Trang 1 trên 1

KINH KIM CANG Dịch nghĩa và lược giải 2

Đã gửi: 01/07/08 03:17
gửi bởi BEBEBE
Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--------------------------------------------------------------------------------

KHOÁ XII

KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

--- o0o ---








Bài Thứ 5

PHẦN CHÁNH TÔN (tt)



19. Thọ trì kinh này phước đức vô lượng

20. Công đức của kinh Kim Cang Bát Nhã

21. Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật tên kinh

22. Phật phá cái chấp "kinh Kim Cang Bát Nhã"

23. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp"

24. Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới

25. Phật phá cái chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy Phật"


--- o0o ---


19. THỌ TRÌ KINH NÀY PHƯỚC ĐỨC VÔ LƯỢNG [^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như trong sông hằng, có vô số cát, rồi lấy mổi một hạt cát, lại du cho một sông hằng. Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm. Nếu chỉ tính nhũng sông hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng".

Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu có chúng sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Đại Thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) d8ể đem bố thí; số đại thế giới này cũng nhiều như số cát trong vô số sông Hằng, thì chúng sanh đó phước đức nhiều khôn?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm".

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! ta nay thành Phật bảo ông: Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng kinh này hoặc trọn quyển hay nữa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người trước".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật nói công đức người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều hơn công đức người bố thí thấ bửu (thí tài) đựng đầy trong vô số Đại thế giới, nhiều như số cát trong vô số sông Hằng. Đây là lần thứ ba, Phật tán thán về công đức thọ trì kinh.

Ngọc ngà châu báu, không ai có nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều châu báu, đựng đầy trrong vô số đại thế giới, đem bố thí, thì phước đức người này không thể nghĩ bàn.

Nhưng nếu có người thọ trì hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nữa quyển, hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người sau nhiều hơn người trước.

Vì bố thí về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp cho người về phương diện vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không thể đem hạnh phúc vĩnh viễn cho người được.

Còn người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh hưởng sâu rộmng hơn. Mình và người được trồng hạt giống Bát Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế nào cũng được nứt mộng nẩy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hoá độ vô số chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi vì người trì kinh và bố thí pháp, thuộc về phước vô lậu thanh tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố thí vật chất.

Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Đại sĩ có làm bài tụng như sau:

Nguyên văn (dịch âm):

Bảo mãn tam thiên giới

Tê trì tác phước điền

Duy thành hữu lậu nghiệp

Chung bất ly nhơn thiên

Trì kinh thủ tứ cú

Dữ Phật tác lương duyên

Dục nhập vô vi hải

Tu thừa Bát Nhã thuyền

Dịch nghĩa:

Đựng báu đầy Đại thiên

Bố thí trồng ruộng phước

Chỉ thành nghiệp hữu lậu

Hưởng phước cõi nhơn thiên

Trì tụng bốn câu kệ

Tạo duyên lành với Phật

Muốn vào biển vô vi

Phải nương thuyền Bát Nhã.

ĐẠI Ý

Bài tụng này nói, của báu đựng đầy Đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí làm phước, hành giả chỉ hưởng phước hữu lậu của cõi nhơn thiên. Không bằng người trì tụng bốn câu kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát Nhã, dạo chơi biển vô vi, hưởng phước vui vĩnh viễn.

GIẢI DANH TỪ

Sông Hằng:Tên một con sông bên Ấn Độ. Dài rộng và rất hiều cát. Mỗi khi Phật thuyết pháp, muốn chỉ cái gì nhiều klhông thể tính được, thì Phật thí dụ "Như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số)

Đại thế giới:Nguyên văn chữ hán là "Tam thiên đại thế giới", gọi tắt là "Đại thế giới".

Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thế giới. Nghĩa là năm châu thế giới của chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; nhơn lên 1000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới", nhơn lên 1000 tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; nhơn lên 1000 trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới"; tức là một nghìn triệu thế giới nhỏ, gọi là một "Đại thiên thế giới". Ngoài Thế giới Ta bà là "một Đại thiên thế giới". Ngoài thế giới Ta bà còn hằng hà sa số Đại thiên thế giới.

***

20. CÔNG ĐỨC CỦA KINH KIM CANG BÁT NHÃ [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nữa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng dường và đều kinh trọng như chỗ chùa tháp của Phật".

Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ tử tôn qui của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu Trí huệ Kim Cang Bát Nhã".

LƯỢC GIẢI

Đạon này tiếp theo đoạn trên, nói về công đức qui báu của kinh và khuyên người thọ trì kinh này. Đây là lần thứ tư.

Đoạn trước (đoạn 13) Phật dạy: " ...tất cả Phật và pháp đều từ kinh này mà ra". Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh này, thì chỗ đó như chùa Phật hay tháp Phật, có Phật, có đệ tử tôn quí của Phật; thánh, thần, trời, người đều kinh trọng và cúng dường.

Vì kinh này rất quý bau như vậy, nên người chí thành thọ trì kinh này sẽ được Trí huệ Phật (Kim Cang Bát Nhã).

***

21. ÔNG Tu Bồ Đề HỎI PHẬT VỀ TÊN KINH [^]

Lúc bấy giờ ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gì? Và tại sao chúng con phải phụng trì".

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Kinh này tên là "KIM CANG BÁT NHÃ Ba la mật"; Vì thế nên các ông phải phụng trì".

LƯỢC GIẢI

Đến đây, ông Tu Bồ Đề thỉnh Phật xác định tên kinh và giải thích, tại sao phải phụng trì? Phật trả lời: Kinh này tên "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật" (nghĩa đã giải ở đề mục kinh). Vì "Kim Cang Bát Nhã", nên các ông phải phụng trì.

***

22. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP VỀ KINH "KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT" [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, tức là không phải Bát Bát Nhã Ba La Mật, thế mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp về kinh "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật". Nếu hành giả còn vọng chấp "có kinh Bát Nhã và có ta phụng trì", tức là hành giả còn chấp ngã (ta phụng trì) và chấp pháp (kinh Bát Nhã) thì không phải là kinh Bát Nhã và thọ trì Bát Nhã. Phải dẹp trừ hết các vọng chấp ngã, pháp v.v...mới phải thọ trì kinh Bát Nhã.

Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng sanh chấp tên kinh, nên Phậtliền phá chấp: "Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, không phải Bát Nhã Ba La Mật, thế mới thật là Bát Nhã Ba La Mật".

23. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP" [^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như Lai có thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có thuyết pháp".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp:" Như Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 11).

Tiếp theo đoạn trên, ông Tu Bồ Đề hỏi kinh này tên gì? _ Phật nói kinh này tên là "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật". Sợ người chấp:"Như thế Phật co nói pháp Bát Nhã", nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn cái chấp:"Phật có thuyết pháp.

Nếu hành giả còn vọng chấp:"Phật có thuyết pháp", thì không nhập được "Kim Cang Bát Nhã". Vì ông Tu Bồ Đề đã nhập được lý "Kim Cang Bát Nhã", nên ông trả lời:"Như Lai không có thuyết pháp".

Muốn cho độc giả rõ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải thích ở đoạn trước thêm một lần nữa:Một hôm ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rưới hoa?". _ Trời Đế Thích thưa:"Ngài thuyết kinh Bát Nhã hay quá ! Con xin dâng hoa cúng dường".

Ông Tu Bồ Đề nói:"Tôi không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không nói Bát Nhã, con không nghe Bát Nhã".

Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã".

Vì ngộ được lý chơn không của kinh Bát Nhã, nên ngài Viên Ngộ Thiền sư có làm bài kệ rằng:



Nguyên văn (dịch âm)

Thập phương đồng tụ hội

Cá cá học vô vi

Thử thị tuyển Phật trường

Tâm không cập đệ qui.

Dịch nghĩa:

Mười phương đồng tụ hội

Người người học vô vi

Đây là trường thi Phật

"Tâm Không" mới được đậu.

ĐẠI Ý

Bài kệ này quan trọng nhứt là hai chữ "Tâm không". Nếu người nào tâm không còn các phiền não vọng chấp ngã, pháp v.v...thì người đó nhập được Kim Cang Bát Nhã, tức là đậu quả Phật.

***

24. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI" [^]

phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Những vi trần chứa trong đại thế giới (1 nghìn triệu thế giới nhỏ) có nhiều không? ".Tu Bồ Đề thưa:" Bạch thế tôn nhiều lắm".

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các vi trần, không phải thật vi trần. Như Lai nói thế giới, không phải thật thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới:.

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có vi trần và thật có thế giới".

Phật đã day: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng"; nghĩa là: phàm cái gì có hình tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả muôn vật trong vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng đều là hư giả không thật.

Do hiệp nhiều vi trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế giới.

Trái lại, do vật lớn nhứt như thế giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn chẻ được nữa, rồi tạm đặt tên là vi trần (bụi nhỏ). Vật thế giới hay vi trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của chúng sanh, phân biệt so đo (kể đạt phân biệt) rồi đặt tên như thế này hay như thế khác, chứ không có thật thể.

Trong bộ Cu xá luận tung lược thích, về trang 210, có chépvề vi trần và thế giới, đại ý như sau: Từ vật lớn nhứt là thế giới, rồi chẻ nhỏ thế giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua bay lại). Các thứ bụi nàygọi tên là:

1. Khích du trần: Bụi bay qua các kẻ hở.

2. Ngưu mao đầu trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. Bụi này do chẻ nhỏ bụi "khích du" mà thành.

3. Dương mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con dê. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.

4. Thố mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.

5. Thuỷ trần: Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Thố mao đầu" mà thành.

6. Kim trần: Bụi này có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc kiếng dầy; do chẻ nhỏ bụi "Thủy trần" mà thành.

7. Vi trần: Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi "Kim trần" mà thành.

8. Cực vi trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi này do chẻ nhỏ bụi "Vi trần" mà thành.

9. Lân hư trần: Bụi gần mé hư không. Thứ bụi này nhỏ nhứt, không thể chẻ nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư không. Bụi này do chẻ bụi "Cực vi" mà thành.

Rồi trở lại, từ vọng tâm nhỏ như "Lân hư trần"

Tích tụ 7 Lân hư trần thành một "Cực vi trần"

....7 cực vi trần thành một "Vi trần"

....7 Vi trần thành một "Kim trần"

....7 Kim trần thành một "Thuỷ trần"

....7 Thuỷ trần thành một "Thố mao đầu trần"

....7 Thố mao đầu trần thành một "Dương mao đầu trần"

....7 Dương mao đầu trần thành một "Ngưu mao đầu trần"

....7 Ngưu mao đầu trần thành một "Khích du trần"

Cứ tích tụ mãi mãi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt là "thế giới".

Tóm lại, chứa nhiều vi trần thành thế giới; chẻ nhỏ thế giới thành ra vi trần. Vì trần và thế giới đều do sự đối đãi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái tên để kêu gọi, chớ không có cái gì là chơn thật.

Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về vi trần và thế giới.



Nguyên văn (dịch âm):

Tích trần thành thế giới

Chiết giới tác vi trần

Giới dụ nhơn thiên quả

Trần vi hữu lậu nhơn

Trần nhơn, nhơn bất thật

Giới quả, quả phi nhơn

Quả nhơn tri thị quyển

Tiêu diêu tự tại nhơn

Vọng kế nhơn thành chấp

Mê thằng vị thị xà

Tâm nghi sanh ám quỉ

Nhãn bịnh kiến không hoa

Nhứt cảnh tuy vô dị

Tam nhơn nãi kiến sai

Liễu tư danh bất thật

Trường ngự bạch ngưu xa.

Dịch nghĩa:

Chứa trần thành thế giới

Chẻ giới hoá vi trần

Giới dụ quả nhơn thiên

Trần là nhơn hữu lậu

Trần nhơn, nhơn không thật

Giới quả, quả chẳng chơn

Biết quả, nhơn đều huyễn

Được tự tại tiêu diêu

Vọng thấy dây thành rắn

Chấp mê bởi tại tâm

Tâm sợ nên ma hiện

Mắt nhậm thấy đốn hoa

Một cảnh không sai khác

Ba người thấy chẳng đồng

Ai biết đó là huyễn

Tức là bực Đại giác.

ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG

Bài tụng thứ nhứt nói: chứa vi trần thành thế giới, chẻ thế giới thành vi trần. Thế giới là dụ cho quả nhơn thiên, vi trần là dụ cho nhơn hữu lậu. Nhơn vi trần đã không thật, nên quả thế giới cũng hư vọng. Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, thì sẽ được tiêu diêu tự tại.

Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ý nói: Vì tánh "Biến kế sở chấp", nên chấp sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như vì con mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế sở chấp, y tha khởi và viên thành thật) thấy chẳng đồng. Nếu người được giác ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không thật.

***

25. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT" [^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như Lai là thấy được Như Lai không?".

Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? Vì đức Như Lai nói 32 tướng tốt, chỉ giả gọi 32 tướng tốt".

LƯỢC GIẢI

Đoạn trên (24) Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá chấp về y báo (chấp pháp) là vi trần và thế giới. Đoạn này Phật lại dùng Trí huệ Bát Nhã phá chấp về chánh báo (chấp ngã); nghĩa là chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Đây ;là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp về thấy Phật.

Nếu còn hấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật", tức là còn chấp ngã (ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v...thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên không thấy được Phật thiệt.

Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngã, nhơn,năng, sở v.v...



Nguyên văn (dịch âm)

Tảo trừ tâm ý địa

Danh vi Tịnh độ nhơn

Vô luận phước dữ trí

Quang thả ly tham sân

Trang nghiêm tuyệt năng sở

Vô ngã diệc vô nhơn

Đoạn, thường cu bất nhiễm

Tần thoát xuất hồng trần

Dịch nghĩa

Quét sạch đất tâm ý

Đó là nhơn tịnh độ

Không cần tu phước huệ

Miễn bỏ được tham sân

Trang nghiêm không năng sở

Không ngã cũng không nhơn

Đoạn, thường đều chẳng nhiễm

Siêu xuất cõi hồng trần

ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG

Không cần tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quét sạch tham, sân, si v.v...ở trong tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng sanh về Tịnh độ.

Dẹp trừ cái vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngã, đoạn, thường v.v...thì được siêu thoát cõi hồng trần, đó là trrang nghiêm cõi Phật.

GIẢI DANH TỪ

32 Tướng tốt: Phật có 32 tướng tốt

1. Dưới bàn chân no tròn

2. Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc

3. tay chân mềm dịu

4. Ngón chân có màn như chân nhạn

5. Ngón tay ngón chân no tròn

6. Gót xứng với bàn chân

7. bàn chân xứng với gót

8. Hai chân tròn vót như hai chân nai

9. Tay dài thòng tới đầu gối

10. Âm tướng qui tàng

11. Chân lộng ửng màu xanh tía

12. Tóc lông đều xoay qua phía mặt

13. Da trơn min không dính dơ

14. Màu da sắc vàng

15. Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ

16. Cổ tròn lạ thường

17. hai cái nách no đủ

18. Dung nghi đoan chánh

19. Thân tướng trang nghiêm

20. Hình thể xứng nhau

21. Oai dung như sư tử

22. Chói hào quang mỗi phía một lần

23. hàm răng bốn mươi cái khít và bằng

24. Bốn răng cấm trắng và bén

25. Trong miệng có mùi thơm

26. Lưỡi dài che đặng cả cái mặt

27. Tiếng nói diệu dàng đủ giọng

28. Lông nheo như ngưu vương

29. Con mắt có quần đỏ

30. Mặt như trăng tròn

31. Chổ gian mi có lông trắng

32. Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc

---*^*---

Bài Thứ 6

PHẦN CHÁNH TÔN (tt)



26. Phật nói công đức thọ trì kinh Kim Cang Bát Nhã
27. Ông Tu Bồ Đề bùi ngùi cảm động rơi nước mắt
28. Người nghe kinh này sanh lòng tin, người ấy được công đức thứ nhứt

29. Người có hạt giống Bát Nhã mới tin và hiểu được kinh này
30. Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải
31. Phật phá cái chấp: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la Mật"
32. Phật phá cái chấp: "Nhẫn nhục Ba La Mật"
33. Phật nói tiền thân của Ngài là một vị tiên nhơn tu nhẫn nhục Ba la Mật
34. Bồ Tát phát tâm Bồ Đề phải xa lìa tất cả các vọng chấp
35. Bồ Tát bố thí hay làm càc việc lợi ích chúng sanh đều không nên chấp tướng
36. Như Lai nói thật không nói dối
37. Chấp tướng bố thí như vào nhà tối, vô tướng bố thí như đi ban ngày.


--- o0o ---


26. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ [^]

Phật day: "Tu Bồ Đề !nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố thí, thì người đó phước đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đoạc tụng hay giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều hơn người trước".

LƯỢC GIẢI

Kinh này rất quý báu và lợi ích vô cùng, nên phật đã nhiều lần tán thán công đức, khuyên người thọ trì và giảng dạy cho người. Từ trước đến đây đã năm lần nói về công đức của kinh này.

Đoạn trước (19) nói, người dùng ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông hằng đem bố thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng người thọ trì và giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhã phước đức lại nhiều hơn.

Đoạn này nói, người đem nội tài là thân mạng của mình ra bố thí; chỉ bố thí một thân mạng phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố thí thân mạng của mình nhiều như số cát sông Hằng, thì phước đức biết là bao nhiêu !

Nhưng nếu co ùngười thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển hay nữa quyển cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước.

Bố thí thân mạng, tuy ít người làm được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu vi và hữu lậu. Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì mình và người đều được ngộ nhập "Kim Cang Bát Nhã" và sẽ được thành Phật; rồi trở lại hoá độ vô số chúng sanh, nên phước đức của người này, thuộc về vô lậu vô vi, nhiều hơn người trước.

Nói về công đức thọ trì kinh này,

Ngài Trí Giả Đại sư có làm bài tụng:



Nguyên văn (dịch âm):

Hằng sa số thậm đa

Sa số cánh nan lương

Cử sa tề thất bảo

Năng trì bố thí tương

Hữu tướng giai vi huyễn

Đồ ngôn Trí huệ cường

Nhược luận tứ cú đệ

Thử phước mạt vi tường

Dịch nghĩa:

Kể sông Hằng đã quá

Số cát lại nhiệu hơn

Chứa báu nhiều như thế

Thí tài số biết bao

Chấp mê theo giả tướng

Dẫu đặng phước huệ cao

Sánh với bốn câu kệ

Phước kia có chút nào

ĐẠI Ý BÀI TỤNG

Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng. Người đem của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố thí, phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc hữu vi, hữu lậu.

Không bằng người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều hơn người trước.

***

27. ÔNG TU BỔ ĐỀ BÙI NGÙI CẢM ĐỘNG RƠI NƯỚC MẮT [^]

Sau khi thấy Phật nhiều lần ân cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu Bồ Đề nghe hiểu được nghĩa lý thâm thuý của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động bùi ngùi và sa nước mắt !...

Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn ! Con tuy đặng huệ nhãn đã lâu, nhưng từng được nghe Phật nói kinh điển, nghĩa lý cao siêu huyền diệu, quí hoá như thế này !".

LƯỢC GIẢI

Chúng ta mỗi khi bị xúc cảm một việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng nước mắt. Ông Tu Bồ Đề vì thấy Phật đã nhiều lần ân cần nhắc nhở thọ trì và khuyên dạy những nghĩa lý thâm thuý cao siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ ông chưa từng được nghe, nên ông cảm động rơi nước mắt.

***

28. NGƯỜI NGHE KINH NÀY SANH LÒNG TIN NGƯỜI ẤY ĐẶNG CÔNG ĐỨC THỨ NHỨT [^]

Ông Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế Tôn ! nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được thật tướng (tánh Bát Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành tựu công đức hy hữu thứ nhứt.

Bạch Thế Tôn ! Như Lai nói "thật tướng" tức là không phải "thật tướng", chỉ tạm gọi là "thật tướng".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này ông Tu Bồ Đề nói: người nghe kinh này mà ngộ được "thật tướng Bát Nhã", thì người ấy đặng công đức hi hữu. Và ông phá luôn cái chấp "thật tướng".

Người có cai khiếu (theo Duy thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm nhạc mới biết hay. Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi tjhơ mới biết thích. Cũng thế, người c1 cái khiếu hay hạt giống Bát Nhã, nghe đến kinh Bát Nhã mới sanh lòng tin và ngộ nhập được "Thật tướng Bát Nhã". Bởi thế nên người này công đức vô lượng.

Vừa nói đến "thật tướng", ông Tu Bồ Đề sợ người chấp "thật tướng", nên ông liền phá luôn cái chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: "Như Lai nói thật tướng, tức là không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng".

GIẢI DANH TỪ

THẬT TƯỚNG. Phật nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng).

Vậy thì cái không hình tướng mới là chơn thật. Kinh chép: "Vô tướng chi tướng, cố danh thật tướng", (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là thật tướng).

Căn cứ theo lời giải thích này, thì "thật tướng" là không còn các vọng tướng và vọng chấp, tức là "Bát Nhã chơn không".

***

29. NGƯỜI CÓ HẠT GIỐNG BÁT NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ĐƯỢC KINH NÀY [^]

Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được, tin được và thọ trì, chẳng lấy làm khó. Khi Đức Như Lai nhật diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe kinh này, mà được hiểu ngộ, tin theo và thọ trì, thì người đó mới là hy hữu !

Tại sao vậy? Vì người này không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.

Bạch thế Tôn ! Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tại sao vậy?_ Vì phảo xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này tiếp với đoạn văn trên, nói người có hạt giống Trí huệ Bát Nhã, phá trừ được bốn tướng, mới tin và hiểu được kinh này.

Khi Phật còn tại thế, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất nhiều, nên nghe kinh này hiểu và tin không khó. Đến sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh này rất khó. Vì người nghe phải không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, mới hiểu được kinh Kim Cang Bát Nhã này.

Nói đến bốn tướng, ông Tu Bồ Đề sợ người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bác rắng: "Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng mà thôi".

Kết luận, ông nói rằng: "Phải rời tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập Kim Cang Bát Nhã, mới gọi là chư Phật".

***

Ngài Cảo Thiền sư, ngộ được câu: "Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật", nên có làm hai bài tụng rằng:

Nguyên văn (dịch âm):

Thân khẩu ý thanh tịnh

Thị danh Phật xuất thế

Thân khẩu ý bất tịnh

Thị danh Phật diệt độ

Tức tâm thị Phật vô dư Pháp

Mê giả đa ư tâm ngoại cầu

Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế

Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu

Dịch nghĩa:

Thân, khẩu ý thanh tịnh

Đó là Phật xuất thế.

Thân, khẩu ý bất tịnh

Đó là Phật nhập diệt.

Tức tâm là Phật, Phật tại tâm

Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu

Nhứt niệm giác ngộ về đến Phật

Dễ như rửa chân bước lên thuyền.

ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG

Ba nghiệp: Thân, miệng và ý đều thanh tịnh, đó là Phật xuất thế. Trái lại, ba nghiệp không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Người mê muội không biết, lại tìm Phật ngoài tâm. Nếu trong nhứt niệm mà tâm giác ngộ thì tức thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước lên thuyền.

30. PHẬT XÁC NHẬN LỜI NÓI CỦA ÔNG TU BỔ ĐỀ LÀ PHẢI [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Đúng như vậy. Nếu có người nghe kinh này mà không nghi ngờ hay kinh sợ, thì người này rất là hy hữu".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn văn trên, Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải: Người có hạt giống Kim Cang Bát Nhã, không chấp các tướng mới hiểu và tin được kinh này

***

31. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "BÁT NHÃ LÀ ĐỆ NHỨT BA LA MẬT" [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, không phải Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, thế mới thật Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật phá cái chấp "Bát Nhã là pháp Ba la mật thứ nhứt". Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp Bát Nhã Ba la mật (lần thứ nhứt ở đoạn 22).

Trong 6 pháp Lục độ, tức là 6 pháp Ba la mật, thì Trí huệ Bát Nhã là bao trùm tất cả, nên Phật nói: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật"

Nhưng, nếu người còn chấp mình đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật"(chấp pháp) thì không phải thật đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" nữa, vì còn chấp ngã (minh đặng) chấp pháp (Ba la mật). Bởi thế nên Phật dạy tiếp: "Không còn thấy (chấp) mình đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, thì mới thật đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật".

GIẢI DANH TỪ

Bát Nhã: (đã giải ở trước, đề mục kinh)

Ba la mật: (đã giải ở trước, đề mục kinh)

***

32. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHẪN NHỤC BA LA MẬT"[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói người Nhẫn nhục Ba la mật (rốt ráo) mà không thấy mình Nhẫn nhục Ba la mật, như thế mới thật là Nhẫn nhục Ba la mật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật phá cái chấp "Người tu Nhẫn nhục Ba la mật, mà còn chấp mình đặng Nhẫn nhục Ba la mật".

Nếu hành giả tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo (Ba la mật) mà còn chấp minh tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo, tức nhiên hành giả còn chấp chơn (người làm nhục) chấp ngã (ta bị nhục) thì chưa phải là nhẫn nhục rốt ráo. Hành giả phải lìa tất cả vọng chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử v.v...nhập Kim Cang Bát Nhã, mà tu pháp nhẫn nhục thì pháp nhẫn nhục đó mới hoàn toàn rốt ráo, gọi là nhẫn nhục Ba la mật.

***

33. PHẬT NÓI TIỀN THÂN NGÀI LÀ MỘT VỊ TIÊN NHƠN TU HẠNH NHẪN NHỤC BA LA MẬT[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! về quá khứ, ta làm vị Tiên nhơn tu hạnh nhẫn nhục đến 500 đời. Bị vua Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; Vì ta không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này tiếp theo đoạn trên (32) nói về việc tu hạnh nhẫn nhục Ba la mật. Muốn giải thích rõ ràng: thế nào là "nhẫn nhục rốt ráo" (nhẫn nhục Ba la mật), Phật dẫn bằng chứng điển hình, là tiền thân Ngài làm vị Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục. Bị vua Ca Lợi cắt xẻi thân thể ra từng mảnh, nhưng Ngài không hề sân hận. Vì ngài không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn v.v...nên mới đặng nhẫn nhục rốt ráo (nhẫn nhục Ba la mật).

Sách chép, một hôm vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ lên núi để yến tiệc. Sau buổi yến tiệc say sưa, vua nằm nghỉ, các cung phi lén vua đi dạo núi.

Qua một đồi khác, thấy một vị Tiên nhơn ngồi tu dưới một gốc cây đại thọ, các cung phi rủ nhau đến chiêm bái.

Sau khi thức dậy, không thấ cung phi, vua liền đi tìm. Đến một đồi núi, thấy các cung phi đang ngồi xoay quanh hỏi đạo vị Tiên nhơn dưới một gốc cây cổ thụ, vua tức giận hỏi:

Người là ai mà dám quyến rủ cung phi mỹ nữ của ta?

Tôi là Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục rốt ráo.

Có thật không?

Thật, tôi tu Nhẫn nhục rốt ráo (Ba la mật). Vua liền rút gươm xẻo mũi, lóc tai, chặt tay v.v...vị Tiên nhơn, mà không thấy vị Tiên nhơn có chút gì phản ứng hay sân hận v.v...

Sau cơn nóng giận, vua hối hận và hỏi:

Có lẽ vì thế lực của nhà Vua nên Tiên nhơn Nhẫn nhục, không dám chống lại, chứ trong tâm làm sao khỏi buồn giận?

Tiên nhơn thề rằng: Nếu tôi không thiệt tu Nhẫn nhục rốt ráo, trong tâm còn chút giận hờn, thì tôi chết luôn theo với tay chân bị cắt xẻo; trái lại, nếu tôi thật tu Nhẫn nhục rốt ráo, tâm không sân hận thì tay chân của tôi bị cắt, đều hoàn y nguyên trở lại như xưa.

Lời thệ của Tiên nhơn vừa dứt thì mũi, tai, thân thể của Tiên nhơn đều hoàn lại như trước. Vua hết sức ăn năn sám hối tội lỗi của mình và thỉnh cầu Tiên nhơn tha thư.ù

Tiên nhơn đã không hờn giận, lại còn phát nguyện: "sau khi đắc đạo ta sẽ độ người trước".

***

34. BỔ TÁT PHÁT TÂM BỔ ĐỀ PHẢI XA LÌA TẤT CẢ CÁC VỌNG CHẤP [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các chấp tướng. Bồ Tát không nên sanh tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần v.v...

Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tân còn trụ chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn tâm".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 17), Phật dạy các vị Bồ Tát đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào.

Tâm Bồ Đề là tâm Phật (xem đoạn 2). Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp: Không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, thọ giả, không chấp sáu căn, sáu trần và sáu thức v.v...Nói chung là không chấp ngã, chấp pháp.

Khi các vọng chấp hết rồi, thì tâm Bồ Đề hay tánh Bát Nhã v.v...hiện ra. Đó là "Hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm".

Nếu tâm còn có chỗ trụ chấp, tức là tâm còn vọng động; tâm còn vọng động thì trụ nơi điên đảo, chứ không phải an trụ chơn tâm hay tánh Bát Nhã. Bởi thế nên Phật dạy: "Nếu Bồ Tát tâm còn trụ chấp một nơi nào thì không phải thật an trụ chơn tâm.

Ngài Xuyên Thiền sư làm bài tụng, nói về việc không trụ chấp nơi sắc, thinh, hương, v.v...

Nguyên văn (dịch âm)

Kiến sắc phi can sắc

Văn thinh bất thị thinh

Sắc thinh vô ngại xứ

Thân đáo pháp vương thành

Dịch nghĩa:

Thấy sắc không mê sắc

Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng

Sắc tiếng đều không ngại

Mới đến pháp vương thành

ĐẠI Ý BÀI TỤNG

Trong khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh, mà không khởi vọng niệm phân biệt, nhiễm ô mê hoặc(trụ chấp) nơi trần cảnh, thì hành giả sẽ được vào cảnh giới Phật (thành pháp vương).

***

35. PHẬT DẠY BỔ TÁT BỐ THÍ HAY LÀM CÁC VIỆC LỢI ÍCH CHÚNG SANH ĐỀU KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát khi bố thí hay làm các việc lợi ích cho tất cả chúng sanh, không nên sanh tâm trụ chấp các tướng (mình bố thí, người thọ thí, vật bố thí)

Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các tướng không phải thật (các pháp) chỉ giả gọi các tướng. Như Lai nói chúng sanh, không phải thật chúng sanh, chỉ giả gọi chúng sanh".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt về đoạn 4), Phật dạy các vị Bồ Tát bố thí hay làm các việc lợi ích chúng sanh, đều không nên chấp tướng (xem đoạn 4 ở trước).

Hành giả khi làm lợi ích các chúng sanh, mà tâm còn trụ chấp các tướng, nghiã là còn thấy mình bố thí, người thọ thí và vật bố thí, tất nhiên hành giả còn chấp ngã (mính, người) chấp pháp (vật bố thí), thì hành giả chỉ được phước hữu lậu nhiễm ô, nên không phải là bố thí Ba la mật (bố thí rốt ráo).

Bởi thế nên Phật dạy, các vị Bồ Tát, khi bố thí hay làm lợi ích cho các chúng sanh, phải nhập Kim Cang Bát Nhã mà làm; nghĩa là không có chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả thì được phước đức vô lậu thanh tịnh. Bố thí như vậy, mới phải là bố thí Ba la mật (bố thí rốt ráo).

Đoạn trước nói về Nhẫn nhục, đoạn này nói về bố thí. Muốn giúp cho qui vị Phật tử hiểu thêm và để thật hành, thế nào là "Nhẫn nhục rốt ráo" và thế nào là "bố thí rốt ráo", chúng tôi xin nói thêm một thí dụ như sau.

Hành giả muốn đặng Nhẫn nhục Ba la mật hay bố thí Ba la mật, thì phải quán chúng sanh và mình đồng một bản thể, mới không thấy ta có bố thí và chúng sanh thọ thí hay người làm nhục và ta thọ nhục.

Thí dụ như tay mặt với tay trái, đồng thấy chung một thân, nên khi tay mặt lỡ làm tổn thương tay trí, (đóng đinh trợt tay) tay trái không giận. Vì tay trái tự nhận mình cùng với tay mặt đồng một thân, nên tay trái không thấy dó tay mặt làm nhục và mình bị nhục. Nhẫn nhục như thế mới là Nhẫn nhục rốt ráo (nhẫn nhục Ba la mật).

Trái lại, tay mặt lo lấy bông gòn và thuốc để băng cho tay trái, nhưng nó không kiêu hảnh, vì tay mặt cũng tự nhận mình cùng với tay trái đồng một thân, nên nó không thấy mình (tay mặt)là người ban ơn và tay trái là kẻ thọ ơn. Bố thí như thế, mới là bố thí rốt ráo (Bố thí Ba la mật).

***

36. NHƯ LAI NÓI THẬT, KHÔNG NÓI DỐI [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác. Như Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư".

LƯỢC GIẢI

Đến thời Bát Nhã, thì Phật phá hất các vọng chấp từ lâu của chúng sanh, để chúng sanh tiến lên một bực cao hơn nữa. Vì thế nên phần lý thuyết cũng như phần tinh thần của thời kinh Bát Nhã, rất lạ lùng hơn các thời thuyết pháp khác.

Sợ chúng sanh nghi ngờ lời Phật nói không chơn thật, khi nói vầy, khi nói khác, thya đổi không chừng, nên Phật gọi ông Tu Bồ Đề dạy rằng: "Như Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác".

Đức Như Lai được đạo Bồ Đề, nhưng nếu chấp đạo Bồ Đề này là hư hay thật thì không phải là Bồ Đề. Vì thế nên Phật dạy: "Như Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư".

***

37. TRỤ TƯỚNG BỐ THÍ NHƯ VÀO NHÀ TỐI, VÔ TƯỚNG BỐ THÍ NHƯ ĐI BAN NGÀY [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát bố thí mà tâm còn trụ chấp nơi pháp bố thí, thì như người vào nhà tối, không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ Tát bố thí mà tâm không trụ chấp nơi pháp bố thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sángcủa mặt nhựt chíêu soi, được thấy tất cả mọi vật".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thấy thứ ba (lần thứ nhứt và hai ở đoạn 4 và 35), Phật dạy Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng bố thí.

Người bố thí, nếu còn chấp tướng, nghĩa là còn thấy ta là người ban ơn, kia là kẻ thọ ơn, đó là vật bố thí, thì bị mây vô minh ngã, pháp che mờ Trí huệ Bát Nhã, nên Phật thí dụ: "như người đi vào nhà tối không thấy gì cả".

Trái lại, nếu bố thí mà không chấp tướng, trong kinh gọi là "tam luân không tịch"; nghĩa là không thấy mình bố thí, (ban ơn) người thọ thí (thọ ơn) và vật bố thí (xem thí du tay mặt bó tay trái ở đoạn 35) thì mây vô minh ngã, pháp đều hết, nên mặt trời Trí huệ Bát Nhã hiện ra, chiếu soi khắp tất cả pháp. Bởi thế nên Phật nói: "Như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy mọi vật".

---*^*---

Bài Thứ 7

PHẦN CHÁNH TÔN (tt)



38. Người thọ trì kinh này công đức vô lượng
39. Công đức kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn
40. Phật khuyên người thọ trì đọc tung kinh này sẽ được đạo quả Bồ Đề
41. chỗ phụng thờ kinh này, cũng được nhơn thiên và thánh thần cúng dường
42. Người thọ trì kinh này mà bị người kkhinh khi là do tội chướng đời trước của họ rất nặng nề.
43. Người thọ trì kinh này, công đức nhiều hơn Phật Thích Ca cúng dường vô số chư Phật
44. Kinh này nghĩa lý không thể nghĩ bàn, nên phước báo của người thọ trì kinh này cũng không thể nghĩ bàn.
45. Đây là lần thứ hai, ông Tu Bồ Đề hỏi lại Phật hai câu quan trọng
46. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp với Phật Nhiên Đăng".
47. Phật nói: "Tất cả các pháp đều là Phật pháp.


--- o0o ---


38. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy rõ ràng và biết chắc chắn: đời sau nếu có người phát tâm thọ trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu công đức vô lượng vô biên".

LƯỢC GIẢI

Đầy là lần thứ 6, Phật khuyến khích về công đức thọ trì kinh này.

Kinh này nghĩa lý cao siêu khác thường, quá tầm hiểu biết của người, sợ người không hiểu và không tin thì sẽ mất lợi ích lớn, nên Phật dạy: "Như Lai dùng Trí huệ Phật, thấy biết rõ ràng và chắc chắn: sau này nếu có người thọ trì đọc tung kinh này, sẽ được công đức vô lượng".

Người hiểu biết được nghĩa lý và thọ trì kinh này, người ấy sẽ ngộ được kinh Kim Cang Bát Nhã, tức là đã trồng hạt giống Bồ Đề, tất nhiên sẽ đặng quả Bồ Đề nên Phật nói: "được công đức vô lượng".

***

39. CÔNG ĐỨC KINH NÀY VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu có người nào, một ngày ba lần: Sớm mai, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí; Trưa, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí; Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố thí. Bố thì như vậy cho đến vô lượngtrăm ngàn muôn ức kiếp, phước đức của người này vô lượng vô biên.

Nếu có người nghe kinh này, tin hiểu không nghi ngờ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin mà thôi còn được phước đức như vậy, huống chi là thọ trì đọc tụng, hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại, công đức của kinh này vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ 7, Phật tán thán công đức của kinh này không thể nghĩ bàn. Người đem một thân mình bố thí đã khó, huống chi là nhiều thân. Nhưng, giả sử có người đem nhiều thân mình ra bố thí, mỗi ngày ba lần, sớm mai, trưa và chiều đều bố thí vô lượng vô số thân mình, cho đến nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm và nhiều kiếp đều bố thí như vậy, thì phước đức người này biết là bao nhiêu.

Nhưng, nếu có người nghe kinh này, chỉ sanh lòng tin, không nghi ngờ, thì phước đức còn nhiều hơn người trước, huống chi thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy cho người khác.

Tại sao vậy?_ Vì người tin được kinh này là người đã ươm trồng hạt giống Kim Cang Bát Nhã; thọ trì đọc tụng là huân tưởng hạt giống Bát Nhã; giảng dạy cho người là làm cho người huân sanh hạt giống Bát Nhã. Hạt giống Bát Nhã đã sanh trưởng thì thế nào cũng được thành Phật. Bởi thế nên nguời tin thọ hoặc giảng dạy kinh này, phước đức nhiều hơn người bố thí thân mạng.

Tóm tắt đoạn này, Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng:



Nguyên văn (dịch âm):

Sơ tâm hâu phát thí tân đồng

Công đức vô biên toán mạc cùng

Tranh tợ tín tâm tâm bất lập

Nhứt quyền đã phá thái hư không,

Dịch nghĩa:

Sớm trưa bố thí phát tâm đồng

Công đức vô biên tính chẳng cùng

Đâu bằng tính tâm không trụ chấp

Một tay đánh phá cõi hư không.

ĐẠI Ý BÀI TỤNG

Đây là lần thứ 8, Phật tán thán công đức người thọ trì kinh này sẽ đặng quả Bồ Đề của Phật .

Phật vì những hàng Đại thừa Bồ Tát và những người phát tâm Tối thượng thừa cầu quả Phật, mà nói kinh này. Bởi thế nên những người chịu nghe và tin theo kinh này, hoặc thọ trì đọc tụng hay giảng dạy cho người nghe, tất nhiên người ấy đã có căn tánh (hạt giống) Đại thừa hay Tối thượng thừa, nên đặng công đức vô lượng vô biên và sẽ thành Phật.

Trái lại, những người căn tánh Tiểu thừa, bị gò bó trong cái khung bốn tướng, tư tưởng không hợp với giáo lý Đại thừa, nên không bao giờ họ lãnh hội được kinh Đại thừa và tu hành theo Đại thừa hoặc giảng dạy cho người.

***

41. CHỖ PHỤNG THỜ KINH NÀY CŨNG ĐƯỢC NHƠN THIÊN VÀ THÁNH THẦN CÚNG DƯỜNG [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Chỗ nào phụng thờ kinh này, thì chổ ấy như có chùa tháp của Phật; tất cả trời người, thánh thần đều cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc di nhiễu".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ 9, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

Trong đoạn thứ 13, Phật dạy:"Tất cả Phật và Pháp đ62u từ kinh này sanh ra". Vì kinh này rất quý báu như vậy, nên trong đoạn 20 và đoạn này (41) đều nói, chỗ thờ kinh này, cũng được trời, người, thần thánh xem như chùa Phật hay tháp Phật, đều đến cung king lễ bái cúng dường, hoặc đi kinh hành (đi xung quanh chỗ thờ kinh).

***

42. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY MÀ BỊ NGƯỜI KHINH KHI LÀ DO TỘI CHƯỚNG ĐỜI TRƯỚC CỦA HỌ RẤT NẶNG NỀ. [^]

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu người tho trì đọc tụng kinh này, mà bị người khing khi, thì người này do tội chướng đời trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đoạ vào ác đạo; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, nhưng tội chướng đời trước bị tiêu diệt và họ sẽ mau đặng quả Bồ Đề".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ 10, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.

Kinh này công đức vô biên và rất quý báu như thế, nên người thọ trì kinh này lẽ ra phải được sự cung kính tôn trọng. Nhưng trái lại, bị người khing khi, thì biết người này do tội chướng đời trước nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải bị đoạ vào ác đạo. Nhờ công đức thọ trì kinh này, nên họ bị quả báo rất nhẹ, là chỉ bị người khinh khi. Từ đây các tội chướng đời trước tiêu diệt và họ sẽ đặng thành quả Phật.

Tóm tắt đoạn này, Ngài Trương Vô Tận có làm bài tụng:



Nguyên văn (dịch âm):

Tứ tự diêm hương khứ phục hoàn

Thánh phàm chỉ tại sát na gian

Tiền nhơn tội nghiệp kim nhơn tiện

Đáo khước tiền nhơn tội nghiệp sơn.

Dịch nghĩa:

Bốn mùa lạnh nóng mãi trôi qua

Phàm thánh không ngoài một sát na

Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu

Chịu rồi mới hết nghiệp oan gia.

ĐẠI Ý BÀI TỤNG

Bốn mùa nóng lạnh, ngày thánh trôi qua là sự tuần hoàn của vũ trụ. Chứng thánh hay đoạ phàm, chỉ ở trong sát na mê hay ngộ. Kiếp trước làm tội ác nên kiếp này phải trả, bị người khinh khi. Trả xong nghiệp chướng oan gia mới được tự tại giải thoát.

***

43. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY CÔNG ĐỨC NHIỀU HƠN PHẬT THÍCH CA CÚNG DƯỜNG VÔ SỐ CHƯ PHẬT [^]

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô số kiếp, trước thời Phật Nhiên Đăng, ta cúng dường và phụng thờ tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng về sau này, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì công đức của người này so với công đức của ta cúng dường phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công đức của ta không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức của người này; cho đến dùng toán số hay thí dụ cũng không thể tính toán hay thí dụ được công đức của người thọ trì kinh này".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ 11, Phật tán thán công đức Kinh Kim Cang Bát Nhã.

Cúng Phật thuộc về tu phước, dù nhiều bao nhiêu, cũng thuộc về phước hữu vi.

Người thọ trì kinh này, sẽ tỏ ngộ được lý Bát Nhã và sẽ mau đặng đạo quả Bồ Đề. Sau khi thành đạo, họ sẽ trở lại hoá độ vô số chúng sanh đều được giải thoát, thì công đức làm sao thí dụ được hay tính toán cho hết. Bởi thế nên Phật nói:"Công đức của người thọ trì kinh này nhiều hơn công đức của Phật cúng dường vô số chư Phật về quá khứ".

***

44. KINH NÀY NGHĨA LÝ KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NÊN PHƯỚC BÁO CỦA NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NÀY CŨNG KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN [^]

Phật dạy:" Nếu ta nói hết công đức của người thọ trì đọc tụng kinh này, sợ e người nghe, tâm sanh cuồng loạn, hoặc nghi ngờ không tin.

Tóm lại, kinh này nghĩa lý vô biên, không thể suy nghĩ và luận bàn, nên phước báu của người thọ trì kinh này cũng không thể suy nghĩ và luận bàn".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ 12, Phật tóm lại, tán thán nghĩa lý của kinh này vô biên, nên công đức của người thọ trì kinh này, cũng không thể nghĩ bàn.

Từ trước đến đây đã 12 lần, Phật so sánh, khuyến khích và tán dương công đức của người thọ trì kinh này. Nếu nói hết lời, Phật e người nghe rối trí, hoặc nghi ngờ không tin. Nếu người hiểu được nghĩa lý cao thâm của kinh này, không thể nghĩ bàn, thì họ sẽ tin công đức phước báu của người thọ trì kinh này, cũng không thể nghĩ bàn.

***

45. ĐÂY LÀ LẦN THỨ HAI, ÔNG TU BỔ ĐỀ HỎI LẠI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG [^]

Khi ấy, ông Tu Bồ Đề bạch Phật:"Bạch Thế Tôn ! nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì làm sao hàng phục vọng tâm và làm sao an trụ chơn tâm?"

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! nếu có người phát tâm Bồ Đề, thì phải dụng tâm như vầy: Ta hoá độ tất cả chúng sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng sanh được độ. Tại sao vậy? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát.

Tu Bồ Đề ! Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ Đề".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 1), ông Tu Bồ Đề hỏi Phật "Làm sao hàng phục vọng tâm? Và làm sao an trụ chơn tâm?".

Đại ý Phật dạy:" Nguời phát tâm Bồ Đề ra làm các Phật sụ, lợi ích tất cả chúng sanh, không nên chấp ngã, pháp hay bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu không chấp ngã pháp hay bốn tướng thì sóng phiền não vọng niệm không sanh. Nếu sóng phiền não vọng niệm không sanh thì biển chơn tâm tự yên tịnh. Đó là phương pháp "hàng phục vọng tâm" mà cũng là "an trụ chơn tâm".

Nếu Bồ Tát làm Phật sự, hoá độ chúng sanh, mà còn thấy có mình hoá độ (ngã) và người được độ (nhơn) thì Bồ Tát chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, vì còn chấp bốn tướng:ngã, nhơn v.v...nên không phải là Bồ Tát.

Nói đến "Tâm Bồ Đề", sợ có người trụ chấp tâm Bồ Đề, nên Phật liền phá chấp:" Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ Đề".

Ngộ được lý vô trụ của kinh Kim Cang Bát Nhã, Ngài Trường Sa có làm bài kệ như sau:



Nguyên văn (dịch âm):

Bách xích can đầu bất động nhơn

Tuy nhiên đắc nhập vị vi chơn

Bách xích can đầu tu tấn bộ

Thập phương thế giới hiện toàn thân.

Dịch nghĩa:

Đầu sào trăm thước đứng vững trân

Tuy ngộ nhưng chưa đúng lý chơn

Đầu sào trăm thước thêm một bước

Mười phương thế giới hiện toàn thân.

ĐẠI Ý BÀI KỆ

Hai câu đầu là nói, người tu hành dầu cao siêu đến đâu, nhưng nếu còn chấp một tí nào, thì cũng chưa phải là thật tu, thật chứng, cũng như người đứng trên đầu sào trăm thước, tuy cao, nhưng chưa thoát ly được đầu sào.

Hai câu sau là nói, hành giả phải rời tất cả vọng chấp ngã, pháp mới nhập được pháp giới tánh (chơn tâm hay Bát Nhã); lúc bấy giờ thân mình hiện khắp cả mười phương pháp giới; cũng như chim đã bỏ đầu sào trăm thước, thung dung tự tại bay đi trong cõi thái hư.

***

46. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP VỚI PHẬT NHIÊN ĐĂNG" [^]

Phật hỏi: " Tu Bồ Đề ! Về quá khứ, Như Lai có đắc pháp Bồ Đề với Phật Nhiên Đăng không ?"

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn !Như Lai không có đắc pháp Bồ Đề với phậ Nhiên Đăng:.

Phật dạy: "Đúng như vậy, Như Lai không có đắc pháp gì cả. Nếu Như Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta rằng: về sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích ca Mâu Ni".

Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Có người nói: "Như Lai đặmng quả Bồ Đề ". Thật ra, Như Lai là bản thể như như của các pháp, nên Như Lai không đặng pháp gì cả.

Tu Bồ Đề ! Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 15) phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá cái chất "Phật có đắc pháp". Đúng theo thinh thần kinh Kim Cang Bát Nhã, thì phải phá trừ hết các mây vô minh vọng chấp nhơn, ngã v.v...lúc bấy giờ mặt trời Bát Nhã chơn không (chơn như hay Phật tánh) mới hiện.

Bởi thế nên Phật tuy đắc pháp Bồ Đề, nhưng không thấy mình có đắc (vô ngã) và pháp Bồ Đề (vô pháp) đã đắc, nên mới được Phật nhiên Đăng thọ ký.

Nếu Như Lai còn thấy mình có đắc pháp Bồ Đề, tức nhiên Như Lai còn chấp ngã (mình đặng) và chấp pháp (pháp Bồ Đề), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì đâu được Cổ Phật Nhiên Đăng chứng nhận cho: "Về sau ông sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni".

Chúng sanh chấp "Như Lai đặng quả Bồ Đề", vì chúng sanh chưa hiểu hai chữ "Như Lai". Phật giải thích:"Như Lai là bản thể như như của các pháp"; đã là như như, nên không có đặng pháp gì cả.

Phật dạy tiếp:" Như Lai đặng đạo Bồ Đề, không phải hư, không phải thật". Nếu đạo Bồ Đề mà còn có hư hay là thật, thì không phải Bồ Đề. Đến chỗ này thì dùng lời nói luận bàn không trúng, đem ý thức suy nghĩ phân biệt cũng chẳng nhằm. Đây là lần thứ ba, Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo Bồ Đề" (lần thứ nhứt và thứ hai ở về đoạn 15 và 36).

Ngộ được lý "Phật tuy đã thành Phật, nhưng không thấy mình được thành Phật", nên ngài Phật Quốc Thiền sư có làm bài kệ như sau:

Nguyên văn (dịch âm):

Tâm tâm tức Phật, Phật tâm tâm

Phật Phật tâm tâm, tức Phật tâm

Tâm Phật ngộ lai vô nhứt vật

Tướng quân chỉ khát vọng mai lâm.

Dịch nghĩa:

Tâm tâm tức phật, phật tức tâm

Phật phật tức tâm, tâm tức Phật

Tâm, Phật ngộ rồi không chi cả

Nói me đỡ khát vạn quân binh.

ĐẠI Ý BÀI KỆ

Người mê, chấp tâm và Phật riêng khác. Kẻ hiểu lại nói: Phật tức tâm, tâm tức Phật. Người tỏ ngộ rồi không còn thấy có Phật và tâm. Vì cảm hoá chúng sanh nên mới đặt ra có danh từ tâm và Phật để kêu gọi. Cũng như vì muốn cho vạn quân đỡ khát nước, nên vị Chỉ huy mới phương tiện nói "gần đến rừng me".

GIẢI DANH TỪ

Thọ ký: Truyền trao và ký nhận.

***

47. PHẬT NÓI:" TẤT CẢ CÁC PHÁP ĐỀU LÀ PHẬT PHÁP" [^]

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Như Lai nói:" Tất cả các pháp đều là Phật pháp". Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các pháp thật ra không phải các pháp, chỉ giả gọi "các pháp"; cũng như thân Phật cao lớn, Như Lai nói không phải thân Phật cao lớn, chỉ giả gọi "thân Phật cao lớn".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật phá cái chấp "các pháp và thân Phật". Kinh chép:" Pháp thân Phật biến khắp tất cả; cảnh giới của Phật ở gọi là Thường tịch quang?. Bởi thế nên nói "tất cả các pháp đều là Phật pháp".

Chúng ta bị mây vô minh che khuất trăng Bát Nhã, nên chỉ thấy các pháp ngã, nhơn v..v.. chư Phật và Bồ Tát đã giác ngộ , phá tan mây vô minh, trăng Bát Nhã được sáng tỏ, nên chỉ thấy toàn là Phật pháp.

Vừa nói đến "các pháp", sợ chúng sanh chấp "các pháp? mà không ngộ được tánh Bát Nhã chơn không, nên Phật liền phá:" Như Lai nói "các pháp" thật ra không phải "các pháp", chỉ giả gọi là "các pháp". Cũng như thân Phật, thật ra không phải thân Phật, chỉ giả gọi thân Phật".