Thư giãn học Phật 2

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.08: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật.

49 Ðịnh Nghĩa: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật

49.1 Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.

49.2. Trì chú: Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ tát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.

49.3 Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, hình dung Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài.

50. Lý Do Phải Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật

50.1. Hỏi: Vì sao phải tụng kinh?
Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật vì đã thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi.

Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần, hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.

50.2. Hỏi: Vì sao phải trì chú?
Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thần chú "Lăng Nghiêm" thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nề v.v... Thần chú "Chuẩn Ðề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì chú.

50.3. Hỏi: Vì sao phải niệm Phật?
Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch.

Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.

50.4.Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ?
- Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:

Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành nầy qua cành khác, và "ý" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp.

Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào, thì ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
Hình ảnh
Forum:

•1. Hỏi: Vì sao phải tụng kinh?
•2. Hỏi: Vì sao phải trì chú?
•3. Hỏi: Vì sao phải niệm Phật?
•4. Hỏi: Phải thường tụng những bộ kinh nào?
•5. Hỏi: Trì chú gì cho hợp với...?
•6. Hỏi: Phải niệm danh hiệu Phật nào?
•7. Hỏi: Lợi ích của sự tụng kinh là gì?
•8. Hỏi: Lợi ích của sự trì chú là gì?
•9. Hỏi: Lợi ích của sự niệm Phật là gì?
•10.Hỏi: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về Niệm Phật như thế nào?[/quote]


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.08: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật.

51. Hỏi: Phải thường tụng những bộ kinh nào?

51.1. Các kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng.

Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng những kinh như: Di Ðà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...

Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như lúc:

•Cầu siêu thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...;
•Cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...;
•Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...;
•Cầu sám hối thì tụng kinh Hồng-Danh.

Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm trì tụng, thì kết quả cũng đều mỹ mãn như nhau cả.

51.2. Hỏi: Trì chú gì cho hợp với...?

- Các chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa tụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ðại Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v... còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.

51.3. Hỏi: Phải niệm danh hiệu Phật nào?

- Các hiệu Phật thường niệm. Ðức Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên.

Nhưng đứng về phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.

Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Ðức Phật Thích Ca: "Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạc pháp, cách Phật lâu xa, chỉ có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn hết".

Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.

Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:

a) Niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức Phật Giáo chủ của chúng ta.

b) Niệm Ðức Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.

c) Niệm Ðức Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
Hình ảnh
Forum:

•1. Hỏi: Vì sao phải tụng kinh?
•2. Hỏi: Vì sao phải trì chú?
•3. Hỏi: Vì sao phải niệm Phật?
•4. Hỏi: Phải thường tụng những bộ kinh nào?
•5. Hỏi: Trì chú gì cho hợp với...?
•6. Hỏi: Phải niệm danh hiệu Phật nào?
•7. Hỏi: Lợi ích của sự tụng kinh là gì?
•8. Hỏi: Lợi ích của sự trì chú là gì?
•9. Hỏi: Lợi ích của sự niệm Phật là gì?
•10.Hỏi: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về Niệm Phật như thế nào?


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.08: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật.

52. Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật

52.1. Hỏi: Lợi ích của sự tụng kinh là gì?
Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người chung quanh:

a) CHO MÌNH: Lúc tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải.

b) CHO GIA ÐÌNH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, hòa thuận.

c) CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.

Như vậy rõ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.

52.2. Hỏi: Lợi ích của sự trì chú là gì?
Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự biết lấy. có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường.

Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan liền được thoát nguy.

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung việt. Một lần BS bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được.

Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên.

52.3. Hỏi: Lợi ích của sự niệm Phật là gì?
Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v...

52.4.Hỏi: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về Niệm Phật như thế nào?
"Sau khi Phật nhập diệt , về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ "Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi "Cực Lạc".

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi vãng sanh.

•Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Ðức Di-Ðà rờ đầu;
•Trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu phép "Trì danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi Tịnh Ðộ.
•Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ phi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài gòn. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu.
Chiếc thủy Phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy.

Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.
Hình ảnh
Forum:

•1. Hỏi: Vì sao phải tụng kinh?
•2. Hỏi: Vì sao phải trì chú?
•3. Hỏi: Vì sao phải niệm Phật?
•4. Hỏi: Phải thường tụng những bộ kinh nào?
•5. Hỏi: Trì chú gì cho hợp với...?
•6. Hỏi: Phải niệm danh hiệu Phật nào?
•7. Hỏi: Lợi ích của sự tụng kinh là gì?
•8. Hỏi: Lợi ích của sự trì chú là gì?
•9. Hỏi: Lợi ích của sự niệm Phật là gì?
•10.Hỏi: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về Niệm Phật như thế nào?[/quote]


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.08: Tụng Kinh, Trì Chú, Niệm Phật.

53. Kết Luận: Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật

Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho Viên Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời 3 phương pháp nầy được.

Bỡi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và trì chú cho Sự, Lý đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.

Ba pháp môn tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn.

•Còn người tuổi gìa, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh, trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng phải niệm Phật.

Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn, và đặc vào đấy hình ảnh của Ðấng Từ Bi.

Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui cứu khổ cho tất cả.

Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.

Người tụng kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ được chứng qủa Thánh không sai.
Hình ảnh
Forum:

•1. Hỏi: Vì sao phải tụng kinh?
•2. Hỏi: Vì sao phải trì chú?
•3. Hỏi: Vì sao phải niệm Phật?
•4. Hỏi: Phải thường tụng những bộ kinh nào?
•5. Hỏi: Trì chú gì cho hợp với...?
•6. Hỏi: Phải niệm danh hiệu Phật nào?
•7. Hỏi: Lợi ích của sự tụng kinh là gì?
•8. Hỏi: Lợi ích của sự trì chú là gì?
•9. Hỏi: Lợi ích của sự niệm Phật là gì?
•10.Hỏi: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết về Niệm Phật như thế nào?


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.09: Ăn Chay

A- MỞ ĐỀ:

54. Ăn Chay Là Một Phương Pháp Tu Hành Của Người Phật Tử

Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn, thì tất cả chúng sanh đều thành Thánh cả rồi. Ðức Phật Thích Ca, khi còn là một vị Thái Tử, đã nói một câu đầy ý nghĩa: "Sự sống sống bằng sự chết".

Hãy nghĩ lại mà xem: từ khi lọt lòng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng ta đã làm chết bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn, chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế, đều đã gây bao tang tóc cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta! Ðó là chưa kể những kẻ hung ác, giết để được thích thú, được tiền tài, danh vọng...

Nếu sự sống mà không làm chết ai cả, thì cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu ! Sự ước ao này có thể thực hiện được một phần lớn, nếu chúng ta áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đã chế ra.

Như thế, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ. Ăn chay chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng, mà người Phật tử thực hành được nhiều chừng nào thì được nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy.

B - Chánh Ðề

55. Ðịnh Nghĩa

Ăn chay nghĩa là: Hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động vật như thịt, cá, tôm, cua, sò, ốc những vật hữu tình, biết tham sống sợ chết như người.

III. Lý Do Ăn Chay

55.1. Vì lòng từ bi và bình đẳng

Khi đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài A Nan hỏi Phật rằng:

-Bạch Phật , tại sao trước kia, Phật cho các Ðệ tử ăn ngũ tịnh nhục , mà nay Ngài lại cấm tuyệt ăn thịt cá?

Phật trả lời Ngài A Nan: Vì trình độ các ông trong buổi sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo cao, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp thấp, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh thọ được giáo pháp tối thượng, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn thứ ấy, thì còn phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi bình đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được.

Lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn chay là cốt yếu để nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.
Thật thế, Phật tử là người đã theo đạo từ bi, thì không lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.

Nếu chúng ta vì muốn ăn cho khoái khẩu, sướng bụng, mà nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu la thảm thiết của những con vật đang giẫy giụa trêm tấm thớt, trên bàn thịt, thì sao được gọi là Phật tử.

Nếu không có một lòng thương xót trước những cảnh giết chóc như thế, thì hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo khô, cằn cỗi, và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của chúng ta trở thành vô ích.

Ðạo Phật là đạo Từ Bi mà cũng là đạo Bình Ðẳng. Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau". Vậy thì người Phật tử dưới tầm con mắt của mình, không nên thấy *Người và vật khác nhau, mà chỉ đồng một tri giác bình đẳng, ẩn trong thân hình sai biệt.

Nói rằng: "Vật dưỡng nhơn" là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ và ngạo mạn của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng cho người ta thẳng tay giết hại sanh vật, và tạo ra một tình trạng bất bình đẳng, thì không bao giờ cõi đời có thể yên ổn, hòa bình được.

55.2. Vì muốn tránh quả báu luân hồi

Phật dạy: "Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là sanh tử luân hồi mãi trong sáu đường".

Kinh Lăng Nghiêm nói: "Hể giết một mạng thì hãy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, thì không thể nào ra khỏi trần lao được." Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài thì không thể nào hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.

55.3. Vì hợp vệ sinh

Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đã nói rằng: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm".
Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: "Trong các thứ thịt, có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người".

Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày thì héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; còn thịt cá để lâu ngày thì sình, ương, hôi tanh không ai chịu nổi, và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc ,khó tiêu.

Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v.., nếu chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm.

Ðể tránh những bệnh tật, và tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau cải. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y học Ðông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, dể tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội "Tổ Thực Chủ Nghĩa", ở Pháp, Ðức, Anh, Mỹ đều có "Thảo Mộc Thực Hội".

Hình ảnh
Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Ðại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đã long trọng tuyên bố rằng:

Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu.

Bà White, một bác học gia cũng đã tuyên bố rằng:

Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau cải là những thức ăn mà thiên nhiên đã dành để nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, thì rất hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật. (Còn tiếp...)
********
Nghĩa chữ:

(Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh:
•a) Thịt ăn mà không thấy người giết.
•b) Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật bị giết kêu.
•c) Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình.
•d) Thịt con thú tự chết.
•đ) Thịt con thú khác ăn còn dư)


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.09: Ăn Chay

56.Cách Thức Ăn Chay

Mặc dù sự ăn chay đối với người Phật tử là một điều cần thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được lợi ích thiết thực, cần phải có phương pháp, và áp dụng một cách tuần tự theo căn cơ và sở nguyện của mình. Trước tiên, không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ hẳn ngay tập quán ăn mặn của mình để ăn chay. Vì thế, trong đạo có chia làm hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường.

a) Ăn chay kỳ. Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn nhất định trong mỗi tháng hay mỗi năm:

Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi tháng vào ngày mồng một và rằm âm lịch.

Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám, rằm và hăm ba.

Lục trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng là: mồng một, mồng tám, mồng bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi (nếu tháng thiếu thì 27, 28, 29).

Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào tháng giêng hay tháng bảy.

Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng chay: Tháng giêng, tháng bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp trong ba tháng.

Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp một phản ứng nào về thân, tâm và thận thấy có lợi ích, thì nên lần đến ăn chay trường.

b) Ăn chay trường. Ăn chay trường hay trường trai là ăn toàn chay luôn trong mỗi ngày, không gián đoạn cho đến hết đời.

Nếu mỗi ngày, phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa, thì gọi là ngọ trai.

57. Phương pháp chế biến thức ăn chay.

57.1. Chọn lựa thay đổi thức ăn. Ðể ăn cho được lâu dài và không ngán, chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải bắp, khoai tây, nếp lức v.v...và những món ăn cũng phải thay đổi luôn luôn
Vậy trong một bữa ăn, cần phải ăn những món gì để bữa ăn có đầu đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài bữa ăn kiểu mẫu:

Trái cây cùng ăn với cơm hay bắp, bột mì và rau, cải, đậu phụng rang.

Sữa tươi cùng ăn với trái cây ngọt và cơm, bắp hay bột mì.

Các món ăn chính nói trên là cần thiết, nhưng cũng cần thêm gia vị như hột cải cay, tiêu ớt, giấm v.v...để giúp bộ máy tiêu hóa làm việc dể dàng. Nhưng nếu dùng gia vị quá nhiều thành ra có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa nóng, sing bệnh hay làm kích thích cơ thể.

57.2.Cách nấu. Thức ăn là cần thiết nhưng cách nấu cũng quan trọng; chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đã ăn chay thì nấu thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm đến. Nếu thức ăn bổ mà không biết cách nấu, thì cũng làm cho nó hết bổ, và có khi làm hại bộ máy tiêu hoá nữa. Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn:

Không nên chiên xào nhiều quá, vì sinh tố B và C sẽ bị dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho bao tử mệt.

Nên ăn đồ nướng, nhất là nướng không có thoa dầu.

Khi nấu hay luộc phải nên đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loãng. Và nước luộc ấy rất tốt, không nên đổ đi, vì nó chứa rất nhiêu chất bổ và sinh tố.

57.3. Giảm thịt cá dần dần trong những ngày ăn mặn. Ðối với những người ăn chay kỳ thì khi ăn mặn, nên mua những vật người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số lượng thịt cá, ăn nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không tượng con.

Khi đã tinh tấn về mặt tinh thần, không nên ăn trứng gà, trứng vịt, vì trứng cũng là một sanh vật sắp nảy nở.
Hình ảnh
58. Những điều cần tránh

58.1. Ăn chay được. Không nên kiêu mạn. Người có phúc duyên ăn chay được dể dàng, không nên sanh lòng kiêu mạn, tự cho mình là hơn người, và khinh người ăn mặn. làm như thế đã sanh ác cảm với người mà lại còn làm tổn âm đức của mình nữa.

58.2. Ăn chay được. không nên háo danh. Có người mới bước vô đường đạo, đã ăn trường trai ngay, cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do lòng háo danh mà ra; hành động này không có lợi cho sự tu hành mà lại còn có hại: khi không còn ai khen ngợi nữa, thì không thấy hứng thú để tiếp tục ăn chay nữa.

58.3. Ăn chay. Không nên ép xác. Có người tưởng lầm rằng: ăn chay là để hành hạ thân xác, nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ròng rã tương rau, muối sả...từ năm này sang năm khác. Ăn như thế thì sẽ hao mòn thân xác và chết yểu trước khi thành đạo.

58.4. Ăn chay. Không nên giả mặn. Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo của mình bằng cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn, hay làm ra những hình thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ hủ cao, củ hủ dừa kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt gà xé phay; bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt tên là thịt bò lụi v.v....

Như thế, là đã vô tình xúi giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn rau dưa, mà lòng tưởng nhớ đến thịt cá, làm trò cười cho thế gian.

58.5. Ăn chay. Không được quên ngày chay. Không nên khinh thường quên những ngày chay mà mình đã phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như đi lỡ đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có sẵn thức ăn chay.

58.6. Ăn chay. Không nên dùng ngũ vị tân. Ngũ vị tân là: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ không nên dùng, vì các thứ này đã hôi, lại có nhiều chất kích thích lòng dục vọng. (Còn tiếp...)
********
Nghĩa chữ:

(Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh:
•a) Thịt ăn mà không thấy người giết.
•b) Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật bị giết kêu.
•c) Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình.
•d) Thịt con thú tự chết.
•đ) Thịt con thú khác ăn còn dư)[/quote]


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.09: Ăn Chay

59. Lợi Ích Của Sự Ăn Chay

59.1. Phương diện cá nhân
Những lợi ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những lợi ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa.

a) Trong hiện tại, người ăn chay được hưởng lợi ích sau đây:

•Tiết kiệm được tài chánh, vì đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn mặn.
•Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, vì mướp, dưa, bầu bí, khoai...cắt rửa mau và ít tốn nước; và kho kho, luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi.
•Thân thể được mạnh khỏe; tinh thần được nhẹ nhàng, trong sạch; trí tuệ được minh mẫn dể tu thiền quán.

b) Trong đời sau, không chịu quả báo giết hại, nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng. Nếu trở lại làm người, thì được trường thọ.
Hình ảnh
59.2. Phương diện xã hội, nhân loại, chúng sanh

Ăn chay không những có lợi ích cho cá nhân, mà còn cho xã hội, nhân loại, chúng sanh nữa. Nếu ai ai cũng ăn chay thì thế giới Ta Bà này làm gì có tiếng rên siết vì chết oan của loài vật và tiếng than thở, đau đớn của người vì nạn tương tàn, tương sát.

Một nhà Bác học có nói: "Muốn thế giới hòa bình, bắt đầu trong bữa ăn con người phải không có một chút máu hay một miếng thịt cá nào cả".

Câu nói đầy đạo đức này cũng đồng một ý nghĩa với câu nói của Cổ nhân:

"Nhất thế chúng sanh vô sát nghiệp, Hà sầu thế giới động đao binh".

(Nếu tất cả chúng sanh không sát hại lẫn nhau, thì sợ gì thế giới có giặc giã).

Người ăn chay là một chiến sĩ của Hòa bình. Thật vậy người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài là mình, mình là muôn loài, không giết hại sanh vật để thỏa mãn dục vọng, không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng loại để đạt mục đích lợi danh.

Nếu trong xã hội, ai ai cũng ăn chay, thì đâu có những chuyện gây gỗ, đánh đập nhau, như chúng ta thường thấy hằng ngày.

Nếu trong một nước, ai ai cũng ăn chay thì không có chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, chém giết lẫn nhau để thỏa lòng dục vọng.

Nếu trong thế giới, ai ai cũng ăn chay, thì thế giới này là Cực lạc thế giới.

C- Kết Luận

60. Mọi Người Dù Phật Tử Hay Không Ðều Nên Ăn Chay

Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, xét về phương diện khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay đoàn thể, về hiện tại hay tương lai, sự ăn chay đều có rất nhiều lợi ích.

Vì vậy, những người không phải là Phật tử , nếu muốn thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được khinh an, trí tuệ được minh mẫn để học tập; nếu muốn tiết kiệm được tài chánh, công lao, thời giờ, nếu muốn gia đình được hòa thuận yên vui, thì hãy mau mau làm quen với những thức ăn chay.

Còn những ai đã là Phật tử , đã nguyện theo bước chân của đức Từ phụ, thì phải thực hành phép ăn chay, để lòng Từ bi được mở rộng, tinh thần bình đẳng được lan xa, trí tuệ được tỏ ngộ, đạo quả được chóng viên thành.

Vẫn biết, nói dể mà làm khó; nhưng một người tiến bộ và có thiện chí, khi đã thấy rõ những điều lợi ích, thì dù khó bao nhiêu cũng quyết thực hành cho được. Sự thực hành ấy không phải làm ngay trong một lần, mà phải tuần tự tiến bước.

Nếu chúng ta biết áp dụng phép ăn chay đúng như những cách thức đã nói ở trên, thì thiết tưởng không có gì là khó lắm. Ðiều quan trọng nhất là chúng ta thật có thiện chí hay không mà thôi. (T.T.H)

•1. Hỏi: Ăn chay nghĩa là gì?
•2. Hỏi: Lý do gì phải ăn chay?
•3. Hỏi: Có phải ăn chay vì lợi ích sức khỏe?
•4. Hỏi: Cách Thức ăn chay dành cho người mới như thế nào?
•5. Hỏi: Phương pháp thực hành ăn chay cho hợp khẩu vị như thế nào?
•6. Hỏi: Những điều gì! Cần tránh trong phương pháp thực hành ăn chay?
•7. Hỏi: Lợi ích của sự ăn chay như thế nào?

********
Nghĩa chữ:

(Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh:
•a) Thịt ăn mà không thấy người giết.
•b) Thịt ăn mà mình không nghe tiếng con vật bị giết kêu.
•c) Thịt ăn mà mình không nghi người ta giết cho mình.
•d) Thịt con thú tự chết.
•đ) Thịt con thú khác ăn còn dư)


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.10: Bát Quan Trai Giới

61 MỞ ĐỀ:Bát Quan Trai Giới

Ðức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, huệ".


Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh phiền não;

•vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới.

•Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới.(HT.T.T.H). (Xem tiếp...)
***
**
*
Hình ảnh
61.Nghĩa chữ:

Giới: Tiếng Pali là Sila, phiên âm là Thi la, có nghĩa là điều ngăn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử Phật dùng để ngăn ngừa tội lỗi của 3 nghiệp. Do vậy, GIỚI còn được định nghĩa là :

- Phòng phi chỉ ác : Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.
- Biệt giải thoát : Giữ được giới nào, giải thoát được giới đó.
- Xứ xứ giải thoát : Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát.
- Tùy thuận giải thoát : Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương : Làm cho cuộc sống mát mẻ, thoải mái.
- Chế ngự : Có năng lực kiềm chế những việc xấu, ác.

Kính sử: Khi Phật còn tại thế …

Một lần Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Phật : “Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, làm sao để chánh pháp của Như Lai được tồn tại lâu dài?”
Thế Tôn dạy : “Đức Phật nào có nói giới nói pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho chánh pháp được trụ lâu dài sau khi Như Lai diệt độ”.
Khi ấy Xá-lợi-phất thưa : “Bạch Thế Tôn! Tại sao con không thấy Ngài chế giới mà chỉ nói pháp?

Phật dạy : “Này Tôn giả! Ta biết thời phải làm gì. Nay chưa tới thời nên ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới”.

Vì thế, suốt 12 năm đầu, sau khi Phật thành đạo, Ngài đã không thuyết giới. Đến năm thứ 13, các pháp hữu lậu xuất hiện, bắt đầu xảy ra sai phạm trong chúng Tỳ kheo … Căn cứ vào đó Phật mới chế giới. Như người vá áo, không bao giờ vá vào những chỗ chưa bị rách. Đức Phật cũng không bao giờ quy định trước điều này, hay ngăn cấm điều kia khi đệ tử của Ngài chưa thật sự làm gì sai với Thánh đạo. Như vậy chứng tỏ rằng Phật chế giới không phải là để bó buộc đệ tử mình, mà chính vì con đường giải thoát và ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn. (Thiền Viện Thường Chiếu).

Định: Tiếng Pàli “Samàdhi” Hán dịch là Định, trong ý nghĩa chung là Thiền định. “Định tức là Thiền định, có khả năng thu nhiếp những tinh thần phân tán hỗn loạn để thấy tự tính của mình, hiểu rõ đạo lý, cho nên gọi là Định học”. Thiền định, như vậy, cũng là một phương pháp tu tập làm cho tâm vắng lặng, thanh tịnh, đưa tâm đến một sự tập trung cao độ trong sự chuyên chú, thành cái nhất điểm của tâm. Và trong sự tập trung chuyên chú ấy cần phải có một đề mục hay một đối tượng để làm cơ sở cho tâm quán sát. “Định nghĩa là tập trung tâm ý vào một đề tài hay một đối tượng duy nhất không được phân tán hay xao lãng” (Thích Nguyên Hùng ) ...

Huệ: Tuệ: Sanskrit gọi là prajñā, Pāli gọi là paññā Trung Hoa dịch âm là Bát-nhã, có nghĩa là suy lý là chỉ khả năng suy lý phán đoán mọi tác dụng tinh thần đối với sự vật và lý tính; là tên của tâm sở; là một trong bảy mươi lăm pháp theo Câu Xá luận, hay là một trong một trăm pháp theo Duy Thức; là phần học cuối của ba học. Vì Tuệ có khả năng thứ nhất là hiển lộ bổn tánh xưa nay của chúng sanh, thứ hai có khả năng lựa chọn đoạn trừ các loại phiền não vô minh và, cuối cùng có khả năng thấy rõ thật tướng của chư Phật, cho nên Tuệ thông cho cà ba tánh thiện, bất thiện và vô ký. Nếu là ác tuệ thì gọi là ác kiến là nột trong năm kiến, nếu là thiện tuệ thì gọi là chánh kiến, chánh tuệ. (Thích Nguyên Hùng )

Tam Quy:(三歸依) Phạm: Tri-zaraịa-gamana. Pàli: Tì-saraịa-gamana. Cũng gọi Tam qui, Tam tự qui, Tam qui giới, Thú tam qui y. Qui y Tam bảo, nghĩa là quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng (Tự điển Phật Quang)

Ngũ Giới: Đây la năm giới mà hai chúng cận sự nam luật nghi và, cận sự nữ luật nghi tại gia thọ trì, cho nên được gọi theo giới tính của từng hệ mà gọi thì gọi là Ưu-bà-tắc giới, hay Ưu-bà-di giới. Năm giới gồm có: (1) Giới không sát sinh, (2) Giới không trộm cắp, (3) Giới Không tà dâm, (4) Giới không nói dối, (5) Giới không uống rượu.(Thích Đức Thắng)

Bát Quan Trai Giới: Đây là giới dành cho những vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nguyện thọ trì trong vòng một ngày một đêm học tập xuất gia. Những ai thọ trì giới này thì gọi là Ô-ba-bà-sa ((Phạn gọi là upavāsa, nghĩa là sống gần các vị xuất gia (cận trụ), hay một ngày một đêm sống theo pháp thiện (thiện túc).(Thích Đức Thắng)

Sa di chỉ giữ 10 giới:(沙彌戒) Cũng gọi Cần sách luật nghi. Chỉ cho 10 giới của vị Sa di thụ trì: 1. Không giết hại. 2. Không trộm cắp. 3. Không dâm dục. 4. Không nói dối. 5. Không uống rượu. 6. Không ngồi giường cao. 7. Không đeo tràng hoa, bôi nước hoa lên mình. 8. Không xem nghe múa hát. 9. Không cất giữ vàng bạc, vật quí báu. 10. Không ăn phi thời (không ăn quá ngọ). (xt. Giới, Sa Di).Từ điển Phật Quang

Tỳ kheo giữ 250 giới: Xem TỲ-KHEO GIỚI BỔN Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)

Tỳ kheo ni đến 348 giới: Xem Tạng Luật:Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên

Nguồn:
1. Phật học Phổ Thông
2. Khái lược về giới luật Phật giáo Thiên Viện Thường Chiếu.
3. GIỚI - ĐỊNH - TUỆ TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHẬT GIÁOThích Nguyên Hùng
4.GIỚI-ĐỊNH-TUỆ Thích Đức Thắng.
5.Tự điển Phật Quang
6.TỲ-KHEO GIỚI BỔN Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
7.Tạng Luật: Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên
8.Sự tích Giới Luật Tác giả : Thích Nữ Trí Hải


Hình đại diện của người dùng
Thien Nhan
Bài viết: 2574
Ngày: 27/03/10 05:07
Giới tính: Nam

Re: Thư giãn học Phật 2

Bài viết chưa xem gửi bởi Thien Nhan »

Phật học phổ thông.I.10: Bát Quan Trai Giới

63. Chánh Ðề: Bát Quan Trai Giới

I. Ðịnh Nghĩa

Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời).

Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi chưa qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:

1. Không được sát sanh

2. Không được trộm cướp

3. Không được dâm dục

4. Không được nói dối

5. Không được uống rượu

6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.

7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ.

8. Không được ăn quá giờ ngọ

II. Giải Rõ Tám Ðiều Ngăn Cấm Nói Trên

63.1. Không được sát sanh.

Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để chốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau.

Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.

Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy.

Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta cũng không nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ý ấy.

Ðược như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.

Nguồn:
1. Phật học Phổ Thông
2. Khái lược về giới luật Phật giáo Thiên Viện Thường Chiếu.
3. GIỚI - ĐỊNH - TUỆ TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC PHẬT GIÁOThích Nguyên Hùng
4.GIỚI-ĐỊNH-TUỆ Thích Đức Thắng.
5.Tự điển Phật Quang
6.TỲ-KHEO GIỚI BỔN Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
7.Tạng Luật: Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên
8.Sự tích Giới Luật Tác giả : Thích Nữ Trí Hải.
9.Vì Sao Chúng Ta Nên Phóng Sanh? http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... hong-sanh/
10.CÁC CẤP ĐỘ GIỚI PHÁP Thích Phước Sơn


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách