Voi Ba Vi Gia khi còn trẻ là một con voi chiến rất mạnh mẽ, nay đã già yếu. Một hôm, voi Ba Vi Gia ra bờ ao định xuống uống nước, rủi thay, chân bị sa lầy, chẳng rút ra khỏi bùn được. Vua Ba Tư Nặc xứ Câu Tát La hay tin, liền sai một người quản tượng đến giúp. Người quản tượng đến nơi, nhận ra voi chiến Ba Vi Gia, mới cho gọi đoàn quân nhạc tới. Rồi tiếng trống, tiếng kèn, tiếng chiêng khua vang lên thành một nhạc bản quân hành hùng dũng. Voi Ba Vi Gia cảm thấy như đang lâm trận, tinh thần hăng lên, nhẹ nhàng rút chơn ra khỏi vũng bùn, giữa tiếng hoan hô vang dậy.
Khi các tỳ kheo thuật lại sự việc trên, đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ kheo, cũng như con voi rút chơn ra khỏi vũng bùn, các ông nên sớm thoát ra khỏi vũng sình kết sử".
Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó nhiều vị tỳ kheo nỗ lực tu tập, chứng được quả vị A la hán:
- Trong chánh niệm, hãy tìm thích thú,
Tâm ý nên hết lòng phòng thủ.
Như voi sa lầy cố rút chơn ra,
Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết sử.
(Kệ số 327)
A. NGHĨA CHỮ:
- Sa lầy: Bị lún bùn, kẹt chơn dưới bùn chẳng rút ra được.
- Vua Ba Tư Nặc, xứ Câu Tát La: Tên vị vua nầy, tiếng Pali là Pasenadi, cai trị xứ Kosala, ở miền Bắc Ấn Độ xưa.
- Quân nhạc: Ban nhạc nhà binh.
- Chiêng: Một loại nhạc khí bằng đồng, hình giống cái mâm lớn
- Bản quân hành: Bản nhạc hành quân, tấu lên trong khi quân lính đi ra trận, để làm tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên.
- Lâm trận: Sắp giao chiến, sắp đánh giặc.
- Chánh niệm: Ý nghĩ chơn chánh. Người giữ chánh niệm là người đang làm, nói, nghĩ gì, thì trong tâm chú ý, biết đến việc đang làm, nói, nghĩ đó và chỉ việc ấy mà thôi, chẳng lo ra đến chuyện khác.
- Kết sử: Kết = ràng buộc lại; Sử = sai sử, sai khiến. Kết sử còn được gọi là thúc thằng (thúc = trói-buộc; thằng = sợi dây), tiếng Pali là Sanyojana, là những tình cảm, tư tưởng có tánh cách ràng buộc, gây ra phiền não, và thúc dục ta làm đìều quấy.
Theo giáo lý Bắc tông, có mười kết sử, phân ra:
- (1) Ngũ độn sử, năm mối kết sử thấp:
- a. Thân kiến (= chấp thân nầy làm Ta, Pali: Sakkāyaditthi);
b. Nghi (= nghi ngờ Chánh pháp, Pali: Vicikiccha);
c. Giới cấm thủ (= tin vào các nghi thức cúng tế tà đạo, Pali: Silabhataparāmāsa);
d. Tham (Kāmarāga);
e. Sân (= giận hờn, Pali: Patigha).
(2) Ngũ lợi sử, năm mối kết sử cao:
- a. Sắc ái (= mê luyến cõi sắc giới; Pali: Rūparāga);
b. Vô sắc ái (= mê luyến cõi vô sắc giới; Pali: Arùparāga);
c. Mạn (= kiêu căng, Phạn: mano);
d. Trạo (= giao động, bối rối; Pali: Uddaccha);
e. Vô minh (= si mê; Pali: Avijja).
- a. Thân kiến (= chấp thân nầy làm Ta, Pali: Sakkāyaditthi);
- Ba thúc thằng đầu tiên, diệt xong, chứng quả vị thứ nhứt là Tu đà hườn (Pali: Sotāpatti);
- Hai thúc thằng kế tiếp, diệt xong, chứng quả vị thứ hai là Tư đà hàm (Pali: Sakādagāmi);
- Cả năm thúc thằng đầu tiên (= ngũ độn sử), diệt xong, chứng quả vị thứ ba là A na hàm (Pali: Anāgāmi);
- Cả năm thúc thằng chót (= năm lợi sử), diệt nốt, chứng quả thứ tư, cao nhứt là A la hán (Pali: Arahant).
Nhớ đủ cả mười kết sử thì khó, chỉ cần nhớ ba mối chánh, gọi là tam độc (= ba món thuốc độc): tham, sân, si.
Tích chuyện kể lại việc con voi Ba Vi Gia bị sa lầy, nhờ nghe tiếng quân nhạc, hăng hái tinh thần lên mà rút chơn ra khỏi vũng bùn. Nhơn chuyện nầy, đức Phật dạy các tỳ kheo cũng nên rút chơn mình ra khỏi vũng sình kết sử.
"Rút chơn ra khỏi vũng sình kết sử", có nghĩa là, đã diệt xong năm độn sử và năm lợi sử, tức là tất cả mọi phiền não đã tận diệt, như thế là đang chứng đắc được quả vị A la hán, thoát khỏi vòng tái sanh lẩn quẩn của Luân hồi, hoàn toàn được giải thoát.
(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 327:
Ý nghĩa bài Kệ nhắc nhở đến công việc tu tập của vị tỳ kheo, diệt hết mười kết sử để chứng quả vị A la hán, thoát được vòng sanh tử lận đận của Luân hồi.
Xin phân tách từng câu bài Kệ:
- a. Trong chánh niệm, hãy tìm thích thú: Lời khuyên nầy khó thực hiện được, nếu chẳng nỗ lực bền bỉ. Tại sao? Vì giữ chánh niệm thì phải luôn luôn chú ý đến bên trong tâm, mau mệt trí, dễ chán. Nhưng người hay xao lãng, lơ là, sống cũng như cái máy; chánh niệm khiến ta sống trọn vẹn với ta.
b. Tâm ý nên hết lòng phòng thủ: Phòng thủ chống lại việc gì? Chống lại ác ý, vì ác ý xúi ta phải sa vào tội lỗi, tạo nghiệp dữ. Chống lại vọng tưởng, các ý vẩn vơ, dắt tâm đi lang thang, chạy theo ngoại cảnh, đuổi theo các thú vui thấp kém. Vậy phòng thủ tâm ý ở đây có nghĩa là thanh lọc tâm ý để sớm đạt được tâm thanh tịnh.
c. Như voi sa lầy cố rút chơn ra: Voi phải tự mình nỗ lực rút lấy chơn ra; đây là ý Phật dạy ta phải tự mình nỗ lực, chớ chẳng phải chờ người khác đến ... cứu độ mình, cỏng giùm mình sang bờ giác.
d. Hãy tự kéo khỏi vũng sình kết sử: Trong số mười món kết sử, quan trọng là ba món độc tham, sân, si vì chúng chi phối các món kia. Có hai món dễ trừ là:
- (a) Nghi, hễ tin vào Chánh pháp thì hết nghi;
(b) Giới cấm thủ, bỏ được mê tín dị đoan, đừng xin xâm, chẳng cúng ông Địa nữa, đâu có khó!
- (a) Nghi, hễ tin vào Chánh pháp thì hết nghi;