SỰ HỘI TỤ GIỮA KHOA HỌC VÀ TÂM LINH

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
hungdinh
Bài viết: 1
Ngày: 04/05/09 23:19
Giới tính: Nam
Đến từ: BinhDinh

SỰ HỘI TỤ GIỮA KHOA HỌC VÀ TÂM LINH

Bài viết chưa xem gửi bởi hungdinh »

Những khám phá gần đây của nền vật lý hiện đại cho thấy một số quan niệm của Phật giáo sơ thủy hãy còn ở mức đơn giản cần phải được xem xét lại. Mặt khác, chỗ bế tắc của khoa học ngày nay là cái chấp vào sự phân biệt chủ thể và khách thể, là ý niệm về một thực tại khách quan ở ngoài ta, và một cái tôi chủ thể riêng rẽ độc lập với ngoại giới. Phật giáo, trong khi đó, từ ngàn xưa đã đưa ra “ mô hình chặt chẽ “ để có thể nhìn thấu suốt tới cái chân bản thể của thế giới và con người. Phật giáo và khoa học giờ đây có thể ngồi lại với nhau với hy vọng góp sức vào việc mang lại hạnh phúc cho nhân loại.

Albert Einstein (1879-1955) là người triển khai thuyết Tương đối cách đây đúng một thế kỷ. Vào thời kỳ đó, người ta cho rằng nền vật lý đã phát triển hết mức rồi, và những khám phá sau này chỉ thêm được những con số thập phân nằm sau dấu phẩy mà thôi. Nhưng với thuyết Tương đối và lý thuyết cơ học lượng tử của Einstein đã đóng góp rất nhiều cho nền vật lý hiện đại ngày nay. Suốt một trăm năm qua, hai nền vật lý tương đối và lượng tử được phát triển cao độ với những lý thuyết mới cũng như các phương pháp thực nghiệm mới. Giúp người ta có thể nghiên cứu từ lĩnh vực vô cùng nhỏ của nguyên tử và hạ nguyên tử đến mức độ vô cùng lớn của các thiên hà cách ta hàng tỉ năm ánh sáng. Trong quá trình khảo sát những đơn vị nhỏ nhất của vật chất, nền vật lý lượng tử phát hiện rất nhiều "nghịch lý". Những nghịch lý đó nêu lên những câu hỏi quan trọng về triết học, về nhận thức luận, về bản thể học...

Trong thời điểm hiện nay, theo thuyết lượng tử, vật chất có những đặc tính "nghịch lý" sau đây:

• Nghịch lý 1/. Các đơn vị vật chất (thí dụ electron) có những đặc tính khác nhau. Khi thì nó xuất hiện như hạt (dạng hữu hình), khi thì như sóng (dạng vô hình), tùy theo điều kiện xung quanh và tùy theo các phương tiện quan sát và dò tìm chúng (tức là tùy thuộc vào nhân duyên). Đặc tính này được xem là một nghịch lý vì sóng và hạt là hai dạng tồn tại của vật chất hoàn toàn khác nhau, loại bỏ lẫn nhau. Thế nhưng hai dạng tồn tại đó của vật chất được kết quả thực nghiệm thừa nhận một cách thuyết phục, do đó người ta vẫn chấp nhận chúng như hai dạng tồn tại song song, thậm chí thiết lập mối quan hệ về toán học giữa hai bên một cách dễ dàng (phương trình sóng hạt của Schrödinger).

• Nghịch lý 2/. Vì nguyên lý bất định (do Heisenberg tìm ra) nên ta không thể nào biết được một electron có chức năng gì và nó đang ở đâu, một electron có thể có mặt ở nhiều nơi cùng một lúc, cách hiểu này hoàn toàn mới lạ so với vật lý học cổ điển, vốn cho rằng mọi vật đều có tính cách chỉ định. Trong kinh Hoa Nghiêm có lần Đức Thế Tôn có mặt một lần ở cả ba cõi: Ngài đến thăm cõi trời Dạ Ma, đồng thời cũng có mặt ở cõi Ta Bà và cõi trời Đao Lợi nữa. Trong thời hiện đại ngày nay thì có nữ thiền sư Dipa Ma (1921-1989) người Ấn Độ có thể cùng một lúc phân thân ra ở hai nơi. Cuộc đời bà được ghi lại trong sách “Knee Deep In Grace” (sưu khảo của Amy Schmidt, bản dịch Việt ngữ là “Ngập Sâu Trong Ân Sủng” ).

Sau đây là một trích đoạn trong sách:

“Đôi khi Dipa Ma và em bà là Hema đi đến trình pháp với thiền sư Munindra (người thầy của bà) bằng cách bất thần hiện hình lên trong phòng ông, và Dipa Ma cũng có lúc bước ra khỏi phòng xuyên qua cánh cửa khép chặt. Cũng tựa như trò đùa, bà đứng lên khỏi ghế, bước tới vách gần đó và đi ngang qua tường...

“Nếu bà đi bộ một mình trong đêm tối, bà phân thân ra, thành có thêm một bạn đồng hành đi bên cạnh, để khỏi bị ai khuấy phá.

“Khả năng của Dipa Ma về địa hạt nầy đã được trắc nghiệm lại và được một nhóm khoa học gia khác xác nhận. Thiền sư Munindra có quen biết với một giáo sư về Cổ sử Ấn độ tại truờng Đại học Magadh, ông ấy đã tỏ ra rất nghi ngờ về các năng lực thần thông. Munindra mới đưa đề nghị chứng minh sự có thật của các năng lực thần thông và cả hai ông cùng thiết lập một cuộc thử nghiệm. Vị giáo sư liền nhờ một người sinh viên tín cẩn ngồi canh chừng trong căn phòng Dipa Ma đang ngồi thiền, để chắc chắn rằng bà chẳng hề rời khỏi chỗ ngồi của bà trong phòng. Đến ngày đã hẹn trước, người sinh viên kiểm nhận là Dipa Ma chẳng hề rời khỏi tư thế ngồi thiền, và cùng lúc ấy, bà lại hiện lên trong văn phòng của vị giáo sư cách đó mười dặm và trò chuyện cùng ông...

“Dipa Ma còn có khả năng nhìn thấy hay nghe đến các biến cố xảy ra ở nơi khác và vào một thời kỳ khác. Khi nhà ngoại giao Miến điện, U Thant, sắp lên lãnh chức vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, thì thiền sư Munindra biết U Thant sẽ đọc một bài diễn văn nhậm chức, ông bảo Dipa Ma hãy đi vào tương lai và ghi nhớ lại nội dung bài diễn văn đó. Bà liền đọc lại bài diễn văn đó và thiền sư Munindra ghi âm vào máy. Một tháng sau, U Thant đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, đúng từng chữ một với bài văn Dipa Ma đã tiên đoán.

• Nghịch lý 3/. Trong một số trường hợp, hai đơn vị vật chất (Thí dụ hai electron trước đó thuộc về một nguyên tử nay đã bị cách ly) có một mối liên hệ liên thông. Hai đơn vị đó "biết" đến tình trạng của nhau một cách tức thời, dù chúng bị cách ly với khoảng cách xa bất kỳ. Đặc tính thứ ba của vật chất này mới nghe qua không có gì to tát lắm, nhưng thực ra nó dẫn ta tới nghịch lý quan trọng nhất từ xưa tới nay. Đó là, vì tính chất "liên thông" này, đã thật sự phủ định quan niệm: có một thế giới khách quan tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức con người. Nhưng trước hết ta cần giải thích do đâu mà có đặc tính thứ ba nói ở trên. Năm 1935, Einstein và cộng sự đề nghị một phép thí nghiệm, thí nghiệm nổi tiếng này được mệnh danh là nghịch lý EPR (chữ viết tắt tên của ba tác giả của nó: Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan Rosen). Ở đây ta chỉ trình bày EPR một cách hết sức đơn giản. Trong nghịch lý này, Einstein cho cách ly hai đơn vị vật chất A và B ( Thí dụ hai electron ), chúng vốn nằm trong một thể thống nhất (Thí dụ nằm trong một nguyên tử) và do đó chúng sẽ có sẵn một mối liên hệ với nhau ( Thí dụ tổng số spin của chúng bằng không). Nay ta cách ly chúng hàng vạn dặm, không để cho chúng có thể tương tác lẫn nhau. Khi đo một trị số spin của A thì B lập tức có một trị số, để tổng số của chúng bằng không. Điều đó có nghĩa hai hạt A và B có mối liên hệ liên thông dù cách xa hàng vạn dặm, tuy bị tách rời hai hạt này hành xử như là một khối thống nhất. Dường như có một sự tương tác đáng kinh ngạc và sâu sắc ở nơi linh hồn của vật lý. Người ta ngờ rằng thế giới hiện lên trước mắt ta sở dĩ có tính chất riêng tư là vì hành động đo lường (nhận thức) của chính chúng ta. Thế thì phải chăng thế giới mà chúng ta đang thấy vì ta đo lường nó (hay nói chung vì ta nhận thức nó) mà nó "có"? Phải chăng nó không hề tồn tại độc lập? Thế nhưng đi xa hơn nữa, người ta phải thấy "ý thức thông thường" của con người là một loại "ý thức" bị qui định trong tầm nhìn vật lý cổ điển, bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại, không tương thích với tính chất lượng tử của nền vật lý mới. Nhà vật lý Nick Herbert viết như sau: "Nguồn gốc của mọi nghịch lý lượng tử hình như xuất phát từ thực tế là, sự nhận thức mang tính chất cổ điển của con người, tạo ra một thế giới gồm những thực thể riêng biệt trong khi đó thế giới lượng tử thì hoàn toàn không phải như thế".

David Bohm (1917-1992), nhà vật lý lý thuyết, giáo sư tại Đại học London, đã đưa ra một thí nghiệm làm cho tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng đó là: Ảnh toàn ký (Holo-Gram). Đầu tiên, một vật thể ba chiều được chiếu rọi bằng laser và sau đó cho phản chiếu lên phim. Tấm phim lại được rọi bằng một nguồn laser khác. Hai nguồn laser sẽ giao thoa với nhau trên phim và ảnh giao thoa ( ảnh toàn ký ) sẽ được ghi lại trên phim. Ảnh toàn ký chỉ là những nét chi chít đậm nhạt hầu như vô nghĩa. Thế nhưng nếu ta rọi phim đó bằng một nguồn laser thì sẽ hiện lên hình ảnh của vật thể ban đầu trong dạng ba chiều.

Điều kỳ lạ là nếu ta cắt tấm phim ra làm hai phần và chỉ rọi một nửa thì toàn bộ hình ảnh ba chiều vẫn tái hiện. Nếu ta cắt nhỏ tấm phim ra thành những đơn vị rất nhỏ, thì hình ảnh toàn phần ba chiều vẫn hiện lên đầy đủ. Điều đó có nghĩa, mỗi phần nhỏ nhất của tấm phim vẫn chứa đầy đủ nội dung toàn phần của vật thể ban đầu. Như vậy Bohm kết luận thế giới hiện ra trước mắt ta như chỉ là một phần của ảnh toàn ký của một thực tại sâu kín, tuy là một phần nhưng nó vẫn chứa đầy đủ những tính chất, thông tin của thực tại đó. Và ông cũng giải thích được câu nói: "Trên đầu một cọng cỏ chứa tam thiên đại thiên thế giới" (tư tưởng Hoa Nghiêm).

Theo Bohm vũ trụ, thế giới vật chất mà ta đang thấy xung quanh mình, là dạng hình được khai triển từ một thực tại sâu kín hơn. Thực tại sâu kín này là một cái toàn thể bất khả phân, không thể định nghĩa, không thể đo lường. Trong thực tại này mọi sự đều có liên kết chặt chẽ với nhau. Thực tại này không nằm yên mà luôn luôn vận động nên được mệnh danh là "sự vận động toàn thể" (Holo-Movement) và nó là nguồn gốc, là cơ sở của mọi dạng xuất hiện của vật chất và tâm thức.

Hãy nêu lên vài ẩn dụ để tới với cách nhìn này: Trong cơ thể sinh vật, mỗi một tế bào nhỏ nhất cũng chứa DNA, thông tin của toàn bộ cơ thể đó. DNA cũng là một hình ảnh dễ hiểu của quan niệm "một trong tất cả, tất cả trong một". Thí dụ giản đơn và có tính cơ giới hơn là một thanh nam châm với hai cực nam bắc. Nếu ta cắt thanh nam châm đó làm hai thì lập tức chỗ cắt sẽ sinh ra hai cực nam bắc. Nếu tiếp tục cắt thì ta sẽ có tiếp những thanh nam châm nhỏ hơn nữa. Do đó ta có thể nói mỗi điểm trong thanh nam châm đã chứa "ẩn tàng" hai cực nam bắc. Có cắt thì hai cực đó mới hiện ra, không cắt thì chúng nằm trong dạng "nội tại".
Nay, khi thuyết của Bohm xem thế giới hiện tượng chỉ là sự trình hiện của một thực tại sâu kín hơn – khi đó, Bohm đã làm một bước nhảy vọt về nhận thức. Hệ tư tưởng xem "các vật ở ngoài nhau" có từ thời Hy Lạp cổ đại, đó là đặc trưng của nền vật lý cổ điển. Ngược lại, theo Bohm, thực tại là một thể thống nhất đang vận động, không thể phân chia, không thể đo lường mà một số dạng xuất hiện của nó hiện ra với ta như những đơn vị tách lìa nhau và có tính chất ổn định tương đối. Những đơn vị vật chất, chỉ là một cái tên tạm đặt cho một khía cạnh xuất hiện của thực tại đó. Vật chất chỉ là một số dạng được "dẫn xuất" từ thực tại đó. Các qui luật vật lý đều là những lý thuyết áp dụng cho một số hiện tượng xuất phát từ sự vận động toàn thể đó.

Thuyết của Bohm không thể không làm ta liên tưởng đến triết học Phật giáo. Quan niệm "tất cả trong một, một trong tất cả" chính là tư tưởng Hoa Nghiêm. Chủ trương "thực tại xuất hiện như một cảnh tượng khi bị quan sát" đã được Kinh Lăng Nghiêm nói đến. "Sự sống, ý thức lẫn vật chất đều lưu xuất từ một thể" chính là quan niệm Duy thức trong Phật giáo Đại thừa.

Kinh Lăng Nghiêm nói về một thể uyên nguyên, được tạm gọi là "Chân tâm". Tính chất của "Chân tâm" là phi hình tướng, phi tính chất, không thể nghĩ bàn. Chân tâm có hai "công năng" như sau: lặng lẽ chiếu soi và tự chiếu soi mình. "Chiếu soi" có thể được hiểu như "nhận thức" trong ngôn ngữ hiện đại.

Xuất phát từ một Chân tâm thuần túy "lặng lẽ chiếu soi" đó, bỗng một "vọng tâm" nổi lên, đó là lúc Chân tâm quay qua "tự nhận thức chính mình" và thấy có một thể bị nhận thức và một thể nhận thức. Theo ngôn ngữ hiện đại thì với "vọng tâm", xuất hiện một lúc hai thể tính: người quan sát và vật bị quan sát. "Vọng tâm" được Kinh Lăng Nghiêm so sánh với cơn buồn ngủ. Khi ngủ mê, thì hiện ra giấc mộng, trong đó có người có ta, có cảnh vật, có diễn biến, có không gian và có thời gian. Nếu tỉnh dậy thì tất cả cảnh vật trong mơ cũng không còn. "Nếu vọng tâm sinh khởi thì các pháp đều sinh khởi, vọng tâm diệt đi thì các pháp đều diệt". Khuynh hướng của chúng ta là rất thích chia chẻ thế giới được cảm nhận thành ra những vật thể riêng lẻ và nhận chính mình là một cá thể cô lập, khuynh hướng đó được xem là một vọng tưởng xuất phát từ một tâm thức hay phân biệt đánh giá. Phật giáo xem khuynh hướng đó là vô minh, đó là một dạng của vọng tâm, cần vượt bỏ.

Đối với Phật giáo, thế giới hiện tượng trước mắt là một huyễn cảnh như "hoa hiện trong hư không". Thế giới đó trình hiện cho một quan sát viên nhất định, mỗi quan sát viên có một thế giới. Thế nhưng như ta đã nói ở trên, quan sát viên lẫn thế giới hiện tượng đều là phần tử của Chân tâm nên đều chính là Chân tâm cả. Cả hai đều lưu xuất từ Chân tâm, bị "vọng tâm" mà thấy có chủ thể (người quan sát) và khách thể (vật bị quan sát).

Thêm một bước vọng hóa, người quan sát lại làm hai lần "lầm lạc", đó là: 1) sinh khởi thương ghét, yêu thích hay từ chối đối với vật được quan sát vì tưởng rằng những sự vật tồn tại độc lập ở "bên ngoài" (Chấp pháp) và 2) người đó tưởng mình là một chủ thể có thực, có một cái Tôi tồn tại riêng biệt ở "bên trong" (Chấp ngã).

Xuất phát từ hai thành kiến chấp pháp và chấp ngã, nhất là với tâm lý yêu ghét, người quan sát sinh ra vô số quá trình "vọng tâm" với nhiều mức độ tâm lý với nhiều tính chất khác nhau, chồng chất bao phủ lên nhau. Do đó mà Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức được gọi chung là "ngũ uẩn", được sinh ra và phát triển. "Ngũ uẩn" bao phủ dày đặc quanh cá thể với các dạng tâm lý và vật lý. Thế giới đang bao trùm xung quanh chúng ta chỉ là một thế giới đang hiện lên cho mỗi cá thể chúng ta, thế giới đó gồm vật chất (Sắc), tức là các dạng vật chất quanh ta cùng với thân thể ta, cộng với các hoạt động tâm lý (Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đang được duy trì và phát triển liên tục. Mỗi thế giới đó tuy là có giá trị cho mỗi cá thể nhưng chúng hòa vào nhau, tưởng chừng như thể nhiều cá thể, toàn xã hội, toàn loài người...có chung một thế giới. Đó là vì "cộng nghiệp" chung của nhiều cá thể làm cho những cá thể đó thấy chung một thế giới, như thể chỉ có một thế giới duy nhất.

Điều nói trên còn dẫn đến một triết lý sâu xa hơn nữa, đó là "Pháp vô ngã", "Nhân vô ngã". "Pháp vô ngã" cho rằng không có sự vật nào tồn tại với tự tính riêng của nó cả, tất cả đều chỉ là sự biến hiện làm ta thấy "có" khi đủ điều kiện (nhân duyên sinh) để cho sự vật trình hiện trước mắt ta. "Nhân vô ngã" cho rằng con người mà ta tưởng là có một cái Tôi đứng đằng sau chỉ là sự vận hành vô chủ của ngũ uẩn. Các tình trạng của ngũ uẩn (thân và tâm) diễn ra, cái này tiếp nối cái kia, nhưng không ai làm chủ chúng cả. Triết lý nhân vô ngã và pháp vô ngã cho thấy mặc dù thế giới hiện tượng và thế giới tâm lý vận hành liên tục nhưng đó là sự vận động nội tại của nó, không ai làm chủ cho chúng cả. Nghiệp lực của cá thể và của toàn thể là tác nhân làm thế giới vật chất được duy trì, nó làm cho vũ trụ được sinh ra và phát triển. "Này A-nan, như người đau mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên “vọng thấy” cái đèn có vầng đỏ hiện ra…Như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung tạo của họ nên đồng thấy có những điềm không lành hiện ra. Lên một từng nữa là toàn cả chúng sinh trong mười phương thế giới ngày nay đây, đều do “vô minh vọng động từ vô thỉ” nên đồng vọng thấy có thế giới chúng sinh hiện ra vậy".( Lời Phật trong Kinh Lăng Nghiêm).

Ngũ uẩn không phải là năm yếu tố riêng lẻ lẫn nhau mà vì chúng có chung nguồn gốc Chân tâm nên chúng dung thông và chứa đựng lẫn nhau trong tinh thần "một trong tất cả, tất cả trong một". Một hệ quả của quan niệm này là mọi hoạt động trong tâm lý (Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều có dấu vết trong vật lý (Sắc) và ngược lại mọi điều chỉnh trong vật lý đều có tác dụng trong tâm lý. "Sắc là Không, Không là Sắc" (tư tưởng Tâm Kinh). Mỗi người quan sát sống trong một thế giới riêng của họ, thế giới tưởng là chung cho tất cả chẳng qua là do cộng nghiệp xây dựng thành. Nhưng con người thường hay muốn sửa đổi thế giới vật lý phải như thế này, phải như thế kia theo ý của họ mà họ không biết rằng khi họ sửa tâm của họ thì chính là họ đang sửa thế giới vậy.

Để kết thúc bài này, chúng ta hãy đọc lại một nhận xét của nhà bác học Einstein : “ Trong tương lai, thế giới sẽ có chung một tôn giáo. Một tôn giáo vượt thoát khỏi ảnh hưởng của thần linh. Một tôn giáo phù hợp với tiến bộ của khoa học. Tôn giáo đó chỉ có thể là Đạo Phật vậy ”.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.32 khách