Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Tâm họ chánh trực, thiện xảo quyết định, luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc. Giới tợ lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục. Ðánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ phá si ám. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định, minh sát; làm đại đạo sư, điều phục cả mình lẫn người, dẫn đạo quần sanh phá các ái trước, vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu, du hý thần thông.


Giải:
Phần trên, kinh đã dẫn các thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa. Phần này, kinh giảng rõ công đức chơn thật của các vị Bồ Tát cõi ấy. Ðó là đức tự giác, giác tha, hoằng pháp lợi sanh.
‘Chánh trực’: Chánh là chẳng tà, trực là chẳng cong vạy. Kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’. Sách Vãng Sanh Luận Chú ghi: ‘Chánh trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sanh tâm thương xót hết thảy chúng sanh’.
Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Ở giữa các vị Bồ Tát, chánh trực xả phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng’. Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng câu trên như sau: ‘Ngũ thừa còn cong quẹo nên chưa phải là Trực. Thông giáo, Biệt giáo còn thiên lệch nên chẳng phải là Chánh. Nay bỏ cả lệch lạc lẫn cong quẹo ấy, chỉ nói một đạo Nhất Thừa chánh trực’.
Có nhiều cách hiểu ‘ngũ thừa’, nhưng chữ ‘ngũ thừa’ được dùng trong sách Văn Cú có nghĩa là: nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa. Thông giáo, Biệt giáo là thiên lệch, cả năm thừa: nhân, thiên v.v… đều cong vẹo; cho nên Nhất đạo chánh trực chính là Nhất Thừa của Viên giáo. Vì vậy, câu ‘tâm họ chánh trực’ hàm ý tâm các Bồ Tát đã xa lìa các giáo pháp lệch lạc, cong vạy, chỉ thuần là Nhất Thừa viên pháp, như cỗ xe to lớn, ngay ngắn, được trâu trắng kéo chạy vùn vụt như gió.

Phật Ðịa Luận giảng chữ ‘thiện xảo’ như sau: ‘Xứng thuận cơ nghi nên gọi là thiện xảo’. Sách Văn Cú cũng bảo: ‘Hiển lộ thiện quyền phương tiện, tỏ rõ phương tiện tinh vi’. Câu trên nói đến đức giác tha, khéo quán căn cơ để dạy pháp thích hợp, hành quyền phương tiện. Câu dưới nói về tự giác: khéo nhập quán hạnh đến mức tinh vi. Tự giác như vậy nên mới có thể dùng phương tiện giác ngộ người khác, tùy cơ ứng duyên, nên kinh khen là ‘thiện xảo’.
Kinh Hoa Nghiêm có nói đến mười trí thiện xảo:
1 - Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp rất sâu,
2 - Trí thiện xảo xuất sanh Phật pháp rộng lớn,
3 - Trí thiện xảo tuyên nói các thứ Phật pháp,
4 - Trí thiện xảo chứng nhập Phật pháp bình đẳng,
5 - Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp sai biệt,
6 - Trí thiện xảo ngộ giải Phật pháp không sai biệt,
7 - Trí thiện xảo trang nghiêm Phật pháp,
8 - Trí thiện xảo một phương tiện nhập Phật pháp,
9 - Trí thiện xảo vô lượng phương tiện nhập Phật pháp,
10-Trí thiện xảo vô biên Phật pháp chẳng sai biệt.
Ta thấy rằng mười trí thiện xảo đều vốn là do đã thâm nhập quán hạnh một cách tinh vi, thấu triệt tột cùng nguồn tâm, từ Căn Bản Trí hiện thành Sai Biệt Trí nên có thể hiểu thấu các trí thiện xảo: xuất sanh, ngôn thuyết, chứng nhập v.v…

‘Quyết định’ có nghĩa là việc đã nhất định, không thay đổi nữa. Sách Thắng Man Bảo Quật nói: ‘Quyết định là tín’. Như vậy thì ‘thiện xảo’ là tùy cơ ứng duyên, ‘quyết định’ là chơn thật bất biến. ‘Thiện xảo quyết định’ nghĩa là tùy duyên thiện xảo nhưng thảy đều chơn thật.

Luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc’: Câu trên nói về giác tha, câu dưới nói đến tự giác. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ là phương tiện tự lợi… Thường muốn rộng nói, chí không mệt mỏi chính là lợi tha’.
Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Bồ Tát cầu pháp để lợi người, đắc được pháp nào ắt giảng cho người khác. Vì hết thảy chúng sanh trải vô lượng kiếp chẳng hề chán mỏi’.

Giới tợ lưu ly’: Giới là giới luật, tức là môn đầu tiên trong ba vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ. Phụng trì giới luật trong sạch, thanh khiết để tự trang nghiêm. Trì giới khiết tịnh khác nào ngọc lưu ly. Kinh Phạm Võng nói: ‘Giới như nhật, nguyệt sáng, cũng như anh lạc châu’. Vì vậy, kinh mới nói: ‘Giới tợ lưu ly’.

‘Trong ngoài sáng sạch’: “Trong” là tâm ý, ý nghiệp thanh tịnh; khởi tâm, động niệm thảy đều lìa khỏi cấu nhiễm. Ngoài là oai nghi đầy đủ, đó là đức thể hiện ra bên ngoài. Trong, ngoài đều thanh khiết nên nói ra điều gì cũng khiến cho người nghe lòng vui thích, kính phục thật sự. Do đó, kinh nói: ‘Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui vẻ, tin phục’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘đánh trống pháp, dựng pháp tràng, chói rực mặt trời trí huệ’ như sau: ‘Pháp âm vang dội khác nào tiếng trống. Oai đức dẹp tà khác nào thắng tràng. Huệ nhật chiếu mê khác nào mặt trời sáng ngời’. Ý nói: ‘Tiếng trống pháp’ là ví pháp âm của Bồ Tát vang xa cảnh tỉnh mọi người.
Dùng ‘pháp tràng’ để ví oai đức của Bồ Tát dẹp tan tà ác như Gia Tường Sớ viết: ‘Kiến lập là dáng vẻ chiến thắng ví như thuyết pháp hàng ma đắc thắng vậy’.
Ðem ‘mặt trời trí huệ’ ví cho trí huệ Bồ Tát chiếu phá si ám, lay tỉnh quần mê.
Tịnh Ảnh Sớ lại dùng ba huệ Văn, Tu, Tư để giảng ba ví dụ này. Sớ viết: “Ðánh trống pháp” Văn Huệ pháp. Do tiếng trống vang xa nên nói là “đánh trống pháp”. “Dựng pháp tràng” là Tư Huệ pháp. Thành lập nghĩa là “kiến” (tạo dựng), nghĩa
lý được tỏ bày ra được gọi là “tràng” (ý nói: dựng bày pháp nghĩa, rồi chỉ bày rõ ràng cho chúng sanh, thì gọi là ‘dựng pháp tràng’). “Rực chiếu mặt trời trí huệ” là trừ si ám. Ðó chính là Tu Huệ pháp khai hóa chúng sanh’.

Si ám chính là vô minh ám hoặc. Kinh Hoa Nghiêm, quyển 2 nói: ‘Trí huệ của Như Lai là vô biên duyên, hết thảy thế gian chẳng thể thấu đạt nổi. [Trí huệ ấy] diệt trừ vĩnh viễn tâm si ám của chúng sanh’. Ðó chính là ý nghĩa của câu ‘phá si ám’ trong kinh này vậy.

‘Thuần tịnh ôn hòa’: Tịnh là thanh khiết. ‘Thuần tịnh’ là nội tâm trong lặng, lìa cấu. Ôn là tốt đẹp, an hòa. Hòa là bình hòa. Như vậy, chữ ‘ôn hòa’ diễn tả dáng vẻ, phong cách ôn nhu, hòa dịu, đẹp đẽ.

‘Tịch định minh sát’: Tịch định chính là Thật Tế lý thể, minh sát là công dụng chiếu soi của trí huệ. Sách Tông Kính Lục viết: ‘Lấy nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp như tấm gương’. Tịch định có tánh chất như tấm gương, có công năng chiếu soi như gương rành rành phân minh, chẳng bỏ sót mảy may nên bảo là ‘minh sát’. ‘Tịch định minh sát’ chính là tịch mà thường chiếu vậy.

Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘đạo sư’ trong câu ‘làm đại đạo sư’ như sau: ‘Dùng trí huệ để khai hóa người khác thì gọi là đại đạo sư’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Vì kẻ lạc đường chỉ con đường đúng nên gọi là đạo sư’. Làm được như bậc đại sĩ Phổ Hiền, mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, thật là pháp tối cực viên đốn phổ lợi chúng sanh trong cửu giới nên được gọi là đại đạo sư.

Ðiều phục cả mình lẫn người’: Ðiều là điều hòa, điều thuận, chế ngự cái tâm mình; Phục là hàng phục, chế phục, hàng phục những tâm sai trái.
Kinh Kim Cang chép: ‘Nên trụ như thế nào, nên hàng phục cái tâm như thế nào?’ Ý của lời hỏi ấy là hỏi về cách điều phục.
Nếu giảng rộng ra thì khai hiển bổn tâm chính là ‘điều’; hàng phục tâm sai trái chính là ‘phục’. Hễ làm bậc đại đạo sư thì ắt phải điều phục được tâm mình lẫn tâm người khác, tự thân nhập đạo thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập đạo; tự tâm đại giác thì cũng khiến khắp các chúng sanh nhập giác đạo.
Vì thế, tiếp đó, kinh chép: ‘Dẫn dắt quần mê xả các ái trước’. ‘Trước’ là chấp trước, nhiễm trước. ‘Ái’ là tham ái, hỷ ái, ân ái. Cổ đức bảo: ‘Ái chẳng nặng, chẳng đọa Sa Bà’. Chúng sanh nhiễm chấp khó xả, nhưng diệu đức của Bồ Tát có thể khiến họ vĩnh viễn lìa được nhiễm chấp nên kinh bảo: ‘Vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu’ (ba cấu là tham, sân, si).
Bồ Tát lại có thể khiến cho chúng sanh du hý trong thần thông. ‘Du’ là thông suốt như nước chảy, ‘hý’ là an vui, nhàn hạ. Như vậy, ‘du hý’ nghĩa là tùy ý sử dụng thần thông một cách tự tại vô ngại nên mới nói là ‘du hý thần thông’.

Ý của toàn bộ đoạn kinh này là:
- Bồ Tát nhất tâm chánh trực, an trụ trong pháp Nhất Thừa, lại có đầy đủ phương tiện thiện xảo, siêng gắng cầu pháp, lại còn giảng cho khắp mọi người không biết chán nhàm. Bồ Tát giới đức thanh tịnh nên nói năng gì cũng khiến cho người nghe vui lòng, tin phục. Ðấy chính là đánh trống pháp, giương cao tràng pháp, phóng ánh sáng trí huệ lớn lao, phổ biến rộng rãi diệu pháp, phá trừ vô minh si ám của chúng sanh.
- Bồ Tát nội tâm thuần tịnh; dáng vẻ, phong cách ôn hòa, không những chỉ thanh tịnh trong nội tâm mà còn thể hiện ra ngoài, trong ngoài như một.
Bồ Tát ‘tịch định minh sát’, Ðịnh lẫn Huệ đều quân bình, tịch chiếu đồng thời. Vì thế, các ngài làm đại đạo sư cho chúng sanh, tự giác, giác tha, khiến khắp chúng sanh thảy đều trừ ác sanh thiện, thuận theo Phật pháp, hàng phục tâm sai bậy, xả các chấp trước ái kiến, vĩnh viễn dứt ba độc, khai hiển bổn tánh, an trụ thần thông tự tại vô ngại.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Nhân duyên nguyện lực xuất sanh thiện căn, dẹp tan hết thảy ma quân, tôn trọng, thừa sự chư Phật. Làm đèn sáng soi thế gian, [làm] phước điền tối thắng, cát tường thù thắng, đáng được cúng dường, rạng rỡ hoan hỷ, hùng mãnh,
vô úy. Thân sắc, tướng hảo, công đức biện tài đầy đủ không ai bằng nổi.


Giải:
Ðoạn kinh này giảng rộng về công đức chơn thật của Bồ Tát.
Chữ ‘nhân duyên’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘nhân lực, duyên lực’.
Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Nhân lực, duyên lực là môn thứ nhất để dựa vào đó mà khởi tu. Hết thảy hạnh lành đã tu trong quá khứ sanh ra điều lành trong hiện tại thì gọi là “nhân lực”. Gần thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp là “duyên lực”.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Căn lành từ những đời trước gọi là “nhân lực”. Thân cận thiện tri thức là “duyên lực”. Do nhân duyên hòa hợp nên có thể khởi hạnh’.
Hai thuyết trên tương đồng, nhưng sách Hội Sớ lại giảng hơi khác. Sách viết: ‘Nhân lực là Bồ Ðề tâm, đây chính là cái nhân gốc của Phật đạo, xuyên suốt thập phương tam thế khiến cho chúng ma kinh hãi lớn. Duyên lực là rộng cầu tri thức, những điều lành của đại chúng. Duyên này có đại oai lực chuyển phàm nhập thánh’.
Xét về văn tự, thuyết này khác với hai thuyết trên, nhưng thật chẳng mâu thuẫn nhau! Ngài Tịnh Ảnh lấy điều lành từ quá khứ làm cái nhân cho hiện tại; sách Hội Sớ coi cái tâm Bồ Ðề hiện tại là cái nhân để thành Phật. Thật ra, nếu chẳng có hạnh lành trong nhiều kiếp quá khứ thì chẳng thể phát khởi nổi cái tâm Bồ Ðề trong hiện tại. Nếu chẳng phát khởi nổi tâm Bồ Ðề thì không có cái nhân thành Phật!
Như vậy, hai thuyết trên chỉ bổ sung lẫn nhau; nhưng trong hai thuyết trên, thuyết của sách Hội Sớ gần với ý chỉ kinh này hơn vì phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm chính là tông chỉ của kinh này.

Tịnh Ảnh Sớ giảng ‘nguyện lực’ như sau: ‘Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực’. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Cầu Bồ Ðề Tâm là nguyện lực’.
Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Nguyện lực là tứ hoằng thệ nguyện để nghiêm tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sanh’. Tổng hợp cả ba thuyết trên thì dùng tứ hoằng thệ nguyện để trang nghiêm cõi nước, thành tựu chúng sanh, mong cầu tâm Bồ Ðề mình sẵn có, tất cả đều là từ nguyện khởi hạnh nên gọi là nguyện lực. Có nguyện mà không hạnh thì chỉ là nguyện suông nên chẳng có công lực.

Nhân duyên hòa hợp như vậy, lại đầy đủ nguyện lực nên tự nhiên ‘xuất sanh thiện căn’. Ngài La Thập giảng ‘thiện căn’ như sau: ‘Tâm lành kiên cố sâu chẳng thể nhổ trốc được nên gọi là Căn’. Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Thiện căn là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Hết thảy thiện pháp đều từ ba điều ấy mà sanh’. Vì vậy, điều lành sanh ra diệu quả, lại còn sanh ra các điều thiện khác
nên gọi là ‘thiện căn’.
Sách Di Ðà Yếu Giải nói: ‘Bồ Ðề chánh đạo gọi là thiện căn, tức là cái nhân gần’. Bồ Ðề chánh đạo chính là phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm. Ðấy chính là cái nhân gần để thành tựu Bồ Ðề.
Nhân có nghĩa là hột giống, ý nói: Phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm là hột giống để thành tựu quả Bồ Ðề nên gọi là ‘thiện căn’. Kinh Ðại Bi cũng dạy: ‘Một phen xưng danh hiệu Phật, dùng thiện căn ấy để nhập Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận’.
Ta thấy rõ thiện căn chính là cái nhân gần. Từ nhân được quả, quả có đầy đủ chủng tử nên lại trở thành cái nhân thù thắng. Cứ xoay vần như thế nên thiện căn vô tận. Do đó, Bồ Tát có đầy đủ những diệu đức như sẽ được nói sau đây:
- ‘Dẹp tan hết thảy ma quân’: ‘Dẹp tan’ là phá trừ và hàng phục. Xin xem lại lời giải thích về chữ ‘ma’ ở phần trước. Trí Ðộ Luận lại bảo: ‘Ðoạt huệ mạng, phá hoại gốc lành đạo pháp công đức nên gọi là Ma’. Loại quỉ thần này có đại thần lực, có khả năng gây chướng nạn cho người tu pháp xuất thế. Quân lính của ma được gọi chung là ma quân.
- ‘Tôn trọng, phụng sự chư Phật’: trong phẩm bốn mươi mốt của kinh này có nói kẻ vãng sanh về biên địa ‘ở trong hoa sen chẳng được xuất hiện’, ‘trong năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo, chẳng được cúng dường, phụng sự chư Phật’. Vì vậy, chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được thấy Phật và phụng sự chư Phật. Nay các vị Bồ Tát được phụng sự chư Phật chính là do có nhiều thiện căn phước đức nhân duyên.
- ‘Làm đèn sáng soi thế gian’: Trí huệ của Bồ Tát được ví như đèn sáng, chiếu tan sự tăm tối của chúng sanh, khiến chúng sanh khai giải chánh đạo.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Tự đủ trí huệ, lại làm cho chúng sanh giải ngộ, nên gọi là đèn sáng soi thế gian’. Do tự đủ trí huệ nên như đèn sáng. Ánh đèn tỏa sáng hiện rõ các sắc ví như trí huệ khiến cho chúng sanh khai phát tín giải. Do vậy, kinh bảo: ‘Làm đèn sáng soi thế gian’.
Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Soi tỏ thế gian mê ám nên bảo là đèn sáng soi thế gian’. Ý nói: Bồ Tát chiếu tan sự si ám và hôn mê của thế gian nên giống như đèn sáng vậy.

Phước điền’: Ðiền là mảnh ruộng, hàm nghĩa sanh trưởng. Tạo phước nơi bậc đức hạnh đầy đủ thì sẽ được phước báo. Gieo phước thì được quả phước, do đó, gọi là gieo trồng phước điền. Bậc đáng nên cúng dường được gọi là phước điền. Sách Thám Huyền Ký nói: ‘Sanh phước cho ta nên gọi là phước điền’. Theo kinh Ưu Bà Tắc Giới, có ba thứ phước điền:
a). Báo ân phước điền tức là cha mẹ, sư trưởng.
b). Công đức phước điền là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.
c). Bần cùng phước điền là những hạng người bần cùng, khốn khổ.
Cúng dường ba hạng trên đều có phước nên gọi là phước điền.
Chữ ‘phước điền tối thắng’ trong kinh này hàm ý: Trong các thứ phước điền, các Bồ Tát là thù thắng nhất. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Có thể phát sanh điều lành cho chúng sanh nên gọi là phước điền tối thắng’. Do có thể khiến cho chúng sanh xuất sanh thiện căn nên gọi là phước điền tối thắng, vì từ thiện căn lại sanh ra vô lượng các quả phước và nhân lành.
Hai câu ‘làm đèn sáng soi thế gian, làm phước điền tối thắng’ nên đọc liền một mạch với hai câu ‘cát tường thù thắng, đáng được cúng dường’ ở phần sau thì dễ thấy trọn ý nghĩa.

Cát tường thù thắng’ chính là ý nghĩa sâu xa của thánh hiệu Văn Thù đại sĩ. Văn Thù tức là Văn Thù Sư Lợi. Chữ Văn Thù có thể dịch là Thắng, Diệu, Ðệ Nhất; chữ Sư Lợi có thể dịch là Ðức, Cát Tường v.v… Kinh Ðại Nhật gọi ngài Văn Thù là Diệu Cát Tường.
Văn Thù biểu trưng Căn Bản Trí. Ngài là thầy của bảy đức Phật nên Văn Thù tốt lành nhất. Nay các hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc có đầy đủ trí đức của Văn Thù đại sĩ, thấy tự tánh rõ ràng nên họ là phước điền tối thắng, nhận lãnh nổi sự cúng dường của hết thảy trời người. Trí huệ của họ lại ‘rạng rỡ’, tức là sáng suốt chói lọi.

Ðối với chữ ‘hùng mãnh’, phẩm Thọ Ký kinh Pháp Hoa cũng có câu: ‘Ðại hùng mãnh Thế Tôn’. Thế Tôn đoạn sạch hết thảy phiền não, đại hùng chẳng khiếp nhược, dũng mãnh, tinh tấn nên được gọi là ‘hùng mãnh’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trong thế gian, Phật là hùng mãnh nhất’.

Vô úy’ là đức tánh ở giữa đại chúng thuyết pháp không hề hãi sợ, kinh khiếp. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại bảo: ‘Tâm giáo hóa chẳng khiếp nên gọi là vô úy’. Ðối với việc hóa độ chúng sanh chẳng hề có tâm khiếp hèn nên bảo là vô úy.

Tướng hảo’ là băm hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo.
Như vậy, chữ ‘rạng rỡ’ diễn tả oai quang của Bồ Tát chói ngời, chữ ‘hoan hỷ’ diễn tả nội tâm tự tại, hình dung vui vẻ, an hòa. Chữ ‘hùng mãnh vô úy’ diễn tả thật đức của Bồ Tát: dũng mãnh, tinh tấn, thuyết pháp vô úy; đồng thời mô tả phong thái, oai thần khôn sánh: đại hùng chẳng khiếp nhược. Chữ ‘tướng hảo’ chuyên chỉ thân sắc.

Tiếp đó, kinh nói: ‘Công đức biện tài’ ngụ ý: Bồ Tát có đầy đủ các công đức khác và có đủ các thứ biện tài vô ngại. Chữ ‘đầy đủ trang nghiêm’ chính là câu tổng tán nhằm kết lại những lời khen ngợi ở phần trên: Như Lai dùng phước đức, trí huệ trang nghiêm thân mình. Các hàng Bồ Tát này có đầy đủ phước trí trang nghiêm, vượt xa hết thảy thế gian.
Ðoạn kinh này cực lực tán dương công đức chơn thật của Bồ Tát, thật là hy hữu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thường được chư Phật cùng khen ngợi, rốt ráo các Bồ Tát ba la mật, nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt. Hạnh khắp đạo tràng, xa lìa cảnh Nhị Thừa. A Nan! Ta nay nói đại lược: công đức chơn thật của các Bồ Tát sanh trong thế giới Cực Lạc kia thảy đều như vậy. Nếu nói rộng ra thì trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể hết được nổi.


Giải:
Ðây là ý chính thứ ba: Chư Phật cùng khen ngợi để chứng minh, chư Phật đồng thanh ca ngợi tỏ rõ đại sĩ đức hạnh rất sâu.
Chữ ‘bất sanh bất diệt’ trong câu ‘rốt ráo các Bồ Tát ba la mật nhưng thường an trụ trong các tam ma địa bất sanh bất diệt’ nên hiểu như kinh Ðại Niết Bàn đã dạy: ‘Niết là bất sanh, Bàn là bất diệt. Bất sanh bất diệt thì gọi là Ðại Niết Bàn’.
Kinh Duy Ma cũng dạy: ‘Pháp vốn chẳng sanh nên nay chẳng diệt’.
Tiểu Thừa dựa vào lý Hữu Dư Niết Bàn để quán bất sanh bất diệt nên nghiêng về Thiên Không. Ðại Thừa từ Không nhập Giả nên ngay nơi cái có sự tướng mà hiển thị lẽ bất sanh bất diệt; ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chơn. Vì vậy nên có thể suốt ngày độ sanh mà suốt ngày chẳng độ, suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch; lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ: bố thí, nhẫn nhục… mà vẫn an trụ trong các tam muội bất sanh bất diệt, chẳng đánh mất định ý.

‘Hạnh khắp đạo tràng’ là đối với những chánh hạnh đạo tràng không chút khuyết thiếu.
‘Xa lìa cảnh Nhị Thừa’ là chỉ nương theo một pháp Nhất Thừa, rốt ráo đạt tới bờ kia. Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận cũng bảo: ‘Nếu đắm trong [cảnh giới của] địa vị Thanh Văn và địa vị Bích Chi Phật thì gọi là Bồ Tát chết, là mất hết thảy cái lợi. Dù đọa vào địa ngục cũng chẳng sợ hãi đến thế. Nếu sa vào địa vị Nhị Thừa thì là điều sợ hãi lớn’. Vì vậy, Bồ Tát ‘xa lìa cảnh Nhị Thừa’.

Từ chữ ‘A Nan’ trở đi là lời đức Thế Tôn tổng kết: công đức chơn thật của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc chẳng thể nói trọn hết nổi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

32. Thọ lạc vô cực (thọ mạng và niềm vui vô cực)
Phẩm này nói đến tuổi thọ và sự vui sướng nơi cõi Cực Lạc đều vô cực. Trước hết, kinh nói đến chúng hội thù thắng nơi cõi ấy, khuyến dụ chúng sanh nên thân cận. Tiếp đó, kinh miêu tả những điều vi diệu trong cõi Cực Lạc để khuyến dụ vãng sanh.

Chánh kinh:
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát [và] các hàng trời người rằng:
[Trong] nước Phật Vô Lượng Thọ, công đức trí huệ của Thanh Văn, Bồ Tát chẳng thể nói kể. Cõi nước ấy lại vi diệu, an lạc, thanh tịnh như thế. Sao không ra sức làm lành, niệm đạo tự nhiên?


Giải:
Ðoạn kinh này nêu lên cả thánh chúng lẫn cõi nước để khuyến dụ chúng sanh.
Câu ‘Phật bảo Di Lặc’ ngụ ý: từ phẩm này trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ chính, A Nan chỉ đóng vai phụ. Trong phẩm bốn mươi tám, Phật bảo ngài Di Lặc: ‘Ta nay đúng như lý tuyên nói pháp môn vi diệu rộng lớn như thế ấy, [là pháp] được hết thảy chư Phật khen ngợi, phó chúc các ông thực hiện sự thủ hộ lớn lao’. Như vậy Di Lặc Bồ Tát đương lai hạ sanh ắt sẽ tuân lời phó chúc của Phật mà diễn thuyết kinh này.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vi diệu, an lạc, thanh tịnh’ như sau: ‘Trang nghiêm siêu tuyệt nên bảo là “vi diệu”. Chẳng có khổ não nên bảo “an lạc”.
Tướng vô lậu, tướng vô tướng nên bảo là “thanh tịnh”. Ý nói: Hết thảy sự tướng cõi Cực Lạc đều là diệu tướng vô lậu. Hơn nữa Thật Tướng chẳng phải là vô tướng, cũng chẳng phải là bất tướng nên mọi thứ hiện ra đều là Thật Tướng. Do mọi tướng hiện hữu trong cõi Cực Lạc đều là tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên Phật bảo là ‘thanh tịnh’.

Hai câu cuối của đoạn chánh kinh trên được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Sao chẳng tận hết sức làm lành để cầu sanh nên bảo là “gắng sức làm lành”. Niệm đạo thì tự nhiên vãng sanh nên bảo là “tự nhiên”.
Sách Hội Sớ giảng: ‘Hai chữ “sao chẳng” là lời khích lệ, dẫn đến hai nghĩa: có hai điều lành.
Thứ nhất là xưng danh niệm Phật, đây chính là điều lành căn bản.
Hai là rộng hành các điều thiện, hồi hướng vãng sanh.

Niệm đạo gồm hai nghĩa: Niệm là năng niệm, đạo là điều được niệm.
Ðạo cũng có hai thứ:
- Thứ nhất là Di Ðà bổn nguyện, đây là tha lực đại đạo; chẳng cậy vào tự lực để tu thiện, nhất siêu trực nhập nên gọi là tự nhiên.
- Thứ hai là đạo được chứng bởi tam thừa vô vi tự nhiên, tánh chẳng tạo tác nên cũng gọi là tự nhiên.
Tuy có hai nghĩa, nhưng chủ yếu là nghĩa thứ nhất’.
Tịnh Ảnh Sớ dùng ý ‘làm lành cầu được vãng sanh’ để giảng chữ ‘gắng sức làm lành’, coi tự nhiên vãng sanh là ý nghĩa chữ ‘niệm tự nhiên’.
Nói như vậy là nói vắn tắt. Ý ngài Tịnh Ảnh là dùng công đức của việc lành để hồi hướng Tịnh Ðộ, tận lực cầu vãng sanh thì gọi là ‘gắng sức làm lành’. Giảng như vậy rất hay.
Tiếp đó, ngài nói: tự nhiên vãng sanh chính là ‘niệm đạo tự nhiên’. Giảng như vậy quá vắn tắt, cách giải thích của Hội Sớ hay hơn: trực chỉ xưng danh niệm Phật là cội gốc của điều lành và đó là chánh hạnh. ‘Rộng làm các điều thiện, hồi hướng cầu được sanh’ cũng là ‘làm lành’ nhưng chỉ là trợ hạnh. Nêu lên cả chánh hạnh lẫn trợ hạnh, chánh phụ phân minh chính là ưu điểm của Hội Sớ.

Ðến ý ‘niệm đạo tự nhiên’, sách Hội Sớ càng giảng hay hơn nữa. Sách nêu lên hai nghĩa: Một là dùng tha lực để vượt thẳng [khỏi tam giới] cho nên là tự nhiên; hai là do vô vi vô tác nên là tự nhiên. Nghĩa thứ nhất là chánh yếu. Thuyết này cực hay, vì điểm mầu nhiệm của Tịnh tông thật đúng như sách Yếu Giải nhận định: ‘Từ sự trì đạt lý trì’ nên chỉ cần ròng rặt niệm Phật thì tự nhiên đạt được
những điều như ‘vô tác, vô vi’…
Cả hai thuyết vừa nêu trên đều là lập luận dựa trên bản Ngụy dịch (câu kinh trước câu ‘niệm đạo tự nhiên’ chỉ thấy trong bản Ngụy dịch); trong hai bản Ngô dịch và Hán dịch, tiếp ngay sau câu ‘niệm đạo tự nhiên’ là cả một đoạn văn dài thuật chi tiết về công đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc và cõi nước tự nhiên tối thắng. Hội bản chọn lấy, ghép thành phẩm này. Do đó, trong hội bản đây, ngay sau chữ ‘niệm đạo tự nhiên’ ta thấy có đến tám chữ ‘tự nhiên’ như ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’, ‘tự nhiên vô vi’, ‘tự nhiên gìn giữ’, ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’, ‘tự nhiên
có căn bổn’, ‘tự nhiên quang sắc hòa lẫn vào nhau’, ‘tự nhiên lôi kéo’; đủ thấy hai chữ ‘tự nhiên’ rất trọng yếu.
Ở đây, ‘tự nhiên’ chẳng có nghĩa là tự nhiên không do nhân gì như ngoại đạo thường nói, mà ‘tự nhiên’ có nghĩa là pháp vốn như vậy. ‘Tự’ là tự tánh, ‘nhiên’ được hiểu là ‘thanh tịnh bản nhiên’ (vốn sẵn thanh tịnh như vậy) như trong kinh Lăng Nghiêm nói. Như vậy, chữ ‘tự nhiên’ bao hàm ý nghĩa tự tánh bản nhiên; mà tự tánh bản nhiên chính là Chơn Như, Thật Tướng. Như vậy, ‘niệm đạo tự nhiên’ chính là trì danh niệm Phật, cũng chính là niệm Thật Tướng như Di Ðà Yếu Giải đã giảng: ‘Thật Tướng vô nhị mà cũng vô bất nhị. Vì thế, toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp thân, làm báo thân, làm tự, làm tha, cho đến người nói, pháp được nói, kẻ độ, người được độ, người tin, vị Phật được tin, người phát nguyện, điều phát nguyện, người trì danh, danh hiệu được trì, người vãng sanh, cõi được vãng sanh về, người khen ngợi, vị Phật được khen ngợi. Không gì là chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào’.
Vì vậy, sách Hội Sớ coi đạo vô vi vô tác là đạo tự nhiên; lại còn xem tha lực pháp môn nhất siêu trực nhập là tự nhiên. Giảng như vậy đều nói lên ý chỉ chánh yếu của Trung Ðạo. So ra, tuy lời văn có khác với lời giảng của Yếu Giải, nhưng ý chỉ tương đồng. Nương theo tín nguyện trì danh, nương vào tha lực đại đạo liền được vãng sanh Cực Lạc. Trì danh chính là niệm Thật Tướng, là con đường trang nghiêm để nhất siêu trực nhập. Con đường như vậy, pháp tánh của nó vốn sẵn tự nhiên.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Từ lâu đã ưa thích tu tập xuất nhập cúng dường, xem kinh, hành đạo. Trí huệ, tài năng bén nhạy.
Tâm chẳng nửa chừng sanh hối hận, ý không lúc nào biếng nhác. Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút. Tâm thênh thang như hư không, khế hội Trung Ðạo. Trong, ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, kiềm chế, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực.
Thân tâm khiết tịnh, chẳng có tham ái. Chí nguyện an định chẳng tăng, chẳng giảm. Cầu đạo, hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà. Tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực chẳng dám sai sảy. Ðều vì mộ
đạo, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ.


Giải:
Ðoạn kinh này nói về công đức thù thắng của hội chúng cõi Cực Lạc.
Chữ ‘xuất nhập cúng dường’ trích từ hai bản Hán dịch và Ngô dịch. Nguyên văn ghi: ‘Ðều theo nhau bay đi, lần lượt ra vào, cúng dường vô cực’. Ý nói: Các vị Bồ Tát, A La Hán từ cõi Cực Lạc bay đến mười phương, hưng khởi đủ các sự cúng dường lớn lao. Ðấy là tu phước. ‘Xem kinh, hành đạo’ là tu huệ. Thánh chúng cõi ấy đối với hai thứ phước huệ trang nghiêm này đều ‘ưa thích’ nên ‘từ lâu đã tu tập’.
Tiếp đó, chữ ‘tài mãnh’ nên hiểu như trong phẩm Pháp Tạng Nhân Duyên đã ghi: ‘Tài cao dũng triết, siêu dị hơn đời’. Tài năng dũng mãnh là do trí huệ. Vì vậy, ‘trí huệ tài mãnh’ (tạm dịch: ‘trí huệ, tài năng bén nhạy’) nghĩa là huệ căn bén nhạy, tài năng hơn đời.
‘Nửa chừng hối hận’ là đang giữa đường tu bỗng thoái chuyển. Sở dĩ thoái chuyển là do lòng tin chẳng vững, gặp duyên liền thoái thất. Thánh chúng cõi Cực Lạc trí huệ bén nhạy, đoạn nghi, sanh tín kiên cố chẳng lay động như núi Kim Cang nên ‘tâm chẳng giữa chừng hối hận’, thẳng tiến một lèo.
‘Ý không lúc nào biếng nhác’: Biếng nhác là vì nguyện chẳng sâu. Nguyện chẳng sâu xa, khẩn thiết thì không sức hành trì.
‘Thong thả’ là an nhàn, trầm ổn, chẳng khẩn trương, gấp gáp. ‘Bề ngoài thong thả, bên trong luôn gấp rút’ là nói vẻ ngoài thong dong, nhàn hạ, tựa hồ vô sự, nhưng trong nội tâm luôn tinh tấn chẳng ngơi, niệm niệm tiếp nối, tâm tâm chẳng gián đoạn, chẳng để lỡ một sát na nào mà chẳng quán chiếu nên kinh mới nói: ‘Trong luôn gấp rút’. Tâm thánh chúng giống như hư không. Do hư không không có bờ mé nên tự tâm cũng không có bờ mé. Hư không chẳng có một vật nên tự tâm cũng chẳng có một vật. Do hư không rỗng không nên sum la vạn tượng, mười phương cõi nước đều nương vào hư không mà sanh. Hư không tạo dựng vạn vật nên tự tâm cũng tạo lập vạn vật. Do không có một vật nên chẳng rơi vào hữu biên. Do dung chứa vạn vật nên không bị rơi vào không biên.
Chẳng có một vật mà lại dung chứa muôn vật nên chiếu được cả Không lẫn Hữu. Chứa đựng vạn vật mà không hề có một vật nào cả nên cả Không lẫn Hữu đều mất, thung dung Trung Ðạo nên mới bảo là ‘khế hội Trung Ðạo’.
Kinh Kim Cang dạy: ‘Nên không trụ vào đâu mà sanh cái tâm mình’. Vô trụ chính là sanh tâm, sanh tâm chính là vô trụ, đấy nghĩa là Trung Ðạo.
Trong ngoài tương ưng’ (trung biểu tương ưng); ‘trung’ là nội tâm, ‘biểu’ là những cái được biểu hiện ra ngoài. Tâm Bồ Tát khế hợp Trung Ðạo, vừa đạt được trong tâm vừa biểu hiện ra ngoài nên cả trong lẫn ngoài như một, tự nhiên tương ưng, chẳng cần phải an bài tạo tác nên ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’.
Từ chữ ‘tự nhiên nghiêm chỉnh’ cho đến chữ ‘chẳng có lo nghĩ’ là cả một đoạn lớn. Những diệu đức của Bồ Tát được nêu trong đoạn này toàn là do ‘khế hội Trung Ðạo’ tạo thành.
‘Nghiêm chỉnh’ là nghiêm túc, chỉnh tề, chữ này diễn tả oai nghi của thánh chúng.
‘Kiềm giữ, thâu liễm, đoan nghiêm, chánh trực’ (kiểm liễm đoan trực) chính là nội dung của oai nghi ‘nghiêm chỉnh’. ‘Kiểm’ là kiềm giữ chẳng để phân tán. ‘Liễm’ là thâu liễm, thu gom lại. Như vậy, ‘kiểm liễm’ chính là như kinh đã nói
‘thảy đều tự đoan chánh mắt, tai, miệng, lưỡi’. Gìn giữ cái nghe, kiềm chế cái nhìn để tuyệt các ý ngoại duyên.
Thêm nữa, ‘đoan’ là đoan chánh, ‘trực’ là chẳng cong quẹo, là chánh trực. Vì thế, chữ ‘đoan trực’ ngoài chỉ vẻ oai nghi nơi thân trang nghiêm, trong chỉ tâm ý chánh trực. Ðấy là cả thân lẫn tâm đều đoan nghiêm.
‘Thân tâm khiết tịnh, chẳng có lo nghĩ’ là vì khế hội Trung Ðạo nên Sắc chẳng khác Không, Không nào khác Sắc, chiếu phá khách trần, tự nhiên ly ái, chẳng có tham nhiễm, thân tâm tự nhiên khiết tịnh.
‘Chí nguyện an định chưa từng khuyết giảm’: Chữ ‘an’ gồm có các nghĩa tịch tĩnh, định, chỉ, yên ổn, vui vẻ, tốt lành, không mong cầu. ‘Ðịnh’ là quyết định, kiên định, chẳng hề lay động, biến đổi.
Các thệ nguyện đã phát của thánh chúng cõi kia tự nhiên kiên định, chẳng hề chợt tăng, chợt giảm, chợt bỏ qua, hay chợt bị khuyết thiếu, đúng như kinh nói: ‘Ví dù thân ở trong các khổ, nguyện tâm như vậy mãi mãi chẳng thoái thất’. Ðấy chính là khuôn phép cho ‘chí nguyện an định, chẳng hề tăng giảm’.
Cầu đạo hòa chánh, chẳng lầm lạc, khuynh tà’: Chữ ‘hòa’ bao gồm các nghĩa: điều hòa, hài hòa, ôn hòa, bình ổn, hòa kính, hòa hợp, vui vẻ, tương ưng. ‘Chánh’ là như một, luôn giữ như một. Chánh gồm đủ các nghĩa: đúng đắn, không thiên lệch, thường, ngưng dứt, hạnh không lệch lạc, tà vạy, thẳng thắn, chẳng khuất khúc. Thánh chúng cõi Cực Lạc hòa bình, trung chánh, vì cầu vô
thượng đạo nên chẳng bị những điều nghiêng lệch, tà vạy làm lầm lẫn. ‘Khuynh’ là nghiêng lệch, lật úp; ‘tà’ là tà ác, tà ngoại. Thánh chúng cõi ấy chẳng bị những thứ khuynh tà làm lầm lạc là vì họ ‘tuân theo những ước thúc, giáo lịnh trong kinh như giữ thừng mực, chẳng dám sai sảy’. ‘Lịnh’ là mạng lịnh, pháp luật, giáo lịnh.
‘Thừng mực’ là như khi thợ mộc thao tác, dùng sợi dây làm mực [căng ra] búng dây đánh dấu, rồi cứ theo dấu ấy mà làm, chẳng dám sai chạy chút nào nên khỏi bị hư hao, chẳng bị cong vạy, lệch lạc.
Trong phẩm Siêng Tu Giữ Vững của kinh này, những câu như: ‘Tùy thuận lời dạy của ta là hiếu với Phật’, ‘chẳng được làm xằng, tăng giảm kinh pháp’ cũng mang cùng ý nghĩa như vậy. Ðấy chính là ‘rời ngoài một chữ trong kinh thì giống như lời ma nói’. Những hành nhân trong đời phải nên lấy thánh ngôn làm chỗ y chỉ vậy.
Ðều vì mộ đạo, tâm thênh thang, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ’: Câu thứ nhất ý nói những điều mong cầu trong tâm đều là lẽ đạo tột cùng. Câu thứ hai ý nói: tâm mênh mông, chẳng còn vọng niệm. Ý câu ba là tín tâm kiên định, trí huệ rõ suốt không nghi nơi pháp, nên chẳng còn có ý tưởng lo nghĩ.
Nếu hiểu theo quan điểm của Tịnh tông thì ‘tâm thênh thang, trọn không còn niệm khác’ chính là buông bỏ vạn duyên, ‘đều vì mộ đạo’ là chỉ đề cao nhất niệm, ‘không còn lo nghĩ’ chính là ngay trong một niệm là Phật.
Một tiếng niệm Phật hiệu muôn mối lo nghĩ đều tiêu tan, linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần, chỉ còn lại mỗi cái tâm đã hết sạch phiền não nên còn có gì là vui, gì là buồn nữa. Vì thế, kinh mới bảo ‘chẳng có lo nghĩ’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập. Ðạm bạc, an tịnh, vô dục tạo thành thiện nguyện. Tận tâm gắng gỏi, xót thương từ mẫn, đều hợp lễ nghĩa. Sự lý viên dung, quá độ giải thoát.


Giải:
Hai chữ ‘tự nhiên’ xuyên suốt toàn đoạn kinh này, ấy là do ‘khế hội Trung Ðạo’ nên tự nhiên như thế.
‘Tự nhiên vô vi’ là chẳng do tạo tác, tự nhiên an trụ trong pháp vô vi. Ðấy là vô vi chơn thật. Nếu là do tạo tác thì đã trở thành hữu vi rồi.
Chữ ‘hư không’ ngụ ý tâm như hư không, rộng mở vô hạn, ly cấu vô nhiễm, chẳng nhận chứa mảy trần. ‘Chẳng lập’ nghĩa là chẳng lập một pháp nào cả.
‘Ðạm’ là đạm bạc, ‘an’ là an tịnh. Chữ ‘đạm an’ còn dùng để mô tả trạng thái nước tuôn chảy êm đềm, đầy tràn. Sóng nước liên tục tựa như luôn tiếp nối nhau nên được dùng để ví cái tâm lìa khỏi Ðoạn lẫn Thường. Dòng nước êm đềm, tràn đầy ví như cái tâm bình đẳng, viên mãn.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘dục’ trong ‘vô dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh gọi là dục’. Sách còn bảo: ‘Muốn nhận lấy duyên thì gọi là dục’. Câu Xá Luận lại bảo: ‘Dục là mong cầu làm ra sự nghiệp’. Theo đó, những điều như ‘bỏ các chấp trước ái kiến’ và ‘cũng chẳng có ý tưởng mong cầu hay chẳng mong cầu’ được nói trong kinh này đều là ‘vô dục’ cả.
Ba câu vừa giảng trên đều thể hiện ý ‘về mặt lý chơn thật Thật Tế, chẳng nhận lấy mảy trần’; nhưng đối với muôn hạnh môn lại ‘chẳng bỏ một pháp nào’ nên kinh mới dạy tiếp: ‘Tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’, hiển thị rõ ràng diệu nghĩa sự lý vô ngại, viên dung tự tại.
Trong phẩm Ðức Tuân Phổ Hiền đã nói: các đại Bồ Tát trong hội ‘nhập không, vô tướng, vô nguyện pháp môn’, nhưng các vị ‘đều cùng tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện’. Ðiều ấy thật tương đồng với Sự kiện các Bồ Tát lại do vô vi, vô nguyện, vô lập, vô dục mà ‘tạo thành thiện nguyện, tận tâm gắng gỏi’ được nói ở đây. Ta thấy rõ, thánh chúng cõi Cực
Lạc đều tôn thờ Di Ðà, tu tập chuyên gắng, trụ chơn thật huệ để cầu thành tựu.
Tiếp đó, chữ ‘xót thương’ chỉ tâm đại bi. ‘Từ mẫn’ là tâm đại từ. Do đại từ bi nên dẫu biết rõ thật không có chúng sanh để độ, nhưng hạnh nguyện độ sanh vẫn chẳng cùng tận. Bởi thế ‘tâm thường trụ chắc nơi đạo độ thế’, ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật’. Cái đại nguyện được kết thành ấy tự nhiên khế lý khế cơ, chiếu chơn, đạt tục; do khế lý chiếu chơn nên đại nguyện ấy lấy Thật Tướng làm thể, liễu nghĩa rốt ráo, lực dụng vô lượng. Do khế cơ và thấu hiểu thế gian nên khéo phù hợp cơ nghi.
‘Ðều hợp lễ nghĩa’: Lễ nghĩa chính là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tức là đạo đức thế gian. Hai chữ này chẳng những để chỉ đạo đức của xã hội đương thời hay thời cổ Ấn Ðộ mà còn chỉ chung tất cả các chuẩn mực, quy luật đạo đức của xã hội trong các thời đại mai sau. Ðại nguyện đã phát phải phù hợp với đạo đức xã hội thì mới được xã hội đương thời chấp nhận; có như vậy mới có thể hoằng Dương giáo nghĩa, lợi khắp các chúng sanh được.
‘Sự lý viên dung’ (nguyên văn là ‘bao la biểu lý’): ‘Bao’ là chứa đựng; ngài Gia Tường giảng: ‘La là thâu tóm’. Như vậy, ‘bao la’ nghĩa là bao dung, hàm chứa. ‘Biểu’ (bên ngoài) chỉ sự tướng; ‘lý’ (bên trong) chỉ lý thể. Do đó, ‘bao la biểu lý’
chính là Sự lẫn Lý cùng viên mãn, chơn lẫn tục cùng chiếu, trọn thâu các điểm nhiệm mầu, nhiếp khắp muôn loại: thượng trí hạ ngu đều được độ thoát. Thế gian, xuất thế gian đều dung thông vô ngại.
‘Quá độ’: Bản Ngô dịch ghi tựa đề kinh này là ‘Quá Ðộ Nhân Ðạo Kinh’; quá độ nghĩa là tự mình thoát khỏi sanh tử lại còn khiến cho người khác cũng thoát sanh tử.
‘Giải thoát’ là cởi bỏ những trói buộc của hoặc nghiệp, thoát khỏi cái khổ tam nghiệp. Sách Duy Thức Thuật Ký nói: ‘Giải là rời khỏi triền phược, thoát là tự tại’. Sách còn bảo: ‘Nói giải thoát đó thì thể của nó là viên tịch. Các hữu tình do bị phiền não chướng ngại, trói trăn, nên luôn ở trong sanh tử. Chứng được viên tịch rồi thì xa lìa được những trói trăn đó nên gọi là giải thoát’.
Ý nói: đại nguyện của thánh chúng là không những chỉ nhằm khiến tự thân thoát khỏi sanh tử mà còn làm cho hết thảy hữu tình cùng thoát khỏi sanh tử, vĩnh viễn được giải thoát nên mới bảo là ‘quá độ giải thoát’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Tự nhiên chẳng thay đổi, chơn thật tuyệt đối, khiết bạch, chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt tướng tự nhiên của tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn, tự nhiên quang sắc nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng. Uất Ðan thành thất bảo. Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật, quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt lành thật khôn sánh, soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé.


Giải:
‘Tự nhiên bảo thủ’ (tạm dịch là ‘tự nhiên chẳng thay đổi’) chính là như nhà Thiền thường nói là ‘bảo nhậm’. Nhậm là nhậm vận (tùy ý), cần đi thì đi, muốn ngồi cứ ngồi. Bảo là niệm niệm chẳng sai khác. “Tự nhiên” nghĩa là tùy ý. Vì thế, ‘tùy ý
giữ gìn chẳng thay đổi’ là bảo nhậm vậy. ‘Chơn’ là nhất chơn pháp giới, là thể tánh Chơn Như, là chơn tâm diệu minh, ý nghĩa giống như chữ ‘chơn’ trong ‘chơn thật tế’ được nói trong kinh này. Ở đây kinh ghi là ‘chơn chơn’ (tạm dịch
là ‘chơn thật tuyệt đối’) hàm ý: Ðây chẳng phải là chơn do so với vọng mà nói, mà là lẽ chơn thật đã dứt bặt mọi đối đãi, là lẽ chơn thật trong Chơn Ðế.
‘Khiết’ là vô cấu, ‘bạch’ là vô nhiễm, tức là như Lục Tổ bảo: ‘Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh’, cũng tức là như tổ Bách Trượng dạy: ‘Tâm tánh vô nhiễm vốn tự viên thành’. Cái được ta tùy ý gìn giữ chính là cái chơn tâm vô nhiễm vốn sẵn thanh tịnh dứt tuyệt mọi đối đãi này.
‘Vô thượng’ là như Vãng Sanh Luận Chú giảng: ‘Vô thượng là đạo này cùng tột lý, cùng tận tánh, không còn có gì hơn nổi’. Lấy đó làm chí nguyện nên bảo là ‘chí nguyện vô thượng’.
Tịnh định’ là tâm thanh tịnh, vắng lặng, bất động.
An lạc’ là an nhiên tự tại, tùy ý thường vui sướng.
‘Một mai’ (nhất đán) là chỉ trong một sát na nào đó.
Ấy là vì ‘vô thượng’ chính là chỗ đi chẳng đến được nên không thể tính được hành trình, chẳng thể nói nổi kỳ hạn, chỉ trong vô tâm tam muội (như lời dạy của Cao Phong thiền sư) đột nhiên sờ phải, va nhằm, mò đúng cái chốt hướng thượng, trong sát na tương ứng, thấu suốt nguồn tâm, khế nhập lý nhất tâm nên mới bảo là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’ (nguyên văn: nhất đán khai đạt minh triệt).
‘Khai’ là tâm khai ngộ, ‘đạt’ là hiểu rõ, ‘minh’ là minh bạch như Tín Tâm Minh nói: ‘Minh bạch thấu suốt’. ‘Triệt’ là thấu triệt, cũng có nghĩa là triệt ngộ.
Ngộ được gì? Chỉ là ngộ được ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’. Như kẻ cuồng trong kinh Lăng Nghiêm mê mờ tưởng đầu mình bị mất, chạy cuồng đi tìm là chẳng tự nhiên. Một khi hết cuồng thì hết cuồng chính là Bồ Ðề, đầu mình vẫn y đó, chẳng phải là ‘tự nhiên’ hay sao?
Lại như lúc cổ đức chứng ngộ đã bảo: ‘Sư cô vốn là đàn bà’, lại cũng như câu nói: ‘Sớm biết đèn là lửa, cơm đã chín mấy dạo’. Tỳ kheo ni là đàn bà đèn tức là lửa, đều là những ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
Lại như lúc chưa ngộ, bảo núi là núi, sông là sông. Người ngộ bảo núi chẳng phải là núi, sông chẳng phải là sông. Bậc triệt ngộ bảo núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Cao Phong thiền sư bảo: ‘Ði, về vẫn là người khi xưa, chỗ đi về năm xưa vẫn chẳng thay đổi!’. Chỉ vẫn là như cũ nên chẳng phải là tự nhiên hay sao?
Thêm nữa, ‘tướng tự nhiên’ chính là Thật Tướng vốn sẵn của tự tánh. Vì vậy, núi, sông, nam, nữ, thời nay, thời xưa… không thứ nào chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào, ngay nơi tướng chính là Ðạo, ngay nơi sự chính là chơn, thứ nào cũng đều vốn sẵn thanh tịnh, thứ nào cũng là ‘tướng tự nhiên của tự nhiên’.
‘Căn bổn’ chính là bổn thể, là tự thể căn bổn của hết thảy các pháp. Kinh Ðại Nhật nói: ‘Một thân, hai thân cho đến vô lượng thân đều thuộc trong bổn thể’. Câu kinh này đã giảng rõ ý nghĩa chữ ‘căn bổn’. Bổn còn là bổn tâm, tức là nguồn cội tự tâm. Bổn còn có nghĩa là bổn tánh, tức là tánh đức cố hữu.
Chữ ‘có’ trong câu ‘tự có căn bổn’ rất thiết yếu. ‘Có’ là như kẻ cuồng sẵn có cái đầu, quyết định là có, chẳng từ bên ngoài mà có. Trong Tâm Vương Minh, Phó Ðại Sĩ đã viết: ‘Nước có vị mặn, sắc vẫn trong veo, quyết định là có, nhưng chẳng thấy hình.
Tâm vương cũng vậy, ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, tùy theo tình huống thích ứng, hoàn thành các việc’. Bốn chữ ‘quyết định là có’ đã mở toang mật tạng của chư Phật, nghĩa là tâm vương của con người quyết định là có, giống như vị mặn trong nước. Vị mặn ấy chắc chắn là có, nhưng chẳng thấy được hình dáng của vị mặn đó. Ngài Tào Sơn (sư tổ tông Tào Ðộng) cũng nói: ‘Chỉ cần biết có là được, chẳng luận là còn đang trong phiền não, vô minh’.
Như vậy, muôn phần chẳng thể coi thường cái chữ ‘có’ này được.
Câu ‘tự nhiên tự có căn bổn’ có hai ý nghĩa:
a). Thể tánh của vạn tượng sum la là không hai. Ngàn con sóng đều là nước, muôn thứ vật dụng đều là vàng. Trong tự nhiên tự có bổn thể. Cái bổn thể ấy chính là căn bổn.
b). Hai là chẳng do tạo tác, nhất niệm đốn ngộ nên bảo là tự nhiên. Hiểu rõ vạn pháp đều nằm gọn trong tự tâm, thấy ngay được Chơn Như tự tánh. Tự tánh của tự tâm chính là căn bổn nên bảo là ‘tự nhiên có căn bổn’.
Kinh Tịnh Danh nói: ‘Ngay lập tức rỗng rang, lại đạt được bổn tâm’. ‘Rỗng rang’ chính là ‘một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt’. Cái bổn tâm lại tìm được ấy chính là ‘tướng tự nhiên trong tự nhiên, tự nhiên tự có căn bổn’.
Kinh Bồ Tát Giới còn bảo: ‘Tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Nếu hiểu biết tự tâm, thấy được tánh thì đều thành Phật đạo’, đủ chứng tỏ câu nói của tổ Tào Sơn: ‘Chỉ cần biết có là được’ chính là tâm ấn mà chư Phật đã truyền cho nhau. Trạm Ngu lão nhân nói: ‘So với Lục Tổ, Tào Sơn chỉ nắm được cái chuôi này’.
‘Tự nhiên quang sắc hồi tham, chuyển biến tối thắng’ (tạm dịch: ‘Tự nhiên quang sắc xoay chuyển nhập lẫn vào nhau, chuyển biến tối thắng’): Tham là nhập vào, các ánh sáng chập vào nhau. Hồi là xoay chuyển, chuyển vần trọn khắp không ngừng, biến hóa không trở ngại vậy. Thể của Thật Tướng là chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại thường tịch, thường chiếu. Tịch nhưng thường chiếu, chiếu
nhưng thường tịch nên từ pháp thân lưu xuất báo thân, hóa thân; từ lý thể sanh ra vô lượng tướng dụng vi diệu. Do đó, từ căn bổn của tự nhiên ấy tự nhiên sanh ra vô lượng quang minh, sắc tướng nhập lẫn vào nhau, xoay vần biến hóa, vượt xa mười phương nên kinh bảo là ‘tối thắng’.
Trong kinh thường hay dùng bảo châu để ví cái tâm. Quán kinh nói: ‘Mỗi một bảo châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám vạn bốn ngàn kim sắc khác nhau. Mỗi một kim sắc chiếu khắp cõi báu biến thành các tướng khác nhau: hoặc biến thành đài kim cang, hoặc biến thành lưới chơn châu, hoặc biến thành mây nhiều màu. Khắp mười phương tùy ý biến hiện thực hành Phật sự’.
Kinh còn nói: ‘Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo ấy và các hóa Phật [hiện ra trong các quang minh ấy] chẳng thể nói trọn’.
Những đoạn kinh trên đã tả thật rõ quang minh, sắc tướng vi diệu khó nghĩ lường, tùy ý biến hiện. Trong quang minh có màu sắc, trong màu sắc lại hiện tướng. Các tướng đẹp mầu nhiệm như lưới châu v.v… đều chỉ là từ một sắc biến hiện. Lại như Phật có đủ các tướng hảo, trong mỗi tướng hảo lại phóng quang. Trong quang minh lại có Phật hiện. Ðấy đều là những điều đã thể hiện cùng tột ý ‘xoay chuyển, nhập lẫn vào nhau’ trong đoạn kinh này; còn ‘thực hành Phật sự’ và nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới chẳng bỏ; ấy chính là những sự ‘tối thắng’.
Tham chiếu những kinh văn vừa được trích dẫn trên đây, ta thấy các thứ y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc đều là từ căn bổn của tự nhiên biến hiện ra. Ðó chính là như Vãng Sanh Luận nói: ba thứ trang nghiêm đều nhập trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú, tức là chơn thật trí huệ vô vi pháp thân. Vì vậy, ‘căn bổn của tự nhiên’ chính là một thanh tịnh cú như Vãng Sanh Luận đã bảo.
‘Uất Ðan thành thất bảo’: Uất Ðan nói đủ là Uất Ðan La Cứu Lưu, hoặc còn phiên là Uất Ðan Việt, Câu Lô v.v… ở đây, chỉ gọi tắt là Uất Ðan. Ðó chính là tên của một trong bốn đại châu ở phương Bắc, dịch nghĩa là Cao Thượng Tác, Thắng Thượng Sanh, Cao Thắng.
Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa nói: ‘Tàu dịch là Cao Thượng Tác, nghĩa là cao trỗi hơn các phương khác, cũng có nghĩa là thù thắng hơn cả’. Sách viết thêm: ‘Câu Lô châu, Tàu dịch là Thượng Thắng, hoặc dịch là Thắng Sanh’. Kinh Khởi Thế Nhân Bổn bảo châu này ‘ở dưới trời Tứ Thiên (tức là trong thế gian này). So với ba châu kia, châu này tối thượng tối thắng, tối diệu’.
Bản Ngô dịch ghi ý ‘Uất Ðan thành thất bảo’ như sau: ‘Tự nhiên như Uất Ðan, tự nhiên thành thất bảo’.
Theo như Hoa Nghiêm Sớ Sao, quyển mười ba thì: ‘Uất Ðan Việt, Tàu dịch là Thắng Sanh vì [ở đó] quyết định thọ đến một ngàn tuổi, cơm áo tự nhiên vậy’. Nhân dân sống nơi châu ấy không cần phải cày bừa, dệt vải, làm lụng mà cơm áo tự nhiên dư dật. Câu ‘tự nhiên như Uất Ðan’ trong bản Ngô có ý nói đến sự tự nhiên này.
Bản hội tập trích theo bản Hán dịch nên ghi là ‘Uất Ðan thành thất bảo’, chính là gộp cả hai ý của câu văn trong bản Ngô dịch, hàm ý: [Cõi Cực Lạc] giống như châu Uất Ðan tự nhiên sanh ra đầy đủ, tràn ngập các thứ cơm áo, vật dụng; lại còn tự nhiên sanh ra bảy báu thắng thượng.
Hoành lãm thành vạn vật’ (dịch ý là: ‘Tự nhiên từ hư không hiện ra vạn vật’): Chữ ‘hoành’ chỉ không gian, ‘lãm’ là nắm giữ, rút lấy, dẫn dắt, ‘vạn vật’ là hết thảy các vật. Do vậy, ‘hoành lãm thành vạn vật’ có nghĩa là tự nhiên từ mười phương hư không hiện ra vạn vật. Hết thảy vạn sự, vạn vật đều sanh từ căn bổn tự nhiên, mà ‘căn bổn tự nhiên’ chính là như kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy:
‘Vốn là cái thể mầu nhiệm, sáng sạch của Bồ Ðề’. Tức là: vạn vật đều từ trong Ðại Quang Minh Tạng xuất hiện.
Trong cõi Cực Lạc cũng giống như thế: tất cả đều do đại nguyện của đức Di Ðà tạo thành, tất cả đều là cái sẵn có trong cái tâm thanh tịnh của chúng sanh. Vì thế kinh chép: ‘Vạn vật trong nước nghiêm tịnh sáng đẹp, hình sắc đẹp đẽ lạ lùng, cùng vi cực diệu không thể tính kể nổi’.
‘Quang tinh minh câu xuất’ (tạm dịch là: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện’): ‘Quang’ là quang minh, ‘tinh’ là tinh diệu, ‘minh’ là minh tịnh (sáng sạch), ‘xuất’ là xuất hiện. Tự tâm vốn đủ cả vạn đức, đã sạch bụi vô minh thì nó
trở thành thanh tịnh trang nghiêm, quang minh vi diệu, đẹp đẽ, khiết tịnh, hết thảy diệu tướng cùng hiện ra cả nên kinh bảo: ‘Quang minh tinh diệu sáng sạch cùng xuất hiện, tốt đẹp thật khôn sánh’.
Phần trên, kinh đã nói: ‘Quang sắc chói ngời, trang nghiêm, đẹp đẽ đến cùng cực’ và ‘thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy thế giới trong mười phương’. Do vậy, mười phương thế giới thật chẳng thể sánh nổi những điều đẹp đẽ tốt lành nơi cõi Cực Lạc.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới, thông suốt không bờ mé’ (nguyên văn: ‘Trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế’) như sau: ‘Cái lý được chứng nhập ấy là pháp bình đẳng, chẳng có cao, thấp nên gọi là “không trên dưới”. Theo bề dọc thì sâu xa, theo bề ngang thì rộng rãi, chẳng có ranh giới nên gọi là ‘không bờ mé’. Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí. “Trước” (tạm dịch là ‘soi tỏ’) có nghĩa là sáng tỏ, “đỗng đạt” nghĩa là chứng nhập’. Theo đó, câu đầu (tức câu ‘soi tỏ nơi không trên dưới’) là nói đến lý thể được Bồ Tát chứng nhập, lý thể ấy là Như Như. Câu thứ hai (tức câu ‘thông suốt không bờ mé’) nói đến Phật trí luôn soi chiếu, Phật trí ấy chính là Như Như trí. Nghĩa là: lý thể được nói ở đây chính là ‘căn bổn tự nhiên’. Phật trí thông suốt vì từ căn bổn ấy phát sanh cái tướng trí huệ tự nhiên. Bản thể và công dụng giống hệt nhau: Lý và Trí chẳng hai, Năng lẫn Sở cùng mất, dứt bặt đối đãi một cách viên dung; ngôn ngữ lẫn tư duy đều chẳng thể diễn tả nổi. ‘Không trên dưới’ là bản thể của cái Lý được chứng nhập ấy vốn sẵn bình đẳng. Những câu kinh như ‘Pháp này bình đẳng chẳng có cao, thấp’ và ‘Tâm, Phật và chúng sanh, cả ba thứ không sai biệt’ đều nói lên ý nghĩa bình đẳng. Do bình đẳng nên không có cao, thấp.
‘Trước’ (tạm dịch là ‘soi tỏ’) là ‘hiển trước’ (làm sáng tỏ), ‘chiếu trước’ (chiếu soi), đều có nghĩa là hiển lộ; cho nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Chữ “trước” là sáng tỏ’. Sách Hội Sớ thật khéo dùng chữ ‘minh’ (sáng tỏ) để giải thích chữ ‘trước’ vì chữ ‘minh’ ấy chính là ‘minh tâm kiến tánh’ vậy. Ðiều được ta thấu tỏ chính là cái lý thể bình đẳng không trên dưới tức là cái tâm này của ta.
Về chữ ‘đỗng đạt’ (tạm dịch là ‘thông suốt’) thì ‘đỗng’ là rõ ràng, minh bạch, ‘đạt’ là hiểu thấu cái tâm, rõ thấu đến tận nguồn cội. Hiểu rõ cùng tận nguồn tâm nên bảo là ‘đỗng đạt’. Do vậy, Hội Sớ dùng chữ ‘chứng nhập’ để giải thích chữ ‘đỗng đạt’.
‘Không bờ mé’ là [như không gian] xét theo chiều dọc thì tột cùng cả trên lẫn dưới; theo chiều ngang thời cả tám phương đều chẳng hề có bờ mé, chẳng thể cùng tận. Khả năng chiếu soi của Phật trí cũng giống như thế nên sách Hội Sớ mới giảng: ‘Ấy tức là những điều được quán chiếu bởi Phật trí’.
Ngài Gia Tường giảng: ‘Chứng quả chẳng có hình sắc tốt xấu sai khác. “Ðỗng đạt” là trí, “vô biên tế” là cảnh Chơn Ðế’. Ý nói: Quả giác được chứng ấy không có những hình tướng sai khác, đó là ‘không trên dưới’. Trí khế hợp với cảnh Chơn Ðế nên ‘không bờ mé’. Như vậy, ngài Gia Tường đồng quan điểm với sách Hội Sớ.
Còn ngài Tịnh Ảnh lại giải thích theo cách khác, ngài viết: ‘Chỉ nghĩ nhớ đến đạo, hạnh đức tỏ rõ, chẳng phân biệt là thượng căn hay hạ căn đều cùng được vãng sanh nên bảo là “trước ư vô thượng hạ”. Như đã được vãng sanh rồi thì thấu suốt cùng tột các thần thông không giới hạn nên bảo là ‘đỗng đạt vô biên tế’. Ý ngài nói: Ba bậc thượng, trung, hạ đều được vãng sanh nên bảo là ‘không trên dưới’. Do nhân dân cõi Cực Lạc đều có thần thông vô hạn nên bảo là ‘không bờ mé’. Ta nên vận dụng cả ba thuyết này.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy thì ắt được siêu tuyệt, vãng sanh cõi Phật A Di Ðà thanh tịnh vô lượng, chặt ngang năm đường, ác đạo tự đóng lấp. Ðạo thù thắng vô cực dễ đi mà chẳng có người theo! Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo. Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức, ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực. Sao lại mê đắm sự đời, nhao nhác lo chuyện vô thường?


Giải:
Những đoạn kinh trước đoạn kinh này đều nói về công đức trí huệ của thánh chúng cõi Cực Lạc; còn trong đoạn này là lời đức Thế Tôn nhắc nhở đại chúng trong pháp hội phải siêng năng tu tập cầu sanh Cực Lạc. Trước đó, ngài đã khai thị: chơn tâm thường trụ ai ai cũng có, ai cũng có thể thành Phật. Tâm vốn tự thanh tịnh sanh ra muôn pháp. Ngộ thì khế hợp ngay với bổn Phật, mê thì chìm mất trong sanh tử.
Ngay khi ấy, đức Thế Tôn còn xót thương, buông lời khuyên dụ từ bi: đại chúng đã biết ‘tâm này là Phật’ thì phải tinh tấn để ‘tâm này làm Phật’. Vì thế Phật mới nói: ‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn…’. Chữ ‘ai nấy’ không những chỉ để chỉ những người trong pháp hội lúc ấy mà còn kiêm chỉ hết thảy những ai trong đời sau nghe được pháp này: Ai nấy đều phải tuân theo lời dạy từ bi của đức Phật, tin nhận, phụng hành, niệm Phật vãng sanh nhằm thể hiện phương tiện rốt ráo ‘tâm này làm Phật’.
‘Ai nấy đều nên siêng tinh tấn, nỗ lực tự cầu lấy’ là lời đức Phật khuyên đại chúng ai nấy đều phải nên tinh tấn siêng tu, nỗ lực tự thực hành cầu sanh Tịnh Ðộ, chứng triệt để nguồn tâm, viên mãn Phật trí.
Luận Câu Xá giảng chữ ‘siêng’ như sau: ‘Siêng là khiến cho tâm dũng mãnh trở thành tánh’. ‘Siêng’ cũng có nghĩa là tinh tấn. ‘Cầu’ là cầu đạo, mà cũng chính là cầu sanh Tịnh Ðộ. Phẩm Chí Tâm Tinh Tấn trong kinh này có câu: ‘Người chí tâm cầu đạo tinh tấn chẳng ngơi ắt sẽ đắc quả’. Vì thế, tiếp theo ngay câu ‘ai nấy nên siêng tinh tấn…’ kinh nói tiếp: ‘Ắt được siêu tuyệt’.
Chữ ‘tự’ trong câu ‘nỗ lực tự cầu lấy’ rất quan trọng. Những chữ ‘tự’ trong các câu như ‘ông nên tự biết’, ‘ông nên tự nhiếp’ được ghi trong kinh này cũng đóng vai trò quan trọng như vậy. Sách Hội Sớ nói: ‘Vui cầu nơi chính mình, mà cái “chính mình” đó chính là tự tâm. Vì thế nói là “tự cầu”. Ý nói: Tịnh tông tuy là tha lực pháp môn, nhưng tự tâm hành nhân nếu chẳng tinh tấn, đoạn trừ nghi hoặc,
sanh lòng chánh tín sâu xa, khẩn thiết nguyện cầu được vãng sanh thì trọn chẳng được vãng sanh. Bởi thế, Phật căn dặn ‘nỗ lực tự cầu lấy’.
‘Tâm này là Phật’ là tánh đức; ‘tâm này làm Phật’ là tu đức. Có công tu đức thì tánh đức mới được hiển hiện. Vì thế, nỗ lực tự cầu thì ‘ắt được siêu tuyệt’. ‘Siêu’ là siêu thoát, ‘tuyệt’ là diệt sạch, trừ dứt. Do đó, ‘siêu tuyệt’ là vượt thoát luân hồi, đoạn trừ sanh tử.
Sách Hội Sớ viết: ‘Ngay trong một lúc nhanh chóng vượt khỏi tam giới, đoạn tuyệt các nghiệp buộc ràng trong bao kiếp nên bảo là “siêu tuyệt”, mà cũng là do đã đoạn tuyệt [nghiệp chướng] nên được siêu thoát vậy’. Thánh, phàm, trí, ngu, chín phẩm muôn loài ai nấy đều được ‘siêu tuyệt’ toàn là nhờ vào Di Ðà Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, từ quả khởi tu, chỉ trong một đời được
thành tựu nên đều được sanh về ‘cõi Phật A Di Ðà thanh tịnh vô lượng’.
Hễ được vãng sanh thì do nương vào sức gia hộ của Di Ðà bổn nguyện sẽ chẳng bị đọa vào ba ác đạo nữa nên kinh mới nói: ‘Ác đạo tự đóng lấp’. Ai nấy đều đạt bất thoái cho mãi đến khi thành Phật nên kinh mới bảo: ‘Chặt ngang năm đường’. Năm đường (ngũ thú) là ba ác đạo và cả hai nẻo: nhân, thiên. Do A Tu La được tính gộp vào thiên thú nên ‘năm đường’ cũng chính là ‘sáu nẻo’. Nhân thú, thiên thú vốn được gọi là ‘thiện thú’ (đường lành) nhưng vẫn bị coi là ‘ác thú’ là do so sánh với Cực Lạc mà nói.
Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Ba ác đạo gọi là “ác thú”, hai đường nhân, thiên gọi là “thiện thú”. Nay đem sánh với cõi thanh tịnh của Phật Di Ðà thì cả năm đường trong cõi Sa Bà đều được gọi là “ác thú”.
Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều là chỗ kẻ thuần ác hướng đến nên gọi là “ác thú”. Cõi trời, cõi người của Sa Bà là chỗ kẻ tạp ác hướng đến nên cũng gọi là “ác thú”.
Nếu theo như phương này thì phải tu tập đoạn trừ, trước hết đoạn Kiến hoặc, lìa khỏi cái nhân tạo ra tam đồ, diệt cái quả tam đồ. Sau đấy, đoạn Tu hoặc, lìa khỏi cái nhân sanh trong nhân, thiên, tuyệt quả nhân thiên. Do có đoạn trừ dần dần nên chẳng gọi là “chặt ngang”. Còn nếu được vãng sanh về Tịnh Ðộ của Phật Di Ðà thì bỏ ngay một lúc cả năm đường trong Sa Bà nên gọi là chặt ngang’.
Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Ắt được siêu tuyệt, chẳng phải đoạn trừ theo thứ tự nên bảo là chặt ngang’. Do đó, ‘chặt ngang’ có nghĩa là hoành xuất, hoành siêu (vượt khỏi tam giới theo chiều ngang; các pháp môn khác phải theo thứ tự đoạn trừ dần từng lớp phiền não để thoát khỏi sanh tử nên gọi là vượt khỏi tam giới theo chiều dọc (thụ siêu, thụ xuất)). Sách Gia Tường Sớ lại bảo: ‘Tu nhân Bồ
Ðề, dứt ngang sự chuyển vần trong năm đường nên ‘ác đạo tự đóng lấp’. Chữ ‘tự’ ở đây là ‘tự nhiên’.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘vô cực’ trong câu ‘đạo vô cực thù thắng’ như sau: ‘Phàm phu sanh về đó liền chóng tiến lên quả địa nên bảo là vô cực’. Bản Ngụy dịch ghi là ‘vô cùng cực’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Câu “thăng lên đạo vô cực” diễn tả cái sở đắc. Ðắc đạo sâu rộng nên bảo là vô cực’. Như vậy, sách Hội Sớ cho rằng phương tiện khiến cho phàm phu nhanh chóng chứng được quả vị là phương tiện tột cùng, chẳng thể thấu hiểu đến cùng cực được nên phương tiện đó được xưng tụng là ‘vô cực’; còn Tịnh Ảnh Sớ lại coi tánh đức sâu rộng khó nghĩ lường của quả vị là ‘vô cực’. Còn theo Gia Tường Sớ thì: ‘Người sanh về nhiều nên bảo là vô cực’, tức là ngài Gia Tường hiểu do đạo ấy khiến vô lượng người được vãng sanh nên đạo ấy được gọi là ‘vô cực’.
Thế thì: người vãng sanh nhiều vô cực, đắc quả nhanh chóng là phương tiện vô cực. Tánh đức thù thắng của quả đức rộng sâu vô cực khiến ta thấy được rằng: ân đức của Phật Di Ðà là rốt ráo vô cực nên kinh mới chép là ‘đạo vô cực thù thắng’.
Câu ‘dễ đi mà chẳng có người theo’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Tu nhân liền được sanh về nên gọi là “dễ đi”. Không có kẻ tu nhân, ít người vãng sanh nên bảo là “chẳng có người theo”. Ngài Gia Tường bảo: ‘Chỉ tu mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, mà ít người thực hành nên mới bảo là “dễ đi mà chẳng có người theo”.
Ở trên, ngài Gia Tường vừa bảo nhiều người được vãng sanh, ở đây lại nói ít kẻ vãng sanh, tựa hồ mâu thuẫn, nhưng thật sự hai lời nói trên chẳng hề trái nghịch nhau. Vì nếu xét theo số người được vãng sanh trong mười phương mà nói thì đúng là rất nhiều; còn nếu chỉ luận theo uế độ đây thì người tín nguyện vãng sanh rất là hiếm hoi. Vì thế, Phật bảo là ‘chẳng có người theo’.
‘Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo’: Câu đầu ý nói cõi ấy chẳng nghịch, chẳng trái đối với những người được vãng sanh; còn câu kế đó được cổ đức giải thích theo hai cách:
a). Ngài Tịnh Ảnh cho rằng: ‘Cõi ấy chẳng trái nghịch’ thể hiện ý “dễ đi”. “Tự nhiên lôi kéo” thể hiện ý “chẳng có người”. Chúng sanh cõi Sa Bà mang triền cái từ lâu nên tự nhiên bị lôi kéo, trói buộc, chẳng thoát được nên “chẳng có người”. Ý nói: Cõi Cực Lạc đối với những người vãng sanh chẳng hề trái nghịch mảy may, nên trước hết bảo là ‘dễ đi’. Hiềm vì người cõi Sa Bà vốn từ lâu đã bị buộc ràng che lấp bởi phiền não nên tự nhiên bị chúng lôi kéo, chẳng sanh lòng nhàm chán thì làm sao vãng sanh nổi nên kinh mới bảo là ‘chẳng có người’.
b). Ngài Pháp Trụ bảo: ‘Tự nhiên lôi kéo là nhân viên mãn, quả chín muồi, chẳng nhọc dụng công mà tự nhiên chiêu cảm’. Ngài Gia Tường nói: ‘Tu nhân ắt sẽ chiêu cảm quả nên bị quả ấy lôi kéo’. Quan điểm của hai vị Pháp Trụ và Gia Tường giống nhau, cùng cho rằng tu nhân đắc quả, tự nhiên do quả ấy sẽ được vãng sanh.
Những thuyết trên tuy khác nhau, nhưng đều phù hợp ý kinh.
Trong câu ‘quyên chí nhược hư không, cần hành cầu đạo đức’ (tạm dịch: ‘Lắng lòng dường hư không, siêng hành cầu đạo đức’), ‘quyên’ là dứt bỏ, tâm chán lìa tột bực, không mong cầu chuyện đời, tấm lòng rỗng không, tịch tĩnh, thanh tịnh, không cấu nhiễm, khác nào hư không nên kinh mới bảo là ‘quyên chí nhược hư không’. Câu này cũng có nghĩa là buông bỏ muôn duyên.
‘Ðạo đức’: Chánh pháp gọi là ‘đạo’; đắc đạo chẳng để mất là ‘đức’. ‘Siêng hành cầu đạo đức’ chính là chỉ giữ lấy một niệm.
Ngõ hầu được trường sanh cùng cực, thọ lạc chẳng có cùng cực’: Thế gian chẳng có pháp trường sanh chơn thật, chỉ có vãng sanh thì mới được trường sanh. Kinh dạy: ‘Cõi ấy Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng’. Trong cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui: thấy Phật, nghe pháp, tùy ý tu tập thẳng đến khi thành Phật nên kinh bảo là ‘thọ, lạc vô cùng cực’. Cõi ấy có tên là Cực Lạc, An Lạc, An Dưỡng, đức Phật cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, thắng diệu như vậy rất đáng ưa thích, mong cầu; uế độ Sa Bà thật đáng nhàm chán. Cớ sao vẫn cứ tham đắm chuyện thế tục, nhao nhác lo chuyện vô thường? ‘Niểu niểu’ (tạm dịch là ‘nháo nhác’) là huyên náo, tranh đua. Ở đây, chữ ‘niểu niểu’ diễn tả trạng thái giành giật, ồn ào. Người đời tham đắm những thứ mình có, muốn luôn giữ mãi, nhưng những thứ ấy thật sự là vô thường nên đâm ra lo lắng. Nhưng dẫu lo cũng chẳng làm gì được! Bởi thế mới có phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn tiếp ngay theo phẩm này.
Phẩm này nêu rõ diệu đức của cõi Tịnh Ðộ, khuyên lơn, dẫn dụ chúng sanh; phẩm sau sẽ chỉ ra những thứ ác khổ của uế độ để chúng sanh biết mà nhàm lìa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

33. Khuyến dụ sách tấn
Phẩm trên đã chỉ rõ những điểm thù thắng siêu tuyệt, tịnh định, an lạc của cõi Cực Lạc nhằm làm cho chúng sanh ưa thích, hâm mộ, phát nguyện cầu sanh; phẩm này nói lên những điều tệ ác cõi Sa Bà:
- Chúng sanh chướng nặng, ba độc lừng lẫy
- Do si hoặc nên tạo nghiệp, khổ báo vô tận, chìm đắm trong biển khổ, đau đớn không cách gì diễn tả nổi.
Vì thế, Phật thương xót khuyên bảo nên chán lìa. Phật dạy răn, khuyên lơn chúng sanh nên dứt ác làm lành, tinh tấn hành đạo, cầu sanh An Lạc.

Chánh kinh:
Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp. Ở ngay trong chốn kịch ác cực khổ, vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân. Sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến. Không
ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà. Có hay không có tài vật quyến thuộc đều lo cả. Có một phần lại thấy thiếu một phần, lo muốn cho bằng được người. Vừa được chút ít lại lo vô thường, nước, lửa, đạo tặc, oan gia, chủ nợ đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan mòn diệt. Tâm keo, ý chắc, chẳng buông bỏ nổi. Mất mạng là mất hết, đem theo được thứ gì? Giàu nghèo đều vậy, lo lắng, ưu khổ muôn bề!


Giải:
Trong đoạn kinh này, trước hết đức Phật chỉ rõ: toàn bộ chúng sanh cõi này đều bị phiền não, khuyên lơn chúng sanh nên nhàm lìa.
Người đời cùng nhau đua chen những chuyện không cần gấp’: người đời cùng tranh cạnh nhau những chuyện thế tục không quan trọng, khẩn yếu, chẳng trọng đại sự cấp bách nơi bản thân, chẳng biết vô thường nhanh chóng, sanh tử là việc lớn; chỉ tham danh lợi nên sầu khổ muôn bề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi.
Sách Hội Sớ nói: ‘Phàm vật thì có gốc, ngọn; việc có gấp, hoãn. Chỉ nên coi một đại sự là nhiệm vụ cấp bách trước hết. Ví như người vào trong tòa thành lớn, trước tiên phải kiếm chỗ ở yên, rồi sau mới ra tay làm lụng. Ðến khi chiều tà tăm tối, còn có chỗ nghỉ đêm. “Trước hết kiếm chỗ ở yên” chính là tu Tịnh Ðộ; “đến khi chiều tà tăm tối” chính là đại hạn xảy đến (chết). “Có chỗ nghỉ đêm” là sanh trong hoa sen, chẳng lạc vào nẻo ác. Vậy mà người ta cứ lơ là đối với việc gấp như lửa cháy, hối hả lo liệu việc chẳng gấp rút gì. Khi mạng người sắp hết, dẫu hối ích gì?’
Kịch ác cực khổ’: “kịch” là rất, hết mức. Phẩm Trược Thế Ác Khổ có câu: ‘Chỉ có mỗi thế gian có năm sự ác này là khổ sở nhất’ và: ‘Năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt cháy như thế ví như lửa lớn thiêu đốt thân người’. Ác là nhân, khổ là quả. Giết chóc, trộm cắp, nói dối, uống rượu là những điều rất ác. Hễ tạo ác ắt phải chịu quả ác nên những điều ấy được gọi là ‘năm thứ đau đớn, năm
thứ đốt cháy’ như lửa đốt thân nên bảo là ‘cực khổ’ (khổ sở cùng cực).
Sách Hội Sớ còn nói: ‘Hừng hực nung người đời như đống lửa nên bảo là “kịch ác cực khổ”.

Sách Hội Sớ giảng câu ‘vất vả làm lụng, lo toan để tự nuôi thân’ (nguyên văn: ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’) như sau:
‘Doanh là lo toan, đổ sức vào việc gì gọi là “vụ”. Thân siêng năng, vất vả làm những điều ấy gọi là ‘cần thân’. ‘Cấp’ là làm cho đủ; khiến cho đồ vật được đầy đủ, dư dả là ‘cấp’. ‘Cấp’ còn có nghĩa là cung cấp. ‘Tế’ là qua’.
Do đó, câu ‘cần thân doanh vụ, dĩ tự cấp tế’ có nghĩa là: nhọc nhằn, vất vả cái thân, toan tính, làm lụng để mình được đầy đủ, no ấm cho qua khỏi cái kiếp này.

Câu ‘sang, hèn, nghèo, giàu, trẻ, già, trai, gái’ chỉ hết thảy các loại người trong đời. Người có địa vị cao quý trong đời là ‘sang’, địa vị thấp là ‘hèn’. Lắm của là ‘giàu’, ít của là ‘nghèo’. Lớn tuổi là ‘già’, nhỏ tuổi là ‘trẻ’. Trai, trai, gái, gái bao
hạng sai khác, nhưng chẳng ai lại không cùng ôm tấm lòng ngu si, tham dục, lao tâm khổ tứ, lo nghĩ chất chồng, bôn ba, nhọc nhằn chẳng lúc nào yên.
Bởi thế Phật mới bảo: ‘Lo toan chồng chất, bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Lo mãi chuyện đã qua, lo hoài chuyện chưa tới nên bảo là “lo toan chồng chất”. Thường bị dục tâm lôi kéo khiến chộn rộn, bôn ba nên bảo là “bị cái tâm sai khiến”. Vì thế, tâm niệm ấy chẳng lúc nào an vì hễ tâm có điều
mong muốn thì thân phải nhọc nhằn theo. Ví dụ như: lòng muốn sắm sửa vật mình yêu thích thì nào ngại bưng bê, khuân vác bề bộn, bôn ba sửa soạn; cho nên kinh mới nói là: ‘Bị cái tâm sai khiến’; chỉ vì tâm ham muốn mà phải bôn tẩu.
Ngài Gia Tường dùng câu ‘tâm chất chứa tài sản chẳng buông bỏ’ để giảng câu ‘lo toan chồng chất’, dùng câu ‘siêng cầu chẳng ngơi’ để giảng câu ‘bị cái tâm sai khiến’. Ý ngài nói: Những điều canh cánh trong tâm niệm chỉ toàn là tài vật, cho nên ‘lo toan chồng chất’. Chăm chăm mong cho có nên thân tâm chẳng an, đấy gọi là ‘bị cái tâm sai khiến’.
Ngài Cảnh Hưng lại giảng: ‘Bị tâm sai khiến là như con dê khát nước chạy đuổi theo bóng nắng gợn, kẻ mắt kéo màng thấy hoa đốm lăng xăng trên không, đều do cái tâm thấm đẫm nước ái, chẳng rõ hoa đốm là bệnh nên cứ đuổi quàng theo’. Bóng nắng gợn (dương diệm) chính huyễn ảnh xuất hiện trong sa mạc, nhìn xa tưởng là chỗ có nước. Những con nai, con ngựa bị khát, tâm thèm nước thiết tha nên cứ đuổi theo tìm uống, nhưng chỉ phí công. Lại như người mắt bệnh kéo màng, ngỡ trên hư không có những đốm sáng bay lẩn vẩn toan chụp bắt, chẳng biết vốn chẳng có hoa đốm, nên mới bảo là ‘bị cái tâm sai khiến’.

Cả một đoạn dài từ câu ‘có ruộng lo ruộng’ cho đến ‘ưu khổ muôn bề’ là để giảng rõ ý ‘lo toan chất chồng’. ‘Quyến thuộc’ là người trong nhà, thân thuộc, tôi tớ v.v… ‘Tài vật’ là gia tài, sản nghiệp, các vật dụng để sinh sống. Những thứ nói trên đều là những điều khiến ta phải lo lắng. Chưa có thì muốn, lo sao cho có; nhưng có rồi lại sợ mất đi, nên lại lo hơn nữa. Bể dục khó lấp bằng, lo
được, lo mất nên mới nói: ‘Có hay không có đều lo cả!’.
Có một phần lại thấy thiếu một, lo muốn cho bằng được người’: Ví như kẻ đã có được tài khoản một vạn đồng, thấy người khác có đến hai vạn, liền nghĩ cách sao cho có được một vạn nữa. Ðã có một cái ti-vi, thấy người ta có hai cái liền muốn mình có thêm cái nữa cho bằng người ta. Muốn mà chưa được thì lại sanh lo buồn. Thỏa nguyện rồi cũng chẳng hết lo nghĩ; bởi ham muốn không cùng nên vĩnh viễn lo lắng không dứt.
Vừa mới có được một chút lại toan khư khư giữ lấy, sợ gặp tai biến, lo mất mát đi, nên kinh mới nói: ‘Vừa được chút ít lại lo vô thường’. ‘Vô thường’ chính là những tai họa bất thường được kinh nêu tiếp ngay sau câu trên (tức là câu ‘vừa được chút ít lại lo vô thường’) như: nước trôi, lửa cháy, đạo tặc cướp đoạt… ‘Nước, lửa’ là thủy tai, hỏa tai, ‘đạo tặc’ là cái họa cướp đoạt, trộm cắp. ‘Oan gia’ là những kẻ kết oán với mình. ‘Chủ nợ’ là những người mình thiếu nợ chưa trả. Các điều như trên đều là những tai họa thình lình phát sanh, như lửa có thể đốt cháy rụi, nước cuốn trôi mất, kẻ cướp cướp đoạt, kẻ trộm cuỗm mất, oan gia báo cừu, chủ nợ xiết nợ. Thậm chí trong khoảnh khắc chẳng còn một thứ gì là của mình nữa. Cái giàu sang ngày trước đột nhiên chẳng còn sót lại chút gì nên bảo là ‘đốt, trôi, cướp đoạt, tiêu tan, mòn diệt’. Sách Hội Sớ nói: ‘Ðốt là đốt cháy, là các nạn như chiến tranh tàn phá, hỏa tai bất ngờ… Trôi là cuốn trôi, là các nạn như nước lũ, sóng gió… Cướp đoạt là nạn đạo tặc. Bị oan gia làm cho tiêu tan, bị chủ nợ làm cho mòn diệt’.

Người đời ‘tâm keo, ý chắc’ nghĩa là người đời tấm lòng keo kiệt đến mức ngoan cố. Tài vật mà bị mất thì trong lòng càng thêm phẫn hận, lo buồn, oán hận, sầu khổ, không rảnh trí nổi, nên kinh mới nói: ‘Chẳng buông bỏ nổi’.

Bốn câu từ ‘mất mạng là mất hết’ trở đi phiếm chỉ hết thảy người đời. Lúc lâm chung, hết thảy tài vật quyến thuộc yêu dấu, tiếc nuối đều phải buông bỏ hết; một mình mình đến, một mình mình đi, không ai bầu bạn. Dẫu người mình thương yêu nhất cam chịu chết cùng lúc với mình thì cũng chẳng thể đến cùng một chỗ! Nghiệp nhân bất đồng, quả báo sai khác ngàn lần, nên mỗi người sẽ sanh về một chỗ khác nhau. Bởi thế kinh dạy: ‘Ðem theo được thứ gì?’
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có dạy: ‘Người ấy lúc lâm chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tan hoại, hết thảy thân thuộc đều lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều tan mất. Phụ tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng của báu, hết thảy những thứ như vậy chẳng có thứ nào theo mình’. Ðoạn kinh ấy có cùng ý nghĩa với đoạn kinh ở đây.
Thường nghe: ‘Mọi thứ đều bỏ hết, chỉ còn nghiệp theo thân’; bất luận giàu nghèo, không ai là chẳng giống vậy, ai nấy ưu khổ vô tận nên kinh mới nói là: ‘Ưu khổ muôn bề!’


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Nhân dân trong thế gian: cha con, anh em, vợ chồng, thân thuộc phải nên kính ái nhau, chẳng nên ganh ghét nhau. Kẻ có chia xẻ cho người không chẳng nên tham tiếc. Lời lẽ, vẻ mặt thường hòa hoãn, chớ nên chống trái nhau. Nếu có lúc tâm tranh chấp nhau, sanh ra giận dữ thì đời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn. Sự trong thế gian càng thêm tai hại tuy chẳng thấy ngay lập tức. Phải gấp nghĩ cách phá đi!


Giải:
Ðoạn kinh này khuyên dạy người đời đối với thân thuộc phải nên hòa kính, vì nếu chẳng hòa kính sẽ trở thành oán thù.
‘Kính ái’ là cung kính và từ ái, ‘ganh ghét’ là ghét bỏ và ganh tị. Sách Hội Sớ nói: ‘Giọng vui vẻ chẳng nóng giận, lời lẽ chẳng chống trái, gay gắt, ôn hòa, khiêm cung. Mặt chẳng cau có thì gọi là thường hòa hoãn’. Như vậy, ‘vẻ mặt, lời nói
thường hòa hoãn’ chính là như ở phần trên kinh đã dạy ‘hòa nhan ái ngữ’ vậy.
Trên đây, Phật đã khuyên thường hòa hoãn, tiếp theo, Phật dạy nếu bất hòa sẽ kết thành đại oán.
Chữ ‘tranh’ trong câu ‘nếu có lúc tâm tranh chấp nhau’ nghĩa là kèn cựa. Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng ‘tranh’ là ‘kiện tụng’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Thói đời lúc bình thường vốn chẳng phẫn hận, chợt gặp cảnh trái nghịch nên bất thình lình tranh chấp nhau nên mới bảo là ‘nếu có lúc’. Có lúc chợt khởi lên cái tâm đấu đá, kiện cáo, tranh chấp nhau nên mới nói là ‘nếu có lúc tâm tranh chấp’.
‘Giận dữ’ (sân khuể) là nóng nảy, phẫn nộ. Giận dữ là một trong tam độc. Một khi tâm sân lên thì tạo thành mối hận nhỏ, oan oan tương báo không lúc nào thôi. Kẻ oán ghét thường chạm mặt nhau, sát hại lẫn nhau, càng lúc thêm dữ dội nên kinh mới bảo: ‘Ðời sau càng chuyển thành nặng nề đến nỗi thành mối oán hận lớn’ (như vua Lưu Ly vì muốn báo thù cái oán đời trước mà giết hại cả dòng họ Thích).
Sự trong thế gian càng thêm tai hại’ là những sự báo oán trong thế gian tạo thành họa hại. Ðã tạo nghiệp nhân, ắt kết thành ác quả. Vì sự báo ứng chẳng lập tức hiển hiện ngay trong hiện tại nên kinh mới nói ‘tuy chẳng thấy ngay lập tức’, nhưng nhân quả chẳng hư, quyết sẽ báo ứng trong đời sau nên kinh mới nói: ‘Phải gấp nghĩ cách phá đi’. Chúng sanh sợ quả, Bồ Tát sợ nhân là vậy!

Chánh kinh:
Trong ái dục, con người sanh một mình, chết một mình. Mình mình đến, mình mình đi, khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho. Thiện, ác biến hóa theo đuổi đến từng kiếp sống. Ðường lối bất đồng, không dịp gặp gỡ. Sao chẳng ngay trong lúc còn khỏe mạnh, nỗ lực tu thiện, còn muốn đợi đến khi nào?


Giải:
Ðoạn này, Phật khuyến dụ người đời bỏ ác tu thiện.
‘Ái dục’ là tình ái và tham dục; ái dục chính là cội gốc sanh tử. Ái chẳng nặng chẳng đọa Sa Bà. Toàn thể thế nhân chìm đắm trong ái dục cho nên chết đây sanh kia, lưu chuyển vô cùng. Dẫu cho quyến thuộc đầy nhà nhưng lúc sanh tử: sanh thì trơ một thân đi đến, chết thời riêng một mình mình ra đi, chẳng có ai theo, không ai thay được. Vì thế, kinh nói: ‘Sanh một mình, chết một mình; mình mình đến, mình mình đi’.
Câu ‘khổ vui tự chịu lấy, chẳng ai thế cho’ ý nói: quả báo sướng hay khổ đều do tự mình tạo, tự mình hưởng, cũng không ai khác thay thế được. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Tự chịu lấy tức là tự mình nhận lấy’.
Câu ‘thiện ác biến hóa’ được ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Thiện biến hóa chính là quả báo trong đường lành. Ác biến hóa là quả báo trong đường ác’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Ðời này tuy là thiện quả, nhưng tạo nghiệp nhân ác thì đời sau sẽ chiêu cảm, biến thành tai ương. Ðời này tuy là ác quả nhưng làm lành thì đời sau sẽ hưởng phước báo. Thiên biến vạn hóa chẳng thể nói trọn’. Ðây lại là một
cách giải thích khác của chữ ‘biến hóa’. Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Nhân ác chịu khổ, nhân lành hưởng vui. Quả báo nhanh chóng’.
‘Theo đuổi đến từng kiếp sống’ nghĩa là sanh về đâu quả báo cũng đuổi theo ngay đó, chẳng hề bỏ rời. Tùy theo nghiệp nhân mà cảm được quả báo thiện hay là ác.
Gia Tường Sớ giảng câu ‘đường lối bất đồng’ như sau: ‘Làm lành thì quả báo chốn thiên đường chờ sẵn. Làm ác thì núi đao rừng kiếm đón chờ’. Nhân quả mỗi người sai khác nên sẽ sanh về những nơi khác xa nhau. Bởi vậy, lúc lâm chung chia tay nhau trọn thành vĩnh biệt. Một phen chịu báo trong tam đồ là cả năm ngàn kiếp, trôi lăn trong sáu nẻo, biết ngày nào gặp lại nhau. Dẫu có trùng phùng cũng chẳng hề nhận biết nổi nhau nên mới nói: ‘Không dịp gặp gỡ’.
Bởi đấy, đức Thế Tôn xót thương cảnh tỉnh khuyên lơn người đời sao chẳng ngay lúc mạnh khoẻ ‘nỗ lực tu thiện’ chứ còn đợi đến khi nào nữa? Người già thể xác suy yếu, khó bề siêng tu như kinh Niết Bàn đã bảo: ‘Này Ca Diếp! Ví như cây mía đã bị ép rồi, bã mía chẳng còn vị gì. Tuổi trẻ sắc đẹp cũng giống như thế, khi bị tuổi già ép thì chẳng còn có ba thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị
đọc tụng, ba là vị tọa thiền’. Tuổi già mất cả ba thứ vị như vậy nên phải gấp rút nỗ lực, chớ nên chần chừ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác, cát, hung, họa, phước, tranh nhau mà làm. Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm, đâm ra tin nhận các giáo lý khác, điên đảo tiếp nối. [Do] căn bổn vô thường [nên] mù mịt, tối tăm, càn rỡ, chẳng tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa. Ai nấy chỉ muốn khoái ý, mê man nóng giận, tham lam tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ.
Ôi! Ðáng thương thay! Người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức; [cha ông] không bàn đến [thì con cháu chẳng biết gì] thật chẳng có gì là lạ! Nẻo sanh tử, đường thiện ác đều chẳng tin tưởng, nói là đời nào có! Hãy quan sát xem để tự thấy biết lấy: nào cha khóc con, hoặc con khóc cha. Anh, em, chồng, vợ khóc thương lẫn nhau.


Giải:
Cả phẩm kinh này chỉ rõ chúng sanh trong uế độ này ba độc lẫy lừng, tạo ác đáng sợ. Ðoạn đầu tiên nói về tham độc ‘giàu nghèo đều vậy, ưu khổ muôn bề’; đoạn kế đó nói về sân độc ‘đến nỗi thành mối oán hận lớn’.
Ðoạn này giảng về si độc: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’, ‘chẳng tin kinh pháp’,
‘đường thiện ác đều chẳng tin tưởng’. Cái họa si độc làm thương tổn huệ mạng của con người. Si độc chính là cái gốc của cả ba độc, vì thế nó gây hại rất sâu.
Ðoạn kinh này ý nói: Người đời ngu si, chẳng biết thế nào là thiện, thế nào là ác, cứ theo ý mình càng phân biệt sai quấy thêm; chẳng thể tin nổi quy luật thường hằng nhân quả thiện ác trong ba đời nên kinh nói: ‘Người đời chẳng thể tự thấy thiện ác’. Ðã chẳng biết nhân lại chẳng sợ quả, chỉ cốt khoái ý chốc lát, chẳng sợ hậu hoạn vô cùng. Phóng túng càn rỡ, mặc sức làm ác, đua nhau gây nhân ác, chẳng đoái hoài hung họa tương lai nên kinh mới bảo: ‘Cát, hung, họa phước tranh nhau mà làm’.
Ngài Gia Tường lại giảng: ‘Người đời cho rằng: lúc chết, vì cúng tế mà sát sanh là hung, những dịp như cưới gả v.v… là cát. Ðối với hai việc này, người đời đua nhau mà làm’. Ý nói: Cát, hung là nhân; họa phước là quả. Sát sanh để cúng tế là hung, sát nghiệp cảm lấy quả báo trong tam đồ nên là họa. Người đời cho rằng cưới gả là cát, nhưng chẳng biết do vui mừng mà sát sanh thì lại trở thành hung sự, chiêu cảm cái họa vô cùng trong tương lai. Ấy là vì thế nhân chẳng hiểu dù thiện hay ác đều chiêu cảm quả báo.
Sách Gia Tường Sớ giảng câu ‘thân ngu dốt, tinh thần tối tăm’ như sau: ‘Do thân tạo ác nên bảo là thân ngu dốt, tâm chẳng tin nên bảo là tinh thần tối tăm’. Còn Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Thân ngu dốt, tinh thần tối tăm là tâm ý bế tắc, chẳng thể tự thấy nổi chuyện thiện ác sanh tử’. Như vậy, ngu dốt, tối tăm chính là si độc.
Do ngu si nên tâm ý bế tắc chẳng thể chánh tín nhân quả, chẳng tin nhận nổi kinh pháp hòng nhập chánh đạo. Ngược lại, càng dễ đâm ra tin thờ các tà thuyết ngoại đạo. Bởi thế, kinh nói: ‘Ðâm ra tin nhận các giáo lý khác’. Thấy biết điên đảo như thế liên tục chẳng dứt, chìm đắm mãi mãi trong sanh tử; nhưng nguồn gốc của những tà kiến ấy lại chính là si nghiệp. Sanh tử vô thường là do si làm
cội gốc. Kinh gọi đó là: ‘Căn bổn vô thường’.
‘Mông minh để đột’ (tạm dịch: Mù mịt, tối tăm, càn rỡ): ‘Mông’ là dẫu có tròng mắt mà chẳng thấy gì. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Mù mịt lại càng thêm mù mịt. Mù mịt là vì bị che lấp nên chẳng sáng suốt. Tối tăm là do ám muội chẳng hiểu biết’.
‘Ðể’ là như con thú dùng sừng húc các vật, ‘đột’ là xông thẳng vào.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘mông minh để đột’ như sau: ‘[Câu này] ý nói chẳng hiểu biết gì, đụng việc là làm càn như đứa trẻ đi đêm, như chó dại chạy quàng, không điều gì không làm’. Do ngu muội, tăm tối nên chẳng hiểu nghĩa kinh; quen tánh hung hăng, thích xung đột nên chẳng tin nhận nổi kinh pháp. Do vậy, ‘tâm chẳng lo xa, chỉ cốt khoái ý’. Sách Hội Sớ viết: ‘Chẳng quan tâm đến đời sau,
chỉ cầu cái vui hiện tại nên bảo là “chỉ cốt khoái ý”. Ôm lòng giận dữ, tham tài hiếu sắc chẳng lúc nào ngơi nên Phật mới than: ‘Ôi! Ðáng thương thay!’.
Câu ‘người đời trước chẳng lành, chẳng biết đạo đức’ ngụ ý: Ðời cha ông ngu si. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trọn chẳng làm thiện” nghĩa là vô hạnh.
“Chẳng biết đạo đức” là chẳng hiểu biết’. Ðã không hiểu biết lại còn vô hạnh thì thật là ngu si cùng cực. Ðời này tiếp nối đời kia, những lời cha dạy con toàn là tà thuyết, chẳng bàn đến quả báo thiện ác nên kinh mới bảo: ‘Chẳng nói gì đến’. Cha ông si độn, ngoan cố thì con cháu vô tri là chuyện tất nhiên nên kinh mới bảo: ‘Thật chẳng có gì là lạ!’.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘nẻo sanh tử, đường thiện ác’ như sau: ‘Chẳng thể tự thấy nẻo sanh tử là chẳng biết quả. Chẳng thể tự thấy đường thiện ác là chẳng hiểu nhân. Tự tâm chẳng biết cả nhân lẫn quả, lại không ai bảo cho nên trọn chẳng hiểu biết’. Bởi thế mới ‘đều chẳng tin nổi, nói là chẳng có’.
Nếu chẳng biết việc sanh tử thì cứ tự xem đi: cha con, anh em, chồng vợ bị cái chết chia lìa, thương khóc lẫn nhau, có ai tránh khỏi đâu!


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau. Ưu khổ thắt buộc, không lúc nào tháo nổi. Nghĩ tưởng [những niềm] ân ái, yêu mến, chẳng lìa tình dục, chẳng thể suy sâu nghĩ chín, chuyên ròng hành đạo. Tuổi thọ chớp mắt là hết, biết làm sao đây!


Giải:
Người đời ngu si, tham ái, chẳng biết muôn sự trong đời đều như huyễn mộng, như hoa đốm trên không, lầm tưởng thật có; nào hay vô thường vùn vụt, chẳng giữ mãi nổi. Lúc sanh càng thêm yêu mến, lúc chết bội phần xót xa. Lúc sanh tử: kẻ còn thương xót thân nhân từ nay vĩnh biệt; kẻ chết thương mình ra đi vĩnh viễn, lưu luyến nhau khó bỏ nổi, như mũi dao xoáy vào tim. Bởi thế, kinh nói:
‘Một sống, một chết, bịn rịn, luyến tiếc nhau’.
Những ân ái xưa kia nay thành ưu khổ, hai điều này trói buộc thân tâm như dây thắt chặt mối, chẳng thoát ra nổi nên kinh bảo: ‘Ưu khổ thắt buộc, chẳng lúc nào tháo ra nổi’. Mà ‘thắt buộc’ (kết phược) chính là phiền não. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương chép: ‘Phiền não, ám hoặc trói buộc hành nhân nên gọi là “kết”. Nó lại ràng buộc cái tâm nên gọi là “kết” vì nó kết tập hết thảy sanh tử’. Như vậy, vướng vít vào tình ái thì liền bị sanh tử buộc ràng, chẳng có lúc nào thoát khỏi.
‘Nghĩ tưởng [những điều] ân ái, yêu thích’: Xét tận cội nguồn, những điều người đời yêu quý thật sự là do tình dục (4) mà chẳng biết rằng ‘dục là cội khổ’, ‘thuần tình ắt đọa’. Nếu đối với những điều ấy, ta chẳng thể ‘suy sâu nghĩ chín’ để nhất tâm tu đạo hòng cầu giải thoát thì nháy mắt vô thường xộc đến, thọ mạng chấm dứt, đến lúc ấy, làm sao bươn bả, kêu van gì nổi! Mạng người trong hơi thở nên kinh mới bảo: ‘Tuổi thọ chớp mắt là hết’ (niên thọ toàn tận). ‘Toàn tận’ là nháy mắt đã hết.

Chánh kinh:
Kẻ lầm lẫn nơi đạo rất nhiều, kẻ ngộ đạo lại ít. Ai nấy ôm lòng sát hại, độc ác, ác khí mịt mù, làm chuyện sái quấy trái nghịch thiên địa, mặc tình phóng túng tạo tội cùng cực; tuổi thọ chợt bị đoạt mất, lọt xuống ác đạo chẳng có kỳ ra.


Giải:
Ðoạn kinh này giảng về cái họa do từ si mê mà khởi lên sân hận.
Trong ba ác nghiệp, sân nghiệp là nhân của địa ngục. Có câu: ‘Một đốm lửa sân tâm thiêu trụi rừng công đức’. Thế nhân ít kẻ tỉnh ngộ chánh đạo, lắm kẻ mê hoặc nên lòng luôn ôm ấp ý giết hại, độc địa, tàn hại mạng người khác. Ác khí hừng hực, từ chỗ tối vào trong chỗ tối nên kinh mới nói ‘ác khí mịt mù’.
‘Mịt mù’ lại có nghĩa là tối tăm, vô tri, đêm tối. Làm cái gì cũng sai lầm nên kinh bảo ‘làm chuyện sái quấy’, bởi thế mới ‘trái nghịch thiên địa’. Ngài Gia Tường bảo: ‘Trên chẳng thuận lòng trời, dưới nghịch ý Diêm La vương’. Mặc lòng tạo
ác như thế nên kinh bảo là ‘mặc tình phóng túng’.
Suốt ngày tạo tội ngập trời nên bảo là ‘tạo tội cùng cực’. Bởi đó, bị tội nghiệp lôi kéo nên chẳng đợi đến khi tuổi thọ hết đã bị mất mạng ‘rớt xuống ác đạo’.

‘Ðoạt’ là cưỡng lấy, làm cho mất hẳn đi. Mạng sống đột ngột bị mất đi nên mới nói là: ‘Tuổi thọ chợt bị đoạt mất’. Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Do si khởi sân, tàn hại lẫn nhau, ai nấy ôm lòng giết chóc. Ác độc, ác khí mù mịt, làm các điều quấy’.
Ngài lại bảo: ‘Kẻ tạo tội ác do sức túc nghiệp sẽ tự nhiên chiêu cảm ác duyên phi pháp, thuận theo [những ác duyên ấy] mặc sức tạo tội. Cho đến khi tội tới mức cùng cực sẽ đọa ác đạo, chịu khổ vô cực’.
Ý nói: Người đời do ngu si nên sanh tâm sân hận mà giết chóc, tàn hại lẫn nhau, mặc tình làm ác; ôm lòng độc ác, chỉ làm các điều xằng bậy. Kẻ tạo tội như thế do nghiệp lực tội ác của đời trước sẽ mặc sức làm ác. Tới khi sự ác ngập đầu, quả báo ắt sẽ hiển hiện nên đột nhiên bị chết mất đi, đọa lạc trong ba ác đạo, chịu lấy quả báo chẳng có cùng cực, không biết khi nào mới thoát nổi nên kinh nói: ‘Chẳng có lúc ra’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.25 khách