Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thường niệm chẳng dứt thì đắc đạo nhanh chóng. Pháp ta như thế, nói ra như thế, cũng nên hành theo hạnh Như Lai hành, vun bồi phước thiện, cầu sanh cõi tịnh.


Giải:
Tám câu trên đây chính là lời tổng kết của cả bản kinh này, là cương yếu tu hành của Tịnh tông. Toàn bộ phần trường hàng do đức Thế Tôn nói ra trong pháp hội này đến đây là hết. Vì thế, tám câu trên chính là những lời nói tối hậu trong Tịnh tông, là lời kết thúc của toàn bộ kinh này. Tám câu ấy nêu trọn cả Lý lẫn Sự, chỉ rõ chánh hạnh và trợ hạnh, giãi bày trọn vẹn bí tạng của Như Lai.
Trước hết là ‘thường niệm chẳng dứt’. Thứ nhất, ‘thường niệm’ là luôn niệm kinh này, như trong phẩm Vãng Sanh Chánh Nhân, ngay nơi câu đầu tiên đã dạy: ‘Nghe kinh điển này thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, ngày đêm liên tục cầu sanh cõi ấy’. Ðấy chính là ý nghĩa thật sự của câu ‘thường niệm chẳng dứt’ trong đoạn này. Phẩm Chẳng Phải Là Tiểu Thừa có câu: ‘Ðối với kinh này tưởng như đạo sư’, phẩm Thọ Ký Bồ Ðề cũng chép: ‘Do chẳng được nghe pháp này, có một ức Bồ Tát thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có chúng sanh biên chép, cúng dường, thọ trì, đọc tụng kinh điển này, trong khoảnh khắc vì người khác diễn nói… lúc người ấy lâm chung dẫu cả tam thiên đại thiên thế giới tràn ngập đại hỏa vẫn vượt qua được, sanh về cõi nước kia’. Thế Tôn bi tâm vô lượng, nhiếp trọn hết không sót nên luôn luôn khuyên trì niệm kinh này.
Ðức Thế Tôn cực lực khuyên nên trì niệm kinh này vì kinh này dạy vô thượng đại pháp nhất thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh. Hành nhân chỉ cần phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm thì ắt được vãng sanh, muôn người tu muôn người được sanh.
Bởi đó, hành nhân thọ trì kinh này ắt phải nên phụng hành đúng theo lời dạy, theo đúng lời Phật dạy, thật sự vì sanh tử phát Bồ Ðề tâm, tin sâu, nguyện thiết trì danh hiệu Phật. Do đó, nói một cách rốt ráo thì ‘thường niệm chẳng dứt’ chính là niệm một câu danh hiệu.
‘Chẳng dứt’ là tịnh niệm tiếp nối. Hành nhân nếu thật sự phát tâm chơn thật, niệm Phật chuyên ròng, chỉ giữ mỗi câu Phật hiệu này cho luôn liên tục trong mọi niệm thì nhất định ‘như người nhiễm hương, thân có mùi hương’. Lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn, từ bi gia hựu khiến tâm chẳng loạn, quyết được vãng sanh, chứng lên bất thoái, sanh trọn vẹn cả bốn cõi Tịnh Ðộ, rốt ráo Niết Bàn.
Vì thế, Phật từ bi khai thị: ‘Thường niệm chẳng dứt thì đắc đạo nhanh chóng’ (thường niệm bất tuyệt, tắc đắc đạo tiệp). ‘Tiệp’ là nhanh chóng, mau lẹ, chẳng hạn như ‘tiệp kính’ là con đường đi tắt cho nhanh. Ở đây, ý nói: một pháp Trì Danh là đường tắt tu hành, trì danh ròng chắc thì đắc đạo rất nhanh chóng. Ðó là do pháp Trì Danh đây lấy tâm này làm Phật, tâm này là Phật, lấy quả giác làm
nhân để phát tâm nên đắc đạo nhanh chóng. Ấy chỉ vì pháp Trì Danh Niệm Phật đây phát xuất từ chính bổn nguyện lớn lao của Phật Di Ðà nên thực hiện thật dễ dành, thành tựu rất dễ dàng. Bởi thế, nó được gọi là pháp dễ hành, được xưng tụng là con đường tắt nhất trong các con đường tắt.
Hai câu ‘pháp ta như thế, nói ra như thế’ chính là ‘tiếng Phật phạm lôi chấn, thuyết pháp sư tử hống’, thật là kim cang vương bảo kiếm chém tan hết thảy tình chấp và kiến hoặc, hiển lộ toàn vẹn bổn tâm của Như Lai.
Phật dùng Phật tâm ấn để ấn chứng kinh này nên bảo là ‘pháp ta như thế, nói ra như thế’. Nói trắng ra, hai câu này để ấn chứng câu ‘thường niệm chẳng dứt thì đắc đạo nhanh chóng’ ở trên. Bốn câu này phải đọc một mạch thì mới lãnh hội nổi ý nghĩa. Có lãnh hội nổi những câu ấy thì mới biết là một pháp Tịnh Ðộ dứt tuyệt đối đãi một cách viên dung.
Lại cũng như Lục tổ của Thiền Tông đã ấn chứng cho người khác như sau: ‘Như thế đó, như thế đó, ông như thế đó, ta cũng như thế đó’. Ý nghĩa chữ ‘như thế’ của Lục Tổ giống hệt với ý nghĩa chữ ‘như thế’ trong đoạn kinh này.
Trong hai câu ‘pháp ta như thế, nói ra như thế’ thì câu trước nghĩa là: pháp của ta là Như, còn câu sau nghĩa là: điều được ta nói ra cũng là Như.
Cả hai câu diễn tả ý: lời ta nói ra chính là pháp của ta. Pháp của ta là Như cho nên lời của ta nói ra phải là Như Như. ‘Như’ là Chơn Như, mà cũng chính là Chơn Tâm, Thật Tướng, tức là Chơn Thật Tế được giảng trong kinh này. Thể của bản kinh này chính là Chơn Như, Thật Tướng, Chơn Thật Tế nên Phật nói: ‘Pháp ta như thế’. ‘Nói ra như thế’ là ‘khai hóa hiển thị Chơn Thật Tế’. Bởi thế, chúng ta biết được rằng ‘pháp của ta’ chính là Chơn Thật Tế, những điều được diễn nói ở đây chính là nhằm để khai thị Chơn Thật Tế, cho nên bảo là ‘nói ra như thế’.
Rõ ràng là mỗi một chữ trong kinh đều từ Như Lai tánh hải đại quang minh tạng tự nhiên biến hiện ra, mỗi một chữ đều thật sự chứa đựng vô biên diệu lý, mỗi một chữ đều được tánh đức và tu đức của Phật Di Ðà trang nghiêm, mỗi mỗi chữ đều nhằm khai thị Phật tri kiến cho bọn ta. Lời chỉ dạy từ mẫn ‘thường niệm chẳng dứt thì đắc đạo nhanh chóng’ chính là do đức Như Lai xứng hợp theo tánh mà thốt ra, là những lời được tâm ấn của Phật in dấu, đều là lời đúng lý do đấng Ðại Từ Bi Phụ dạy ra. Vì thế, ta phải nên chí thành tin nhận, trong hết thảy thời, chốn thường niệm A Di Ðà Phật.
Phẩm này trước hết chỉ rõ pháp vô thượng của Như Lai chẳng dễ được gặp.
Tiếp đó, dạy rõ Tịnh tông là pháp khó tin; dẫu kẻ có khả năng thuyết pháp có thể thuyết giảng nổi các pháp khác, nhưng đối với diệu pháp Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh siêu tình ly kiến này cũng khó lòng khai diễn khiến chúng sanh phát khởi lòng tin nổi! Bởi thế, trong kinh A Di Ðà, mười phương Như Lai khen ngợi đức Thích Tôn ở trong cõi Sa Bà, trong đời ác ngũ trược ‘vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin này’. Mười phương Như Lai đều bảo là khó nói, quả thật đã tỏ rõ ý nghĩa ‘cũng khó khai thị’.
Nếu đối với pháp khó gặp gỡ, khó chỉ dạy này tuy đã được gặp, được nghe mà chẳng sanh lòng tin sâu thì dẫu nghe có ích gì, trọn vẫn là phụ bạc. Còn may mắn mà tin tưởng sâu xa vào kinh này thì thật là một dịp hy hữu, khó gặp trong cả vạn kiếp ngàn năm; cho nên phải siêng tu hành, thường niệm chẳng dứt. Chỉ cần tín nguyện trì danh nổi ắt sẽ nhanh chóng đắc đạo!
Từ chữ ‘hạnh của Như Lai’ trở đi là nói về chánh hạnh và trợ hạnh.
Nguyện thứ tám trong mười đại nguyện vương của ngài Phổ Hiền là ‘thường học theo Phật’. Vì thế, Bồ Tát phải học hành theo hạnh Như Lai đã hành. Mà sở hạnh của đấng đạo sư Di Ðà cõi Cực Lạc là: ‘Nhất tâm chọn lựa những điều ưa thích, kết thành đại nguyện’, ‘trụ chơn thật huệ, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí, trang nghiêm cõi nước nhiệm mầu’; sở hạnh của đấng
Thích Tôn là ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật’. Sở hạnh của mười phương Như Lai cũng cùng vì sự chơn thật ấy nên các ngài đồng thanh khen ngợi ‘công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọ’ hòng khuyên chúng sanh vãng sanh Cực Lạc. Nay bọn ta học theo những điều Phật đã hành thì trước hết phải tuân theo lời Phật dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm.
Sách Di Ðà Yếu Giải viết: ‘Phật lấy đại nguyện làm cái nhân nhiều thiện căn cho chúng sanh, dùng đại hạnh để làm cái duyên nhiều phước đức cho chúng sanh khiến cho tín nguyện trì danh, niệm niệm thành tựu công đức như thế, mà đều là đã thành, chứ chẳng hiện tại, chẳng phải là tương lai’. Nghĩa là: Phật dùng đại nguyện để tạo nên cái nhân ‘nhiều thiện căn’ cho chúng sanh, dùng đại hạnh để tạo cái duyên ‘nhiều phước đức’ cho chúng sanh. Vì thế có thể làm cho người tín nguyện trì danh trong mỗi niệm đều được thành tựu công đức đại nguyện đại hạnh của Phật. Công đức như thế đã thành tựu từ lâu xa, chứ chẳng phải chỉ là mới thành tựu trong hiện tại hay là trong tương lai mới thành. Ấy là vì quả giác của Phật đã viên thành từ lâu rồi. Nay ta niệm Phật là đem cái quả giác của Phật biến thành cái tâm tu nhân của ta, cho nên cái tâm trong lúc tu nhân của ta liền ngang bằng với quả giác. Do ‘niệm Phật thì thiện căn, phước đức nhân duyên giống như Phật’ nên bảo là ‘công đức như vậy đều là thành tựu từ lâu’.
Như Lai chính là vua của các điều thiện, là bậc đức hạnh tôn quý nhất cho nên chúng ta phải bắt chước hành theo. Nhưng đức Như Lai điều thiện nào cũng tu, vạn đức trang nghiêm nên bọn chúng ta phải hành theo các đức của Như Lai, khéo biết căn cơ mình để thuận theo duyên mà tu tập. Chánh hạnh, trợ hạnh hỗ trợ lẫn nhau thì chóng được viên mãn.
‘Vun bồi phước thiện’ là trồng phước, gieo thiện. Kinh đây đã rộng khuyên bỏ ác làm lành, Quán kinh khuyên tu ba phước. Kinh dạy: ‘Muốn sanh về cõi ấy thì phải tu ba phước: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười thiện nghiệp. Hai là thọ trì tam quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến khích hành giả. Ba sự như thế gọi là tịnh nghiệp’.
Phước thứ nhất kiêm đủ Thập Thiện. Quán kinh đã dạy muốn vãng sanh Tịnh Ðộ phải tu ba phước. Do đó ta biết được rằng người tu Tịnh nghiệp chẳng thể xem thường việc vun bồi phước thiện.
‘Cầu sanh cõi tịnh’ chính là chỗ quy kết chung của tất cả giáo pháp trong Ðại Tạng. Kinh Hoa Nghiêm gồm thâu trọn vẹn các giáo mà phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện lại dẫn dắt về Cực Lạc. Nay kinh này chính là kinh Hoa Nghiêm bổn trung.
Cuối kinh đây, Phật khuyên khắp hữu tình cầu sanh cõi tịnh, đồng quy Cực Lạc. Ðiều khuyên lơn ấy chính là bổn nguyện của Phật Di Ðà, là bổn tâm của đấng Thích Tôn và mười phương Như Lai. Thế Tôn khai hóa hiển thị chơn thật tế, thật ra chỉ vì muốn cho chúng sanh được cùng nhập Di Ðà nhất thừa nguyện hải, được cái lợi lớn chơn thật cứu cánh.
Trong tín, nguyện, hạnh thì nguyện là mấu chốt; vượt khỏi biển sanh tử hay không toàn cậy vào nguyện vương. Có nhiều môn phương tiện: Thiền, Mật, Giáo Quán; tu môn nào cũng được, nhưng quy về gốc thời chẳng hai. Trong các
phương tiện thì chỉ có pháp vãng sanh là phương tiện rốt ráo; tu hành pháp khác mà muốn được ngay trong hiện đời siêu thoát khỏi tam giới thì thật là đạo rất khó hành. Chỉ có mỗi cách ‘cầu sanh cõi Tịnh’ mới thật là dễ hành. Chánh hạnh tu hành của Tịnh tông cốt yếu là Trì Danh, nhưng tu tập các môn khác và phát nguyện cầu sanh thì cũng được đức Di Ðà nhiếp thọ vượt ngang ra khỏi ba cõi. Vì thế, ở đây Phật nói ‘cầu sanh cõi Tịnh’ để tổng kết toàn bộ những lời dạy trước đây.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

47. Phước huệ mới được nghe
Sau khi đức Thế Tôn nói trường hàng xong, ngài bèn dùng kệ tụng để trùng tuyên ý trước. Trong phần kệ tụng này, ngài lại nhắc lại điều sai, lẽ đúng, bác cái sai, đề cao cái đúng. Trong phần chỉ rõ cái đúng, lại gồm có ba phần: Một là tin vào vãng sanh; hai là Phật trí khó nghĩ lường; ba là niệm Phật đắc độ.

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng:
Xưa kia nếu chẳng tu phước huệ
Thì chẳng được nghe chánh pháp này
Ðã từng cúng dường các Như Lai
Mới hoan hỷ tin nổi sự này.
Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến
Khó tin Như Lai vi diệu pháp
Như kẻ đui ở mãi trong tối
Chẳng thể chỉ đường cho kẻ khác


Giải:
Bốn câu đầu thể hiện ý nghĩa tên phẩm này ‘Phước huệ mới được nghe’. Ðây cũng chính là như trong kinh đã dạy: ‘Nếu có chúng sanh trồng các cội lành, đã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, do oai lực của đức Như Lai ấy gia bị nên mới được pháp môn quảng đại như thế này nhiếp thủ, thọ trì’.
‘Trồng các cội lành’ trong đoạn kinh trên chính là ‘xưa kia tu phước huệ’. Nếu trước đã chẳng tu ‘thì chẳng được nghe chánh pháp này’.
Ðã từng cúng dường các Như Lai’ chính là như trong đoạn kinh trên nói: ‘Ðã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật’. Người như vậy rộng tu cội lành, lại được oai lực của đức Như Lai gia bị nên ‘mới hoan hỷ tin nổi sự này’.
Kinh Kim Cang nói: ‘Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau đó có kẻ trì giới, tu phước, đối với chương cú mà sanh nổi lòng tin, coi đó là thật thì nên biết là người ấy chẳng phải đã gieo trồng thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã từng ở nơi vô lượng trăm vạn đức Phật gieo các căn lành’. Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật. Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến thì chẳng tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt nổi người khác đi theo đường chánh!

Chánh kinh:
Ðã từng nơi Phật gieo các thiện,
Thì mới tu nổi hạnh cứu đời
Nghe xong thọ trì và biên chép
Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh
Quyết định vãng sanh cõi An Lạc.
Giả sử đại hỏa trọn tam thiên
Nương oai đức Phật vượt qua được


Giải:
Chỉ có hạng người đã từng ở nơi vô lượng đức Phật trồng nhiều cội lành lớn lao mới có thể tu tập hạnh cứu độ khắp hết thảy thế gian này.
Hạnh cứu đời’ chính là như kinh này đã nói: hết thảy hàm linh trong đời tương lai đều nhờ vào pháp này mà được độ thoát. Ai muốn tự cứu và cứu khắp hết thế gian thì đều phải tu hạnh cứu độ thế gian đó. Cái hạnh ấy chính là như đoạn kệ tiếp đó đã nói: ‘Nghe rồi thọ trì và biên chép’… cho đến ‘nhất tâm như thế cầu cõi tịnh’.
Ðoạn trên là nói về việc nghe và tin kinh này, đoạn kệ đây giảng rộng ý nghĩa: từ nghe và tin nên phát khởi hạnh nguyện. ‘Thọ’ là tin nhận, ‘trì’ là gìn giữ. Phụng hành đúng theo lời dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật. Ðồng thời còn biên chép, đọc tụng, khen ngợi, diễn nói, cúng dường kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác này. Với các thứ công đức thắng diệu như vậy đều dùng tâm chí thành, tâm bất nhị hồi hướng Tịnh Ðộ, cầu sanh Cực Lạc nên bảo là ‘nhất tâm như thế cầu cõi tịnh’. Phật liền thọ ký rằng: ‘Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc’.
Hạng người như thế lúc lâm chung ‘giả sử cả tam thiên đại thiên thế giới đều ngập tràn đại hỏa vẫn có thể vượt qua sanh về cõi ấy’ cho nên mới nói: ‘Giả sử đại hỏa trọn tam thiên, nương oai đức Phật vượt qua được’.

Chánh kinh:
Biển Như Lai trí huệ rộng sâu
Chỉ Phật với Phật mới biết nổi
Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí
Trọn hết thần lực chẳng lường nổi
Như Lai công đức Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn khai thị nổi
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ nghe pháp khó bậc nhất


Giải:
Ðoạn này ý nói Phật trí sâu rộng chỉ có Phật mới biết được nổi, hiền thánh Nhị Thừa đều chẳng suy lường nổi, huống hồ phàm phu! Vì thế, ta phải nên bỏ sạch mọi tình chấp, chỉ nên kính tin. Nay ta may được phước huệ đầy đủ nên mới được nghe pháp này thì chớ luống uổng dịp này!
Chữ ‘biển’ là hình ảnh dùng để ví dụ; trí huệ của Như Lai sâu rộng không bờ bến tựa như biển cả nên gọi là ‘biển trí huệ’.
‘Chỉ Phật với Phật biết được nổi’ là như trong phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa đã chép: ‘Ðối với pháp hy hữu khó hiểu bậc nhất do đức Như Lai đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu trọn vẹn thật tướng của các pháp’ và: ‘Vô lậu bất tư nghì, thậm thâm vi diệu pháp, ta nay đã chứng trọn. Mình ta biết tướng này; thập phương Phật cũng thế!’ Ta thấy là pháp vi diệu vô lậu, rất sâu chẳng thể nghĩ bàn mà Phật đã thành tựu và cứu cánh thật tướng của các pháp thì chỉ có Phật mới biết nổi thôi. ‘Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí, trọn hết thần lực chẳng lường nổi’ là như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện đã nói: ‘Ta cùng mười phương Phật mới biết nổi việc này. Pháp này chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ tịch diệt. Các loài chúng sanh khác không ai hiểu được nổi, trừ các vị Bồ Tát có tín lực kiên cố’.
Kinh còn dạy:
‘Bích Chi Phật trí lanh,
Vô lậu tối hậu thân,
Cũng đầy cả mười phương,
Số đông như rừng trúc,
Bọn họ chung một lòng,
Trong ức vô lượng kiếp,
Muốn suy Phật thật trí,
Cũng chẳng biết chút phần’.
Ý nói: Thật trí của Phật chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả nổi. Pháp ấy chẳng thể chỉ bày được, chẳng giảng nói được, ngoại trừ các vị Bồ Tát tín lực kiên cố; còn ngoài ra những kẻ khác không cách nào thấu hiểu nổi.
Như Lai công đức Phật tự biết’ là như trong phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa đã nói: ‘Hết thảy thế gian: trời, người, a tu la đều cho rằng Thích Ca Mâu Ni Phật rời khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng này thiện nam tử! Thật ra ta thành Phật đến nay là đã vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na do tha kiếp. Ví như giả sử có kẻ nghiền cả năm trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới thành vi trần, đi qua khỏi năm trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ cõi mới bỏ một vi trần xuống. Ði mãi về phía Ðông như thế cho đến hết số vi trần ấy. Này các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể suy nghĩ, tính toán để biết được số đó chăng?
Di Lặc Bồ Tát v.v…đều bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng, vô biên, chẳng thể dùng toán số biết nổi, cũng chẳng thể dùng tâm lực suy nổi. Hết thảy Thanh Văn, Bích Chi Phật dùng vô lậu trí cũng chẳng thể suy nghĩ biết nổi số hạn ấy. Chúng con đã ở vào địa vị A Duy Việt Trí mà đối với sự ấy cũng chẳng thể biết rõ. Bạch Thế Tôn! Các thế giới như vậy vô lượng vô biên”.
Lúc bấy giờ, Phật bảo các vị đại Bồ Tát: “Các thiện nam tử! Ta nay phân minh bảo các ông. Các thế giới ấy dù là có đặt một vi trần hay chẳng đặt vi trần, cho đến hết số vi trần ấy, cứ tính một vi trần là một kiếp thì từ khi ta thành Phật cho đến nay còn hơn số đó cả trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ kiếp’.
Kinh đã nói rõ: đối với thọ lượng của Phật thì bậc Bổ Xứ Bồ Tát còn chưa biết nổi, cho nên công đức của Phật chỉ mình Phật tự biết. Bởi thế tiếp theo đó, Phật mới nói: ‘Chỉ có Thế Tôn khai thị nổi’. Khai thị chính là khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến vậy.
Sáu câu kệ trên cực lực tán dương trí huệ của Phật nhằm làm cho chúng sanh hiểu rõ trí huệ sâu thẳm của Như Lai rồi thật sự tin tưởng vào lời Phật dạy. Trong phẩm Thọ Lượng [của kinh Pháp Hoa], đức Thế Tôn ba lượt bảo đại chúng: ‘Các ông nên tin hiểu lời nói thành thật, đúng đắn của Như Lai’.
Ðó là bởi vì dẫu trong suốt cả ức kiếp, hàng Thanh Văn còn chẳng thấu hiểu nổi trí của Như Lai, huống hồ là phàm phu lại há nên dùng cái tâm sanh diệt để suy lường Phật trí một cách hư vọng ư? Vì thế, chúng ta chỉ nên kính ngưỡng, tin lời Phật dạy như phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa đã chép: ‘Với pháp Phật đã thuyết, nên sanh đại tín lực’. Biển cả Phật pháp hễ tin thì được vào.
Thân người khó được’ là như trong tự phần của kinh Phạm Võng đã nói: ‘Một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được’. Kinh Niết Bàn cũng dạy: ‘Thân người khó được như hoa Ưu Ðàm’. Ðược thân người ít như chút đất nơi móng
tay, mất thân người nhiều như đất nơi đại địa.
Phật khó gặp’ là như phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa đã dạy: ‘Tỳ kheo nên biết: Chư Phật xuất thế khó thể gặp gỡ, vì sao vậy? Những người đức mỏng trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp hoặc thấy được Phật, hoặc chẳng được thấy Phật. Do bởi sự ấy, ta nói thế này: Các tỳ kheo, khó thể thấy được Như Lai’.
Lại ngay khi đức Phật ngự trong thành Vương Xá ở Ấn Ðộ mà chỉ có một phần ba người dân trong thành ấy gặp được Phật. Một phần ba số người chỉ nghe danh Phật chứ không được thấy. Một phần ba còn lại chẳng nghe danh, cũng chẳng gặp Phật, đủ thấy gặp Phật là một sự khó.
Tín huệ nghe pháp khó bậc nhất’ chính là như trên đã nói: ‘Nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì thì là điều khó nhất trong các điều khó, không còn gì khó hơn nữa’. Do huệ sanh giải cho nên nghe kinh liền phải tin ưa. Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe, Tịnh tông khó tin; điều khó được nay mình đã được, điều khó nghe nay đã được nghe, điều khó tin nay mình đã tin mà lại còn hiểu biết được bằng trí huệ nữa thì thật là ‘điều khó nhất trong các điều khó’. Phật khuyên hành nhân nên tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh, chớ để luống qua. Ðể lỡ qua dịp này thật là điều mất mát lớn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Nếu các hữu tình sẽ thành Phật,
Hạnh vượt Phổ Hiền lên bỉ ngạn
Vì thế, các bậc trí học nhiều
Phải tin lời ta dạy như thật.
Diệu pháp như thế may được nghe
Nên thường niệm Phật, sanh hoan hỷ
Thọ trì rộng độ dòng sanh tử
Phật bảo người ấy chơn thiện hữu


Giải:
Hai bài kệ trên đây tổng kết toàn bộ bản kinh. Phẩm thứ hai của kinh này được đặt tên là Ðức Tuân Phổ Hiền và các vị Bồ Tát trong hội ‘đều cùng tuân tu hạnh đức của Phổ Hiền đại sĩ’. Cuối bản kinh lại nói: ‘Nếu các hữu tình sẽ thành Phật,
hạnh vượt Phổ Hiền lên bỉ ngạn’. Trước thì nói ‘đức tuân Phổ Hiền’, sao ở đây lại nói ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ nghĩa là làm sao?
Câu ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ trích nguyên văn từ bản Ðường dịch. Dịch giả của bản Ðường dịch chính là ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chí đời Ðường. Phần đầu của bản Ðường dịch cũng ghi: ‘Ðều cùng tuân tu đạo của Phổ Hiền’, cho thấy ý ‘đức tuân Phổ Hiền’ và ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ đều cùng phát xuất từ bản Phạn, chứ chẳng phải là người dịch ghi nhầm.
Chẳng những ngài Bồ Ðề Lưu Chí không dịch nhầm, mà đó còn chính là lòng từ bi cùng cực của đức Thế Tôn. Phật phơi trọn tâm can cho chúng sanh được thấy:
Phổ Hiền là bậc đại hạnh Bồ Tát tượng trưng cho Sai Biệt Trí, được gọi là Hoa Nghiêm trưởng tử, dùng mười đại nguyện vương để dẫn dắt về Cực Lạc. Nguyện mà được gọi là “vương” thì nguyện của ngài Phổ Hiền phải rộng lớn không ngằn hạn, tột cùng vô tận kiếp, dẫn dắt quy về Cực Lạc, cứu vớt, lợi ích vô tận nên gọi là “đại nguyện vương”. Bởi thế, thánh chúng đến dự pháp hội này đều cùng tuân tu hạnh đức của ngài Phổ Hiền.
Nhưng trong kinh đây, đức Thế Tôn lại riêng dạy phương tiện bậc nhất trong các phương tiện, hiển thị pháp viên đốn nhất trong các pháp viên đốn, nêu thẳng một pháp tín nguyện trì danh để gồm trọn lục độ vạn hạnh, thâu tóm trọn vẹn mười đại nguyện vương vào một câu danh hiệu, bao gồm trọn vẹn vô biên hạnh môn của ngài Phổ Hiền quy về Nhất Hạnh Tam Muội của ngài Văn Thù.
Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí. Nhất Hạnh Tam Muội là ‘buộc tâm một chỗ, chuyên xưng danh hiệu’. Thế nên, một pháp trì danh đúng là đề hồ, gồm trọn các điểm mầu nhiệm. Phổ Hiền Ðại Nguyện Vương là từ Căn Bản Trí trở thành Sai Biệt Trí.
Nay thời gồm trọn nguyện vương, chỉ xướng xuất tín nguyện trì danh thì đó là Sai Biệt Trí quay trở về Căn Bản Trí, nghĩa là quay trở về gốc nên mới bảo là ‘hạnh vượt Phổ Hiền’.
Diệu hạnh trì danh là lấy quả giác làm cái tâm tu nhân; nhân quả đồng thời, chẳng nhọc phương tiện, chẳng cần theo thứ lớp, thật đúng như sách Di Ðà Yếu Giải nhận định:
‘A Di Ðà Phật dịch nghĩa là vô lượng, vốn chẳng thể nói. Ðức Bổn Sư lấy hai nghĩa quang minh và thọ lượng để thâu trọn hết thảy những điều vô lượng. Quang minh thời theo chiều ngang chiếu trọn mười phương, thọ thời theo chiều dọc suốt cả ba đời. Ngang dọc trọn khắp chính là thể của pháp giới.
Toàn bộ cái thể ấy tạo thành thân và cõi nước của Phật Di Ðà, mà toàn thể ấy cũng tạo thành danh hiệu A Di Ðà. Bởi thế, danh hiệu A Di Ðà chính là Bổn Giác lý tánh của chúng sanh. Trì danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế, một niệm tương ưng với một niệm là Phật, niệm niệm tương ưng với niệm niệm là Phật’.
Nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ dẫn dắt về Cực Lạc nên niệm niệm chính là Di Ðà. Nhưng mười đại nguyện vương nghĩa lý sâu rộng, kẻ thường nhân chẳng thể phát khởi được; còn một pháp Trì Danh lại độ khắp ba căn. Ngũ nghịch, thập ác cũng đều có thể nương theo đó để thoát khỏi sanh tử. Ví như người trị được chứng bịnh chẳng trị nổi thì phải tôn là vua của các thầy thuốc; pháp độ được cả kẻ cực ác thì phải nên xưng tụng là vua của các pháp lành. Bởi thế, mới bảo pháp Trì Danh là ‘hạnh vượt Phổ Hiền’. Tín nguyện trì danh thì nhất định vượt được lên bờ kia nên bảo là ‘hạnh vượt Phổ Hiền, lên bỉ ngạn’.
Thế Tôn rủ lòng từ, khuyên dụ những kẻ học rộng nghe nhiều, kẻ có trí phải nên tin rằng mọi lời dạy của Như Lai đều khế hợp với Thật Tướng lý thể. Những điều được nói trong kinh đều là đúng lý, đều là chơn thật nên bảo: ‘Phải tin lời ta dạy như thật’. Vì Niệm Phật là pháp ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ nên gọi là ‘diệu pháp’.
Diệu pháp khó gặp, khó nghe, khó tin, ta nay đã may mắn được nghe thì phải nên thọ trì, phụng hành đúng theo lời dạy, thời thời niệm Phật, sanh lòng vui mừng sâu xa. Như trong Quán kinh đã nói, Vy Ðề Hy phu nhân do chợt thấy quang minh thanh tịnh của cõi Phật A Di Ðà hiện ra trước mắt liền đắc ngay vô sanh pháp nhẫn. Ngài Thiện Ðạo bảo vô sanh nhẫn mà bà Vy Ðề Hy đã chứng đắc khi đó chính là Hỷ nhẫn, Ngộ nhẫn và Tín nhẫn. Ðại sư bảo Hỷ nhẫn là ‘niệm A Di Ðà Phật sanh tâm hoan hỷ’. Bởi thế, kinh nói: ‘Niệm Phật sanh hoan hỷ’ nghĩa là do niệm Phật nên tự tâm tự sanh hoan hỷ.
Cuối cùng, Phật khuyên hành nhân chẳng những chỉ tự mình thọ trì pháp này để thoát khỏi sanh tử mà còn phải nên làm lợi cho mình lẫn người bằng cách hoằng truyền pháp này, khuyên dạy trì danh, lần lượt giúp nhau độ thoát xuất ly sanh tử. Ðức Thế Tôn khen người làm được như vậy là ‘chơn thiện hữu’, tức là chơn thiện tri thức. Ðây chính là lời khen ngợi tột bực của đức Thế Tôn vì ngài coi thiện tri thức giống như Như Lai.
Bốn câu sau cùng chính là lời kỳ vọng và dạy răn của đức Thế Tôn đối với hết thảy chúng sanh trong đời sau được gặp kinh này, được nghe pháp này. Bởi thế, chúng ta phải nên tha thiết lãnh thọ, khắc cốt tạc dạ, khắng khít tuân theo di giáo, siêng năng tu hành, gìn giữ bền chặt, chẳng phụ bạc từ ân.
Cuối bản kinh này, đức Phật lại khuyên niệm Phật; bổn tâm của mười phương Như Lai đều dốc trọn cả ra. Những chữ ‘phước huệ mới được nghe’, ‘pháp vi diệu’, ‘hạnh cứu thế’, ‘biển trí huệ’, ‘khó nhất trong các điều khó’, ‘hạnh vượt Phổ Hiền’…trong phẩm này đều để chỉ diệu pháp vô thượng tín nguyện trì danh. Ðối với sự mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật đây, dẫu cho có vô lượng thân, mỗi
một thân có vô lượng miệng, mỗi một miệng có vô lượng lưỡi. Mỗi lưỡi phát ra vô lượng âm đến hết cả kiếp vị lai diễn nói chẳng ngớt cũng khó bề diễn tả nổi ít phần. Bởi thế, tôi chẳng dám lạm bàn nhiều, chỉ xin trích dẫn hai đoạn trong sách Di Ðà Yếu Giải của Linh Phong đại sư để kết lại lời chú giải phẩm này.
a). Sách Yếu Giải viết:
‘Do nghĩa là Vô Lượng Quang nên chúng sanh sanh về Cực Lạc tức là sanh về mười phương, thấy A Di Ðà Phật là thấy mười phương chư Phật, tự độ mình chính là độ khắp hết cả. Do nghĩa là Vô Lượng Thọ nên nhân dân cõi Cực Lạc chính là Nhất Sanh Bổ Xứ, đều nhất định ngay trong đời này thành Phật, chẳng phải sanh lần nữa. Nên biết rằng: hễ rời bỏ cái tâm vô lượng quang thọ nhất niệm hiện tiền thì chẳng thể tìm đâu ra danh hiệu A Di Ðà Phật; mà hễ đã rời bỏ danh hiệu A Di Ðà Phật thì còn do đâu mà chứng suốt tột cái tâm nhất niệm vô lượng quang thọ? Xin hãy suy xét kỹ, xin hãy suy xét kỹ!’.
b). Sách Yếu Giải viết: ‘Danh hiệu được chấp trì là chơn thật chẳng thể nghĩ bàn; cái tâm tánh chấp trì danh hiệu cũng chơn thật chẳng thể nghĩ bàn. Trì một câu thì là một câu chẳng thể nghĩ bàn; trì mười, trăm, ngàn, vạn vô lượng tiếng thì mỗi mỗi tiếng đều chẳng thể nghĩ bàn’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

48. Nghe kinh được lợi ích
Phẩm này nói về việc nghe kinh được lợi ích, chỉ rõ người nghe kinh được lợi ích khó thể nghĩbàn. Sách Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận viết: ‘Do nghe kinh mà được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn như vậy thì đều là do sức bổn nguyện của Phật Vô Lượng Thọ, mà cũng là do oai thần của đức Bổn Sư gia bị. Hễ có chúng sanh nào nghe được kinh này thì cũng đạt được lợi ích như thế’.

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kinh pháp này, [trong] trời, người thế gian có một vạn hai ngàn na do tha ức chúng sanh viễn ly trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh; hai mươi ức chúng sanh đắc quả A Na Hàm, sáu ngàn tám trăm tỳ kheo hết sạch các lậu, tâm được giải thoát.


Giải:
Chữ ‘trần cấu’ chỉ chung các phiền não. Câu kinh Duy Ma: ‘Viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh’ cũng mang cùng ý nghĩa với câu kinh trong đoạn này.
Theo bản sớ giải kinh Duy Ma của ngài Gia Tường thì ‘pháp nhãn tịnh’ được hiểu như sau: ‘Nói về pháp nhãn tịnh là nói về pháp nhãn của Tiểu thừa lẫn pháp nhãn của Ðại thừa. Pháp nhãn của Tiểu Thừa chính là Sơ Quả, thấy được pháp Tứ Ðế nên gọi là pháp nhãn. Pháp nhãn của Ðại thừa là bậc Sơ Ðịa chứng đắc pháp vô sanh chơn thật nên gọi là pháp nhãn’.
Chữ ‘pháp nhãn’ trong kinh Vô Lượng Thọ đây chỉ cho pháp nhãn tịnh của Tiểu thừa. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Pháp nhãn tịnh chính là Dự Lưu quả’. Tịnh Ảnh Sớ cũng viết: ‘Thấy được bốn chơn đế thì gọi là tịnh pháp nhãn’. A Na Hàm là quả vị thứ ba trong tứ quả Tiểu Thừa.
‘Hết sạch các lậu, tâm được giải thoát’ là như kinh Duy Ma nói: ‘Tám ngàn tỳ kheo chẳng thọ các pháp, lậu tận ý giải’. Ngài Tăng Triệu giảng: ‘Lậu tận là cả chín mươi tám kết lậu đều đã hết sạch, ý được giải thoát thành A La Hán’. Ý nói: đã đoạn hết sạch các phiền não, tâm ý được giải thoát, chứng quả A La Hán. Như vậy, những vị đắc pháp nhãn tịnh và hết sạch các lậu trong kinh đây đều thuộc về Thanh Văn thừa.
Như có ai hỏi rằng: Nghe kinh điển Ðại thừa vô thượng này sao lại được ích lợi nơi pháp Tiểu thừa? Tịnh Ảnh Sớ đáp: ‘Chúng sanh [căn tánh] Tiểu thừa nghe nói Sa Bà uế ác đáng chán, tâm nhàm chán nên đắc quả Tiểu thừa’. Ngài Cảnh Hưng cũng nói: ‘Chúng sanh do nghe nói cõi này uế ác đáng chán nên đắc quả Thanh Văn’.

Chánh kinh:
Bốn mươi ức Bồ Tát trụ chẳng thoái chuyển nơi vô thượng Bồ Ðề, dùng công đức hoằng thệ để tự trang nghiêm. Hai mươi lăm ức chúng sanh đắc bất thoái nhẫn. Bốn vạn ức na do tha trăm ngàn chúng sanh chưa từng phát ý vô thượng Bồ Ðề nay mới bắt đầu phát tâm, trồng các căn lành, nguyện sanh Cực Lạc thấy A Di Ðà Phật, đều sẽ vãng sanh trong cõi đức Phật ấy, đều sẽ ở các phương khác lần lượt thành Phật, cùng hiệu là Diệu Âm Như Lai.


Giải:
Ðoạn này nói đến những chúng sanh căn tánh Ðại Thừa nghe pháp được lợi ích.
‘Bất thoái chuyển’ là công đức, thiện căn mình tu càng thêm tăng tấn, chẳng bị lui sụt, biến đổi. Bất thoái chuyển cũng có nghĩa là siêng năng tu tập, chẳng hạn như niệm Phật bất thoái, siêng năng tu tập bất thoái v.v… ‘Bất thoái chuyển’ tiếng Phạn là A-bệ-bạt-trí.
Trong đoạn kinh này, phần trước đã nói ‘trụ bất thoái chuyển’; phần sau ghi ‘đắc bất thoái nhẫn’. Những câu này đều trích từ bản Ðường dịch; bản Ngụy dịch chỉ ghi là ‘đắc bất thoái chuyển’. Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Chúng sanh [căn tánh] Ðại thừa nghe đức Di Ðà oai đức rộng độ bèn bền lòng cầu nguyện nên đắc bất thoái chuyển.
Nghe pháp này nhiều điều lợi ích nên thề muốn cứu độ, đấy gọi hoằng thệ tự trang nghiêm’. Ý nói: nghe danh hiệu Phật, ý nguyện cầu vãng sanh kiên quyết nên đắc bất thoái. Thề muốn làm lợi cho người khác nên gọi là ‘dùng công đức hoằng thệ để tự trang nghiêm’.
Tuy chữ ‘trụ bất thoái’ trong bản Ðường dịch chứa đựng ý nghĩa khá sâu, nhưng sơ bộ, ta có thể hiểu câu ấy theo cách Tịnh Ảnh Sớ vừa giảng trên đây.
‘Ðắc bất thoái nhẫn’: Theo Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 9, chữ ‘nhẫn’ có nghĩa là ‘huệ tâm an trụ nơi pháp thì gọi là nhẫn’; quyển mười một lại ghi: ‘An trụ trong Thật Tướng của pháp là nhẫn’. Chẳng hạn như theo Trí Ðộ Luận, vô sanh pháp nhẫn là an trụ vào lý pháp vô sanh, chẳng động tâm. Ta thấy rằng nhẫn chính là an nhẫn, nghĩa là đối với lý quyết định, không có ý niệm di động.
Chuẩn theo đó, ‘bất thoái nhẫn’ chính là tâm niệm an trụ vào lý bất thoái chẳng hề di động. Ðấy là mỗi niệm đều chẳng thoái chuyển. Nói cách khác, bất thoái nhẫn là niệm bất thoái trong ba thứ bất thoái chuyển. Có ba thứ bất thoái:
a). Vị bất thoái: địa vị mình đã tu được chẳng bị lui sụt.
b). Hạnh bất thoái: Chẳng hề thoái thất hạnh pháp đã tu.
c). Niệm bất thoái: Chẳng thoái chuyển chánh niệm.
Sách Quán Kinh Diệu Tông Sao viết:
- Nếu phá được kiến hoặc và tư hoặc thì gọi là Vị Bất Thoái, vĩnh viễn siêu thoát khỏi cái giả hữu của phàm phu.
- Ðoạn trừ được trần sa hoặc thì gọi là Hạnh Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất Bồ Tát hạnh.
- Phá được vô minh hoặc thì gọi là Niệm Bất Thoái, chẳng đánh mất Chánh niệm Trung Ðạo’.
Ở đây, Bất Thoái Nhẫn chính là an trụ trong lý Thật Tướng, niệm niệm chẳng dời đổi; do đó, nó phải tương ứng với Niệm Bất Thoái. Trụ bất thoái chuyển dùng công đức hoằng thệ để tự trang nghiêm thì tương đương với Hạnh Bất Thoái. Do căn cơ các vị Bồ Tát nghe kinh chẳng phải chỉ có một loại nên nghe pháp xong được lợi ích cũng phải sai khác.
Nay mới bắt đầu phát tâm’ là phát Bồ Ðề tâm. Hai điều: phát tâm và tất cánh tâm (chứng quả Bồ Ðề) chẳng sai biệt, nhưng trong hai tâm trên, phát tâm là khó. Vì thế trong hết thảy các kinh đều chép kỹ số người phát Bồ Ðề tâm. Những vị Bồ Tát đã phát đại tâm như thế xong lại thực hành các điều thiện, nguyện sanh Cực Lạc nên đều được vãng sanh, gặp Phật, lại sẽ ở trong các phương khác lần lượt thành Phật, cùng mang một danh hiệu là Diệu Âm Như Lai.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Lại trong mười phương cõi Phật, mỗi cõi có tám vạn câu chi na do tha người hoặc đang vãng sanh, hoặc sẽ vãng sanh, gặp Phật A Di Ðà được thọ ký pháp nhẫn, thành vô thượng Bồ Ðề. Các hữu tình ấy đều có nhân duyên túc nguyện với Phật A Di Ðà, đều được vãng sanh về Cực Lạc thế giới.


Giải:
Ðoạn này nói rõ chúng sanh đủ duyên trong mười phương đều được thọ ký. Phật đối trước chúng sanh dự đoán tương lai họ sẽ thành Phật thì gọi là ‘thọ ký’. Có bốn thứ thọ ký:
a). Chưa phát tâm Bồ Ðề mà thọ ký.
b). Thọ ký cho kẻ đã phát tâm Bồ Ðề.
c). Thọ ký ngầm: Người khác nghe biết đương sự được thọ ký, nhưng chính bản thân người ấy lại chẳng biết.
d). Hiện tiền thọ ký.
Hễ được nhận bất cứ một hình thức thọ ký nào trong bốn loại kể trên đều bảo là ‘được thọ ký’.
Trong câu ‘được thọ ký pháp nhẫn’, chữ ‘được thọ ký’ như trên vừa giảng, ‘pháp nhẫn’ chính là ba thứ nhẫn như đã nói trong nguyện băm tám của Phật A Di Ðà (bản Ngụy dịch ghi là đệ nhất, đệ nhị, đệ tam pháp nhẫn) mà cũng là âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn và vô sanh pháp nhẫn. Do có những người được Phật thọ ký, chứng nhập vô sanh, thành vô thượng chánh giác như vậy nên kinh nói: ‘Ðắc thọ ký pháp nhẫn, thành vô thượng Bồ Ðề’.
Câu ‘đều có nhân duyên túc nguyện với Phật A Di Ðà’ được bản Ðường dịch ghi như sau: ‘Tám vạn ức na do tha chúng sanh được thọ ký pháp nhẫn, thành vô thượng Bồ Ðề. Họ đều là hữu tình xưa kia đã được Phật Vô Lượng Thọ Phật thành tựu khi ngài còn đang tu đạo Bồ Tát, thảy đều sẽ sanh về Cực Lạc thế giới’. Ý nói: Hết thảy pháp từ nhân duyên sanh.
Những chúng sanh ấy trong đời quá khứ từng được gặp gỡ Phật Di Ðà trong khi ngài đang tu nhân, từng được ngài dạy dỗ ân cần, căn lành chín muồi. Ðấy chính là thiện duyên vô thượng thù thắng. Do bởi nhân duyên từng được Phật dạy dỗ trong các đời trước, từng nghe pháp tư duy, từng do tư duy mà phát nguyện nên chánh tư duy, chánh nguyện ấy in hằn vào tám thức trong tâm điền một cách quyết định chẳng tiêu. Ðấy chính là thiện nhân vô thượng thù thắng. Nay Phật Di Ðà đã viên mãn quả giác, công đức viên thành, thành quả giác Cứu Cánh. Do cả nhân lẫn duyên đều chín muồi nên họ được oai lực của Phật nhiếp thọ, ‘đều được sanh về Cực Lạc thế giới’.
Mà Bồ Tát, Thanh Văn, trời người trong cõi Cực Lạc đều nhiều đến vô lượng nên rõ ràng là lúc còn tu nhân, Phật Di Ðà đã trong vô lượng kiếp ở trong biển sanh tử giáo hóa, nhiếp thọ lục đạo chúng sanh số đến vô lượng. Ngày nay chúng ta nghe được, tin được diệu pháp này thì ắt hẳn trong bao kiếp xưa, Phật Di Ðà từng theo chúng ta vào tận Nê Lê, ở trong nhà lửa dạy dỗ chúng ta, nhiếp thọ chẳng bỏ, khuyên lơn tha thiết chẳng ngơi, chẳng nề hà phải cùng với chúng ta luân chuyển trong sáu nẻo, chỉ mong chúng ta hồi tâm dẫu chỉ một niệm. Ân đức Phật vô cực, oai đức vô cùng, Phật vì chúng ta vun bồi thiện căn; nay may mắn thay thiện căn ấy đã nảy nở, tăng trưởng. Chú giải kinh đến đây, tôi không cầm nổi nước mắt!

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, tam thiên đại thiên thế giới sáu thứ chấn động và hiện ra các thứ thần biến hy hữu, phóng đại quang minh.
Lại có chư thiên ở trên không trung tấu các âm nhạc nhiệm mầu, vang ra tiếng tùy hỷ, đến tận chư thiên Sắc giới đều được nghe tiếng, khen là chưa từng có. Vô lượng diệu hoa phơi phới rơi xuống.
Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, hết thảy đại chúng nghe lời Phật dạy đều đại hoan hỷ, tin nhận, phụng hành.

Phật thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác kinh chung


Giải:
Ðoạn này thuật pháp hội viên mãn, lại có những điềm lành biến hiện. Trong kinh này, điềm lành biến hiện được ghi trong Tự phần, Chánh Tông phần và Lưu Thông phần, thể hiện sâu xa kinh này sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, vạn đức viên mãn.
Trong phẩm Ðại Giáo Duyên Khởi của Tự phần, đức Thế Tôn phóng quang chói lọi như khối vàng nung, phóng đại quang minh hiện hơn trăm ngàn thứ biến hóa. Quang minh, dung nhan Phật vòi vọi, cõi báu trang nghiêm từ xưa đến nay chưa hề có. Những điềm lành như thế thật đáng gọi là điềm lành kỳ diệu, xưa nay chưa từng có.
Trong phần Chánh Tông, phẩm Lễ Phật Hiện Quang ghi nhận đại chúng thấy Phật Di Ðà như tòa núi vàng ròng, nhô cao khỏi mặt biển. Lại nghe mười phương ca tụng, ngợi khen Phật A Di Ðà. Từ bàn tay Phật A Di Ðà tỏa ra hào quang hiện rõ hết thảy các cõi Phật. Ðiềm lành như thế thật là kỳ diệu.
Cuối cùng trong phần Lưu Thông thì đại địa chấn động, lại hiện ra các thứ thần biến hy hữu, quang minh chiếu khắp, thiên nhạc rộn trời, hoa trời vần vũ rơi xuống. Kinh bảo ‘thần biến hy hữu’ nên những điều biến hiện ấy cũng là tốt lành kỳ diệu.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao viết: ‘Trong Tự phần thì quang minh, dung nhan của Phật là điềm lành kỳ diệu. Ở đây cũng hiện tướng lành ấy thì biết là ý Phật muốn thể hiện sự trịnh trọng vậy’.
Gia Tường Sớ bảo việc hiện tướng lành trong phần lưu thông ‘thể hiện: cảm điềm lành để chứng thực lợi ích’. Ngài Tịnh Ảnh cũng bảo: ‘Như Lai giáo hóa hoàn tất, vì để tăng tấn chúng sanh nên bèn dùng thần lực chấn động cõi đất và phóng quang, trỗi nhạc, mưa hoa’.
Nói chung, những điềm lành ấy đều nhằm để chứng tín cho chúng sanh, khuyên chúng sanh nên phát sanh lòng tin chơn thật đối với pháp khó tin được dạy trong kinh này.
Ðoạn kinh từ ‘tôn giả A Nan’ trở đi được Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Ý nói đến lợi ích rộng lớn: giáo pháp phù hợp khắp mọi căn cơ, đại chúng cùng vui mừng’.
Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng ‘hoan hỷ’ là: ‘Ngài Pháp Vị nói: “Theo Già Da Sơn Ðảnh Luận, hoan hỷ có ba nghĩa: một là người nói thanh tịnh vì được tự tại đối với các pháp; hai là pháp được giảng thanh tịnh vì thể của pháp là như thật, thanh tịnh; ba là nương theo pháp đã nói sẽ đắc quả thanh tịnh vì chứng được cảnh giới thanh tịnh mầu nhiệm vậy”. Ở đây, đại chúng được nghe Di Ðà bổn nguyện, đội ân đấng Thích Tôn nên tự được lợi ích lớn lao, không ai là chẳng hoan hỷ’.
Ý nói:
a). Người nói kinh là đấng Bổn Sư của chúng ta: ‘Ta là pháp vương, tự tại nơi pháp’. Ðấy là người nói thanh tịnh.
b). Các thứ công đức đã nói ấy chỉ là một thanh tịnh cú: chơn thật trí huệ vô vi pháp thân. Ấy chính là pháp được thuyết là thanh tịnh.
c). Ðắc quả thanh tịnh là như Linh Phong đại sư đã nói: ‘Toàn thể của mỗi một trang nghiêm là lý tánh’. Tu trì theo đúng lời dạy, vượt ngang ra khỏi ba cõi, chứng ngay lên bất thoái, sanh trọn cả bốn cõi Tịnh Ðộ, rốt ráo thành Phật, thì đấy là cảnh giới đắc quả thanh tịnh.
Ðủ cả ba thứ thanh tịnh, người nghe được lợi ích vô thượng đều đại hoan hỷ, tin ưa thọ trì nên bảo là ‘tin nhận, phụng hành’.
Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận nhận định:
‘Kinh này chứa cả toàn thân của Phật Vô Lượng Thọ, mà cũng chứa trọn toàn thân của hết thảy chư Phật. Tín nhập kinh này thì chính là đầy đủ hết thảy Phật trí nên bảo rằng: “Nghe được kinh này thì đối với vô thượng đạo, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển”. Ðến khi kinh đạo diệt hết, do Phật từ gia bị nên kinh này được riêng lưu lại, khác lạ hơn các kinh khác, kính xin hậu hiền đều cùng tin nhận’.

Chú giải Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh đến đây là hết


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chú Thích

(1) Phần đoạn sanh tử là thân sanh tử của chúng sanh trong 3 cõi. Do quả báo sanh tử, chúng sanh trong ba cõi chiêu cảm thân tướng và thọ mạng dài ngắn khác nhau nên gọi là Phần Ðoạn sanh tử. Biến dịch sanh tử là thân không có hình sắc hơn kém, không có thời hạn thọ mạng dài ngắn, và đang trong quá trình diệt dần mê tưởng, tăng dần chứng ngộ từ thấp đến cao. A La Hán, Bích Chi Phật và Bồ Tát đã đoạn hết chướng hoặc, không còn thọ thân phần đoạn trong ba cõi, nhưng lại dùng thân biến dịch để trở vào ba cõi tu hạnh Bồ Tát trong suốt một thời gian dài để mong đạt đến Vô Thượng Bồ Ðề (theo Huệ Quang tự điển).
(2) Chánh sử là chủ thể phát khởi phiền não. Chánh sử còn gọi tắt là sử, tức là những phiền não sai khiến chúng sanh luân hồi trong sanh tử. Từ A La Hán trở lên mới dứt hết nổi chánh sử. Tập khí là những thói quen từ những kiếp trước còn sót lại. Chẳng hạn như ngài Kiều Phạm Ba Ðề tuy đã đoạn chánh sử nhưng miệng vẫn nhai nhóp nhép như trâu nhơi cỏ do quá khứ nhiều đời làm trâu.
(3) Thai Tạng mạn đồ la: Còn gọi là Nhân Mạn Ðà La, Lý Thú Mạn Ðà La, Ðại Bi Mạn Ðà La. Thai Tạng nghĩa là phát sanh ra chư Phật, ý vị cùng tột không gì sánh bằng, tròn khắp đầy đủ. Thai Tạng mạn đà la phát sanh từ tâm địa bình
đẳng của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thai Tạng chỉ cho lý tánh sẵn có của chúng sanh. Thai Tạng giới giống như chủng tử của các thức được thai mẹ cưu mang cho đến khi thành tựu các phương tiện, thể hiện các hạnh lợi tha cứu cánh viên mãn. Thai Tạng Mạn Ðà La được vẽ ra dựa trên mô tả trong phẩm Cụ Duyên kinh Ðại Nhật. Mạn đà la này chia thành 10 khu vực, mỗi khu được gọi là viện. Viện trung ương mang tên Trung Ðài Bát Diệp gồm 9 tôn vị, tượng trưng cho giáo nghĩa: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Các viện khác như Viện Biến tri, viện Quán Âm, viện Kim Cang Thủ, viện Hư Không Tạng, viện Thích Ca… tượng trưng cho các khía cạnh tánh đức khác nhau của tự tâm (theo Huệ Quang tự điển)
(4) Tình dục ở đây có nghĩa là những thứ ham muốn, yêu thương của phàm tâm.
(5) Pháp nhĩ: còn gọi là pháp nhiên, tự nhiên, thiên nhiên, tự nhĩ, pháp nhĩ tự nhiên… Từ này chỉ mọi hiện tượng tự nhiên, không trải qua bất kỳ một trạng thái tạo tác nào, tức chỉ những tướng trạng xưa nay của sự vật.
(7) Cầm, sắt, không hầu: Cầm là loại đàn dài ba thước Tàu, rộng sáu tấc, gồm bảy dây. Sắt là một loại đàn từa tựa như đàn tranh, thời cổ chỉ có 13 dây, sau đổi thành 25 dây. Cầm và sắt thường hòa tấu chung với nhau nên xưa hay dùng chữ ‘sắt cầm hảo hợp’ để ví cho tình nghĩa vợ chồng.
Không hầu là một loại đàn dây, xuất xứ từ Tây Vực, thường có thân cong, mặt dài, số dây từ 22 đến 25. Khi sử dụng, ôm vào lòng, hai tay cùng khảy.
(8) Sở duyên cảnh; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên: Sở duyên là những gì bị tâm nhận biết, còn cái tâm nhận biết những cảnh đó thì gọi là năng duyên. Sở duyên cảnh chính là những trần cảnh bị tâm nhận biết như sắc, thanh, hương v.v..
Sở duyên duyên: Những đối tượng nhận thức của tâm và tâm sở (tác dụng của tâm) nếu làm cho tâm sanh ra kết quả thì gọi là sở duyên duyên. Luận Câu Xá giảng: ‘Như nhãn thức và các pháp tương ưng lấy sắc làm sở duyên duyên; cũng như thế nhĩ thức và các pháp tương ưng lấy thanh làm sở duyên duyên…’ Hiểu theo nghĩa rộng, sở duyên duyên chính là tất cả pháp. Ðẳng vô gián duyên là tác dụng của tâm pháp ở niệm trước mở đường cho niệm sau (theo Huệ Quang tự điển)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

D. Lời sau cùng
Chú giải kinh tạm xong, lại xin bày tỏ đôi lời. Niệm Tổ tôi chướng sâu, phước mỏng, kiếp phù sinh mấy chục năm trôi nổi lênh đênh trong chốn phiền não, may được từ quang chiếu dội nên mới được dừng nghỉ. Bởi thế, tôi cảm ân, báo ân, liều chết chú giải kinh.
Năm Kỷ Mùi (1979), gạt bỏ việc đời, tìm đủ các kinh luận Trung Hoa, ngoại quốc, khổ tâm tìm tòi, tham khảo, trăn trở suy nghĩ suốt cả hai năm; mãi đến năm Ðinh Dậu (1981) liền đóng cửa tạ khách, nhất tâm chú giải. Trong năm ấy, hoàn tất bản thảo đầu tiên; năm kế, hoàn tất bản thảo thứ hai. Năm tiếp đó, chợt bị bịnh nặng, sức chẳng kham nổi, huyết áp tăng cao (220/120), tim bị loạn nhịp, xuất hiện tử mạch. Bởi vậy, trong năm Quý Hợi (1983) phải tạm ngưng viết, đóng cửa tiềm tu; mỗi ngày niệm Phật tu pháp và trì chú vài vạn câu.
Mùa Xuân năm Giáp Tý (1984), y tá cảnh cáo phải chú ý nghỉ ngơi, nhưng tôi thấy vô thường nhanh chóng, thời gian chẳng chờ đợi mình, sợ chưa viết xong sách đã mất mạng, chẳng dám nghỉ ngơi để tự giữ thân. Do đó, cố gắng viết hoàn tất bản thảo thứ ba. Mất cả sáu năm mới tạm hoàn tất.
Trí cạn lực cùn nên bản chú giải ắt có nhiều điểm sai lầm. Vì vậy, trước hết chỉ in cảo bản để rộng cầu được các bậc thức giả chỉ ra những chỗ sai lầm rồi sửa đổi sau, chỉ mong tạm bày sơ lược ý kinh để báo ân Phật. Suốt mấy năm tận lực chú giải kinh, hoặc gặp khi trời quá nóng, mồ hôi thấm ướt bản thảo; hoặc có lúc cảm xúc ân Phật, lệ đẫm nét bút; hoặc có lúc toàn thân lông tóc dựng cả lên, ý tứ, câu văn cứ tuôn tràn ra; hoặc có lúc đang bế tắc chợt hiểu ra, vỗ bàn kêu lớn!
Tôi vốn toan báo ân Phật, nhưng càng muốn báo ân càng cảm thấy ân Phật khó báo. Phát tâm chú giải thì lại do chú giải mới càng thấy ý nghĩa kinh thật u huyền. Ðối với lẽ Thiền, Tịnh, Mật dung thông nhất vị, phương tiện rốt ráo trì danh, cảnh giới sự sự vô ngại trong Ðại kinh, càng suy xét sâu hơn càng thấy biển cả Phật pháp viên dung tuyệt hẳn đối đãi, vi diệu, tinh thâm chẳng thể cùng tận; mới biết là Ðại kinh như biển cả, còn lời chú giải ở đây chưa bằng nổi giọt nước đọng nơi đầu sợi lông. Chỉ mong người khác tự tin nơi bản thân mình, do giọt nước này sẽ biết đến biển cả.
Pháp này viên dung, siêu tình ly kiến, như những hạt châu nơi lưới Thiên Ðế trùng trùng vô tận. Vô biên lời răn dạy, vô tận đà ra ni, tám vạn bốn ngàn pháp môn, hết thảy vô lượng vô biên diệu pháp như thế đều có thể nhập vào trong mỗi một pháp, như quang sắc tỏa ra từ ngàn viên châu đều nhập trong mỗi một viên châu. Trong mỗi một viên châu gồm trọn ngàn viên châu. Bởi thế, Ðại kinh gồm trọn vô tận tạng. Sáu chữ hồng danh gồm trọn hết thảy pháp. Tịnh Ðộ chính là Thiền.
Kinh nói: ‘Dùng cái tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật… chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai’ và ‘Chỉ cần niệm A Di Ðà đã là vô thượng thâm diệu thiền’. Tịnh tông cũng chính là Mật, một câu Di Ðà chính là chơn ngôn (câu đầu của chú Vãng Sanh chính là thánh hiệu Di Ðà bằng tiếng Phạn. Namo amitabhaya tathagataya: Nam mô A Di Ðà Như Lai). Hơn nữa, ‘tiếng và chữ chính là Thật Tướng’. Bởi thế, trì danh chẳng khác gì trì chú, niệm Phật chính là niệm Thật Tướng, thẳng đến cứu cánh chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu xét theo lý thể thì ‘pháp này bình đẳng, chẳng có cao thấp’. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp nào cũng dẫn về Viên Ðốn, môn nào cũng là hạt châu nơi lưới Thiên Ðế. Bởi thế, những lời lẽ tán dương Tịnh Ðộ trong bản chú giải đây cũng là lời tán dương Thiền, ca tụng Mật, khen ngợi hết thảy pháp.
Phật pháp như chiên đàn cắt thành miếng, miếng nào cũng thơm; như đổ thủy ngân ra, giọt thủy ngân nào cũng tròn xoe. Nếu luận về mặt thích ứng căn cơ thì thiên sai vạn biệt, khó dễ cả một trời một vực, trong đại bình đẳng hiển lộ sự sai biệt đến tột cùng. Trong ngàn muôn viên châu, chỉ có một viên ngọc Tịnh pháp đối với kẻ phàm phu còn đầy dẫy phiền não là dễ nghe, dễ biết, dễ tin, dễ nhập.
Trong hết thảy pháp, Tịnh Ðộ là pháp dễ hành nhất. Pháp môn Tịnh Ðộ lại gồm trọn muôn pháp, đốn siêu tam thừa, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, đương hạ cứu cánh. Niệm Phật chính là có công tu đức thì Phật hiệu chính là tánh đức mới hiển. ‘Bằng với chư Thánh trong một lời, vượt khỏi ba a tăng kỳ trong một niệm’, nhiếp khắp muôn loại, hội quy Nhất Thừa, vượt ngang khỏi tam giới,
chứng trọn bốn cõi Tịnh Ðộ. Vì thế, trong hết thảy pháp, trước hết phải hoằng dương Tịnh Ðộ.
Pháp môn vi diệu thù thắng như vậy ‘chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo’. Niệm Tổ là kẻ hạ ngu dám đâu lạm bàn, kính mong chư vị Tăng, tục khắp nơi, những bậc đại đức tu lâu, chẳng tiếc lòng từ bi chỉ dạy đính chánh cho, thật mong lắm thay.
Hoàng Niệm Tổ cung kính đảnh lễ
Ðầu Thu năm Giáp Tý


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHỤ LỤC 1:
Ðại kinh hợp tán
(Lời khen ngợi chung kinh Vô Lượng Thọ)

Muốn tu Tịnh Ðộ ắt phải đọc kinh này vì kinh này là cương yếu của mọi kinh Tịnh Ðộ. Không đọc kinh này thì chẳng thể thâm nhập, có đọc mới có thể tổng trì. Người tu Tịnh nghiệp chẳng thể không đọc vì kinh này thuật đủ không sót nhân quả thế gian, xuất thế gian, sự khổ điều vui. Không đọc kỹ chẳng thể chánh tín. Ðối với những y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, pháp thức tu trì nếu không đọc
kinh này thì khó lòng hiểu nổi.

Kẻ tu Thiền cần phải đọc kinh này vì pháp môn này chính là vô thượng thâm diệu Thiền. Vì Di Ðà chính là tự tánh, vì Tịnh Ðộ chính là duy tâm. Có Thiền, có Tịnh Ðộ như hổ mọc thêm sừng. Hơn nữa, Thiền chính là Tịnh, Tịnh chính là Thiền; ngoài Tịnh chẳng có Thiền, chẳng tin Tịnh Ðộ chính là chẳng tin Thiền, mà cũng chính là chẳng tin vào tự tâm vậy.

Người học Mật cần phải đọc kinh này vì tự ngay đầu kinh, đức Thượng Sư thuyết pháp, nhập địa vị Quán Ðảnh, thọ ký Bồ Ðề, đến đạo tràng trang nghiêm, Bổn Tôn phóng quang, toàn bộ bốn thứ mạn đà la đều được đầy đủ. Hơn nữa, cõi Mật Nghiêm nào khác với Cực Lạc.

Người tu theo tông Hiền Thủ chẳng thể không đọc kinh này vì các đại Bồ Tát cùng tuân hạnh đức của Phổ Hiền đại sĩ, chỗ nào cũng dẫn dắt về Cực Lạc; vì kinh này thuần hiển lý sự vô ngại, mà cũng vì kinh này chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm, vì Cực Lạc chính là Hoa Tạng.

Tông Thiên Thai chẳng thể chẳng đọc kinh này vì hễ thành kính đọc theo kinh văn này thì Chỉ lẫn Quán đều vẹn, chẳng cần phải theo thứ lớp mà vào ngay môn viên đốn tự tại; vì cảnh chính là tâm, tâm chính là cảnh; vì hội tam quy nhất. Lại cũng chính vì kinh này chính là như kinh Pháp Hoa đã dạy: ‘Chỉ một sự thật duy nhất, còn hai sự khác thời chẳng phải là chơn thật’.

Pháp Tướng tông chẳng thể không đọc kinh này vì y báo, chánh báo cõi Cực Lạc chính là Pháp Tướng, vì tín nguyện trì danh chính là Duy Thức. Do nguyện sanh mà ngộ vô sanh, do Y Tha chứng được Viên Thật, vì nhập hữu đắc không, chuyển thức thành trí.

Người đã trì kinh Tiểu Bổn càng lại nên đọc kinh này, đốn giác tâm địa khai minh. Ðã đọc kinh này lại đọc kinh Tiểu Bổn mới thấy chỗ giản dị, vi diệu, tinh thuần, thiết thực. Nương theo kinh này phát tâm Bồ Ðề, một bề chuyên niệm thì mới đắc nhất tâm bất loạn, chẳng thể chuyên niệm thì thật khó mà nhất tâm.

Người đọc Quán kinh xong nên đọc kinh này để càng thêm tin ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’, vì kinh này càng giảng tường tận về việc tu tập ba phước. Hơn nữa, so với những pháp nhật quán, thủy quán cho đến bảo thọ, Bồ Tát Phật quán trong Quán kinh thì cách tu tập trong kinh này lại càng thiết yếu, dễ tu hơn nữa.

Kẻ chưa tin Phật càng chẳng thể không đọc kinh này vì kinh này có khả năng phát khởi chánh tín, nhân duyên nguyện lực xuất sanh thiện căn, vì kinh này có thể gieo hạt giống đạo vĩnh viễn vào mảnh ruộng thức ô nhiễm. Ðọc kinh này thì dẫu chẳng tin Phật cũng chẳng trở thành kẻ ác.

Kẻ thích văn tự càng chẳng thể không đọc kinh này vì kinh này chọn lọc những điều thanh nhã, giản khiết từ cả năm bản dịch Hán, Ngụy, Ðường, Ngô, Tống; đọc kỹ sẽ hiểu phương pháp hành văn khiến cho văn chương càng thêm cao
diệu; lại nếu dùng Bát Nhã để quán chiếu văn tự thì sẽ thông đạt được Thật Tướng.

Người hướng đến Ðại thừa nhất định phải đọc kinh này vì trong kinh nói: ‘Ðúng như lời dạy mà tu hành thì chẳng phải là Tiểu thừa, đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp ta’. Người này đã từng gặp gỡ đức Phật quá khứ, được thọ ký Bồ Ðề, vô lượng ức Bồ Tát thảy đều cầu pháp môn vi diệu này, tôn trọng nghe nhận, có nhiều vị Bồ Tát muốn được nghe kinh này mà chẳng được nghe.

Kẻ học Nho chẳng thể chẳng đọc kinh này vì một bề chuyên niệm chính là ‘thành ý chánh tâm’. Phát Bồ Ðề tâm mới có thể ‘minh đức tân dân’, cùng sanh Cực Lạc thì mới có thể ‘chỉ ư chí thiện’. Sự tịch cảm của kinh Dịch, sự tinh nhất của kinh Thư, sự không điều gì chẳng kính của kinh Lễ, sự suy nghĩ chẳng tà của kinh Thi đều gồm trọn trong kinh này.

Chẳng luận là kẻ đang theo việc quân, người làm việc nước, kẻ đang học hành, người bận kinh doanh ai cũng không thể không đọc kinh này vì kinh này đối trị tham, sân, si, tiêu nghiệp, đoạn trừ tập khí, tăng phước khai huệ, uốn nắn tâm người, cải hóa phong tục, tiêu tai hóa kiếp, khiến cho vận nước xương long, thế giới bình an. Kinh này chính là vô tận bảo tạng vậy.

Chẳng luận tăng, tục, trai, gái, ai cũng không thể không đọc kinh này vì kinh này độ khắp ba căn, trị lành các bịnh, dẹp khổ ban vui, là đèn sáng phá tối tăm, là thuyền từ để vượt biển nghiệp, thật là Nhất Thừa liễu nghĩa, tổng môn của vạn thiện, được mười phương chư Phật khen ngợi. []

(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 02 tháng 07 năm 2002)
Nguyện xin việc chuyển ngữ bản chú giải này nếu có chút phần công đức nào thì đều xin hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hết thảy u hiển thánh phàm cùng sanh Cực Lạc, cùng chứng đại Bồ Ðề.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHỤ LỤC 2:
Niên Sử Năm Bản Hán Dịch Vạn Từ soạn
Như quyển Chú Giải nầy đã cho biết rằng kinh Vô Lượng Thọ khi được chuyển dịch sang Hán văn có đến 12 bản dịch khác nhau, lưu truyền được đến ngày nay chỉ còn 5 bản. Khi chuyển dịch sách nầy sang Việt ngữ, chúng tôi xin nêu ra sử và bối cảnh của 5 bản dịch nầy.

1-Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh được dịch vào năm 186 bởi ngài Chi Lâu Ca Sấm dưới thời vua Linh Ðế triều Hậu Hán (25-220 sau CN).
Ngài Chi Lâu Ca Sấm là người nước Ðại Nhục Chi, đến Lạc Dương vào những năm cuối thời Hán Hoàn Ðế (147-167). Trong khoảng 178- 189, ngài dịch được hơn 20 bộ kinh như: kinh Ðạo Hành Bát Nhã, kinh Bát Chu Tam Muội, kinh A Xà
Thế Vương, kinh Thủ Lăng Nghiêm...
Ngài là người đầu tiên dịch thuật và truyền bá kinh điển thuộc hệ Bát Nhã vào Trung Quốc. Riêng kinh Bát Chu Tam Muội góp phần hình thành tư tưởng Di Ðà Tịnh Ðộ vào thời kỳ sơ khai, như về sau có ngài Lô Sơn Huệ Viễn lấy kinh nầy làm nền tảng để lập nên Bạch Liên Xã.
Ngài là người giới hạnh thanh cao, cần mẫn tu tập, suốt cả đời lấy chí nguyện hoằng dương Phật Pháp làm trọng trách. Phong cách phiên dịch của Ngài là không câu nệ nơi lời văn trau chuốt, mà chỉ cần dịch toát được ý kinh. Ngài mất vào năm nào sử không ghi rõ.

2- Phật Thuyết A Di Ðà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Ðàn Quá Ðộ Nhân Ðạo Kinh do ngài Chi Khiêm dịch vào năm 228 vào đời Ngô (222-280)
Ngài Chi Khiêm vốn là cư sĩ, tự là Cung Minh, xuất thân từ nước Ðại Nhục Chi. Dưới thời Hán Linh Ðế (168-189), theo học với ngài Chi Lượng là đệ tử ngài Chi Câu La Sấm.
Cuối triều Hậu Hán, xảy ra cục diện loạn lạc Tam Quốc phân tranh, Ngài chạy loạn vào đất Ngô, được Ngô Vương Tôn Quyền triệu kiến, lại hỏi về những điều thâm áo của Phật Pháp, ngài Chi Khiêm tùy nghi ứng đáp minh bạch. Ngô Vương rất cảm phục tôn Ngài làm Bác Sĩ để dạy cho Thái Tử Tôn Lượng.
Trong khoảng năm 222-253, Ngài dốc sức dịch được hơn 30 quyển kinh như: Kinh Duy Ma Cật, Kinh Ðại Bát Nê Hoàn, Pháp Cú, Bát Sư.... Văn phong của Ngài rất uyển chuyển lưu loát.
Lúc Thái Tử lên ngôi, Ngài lui về ẩn cư nơi núi Khung Ải, gạt mọi việc đời, theo ngài Trúc Pháp Lan tu tập. Mất năm 60 tuổi.

3- Vô Lượng Thọ Kinh do ngài Khang Tăng Khải dịch vào năm 252 tại chùa Bạch Mã, Lạc Dương. Hiện nay các sử liệu còn lưu lại cho chúng ta biết rất ít về ngài Khang Tăng Khải, chỉ biết rằng Ngài xuất thân từ Thiên Trúc. Cuối niên hiệu Gia Bình (252), Ngài đến ngụ tại Lạc Dương kinh đô triều Tào Ngụy (220-263) một trong ba nước thời Tam Quốc. Trong thời gian ở Lạc Dương, Ngài ngụ tại chùa Bạch Mã, nơi đây Ngài dịch các kinh sau:
Úc Già Trưởng Giả Vấn Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Tứ Phần Tạp Yết Ma...

4- Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, bản nầy trích từ kinh Ðại Bảo Tích, do ngài Bồ Ðề Lưu Chí dịch vào năm 706 vào đời Ðường (618-907).
Ngài Bồ Ðề Lưu Chí là người Nam Thiên Trúc, xuất thân từ giai cấp Bà La Môn, tinh thông thiên văn, địa lý, lịch số, chú thuật, y phương, cùng các học thuyết ngoại đạo. Năm 60 tuổi ngộ được chỗ thâm diệu của đạo Phật. Năm 67 tuổi xuất gia tu hạnh đầu đà. Từ đấy Ngài nổi danh là uyên bác.
Vì nghe danh nên vua Ðường Cao Tông (650-683) cho người cung thỉnh Ngài sang Trung Quốc hoằng pháp; vì lòng đại bi thương xót chúng sanh trong vòng sanh tử, Ngài nhận lời mời. Ðến Trung Quốc không bao lâu thì vua Cao Tông băng hà.
Năm Trường Thọ thứ 2 (693), Võ Hậu Tắc Thiên thỉnh Ngài trụ tại chùa Phật Thọ Ký ở thành Lạc Dương; tại đây Ngài dịch được 11 bộ kinh như: Phật Cảnh Giới, Bảo Vũ... Võ Hậu Tắc Thiên cũng hạ chiếu thỉnh Ngài dịch và giảng Kinh Ðại Bảo Tích.
Năm 706 đời vua Ðường Trung Tông, Ngài dời đến chùa Sùng Phước, Trường An, tiếp tục dịch thêm được nhiều kinh khác. Công trình lớn nhất của Ngài là duyệt và dịch lại những hội chưa hoàn chỉnh của Kinh Ðại Bảo Tích, Ngài làm việc ròng rã suốt 8 năm để hoàn tất việc nầy.
Tháng 9 năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời vua Ðường Huyền Tông, tại chùa Trường Thọ, Lạc Dương, Ngài tuyệt thực, không thuốc men mà thần sắc vẫn tươi tỉnh. Ngày 5 tháng 11 Ngài an nhiên thị tịch. Vua truy tặng chức Hồng Lô Ðại Khanh, ban thụy hiệu là Khai Nguyên Nhất Thiết Biến Tri Tam Tạng.
Về tuổi thọ của Ngài thì có thuyết cho rằng 166 tuổi, nhưng có nơi lại nói rằng 156 tuổi và khi sang Trung Quốc thì Ngài đã 123 tuổi.

5- Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Trang Nghiêm Kinh do ngài Pháp Hiền dịch vào năm 980 dưới thời Bắc Tống (960-1127).
Hiện nay chúng ta chỉ còn biết rằng ngài Pháp Hiền xuất thân từ Tây Vực. Năm 980 Ngài dịch kinh tại phủ Hà Trung. Năm 982 được vua ban hiệu Truyền Giáo Ðại Sư. Ngài mất năm 1001 được vua ban thụy hiệu là Huyền Giác Ðại Sư. Kinh điển do Ngài dịch khoảng 120 bộ.

Lược Sử Ngài U Khê Vạn Từ soạn
Ngài U Khê tức là Truyền Ðăng Ðại Sư một cao tăng sống vào đời Minh (1368-1644), người ở Tây An, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, họ Diệp, hiệu Vô Tận.
Thuở nhỏ lễ ngài Tiến Hiền Ánh Am cầu xuất gia, sau học giáo pháp Thiên Thai nơi ngài Bá Tùng. Năm 1582 đời Minh, nhân thưa hỏi ngài Bá Tùng yếu chỉ Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh, thấy ngài Bá Tùng trừng mắt nhìn quanh, chợt khế nhập, được truyền cà sa tía viền vàng.
Năm 1587, Ngài chọn chùa Cao Minh ở U Khê, núi Thiên Thai, lập Tổ Ðình Thiên Thai, dạy dỗ học tăng, nghiên cứu tu tập Thiền và Tịnh Ðộ.
Ngài thường thăng đường giảng pháp. Khi Ngài nhận chức Thụ Nghĩa trước tượng Ðại Phật tại Cao Xương cả hội chúng đều nghe tiếng thiên nhạc vang rền. Bình thời Ngài thường tu các sám pháp: Pháp Hoa, Ðại Từ, Quang Minh, Di Ðà, Lăng Nghiêm... mỗi năm thực hành 4 pháp Tam Muội.
Khi lâm chung, Ngài viết 5 chữ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”, xướng to đề kinh 2 lần rồi lặng lẽ thị tịch, thọ 75 tuổi. Về năm sinh và năm mất của Ngài thì không
rõ.
Tác phẩm của Ngài gồm có: Tịnh Ðộ Sanh Vô Sanh Luận, Lăng Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa 4 quyển, Thiên Thai Sơn Phương Ngoại Chí 30 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển, Tánh Thiện Ác Luận 6 quyển, A Di Ðà Kinh Lược Giải Viên Trung Sao 2 quyển, Duy Ma Kinh Vô Ngã Sớ 12 quyển, Thiên Thai Truyền Phật Tâm Ấn Ký Chú 2 quyển. Riêng quyển Tịnh Ðộ Sanh Vô Sanh Luận về sau được Ngẫu Ích Ðại Sư xếp vào bộ Tịnh Ðộ Thập Yếu.

MƯỜI ÐIỀU TÂM NIỆM
1/ Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
2/ Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.
3/ Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
4/ Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
5/Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
6/ Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7/ Với người đừng mong đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
8/ Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có mưu đồ.
9/ Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì thì si mê phải động.
10/ Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

Kinh sách này không bán.
Biếu tặng kết duyên.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.19 khách