Như vậy, từ Đức Phật 27 và Đức Phật 28 thì Tam Thế thờ trong chùa là 3 Đức Phật: Phật Ca Diếp - Phật Thích Ca - Phật Di Lặc.TIỀN THÂN CỦA 28 VỊ PHẬT
Tiền thân của hai mươi tám vị Phật tức là những câu chuyện quá khứ khi các ngài còn hành đạo Bồ tát.
Thuật ngữ Bồ Tát có thể có nguồn gốc ở thế kỷ II trước Tây Lịch. Từ Bodhisattva rất cổ và xuất hiện trong Pali Nikayas đầu tiên hầu như độc quyền là chỉ cho Ðức Phật Cồ Đàm (Gautama) từ khi nhập thai vào hoàng hậu Maya đến khi thành thái tử Sĩ Ðạt Ta rồi sa-môn Cồø Ðàm cho đến đêm trước khi giác ngộ thành phật Thích-Ca Mâu-Ni. Nhưng trong những kinh Pali, đặc biệt rất nhiều trong kinh Bổn sanh đã kể chẳng những từ khi thái tử Sĩ Ðạt Ta từ cõi trời Ðâu Suất nhập thai cho đến phút cuối cùng của đêm thứ 49 trước khi ngài thành đạo; kể cả từ kiếp đầu tiên vào thời Ðức Phật Nhiên Ðăng, lúc đó Ðức Phật Thích Ca là ba-la-môn Thiện Huệ (Sumedh) đem của cải tích trừ từ bảy đời của cha mẹ ông để bố thí, rồi xuất gia vào núi tu thiền được chứng đắc các thiền và thần thông. Sau nghe tin có Ðức Phật Nhiên Ðăng ra đời, sẽ đi qua đoạn đường gần chỗ ông, dù có thần thông, nhưng ông vẫn lấy sức mình lấp sửa đường lại cho Phật và chúng tăng đi. Ðã đến giờ Phật và chư tăng ngự tới, vẫn chưa xong, ông bèn phát nguyện tu hạnh bố thí thân mạng nằm xuống chỗ đoạn đường chưa làm xong để Phật đi với lời nguyện cầu thành Phật. Ðức Phật Nhiên Ðăng liền thọ ký vị đạo sĩ Balamôn trong bốn A tăng kỳø và 100.000 đại kiếp nữa sẽ thành Phật tên Gotama, tại xứ Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattu), cha tên Tịnh Phạn Vương (Suddhodana), và mẹ là hoàng hậu Mya… sẽ hành đạo trong sáu năm mới thành Chánh quả dưới cội cây Bồ Ðề.
Từ đó trải qua vô số kiếp mà Ðức Phật đã nói cụ thể là từ Ðức Phật Nhiên Ðăng đến Ðức Phật Ca Diếp là bốn a tăng kỳø và trăm ngàn đại kiếp. A tăng kỳ và đại kiếp là thời gian rất lâu, ta chỉ biết rằng vô số thân không thể tính kể, khi là thú, là người, là chư thiên… cho đến kiếp cuối cùng giáng trần nhập thai trong bụng Maya, thị hiện như một thái tử Sĩ Ðạt Ta, sa môn Cù Ðàm đi tìm chân lý thoát khổ, thoát sanh già bịnh chết… thì đó là Bồ Tát. Còn sau khi thành đạo thì ngài là Phật rồi chứ không còn là Bồ Tát nữa.
Trong Katha- Vatthu (XXIII, 3, trang 623, IV, 7, 8, trang 283-90), cũng có nói đến hành động của Bồ Tát, những biểu tượng trên thân Bồ Tát, sự tái sinh của Bồ Tát trong nỗi phiền muộn, sự thực tập khổ hạnh… đã được bàn bạc đến.
Trong kinh Bổn Sanh Ðức Phật đã xác định rằng: “Trước khi ta thành đạo, khi ấy ta chỉ là một bồ tát”. (In the days before my enlightenment, whereas yet i was only a Bodhisatta) hay trong kinh Trung Bộ, kinh Ariyapariyesana, trang 45 nói: “Này các Tỳ kheo, trước khi giác ngộ trong lúc ta là một vị Bồ Tát, tâm Ta luôn tìm kiếm nguyên nhân cái gì đã đưa đến sanh. Câu hỏi này đã xuất hiện trong tâm Ta “Tại sao Ta bị đưa đến sanh? Do bởi vì ngã” …
Cũng theo tinh thần nguyên thủy này, thuật ngữ Bồ Tát chẳng những chỉ cho Ðức Phật Cồ Ðàm từ lúc nhập thai đến trước khi ngài giác ngộ, chỉ cho vô số thân hành Ba-la-mật trước kia của Ðức Phật Cù Ðàm… đến lúc ngài thành Phật Thích Ca Mâu Ni, mà khái niệm này được mở rộng ra chỉ cho tất cả chư Phật khác từ lúc nhập thai cho đến trước khi giác ngộ như sáu Ðức Phật trước kế cận Ðức Phật Cồ Ðàm là Phật Tỳ Bà Thi (Vipass), Thi Khí (Sikh), Tỳ Xá Phù (Vessabh), Câu Lưu Tôn (Kakusbandho), Câu Na Hàm Mâu Ni (Koagamana), Phật Ca Diếp (Kassapa). Hay hai mươi lăm hay nói đủ tiền thân của hai mươi tám vị Phật quá khứ (Sở dĩ có nơi nói 25 vì tính từ Phật Nhiên Ðăng đến thời ngài là hai mươi lăm vị này tiền thân Ðức Phật thích Ca đều có gặp và được thọ ký sẽ thành Phật tương lai là Cồø Ðàm (Gotama). Trước Phật Nhiên Ðăng có ba vị Phật nữa, là hai mươi tám vị, tiền thân Ðức Phật Thích Ca có gặp nhưng chưa được thọ ký thành phật tương lai, vì vậy trong kinh Nguyên Thuỷ (Theravada) hay Ðại thừa (Mahayana) có nơi chỉ nói hai mươi lăm vị tính từ Phật Nhiên Ðăng trở đi, thì những hai mươi lăm, hai mươi tám vị này từ lúc nhập thai đến lúc trước khi giác ngộ đều là những Bồ Tát.
Trong Buddhavamsa thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddha-Nikaya) đã nói Ðức Phật đã gặp và biết tên của hai mươi bốn vị Phật này (tính Phật Thích Ca nữa là hai mươi lăm vị) trong suốt thời gian hành Bồ Tát đạo (During his apprenticeship as Bodhisattva under each of the twenty- four Buddhas).
Trong cuốn Chánh Giác Tông (Buddhavamsa), do Bhikkhu Bửu Chơn dịch, có đề cập đến hai mươi tám vị Phật quá khứ bằng câu chuyện như sau:
Một hôm Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật giải thích cho ngài Xá Lợi Phất rằng: cách đây bốn a tăng kỳø kiếp và 100.000 đại kiếp có bốn Ðức Phật nối tiếp ra đời trong quả địa cầu này. (Câu chuyện mỗi Phật thì dài, tôi chỉ rút gọn và chú ý về thời gian hành đạo tức thời gian tu Ba-la-mật, tuổi thọ và điểm đặc biệt là sự giác ngộ của các ngài đều là dưới các gốc cây với nhiều tên khác nhau. Ðây cũng là điểm đặc biệt của các đấng giác ngộ, của phật giáo và tự nhiên, giản dị và hòa hợp với môi trường thiên nhiên của trời đất).
1) Tanhanka Buddhavaso: tu mười sáu a tăng kỳ và trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo bảy ngày và giác ngộ dưới gốc cây Sứ (khác với Ðức Phật Thích Ca, hành đạo sáu năm và giác ngộ dưới cây bồ đề). Tuổi thọ mười muôn năm (Chớ không phải như mình cao lắm là bách niên giai lão, một trăm tuổi là quá nhiêàu).
2) Midhanka Buddhava: tu tám a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo mười bốn ngày và giác ngộ dưới gốc cây Vông Ðồng. Tuổi thọ chín muôn năm.
3) Sarananka Buddhavaso: tu tám a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo ba mươi ngày và giác ngộ dưới gốc cây Cẩm lai (chrâneang). Tuổi thọ bảy ngàn năm.
(Những tiền thân Bồ Tát quá khứ của Ðức Phật Thích ca có gặp ba vị Phật này, nhưng chưa được ba vị này thọ ký lời nào).
4) Dpakara Buddhavaso (tức Ðức Phật Nhiên Ðăng): tu mười sáu a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo bảy ngày và giác ngộ dưới gốc cây Sơn. Tuổi thọ mười muôn năm. Giáo pháp của ngài được lưu truyền một trăm ngàn năm.
Sau khi Ðức Phật Dpakara nhập diệt, trải qua một thời gian một a tăng kỳ kiếp không có Ðức Phật nào ra đời. Rồi Ðức Phật kế đó là:
5) Koaa Buddhavaso: đã tu mười sáu a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo mười tháng và giác ngộ dưới gốc cây Thị. Tuổi thọ mười muôn năm. Giáo pháp được lưu truyền mười muôn năm mới mãn.
Sau đó một a tăng kỳ kiếp, có bốn Ðức Phật kế tiếp là:
6) Magala Buddhavaso: tu mười sáu a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo tám tháng và giác ngộ dưới gốc cây Mù u. Tuổi thọ chín muôn năm. Giáo pháp lưu truyền chín muôn năm mới mãn.
7) Sumana Buddhavaso: Ngài hành đạo mười tháng và giác ngộ dưới gốc cây Mù u. Tuổi thọ chín muôn năm. Giáo pháp được hưng thạnh chín muôn năm mới mãn.
8) Revata Buddhavaso: Ngài hành đạo bảy tháng và giác ngộ dưới gốc cây Mù u. Tuổi thọ sáu muôn năm. Giáo pháp lưu truyền sáu muôn năm mới mãn.
9) Sobhita Buddhavaso: Ngài hành pháp Ba-la-mật đã được bốn a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối hành đạo trong bảy ngày và giác ngộ dưới gốc cây bồ đề. Không có giáo pháp để lại.
Sau khi Ðức Phật Sobhita nhập diệt trải qua một a tăng kỳ đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời và sau đó trên một quả địa cầu khác có ba đức Phật kế tiếp ra đời là:
10) Anomadass Buddhavaso: tu mười sáu a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo mười tháng và giác ngộ dưới gốc cây Gòn rừng. Tuổi thọ chín muôn năm. Không có giáo pháp để lại.
11) Paduma Buddhavaso: tu mười sáu a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo tám tháng và giác ngộ dưới gốc cây Mã Tiền. Tuổi thọ mười muôn năm. Không có giáo pháp để lại.
12) Nrada Buddhavaso: tu Ba-la-mật trong bốn a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Kiếp cuối cùng hành đạo bảy ngày và giác ngộ dưới gốc cây Gáo. Tuổi thọ chín muôn năm. Giáo pháp ngài được lưu truyền đến chín muôn năm.
Sau khi Ðức Phật Nrada nhập diệt trải qua một a tăng kỳ kiếp không có Ðức Phật nào ra đời và sau đó trên một quả địa cầu có một đức Phật kế tiếp ra đời là:
13) Padumuttara Buddhavaso: Ngài hành đạo bốn mươi chín ngày và giác ngộ dưới gốc cây dương. Tuổi thọ mười muôn năm.
Sau khi Ðức Phật Padumuttara nhập diệt trải qua một thời gian bảy muôn đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời và sau đó trên một quả địa cầu có hai đức Phật kế tiếp ra đời là:
14) Sumedha Buddhavaso: Ngài hành đạo trong tám tháng, đúng rằm tháng tư thành đạo dưới gốc cây Sầu-đông. Tuổi thọ chín muôn năm.
15) Sujta Buddhavaso: Ngài hành đạo trong chín tháng và giác ngộ dưới bụi tre ngà. Tuổi thọ chín muôn năm.
Sau khi Ðức Phật Sujta nhập diệt, trải qua một thời gian một muôn sáu ngàn đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời và sau đó trên một quả địa cầu có ba đức Phật kế tiếp ra đời là:
16) Piyadass Buddhavaso: Ngài hành đạo trong sáu tháng và đắc đạo dưới gốc cây Cầy (brayong). Tuổi thọ chín muôn năm. Giáo pháp lưu truyền chín muôn năm mới mãn.
17) Atthadass Buddhavaso: Ngài hành đạo trong tám tháng và đắc đạo dưới gốc cây Cầy (brayong). Tuổi thọ mười muôn năm.
18) Dhammadass Buddhavaso: Hành đạo trong bảy ngày đến sáng ngày thứ tám thọ cơm trộn sữa của cô Vicikoliy dâng cúng. Tối đó thành đạo dưới cây Bimaba. Tuổi thọ mười muôn năm. Giáo pháp lưu truyền mười muôn năm mới mãn.
Sau khi Ðức Phật Dhammadass nhập diệt, trải qua một thời gian một muôn bs ngàn chin trăn lẽ bảy đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời và sau đó trên một quả địa cầu có một đức Phật kế tiếp ra đời là:
19)Siddhattha Buddhavaso: Hành đạo trong mười tháng và giác ngộ dưới cây Gòn rừng (Kannika). Tuổi thọ mười muôn năm.
Kế đó trên một quả địa cầu có hai vị Phật kế tiếp giáng sanh như:
20)Tissa Buddhavaso: Hành đạo trong nửa tháng và giác ngộ dưới cây Cẩm lai (Asana). Tuổi thọ mười muôn năm. Giáo pháp của ngài lưu truyền mười muôn năm mới mãn.
21)Pussa Buddhavaso: Hành đạo sáu tháng bảy ngày và giác ngộ dưới cây Tầm ruột rừng. Tuổi thọ chín muôn năm.
Kế đó trên một quả địa cầu có vị Phật ra đời kế tiếp là:
22) Vipass Buddhavamso (Ðức Phật Tỳ Bà Thi): Hành đạo trong tám tháng, đắc đạo dưới cây Cẫm lai (Patali). Tuổi thọ tám muôn năm. Giáo pháp lưu truyền tám muôn năm mới mãn.
Sau khi Ðức Phật Vipass nhập diệt, trải một thời gian là năm mươi chín đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời. Kế đó có một quả địa cầu có hai vị Phật ra đời kế tiếp là:
23) Sikh Buddhavaso (Ðức Phật Thi Khí): Hành đạo trong tám tháng và đắc quả dưới gốc cây xoài tượng. Tuổi thọ bảy muôn năm. Giáo pháp lưu truyền bảy muôn năm mới mãn.
24) Vessabh Buddhavaso (Ðức Phật Tỳ Xá Phù): Hành đạo trong sáu tháng và giác ngộ dưới cây Long Thọ (Sala). Tuổi thọ sáu muôn năm.
Sau đó trải qua hai mươi chín đại kiếp không có Ðức Phật nào ra đời dạy đạo cả. Cho tới khi quả địa cầu chúng ta đang ở đây xuất hiện. Và tại đây có năm vị Phật giáng sanh (ba vị quá khứ, một vị hiện tại và một vị vị lai). Ba vị quá khứ như:
25) Kakusandha Buddhavaso (Ðức Phật Câu Lưu Tôn): Hành đạo trong tám tháng. Ngày cuối cùng khi thọ cơm trộn sữa dê của cô Vajirinddh và nhận bó cỏ tranh của Subhatta trải dưới gốc cây Sung (Cheres) ngồi thiền và giác ngộ. Tuổi thọ bốn muôn năm. Giáo pháp lưu truyền bốn muôn năm mới mãn.
Khi ấy chúng sanh làm điều hung dữ nhiều nên tuổi thọ của chúng sanh lần lần bị giảm xuống tới mười tuổi hoặc hơn một chút. Sau đó chán nản những điều tội lỗi, nên quay về làm thiện và tuổi thọ lại tăng đến một a tăng kỳ năm con người mới già chết. Rồi lần lần hạ xuống cho tới thời gian tuổi thọ chúng sanh còn ba muôn năm, khi ấy ra đời Ðức Phật:
26) Kogamana Buddhavaso (Ðức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni): Hành đạo trong sáu tháng, đắc đạo dưới gốc cây Sung. Tuổi thọ ba muôn năm.
Sau đó tuổi thọ chúng sanh lần giảm hạ xuống còn mười tuổi hoặc hơn, rồi lần lần trở lên cho tới một a tăng kỳ tuổi; rồi lại hạ xuống lần lần thọ tới hai muôn năm tuổi, thì có Ðức Phật ra đời là:
27) Kassapa Buddhavaso (Ðức Phật Ca Diếp): Hành đạo trong bảy ngày và giác ngộ dưới gốc cây Da. Tuổi thọ hai muôn năm. Giáo pháp lưu truyền đến hai muôn năm mới mãn.
28) Gautama Buddhavaso (Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni), Hành đạo sáu năm. Vào rằm tháng tư ngài nhận cơm trộn sữa dê của cô Sujt và bó cỏ Kiết Tường của một người chăn cừu trải dưới gốc Bồ đề và tại đây ngài đã giác ngộ. Tuổi thọ tám mươi năm. Giáo pháp của Ðức Phật Thích Ca hưng thịnh đến năm ngàn năm mới mãn.
Ðức Phật Thích ca đã thuyết cho đại đức Xá Lợi Phất rằng: "Tất cả hai mươi tám vị Phật đã qua Như Lai đều gặp cả, nhưng chỉ được có hai mươi lăm vị là từ Ðức Phật Nhiên Ðăng (Dipakara) thọ ký cho đến Ðức Phật Ca Diếp (Kassapa) là bốn a tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp. Như Lai đã thực hành theo mười pháp Balamật (Parmi) đã tròn đủ khi kiếp chót sanh lên cung trời Ðâu Suất, chư thiên mười ngàn thế giới tới thỉnh Như Lai giáng sanh để độ đời vv…"
Ðây là những vị Phật quá khứ mà theo tinh thần Nikaya đều là những vị Bồ Tát.
Tác Giả: Thích Nữ Giới Hương
Tuy nhiên, một số nơi thờ Tam Thế: Phật A DI Đà - Phật Thích Ca - Phật Dược Sư.
Vậy, thỉnh quý vị chỉ dạy Tam Thế Phật đúng là 3 Đức Phật nào ?