấy nghiệp báo bần cùng. Cho nên, mở rộng câu dạy trên không dành cho riêng tướng bần cùng đói cơm rách áo, mà cả những người có tánh bần cùng.
_Trí bần cùng là vô minh điên đảo trong sắc trần, chấp thân ngũ uẩn làm Ngã sở, thiếu trí tuệ nhận biết tự tánh thanh tịnh, trôi lăn trong sáu nẻo. Gả cùng tử trong kinh Pháp Hoa là ẩn dụ này.
Trí bần cùng củng rất khó “Bố thí”.
Trong ba dạng bần cùng đó thì cái sau sanh cái trước, nghĩa là vì vô minh điên đảo (trí bần cùng) nên sanh tham lam bỏn sẻn, vì tham lam bỏn sẻn(tánh bần cùng) nên tạo nghiệp dẩn sanh ra tướng bần cùng đói khỗ.
Bố thí, gồm có ba hình tướng, thí tài vật, thí Pháp, và Vô uý thí.
Thí tài : Đem cho tài vật ngoại thân bố thí thì gọi là thí tài. Tài vật là duyên sanh phiền nảo, bố thí tài vật là xã bõ chấp đắm vào tài vật tức là xã bỏ phiền nảo, bố thí tài vật thường sẻ không còn tánh tham lam bỏn xẻn nên người thí tài nhất định đời này sẻ an lạc, đời sau sẻ sanh thiên, hết phước báu cỏi trời sẻ sanh vào nơi giàu có, do nhân duyên bố thí sẻ gặp được bậc thiện tri thức dẩn dắt vào chánh pháp và nhất định sẻ được quã Niết bàn.
Người mắc phải nghiệp thọ tướng bần cùng, chuyện thí tài là hy hửu, nhưng không tham lam bỏn xẻn củng là bố thí, khen ngợi công đức người thí tài củng là bố thí. Đó là việc khó làm.
Thí Pháp : Dùng hành động hoặc lời nói chỉ bảo, can ngăn nhằm đem lại lợi lạc cho người khác, rốt ráo đi đến chỗ giải thoát sanh tử đó là thí pháp. Người thí pháp phải có lòng từ bi, và có trí tuệ như một người lương y giỏi tuỳ bịnh bốc thuốc.
Thí pháp phải xã bỏ tâm chấp trước nhân ngã, Tâm chấp trước Pháp, đầy đũ từ bi và trí tuệ ít ra củng phải rành rẻ thế trí, Thanh Văn trí..
Trí tuệ không trụ chấp vào đâu nhưng luôn luôn học hỏi trao dồi bổ xung. Như lương y rành rẻ các vị thuốc, các loại bệnh.
Thiếu trí tuệ như kiểu :”Phúc thống phục nhân sâm… tắc tử” là chết ngay.
Vô uý thí : Đây là cái thí của Chư vị Đại Bồ Tát, Phật. Hoặc của hoá thân Bồ Tát, Hoá Phật. Vô úy thí là hành đưa đến Vô lậu giải thoát.
Qua những ẩn ý về Bần cùng và Bố thí, Lời dạy của Phật bao hàm hết tất cã không xót một ai, Một người chưa dến “bến bờ kia” thì còn là hạng bần cùng không ở tướng thì ở tánh, không ở tánh thì ở chổ vô minh điên đảo. Và thực hành pháp bố thí là một pháp tu để chứng đạt quã vị Vô thượng nên là một việc khó.
Vì vậy, dù là hạng nào, cư sỉ tại gia hay xuất gia, giàu có hay nghèo hèn phải luôn luôn tinh tấn hành hạnh bố thí. Đi đường không chen lấn, nhường khoảng trống cho xe sau, xe ngược chiều là “bố thí”, Lên xe buýt nhường chỗ ngồi là “Bố thí”, ở tại gia sống dung hoà không bỉ xử, hơn thua, không tham lam ích kỷ bỏn sẻn là đã “bố thí”, Ở chùa sống lục hoà, tôn trọng, không ganh tỵ, tỵ hiềm, là bố thí. Thường ngày nhịn một câu cho đến không khởi giận dử là đã bố thí. Trong xã hội biết thương yêu đùm bọc trong tình nghĩa xóm làng là bố thí. Người Việt có câu : “Một nắm khi đói” thể hiện tính Đạo trong văn hoá ứng xử.
Trong Đạo Phật, Niệm Phật là Bố thí, Hành Thiền là Bố thí, Tu Tứ niệm xứ, Bát Chánh đạo, Ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, thất bồ đề phần cho đến Lục độ Ba la Mật… là Bố thí, Xuất gia là Bố thí, và không pháp nào mà không ẩn tàng tâm “bố thí” trong đó.
Pháp dẩn đến thành tựu Vô Thượng Chánh Dẳng Chánh Giác mà thiếu vị “Bố thí” thì đó là Pháp dõm không thể nào thành tựu được. Vì Bố thí củng đồng như xã bỏ.
Bố thí Ba La Mật_ Ba la mật nghĩa là cho đến bến bờ kia. Như thế nào là bố thí cho đến bến bờ kia?
Có một câu chuyện trong kinh đại ý như sau: Biết Xá Lợi Phất phát đại nguyện hạnh Bố thí, một vị trời đã hoá thân thị hiện thành thường dân đến xin Ngài một con mắt.Ngài tự tay móc lấy mắt phải cho. Nhưng người lại bảo là nhầm rồi, xin mắt trái, thế là ngài móc tiếp mắt trái. Nhưng người xin lại bủi môi nói mắt xấu quá không xài được, vứt cã hai mắt xuống đất và lấy chân dẫm lên. Lúc đó Ngài Xá lợi Phất biết như vậy mới bảo rằng : “Người như vậy ta không thể độ !”. Ngài nói như vậy xong thì Vị thiên nhơn hiện trở lại. Nói rằng: hạnh bố thí của ngài chưa đến bến bờ kia.
Đó là vì tâm Ngài đã động, còn thấy Ta thí, chấp vật thí và người thọ vật thí. Bậc thánh còn vướng như vậy huống hồ là phàm phu. Còn phàm phu thì tu hạnh bố thí không phải một lần là đặng Ba la mật, mà phải luôn luôn tinh tấn hành bố thí và xã luôn cái thấy ta thí, người thọ thí, và pháp thí , phải tập liên tục như vậy tâm mới thành thục và chắc chắn sẻ thành tựu Pháp ba la mật. Thành tựu Pháp Ba la Mật tức là xuất tam giới, liểu thoát sanh tự luân hồi.
(còn tiếp)