Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

249. TÍCH CHUYỆN TRỜI ĐẾ THÍCH THƯA HỎI PHẬT
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến việc vua Trời Đế Thích thưa hỏi đức Phật bốn câu về Chánh pháp.

Thuở ấy, trên cung Trời Đao Lợi, chư Thiên đang học tập về Chánh pháp, còn chưa tìm lời giải đáp thoả đáng về bốn câu hỏi quan trọng. Vua Trời Đế Thích chẳng tìm ra giải pháp, mới cùng với chư Thiên đến chùa Kỳ Viên, yết kiến đức Phật. Vua Trời trình Phật bốn câu hỏi như sau:
  • (1) Trong các vật hiến tặng, vật nào quí nhứt?

    (2) Trong các hương vị, mùi vị nào ngon nhứt?

    (3) Trong các sự vui mừng, điều nào đáng hoan hỉ nhứt?

    (4) Tại sao sự diệt tận mọi tham ái là công đức tối thượng?
Đức Phật đáp: "Nầy chư Thiên, Chánh pháp là tặng phẩm quí báu nhứt, Pháp vị là hương vị đậm đà nhứt, Pháp hỉ là niềm hoan hỉ cao cả nhứt, Ái tận là công đức thù thắng nhứt, vì đưa đến quả vị Thánh A la hán".

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
  • Pháp thí quí hơn mọi bố thí,
    Pháp vị thắng hơn mọi hương vị,
    Pháp hỉ vui hơn mọi hoan hỉ,
    Ái tận vượt khỏi mọi đau khổ.
    (Kệ số 354)
Chư Thiên vui mừng, tán thán. Vua Trời Đế Thích liền bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, bố thí Chánh pháp là quí báu nhứt, sao chúng sanh còn chưa được thọ hưởng hết? Con kính xin Thế Tôn hứa khả cho mọi loài chúng sanh đồng hưởng lợi lạc cao quí nầy". Đức Phật liền cho tập hợp tất cả tỳ kheo lại, cùng hồi hướng công đức đến tất cả pháp giới chúng sanh.

Và kể từ đó, nghi thức Hồi hướng được thực hành sau mỗi khoá lễ chánh thức trong chùa.
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Vua Trời Đế thích: Vị vua trên cõi Trời Đao lợi, tiếng Pali: vua Sakka, ở cõi trời Tāvatimsa

- Chánh pháp: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; Pháp = pháp tu. Chánh pháp là lời dạy của đức Phật, để tu hành được giác ngộ và giải thoát. Tiếng Pali là Dhamma.

- Giải đáp thỏa đáng: Trả lời rõ ràng cho vừa ý mọi người.

- Chư Thiên: Chư = số đông; Thiên = Trời; tiếng Pali là Deva.

- Hoan hỉ: Vui mừng.

- Diệt tận tham ái: Diệt = làm cho tiêu mất; Tận = tận cùng, mất hết cả;Tham = ham muốn quá chừng; ái = thương, thích. Lòng tham ái quá ham muốn tìm các thú vui nhưng chẳng thỏa mãn, khiến ta phải chịu khổ mãi trong cuộc sanh tử lận đận của Luân hồi; muốn chấm dứt khổ đau, cần phải diệt tận tham ái.

- Công đức tối thượng: Công đức = việc làm tốt giúp vào việc tu hành đưa đến giác ngộ và giải thoát; Tối thượng = rất cao cả.

- Tặng phẩm: Phẩm vật đem ra hiến tặng.

- Pháp vị: Pháp = Chánh pháp; pháp tu; Vị = hương vị; nghĩa bóng là ý nghĩa sâu xa, thâm trầm. Pháp vị là ý nghĩa sâu xa của pháp tu khiến ta biết con đường giải thoát mà vui lòng tu theo.

- Pháp hỉ: Pháp = Chánh pháp; pháp tu; Hỉ = vui mừng và sung sướng. Pháp hỉ là lòng vui nhẹ nhàng, cảm thấy thật sung sướng khi nghe và hiểu biết được ý nghĩa sâu xa của lời dạy về pháp tu.

- Ái tận: Ái = tham ái, sự ham muốn quá mức về các thú vui; dịch nghĩa chữ Tanhā trong tiếng Pali là khát ái, ví sự ham muốn, tham ái, như sự khát khao được uống nước của người đã uống phải nước mặn, cứ khát hoài. Tận = dứt tiệt. Lòng ái tận là tâm trạng của bực tu hành đã diệt xong mọi sự ham muốn, đạt đến sự ly dục (ly = lìa xa; dục = ham muốn) của bực Thánh A la hán.

- Tán thán: Khen ngợi.

- Hứa khả: Nhận cho, cho phép.

- Hồi hướng: Hồi = trở về; Hướng = hướng về, nhắm vào. Hồi hướng công đức là nguyện đem công đức nầy chia xẻ với người mình đang hướng về.

- Thù thắng: Hơn tất cả, thắng được tất cả; tốt và mạnh nhứt.

- Nghi thức: Nghi = lễ nghi; Thức = cách thức. Nghi thức là những điều cần làm theo thứ tự và trang nghiêm trong các buổi lễ.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc vua Trời Đế thích cùng chư Thiên đến thưa hỏi Phật về bốn câu có liên quan đến Chánh pháp. Đức Phật giải đáp và đọc lên bài Kệ, chỉ rõ Chánh pháp là điều quí báu nhứt, vì nhờ đó mà ta biết đường lối tu hành để được giác ngộ và giải thoát.

Ý nghĩa của Tích chuyện là nghe Pháp, hiểu được ý nghĩa thâm sâu, sanh lòng vui mừng, ráng tu tập để diệt mọi tham ái, dứt mọi khổ đau. Đem chia xẻ sự hiểu Pháp với mọi người là bố thí Pháp, một công đức thật là quí báu.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 354:
  • a. Pháp thí quí hơn mọi bố thí: Pháp thí là đem Chánh pháp đến với mọi người:
    • (a) Giảng Kinh kệ,
      (b) Ấn tống kinh sách,
      (c) Mời người cùng tu.
    Bố thí có:
    • (a) Tài thí (tặng tiền của),
      (b) Pháp thí;
      (c) Vô uý thí (an ủi người cho bớt sợ hãi, lo lắng).
    Tại sao Pháp thí lại quí nhứt? Vì nhờ biết Chánh pháp tu hành được giải thoát vĩnh viễn mọi khổ đau, trong khi các bố thí khác chỉ tạm thời xoa dịu nổi khổ.

    b. Pháp vị thắng hơn mọi hương vị: Pháp vị là ý vị, là ý nghĩa sâu xa của Chánh pháp. Tại sao pháp vị hơn mọi hương vị? Vì hương vị pháp tu, giữ mãi được trong tâm, khiến ta nỗ lực tu hành để được giải thoát, trong khi các hương vị khác, qua khỏi cổ thì mất.

    c. Pháp hỉ vui hơn mọi hoan hỉ: Pháp hỉ là niềm vui nhẹ nhàng trong tâm sau khi thấm nhuần Chánh pháp. Niềm vui nầy kéo dài cả cuộc sống, vì nhờ tu theo Chánh pháp, được thoát khổ Luân hồi, trong khi các sự vui khác hễ chấm dứt thì lại sanh khổ đau tiếp.

    d. Ái tận vượt khỏi mọi khổ đau: Ái tận là diệt cho sạch bụng ham muốn. Tham ái là nguồn gốc sanh ra đau-khổ trong cảnh sanh tử của Luân hồi. Tận diệt tham ái là cốt tuỷ của Chánh pháp, là pháp vị; đó là con đường tu tâm, tự giải thoát ngay trong đời nầy mọi khổ đau của cuộc sống, và chấm dứt vĩnh viễn được nguyên nhơn đã gây ra sự tái sanh, khỏi phải trôi lăn mãi trong các nẻo Luân hồi lận đận.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

250. TÍCH CHUYỆN MỘT NGƯỜI TUYỆT TỰ
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong kỳ giảng pháp, có đề cập đến một người nhà giàu mà tuyệt tự.

Thuở ấy, một hôm vua Ba Tư Nặc, xứ Câu Tát La, đến đảnh lễ Đức Phật và thưa: "Bạch Thế Tôn, hôm nay con đến trễ để nghe pháp, vì bận phải đi trông coi việc tịch thu vào công khố tài sản của một người rất giàu có, chết đi chẳng có con cháu, hay bà con để thừa hưởng gia tài. Người ấy rất rít róng, tuy giàu chẳng dám tiêu pha, mặc áo quần lam lũ, ăn uống khắc khổ lắm". Đức Phật đáp: "Nầy Đại vương, người tuyệt tự đó, trong tiền kiếp nhờ có làm một việc thiện nên đời nầy được giàu có lớn, nhưng cũng vì hành vi bất thiện khác mà phải chịu cảnh tuyệt tự". Nhà Vua muốn nghe chuyện xưa, đức Phật kể tiếp:

Vào một kiếp xa xưa, có một người nhà giàu, tánh rất bỏn xẻn, chẳng hề bố thí cho ai. Một hôm sắp đi ra phố, có một vị Bích chi Phật đến khất thực tại nhà. Người ấy bảo vợ đem thực phẩm ra dưng, rồi ra đi. Người vợ thấy chồng, ngày thường rất hà tiện, nay lại phát tâm cúng dường như thế, mới đem các món ăn quí trong nhà ra dưng cúng. Sau khi đi chợ về, người nhà giàu gặp lại vị Bích chi Phật, lén nhìn vào bình bát, thấy thực phẩm quí giá, mới tiếc rẻ, trong bụng nghĩ, vợ mình dại quá, chẳng để món ấy cho bọn gia nhơn ăn, chúng sẽ thích mà làm việc giỏi hơn cho mình, sao lại đem cho vị tỳ kheo nầy, ông ấy ăn no sẽ buồn ngủ mất". Vì bố thí mà còn bỏn xẻn tiếc của, cho nên đời nầy, người ấy có tiền mà chẳng dám ăn xài, cam chịu đói khát. Lại nữa, người ấy lén thuê du côn giết chết con trai của em mình, để giành hưởng gia tài của em để lại. Vì tội ác nầy, nên đời nầy người ấy bị tuyệt tự, gia tài bị tịch thu vào công khố theo luật.

Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
  • Tiền tài làm hỏng người ngu,
    Hại chi được đến người tu Niết bàn,
    Kẻ cuồng dại hám giàu sang,
    Hại mình mà cũng hại lan đến người.
    (Kệ số 355)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Tuyệt tự: Chẳng có con cái hay thân nhơn để nối dòng.

- Vua Ba Tư Nặc, xứ Câu Tát La: Tiếng Pali: Pasenadi, Kosala.

- Tịch thu vào công khố: Lấy hết bỏ vào kho nhà nước.

- Bích chi Phật: Bực tu hành giác ngộ và giải thoát vào thời chẳng có Chánh pháp của đức Phật. Tiếng Pali Paccekabuddha.

- Bỏn xẻn: Rít róng, keo kiệt, kẹo, hà tiện quá mức.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một người giàu có mà rít róng, chẳng dám ăn mặc, chết đi chẳng có con cái, nên gia tài bị tịch thâu vào công khố, theo luật đînh. Đức Phật kể thêm, tiền kiếp của người ấy, làm được việc thiện là cúng dường vị Bích chi Phật, nhưng lại tiếc của; và một tội ác, giết cháu, để giành gia tài của em.

Ý nghĩa của Tích chuyện là tiền bạc chẳng đem lại hạnh phước cho người ngu, và dạy ta phải bỏ bụng rít róng mà bố thí rộng rãi.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 355:

Ý nghĩa bài Kệ rất rõ ràng, dạy ta phải biết làm chủ đồng tiền, chớ trở thành nô lệ cho tiền bạc.
  • a. Tiền ài làm hỏng người ngu: Tại sao lại bảo là ngu? Vì kẻ có tiền đó bị làm nô lệ cho đồng tiền. Làm hỏng bằng cách nào? Vì muốn có thêm nhiều tiền, nên chẳng dám tiêu xài, quá rít róng mà khổ thân. Lại nếu có nhiều tiền mà tiêu xài phung phí, chẳng mấy chốc sẽ trở lại nghèo túng.

    b. Hại chi được đến người tu Niết bàn: người tu Niết bàn biết lìa xa mọi ham muốn = ly dục), chẳng còn ham làm giàu, nên chẳng quá trọng tiền bạc nữa, biết vừa đủ (= tri túc).

    c. Kẻ cuồng dại hám giàu sang, Hại mình mà cũng hại lan đến người: Hại mình phải chịu khổ sở làm nô lệ cho đồng tiền. Hại lan đến người, chẳng nói chi xa, ngay trong hàng con cái ở gần, ỷ tiền của, ỷ quyền thế, mà sanh ra nhiều tội lỗi như hoang phí, kiêu căng.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

251. TÍCH CHUYỆN VỊ THIỆN NAM AN KHƯ RA
Vào một thời kia, đức Phật lên cung Trời Đao Lợi thuyết pháp, có đề cập đến vị Thiên nam tên là An Khư Ra.

Thuở ấy, đức Phật lên cung Trời Đao Lợi thuyết giảng Vi Diệu Pháp (A Tỳ Đạt Ma) cho mẹ là Hoàng hậu Ma Gia, nay là thiên nữ San Tư Sĩ nghe. Chư Thiên đến tham dự, nghe Phật giảng, trong số có vị Thiên nam tên là Yên Đà Kha, người đã cúng dường cho Trưởng lão A Na Luật. Nhờ công đức nầy được thực hiện vào thời Chánh pháp của đức Phật, nên vị thiên nam nầy được sanh lên cõi Trời Đao Lợi, hưởng được mọi sự sung sướng quí báu. Đồng thời, có vị Thiên nam, tên An Khư Ra cũng giàu lòng bố thí, được sanh lên cõi Trời, nhưng hưởng sự khoái lạc chẳng sang trọng bằng vị thiên nam Yên Đà Kha. Thiên nam An Khư Ra thắc mắc chỗ khác biệt đó, mới đến thưa cùng đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy thiên nam, khi bố thí, ông phải nên chọn đúng người thọ thí, vì tặng vật cũng tựa như các hạt giống, hễ gieo vào đất tốt mầu mỡ thì trỗ sanh hoa quả tươi ngọt, còn nếu gieo vào nơi cằn cỗi, sẽ thâu hoạch được ít oi".

Rồi đức Phật mới nói lên bốn bài Kệ sau đây:
  • Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
    Tham lam làm hại mọi đường chúng sanh.
    Người vô tham, ta thành tâm bố thí,
    Phước lành, do đó, quí báu hơn.
    (Kệ số 356)

    Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
    Hận sân làm hại mọi đường chúng sanh.
    Người vô sân, ta thành tâm bố thí,
    Phước lành, do đó, quí báu hơn.
    (Kệ số 357)

    Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
    Si mê làm hại mọi đường chúng sanh.
    Người vô si, ta thành tâm bố thí,
    Phước lành, do đó, quí báu hơn.
    (Kệ số 358)

    Cỏ hoang làm hại ruộng nương,
    Dục tham làm hại mọi đường chúng sanh.
    Người ly dục, ta thành tâm bố thí,
    Phước lành, do đó, quí báu hơn.
    (Kệ số 359)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Thiên nam, Thiên nữ: Thiên = trời; Nam = đàn ông; Nữ = đàn bà.

- An Khư Ra: Tên vị thiên nam nầy tiếng Pali là Ankura.

- Yên Đà Kha: Tên vị thiên nam nầy, tiếng Pali là Indaka.

- Trời Đao Lợi = Cõi Trời trong Dục giới, tiếng Pali là Tāvatimsa.

- Hoàng hậu Ma Gia, thiên nữ San Tư Sĩ: Mẹ của thái tử Tất Đạt Ta, sau khi sanh Thái tử được bảy ngày thì mất, tái sanh lên cõi Trời Đâu Suất (Tusita). Pali: Hoàng hậu Mahā Māyā, thiên nữ Santusita.

- A Na Luật = Đại đệ tử của Phật, tên tiếng Pali là Anuruddha.

- Thọ thí: Còn gọi là thọ giả, người nhận của bố thí.

- Vô tham: Vô = chẳng; Tham = ham muốn quá. Người vô tham đã diệt hẳn bụng tham. - Vô sân: người vô sân chẳng hề giận hờn; còn người vô si là bực có trí huệ thông minh, hết si mê, ngu tối.
NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị thiên nam cõi trời Đao Lợi hỏi Phật tại sao cùng có công đức bố thí mà nay người được hưởng phước báu nhiều, người ít hơn. Đức Phật đáp, bố thí cũng như gieo hạt giống, nếu gặp đất mầu mỡ sẽ trỗ trái ngọt; nếu gặp người thọ thí có đức hạnh mà bố thí, sẽ được phước báu nhiều.

Tích chuyện tuy giản dị nhưng ý nghĩa lại tế nhị: trong việc bố thí, phải biết chọn người để trao tặng hiến vật, gặp được bực giới đức vẹn toàn, mà thành tâm cúng dường thì phước báu sẽ to lớn, còn nhẹ dạ nghe theo lời bọn buôn thần bán thánh mà đem tiền của ra để bố thí cầu danh thì chẳng những phước báu sẽ ít ỏi mà lại còn nuôi dưỡng các tổ chức mạo danh nghĩa cứu trợ lén lút làm ăn bất chánh.

Ý nghĩa sâu xa của công đức bố thí là, về phía người thí giả, bỏ được bụng xẻn tham của mình, chia xẻ những gì mình có cùng với kẻ khác; về phía người thọ giả, được cứu giúp trong cơn thiếu thốn mà khởi lên lòng tự cứu lấy mình. Bố thí chơn thành đúng theo ý nghĩa trên đây, chẳng mong cầu báo đáp, chẳng chút vướng bận háo danh.

Muốn đạt đến phước báu to lớn nhứt trong công đức bố thí, phải đạt đến mức Bố thí Ba la mật, nghĩa là bố thí cách nào mà thí giả vượt đến bờ bên kia (Ba la mật, Parami, có nghĩa là xong xuôi, hoàn mãn rồi; tức là đến được bờ giác ngộ và giải thoát). Giáo lý Bắc tông dạy rằng, người thi hành bố thí Ba la mật, trong tâm chẳng hề khởi lên ba việc, Tam Không:
  • a. Không thấy mình là người bố thí, ban ơn cho kẻ khác; (= Ngã không);
    b. Không thấy người kia là kẻ chịu ơn, phải lo báo đáp lại, (= Nhơn không);
    c. Không thấy vật đem ra hiến tặng, để tiếc rẻ, không thấy việc làm của mình là việc thiện đáng khen ngợi chi,(= Pháp không). Tam Không nầy là Tam giải thoát môn, ba cánh cửa mở rộng cho ta đến nơi giải thoát.

    (2) Ý nghĩa của bốn bài Kệ 356, 357, 358, 359:

    Bốn bài Kệ cùng một lối hành văn, giống nhau ở ý nghĩa khen tặng sự bố thí, mà chỉ khác nhau ở mỗi bài một đức tánh quí, hễ tập được sẽ đưa ta đến bờ giác ngộ và giải thoát. Xin kể bốn đức tánh quí
    • a. Vô tham để đối trị bụng Tham lam: Tham đứng đầu trong tam độc, khiến ta trôi lăn mãi trong cảnh sanh tử khổ-đau của Luân hồi. Bài Kệ ví tham như cỏ hoang làm hại ruộng nương, đây là làm hại đất tâm của người tu hành. Trị tham chẳng gì hơn là việc bố thí. Dứt được tham là được giải thoát, đó là phước lành quí báu nhứt.

      b. Vô sân để đối trị lòng hờn giận, oán thù, gây oan trái kéo dài nghiệp báo phải chịu mãi cảnh Luân hồi. Cũng như tham, sân hận là cỏ hoang làm hại đất tâm của ta.

      c. Vô si để đối trị sự si mê, che mờ tâm trí ta, chẳng biết rõ đường tu hành để giác ngộ và giải thoát. Si mê cũng là cỏ hoang.

      d. Ly dục để đối trị bụng ham muốn, tức là tham dục, chạy theo thú vui vật chất thấp hèn và tạm bợ. Ta hãy nhổ cỏ tham dục đi.
Khi bố thí, ta khó có dịp để lựa kẻ thọ giả đủ các đức tánh đó, nhưng bài Kệ cũng ngầm khuyên ta, hãy cố tập cho mình các tánh ấy.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

XXV. PHẨM TỲ KHEO

252. TÍCH CHUYỆN NĂM VỊ TỲ KHEO CÃI VỀ NĂM CĂN
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến việc cãi nhau của năm vị tỳ kheo về sự điều phục năm căn.

Thuở ấy, có năm vị tỳ kheo ở nước Xá Vệ, mỗi người tu tập cách chế phục một trong năm căn; người lo điều phục mắt, người tiết chế tai, kẻ tự chế về mũi, kẻ lo kềm giữ lưỡi, người khắc phục thân. Người nào cũng nói việc chế phục một giác quan riêng biệt của mình là khó nhứt, chẳng ai đồng ý với ai. Họ liền đến thỉnh ý của đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy chư tỳ kheo, điều phục căn nào cũng khó như nhau; nhưng người tu hành phải đồng thời kềm giữ cả năm căn, có khắc phục được cả năm thì mới thoát khỏi vòng tử sanh Luân hồi lận đận".

Rồi đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
  • Mắt đây, chế phục, lành thay!
    Lành thay biết chế ngự hai tai nầy!
    Khéo điều phục mũi, lành thay!
    Lành thay, nhiếp phục lưỡi nầy cho yên!
    (Kệ số 360)

    Lành thay, chế phục thân hành!
    Tiết chế khẩu nghiệp đã rành, lành thay!
    Lành thay, ý nghiệp tịnh ngay!
    Chế phục tất cả đủ đầy, lành thay!
    Mọi điều tự chế khéo, hay,
    Tỳ kheo giải thoát được ngay khổ sầu.
    (Kệ số 361)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Tỳ kheo: Tu sĩ Phật giáo; tiếng Pali là Bhikkhu, thường đọc là tỳ khưu, hoặc Bí sô, dịch nghĩa là Khất sĩ (Khất = đi ăn xin; sĩ = người). Theo giới luật, Tỳ kheo chẳng được có nghề riêng sanh sống, phải đi xin ăn, để dẹp lòng tự ái xuống, lại có dịp gần dân, dạy đạo cho họ.

- Năm căn: Năm giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi và da trên thân.

- Điều phục, Khắc phục, chế phục, nhiếp phục, tiết chế, chế ngự, tự chế = những chữ nầy có nghĩa là kềm giữ, giữ gìn chẳng cho chạy buông lung theo cảnh vật bên ngoài, nhờ đó tâm bên trong mới an định.

- Thỉnh ý: Thỉnh = mời; Thỉnh ý là nhờ người trên cho ý kiến.

- Thân hành: Thân = thân thể; Hành = hành động.

- Khẩu nghiệp, Ý nghiệp = Khẩu = miệng; Ý = ý tưởng; Nghiệp = hành động. Nghiệp có ba thứ: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nghiệp là hành động, lời nói, tư tưởng hoặc đã qua, hoặc đang làm, gây ra hậu quả khiến ta phải mang lấy vận mạng tốt xấu ở cõi đời. Chính nghiệp dẫn dắt ta phải tái sanh và trôi lăn mãi trong Luân hồi.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn sơ, năm vị tỳ kheo cãi nhau về cách điều phục các giác quan. Đức Phật dạy, khi điều phục các căn, căn nào cũng khó giữ, nhưng phải đồng thời điều phục đủ cả năm mới thoát khỏi được khổ trong vòng sanh tử lẩn quẩn của cõi Luân hồi lận đận.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 360 và 361:

Nhờ các giác quan mà ta giao tiếp được với cảnh vật bên ngoài. Nhưng nếu để cảnh vật lôi cuốn, tâm chẳng an định; muốn định tâm, trước phải biết kềm giữ các căn, cũng như nhà (= thân tâm) có sáu cửa, phải canh đủ sáu cửa, mới giữ được trộm giặc len vào. Đó là ý nghĩa sâu xa của bài Kệ số 360.

Bài Kệ số 361 có sáu câu, chia ra hai phần: ba câu đầu nói về ba nghiệp: thân, miệng, ý; ba câu sau khen vị tỳ kheo đã khéo tự chế đầy đủ ba nghiệp, được giải thoát cái khổ của Luân hồi (hết tái sanh).
HỌC TẬP:
(1) Chế phục mắt: đừng tưởng lầm là phải nhắm mắt lại, trái lại phải biết chỉ nhìn vào chỗ đáng nhìn, và khi thấy vật, chỉ biết đang có vật mà chẳng sanh lòng quá thích đeo theo, hay quá ghét muốn bỏ.

(2) Điều phục các căn là để giữ tâm an định khi tiếp xúc bên ngoài, khác hẳn với thái độ tự đóng kín như kẻ vừa mù, câm và điếc.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

253. TÍCH CHUYỆN VỊ TỲ KHEO GIẾT CON THIÊN NGA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến một vị tỳ kheo khoe tài quăng đá, đã giết chết một con thiên nga.

Thuở ấy, có một vị tỳ kheo có tài ném đá, trăm phát trúng cả trăm. Một hôm, cùng với bạn đồng tu đang tắm gội bên bờ sông A Xi Ra, bỗng trông thấy hai con ngỗng trời nhởn nhơ bơi lội bên dòng nước. Vị tỳ kheo ấy khoe tài với bạn, bảo có thể ném trúng một con. Hai con ngỗng nghe tiếng người nói, quay lại nhìn và cất cánh bay lên. Vị tỳ kheo lấy hòn đá cuội, ném mạnh, trúng vào con mắt bên trái, viên đá xuyên qua đầu con ngỗng và lọt ra khỏi mắt bên mặt. Con vật kêu đau thương, rơi xuống chết.

Các vị tỳ kheo khác về thưa trình cùng đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ kheo ném đá đến quở trách và chỉ dạy rằng: "Nầy tỳ kheo, tại sao lại giết chết con vật vô tội? Một người đã gia nhập Tăng đoàn phải luôn luôn tỏ lòng Từ bi đến muôn loài chúng sanh, phải biết làm chủ chơn tay mình, và cả cái lưỡi hay khoe khoang kia!"

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
  • Người chế phục tay chơn, lời nói,
    Tận đỉnh đầu trên cao vòi vọi,
    Lòng thỏa thích trong cơn thiền định,
    Biết đủ, sống độc cư, trầm tĩnh,
    Người ấy xứng danh là tỳ kheo.
    (Kệ số 362)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Thiên nga = Ngỗng trời, lông trắng như tuyết.

- A Xi Ra: Tên sông nầy, tiếng Pali là Aciravatī.

- Tăng đoàn: Tăng = chữ Pali là Sangha; cứ bốn người trở lên tu chung với nhau thành một Tăng đoàn.

- Từ Bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ. Lòng Từ bi thương cả mọi loài.

- Chế phục: Kềm giữ và làm chủ được.

- Thiền định: Tu thiền, giữ tâm an tịnh, chẳng xao lãng.

- Biết đủ: chữ Hán Việt là tri túc, biết vừa đủ, chẳng ham đòi quá

- Sống độc cư: Độc = ở một mình; Cư = ở. Người sống độc cư tránh nơi ồn ào, biết sống một mình, tĩnh tu nên tâm sớm an định.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ kheo muốn khoe tài ném đá, trong khi đang tắm với bạn, thấy hai con ngỗng, ném chết một con. Đức Phật nghe được việc ấy, quở trách và dạy, tỳ kheo phải làm chủ chơn tay mình, chớ khoe khoang.

Ý nghĩa của Tích chuyện: vì khoe tài mà phạm tội sát sanh, chẳng xứng đáng là người tu hành có lòng từ bi.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 362:

Bài Kệ số 362 dạy người tu hành phải luôn luôn giữ gìn thân tâm cho đứng đắn trong bốn tư thế, gọi là tứ oai nghi: nằm, ngồi, đi đứng. Nằm ngay ngắn chẳng ưỡn ẹo, ngồi thẳng thớm chẳng kề dựa, đi chửng chạc chẳng hấp tấp, đứng nghiêm chỉnh chẳng ngả ngớn. Muốn xứng danh là một vị tỳ kheo, còn cần phải có đủ các đức tánh: biết vừa đủ, sống độc cư và tâm trầm tĩnh luôn tỉnh giác.

Xin phân tách từng câu bài Kệ:
  • a. Người chế phục tay chơn, lời nói, Tận đỉnh đầu trên cao vòi vọi: sự kềm thúc ba nghiệp: thân, miệng, ý được thi hành thật kỹ lưỡng: tay chơn chẳng buông lung, lời nói phải hòa nhã, ý tưởng trong đầu phải thanh tịnh, cao cả.

    b. Lòng thỏa hích trong cơn thiền định: nơi mọi tư thế của thân thể, bên trong hằng tỉnh giác, theo dõi mọi cử động, mọi lời nói, mọi ý nghĩ, nên tâm mới thỏa thích an trú trong chánh niệm.

    c. Biết đủ, sống độc cư, trầm tĩnh: ba đức tánh quan trọng của người tu hành: biết vừa đủ là dẹp được lòng ham muốn, sống độc cư tránh chỗ ồn ào, hằng "làm bạn" với tâm của mình, là giữ tâm thanh tịnh; trầm tĩnh, chẳng vọng động, là luôn được an nhiên, tự tại. Ba đức tánh đó đưa ta sớm đến ngưỡng cửa của Niết Bàn, yên vui và giải thoát.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

254. TÍCH CHUYỆN TỲ KHEO CƠ KHẢ LỴ
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến vị tỳ kheo Cơ-khả-ly.

Thuở ấy, có vị tỳ kheo tên Cơ Khả Ly, vì bất mãn nói nhiều lời hỗn láo với hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Vì hành vi bất thiện nầy, tỳ kheo Cơ Khả Ly bị đất nứt hút sa xuống địa ngục. Khi nghe kể lại thân phận của Cơ Khả Ly, các vị tỳ kheo nhận xét rằng, vì chẳng biết kềm giữ lưỡi của mình mà Cơ Khả Ly phải sa địa ngục. Đức Phật dạy: "Nầy chư tỳ kheo, tỳ kheo phải kềm chế cái lưỡi của mình, hạnh kiểm phải đoan nghiêm, tâm tư phải bình thản, an định, chẳng để tâm buông lung, chạy lang thang đây đó".

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
  • Tỳ kheo đã chế phục miệng lưỡi,
    Khiêm nhường, khéo nói, chẳng thừa lời,
    Giải thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời,
    Ngọt ngào thay, lời nói Tỳ kheo!
    (Kệ số 363)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Cơ Khả Ly: Tên vị tỳ kheo nầy, tiếng Pali là Kolālika.

- Bất mãn: Chẳng vừa lòng, tức giận.

- Tôn giả: Tôn = tôn kính; Giả = người. Tôn giả là bực đáng kính.

- Xá Lợi Phất: Tên của Tôn giả, tiếng Pali là Sariputta.

- Mục Kiền Kiên: Tên của Tôn giả, tiếng Pali là Moggallāna.

- Điạ ngục: Địa = đất, Ngục = nhà giam tù. Theo sự tin tưởng trong Phật học, kẻ làm ác khi sống, chết đi phải chịu hình phạt khổ sở và lâu dài nơi cõi âm u tối.

- Đoan nghiêm: Đoan trang và nghiêm nghị, đàng hoàng.

- Chế phục: Kềm giữ, lấy quyền làm chủ lại, sửa cho đúng.

- Khiêm nhường: Biết nhún nhường, khiêm tốn, chẳng phách lối.

- Chẳng thừa lời: Lời nói vừa đủ, chẳng dư thừa, chẳng dài dòng.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất giản dị, thuật lại việc vì bất mãn, một vị tỳ kheo có lời hỗn láo với hai vị đại đệ tử của Đức Phật, mà bị sa địa ngục. Nhơn đó, đức Phật dạy các tỳ kheo phải giữ gìn lời nói, tâm phải hằng tỉnh giác.

Ý nghĩa của Tích chuyện: nói lời thô ác là vi phạm vào giới luật thứ tư của người tu tại gia.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 363:

Bài Kệ dạy ta phải giữ gìn miệng lưỡi, chớ nói lời thô ác. Muốn giữ gìn lời nói, trước phải giữ tâm cho thanh tịnh, chẳng để tâm buông lung, chạy đi lang thang, thiếu kềm chế mới lỡ lời nói quấy.
  • a. Tỳ kheo đã chế phục miệng lưỡi, Khiêm nhường, khéo nói, chẳng thừa lời: khi biết giữ gìn miệng lưỡi, trước khi nói suy nghĩ chín chắn thì lời nói sẽ dịu dàng, khéo léo; chẳng nói dông dài chán tai người nghe, lại biết nhún nhường chẳng tự khoe mình.

    b. Giải thích rõ nghĩa Pháp sáng ngời: lời nói chín chắn dùng giải nghĩa Chánh pháp, sẽ rõ ràng, thông suốt, giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thi hành theo.

    c. Ngọt ngào thay, lời nói Tỳ kheo!: lời nói được ngọt ngào nhờ đượm đầy pháp vị (= đầy ý nghĩa tu hành) nhẹ nhàng chỉ dạy rõ ràng đường lối tu hành giải thoát cho người nghe.
HỌC TẬP:

(1) Trong Kinh Thập Thiện, dạy mười điều lành, có bốn điều răn về lời nói:
  • a. Chẳng nói dối, nói đúng theo Sự thật, có sao nói vậy;
    b. Chẳng nói thêu dệt, chẳng thêm thắt, chẳng đặt điều "thêm mắm thêm muối";
    c. Chẳng nói đâm thọc, gặp người nầy nói vầy, gặp người kia nói khác, để gây bất hoà;
    d. Chẳng nói lời thô ác, lời vô nghĩa: lời thô ác khiến người tức giận; nói lời vô
    nghĩa là khi ngồi lê đôi mách, kháo nhau chuyện hàng xóm cho vui.
(2) Nói là bạc, nín là vàng: lời khuyên quí: biết kềm cái lưỡi lại, giữ im lặng để lắng nghe."Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói" vẫn còn thua "thủ khẩu như bình" (= miệng giữ im như miệng... cái bình!)
255. TÍCH CHUYỆN TRƯỞNG LÃO PHÁP HỈ
Tích chuyện nầy giống với các Tích chuyện trong Tập 3, số (136) trang 431, về Trưởng lão Ất Tha Đạt và số (163), trang 503, về Trưởng lão Thi Sa.

Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến Trưởng lão Pháp Hỉ.

Thuở ấy, khi nghe đức Phật Thích Ca tuyên bố, bốn tháng nữa Ngài sẽ nhập Đại Bát Niết Bàn, các vị tỳ kheo còn chưa chứng đắc được Đạo và Quả, rất lo lắng, hằng ngày cứ quanh quẩn gần bên đức Phật. Riêng Trưởng lão Pháp Hỉ, lui về am vắng, nỗ lực hành Thiền. Các vị tỳ kheo khác cho rằng Trưởng lão Pháp Hỉ chẳng có lòng thương mến Phật, mời trình lên đức Phật. Khi nghe Trưởng lão thưa bày sự cố gắng của mình để chứng được quả vị A la hán, trước khi đức Phật nhập diệt, đức Phật khen ngợi thái độ đó và khuyên các tỳ kheo khác noi gương Trưởng lão Pháp Hỉ, hơn là lẩn quẩn bên Phật.

Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó Trưởng lão chứng đắc được ngay quả vị A la hán:
  • Tỳ kheo nào trú trong Chánh pháp.
    Thỏa thích suy tư theo Chánh pháp,
    Tâm niệm hằng tưởng nhớ Chánh pháp,
    Ắt chẳng sa đọa lìa Chánh pháp.
    (Kệ số 364)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Trưởng lão Pháp Hỉ: Tên vị Trưởng lão, tiếng Pali là Dhammarāma.

- Nhập Đại Bát Niết Bàn: Vào cảnh giới tịch diệt. Đại Bát Niết Bàn, tiếng Pali là Parinibbāna. Chữ Nhập diệt có nghĩa là chết.

- Đạo, Quả: Đạo = đường lối tu hành, Pali là Magga; Quả = kết quả việc tu hành thành công, Pali là Phala.

- Am: Cốc, căn nhà nhỏ, vắng vẻ, để tu hành hay thờ phượng.

- A la hán: quả vị thứ tư, cao nhứt, tiếng Pali là Arahant. Bực A la hán diệt xong các phiền não, chứng được vô sanh (= chẳng còn bị tái sanh trong cõi Luân hồi nữa), vào cảnh giới Niết bàn.

- Trú trong Chánh pháp: Tâm an trú trong Chánh pháp, chẳng lúc nào quên Chánh pháp.

- Sa đọa: Bị rớt xuống chỗ thấp kém.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Ý nghĩa Tích chuyện: cách tốt nhứt để tỏ lòng thương mến người sắp mất là thực hiện được lời người ấy dạy, trước khi người ấy lìa đời.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 364:

Ý nghĩa bài Kệ rất rõ ràng: tỳ kheo nào thỏa thích an trú trong Chánh pháp, chắc chắn khỏi bị sa đọa.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

256. TÍCH CHUYỆN VỊ TỲ KHEO MUỐN NGÃ THEO NHÓM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến một vị tỳ kheo muốn ngả theo nhóm Đề Bà Đạt Đa.

Thuở ấy, Đề Bà Đạt Đa vốn là em họ của đức Phật, tu hành đắc được thần thông, lòng sanh kiêu mạn, viện cớ Đức Phật đã già cả, yêu cầu đức Phật nhường cho y cầm đầu Tăng đoàn. Bị từ-chối, Đề Bà Đạt Đa thành lập một Giáo hội mới và cũng được một số tỳ kheo theo y. Bấy giờ, có một vị tỳ kheo tu tập ở chùa Kỳ Viên, đi theo một người bạn đến chơi ở tu viện của Đề Bà Đạt Đa và lưu lại đấy ba bốn ngày, lòng rất thích thú vì được ăn ngon, ngủ kỹ, hưởng đầy đủ mọi tiện nghi vật chất. Các bạn đồng tu thưa trình sự việc lên đức Phật. Đức Phật cho gọi vị tỳ kheo ấy đến, quở trách và dạy: "Nầy tỳ kheo, mặc dầu chưa theo hẳn với Đề Bà Đạt Đa, nhưng thái độ của ông xem ra như là đồ đệ của y. Một tỳ kheo đứng đắn chẳng hề ham lợi dưỡng, phải biết đủ với những gì mình đi khất thực được và chẳng hề ganh tị với những người được cúng dường nhiều. Tham lam và ganh tị trong lòng khiến ta chẳng đắc được định tâm khi hành Thiền, thì biết đến bao giờ chứng được đạo quả Niết Bàn".

Rồi đức Phật mới nói lên hai bài Kệ sau đây:
  • Chẳng khinh rẻ những gì mình lãnh thọ,
    Chẳng hờn ganh kẻ khác được người cho.
    Tỳ kheo còn ganh hiền ghét ngỏ,
    Hành thiền, chẳng đắc định bao giờ.
    (Kệ số 365)

    Tuy nhận ít mà chẳng hề chê,
    Sống thanh tịnh đúng bề Chánh mạng,
    Chẳng lười nhác nên được lời xưng tán
    Của Chư Thiên gởi đến vị Tỳ kheo.
    (Kệ số 366)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Đề Bà Đạt Đa: Anh của Tôn giả A Nan, em họ của Phật Thích Ca, tên tiếng Pali là Devadatta. Tánh hay kiêu mạn, Đề Bà Đạt Đa chống đối với đức Phật Thích Ca, lập một Giáo hội khác, phá sự hòa hợp giữa chư Tăng.

- Thần thông = Khả năng đặc biệt có được nhờ tu định lực cao, như bay bỗng trên không, đi được trên mặt nước, v.v...

- Kiêu mạn: Kiêu căng, ngã mạn, tự coi mình hơn mọi người.

- Lợi dưỡng: Các mối lợi để nuôi dưỡng; ý nói các phẩm vật được hiến tặng để nuôi mạng sống.

- Đạo quả Niết Bàn: Đường lối tu hành đưa đến cảnh giới tịch diệt hằng an vui.

- Lãnh thọ: Nhận lãnh của hiến tặng.

- Hờn ganh: Ganh tị, cà nanh, đòi bằng hay hơn kẻ khác.

- Ganh hiền ghét ngỏ: Ganh ghét những người hơn mình.

- Hành thiền: Tu Thiền.

- Đắc định: Khi tu Thiền, tâm trở nên vắng lặng, an tịnh.

- Chánh mạng: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; Mạng = mạng sống. Chánh mạng là lối mưu sanh đứng đắn bằng nghề nghiệp chơn chánh. Chánh mạng là một ngành trong Bát Chánh đạo.

- Xưng tán: Khen ngợi.

- Chư Thiên: các bực trên cõi Trời.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một tỳ kheo ở chùa Kỳ Viên đến tu viện riêng của Đề Bà Đạt Đa, thấy thỏa thích trong việc thọ hưởng các tiện nghi vật chất và các phẩm vật được cúng dường ở đấy. Vì Đề Bà Đạt Đa chống đối đức Phật, gây chia rẽ trong Tăng đoàn, nên các vị đồng tu mới trình sự việc lên đức Phật. Đức Phật quở trách vị tỳ kheo kia và dạy, chẳng nên ganh tị với người được cúng dường, chớ tham lợi dưỡng, thì hành Thiền mới đắc được định tâm, mau chứng được đạo quả Niết Bàn.

Ý nghĩa của Tích chuyện: đừng theo con đường ham mê lợi-dưỡng mà sanh tâm ganh tị với các bực được cúng dường.

(2) Ý nghĩa của hai bài Kệ số 365 và 366:

Cả hai bài Kệ nói về thái độ của tỳ kheo đối với vấn đề lợi dưỡng: chẳng khinh chê những gì mình được hiến tặng, chẳng ganh tị với bạn đồng tu được cúng dường.

Phân tách bài Kệ số 365:
  • a. Chẳng khinh rẻ những gì mình lãnh thọ: chẳng nên chê bai các món đi khất thực được, vì thức ăn chỉ là một "món thuốc" để trị bịnh đói của mình, chớ chẳng phải để cho khoái khẩu (ngon miệng)

    b. Chẳng hờn ganh kẻ khác được người cho: chẳng phân bì, so đo với người được tặng nhiều, còn mình thì được cho ít.

    c. Tỳ kheo còn ganh hiền ghét ngỏ, Hành thiền, chẳng đắc định bao giờ: Tạo sao chẳng đắc định được? Vì trong tâm còn vấn vương sự so đo, sự ganh ghét, chẳng an tịnh được mà đắc định.
Phân tách bài Kệ số 366:
  • a. Tuy nhận ít mà chẳng hề chê: đây là vị tỳ kheo tri túc, biết vừa đủ, chẳng ham muốn để đòi hỏi thêm.

    b. Sống thanh tịnh đúng bề Chánh mạng: Chánh mạng của tỳ kheo là theo hạnh khất sĩ, xin được bao nhiêu, sống với bấy nhiêu.

    c. Chẳng lười nhác nên được lời xưng tán, Của chư Thiên gởi đến vị tỳ kheo: siêng năng hành Thiền chẳng hề lười nhác, nên vị tỳ kheo được chư Thiên khen ngợi.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

257. TÍCH CHUYỆN NGƯỜI BỐ THÍ HOA QUẢ ĐẦU MÙA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến ngườinông phu Bà la môn thường đem ra bố thí hết hoa quả đầu mùa vừa gặt hái được.

Thuở ấy, có một người Bà la môn theo nghề làm ruộng, thường đem hết những gì gặt hái được vào đầu mùa ra bố thí. "Đầu mùa" đối với ông ấy có bốn nghĩa, là: số lúa vừa gặt hái được, số gạo vừa giã và sàng xong, số cơm vừa nấu chín, và phần ăn trên dĩa sắp đem ra dùng. Một hôm, vợ chồng ông đang ăn sáng, bỗng có đức Phật và chư Tăng đến khất thực. Chồng ngồi quay mặt vào trong, còn vợ ngồi ngó ra, trông thấy các tỳ kheo, mới đứng án mặt chồng, che khuất đức Phật. Bà ta nghĩ, nếu chồng mình trông thấy đức Phật, sẽ bưng hết phần ăn ra dưng cúng, bà ta lại phải vào bếp nấu nướng nữa cho chồng ăn. Bà bước ra cửa, đến gần bên đức Phật, nói nho nhỏ: "Bạch Ngài, hôm nay con chẳng có chi để cúng dường, xin Ngài đi đến nơi khác". Đức Phật lẵng lặng, chẳng nói gì, chỉ lắc đầu. Thấy cử chỉ đó, người đàn bà bỗng bật lên tiếng cười. Người chồng quay lại, nhìn thấy đức Phật, vội chạy ra, tạ lỗi rối rít: "Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn tha lỗi cho vợ con và nhận dĩa thực phẩm nầy, con vừa mới dùng có mấy muỗng". Đức Phật ôn tồn đáp: "Nầy Bà la môn, ta vui lòng nhận mọi thức ăn, dầu đã được ăn dở, hay đã ăn hết phân nửa, hoặc cả khi chỉ còn lại một muỗng thôi". Nghe Phật nói, người Bà la môn rất ngạc nhiên mà cũng rất sung sướng được cúng dường đức Phật. Ông mới thưa hỏi: "Bạch Thế Tôn, thế nào mới xứng danh là một vị tỳ kheo?" Đức Phật dạy: "Nầy Bà la môn, thân nầy gọi là sắc, tâm nầy gọi là danh; vị tỳ kheo xứng danh chẳng hề mê luyến danh sắc."

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó mà vợ chồng người nông phu chứng được quả vị thứ ba là A na hàm:
  • Đối với thân tâm là danh sắc,
    "Ta" và "của Ta" chẳng thắc mắc,
    Chẳng lo âu những gì chưa đắc,
    Đó mới xứng danh là Tỳ kheo.
    (Kệ số 367)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Bà la môn: Giai cấp tu sĩ trong xã hội xưa ở Ấn; tiếng Pali là Brahmana. Có bốn giai cấp xưa ở Ấn Độ:
  • (1) Bà la môn;
    (2) Sát đế lợi (Khattiya), vua, quan;
    (3) Phệ xá (Vessa), buôn bán;
    (4) Thủ đà la (Sudda), nông phu, công nhơn.
- Khất thực: Khất = đi xin; Thực = ăn. Khất thực là giới luật nhà Phật, buộc tỳ kheo chẳng được có nghề riêng để sanh sống, phải đi xin ăn để dẹp lòng tự ái, và có dịp gặp dân chúng để dạy giáo lý.

- Thế Tôn: Thế = thế gian; Tôn = tôn kính. Thế Tôn chỉ đức Phật là bực được cả thế gian tôn kính.

- Cúng dường: Đọc trại chữ cung dưỡng, cung cấp để nuôi dưỡng.

- A na hàm: Quả vị thứ ba, tiếng Pali là Anāgāmi, dịch là Bất Lai, chẳng còn phải sanh lại ở cõi người nữa.

- Danh sắc: Thân tâm; danh là tên, tâm; sắc là vật chất, thân thể

- Tỳ kheo: tiếng Pali là Bhikkhu, âm là Bí sô, dịch là khất sĩ, tu sĩ theo đạo Phật, phải tuân hành 250 điều giới luật.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại vợ chồng người Bà la môn đang ăn sáng, đức Phật đến khất thực. Người vợ đứng án che chẳng cho chồng thấy Phật. Nhưng người chồng biết được, đem dưng cả diã thực phẩm. Đức Phật nhơn đó dạy họ, chớ nên mê luyến thân tâm quá đáng, đừng bám víu quá chặt vào "Ta" và "của Ta".

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 367:

Bài Kệ nầy định nghĩa, thế nào mới xứng đáng là một vị tỳ kheo: chẳng mê luyến danh sắc (= thân tâm); chẳng bám víu vào "Ta" và "của Ta". Đây là nguyên tắc Vô ngã, cửa cuối cùng trong ba cửa giải thoát (tam giải thoát môn) là: vô thường, khổ và Vô ngã.

Sao gọi Thân tâm là Danh Sắc? Thân nầy tạm thời có hình dạng là do các yếu tố vật chất (Sắc) hòa hợp lại tạo nên, ngày kia sẽ tan rả. Tâm nầy biến chuyển luôn, chỉ có tên (Danh) mà chẳng có
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

258. TÍCH CHUYỆN MẸ CỦA TRƯỞNG LÃO SƠN NA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong kỳ giảng pháp, có đề cập đến người mẹ của Trưởng lão Sơn Na.

Thuở ấy, ở thành Cưu Ra Ga, có một vị phu nhơn rất giàu sang sanh được một người con trai, tên là Sơn Na, đi tu từ lúc còn nhỏ. Một hôm, tỳ kheo Sơn Na đi ngang qua làng cũ. Bà mẹ hay tin, mướn người dựng một đài cao và rộng, tổ chức một buổi lễ bố thí thật lớn để mừng con và mời dân chúng tối đến để nghe Trưởng lão Sơn Na giảng pháp. Tối hôm ấy, vị phu nhơn cùng với tất cả thân nhơn trong nhà đến dự, chỉ lưu lại một đứa tớ gái nhỏ trông nom cửa nhà.

Bấy giờ, có một bọn cướp đông người gần trăm tên, thừa cơ nhà vắng, mới đến cướp bóc. Tên đầu đảng lại đến đài giảng pháp, ngồi gần vị phu nhơn để canh chừng, với ý định gây cản trở, nếu phu nhơn bất thần trở về. Đến nửa đêm, đứa tớ gái chạy đến đài, thưa với phu nhơn, rằng nhà bị trộm cướp vào. Phu-nhơn đang chăm chú nghe pháp, quay lại bảo nó: "Cứ mặc kệ chúng, con trở về đi, đừng làm rộn, để bà nghe pháp". Con bé vâng lời ra về; lát sau, nó trở lại thưa: "Bà ơi, bọn trộm đang lấy hết các choé bạc ở nhà ngang rồi!" Vị phu nhơn quở nó: "Sao con cứ làm rộn bà, ai muốn lấy gì cứ lấy, con để yên cho bà nghe pháp, về đi". Đứa tớ chẳng dám cãi lời, bước đi; độ nửa giờ sau, nó hộc tốc chạy trở lại: "Bà ơi, bọn cướp phá cửa phòng riêng của bà, khuân hết vòng vàng, ngọc ngà, châu báu rồi!" Vị phu nhơn quắc mắt bảo nó: "Mầy thật chẳng biết nghe lời bà, cứ theo làm bà chẳng chú ý đến hết bài pháp. Về ngay đi, còn mất gì bà cũng chẳng cần!" Tự đầu hôm, tên chúa đảng đã nghe rõ từng lời của vị phu nhơn, anh ta rất ngạc nhiên, bỗng tỉnh ngộ, ta cướp giựt bất lương như thế, rồi sẽ bị quả báo không sai. Biết đâu lại bị sét đánh bể đầu, hay bị đất nứt sa vào địa ngục. Anh ta liền chạy đi, hét đồng bọn đem trả lại hết tài vật, rồi cả lũ đến đài giảng pháp, quì xuống lạy xin lỗi vị phu nhơn. Bài pháp vừa dứt, Trưởng lão Sơn Na vừa bước xuống đài, cả bọn cướp đến xin cải tà qui chánh.

Hôm sau, Trưởng lão dẫn cả trăm tên đầu trộm đuôi cướp đang ăn năn bước theo sau, đến chùa Kỳ Viên, xin xuất gia tu hành. Đức Phật tùy căn cơ mỗi người mà nói lên chín bài Kệ sau đây:
  • Tỳ kheo, tâm từ bi an trú,
    Tín thành hành giáo pháp Phật đà;
    Cảnh tịch tĩnh Niết bàn thành tựu,
    Các hành hữu lậu được an hoà.
    (Kệ số 368)

    Thuyền rỗng không nầy ví tấm thân,
    Tỳ kheo mau tát cho khô nước,
    Hãy dập tắt ngay lửa tham sân,
    Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết bàn.
    (Kệ số 369)

    Cắt đứt NĂM là ngũ độn sử,
    Dứt bỏ NĂM là ngũ lợi sử,
    Trau dồi NĂM là ngũ lực,
    Vượt khỏi NĂM là ngũ phược,
    Đó gọi là bực "Vượt Bộc lưu".
    (Kệ số 370)

    Tỳ-kheo, hãy hành thiền tinh tấn,
    Chớ thả tâm quanh quẩn thú vui.
    Phóng dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ,
    Lửa điạ ngục thiêu, chớ than khổ!
    (Kệ số 371)

    Chẳng có định tâm nơi người thiếu trí,
    Chẳng có trí nơi kẻ thiếu định tâm.
    Vị nào được cả hai: định, huệ,
    Vị ấy kề bên bệ Niết bàn.
    (Kệ số 372)

    Tỳ kheo đến ẩn nơi vắng vẻ,
    Tâm tư thường lặng lẽ an nhiên.
    Chứng thông Giáo pháp hành thiền,
    Hưởng nguồn phỉ lạc siêu nhiên thoát trần.
    (Kệ số 373)

    Mỗi khi quán tưởng và thấu rõ
    Các uẩn khởi sanh rồi hoại diệt,
    Phỉ và lạc, tỳ kheo hưởng thọ,
    Chỉ bực Bất tử mới được biết.
    (Kệ số 374)

    Đây là chỗ bắt đầu nỗ lực,
    Tỳ kheo có trí, biết tri túc,
    Các giác quan đều được thu thúc,
    Giới luật căn bản luôn nghiêm trì.
    (Kệ số 375)

    Bạn hiền gần gũi khéo kết thân,
    Đúng chánh mạng, cử chỉ đoan trang,
    Do đó, thấm nhuần trong phỉ lạc,
    Phiền não sớm dứt, hướng Niết bàn.
    (Kệ số 376)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Sơn Na: Tên vị Trưởng lão nầy, tiếng Pali là Sona.

- Cưu Ra Ga: Tên thành nầy, tiếng Pali là Kuraraghara.

- Tỉnh ngộ: Nhờ suy nghĩ biết trước mình đã lầm, nay sửa lại.

- Bất lương: Bất = chẳng; Lương = tốt. Bất lương là chẳng ngay.

- Quả báo: Quả = kết quả, hậu quả; Báo = báo ứng. Hễ làm điều lành, hưởng được lành, gọi là được quả báo tốt. Ác báo thì ngược lại.

- Cải tà qui chánh: Cải = sửa lại; Tà = quấy; Qui = theo về; Chánh = đúng, phải. Cải tà qui chánh là bỏ điều quấy để theo điều lành.

- Xuất gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà. Xuất gia là bỏ đời sống có gia đình trong xã hội, vào chùa đi tu.

- Căn cơ: Tâm tánh hay trí huệ riêng-biệt của mỗi người.

- Từ bi: Từ = ban vui; Bi = cứu khổ. Tâm từ bi rộng thương mọi loài

- Tín thành: Tín = tin tưởng; Thành = thật tình. Tín thành là lòng tin

- Tịch tĩnh: Tịch = vắng; Tĩnh = yên lặng.

- Các hành hữu lậu: Chữ Hành dịch nghĩa chữ Pali sankhāra, nghĩa rất rộng, ở đây, chỉ xin lấy một nghĩa hẹp là các hiện tượng tâm linh bên trong tâm; chữ hữu lậu, hữu là có; lậu là (chất dơ) rỉ chảy ra. Các hành hữu lậu nếu được hiểu gọn là phần tâm linh bên trong bị nhiễm ô thành các phiền não như tham sân, si, v.v... bộc lộ ra bằng các hành động, lời nói, hay ý tưởng chẳng lành. "Các hành hữu lậu được an hoà", là giữ cho thân tâm được quân bình, tĩnh lặng.

- Ngũ độn sử: Năm món kết sử thấp (kết = buộc; sử = sai khiến):

- Ngũ lực: Năm sức mạnh tinh thần:
  • (1) Tín lực, niềm tin vững;
    (2) Tinh tấn lực, nỗ lực, cố gắng;
    (3) Niệm lực, suy nghĩ để phá các ác kiến;
    (4) Định lực, tâm an định phá các vọng tưởng;
    (5) Huệ lực, trí sáng phá sự ngu tối.
- Ngũ phược: (Phược = lấy dây mà trói buộc) = năm sự trói buộc; đó là: tham, sân, si, mạn và tà kiến.

- Vượt Bộc lưu: Bộc lưu là thác nước, từ trên cao cứ đổ xuống mãi. Bực Vượt Bộc lưu là hàng Thánh đã phá mười kết sử, dẹp năm sự trói buộc, được năm sức mạnh, tóm lại, đã giác ngộ và giải thoát.

- Phóng dật: Lười biếng, buông lung, chẳng cố gắng.

- Kề bên bệ Niết bàn: Đến nơi ngưỡng cửa (= bệ) của Niết bàn.

- Phỉ Lạc: Niềm vui sướng. Phỉ, dịch chữ Pali Piti, niềm vui khi ngồi thiền đắc định. Lạc là các thú vui, ở đây, chỉ thú vui tinh thần.

- Siêu nhiên: Siêu = vượt lên trên; Nhiên = tự nhiên; Siêu nhiên là khác với thế tục, trần thế; Thoát trần là vượt cảnh thường tình.

- Uẩn: Còn gọi là ấm, nghĩa là tập hợp chung lại và che mờ. Thân tâm con người có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

- Bất tử: Bất = chẳng; Tử = chết. Bực Bất tử là bực đã chứng được vô sanh, chẳng còn sanh lại nữa nên chẳng hề chết đi.( Bực A la hán).

- Tri túc: Tri = biết; Túc = đủ. Tri túc là biết vừa đủ, chẳng đòi thêm.

- Thu thúc: Kềm giữ, nhiếp phục, điều phục.

- Nghiêm trì: Trì = giữ gìn; Nghiêm trì là tuân theo cẩn thận.

- Chánh mạng: Chánh = chơn chánh; đứng đắn; Mạng = mạng sống. Chánh mạng là cách mưu sanh đứng đắn bằng nghề chơn chánh.

- Đoan trang: Nghiêm trang và đứng đắn.

- Niết Bàn: tiếng Phạn Nirvana; Pali Nibbāna, tâm trạng người dứt phiền não, lìa mọi ham muốn, chứng được vô sanh, sống tự tại.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị phu nhơn chăm chú nghe Pháp, chẳng thèm lưu tâm đến việc nhà đang bị trộm cướp.Ý nghĩa rất hứng thú của Tích chuyện là thái độ của vị phu nhơn chẳng màng việc mất cả tài sản, chỉ lo theo dõi bài giảng pháp, đã làm thức tỉnh được tên chúa đảng khiến y và đồng bọn biết cải tà qui chánh.

(2) Ý nghĩa các bài Kệ từ số 368 đến số 376:

Mặc dầu các bài Kệ được đức Phật đọc để dạy các tỳ kheo, nhưng người tu tại gia cũng có thể học tập theo. Để tiện phân tách chín bài Kệ, xin sắp xếp lại thành ra ba nhóm:

- Nhóm một: Bốn bài dành cho người mới bắt đầu tu: số 375, 376, 368 và 369;

- Nhóm hai: Bốn bài khuyên tu Thiền: số 371, 372, 373 và 374.

- Nhóm ba: Một bài dành cho bực thượng căn: số 370.

Nhóm một:

Bài Kệ số 375: đây là bài Kệ quan trọng, chỉ rõ khi mới vào tu phải làm những gì trước:
  • a. Có trí, tức là phải siêng năng học hỏi giáo ý;

    b. Biết tri túc, tức là dẹp bỏ mọi đòi hỏi, biết vừa đủ;

    c. Các giác quan đều được thu thúc, tức là kềm giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chẳng đua đòi chạy theo cảnh vật bên ngoài;

    d. Giới luật căn bản luôn nghiêm trì, tức là theo đúng thật kỹ lưỡng mọi điều ngăn cấm, tự đặt mình trong vòng kỷ luật khắt khe, để buộc thân tâm vững tiến trên đường tu tập.
Bài Kệ số 376: dạy phải noi gương theo những gì để tu tập:
  • a. Gần gũi, kết thân với bạn hiền: được khuyên nhũ làm điều lành, được an ủi khi lo lắng, được vui khi cùng tu với nhau;

    b. Đúng Chánh mạng: nếu xuất gia, theo đúng hạnh khất sĩ, dẹp được lòng tự ái, ngã mạn khi đi xin; nếu tại gia, làm tròn nhiệm vụ trong khi hành nghề chơn chánh;

    c. Cử chỉ đoan trang: trong các oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, nói và nín, đều nghiêm trang, tập theo cách của người bạn hiền đi trước;

    d. Phiền não dứt, được phỉ lạc, hướng đến Niết bàn: nhờ có bạn hiền cùng tu, nên phiền não sớm dứt, được niềm vui thanh cao, hướng đến sự giác ngộ và giải thoát của Niết Bàn.
Bài Kệ số 368: dạy hai đức tánh căn bản của người tu-hành: tâm Từ Bi và niềm tin vững chắc:
  • a. Tâm an trú trong Từ Bi: luôn luôn đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ cho mọi loài;

    b. Tín thành theo giáo pháp Phật đà: Tâm Bồ đề thật kiên cố, dẹp mọi nghi ngờ, tránh được sự thối chí;

    c. Sớm chứng được cảnh tịch tĩnh Niết Bàn, nhờ các hành hữu lậu (= các phiền não nơi thân tâm) trở nên an hòa; đây là kết quả từ từ trên bước đường tu tập, vui mà nhận thấy mình có tiến bộ.
Bài Kệ số 369: đây là bài Kệ nên học thuộc lòng, vì hình ảnh "chiếc thuyền rỗng không" đáng ghi nhớ mãi trong tâm khảm:
  • a. Thuyền rỗng không nầy ví tấm thân: thân tâm nầy do năm uẩn tạm hợp, sẽ tan rả, nên xét kỹ mà thấy nó thật là rỗng không;

    b. Tát cho khô nước tức là dập tắt ngay lửa tham, sân: thuyền khô nước trở nên nhẹ nhàng, thân tâm dẹp sạch tham sân trở nên thanh tịnh, đó là điều kiện tốt để sớm chứng được cảnh Niết bàn;

    c. Thuyền nhẹ đi nhanh đến Niết bàn: hình ảnh ngồi thuyền đi nhanh đến Niết bàn rất ư là ... thơ mộng.
Tóm lại, các bài Kệ thuộc Nhóm một đặt căn bản cho việc bắt đầu tu tập: niềm tin vững chắc, giới luật nghiêm trì, kết thân bạn hiền, phát tâm Từ Bi, dẹp lòng tham sân.

Nhóm hai: ghi rõ các bước để tu Thiền:

Bài Kệ số 371: bước đầu tu Thiền là tập gom Tâm lại, tức là hết sức chú ý và tập trung tư tưởng.
  • a. ...Hành Thiền tinh tấn, chớ thả Tâm quanh quẩn thú vui: theo dõi hơi thở, giữ chánh niệm và tỉnh giác thì Tâm phải ngừng lại, chẳng thể nào chạy lang thang theo thú vui bên ngoài được;

    b. Phóng dật, nuốt hòn sắt nóng đỏ, Lửa điạ ngục thiêu, chớ than khổ!: Tỳ kheo nhận của bố thí mà chẳng lo tu- hành, phóng dật, lười biếng thì sẽ sa địa ngục, nuốt sắt nóng đỏ, uống nước đồng sôi. Người tại gia tu thiền mà giãi đãi, lúc tu lúc không, sẽ bị ngoại cảnh lôi cuốn theo các thú vui vật chất thấp kém, khiến sa vào cõi ác khi tái sanh. Đây là lời Phật cảnh cáo cho cả xuất gia và tại gia.
Bài Kệ số 372: tu Thiền đắc được Định và Huệ, tiến đến cảnh giác ngộ và giải thoát của Niết bàn.
  • a. Chẳng có định tâm nơi người thiếu trí: người thiếu trí khi tu Thiền chẳng biết cách gom tâm lại để kéo dài sự chú ý, thì làm sao mà tâm an định được;

    b. Chẳng có trí nơi người thiếu định tâm: điều nầy dễ thấy, vì người để tâm chạy lang thang, chẳng chú ý, làm sao nhìn rõ, thấy rõ, biết rõ cho được, đó chẳng phải thiếu trí hay sao;

    c. ...Được cả hai Định, Huệ, ... kề bên bệ Niết bàn: Tâm an định, Trí huệ phát sáng, thấy đúng đường lối tu-hành, thì ngày chứng được Niết bàn đã gần kề.
Bài Kệ số 373: phương cách tập Thiền, chọn nơi vắng vẻ.
  • a. Tỳ kheo đến ẩn nơi vắng vẻ: Đức Phật thường khuyên tỳ kheo nên vào rừng vắng để dễ tu Thiền; ngày nay ta có thể chọn căn phòng vắng, vào giờ thuận tiện sáng sớm, hay khuya trước khi đi ngủ, tâm dễ lắng yên, chẳng bị ngoại cảnh chi phối;

    b. Tâm tư thường lặng lẽ an nhiên: đến nơi vắng chưa đủ, tâm còn phải vắng nữa, phải lặng lẽ nữa, mới đủ điều kiện để tập Thiền. Tâm lặng lẽ cách nào? Dẹp bỏ hết mọi ý nghĩ vẩn vơ, đuổi hết các ý nghĩ giận người nầy, thương người kia, ganh tị với bạn bè, v.v...

    c. Chứng thông giáo pháp hành thiền: tu Thiền, nên có Thầy hướng dẫn, chẳng những tránh được các đường tẻ, khỏi lọt vào tà kiến, tà định, mà còn biết những điểm còn thiếu sót để sửa chữa.

    d. Hưởng nguồn phỉ lạc siêu nhiên thoát trần: trong khi ngồi Thiền, quên được các mối lo âu nơi cuộc sống thế tục, chính giờ phút đó là đang hưởng nguồn phỉ lạc, vui sướng vì tâm trí được nhẹ nhàng.
Bài Kệ số 374: cách quán tưởng khi ngồi Thiền.
  • a. Mỗi khi quán tưởng thấu rõ, Các uẩn khởi sanh rồi hoại diệt: đây là chọn đề tài quán tưởng về thân tâm ngũ uẩn. Ngồi Thiền, khi tâm bắt đầu an định, nhờ sức quán tưởng mạnh (= chú tâm), chiếu soi được các khía cạnh của đề tài, lần lượt nhận ra được chơn lý. Trong đề tài quán thân tâm ngũ uẩn, nhìn biết rõ sự khởi sanh của các ý tưởng bên trong, sự kéo dài trong khoảnh khắc và sự biến mất của chúng, đó là theo dõi được sự khởi sanh và hoại diệt của một ý tưởng trong tưởng uẩn. Với kinh nghiệm, sẽ chứng tánh cách vô thường, vô ngã của mỗi uẩn, mà nhận ra thân tâm năm uẩn vốn rỗng không.

    b. Phỉ và lạc, tỳ kheo hưởng thọ, Chỉ bực Bất tử mới được biết: Chứng được định tâm, hành-giả cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, thấm nhuần một niềm vui thanh khiết, đó là phỉ. Vì biết rõ trong thời gian tịnh tu, tâm rỗng rang, chẳng vướng bận lo lắng, ưu phiền, đó là sự vắng mặt của Khổ, tức là đang hưởng Lạc, vui vì hết khổ trong lúc ấy. Kéo dài được tâm trạng thanh thản, an nhiên nầy, là các bực đã chứng được các quả vị Thánh, gọi là bực Bất tử (= hết bị tái sanh).
Tóm lại, đường lối tu Thiền: chọn nơi vắng vẻ, dọn sạch Tâm, chú ý mạnh, quán tưởng sâu, đắc định, và huệ sẽ chói sáng.

Nhóm ba:

Bài Kệ số 370: dành cho bực căn cơ cao, dạy phải dẹp mười kết sử, vượt qua năm dây ràng buộc, trau dồi năm sức mạnh tinh thần.
  • a. Cắt đứt năm độn sử: trong số nầy, có ba kết sử chẳng quá khó vượt qua, để chứng được quả thứ nhứt là Tu đà huờn: đừng chấp chặt vào thân; dứt nghi về Chánh pháp; bỏ mọi mê tín tà đạo.

    b. Dứt bỏ năm lợi sử: năm lợi sử khó dẹp là vì thiếu sự quân bình giữa định và huệ; giữ định, huệ bằng nhau, nhờ giới phụ giúp vào, sẽ chiến thắng nốt năm lợi sử.

    c. Bực "Vượt Bộc lưu" là bực Thánh đã vượt qua được thác gành, nhờ trau dồi năm sức mạnh, để dẹp năm dây trói buộc. Kể ra thì nhiều, 5x4 món tất cả, người tu tại gia chỉ cần nhớ ba món độc: tham, sân, si, dồn nỗ lực để tiêu diệt chúng là được kề bên Niết bàn.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

259. TÍCH CHUYỆN CÁC VỊ TỲ KHEO NHÌN HOA LÀI RƠI TRONG KHI NGỒI THIỀN
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp có đề cập đến các vị tỳ kheo nhìn hoa lài rơi rụng trong giờ tập Thiền.

Thuở ấy có năm trăm vị tỳ kheo được đức Phật chỉ dạy cho mỗi người một đề tài thiền quán, liền đi vào rừng vắng, nỗ-lực tu-tập Thiền định. Nơi đây, họ nhìn thấy các bông hoa lài nở tươi đẹp vào buổi sáng, rồi đến chiều thì tàn tạ, lả tả rơi khỏi cành. Trông thấy cảnh ấy, các vị tỳ kheo mới cố gắng dẹp bỏ mọi lậu hoặc trong tâm, cũng như cành lài rủ bõ các bông hoa tàn héo. Bấy giờ, đức Phật, từ nơi hương phòng, quán thấy tâm trạng của các vị tỳ kheo, Ngài phóng đạo hào quang đến khu rừng, khiến các vị tỳ kheo nhìn thấy đức Phật trong tâm họ, và nghe lời dạy rằng: "Nầy chư tỳ kheo, cũng như cây lài giũ bỏ các cánh hoa tàn héo, tỳ kheo nỗ lực dẹp bỏ mọi lậu hoặc trong tâm, để sớm ra khỏi vòng tái sanh lận đận của Luân hồi".

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó nhiều vị tỳ kheo đã chứng được quả vị A la hán:
  • Như cây lài rủ bỏ hoa tàn héo,
    Tỳ kheo, nên khéo trút sạch tham sân.
    (Kệ số 377)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Đề tài thiền quán: Một đầu đề để suy nghĩ sâu xa khi ngồi Thiền

- Lậu hoặc: Lậu = rỉ chảy ra; Hoặc = điều sai lầm. Lậu hoặc là các phiền não tham, sân, si, v.v... khởi nơi tâm, lộ ra bằng hành động xấu.

- Hương phòng: Căn phòng có hương thơm, dành riêng cho đức Phật, tiếng Pali là Gandhakuti.

- Hào quang: Ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu từ vị tu hành định lực cao.

- Luân Hồi: Luân = bánh xe; Hồi = trở lại. Theo giáo lý nhà Phật, chúng sanh khi chết đi phải tùy nghiệp mà tái sanh trở lại, để rồi chết nữa, lẩn quẩn mãi, tựa như bánh xe cứ lăn tròn vòng (Pali: Samsāra.)
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện rất đơn sơ: các vị tỳ kheo khi tập Thiền, nhơn nhìn thấy hoa lài rơi tàn tạ khỏi cành cây, quyết nỗ lực dẹp bỏ lậu hoặc tham, sân, si... ra khỏi tâm, như cành cây rũ bỏ hoa héo.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 377:

Bài Kệ cũng rất rõ nghĩa: khi tu Thiền, phải dẹp ra khỏi tâm các lậu hoặc tham, sân, mới mong sớm đắc dược định tâm.
260. TÍCH CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SAN TA KHA
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp có đề cập đến Trưởng lão San Ta Kha.

Thuở ấy, ở chùa Kỳ Viên, có một vị tỳ kheo tên là San Ta Kha, tánh tình rất trầm tĩnh, đi đứng nghiêm trang, thường ngồi, nằm nơi vắng vẻ, ít nói, ít tiếp chuyện với bạn đồng tu. Các vị tỳ kheo cho thái độ lặng lẽ đó có vẻ khác thường, mới đến thưa trình cùng đức Phật. Đức Phật bảo: "Nầy chư Tăng, tỳ kheo San Ta Kha kiếp trước là một con sư tử chúa, dáng điệu rất oai vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im, lặng lẽ. Thái độ trầm tĩnh ngày nay của tỳ kheo San Ta Kha rất đáng khen ngợi, các tỳ kheo nên noi theo gương đó".

Rồi đức Phật nói lên bài Kệ sau đây:
  • Thân an tịnh, lời cùng an tịnh,
    Ý an tịnh, tâm thường giác tỉnh.
    Mọi thế sự, tỳ kheo dẹp qua,
    Mới xứng danh là "Bực tịch tịnh".
    (Kệ số 378)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- San Ta Kha: tên vị Trưởng lão nầy, tiếng Pali là Santakāya, có nghĩa là thân an tịnh.

- Trầm tĩnh: Trầm = chìm; Tĩnh = yên lặng; Trầm tĩnh là an tịnh.

- Giác tỉnh: Tỉnh giác: Tỉnh = thức tỉnh, chẳng mê; Giác = biết rõ. Tâm giác tỉnh là luôn luôn giữ chánh niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì, tâm đều đang biết rõ điều ấy và chỉ điều ấy mà thôi, chẳng lo ra việc khác.

- Thế sự: Thế = đời; Sự = việc. Thế sự là việc đời, việc thiên hạ.

- Bực tịch tịnh: dịch chữ Pali Muni, chữ Hán Việt là Mâu Ni, có nghĩa là trầm tĩnh, an nhiên. Mâu Ni là danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc các tỳ kheo hiểu lầm thái độ trầm tĩnh, ít nói của Trưởng lão San Ta Kha, cho đó là khác thường. Nhưng đức Phật nhắc đến tiền kiếp làm sư tử chúa của Trưởng lão, đi đứng oai vệ, nằm ngồi lặng lẽ và khuyên các tỳ kheo nên noi gương trầm tĩnh đó của Trưởng lão.

Ý nghĩa của Tích chuyện là: phải giữ thân tâm an tịnh, bằng cách giữ thân trầm tĩnh, lời nói trầm tĩnh và ý nghĩ trầm tĩnh, cả ba nghiệp đều thanh tịnh.

(2) Ý nghĩa của bài Kệ số 378:

Bài kệ dạy ta một điều rất quan trọng trong việc tu hành: giữ thân tâm cho an tịnh, đó là đường lối tu tâm.

Xin phân tách từng câu:
  • a. Thân an tịnh, lời cùng an tịnh: đây là nói về nghiệp thân và nghiệp khẩu (= miệng). Thân an tịnh có cử chỉ từ tốn, chẳng vụt chạc, nghiêm trang. Lời nói an tịnh thì dễ nghe, dịu dàng, ôn tồn, khiến người nghe được vui lòng. Hai nghiệp nầy mà tịnh được thì tránh được biết bao tội ác, gây thêm được biết bao căn lành.

    b. Ý an tịnh, tâm thường giác tỉnh: đây là nói về ý nghiệp, quan trọng nhứt trong ba nghiệp, vì ý nghiệp dẫn ta đi thác sanh. Tâm tỉnh giác được là nhờ luôn luôn giữ chánh niệm, làm gì, nói gì, nghĩ gì, đều biết rõ cả, chẳng buông lung chạy theo ngoại cảnh.

    c. Mọi thế sự, tỳ kheo dẹp qua, Mới xứng danh là "Bực tịch tỉnh": dẹp chuyện Đời qua một bên, để lo chuyện Đạo, tức là lo tu sửa tâm tánh mình. Người biết sống một mình, hằng theo dõi mọi biến chuyển trong tâm mình, mới xứng danh là người theo gót đức Mâu Ni.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

261. TÍCH CHUYỆN TRƯỞNG LÃO NAN GA LA
Tích chuyện nầy hơi giống với Tích chuyện số (116), về Trưởng lão Phí Lộ Thi.

Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên, nước Xá Vệ, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến Trưởng lão Nan Ga La.

Thuở ấy, ở nước Xá Vệ, có một người nông phu nghèo khó phải đi cày ruộng mướn cho chủ, rất cực khổ. Một hôm, một vị tỳ kheo đi ngang qua, thấy anh ngồi nghỉ bên bờ ruộng, mới hỏi thăm. Biết cảnh khó nhọc của kẻ làm mướn chẳng đủ ăn, vị tỳ kheo hỏi anh có muốn đi tu không. Anh đồng ý, theo vào chùa, làm lễ xuất gia. Theo lời thầy dạy, vị tỳ kheo mới đem cái cày và quần áo cũ rách rưới của mình, ra bỏ nơi gốc cây gần chùa. Thời gian sau, ăn uống no đủ, anh mập mạp ra, nhưng trong lòng lại nhớ đến cảnh sống ngày xưa và bắt đầu chán ngán cuộc đời tu hành. Anh liền đi đến bên gốc cây, nhìn lại chiếc cày và đống quần áo cũ, thầm trách mình: "Sao mình chẳng biết hổ thẹn, đã đi tu để được giải thoát, lại còn muốn quay về với cuộc đời bần cùng với chiếc cày nặng, với đống giẻ rách nầy?" Tự trách mình như thế, ý tưởng quay về đời sống thế tục liền tan biến, anh trở lại chùa. Rồi độ bốn năm ngày sau, ý ấy lại khởi lên trong tâm anh, anh cũng trở lại gốc cây, cũng tự trách như trước nữa. Các vị tỳ kheo khác thấy anh mỗi tuần hai lần đi thăm chiếc cày như thế, mới đặt tên anh là tỳ kheo Nan Ga La, có nghĩa là chiếc cày.

Bẵng đi một dạo, chẳng thấy Nan Ga La đi thăm gốc cây nữa, các vị tỳ kheo lấy làm lạ, mới hỏi lý do. Nan Ga La đáp: "Trước kia tôi thường đến đấy, để thăm "thầy tôi" và học hỏi thêm, nay tôi thấy chẳng còn cần thiết nữa, nên thôi". Cho rằng Nan Ga La có ý bảo ngầm rằng, mình nay đã thành bực vô học, các vị tỳ kheo ấy mới đến thưa cùng đức Phật: "Bạch Thế Tôn, tỳ kheo Nan Ga La tự phụ bảo mình là bực vô học chứng quả A la hán". Đức Phật bảo: "Nầy chư Tỳ kheo, Nan Ga La là người biết tự quán sát mình, tự trách mình và tự tu sửa mình, quả thật, đã chứng được quả vị A la hán".

Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
  • Tỳ kheo, hãy tự kiểm thảo mình,
    Tự mình phòng hộ và dò soát.
    Tâm tư hằng tỉnh giác,
    Cuộc sống được an lành.
    (Kệ số 379)

    Mình là nơi mình đang nương tựa,
    Ta đi tìm ẩn trú nơi ta.
    Thế nên tự chế, chớ lơ là,
    Như khách thương luyện thuần bầy ngựa.
    (Kệ số 380)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Nan Ga La: Biệt hiệu của vị Trưởng lão nầy, Pali là: Nangalakula.

- Xuất gia: Xuất = ra khỏi; Gia = nhà; Xuất gia là bỏ đời sống thế tục, rời gia đình, vào chùa tu.

- Thế tục: Thế = đời; Tục = thường; Đời Thế tục là đời sống của thường nhơn có gia đình trong xã hội.

- Vô học: dịch chữ Pali Asekha, bực đã học hỏi xong cách diệt trừ các phiền não và tu tập thành công. Trái với bực vô học, là bực hữu học (Sekha), thấp hơn, còn phiền não, cần học tập cách tận diệt các lậu hoặc. Chứng được quả Thánh A la hán mới lên hàng Vô học.

- Tự phụ: Khoe khoang, tự cao, xem mình là hơn.

- Tự kiểm thảo: Tự mình xét lấy lỗi mình để tu sửa lại

- Phòng hộ: Bảo vệ, giữ gìn cẩn thận.

- Tự chế: Tự mình kềm chế lấy mình, chẳng buông lơ.

- Khách thương: Người buôn bán, làm nghề thương mãi.

- Luyện thuần: Huấn luyện cho thuần thục, nhuần nhã, dễ khiến.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một người nông phu đi tu, mỗi khi trong tâm khởi lên ý tưởng muốn quay về đời sống thế tục, mới đến bên gốc cây, nhìn chiếc cày và đống quần áo cũ, mà tự trách mình sao chẳng chuyên tu. Nhờ biết tự kiểm thảo như thế, chẳng bao lâu người ấy trở thành bực vô học, chứng quả Thánh.

(2) Ý nghĩa của hai bài Kệ số 379 và 380:

Hai bài Kệ khuyên ta phải biết thường thưòng xét lỗi của chính mình, để tu sửa lại, chẳng nên lơ là.

Bài Kệ số 379: khuyên hai điều:
  • a. Tự kiểm soát;
    b. Tỉnh giác
    • (a) Tỳ kheo, hãy tư kiểm thảo mình, Tự mình phòng hộ và dò soát: Tự mình kiểm thảo, phòng-hộ, dò soát là biết nhìn vào trong tâm mình, xét thấy các lỗi lầm của mình và tự mình sửa lại.

      (b) Tâm tư hằng tỉnh giác, Cuộc sống được an lành: Muốn tự mình kiểm thảo lấy mình cho đúng đắn, tâm phải luôn luôn tỉnh giác, nghĩa là mọi biến chuyển trong lòng, đều được chánh niệm theo dõi.
    Chánh niệm là gì? Chánh niệm là niệm giác, ý nghĩ đứng đắn khởi lên trong tâm để nhận biết các ý niệm khác vừa xảy ra trong tâm, ngay lúc chúng đang khởi lên, trong lúc chúng đang kéo dài, và lúc chúng đã tan biến đi.
Niệm giác chính là tâm đang nhìn chính tâm, biết rõ những gì đang diễn biến nơi tâm. Đó cũng như vị cảnh sát từ bên trong tâm, đang đứng ra canh chừng tâm, tuy chẳng chuyên chở thêm một ý tưởng nào, một ý niệm nào, nhưng lại biết rõ tất cả các niệm khác vừa hiện diện nơi tâm.

Thông thường, ta cứ để tâm muốn chạy đi đâu cũng chẳng để ý, đó là cảnh thất niệm tức là đang đánh mất chánh niệm. Thắp sáng lên Chánh niệm là ngay trong lúc lơ là, liền bừng tỉnh lại, chú tâm nhìn vào tâm, ấy là gọi chánh niệm chổi dậy nơi mình để theo dõi tâm.

Tu tâm là phải bắt đầu thắp sáng lên Chánh niệm nơi tâm, giữ gìn mãi chánh niệm ấy, chẳng phút lơ là, chẳng phút thất niệm.

Bài Kệ số 380: khuyên ta phải biết tự chế, chớ lơ là, chớ buông lung cho tâm chạy lang thang.
  • a. Mình là nơi mình đang nương tựa: chẳng có nơi nương tựa nào an toàn bằng chính tâm thanh tịnh của mình. Muốn tâm mình an tịnh, phải biết tự chế, nghĩa là thắp sáng Chánh niệm để luôn luôn tự kiểm soát lấy mình, chận đuổi mọi vọng tưởng khởi lên trong tâm.

    b. ...Nên tự chế,... như khách thương luyện thuần bầy ngựa: dùng Chánh niệm dẹp yên "bầy ngựa ý" trong tâm, cũng giống như vị khách thương tập luyện bầy ngựa, nghĩa là phải bền chí, kiên nhẫn.
262. TÍCH CHUYỆN TỲ KHEO HOA KHA LY
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại Tịnh xá Trú Lâm, gần thành Vương Xá, trong kỳ giảng pháp, có đề cập đến vị tỳ kheo Hoa Kha Ly.

Thuở ấy ở nước Ma Kiệt Đà, có người tên là Hoa Kha Ly, một hôm trông thấy đức Phật đi khất thực, nhìn dáng mạo trang nghiêm của Ngài, nên sanh lòng ngưỡng mộ, muốn đi tu. Từ khi được gia nhập Tăng đoàn, Hoa Kha Ly cứ lẩn bẩn gần bên đức Phật, mà xao lãng các bổn phận của một vị tỳ kheo, lơ là việc hành Thiền. Đức Phật thấy thế mới bảo: "Nầy Hoa Kha Ly, ông cứ đứng mãi bên ta, có được ích lợi gì? Gần Phật, thấy được Như Lai, là phải biết gần Chánh pháp, học tập Chánh pháp kia. Thôi, ông hãy lui ra, đừng đến trước mặt ta nữa".

Nghe Phật dạy thế, lòng Hoa Kha Ly buồn vô cùng, chán nản lui ra và nẩy ý định leo lên núi Linh Thứu nhảy xuống tự tử. Đoán biết tâm trạng của Hoa Kha Ly, đức Phật lên đỉnh Linh Sơn trước. Khi Hoa Kha Ly sắp thực hiện ý định đen tối, Ngài phóng hào quang chiếu lên rực rỡ. Hoa Kha Ly nhìn thấy, lòng hân hoan dào dạt, hết muốn tìm cái chết nữa, liền quì xuống đảnh lễ. Bấy giờ đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây, nhờ đó Hoa Kha Ly tỉnh ngộ, nỗ lực tu tập, chẳng bao lâu chứng được quả vị A la hán:
  • Tỳ kheo thường hân hoan dào dạt,
    Vững niềm tin giáo pháp Phật đà.
    Cảnh giới tịch tịnh sớm chứng qua,
    Các hành hữu lậu được tịnh lạc.
    (Kệ số 381)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Hoa Kha Ly: Tên vị tỳ kheo nầy, tiếng Pali là Vakkali.

- Trúc Lâm, Vương Xá, Ma Kiệt Đà: Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana), do vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) cất trong vườn trúc, gần thành Vương Xá (Rājagaha), thủ đô xứ Ma Kiệt Đà (Magadha), miền Bắc Ấn Độ xưa.

- Linh Thứu: Tên đỉnh núi giống hình chim kên kên (Gijjhakuta).

- Hân hoan dào dạt: Vui mừng hết sức.

- Phật đà: Phiên âm chữ Buddha. Phật có nghĩa là giác, hiểu biết thấu đáo về tất cả muôn loài. Đức Phật là bực đại giác.

- Cảnh giới tịch tịnh: Cảnh giới là cõi; Tịch tịnh là vắng vẻ và lặng lẽ; Cảnh giới tịch tịnh, ở đây, là cảnh giới Niết bàn yên vui, tự tại.

- Các hành hữu lậu: Các hành chỉ thân tâm; hữu lậu là chứa các phiền não, dơ xấu, rỉ chảy ra, thành hành động bất thiện.

- Tịnh lạc = Tịnh = thanh tịnh, trong sạch; Lạc = vui. Các hành hữu lậu được tịnh lạc = thân tâm còn phiền não nầy được thanh tịnh hoá.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại một vị tỳ kheo chỉ vì quá ngưỡng mộ thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ của đức Phật mà xin đi tu để được gần luôn bên Phật. Đức Phật bảo, thấy Như Lai, gần Như Lai, là biết đến Chánh pháp, học tập để thấy được pháp thân của Phật, chớ lẩn bẩn bên Phật mà chẳng lo tu tập, thì chẳng được ích lợi gì. Vị tỳ kheo hiểu được lời Phật, nỗ lực tu tập, sớm chứng được quả vị Thánh.

Ý nghĩa của Tích chuyện: ngưỡng mộ Phật là biết đem Chánh pháp Phật dạy ra tu tập để được giác ngộ và giải thoát.

Về một phương diện khác, nghe nói Kinh nầy linh thiêng lắm, thỉnh về, đóng bìa da, mạ chữ vàng, kính cẩn đặt trên bàn thờ Phật, mà chẳng hề mở ra đọc tụng, thì sự linh thiêng kia chẳng cảm ứng được đạo tâm của mình, làm sao mà hưởng được sự lợi lạc!

(2) Ý nghĩa cửa bài Kệ số 381:

Bài Kệ khuyên ta nên vững tin nơi Giáo pháp, hân hoan học tập, để thanh tịnh hóa thân tâm, sớm chứng được cảnh an vui Niết bàn.
  • a. Tỳ kheo thường hân hoan dào dạt, Vững niềm tin giáo pháp Phật đà: đây là hai đức tánh quan trọng của một vị tỳ kheo:
    • (a) Niềm tin ở Tam Bảo thật vững chắc,
      (b) Vui thích trong nỗ lực tu hành.
    b. Cảnh giới tịch tịnh sớm chứng qua: nhờ nỗ lực tu tập, mà sớm chứng được cảnh giới tịch tịnh, an vui và vắng vẻ của Niết Bàn, tức là sớm có được tâm trạng an nhiên và tự tại, trong đời sống tu hành.

    c. Các hành hữu lậu được tịnh lạc: thân tâm năm uẩn đầy phiền não nầy sẽ sớm được thanh tịnh hóa, mà dẹp sạch được các lậu hoặc.
Hình ảnh


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Tìm Hiểu & Học Tập Kinh Pháp Cú

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

263. TÍCH CHUYỆN SA DI SỬ MÃ
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại tu viện Đông Viên, nước Xá Vệ, trong kỳ giảng pháp, có đề cập đến vị sa di trẻ tuổi tên là Sử Mã.

Sa di Sử Mã, đệ tử của Trưởng lão A Na Luật, tuy mới lên bảy tuổi mà tu tập rất giỏi, chứng được quả Thánh A La Hán, đắc được thần thông. Khi Trưởng lão A Na Luật trú gần dãy Hi Mã Lạp Sơn, một hôm bị bịnh, sa di Sử Mã đã bay đến hồ An Nô Ta cách đó hơn trăm dặm, lấy nước về cho thầy dùng. Đến khi Trưởng lão trở về Xá Vệ, tới đảnh lễ đức Phật, có dẫn sa di Sử Mã đi theo.

Tại tu viện Đông Viên, các chú tiểu thấy sa di còn trẻ, cứ theo chọc ghẹo, kẻ véo tai, người cú đầu, mà Sử Mã cũng chẳng chút nào hờn giận. Bấy giờ, đức Phật trông thấy, Ngài mới nghĩ cách khiến cho mọi người phải thán phục sa di Sử Mã, liền cho gọi Tôn giả A Nan vào bảo, Ngài cần dùng một lu lớn chứa nước từ hồ An Nô Ta đem về. Chẳng vị tỳ kheo, hay sa di nào đi lấy nước được, vì hồ An Nô Ta cách đây hơn mấy trăm dặm, mà cái lu lại vừa to vừa nặng. Sau cùng, sa di Sử Mã tình nguyện đi lấy nước. Trong khoảnh khắc, với sức thần thông, sa di Sử Mã vác lu bay đến hồ múc nước rồi trở về chờ lịnh. Mọi người tập họp ở giảng đường, hết lời khen tặng kỳ công của Sử Mã. Đức Phật nói: "Nầy chư Tăng, người tu tập theo Chánh pháp ngày đêm chuyên cần, chứng được quả vị Thánh và đắc thần thông, mặc dầu còn trẻ tuỗi, như sa di Sử Mã đây".

Rồi đức Phật mới nói lên bài Kệ sau đây:
  • Tỳ kheo dẫu tuổi đời còn trẻ,
    Siêng tu theo pháp Phật hằng ngày,
    Sáng soi rực rỡ thế gian nầy,
    Như vầng trăng vừa thoát khỏi mây.
    (Kệ số 382)
TÌM HIỂU:

A. NGHĨA CHỮ:
- Sa di: Người mới vào chùa tập sự tu hành, chưa thọ giới tỳ kheo; trong chùa thường gọi là chú tiểu. Tiếng Pali là Sāmanera.

- Sử Mã: Tên vị Sa di nầy, tiếng Pali là Sumana.

- A Na Luật: Còn gọi là A Nâu Nâu Đà, đại đệ tử của đức Phật Thích Ca; tên tiếng Pali là Anuruddha.

- A Nan: Tên vị thị giả hầu bên Phật, tiếng Pali là Ānanda.

- Hi Mã Lạp Sơn: Tên dãy núi cao nhứt thế giới ở biên giới Ấn Độ và Trung hoa; tiếng Pali là Himalaya, có nghĩa: quanh năm có tuyết.

- An Nô Ta: Tên hồ nước nầy, tiếng Pali là Anotatta.

- Thần thông: Khả năng đặc biệt như bay bổng trên không, đi trên mặt nước v.v... nhờ định lực tu tập cao.

- Tuổi đời: tuổi đời khác với tuổi đạo; cứ tham dự mỗi mùa an cư kiết hạ là tăng thêm một tuổi đạo; tuổi đạo còn gọi là lạp tuế.
B. NGHĨA Ý:
(1) Ý nghĩa của Tích chuyện:

Tích chuyện thuật lại việc một vị sa di bảy tuổi đời, học đạo rất giỏi đắc được thần thông, chứng quả A la hán. Vị ấy mang lu nặng từ chùa Đông Viên bay đến hồ An Nô Ta lấy nước, cách đó hơn mấy trăm dặm, đem về cho Phật, được mọi người thán phục.

Ý nghĩa của Tích chuyện: mặc dầu nhỏ tuổi, nếu tu tập chuyên cần, cũng chứng được quả vị cao.

(2) Ý nghĩa bài Kệ số 382:

Bài Kệ ý nghĩa rất rõ ràng: tu hành tinh tấn, mặc dầu còn trẻ tuổi, cũng chứng được quả vị cao, đức hạnh sáng ngời như vừng trăng thoát khỏi mây mờ.
HỌC TẬP:
Chẳng phải vì mong đắc được thần thông mà cố sức tu tập đêm ngày; chính sự phá tan các phiền não, giải thoát được thân tâm, khỏi cảnh khổ tái sanh lận đận, mới là mục đích chơn chánh.
Hình ảnh


Đã khóa

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]21 khách