Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Các ngươi nên suy nghĩ chín chắn, xa lìa các ác, chọn lựa điều thiện để siêng thực hành. Ái dục, vinh hoa chẳng giữ mãi được, đều sẽ biệt ly, chẳng thể vui nổi. Phải nên siêng tinh tấn sanh cõi An Lạc. Trí huệ minh đạt, công đức thù thắng. Ðừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác.


Giải:
Ðoạn cuối này là lời khuyên chung: dứt ác làm lành, cầu sanh Cực Lạc. ‘Suy nghĩ chín chắn’là như ta thường nói: suy sâu nghĩ chín.
Toàn đoạn kinh từ chữ ‘ái dục, vinh hoa’ đến ‘chẳng thể vui nổi’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Vinh hoa chẳng giữ nổi, hội hợp rồi nhất định ly tán. Ái dục chẳng thường còn, thạnh rồi ắt có suy. Ðiên đảo lầm tưởng là vui nên [những điều ấy] chẳng đáng ưa thích’.
Ông Bành Tế Thanh bảo: ‘Hết thảy người đời coi dục là vui, chẳng biết đó là khổ. Người trí xem thấy chỉ toàn là khổ, không chút vui nào. Vì sao vậy? Cứ coi ‘có’ là vui, ‘không’ là khổ, nào hay ‘có’ chính cái nhân của ‘không’. Xem ‘được’ là
vui, coi ‘mất’ là khổ, nào hay ‘được’ chính là cái nhân của ‘mất’. Coi tụ tập là vui, tan lìa là khổ, nào hay tụ tập là cái nhân của tan lìa. Coi sanh là vui, coi diệt là khổ, nào hay sanh chính là cái nhân của diệt’.
Ý nói: Những điều chúng sanh tưởng là vui thật ra chính là cái nhân tạo khổ. Từ cái nhân tạo khổ ấy ắt phải sanh ra quả khổ nên bảo là ‘chẳng thể vui nổi’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên tinh tấn cầu sanh Cực Lạc. Ðược sanh về cõi ấy rồi thì ai nấy ắt đều ‘trí huệ minh đạt, công đức thù thắng’. ‘Minh’ là hiểu rành rẽ, ‘đạt’ là thông đạt. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trí huệ minh đạt là đạt được trí huệ thù thắng. Công đức thù thắng là được phước thù thắng’. Trí lẫn phước đều thù thắng nên Phật khuyên người đời siêng năng cầu vãng sanh.
Ngài còn răn dạy: ‘Ðừng chạy theo điều ham muốn trong tâm mà khiếm khuyết kinh giới, tụt hậu sau người khác’. Kinh là kinh giáo, Giới là giới hạnh. Ở đây, Phật đặc biệt khuyên ta nên trì giới bởi giới là nền tảng của muôn hạnh.
‘Ðừng chạy theo cái tâm’ là như kinh Niết Bàn dạy: ‘Làm thầy của cái tâm chớ để cái tâm làm thầy mình’, nghĩa là: Nếu để cho cái tâm sai khiến được mình thì hành nhân mắc sai lầm lớn. Ấy là vì cái vọng tâm này chính là cội rễ sanh tử, tuân theo cái vọng tâm này thì khác nào nhận giặc làm con, toan nấu cát thành cơm, làm sao ăn nổi? Lẽ đâu rong ruổi theo tâm tánh làm điều càn quấy hay sao?
Câu kinh sau đây trong kinh Tứ Thập Nhị Chương: ‘Cẩn thận đừng tin tâm ý của ngươi, tâm ý ngươi không thể tin nổi!’có cùng một ý nghĩa với câu kinh ở đây. ‘Tụt hậu lại sau người khác’ là thua người khác vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

34. Tâm được khai minh
Trong phẩm này, ngài Di Lặc lãnh hội được ý chỉ của Phật, tâm được khai minh. Phật lại ban lời dạy:
một là đoạn hoặc chướng niệm Phật, biết khổ tu thiện;
hai là tự lợi, lợi tha, lần lượt cứu vớt nhau;
ba là lại dạy về quả báo thù thắng của cõi Cực Lạc;
bốn là đoạn trừ nghi ngờ để khỏi bị sanh vào biên địa.

Chánh kinh:
Ngài Di Lặc bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành, [chúng con] đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ. Phật là pháp vương, tôn quý, cao siêu hơn các thánh, quang minh chiếu tột, thấu suốt vô cực, làm thầy của khắp hết thảy trời người. Nay được gặp Phật, lại nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ, không ai chẳng hoan hỷ, tâm được khai minh.


Giải:
Ngài Di Lặc lãnh ngộ lời Phật, tự mừng vui sâu xa, tỏ bày lời tán tụng bằng cách bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành’.
Hai chữ ‘giáo giới’ (dạy răn) được sách Câu Xá Giới Phẩm Tụng Sớ giảng: ‘Giáo là dạy dỗ khiến người tu thiện; Giới là răn đe khiến người đoạn ác. Ðoạn ác tu thiện nên gọi là giáo giới’.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Giáo là lời người trên bảo kẻ dưới. Giới là ngăn chặn, ước thúc. Lời nói thấu triệt thật lý nên bảo là “rất sâu”, chuyển phàm thành thánh nên bảo là “rất lành”.
Pháp âm thấm nhuần rộng rãi, khiến cho khắp mọi người nghe ‘đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Giải thoát ưu khổ là được nghe pháp yếu dứt bặt những nỗi lo trôi nổi, no say pháp lạc, thoát khổ sanh tử’. Ý nói: Ðược nghe pháp yếu nên dứt được nỗi lo bị trôi nổi trong sáu đường; nếm no nê pháp lạc nên trừ được cái khổ sanh tử.
‘Phật là pháp vương’ là như kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương đã chép: ‘Như Phật là vua của các pháp’. Như Lai tự tại nơi pháp nên được xưng tụng là ‘pháp vương’. Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có câu: ‘Ta làm pháp vương tự tại nơi pháp’. Ta là lời đức Thích Ca tự xưng. Chữ ‘các thánh’ chỉ các bậc thánh nhân đã đoạn hoặc, chứng lý từ Sơ Quả của Tiểu Thừa trở lên và từ Sơ Ðịa của Ðại
Thừa trở lên. Phật là đạo sư của cả chín cõi, là bậc tôn quý nhất trong các thánh nên ngài Di Lặc bảo Phật ‘tôn quý, cao siêu hơn các thánh’.
Quang minh của Phật chiếu tột, suốt thấu chẳng có ngằn hạn nên bảo là ‘quang minh chiếu tột, suốt thấu vô cực’. Ngài Tịnh Ảnh lại giảng là: ‘Quang minh chiếu tột là tự phước thù thắng, thấu suốt vô cực là tự trí thù thắng’. Ngài lại giảng chữ ‘vô cực’ như sau: ‘Danh cảm động mười phương, nhiếp thọ kẻ có duyên nên bảo là vô cùng cực’.
Tổng hợp cả hai cách giải thích này thì hiểu thấu cái Không đến mức vô cực chính là tự trí rốt ráo thông đạt Ðệ Nhất Nghĩa Không, chứng ngộ triệt để lý thể chính là đại trí, cho nên bảo là ‘thù thắng’. Phổ độ chúng sanh hữu duyên trong mười phương chẳng có ngằn hạn thì chính là đại bi. Như Lai từ thể khởi dụng, vận dụng cả Bi lẫn Trí nên diệu dụng vô tận. Như vậy là ngài Di Lặc đã khen
ngợi Phật đức: phước lẫn trí đều siêu việt, thù thắng.
Thêm nữa, một trong mười hiệu của Phật là Thiên Nhân Sư. Trên trời, dưới thế chỉ có mình đức Phật là tôn quý. Ngài dạo khắp mười phương làm đại đạo sư nên bảo là: ‘Làm thầy của khắp hết thảy trời, người’.
Kinh dạy: ‘Thân người khó được, Phật khó gặp’ nên ‘nay được gặp Phật’ là điều vui mừng lớn lao.
‘Lại được nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ’ là như kinh dạy: ‘Tín, huệ, nghe pháp là điều khó nhất trong các điều khó’; huống hồ lại được nghe diệu pháp bất khả tư nghì: sáu chữ hồng danh, Nhất Thừa nguyện hải tối cực viên đốn. Sách Di Ðà Yếu Giải cũng nói: ‘Chẳng luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc hiểu hay chẳng hiểu, chỉ một phen danh hiệu Di Ðà thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau cũng nhờ đó mà được độ thoát’.
Vì thế, pháp này khiến cho hội chúng hoan hỷ, mừng rỡ, khai phát Phật trí, hiểu rõ tự tánh. Bởi vậy, ngài Di Lặc mới bảo: ‘Tâm được khai minh’.
Sách Hội Sớ bảo: ‘Khai phát Phật trí, đoạn diệt vô minh nên bảo là khai minh’. ‘Không ai chẳng hoan hỷ’ nghĩa là cả đại hội đều hoan hỷ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Phật bảo ngài Di Lặc: - Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác. Du bộ tam giới chẳng hề ngăn
ngại. Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ. Các ông nên biết mười phương nhân dân từ bao kiếp đến nay xoay vần trong ngũ đạo, ưu khổ bất tuyệt. Lúc sanh ra khổ sở, đớn đau; lúc già cũng khổ sở đớn đau; lúc bịnh khổ sở đớn đau tột
bực; lúc chết khổ sở đớn đau tột bực. Xấu ác, hôi thối bất tịnh, có chi đáng vui? Hãy tự quyết đoạn, tẩy trừ tâm cấu, ngôn hạnh trung tín, trong ngoài tương ưng.


Giải:
Phật lại dạy bảo ngài Di Lặc lần nữa; trước hết ngài dạy nên tự độ.
Cả hai câu: ‘Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ là cương yếu của toàn bộ giáo lý trong Ðại Tạng. ‘Kính’ là cung kính. Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘kính Phật’ như sau: ‘Kính trọng, gánh vác Phật ân thì gọi là kính Phật’.
‘Gánh vác’ nghĩa là đảm đương, nhận lãnh. Như Lai vạn kiếp huân tu, nhập Phật tri kiến, rồi dùng tri kiến ấy khai thị bọn chúng ta để tất cả đều được ngộ nhập. Dùng Quả Giác của Phật để làm cái nhân tâm của chúng ta thì chẳng phải tốn công suốt cả ba a tăng kỳ, chứng nhập ngay được Phật trí. Ðấy chính là thâm ân của Phật. Bọn chúng ta phải theo đúng lời Phật khai thị, nương vào văn
tự Bát Nhã mà quán chiếu hòng chứng nhập Thật Tướng. Ðấy gọi là ‘kính trọng, gánh vác Phật ân’.
Tuân theo những điều Phật dạy răn trong kinh này hầu đoan tâm chánh hạnh, dứt ác tu thiện, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, sanh ngang qua bốn cõi Tịnh Ðộ, chứng trọn vẹn bất thoái thì mới là tôn kính Phật một cách chơn thật.
Chữ ‘đại’ (trong ‘đại thiện’) phải hiểu như chữ ‘đại’ được dùng trong từ ngữ ‘đại phương quảng’: dứt bặt các đối đãi nên cưỡng gọi là ‘đại’.
Ở đây, kinh nói ‘đại thiện’ nghĩa là điều lành vô thượng. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Tam nghiệp kính phụng mới là “tôn kính”. Dùng cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chính mình để cung kính, phụng sự Như Lai: thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh thì mới gọi là ‘kính Phật’. Chẳng phải như thế tục cứ nghĩ đốt hương, sụp lạy mới là ‘kính Phật’.
Mật tông thường nói: ‘Thanh tịnh tam môn tin Thượng Sư’, ‘dùng thân, khẩu, ý cúng dường Thượng Sư’ cũng là do nghĩa này. Kính Phật như vậy mới thật là ‘đại thiện’. Sách Hội Sớ còn nói: ‘Phật như thuốc Thiện Kiến, thấy nghe đều được lợi ích nên gọi Phật là đại thiện’.
‘Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’: Niệm Phật mới chính là tôn kính, gánh vác Phật ân bởi vì Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh chính là cái ân tối thượng trong những Phật ân. Lại vì niệm Phật chính là ‘tam nghiệp kính
phụng’, thâu nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối; cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều chuyên chú nơi Phật thì mới là quy kính một cách chơn thật.
Nếu muốn chơn thật niệm Phật thì trước hết phải ‘cắt đứt hồ nghi’. Tánh của loài cáo hay nghi ngờ nên mới bảo là ‘hồ nghi’. Hành nhân chẳng dứt nổi nghi thì chẳng dám dũng mãnh tiến lên nên bảo là ‘còn hồ nghi’. Nên biết rằng: Khi chưa đoạn nổi cội nghi thì sẽ khi tin, khi ngờ, nửa tin, nửa ngờ, hoặc miễn cưỡng niệm thử, nhưng tâm ý chưa yên; hoặc là miệng tuy niệm Phật mà tâm vẫn hâm mộ
tông khác. Ðấy đều chẳng phải là chơn thật niệm Phật.
Nói tóm lại, nghi tình chưa đoạn, chánh tín khó sanh. Tín nguyện khiếm khuyết thì tư lương khiếm khuyết. Vì thế, Phật dạy phải ‘cắt đứt hồ nghi’, ròng rặt niệm Phật, hâm mộ, hăm hở niệm, dốc trọn cả tính mạng mà niệm cho tới chết! Hoa
nở gặp Phật ngộ vô sanh nhẫn. Như vậy mới là ‘đại thiện’!
Trên đây, Phật đã dạy đoạn nghi niệm Phật; tiếp đó, ngài lại dạy niệm Phật có thể đoạn nghi. Sách An Lạc Tập viết: ‘Nếu có thể thường tu niệm Phật tam muội thì trừ được tham, sân, si. Chẳng luận hiện tại, quá khứ, tương lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả!’. Ngu si kém trí nên tâm hồ nghi. Niệm Phật trừ nghi nên nghi tình tự đoạn.
Hai vị đại sư Liên Trì, Linh Phong đều dạy: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành Phật’. Ðấy chính là ý nghĩa của câu ‘thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ vậy.
Ðối với câu ‘nhổ trừ ái dục’, ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Nhổ dục là khiến lìa phiền não’. Trong các nhân của những nỗi khổ, tham dục chính là cội rễ nên Phật khuyên phải đoạn trừ ái dục.
Lấp các nguồn ác’: Lấp là ngăn bít. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lấp các nguồn ác là khiến lìa ác nghiệp. Lấp cũng như bít. Ác nghiệp chính là nguồn gốc của ác đạo, nó được gọi là nguồn của các điều ác. Dạy phải đoạn ác nên bảo là lấp’. Ý nói: Dạy ‘lấp các nguồn ác’ là dạy lìa các ác nghiệp vì ác nghiệp khiến người ta phải đọa ác đạo.
Ác nghiệp chính là căn cội của các đường ác nên được gọi là ‘nguồn ác’. Bởi thế, phải nên đóng lấp nó.
Ngài Vọng Tây cũng giảng giống vậy: ‘Lấp các nguồn ác là khiến đoạn ác nghiệp. Trôi lăn trong sanh tử là do ác nghiệp làm nguồn cội nên gọi là “nguồn”.
Sách Hội Sớ lại giải thích cách khác: ‘Trong các phiền não, nóng giận là nặng nề nhất nên bảo là “nguồn”; chữ “nguồn” cũng chỉ cho nguồn vô minh. Phật đều đoạn hết cả chẳng để thừa sót gì!’ nên bảo ‘lấp các nguồn ác’.
Ta có thể áp dụng cả hai cách giải thích này chẳng trở ngại gì. Sách Hội Sớ đứng về phía Phật mà giảng, còn những thuyết của ngài Tịnh Ảnh, Vọng Tây… là căn cứ trên việc hành nhân hạ thủ công phu mà luận.
Câu ‘du bộ tam giới chẳng hề ngăn ngại’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Thần thông biến hóa chẳng phải suy tính gì, thường thể hội tánh Không nên bảo là du bộ’. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Trên trời dưới thế, chỉ mình Phật là tôn quý cho nên ngài du bộ tam giới, biến hóa tùy ý chẳng bị ngăn ngại’.
Chữ ‘quái’ trong ‘quái ngại’ (ngăn ngại) có nghĩa là trở ngại, ngăn đón. Trong bản Ngụy dịch của Ðại Tạng Cao Ly, chữ ‘quái ngại’ được ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Môn), còn các bản Ngụy dịch phổ biến ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Thạch) nên các tác phẩm sớ giải của ngài Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng cũng như Hội Sớ đều chép là ‘câu ngại’. Ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Vô sở câu ngại tức vô sở quái ngại’ (“Chẳng bị kềm giữ, trở ngại” chính là “chẳng bị ngăn ngại”).
Như trên đã nói, tác giả Hội Sớ và ngài Cảnh Hưng đứng về phía Phật để bàn luận là vì họ dùng bản Ngụy dịch để giải thích kinh. Nay căn cứ trên bản hội tập thì ta có thể hiểu là: Người kiêm cả phát Bồ Ðề tâm, niệm Phật được vãng sanh thì nương vào oai thần của Phật sẽ đi hóa độ khắp cả tam giới. Kinh nói: ‘Trong khoảng một niệm, đi qua cả ức na do tha trăm ngàn cõi Phật’. Kinh còn dạy: ‘Tùy ý tu tập, không gì là chẳng viên mãn’.
Bởi thế mới ‘chẳng hề ngăn ngại’. Người được vãng sanh sẽ du hành mười phương tuyên thị diệu pháp Di Ðà viên đốn: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, nhằm dẫn dắt kẻ chưa được độ quy hướng Cực Lạc. Vì thế, Phật bảo: ‘Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ’.
Trong đoạn kinh này, nửa đoạn trước, Phật khuyên dụ chúng sanh đoạn hoặc niệm Phật; còn nửa đoạn sau Phật lại khuyên chúng sanh nên biết khổ để tu thiện.
Bao kiếp’ tức là thời gian kiếp số lâu xa dằng dặc. Nay bảo là ‘bao kiếp’ là hàm ý: vĩnh cửu của vĩnh cửu, vĩnh cửu vô cực vậy.
Ngũ đạo’ tức là năm đường: trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục như đã giải thích trong câu ‘chặt ngang năm đường’ ở phần trên.
Theo Hội Sớ, cả đoạn: ‘Các ông… ưu khổ bất tuyệt’ ý nói: ‘Từ bao kiếp đến nay tuy gặp nhiều đức Phật, phát đại tâm, nhưng tu thánh đạo khó được thành tựu nên thường bị chìm đắm, lưu chuyển, mãi đến nay vẫn chưa thoát khỏi sanh tử’.
Theo đó, người gặp được Phật vẫn còn nhiều kiếp trầm luân sanh tử, ưu khổ bất tuyệt thì người chẳng gặp được Phật, ưu khổ còn hơn thế nữa! Bởi đó, kinh dạy: ‘Mười phương nhân dân bao kiếp đến nay’ xoay vần trong năm đường, thường đọa vào tam đồ, đau đớn tột bực, không lúc nào hết. Ấy là vì sanh, chết, già, bịnh đều rất đau khổ, đều là thuần khổ không vui. Cái thân nghiệp báo của phàm phu ‘xấu ác, hôi thối, bất tịnh’ nào đáng vui chi. ‘Ác’ là xấu ác, hung ác. ‘Thoái’ là mùi vị khó ngửi. ‘Bất tịnh’ là chẳng sạch sẽ. Kinh Tâm Ðịa Quán dạy: ‘Tự xem thân mình: ba mươi sáu thứ xấu ác rỉ ra chẳng sạch’.
Ðại Luận kể ra năm thứ bất tịnh: chủng tử, y xứ, đương thể, ngoại tướng và cứu cánh. Chủng tử chính là tinh cha, huyết mẹ. Y xứ là bào thai. Ðương thể là toàn thân. Ngoại tướng là hình hài. Cứu cánh là rốt ráo. Năm thứ đều bất tịnh.
Thập Nghi Luận lại kể ra bảy thứ bất tịnh: một là chủng tử, hai là tánh thọ nhận, ba là trụ xứ, bốn là ăn uống, năm là sơ sanh, sáu là toàn thân, bảy là cứu cánh. Cả bảy thứ ấy đều bất tịnh.
Vì thế, cả thân mình lẫn thân người khác đều chẳng có chỗ nào đáng yêu nổi, thuần khổ không vui, lẽ nên phải chán lìa!
Bởi thế, tiếp đó, Phật dạy: ‘Hãy tự quyết đoạn’. ‘Quyết’ là tâm quyết định. ‘Ðoạn’ là cắt đứt nhân ác. Nhân ác chính là như câu tiếp đó nói rõ:
Tâm cấu’. Sách Hội Sớ nói: ‘Tham sân si là tâm cấu (bụi nhơ nơi tâm), trái với ba thứ ấy là tam thiện’. ‘Tẩy’ là rửa sạch. ‘Trừ’ là dứt bỏ. Vì thế, Phật dạy: ‘Tẩy trừ tâm cấu’.
Ngôn hạnh trung tín’: Ngôn là lời lẽ; Hạnh là hành động. Sách Tiên Chú viết: ‘Làm đúng như lời nói, lời nói đúng như việc làm thì gọi là trung tín’.
Theo ngài Tịnh Ảnh, trong câu ‘trong ngoài tương ưng’, chữ ‘ngoài’ chỉ lời nói, chữ ‘trong’ chỉ cái tâm. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lời nói là ngoài, tâm là trong. Lời nói chẳng trái với tâm nên bảo là tương ưng’, nghĩa là: tâm, khẩu đồng nhất chính là ‘trong ngoài tương ưng’ (biểu lý tương ưng). Lời sớ còn giảng rộng: ‘Biểu là biểu hiện, những gì hiển hiện ra ngoài thì đều gọi là biểu’.
‘Hạnh’ cũng là ‘biểu’. ‘Lý’ là nội tâm, trong ngoài như một nên gọi là ‘tương ưng’. Ðấy chính là trực tâm như kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Người [ấy] đã có thể tự độ lại còn cứu vớt người khác. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy cội lành. Tuy một đời tinh tấn siêng khổ cũng chỉ như khoảnh khắc mà thôi! Thân sau sanh vào cõi Vô Lượng Thọ, khoái lạc vô cực! Vĩnh viễn nhổ được cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý.


Giải:
Ðoạn trên đã giảng rõ sanh tử lưu chuyển ưu khổ chẳng ngớt, khuyên ta phải xuất ly. Ðấy là nhàm chán Sa Bà. Còn đoạn này lại khuyên cầu sanh Tịnh Ðộ, chính là ham cầu Cực Lạc.
Sách Di Ðà Yếu Giải lấy ‘chán lìa Sa Bà, vui cầu Cực Lạc’ làm nguyện, lại lấy ‘tín nguyện trì danh’ làm ‘cái nhân chơn thật của Nhất Thừa’. Bởi đó, ta thấy rằng: đức Thế Tôn khuyên dụ chính là vì vãng sanh rất thiết yếu.
Câu ‘người đã có thể tự độ’ nghĩa là độ được chính cái thân mình. Ðây là lời tiếp nối ý câu ‘tẩy trừ tâm cấu, trong ngoài tương ưng’ của đoạn trên. Ðó chính là hạnh tự lợi.
Tiếp đấy, ‘lại cứu vớt người khác’ là hạnh lợi tha. Ðây chính là điểm thứ hai trong lời khai thị của Phật. ‘Cứu’ là cứu độ, tức là lần lượt cứu độ những người khác, hay nói cách khác là ‘chúng sanh vô lượng thệ nguyện độ’.
Phát được cái tâm to lớn ‘tự giác, giác tha’ niệm danh hiệu Phật thì mới khế hợp được tông thú của bản kinh này ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’.
Ðã phát đại tâm thì phải dùng tâm chí thành ‘tích lũy cội lành’ để cầu được diệu quả của bổn nguyện. ‘Cội lành’ có nghĩa như ‘thiện căn’. Kinh Thắng Man quyển thượng dạy: ‘Thiện bổn: bổn cũng là nhân. Muốn dùng cái thiện ấy để làm Bồ Ðề căn nên gọi là thiện bổn’.
Sách Hội Sớ lại viết: “Cầu nguyện” là cái tâm nguyện đuợc vãng sanh. “Thiện bổn” là tên chung của các điều lành, mà cũng chỉ riêng việc xưng danh niệm Phật’ bởi vì xưng danh niệm Phật chính là cội lành của việc vãng sanh Cực Lạc. ‘Tích lũy cội lành’ chính là một bề chuyên niệm.
Tiếp đó, đức Thích Tôn trùng tuyên sự thắng diệu của cõi Cực Lạc, khuyến dụ vãng sanh.
‘Khoảnh khắc’ là một phần bốn tám của một phút, tức là một khoảng thời gian rất nhỏ. Phật khuyên người đời: một đời siêng năng vất vả cũng chỉ như trong khoảnh khắc. Thân sau sanh về Cực Lạc thì cái vui ấy không cùng tận. Sự vui mầu nhiệm vô biên vượt trỗi mười phương, chẳng hề chấm dứt nên bảo là ‘vô cực’.
Trong tác phẩm Khuyến Tâm Vãng Sanh Luận của sa môn Nhẫn Không thuộc tông Thiên Thai có câu: ‘Một trận vinh hoa đời này kết thành khổ quả ức kiếp. Ðời này siêng tu trong khoảnh khắc, nở nhụy giác tam minh’. Ấy là nhân nhỏ quả
to, thọ báo dài lâu. Hễ được vãng sanh thì như kinh dạy: ‘Vĩnh viễn nhổ dứt cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý’.
Ngài Linh Chi đã giảng về cõi Cực Lạc như sau: ‘Tịnh độ Di Ðà cảnh giới lạ lùng tuyệt diệu. Thánh hiền cùng hội, nghe pháp ngộ đạo, thọ mạng vĩnh cửu, bất thoái Bồ Ðề, chẳng còn có nỗi vui nào khác hơn được niềm vui này. Chỉ không có cái khổ vô thường đã đáng vui rồi, huống là còn có các sự thù thắng, những sự vui ấy chẳng cùng tận!’. Bởi thế, Phật mới khuyên chúng sanh cầu sanh về
đó.

Chánh kinh:
‘Ai nấy nên tinh tấn, cầu tâm sở nguyện, chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa: sanh vào biên địa cõi ấy, nơi thành thất bảo. Trong năm trăm năm chịu các tai ách’.
Di Lặc bạch rằng: ‘Tuân lời giảng dạy tường tận của Phật, chuyên ròng, siêng năng tu học. Phụng hành đúng như lời dạy, chẳng dám có nghi’.


Giải:
Kinh dạy: ‘Ai nấy nên tinh tấn cầu tâm sở nguyện’, nghĩa là: chúng sanh phải thành kính chuyên tu, nhất tâm tịnh nghiệp.
‘Chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa’: Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘hối’ như sau: ‘Hối là nghĩ ngược lại’, tức là nghĩ trái lại rồi đâm ra thụt lùi. ‘Quá cữu’ (tạm dịch là ‘ương họa’): Quá là tội, Cữu là ác, là tai họa. Ý Phật khuyên chúng sanh chớ nên nghi hoặc để tự tạo ra tai ương cho chính mình ngõ hầu khỏi phải ‘sanh vào biên địa cõi ấy… chịu các ách nạn’.
‘Biên địa’ còn gọi là ‘nghi thành’ hay Giải Mạn quốc. Sách Tịnh Ðộ Lược Luận viết: ‘Trong năm trăm năm thường chẳng thấy nghe Tam Bảo và cõi An Lạc thì gọi là biên địa hoặc là thai sanh’.
Gia Tường Sớ ghi: ‘Ở đây, trước hết răn dạy phải đoạn nghi hoặc, dạy rõ: hoài nghi sẽ sanh biên địa, chẳng được gặp Phật, suốt cả năm trăm năm hoa chẳng nở. Hoa chẳng nở thì chẳng thể đến mười phương cúng dường chư Phật’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Trước sau chẳng lui sụt thì gọi là tinh tấn. “Cầu tâm sở nguyện” là nguyện Thế Tôn rủ lòng từ đã khuyên đại chúng nên yêu thích cầu sanh Cực Lạc, lại khuyên chúng sanh nên bỏ nghi hoặc để khỏi sanh trong biên địa. Ðấy là điểm thứ tư trong lời khai thị của Phật. cầu vãng sanh. “Nghi hoặc” là chẳng hiểu rõ Phật trí. “Hối” là ác tác: trước tin, sau ngờ, đối với lòng tin hiểu khi trước sanh lòng hối hận, nửa đường bỏ lửng. “Tự tạo thành ương họa” là dẫu “nước ấy chẳng trái nghịch” [gì mình] mà tự cam sanh trong biên địa. “Các ách nạn” là chẳng thấy Tam Bảo, chẳng nghe kinh pháp’. Lời giải thích của Hội Sớ rất tường tận.
Đối với vấn nạn biên địa có thuộc vào ba bậc vãng sanh hay không, sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao đã bàn rất tỉ mỉ. Sách viết: ‘Các kinh nói chẳng giống nhau. Theo như Giác kinh (tức bản Hán dịch) và Ðại A Di Ðà kinh (tức bản Ngô dịch), biên địa thuộc vào trung bối và hạ bối (ý nói: cả trung bối lẫn hạ bối đều có biên địa); còn kinh này (chỉ bản Ngụy dịch) chẳng những không giống thế mà lại còn dạy khác đi. Bởi thế, các sư cũng hiểu khác nhau. Chẳng hạn như ngài Ðàm Loan, ngài Nguyên Hiểu, ngài Pháp Trụ, ngài Như Trạm… đều cho rằng biên địa chẳng thuộc trong tam bối.
Ngài Nghĩa Tịch, ngài Cảnh Hưng, ngài Long Hưng, ngài Nhân Nhạc… lại nghĩ biên địa gộp trong các bối. Mỗi vị căn cứ vào một khía cạnh nên các ý kiến ấy chẳng trái nghịch nhau. Nhưng kinh này là bản phiên dịch chính và đại sư Ðàm Loan lại là cao tổ của tông ta nên nay phải thuận theo ý ngài, tức là như ngài đã viết trong sách Lược Luận: “Lại có một thứ vãng sanh cõi An Lạc chẳng thuộc vào trong ba bậc”.
Phàm ba bậc đều là do tín tâm vãng sanh; ấy chính là điều nên khuyên bảo. Biên địa là do tâm nghi mà vãng sanh; ấy chính là điều phải răn dè. Tin, ngờ, khuyên, răn khác nào như trời với đất, lửa với nước làm sao dung được nhau!’
Lời luận của sách rất hay: người đầy đủ tín tâm thì thuộc vào ba bậc vãng sanh, kẻ ôm lòng nghi thì rớt vào biên địa. Do hai tâm chẳng đồng, tất nhiên chỗ sanh về phải khác. Bởi đó, trong hội bản này, ngoài ba bậc vãng sanh ra, kinh dạy rõ về ‘biên địa nghi thành’. Trong phẩm bốn mươi ở phần sau sẽ giảng rõ điều này.
Ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật nên hướng về Phật bạch rằng: ‘Thọ Phật minh hối’ (vâng lãnh lời dạy rõ ràng của Phật). ‘Minh’ tức là trí huệ, hoàn bị, rõ ràng, khai phát. ‘Minh hối’ tức là lời răn dạy có tác dụng khiến đại trí được hiển lộ, khai phát, là lời dạy minh bạch, hoàn bị. ‘Chuyên’ là chuyên nhất, ‘tinh’ là tinh tấn (trong phần chánh kinh chữ ‘chuyên tinh’ được dịch ý là chuyên ròng, siêng năng). ‘Tu’ là tu hành, ‘học’ là học đạo. Kinh Pháp Hoa dạy: ‘Dần dần tu học ắt đều thành Phật’. ‘Phụng hành đúng như lời dạy’: ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật giáo huấn, quyết định tuân hành.
Câu ‘Chẳng dám có nghi’ ngụ ý khuyên chúng sanh vâng lãnh lời Phật, dứt bỏ lòng ngờ. Nghi là căn nguyên phát sanh muôn mối lầm lạc nên phải đoạn nghi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

35. Trược thế ác khổ

Chánh kinh:
Phật bảo Di Lặc:
- Các ông nếu như có thể trong đời này đoan tâm chánh ý, chẳng làm các điều ác thì thật là đại đức. Vì sao vậy? Mười phương thế giới thiện nhiều ác ít, dễ bề khai hóa. Chỉ có thế gian ngũ ác này là khổ sở nhất. Ta nay làm Phật trong cõi này, giáo hóa quần sanh khiến bỏ năm sự ác, trừ năm sự đau, lìa năm sự đốt; hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ, khiến họ vâng giữ năm điều lành, đạt được phước đức. Những gì là năm?


Giải:
Phẩm này giảng rõ sự ác khổ trong cõi đời ô trược này. Ác là ngũ ác, khổ là năm điều đau đớn, năm điều thiêu đốt. Phật khuyên dạy chúng sanh bỏ ác làm lành hầu lìa khổ, được vui.
Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Năm giới để ngăn ngừa năm sự ác là giết chóc, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Tạo năm điều ác ấy thì hiện đời bị vương pháp trị tội, thân gặp ách nạn, nên bảo là năm sự đau đớn. Do năm điều ác đó, trong đời vị
lai sẽ chịu quả báo trong tam đồ nên gọi là năm sự đốt’. Ngũ ác là nhân của sự ác. Năm điều đau đớn là hoa báo, năm điều thiêu đốt là quả báo.
Gia Tường Sớ lại giảng năm điều ác như sau: ‘Vì sao chỉ nói đến năm điều này? Do thế nhân thích gây tạo [năm điều ấy] nên mới riêng nêu lên’.

Ðoan tâm chánh ý’ là tâm chơn chánh, ý chơn thành, khéo giữ gìn ý niệm của mình, xa lìa ba độc, chẳng tưởng đến việc tà ác. Ngài Nghĩa Tịch lại giảng: ‘Hướng đến Bồ Ðề là đoan tâm, chẳng cầu việc khác là chánh ý’. Hiểu như vậy là hiểu ở mức độ càng sâu hơn nữa, bởi chỉ có hướng đến Bồ Ðề mới là ‘đoan tâm’, chẳng hề cầu mong điều gì khác là ‘chánh ý’. Nếu có thể đoan chánh thân tâm như vậy thì tự nhiên chẳng làm các điều ác nên bảo là ‘thật là đại đức’. ‘Ðại đức’ là đức đến cùng tột.
Ngài Gia Tường giảng câu ‘thiện nhiều, ác ít, dễ khai hóa nổi’ như sau: ‘Trong các cõi khác có nhiều duyên thù thắng, thiện báo càng mạnh mẽ, thù thắng hơn nên dễ làm lành. Cõi này chẳng có hai duyên ấy. “Khai hóa” là Phật khai ngộ, giáo hóa vậy’. Tiếp đó, ý nghĩa của cả đoạn từ câu ‘chỉ có cái thế gian’ đến ‘lìa năm sự đốt’ đã quá rõ.
Gia Tường Sớ giảng câu ‘hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ, khiến họ vâng giữ năm điều lành’ như sau: ‘Hàng phục, giáo hóa tâm ý của họ nhằm làm cho tâm họ nhập đạo, vâng giữ năm điều lành, thuận theo lời dạy tu hành’.
Ngài Tịnh Ảnh và ngài Gia Tường đều cho rằng ‘ngũ thiện’ chính là ngũ giới. ‘Phước đức’ là phước lợi đạt được bởi thiện hạnh. Gia Tường Sớ ghi: “Ðạt được phước đức” là nêu lên cả hai quả gần và xa để thành cái hạnh’.
“Quả gần” là như Tịnh Ảnh Sớ bảo: ‘Do trì ngũ giới nên trong đời hiện tại thân yên ổn không khổ’.
“Quả xa” là được sanh về Cực Lạc, quyết định chứng Niết Bàn như Tịnh Ảnh Sớ bảo: ‘Ðời sau gặp Di Ðà, rốt cuộc chứng Niết Bàn’. Ðời này an lạc, thân sau vãng sanh nên bảo là ‘đạt được phước đức’.

Chánh kinh:
Thứ nhất là các loài chúng sanh trong thế gian muốn làm các điều ác: kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm lành, sau chịu ương phạt. Bởi thế có kẻ nghèo cùng, ăn mày, cô
độc, điếc, mù, câm, ngọng, si ác, dặt dẹo, cuồng dại; đều là do đời trước chẳng tin đạo đức, chẳng ưng làm lành. Những kẻ tôn quý, giàu sang, hiền minh, trưởng giả, trí dũng, tài năng thông đạt đều là do đời trước từ hiếu, tu thiện, tích đức cảm thành. Thế gian có những chuyện sờ sờ trước mắt như thế. Sau khi hết tuổi thọ, vào chốn u minh, chuyển sanh thọ thân, thay hình đổi nẻo nên mới
có Nê Lê, cầm thú, các loài: ngọ nguậy, bay bổng, bò, trườn. Thí như chốn tù ngục theo pháp luật thế gian, cực hình thật khổ. Hồn thần, mạng tinh theo tội mà hướng về, chịu lấy thọ mạng hoặc dài hay ngắn, theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau. Ương ác chưa hết trọn chẳng thoát nổi. Xoay vần trong ấy bao kiếp khó ra, khó được giải thoát, đau đớn không nói nổi! Trong vòng trời đất, tự nhiên có như thế, tuy chẳng báo ứng rầm rộ ngay lập tức, mà thiện ác rồi sẽ quy kết cả.


Giải:
Trong những điều ác, trước hết, Phật dạy về cái ác sát sanh. Thái Hiền nói: ‘Ðiều thế gian sợ hãi nhất là chết, điều tổn hại người khác nhất là đoạt mạng’. Cái người ta sợ nhất là chết, cái người ta quý nhất là mạng. Bởi đó, sát hại mạng kẻ khác là điều ác lớn nhất. Chẳng phải chỉ mình Phật giáo mà các tôn giáo khác cũng cấm giết người. Ðầu tiên, kinh văn nói đến sự ác giết chóc.
Kinh chép: ‘Kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau’.
Sách Hội Sớ viết: ‘Kẻ mạnh hiếp yếu: Kẻ giết chóc là “kẻ mạnh”, kẻ bị giết là “yếu”. Người hay thú cũng thế. “Chế ngự, giết chóc lẫn nhau”: Như chim sẻ nuốt bọ ngựa, người lại giết chim nên bảo là “lẫn nhau”.
‘Tàn hại’ là hung tàn, làm thương tổn. ‘Sát thương’ là giết cho chết hay làm cho thân kẻ khác bị thương tích. Rắn nuốt cóc, cóc lại ăn giun đất, nên bảo là ‘ăn nuốt lẫn nhau’. Những câu trên đây đều nói đến điều ác sát sanh.
Cả đoạn kinh từ ‘chẳng biết làm lành’ cho đến ‘chẳng ưng làm lành’ đều nói lên lỗi hại của việc tạo ác. Ðã làm đủ mọi điều ác lại còn sát hại sanh mạng nên phải chịu quả báo ‘nghèo nàn, ăn xin… cuồng dại’. ‘Ăn xin’ là kẻ ăn mày xin cơm sống qua ngày.
Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng chữ ‘cô độc’ như sau: ‘Không cha là Cô, không con là Ðộc’. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Cô là không cha mẹ, Ðộc là không con cái’.
‘Ðiếc’ là tai không nghe được tiếng; ‘mù’ là mắt chẳng thấy được. ‘Câm’ là miệng chẳng phát ra tiếng được. ‘Ngọng’ là tuy phát ra tiếng, nhưng lưỡi chẳng động nên chẳng thể nói ra tiếng được.
‘Si’ là ngu si, si ngốc. ‘Ác’ là hung ác chẳng lành.
‘Dặt dẹo’ là yếu đuối, tật nguyền, choắt cheo.
‘Cuồng dại’ là điên khùng. Ðấy đều là những
‘ương phạt’ do ‘chẳng tin đạo đức, chẳng ưng làm lành’. Ương là tai họa, ‘phạt’ là tội lệ.
Tiếp đó, kinh nói những điều như giàu sang, trí dũng... để biểu thị những điều đạt được do làm lành nhằm càng làm rõ thêm những tổn thất do ác nghiệp gây ra.
‘Tôn quý, giàu sang’ là người phú quý trong thế gian. ‘Hiền minh, trí dũng, tài năng thông đạt’ là bậc hiền trí trong loài người.
Chữ ‘trưởng giả’ là tiếng gọi chung để chỉ bậc đủ cả hai thứ: tài sản và đức hạnh. ‘Trưởng giả’ cũng là tiếng để gọi bậc cao tuổi giàu có. Người hiền trí, phú quý trong đời đều do trong đời quá khứ từng từ ái, tận hiếu ‘tu thiện, tích đức’ nên đạt được như thế.
Trên đây, kinh đã nói đến nhân quả chẳng hư dối, là những điều thế gian có thể thấy được. Những thứ ương phạt như ‘nghèo cùng, ăn mày’ cho đến ‘dặt dẹo, cuồng dại’ là những loại dễ thấy trong đời, nhưng mấy ai biết rằng ‘sau khi tuổi
thọ hết’, nỗi khổ sở còn nặng nề hơn nữa. Từ câu ‘vào chốn u minh’ trở đi, kinh nói thẳng vào những tội khổ.

‘U minh’ còn thường gọi là “minh đồ” (đường tăm tối), “minh giới” (cõi tối tăm) là danh từ chỉ chung cả ba đường ác, cũng là chữ để chỉ riêng quỷ giới và địa ngục; chẳng hạn như sách Hội Sớ ghi: ‘U minh tức là minh đồ, suối vàng’.
Câu ‘chuyển sanh thọ thân, đổi hình thay nẻo’ được sách Hội Sớ giảng: ‘Thoát thân người, chịu thân quỷ, súc sanh v.v… nên bảo là “chuyển sanh thọ thân”. Chuyển biến trong tứ sanh nên bảo là “đổi hình”. Sống chết trong sáu đường nên bảo là “thay nẻo”.
‘Tứ sanh’ là noãn, thai, thấp, hóa, chẳng hạn như: bỏ thân chim sẻ mang thân chó nên gọi là ‘đổi hình’. Lại như bỏ thân người khoác thân chó, tức là từ nhân đạo chuyển sanh vào súc sanh đạo nên gọi là ‘thay nẻo’. Chúng sanh xoay vần trong sáu đường.

‘Nê Lê’ chính là địa ngục. Ngài Gia Tường giảng câu: ‘Thí như chốn lao
ngục theo pháp luật thế gian cực hình rất khổ’ như sau: “Ví như pháp vua” là dẫn thí dụ để so sánh: Trước là báo nhẹ, sau là khổ nặng, giống như pháp vua trị tội: trước hết là gông xiềng, sau hạ chỉ giết đi. Trước là hiện báo, sau vào địa ngục nên bảo là “cực hình”.
Ý ngài nói: Làm ác chịu báo, trước là thọ quả báo nhẹ trong hiện đời; thân sau lại chịu trọng báo giống như phép vua trừng trị tội phạm: Trước hết nhốt vào ngục, thân bị gông xiềng, chịu đựng các khổ lớn. Những điều ấy ví như chịu các khổ báo nơi thân hiện tại. Tối hậu mới dùng đến cực hình, giết mất sanh mạng. Chữ ‘cực hình’ để ví cõi địa ngục. Nỗi khổ trong địa ngục như lửa nung đốt thân. Lại sau khi chết đi, đọa vào tam đồ bèn có Nê Lê, cầm thú, côn trùng… Ðịa ngục khổ nhất nên gọi là ‘cực hình’.
Chữ ‘hồn thần, mạng tinh’ trích theo bản Hán dịch, bản Ngụy dịch ghi là ‘hồn thần tinh thức’. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng: ‘Có thuyết nói thức thứ sáu gọi là hồn thần, thức thứ tám gọi là tinh thức’. Như vậy, ở đây chữ ‘mạng tinh’ chỉ thức thứ tám, tức là A Lại Da thức. Do nó làm vị chủ nhân đi sau đến trước (khứ hậu lai tiên tác chủ nhân) nên gọi là ‘mạng tinh’.
Thức thứ tám này dường như luôn tiếp nối. Lúc xả mạng, hễ chỗ nào nghiệp nặng hơn thì nó bị lôi vào đó nên bảo là ‘theo tội hướng về’: theo tội báo vào trong ác thú. Nếu hãm vào ngục Vô Gián thì muôn kiếp khó ra nên bảo là ‘[chịu lấy thọ mạng] hoặc dài’; hoặc sanh làm loài vi khuẩn chết sống trong mỗi sát na nên gọi là ‘hoặc ngắn’. Sách Hội Sớ nói: ‘Như [sanh trong] tám đại địa ngục và loài quỷ trường thọ thì gọi là “hoặc dài”. Như các loài thiêu thân, phù du v.v… thì là “hoặc ngắn”. Trong đó, vô lượng thọ mạng sai khác đều do túc nghiệp cảm vời. Trong đường lành, coi sống lâu là phước, nơi nẻo ác coi sống lâu là họa lớn.

Theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau’ nghĩa là: oan oan tương báo chẳng có cùng tận. Sách Hội Sớ nói: ‘Những kẻ sát sanh đời đời cùng sanh ra cùng lúc với nhau, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận’. Chẳng hạn như:
kẻ bị giết vì muốn đòi nợ mạng nên ắt theo đuổi kẻ oán đối, phải đồng thời xuất hiện trong thế gian thì mới mong báo oán nổi. Bởi thế, oan gia trái chủ ‘theo nhau cùng sanh’. Ðời này người giết dê, tương lai người chết thành dê, dê chết thành người. Lại như mèo chết thành chuột, chuột chết thành mèo, đời đời cùng sanh với nhau, đoạt mạng để đền nợ nên kinh nói: ‘Báo đền lẫn nhau’.
Lại do kẻ đòi nợ qua thật nhiều đời báo oán, lại kết thành kẻ oán, người thân nên chẳng biết lúc nào xong. ‘Ương ác chưa tận, trọn chẳng thoát nổi’: “Ương” là họa, là tội, là hình phạt. Những ương ác đã tạo chưa đền trả hết thì ắt cứ xoay vần mãi trong đường ác chẳng có lúc ra, đau đớn không nói nổi.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘tự nhiên có như thế’ như sau: ‘Làm ác thì dẫu chẳng muốn chịu quả khổ, quả khổ vẫn tự đến. Tu thiện dẫu chẳng mong cầu quả vui, quả vui vẫn tự đến, khác nào như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Nhưng kinh đây bảo là “tự nhiên” là ý nói nhân quả là pháp quyết định như thế đó’. Sách Hội Sớ cũng nói: ‘Nhân quả tất ứng nên bảo là tự nhiên’.
‘Bạo’ là mạnh gấp, đột nhiên, chữ ‘ứng’ là báo ứng. Kẻ ác làm ác ắt chịu quả báo, nhưng quả báo hoặc là chẳng ứng hiện ngay lập tức trong hiện tại nhưng nhân quả chẳng dối, ắt trong đời sau phải chịu khổ báo nên kinh dạy: ‘Thiện ác rồi sẽ quy kết cả’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thứ hai là nhân dân trong thế gian chẳng thuận pháp độ, xa xỉ, dâm dật, kiêu căng, phóng túng, mặc tình thỏa ý. Kẻ trên bất minh, kẻ có địa vị bất chánh,
hãm người oan uổng, tổn hại trung lương. Lòng và miệng khác nhau, cơ mưu, trá ngụy đa đoan; khinh dối hết cả tôn, ty, trong ngoài. Nóng giận, ngu si, ham hậu đãi mình, tham muốn có nhiều. Lợi hại thắng bại, kết phẫn thành thù, phá gia vong thân, chẳng quản trước sau.
Giàu có thì keo tiếc, chẳng chịu cho ra, càng thích giữ rịt, càng tham nặng hơn. Tâm nhọc thân khổ cho đến khi chết đi, không đem theo được gì! Thiện, ác, họa, phước theo mạng mà sanh: hoặc ở chỗ vui, hoặc vào nơi khổ độc.
Lại hoặc là thấy người lành thì ghét gièm, chẳng khởi lòng hâm mộ, bắt chước. Thường ôm lòng trộm cắp, mong mỏi hưởng cái lợi của người khác để cung cấp cho mình. [Của cải ấy rồi lại] tiêu tán, lại bị [kẻ khác] lấy mất. Thần minh ghi biết. Rốt cuộc vào trong ác đạo, tự có tam đồ vô lượng khổ não, xoay vần trong đó bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi.


Giải:
Ðiều thứ hai là tội ác trộm cắp. Ðối với vật có chủ, dù ít hay nhiều, nếu chẳng cho mà lấy thì đều là trộm cắp. Hạnh trộm cắp vốn bắt nguồn từ tam độc. Tham dục, keo kiết thì dễ sanh tâm trộm cắp. Các ác hỗ trợ nhau thành ra tội trộm cắp.
Từ chữ ‘chẳng thuận pháp độ’ đến ‘chẳng tính trước sau’, kinh nói đến tội lỗi trộm cắp.
Trong câu ‘chẳng thuận pháp độ’, “pháp” là khuôn phép, pháp tắc, “độ” là quy củ, những quy định thông thường.
‘Dâm dật’ là như sách Ðẳng Bất Ðẳng Quán Tạp Lục nói: ‘Trong kinh, đa phần là chữ “dâm” có liên quan đến người nữ. Chữ “dâm” chuyên chỉ việc trai gái’. Hành dâm không chừng mực nên bảo là ‘xa xỉ, dâm dật’.
‘Kiêu’ là kiêu căng, hợm mình, khinh người. Nam nữ ở chung chẳng tuân theo lễ nghĩa, tình dục phóng túng, chỉ cốt khoái ý, chẳng sợ tội lệ, nên bảo là ‘mặc tình thỏa ý’.
Câu ‘kẻ trên bất minh, người có địa vị bất chánh’ ý nói: kẻ có địa vị lợi dụng quyền thế lươn lẹo, chiếm đoạt, vơ vét, tổn người lợi mình, hại nước, hại dân… tạo đủ các thứ ác nghiệp. Gia Tường Sớ nói: ‘Quan tể tướng dung túng thuộc hạ bắt muôn dân đút lót, đoạt ngang của người’. Ðấy là ‘kẻ trên bất minh’.
Ăn hối lộ đã thuộc về hạnh trộm cắp, huống hồ là còn ‘hãm người oan uổng, tổn hại trung lương’.
‘Hãm’ là vu hãm, hãm hại. ‘Oan’ là oan khuất. ‘Uổng’ là tà vạy. ‘Trung’ là làm việc thận trọng, hạnh ngay thẳng, vì việc công quên việc tư. ‘Lương’ là hiền lành.
Kẻ ác như thế ganh ghét người hiền, hãm hại người trung lương. Kẻ đó ắt lời nói xảo ngụy chẳng trung, a dua cầu lợi, phỉ báng người lương thiện, vu tội cho người, tâm khẩu bất nhất, nên kinh bảo: ‘Lòng, miệng khác nhau, cơ mưu, xảo ngụy đa đoan’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Cơ là huyễn hoặc, ngụy là dối trá’. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Cơ là mưu mô, tức là khéo nói cho đẹp lòng nhằm lung lạc ý
vua để làm chuyện mưu mô gian dối’. ‘Cơ’ còn có nghĩa là tâm cơ, ‘ngụy’ là gian dối. Lọc lừa, dối trá có nhiều thứ như thế nên bảo là ‘cơ mưu, xảo ngụy đa đoan’.
Kẻ ác như thế nào cần biết đến tôn ty, thượng, hạ, nội, ngoại, thân, sơ; đối với ai nó cũng đều dối trá, lừa lọc cả nên mới bảo: ‘Khinh dối hết cả tôn, ty, trong, ngoài’.
‘Nóng giận, ngu si, ham hậu đãi mình’: Hai độc sân và si khiến tâm tham càng thêm tăng trưởng. Sách Hội Sớ viết: ‘Ba ác hỗ trợ nhau khiến tà dục lừng lẫy, ham hố tài vật của người khác chỉ muốn tom góp về cho mình nên bảo là “ham hậu đãi mình”.
‘Ham muốn’ là tham dục, sân ác. Kinh Duy Ma dạy: ‘Chấp thân là gốc, tham dục là gốc’. Sách Hội Sớ lại nói: ‘Biển dục sâu rộng chẳng biết chán đủ. Dẫu tôn quý hay thấp hèn, dầu nghèo hay giàu, không ai lại chẳng mong tom góp, chộn rộn, bôn ba, nên gọi là tham dục’. Muốn chiếm hữu nhiều nên bảo là ‘tham muốn có nhiều’. Do tranh nhau lợi hại, tổn người ích mình nên bảo là “lợi hại, thắng bại”.
Bởi thế ‘kết phẫn thành thù’. ‘Thù’ là căm hận, thậm chí nhà tan, mạng mất, chẳng nề hà gì hết nên kinh bảo: ‘Phá gia vong thân, chẳng quản trước sau’.
‘Trước sau’ chính là nhân trước, quả sau.
Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Trước chẳng nề hà là đúng hay sai; sau chẳng quan tâm lời chê trách. Cũng nghĩa là trước đã chẳng hề xem xét tường tận, suy nghĩ cẩn thận; sau cũng chẳng ngại quỷ thần ngầm ghi chép. Hoặc cũng có thể hiểu là trước chẳng quan tâm đến tội nghiệp, sau chẳng tính đến quả báo trong tương lai’. Chỉ mong tranh thắng, chẳng sợ “lưỡng bại câu thương” (cả hai cùng thua thiệt, tổn thương). Chỉ cốt khoái ý, chẳng sợ tội báo đời tương lai. Chẳng quản ngại hết thảy, cứ tạo đủ các chuyện ác.
Từ câu ‘giàu có keo tiếc’ trở đi, kinh nói đến cái tội keo kiệt. Dẫu là kẻ giàu có nhưng keo kiệt đã thành tánh nên ‘chẳng chịu cho ra’. ‘Cho ra’ là bố thí. Chẳng chịu đem tài vật thí cho người khác chính là do ái dục kiên cố nên bảo là ‘càng thích giữ rịt’. Tâm tham sâu nặng nên bảo là ‘càng tham nặng hơn’.
Tâm nhọc thân khổ cho đến khi chết’ là trọn đời khổ sở, nhọc nhằn; cho đến khi chết đi rồi cũng chỉ là một mình mình đến, một mình mình đi ‘chẳng mang theo được gì!’. Gia Tường Sớ giảng: “Không mang theo được gì” là chỉ mình thần thức ra đi, của cải bỏ lại cõi trần’, nghĩa là: mọi thứ đều chẳng theo đi, chỉ có mỗi cái nghiệp tùy thân.
Những nghiệp thiện ác đã tạo lúc sống và cái quả phước hay họa do nghiệp cảm thành chẳng hề lìa bỏ mình nên bảo là ‘theo mạng mà sanh’. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Nghĩa là cái nhân thiện ác và cái quả họa phước đều đi theo mạng căn đến chỗ mình sẽ được sanh về’. ‘Theo’ là đi theo, theo đuổi. Bởi thế nên đời sau ‘hoặc ở chỗ vui, hoặc vào nơi khổ độc’. ‘Chỗ vui’ là ba đường lành; ‘nơi khổ độc’ là ba ác đạo. ‘Khổ’ là đau khổ, ‘độc’ là độc họa. Ðau khổ cùng cực nên bảo là ‘khổ độc’.
Tiếp đó, Phật nói đến cái tội trộm cắp. ‘Thấy người lành thì ghét gièm, chẳng khởi lòng hâm mộ, bắt chước’. ‘Ghét’ là ghét bỏ, ‘gièm’ là phỉ báng. Thấy điều lành của người chẳng những tâm không kính mộ; trái lại còn sanh tâm ghét bỏ, đơm đặt, phỉ báng. Hạng người như vậy chẳng có thiện niệm lẫn thiện hạnh, trong bụng toàn ôm ấp ý nghĩ xâm đoạt.
‘Mong mỏi’ là hy vọng; chỉ nghĩ cách tổn người lợi mình nên kinh nói: ‘Mong mỏi hưởng cái lợi của người khác để cung cấp cho mình’. Của bất nghĩa dễ dàng đạt được nên cứ mặc tình tiêu xài hoang đàng cho nên nhanh chóng ‘tiêu tán’, lại bị kẻ khác cướp đoạt mất nên bảo là ‘tiêu tán, lại bị lấy mất’. Bởi vậy, ‘thần minh ghi biết. Rốt cuộc vào trong ác đạo’.
‘Thần minh’ là như bản kinh Hoa Nghiêm dịch vào đời Tấn đã nói: ‘Người ta sanh ra, có hai vị trời thường theo sát hai bên. Một vị tên là Ðồng Sanh, vị kia tên là Ðồng Danh. Hai vị trời ấy thường thấy người đó nhưng người đó chẳng thấy được trời’. Hai vị thần như thế sanh chung với người nên gọi là ‘Câu Sanh thần’. Kinh Dược Sư dạy: ‘Có Câu Sanh thần, chép đủ tội phước trao cho vua Diêm La’.
Sách Gia Tường Sớ cũng viết: ‘Hết thảy chúng sanh đều có thần: một tên là Ðồng Sanh, hai tên là Ðồng Danh. Ðồng Sanh Nữ ở bên vai phải chép điều ác đã tạo. Ðồng Danh Nam ở bên vai trái chép điều thiện đã làm’.
Kinh Ngũ Giới cũng dạy: ‘Tam phú, bát giáo, nhất nguyệt lục tấu’.
“Tam phú” là tháng Giêng, tháng Năm, tháng Chín. “Bát giáo” là tám ngày: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Ðông, Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Ðông Chí.
“Lục tấu” là sáu ngày ăn chay: mồng tám, mười bốn, rằm, hăm ba, hăm chín, ba mươi. Nghĩa là: trong một năm, có ba tháng trình bẩm báo lên trên, có tám ngày báo cáo lên trên (‘giáo’ là bẩm cáo). Trong một tháng có sáu ngày tấu rõ.
Căn cứ vào kinh Ngũ Giới, ngài Vọng Tây bảo: ‘Trong những ngày như thế, thiên thần ghi chép điều thiện ác của chúng sanh’, ý nói: Những điều được thần minh bẩm báo đều là những điều thiện ác.
‘Ghi biết’ (nguyên văn là ‘khắc thức’): ‘Khắc’ là ghi khắc, chữ ‘thức’ có nhiều cách giải thích:

a). Một là theo như các sách Gia Tường Sớ, Tịnh Ảnh Sớ…thì ‘thức’ là ghi chép. Sách Hội Sớ nói: ‘Trong chốn u huyền có thiên thần ghi chép từng điều, không sai một mảy nên bảo là “khắc thức”. Chữ “thức” đọc cùng âm với chữ “chí”
(theo âm Quan Thoại), có nghĩa là ghi chép’. Thuyết này giống với thuyết của ngài Gia Tường: có thần minh ghi chép điều thiện ác của mỗi người nên báo ứng chẳng trật.
b). Chữ Thức ở đây chính là thức thứ tám. Chẳng hạn như ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Do công năng chẳng quên của chủng tử thức nên gọi là khắc thức’.

Ngài Nghĩa Tịch và ngài Vọng Tây cùng chấp nhận cả hai cách giải thích này. Ngài Nghĩa Tịch nói: ‘Ðiều thiện ác đã làm chẳng những huân tập trong cái thức của mình mà còn được thiên thần ở ngoài ghi chép. Ghi ở cả hai nơi thì sai chạy nổi sao?’. ‘Hai nơi’ là nội thức và thần minh bên ngoài. Trong các thuyết trên, thuyết của Nghĩa Tịch ổn thỏa nhất bởi Duy Thức nào trở ngại việc thần
minh ghi chép; thần minh ghi chép cũng nào trở ngại “duy thức sở hiện”. Bởi đó, thuyết “trong ngoài cùng ghi” là thích hợp nhất.
Do tội báo theo mãi nên xoay vần trong tam đồ ‘bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi’. ‘Bao kiếp’ là nhiều kiếp.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thứ ba là nhân dân trong thế gian nương theo các nhân mà sanh, thọ mạng được mấy?
Kẻ bất lương thân tâm bất chánh, thường ôm lòng tà ác, thường nghĩ chuyện dâm dật, phiền đầy ắp bụng, phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi. Tốn phí của nhà làm điều phi pháp. Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm; lại còn kết giao, tụ hội, hưng binh đánh nhau, công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém, cưỡng đoạt, bức hiếp để đem về cấp cho vợ con. Lấy cực thân làm điều vui. Mọi người ghét bỏ, gặp tai nạn mới khổ. [Do] những điều ác như thế [nên] mắc vòng
[trừng phạt] của người [lẫn] quỷ. Thần minh ghi biết, tự vào tam đồ, vô lượng khổ não. Xoay vần trong ấy, bao kiếp khó ra, đau đớn chẳng nói nổi.


Giải:
Thứ ba là nói về sự dâm ác và do cái nhân dâm ác dẫn khởi những cái ác: tham, sân, si…
‘Nương theo các nhân mà sanh’: “Nương” là nhờ vào, phụ thuộc vào. Cả câu này ý nói: Chúng sanh do các nghiệp nhân hợp lại mà sanh ra trong thế gian này. Sách Hội Sớ nói: ‘Thế giới an lập: Chỉ mình Dương thì chẳng thành, riêng Âm thì cũng chẳng lập. Chồng vợ làm nhân tạo thành. Lại cha con cũng do nhân tạo thành; vua tôi giúp nhau. Phàm trong vòng trời đất, nào có nghĩa độc lập nên bảo là ‘nương theo các nhân mà sanh’.
Ấy là vì chúng sanh đều có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Do người này, kẻ kia cùng có chung nghiệp báo nên sanh ra cùng một thời kỳ trong cùng một thế giới. Lại do biệt nghiệp của mỗi người đều khác, mỗi người đều có cái duyên túc
nghiệp sai khác nên hoặc làm quyến thuộc, hoặc trở thành cừu địch, cùng sanh một chỗ để đền ân báo oán nên bảo là ‘nương theo các nhân mà sanh’.
‘Thọ mạng được mấy?’: trăm năm ngắn ngủi như chốc lát, vô thường vùn vụt. Mạng người trong hơi thở, nháy mắt liền hết; nhưng thế nhân điên đảo, chẳng biết khổ, không, vô thường, chỉ cầu cái vui huyễn vọng như con thiêu thân đâm đầu vào lửa tự đốt thân mình.
Bởi thế, ‘kẻ bất lương thân tâm bất chánh, thường ôm lòng tà ác, thường nghĩ chuyện dâm dật’. “Tà” là tà vạy, bất chánh. “Ác” là ác độc, bất thiện. Sách Hội Sớ nói: ‘Tà là tà vạy, ác là tội ác’.
‘Dật’ là phóng túng (theo Trung Hoa Ðại Tự Ðiển).
‘Dâm’ là phóng đãng, tham sắc, chẳng kể lễ nghĩa.
Dâm chính là một trong mười điều ác. Dâm là gông cùm trói buộc chúng sanh. Dâm là cội nguồn tội lỗi sanh ra các nạn. Hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà bị sanh tử nên bảo là: ‘Căn bản của sanh tử thì dục là bậc nhất’. Các kinh luận được dẫn chứng dưới đây đều nói lên cái hại của dâm dục.
Luật Di Sa Tắc nói: ‘Trong năm giới của kẻ tại gia, chỉ cấm tà dâm. Mười giới xuất gia đoạn hẳn dâm dục. Chỉ phạm vào hết thảy chuyện trai gái trong đời đều gọi là phá giới. Thậm chí, hết thảy người đời do dục mà mất mạng tan nhà. Bỏ tục làm Tăng lẽ đâu còn phạm. Căn bản của sanh tử thì dục là bậc nhất. Vì thế, kinh dạy: “Sống dâm dục chẳng bằng chết trinh khiết”.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao cũng nói: ‘Dâm dục chính là cội nguồn lưu chuyển sanh tử, là nhân duyên khiến xa lìa giải thoát, như bậc đại hiền bảo: “Trong lao ngục sanh tử, dâm làm gông cùm trói chặt hữu tình, là nạn khó thoát”. Lại như
Trí Ðộ Luận chép: “Dâm dục tuy chẳng não chúng sanh nhưng vì nó trói buộc chúng sanh nên coi là đại tội”. Luận Du Già nói: “Trong các thứ ái, dục là nặng nhất. Nếu đối trị được nó, tự nhiên điều phục được các thứ khác; như chế ngự được kẻ mạnh mẽ thì những kẻ yếu hơn tự khuất phục. Mà dục pháp này có đến ba tội lỗi: Khổ mà tưởng như vui; chút ít ngọt ngào nhưng lắm tai hại; bất tịnh mà tưởng như là tịnh”. Sách còn viết thêm: ‘Lẽ đâu tham đắm cái vui trong sát na để chịu đại khổ trong bao kiếp?”
Kinh Ha Dục (quở trách dục vọng) cũng dạy: ‘Nữ sắc là gông cùm trong thế gian. Phàm phu tham luyến chẳng thể dứt bỏ nổi. Nữ sắc là tai họa lớn trong thế gian bởi phàm phu cho đến chết chẳng thoát nổi nữ sắc. Nữ sắc là suy họa của thế gian. Phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào lại không xảy đến!’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘phiền đầy ắp bụng’ như sau: ‘Lửa dục nung nấu bên trong khiến bụng dạ nóng nảy, tâm cuồng loạn’.
‘Phong thái tà vạy, vẻ ngoài lả lơi’ là tánh cách dâm tà, phóng đãng, buông tuồng thể hiện rõ ra ngoài.
‘Tốn phí của nhà’: ‘Phí’ là hao tốn, ‘tổn’ là giảm.
‘Làm điều phi pháp’: việc làm đều chẳng hợp với pháp luật, đạo đức, thậm chí vi phạm pháp luật.
‘Việc đáng nên cầu thì chẳng chịu làm’ là chẳng cầu tự lập, chẳng chăm làm việc chánh đáng, chẳng cầu xuất ly, chẳng biết cầu phước, cầu huệ, cầu sanh Tịnh Ðộ.
Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘lại còn kết giao, tụ hội’ như sau: ‘Từ chữ “kết giao, tụ hội” trở đi là nói về việc tạo lỗi ác. Vì dâm nên gây tạo những chuyện: giết hại, trộm cắp… Ðó là tội lỗi!’. Ðoạn kinh tiếp theo đó nêu rõ vì dâm nên con người tạo đủ các tội trộm cắp, giết hại…
‘Kết giao’ là cấu kết, ‘tụ hội’ là tụ tập bọn tà.
‘Công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém’ (công kiếp sát lục): Hễ dùng vật gì nhỏ, nhọn để đâm thì gọi là ‘lục’. Ở đây, chữ ‘lục’ chỉ các thứ binh khí như: thương, mâu v.v... để giết người.
Ngài Cảnh Hưng giảng chữ ‘cưỡng đoạt’ là ‘công nhiên cướp lấy’. ‘Bức hiếp’ là dùng oai lực để đe dọa, tức là cướp đoạt bằng oai thế. Ðấy là tội trộm cắp.
Làm đủ những việc trộm cắp, giết hại như thế chỉ vì ‘để đem về cấp cho vợ con’: Chỉ cốt vui lòng một người đàn bà nên dẫu cực thân vẫn lấy làm vui.
Ngài Vọng Tây giảng chữ ‘cực thân’ như sau: ‘Cực là mệt nhọc’. Như vậy, ‘cực thân’ là làm cái thân khổ nhọc, mỏi mệt .
‘[Do] những điều ác như thế nên mắc vòng [trừng phạt] của người [lẫn] quỷ’: ‘Mắc vòng’ là chiêu cảm, dính vào. Ngài Nghĩa Tịch giảng: ‘Làm điều ác công khai thì bị vướng vào [sự trừng phạt] của người. Làm điều ác kín đáo thì bị vướng vào [sự trừng phạt] của quỷ’.
Sách Hội Sớ cũng bảo: ‘Người là nhân gian, quan quyền hình phạt. Quỷ là quỷ thần, quan cõi âm soi xét’. Thần minh âm thầm ghi chép, chư thiên cũng ghi chép thì kẻ tạo ác mong chi thoát khỏi. Bởi thế, ‘tự vào tam đồ’. ‘Tự’ là tự nhiên, có nghĩa là quyết định.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thứ tư là nhân dân trong thế gian chẳng nghĩ tu thiện. Nói đôi chiều, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, bại hoại bậc hiền minh. Chẳng hiếu cha mẹ, khinh mạn sư trưởng. Với bằng hữu chẳng thủ tín, khó mà thành thật. Tự đại tôn quý, bảo là mình có đạo, hoành hành oai thế, xâm tổn người khác. Muốn người kính sợ mình, chẳng tự thẹn hổ, khó bề giáo hóa. Thường ôm lòng kiêu mạn, ỷ vào phước đức đời trước giữ gìn cho mình.
Ðời này làm ác, phước đức tận diệt. Thọ mạng hết rồi, các ác vây lấy. Tên tuổi người ấy lại được ghi nơi thần minh, vạ ương dẫn dắt, không cách nào bỏ lìa được. Chỉ do việc làm trước mà vào trong vạc lửa, thân tâm tan nát, tinh thần, thân mình khổ cực. Ngay trong lúc ấy dẫu hối kịp chăng?


Giải:
Thứ tư là tội vọng ngữ.
Trí Ðộ Luận giảng về ‘vọng ngữ’ như sau: ‘Vọng ngữ là tâm bất tịnh muốn dối gạt người. Che giấu sự thật, nói ra chuyện khác, tạo thành khẩu nghiệp. Ðấy gọi là vọng ngữ’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương cũng giảng: ‘Lời nói chẳng đúng sự thật nên gọi là “vọng”. Nói ra điều sai vạy nên bảo là “vọng ngữ”. Như vậy, mang lòng khi dối, miệng thốt ra lời chẳng thật thì gọi là vọng ngữ.
Thêm nữa, miệng có bốn lỗi, tức là bốn điều ác nơi khẩu nghiệp trong Thập Ác là: nói đôi chiều, ác khẩu, nói dối và nói thêu dệt. Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Bốn lỗi của miệng chẳng đúng với pháp, được gọi chung là vọng ngữ’. Nay kinh này giảng về năm sự ác nên dùng chữ ‘vọng ngữ’ để gộp cả ba lỗi kia của khẩu nghiệp, tính thành một điều ác. Nhưng kinh này hàm ý răn dạy cả Thập Ác nên lại nêu ra cả ba điều ác nơi miệng; bởi thế, trong phần nói tóm lược, lại có phần giải thích rộng ra.
Chữ ‘lưỡng thiệt’ (nói đôi chiều) được các nhà dịch kinh theo trường phái Tân Dịch dịch là ‘ly gián ngữ’. Tứ Phần Luật chép: ‘Người này, kẻ kia đấu loạn khiến người bị tổn hoại’. Ngài Thiên Thai nói: ‘Khích bác người này, kẻ kia, phá sự hòa hợp’.
Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Nói khiến bên này, bên kia trái nghịch nhau nên gọi là “lưỡng”. Ðều do cái lưỡi để nói với cả hai bên nên bảo là lưỡng thiệt’. Nghĩa là: khích động ly gián, hý lộng thị phi.
Chữ ‘ác khẩu’ dịch theo lối tân dịch là ‘thô ác ngữ’. Sách Pháp Giới Thứ Ðệ viết: ‘Dùng lời ác dồn ép kẻ khác khiến họ phải đau khổ thì gọi là ác khẩu’. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển thứ bảy cũng chép: ‘Lời lẽ thô tháp thì gọi là “ác”. Ác từ miệng sanh nên gọi là ác khẩu’. Như vậy, khiến người khác buồn, thốt ra lời thô ác khiến người khác đau khổ thì gọi là ác khẩu.
‘Vọng ngôn’ tức là vọng ngữ, dịch theo lối Tân dịch là ‘hư cuống ngữ’, xin xem lại lời giải thích ở phần trên. Vọng ngữ lại như kinh Phạm Võng đã bảo: ‘Chẳng thấy dám nói thấy, thấy nói chẳng thấy’. Những lời lẽ nghịch tâm, chẳng thật ấy chính là vọng ngữ.
‘Nói thêu dệt’ (ỷ ngữ), dịch theo lối Tân dịch là ‘tạp uế ngữ’. Câu Xá Luận nói: ‘Hết thảy các lời nói xuất phát từ cái tâm nhiễm tạp thì gọi là tạp uế ngữ’. Ðại Thừa Nghĩa Chương lại giảng: ‘Tà ngôn bất chánh giống như là các sắc [pha trộn] bóng bảy. Dùng thí dụ để đặt tên nên gọi là nói thêu dệt’.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú cũng bảo: ‘Ỷ ngữ là hết thảy ngôn từ bất chánh, chứa đựng ý dâm. Khách tao nhân đời sau quen thói ưa ví von mỹ nhân như cỏ thơm. Phàm những thứ lời lẽ ấy xâm nhập vào chốn khuê các thì đều gọi là ỷ ngữ’.
Sách Thập Thiện Nghiệp Ðạo Chương cũng nói: ‘Ngôn từ diễn tả những điều nhiễm tạp thì gọi là “tạp uế ngữ”. Nếu là những văn từ bóng bảy chẳng khiến tâm tạp nhiễm, ca ngợi thật đức thì chẳng gọi là lời bất thiện vậy’.
Ngài Vọng Tây nói: ‘Với vọng ngữ này thế nhân thường thích phạm, chẳng đoái hoài quả báo mai sau. Như ngài Nam Sơn nói: “Với giới này người ta hay thích phạm. Ấy là bởi vọng nghiệp chất chứa sâu nặng, hạt giống [vọng nghiệp] trong
tạng thức rất nhiều nên cứ gặp trần cảnh là liền phát động, tạo nên lời dối trá”.
Ngài còn nói: ‘Hành Cơ Bồ Tát lại nói: “Con cọp lỗ miệng hại người, gươm lưỡi đoạt mạng. Nếu cái miệng giữ được như cái mũi thì chết đi chẳng lo tai vạ gì!”. Người giữ được cái miệng im lặng như lỗ mũi thì mới khỏi sanh ra các họa hại.
Trí Ðộ Luận nói: ‘Như đức Phật đã nói, vọng ngữ có mười tội. Những gì là mười?
Một là hơi miệng hôi thối; hai là thiện thần tránh xa, phi nhân được dịp làm hại; ba là tuy có nói thật người khác chẳng tin nhận; bốn là khi người trí bàn soạn chẳng tham dự được; năm là thường bị phỉ báng, tiếng xấu xa đồn khắp thiên
hạ; sáu là người khác chẳng kính, tuy có dạy dỗ, ra lệnh người khác chẳng tuân theo; bảy là thường hay ưu sầu; tám là tạo thành nhân duyên của nghiệp phỉ báng; chín là khi thân hoại mạng chung sẽ đọa địa ngục; mười nếu được thoát ra [khỏi địa ngục] sanh làm người thường bị phỉ báng’.
Ta thấy ác nghiệp vọng ngữ sanh ra lắm thứ ương họa như thế, chết đọa địa ngục, phải dè chừng chớ khinh thường!
Ganh ghét người lành’: Ghét là chán ghét, ganh là ganh tỵ. Ðối với cả tám câu từ câu ‘ganh ghét người lành’ cho đến câu ‘tự đại tôn quý’, các cổ đức có hai lối giải thích khác nhau:
a). Một là như ngài Gia Tường giảng: “Ganh ghét người lành” là ác khẩu. “Bại hoại hiền minh” là vọng ngữ. “Chẳng hiếu song thân” (bản Ngụy dịch chép là “nhị thân”) là kẻ tạo ác tạo nghịch. “Với bằng hữu chẳng thủ tín” là bất trung, thành tội vọng ngữ bậc thượng. “Tự đại tôn quý” thành ra ác khẩu. “Bảo là mình có đạo” là nói đôi chiều’.
b). Hai là theo ngài Vọng Tây thì ‘ganh ghét người lành’ chính là tội lưỡng thiệt, ‘chẳng hiếu song thân, khinh mạn sư trưởng’ là tội ác khẩu. ‘Với bằng hữu chẳng thủ tín, khó mà thành thật’ chính là lỗi vọng ngữ. ‘Tự đại tôn quý, bảo là mình có đạo’ chính là tội nói thêu dệt.
Hai thuyết hơi khác nhau, nhưng lời nói đã chẳng thành thật thì từ một khẩu nghiệp sẽ có đủ các tội lỗi, khó bề phân giải tường tận. Thêm nữa, ‘bảo là mình có đạo’ là nếu mình chưa đắc thánh đạo mà bảo ta đã đắc thánh đạo là đã phạm đại vọng ngữ giới, sẽ phải chịu lấy tội báo nặng hơn các khẩu nghiệp khác.
‘Hoành hành oai thế, xâm tổn người khác’ là hoành hành bá đạo, cậy thế khinh người. ‘Muốn người khác kính sợ’ là muốn đại chúng coi mình là người cầm đầu, nghe theo lệnh mình, chỉ biết phục tùng mình. Kiêu căng, ngã mạn, chẳng biết thẹn hổ, chẳng tự răn dè, kiêng nể, khó bề giáo hóa, hàng phục.
Bởi thế, kinh nói:‘Chẳng tự thẹn hổ, khó bề hàng phục, giáo hóa, thường ôm lòng kiêu mạn’. Cái tội mạn nếu đem kết hợp với ba độc thì có tham mạn, sân mạn, si mạn, đều thuộc về tư hoặc.
‘Ỷ vào phước đức đời trước giữ gìn cho mình’: Những kẻ ác có thể hoành hành nhất thời như trên đều là do phước đức đời trước giúp cho họ, nhưng ‘đời này làm ác, phước đức tận diệt’.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Nghiệp lành đời trước diệt sạch, thiện thần bỏ đi nên đời này gặp nạn, đấy là điều đau khổ vậy’. Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Nghiệp lành đời trước diệt hết, thiện thần xa lìa, thân không nơi nương dựa, gặp nhiều nạn ác là nỗi đau khổ vậy’.
‘Tên tuổi người ấy lại được ghi nơi thần minh’: ‘Danh tịch’ (tạm dịch là ‘tên tuổi’): Danh là tên họ, Tịch là sổ sách ghi tội; ‘được ghi nơi thần minh’: thần minh đem tội lỗi của kẻ ác ghi vào trong sổ ghi án.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘vạ ương dẫn dắt’ như sau: ‘Chẳng ai lôi kéo được mình, chỉ có nghiệp của chính mình ràng buộc mà lọt vào đường ác’.
‘Vào trong vạc lửa’ là tự vào trong lửa cháy và vạc nước sôi nơi địa ngục.
‘Thần hình’ là tinh thần và hình thể. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Do ác nghiệp lôi kéo, quỷ thần chộp nắm, nên vào trong ác đạo chịu khổ, bị nung đốt’. Bởi thế bảo là ‘rất khổ’. Ngay lúc đó, dẫu có hối hận cũng chẳng làm gì được nên bảo là ‘dẫu hối kịp chăng?’


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Thứ năm là nhân dân trong thế gian chần chừ, lười biếng, chẳng chịu làm lành, trị thân, tu nghiệp. Cha mẹ răn dạy thì chống đối, hỗn hào, trái nghịch hệt như oan gia, chẳng bằng không con. Phụ ân trái nghĩa, chưa từng đáp đền.
Phóng túng chơi bời, lang thang, ham rượu, mê vị ngon, thô lỗ, khoác lác, càn quấy, chẳng hiểu nhân tình. Vô nghĩa, vô lễ, chẳng thể khuyên can, giảng giải. Lục thân, quyến thuộc dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ. Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng kể nghĩa thầy bạn. Ý niệm, thân, khẩu chưa hề có một điểm lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật, chẳng tin sanh tử, thiện ác, muốn hại Chơn Nhân, đấu loạn tăng chúng. Ngu si mông muội, tự cậy trí huệ, chẳng biết sanh từ đâu đến, chết đi về đâu. Chẳng nhân, chẳng thuận lại hy vọng trường sanh. Từ tâm răn dạy mà chẳng chịu tin. Rát miệng bảo ban [cũng] chẳng ích gì cho kẻ đó. Cõi lòng bế tắc, ý chẳng khai giải. Mạng lớn sắp hết, hối, sợ rối bời, chẳng tu thiện sẵn, đến lúc ấy mới hối. Dẫu hối hận vào lúc cuối cùng cũng nào ích chi!


Giải:
‘Thứ năm là’: Ðây là điều thứ năm [trong ngũ khổ, ngũ thống, ngũ thiêu]. Với điều này, cổ đức có hai cách giải thích:
a). Một là giống như những điều trên, điều này giảng về tội lỗi của việc uống rượu. Các vị Tịnh Ảnh, Gia Tường theo quan điểm này. Phần kinh văn trên có câu: ‘Ham rượu, mê vị ngon’, tiếp đó lại nêu lên các điều ác khác để nói rõ tai hại của rượu.
b). Quan điểm thứ hai là năm điều ác này thật ra bao gồm cả mười điều ác như ngài Nghĩa Tịch nói: ‘Ba nghiệp ác nơi thân là ba điều đầu (trong ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu). Bốn nghiệp ác nơi miệng gộp thành điều thứ bốn. Ba nghiệp ác nơi ý hợp thành điều thứ năm’. Nghĩa là: ba nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm là điều ác thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Bốn nghiệp ác nơi miệng là điều ác thứ tư. Cho đến đây, hai thuyết vẫn giống nhau. Nhưng riêng với điều ác thứ năm, các vị như Tịnh Ảnh… cho là tội uống rượu, còn ngài Nghĩa Tịch lại cho là chỉ chung cả ba nghiệp ác nơi ý, tức là tham, sân, si.
Ông Bành Tế Thanh đời Thanh cũng có cùng quan niệm này. Trong cuốn Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận, ông viết: ‘Ðối với ý nghĩa của năm ác thì đặc biệt chuẩn theo các kinh khác mà phối hợp với Thập Ác. Ðiều ác thứ nhất thuộc về sát nghiệp. Ðiều ác thứ hai thuộc về tham, trộm. Ðiều ác thứ ba thuộc về dâm nghiệp. Ðiều ác thứ tư thuộc về nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt. Ðiều ác thứ năm thuộc sân hận, tà kiến. Trái ngược với chúng là năm điều lành, cũng gọi là Thập Thiện’. So với thuyết của ngài Nghĩa Tịch, thuyết của ông Bành chỉ khác một ít, vì tà kiến là từ si sanh ra.

Ở đây, tôi giải thích kinh văn dựa theo cả hai thuyết cho nên bảo điều ác thứ năm là lỗi uống rượu; lại vì rộng khuyên Thập Thiện nên dùng kèm cả thuyết sau. Hai thuyết trên thoạt nhìn khác nhau, nhưng thật sự chẳng trái nghịch nhau. Bởi vì ham mê chè chén chính là tham ác. Say rồi dễ nóng, đó là sân độc. Rượu khiến cho thần trí hôn ám, uống quá độ thậm chí bất tỉnh nhân sự chính là si độc. Ðủ thấy một cái lỗi uống rượu thường có đủ cả ba độc.
Sách Tư Trì Ký bảo uống rượu có mười cái hại. Sách viết: ‘Một là vẻ mặt xấu ác, hai là yếu sức, ba là mắt nhìn chẳng rõ, bốn là hiện ra vẻ nóng giận (sân độc), năm là tổn hoại nghề nghiệp mưu sinh, sáu là tăng tật bịnh, bảy là tăng thêm tranh chấp, cãi cọ (sân độc), tám là không còn tiếng tăm, chín là trí huệ kém (si độc), mười là khi mạng chung sẽ đọa trong ba ác đạo’. Trong những
điều trên, điều thứ tư, điều thứ bảy là sân, điều thứ chín là si. Ðời cũng có câu: ‘Rượu vào loạn tánh’ nghĩa là rượu có khả năng làm cho tâm ý và bổn tánh lương thiện của con người bị mê loạn khiến cho con người tạo ác.
Nay kinh đây bảo: ‘Ham rượu mê vị ngon’ thì chính là cả hai độc tham và si. Bởi thế một tội uống rượu thật sự gồm cả ba điều ác nơi ý nghiệp. Bởi thế, hai thuyết trên đây chỉ là do nói tách ra hay gộp lại mà thành ra sai khác mà thôi.
Tiếp đó, kinh nói chi tiết về những tai hại, ương họa của việc uống rượu. ‘Chần chừ, lười biếng’: ‘Chần chừ’ là do dự, ‘lười biếng’ là biếng nhác. Ý nói: trong tâm do dự, phóng dật, biếng nhác, chỉ cốt được an nhàn tấm thân chẳng thể tu thân, làm lành. Bởi thế, tiếp đó, kinh nói: ‘Chẳng chịu làm lành, trị thân, tu nghiệp’. ‘Nghiệp’ là chánh nghiệp. Câu này ý nói: Người ác chẳng chịu tu sửa thân mình, chẳng siêng tu chánh nghiệp. Kẻ ấy đối với lời răn dạy của cha mẹ liền ‘chống đối, hỗn hào, trái nghịch’. ‘Chống đối’ là kháng cự lại. ‘Hỗn hào’ là hung bạo, hỗn ác. ‘Chống đối, hỗn hào’ có nghĩa là chống chọi, láo xược. ‘Trái nghịch’ là ngỗ nghịch, bất hiếu. Cha mẹ có con mà hệt như có oan gia nên bảo là ‘chẳng bằng không con’.
Ðứa con ác như thế bội bạc từ ân nên bảo là ‘phụ ân’, trái nghịch lễ nghĩa nên bảo là ‘trái nghĩa’. ‘Chưa từng đáp đền’ nghĩa là đối với ân đức của cha mẹ hoàn toàn chẳng báo đáp. ‘Phóng túng’ là phóng đãng, tự tung tự tác. ‘Ham rượu’ là ưa say sưa, chè chén. ‘Mê vị ngon’ là ham thích ăn đồ mỹ vị. ‘Ham’ còn có nghĩa theo đuổi cái vui quá độ. ‘Mê’ là tham lam chẳng chán. Câu này ý nói mặc tình chè chén, ăn uống, tham ăn vô độ, đấy chính là lỗi ác của việc rượu chè.
Trong sách Thuật Ký, ngài Nghĩa Tịch giảng chữ ‘thô lỗ, khoác lác’ như sau: ‘Thô lỗ là lỗ mãng, đần độn, chẳng hay biết gì. Khoác lác là huênh hoang, mặc sức tự đại’. ‘Càn quấy’ là ngu cuồng, luôn làm càn, chẳng hiểu việc gì, nhưng không việc gì lại không làm. Sách Phụ Hành ghi: ‘Thô lỗ, khoác lác… là dáng vẻ chẳng biết xấu hổ, bất thuận’. Bởi thế, ‘chẳng hiểu nhân tình, vô nghĩa, vô lễ’. ‘Nghĩa’ là “nghi” (thích đáng), tức là những gì quy định khiến cho mọi sự được thích đáng, đúng đắn.
Chữ ‘lễ’ được sách Lễ Ký giảng như sau:
‘Thuận nhân tình là Lễ’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Quyết đoán đúng sai, thấy cái nào thích đáng thì làm theo, đó là Nghĩa. Phân biện tôn ty, chẳng trái với chuẩn mực, pháp tắc thì là Lễ’. Nghĩa là: Phân biệt được đúng, sai, việc làm đúng đắn là nghĩa. Biết tôn, ty, lớn, nhỏ, chẳng trái phạm quy ước đạo đức xã hội chính là Lễ. Vì trái nghịch với lễ nghĩa nên bảo là ‘vô nghĩa, vô lễ’.

Chẳng thể khuyên can, giảng giải’: Khuyên can là dùng đạo để chỉnh người khác, nghĩa là khuyên ngăn để kẻ ấy hành xử đúng đắn. Giảng giải là khuyên bảo, dùng lời lẽ dạy dỗ người khác.
‘Lục thân’ là cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Hiển Dương Ðại Giới Luận có câu: ‘Lục thân là ba đời trên của mình, tức là: cha mẹ, ông bà, ông cố, bà cố và ba đời dưới mình: con cái, cháu và chắt’.
Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao giảng chữ ‘quyến thuộc’ là: ‘Ngoài lục thân thì gọi là quyến thuộc’.
‘Tư dụng’ là những vật dùng để sanh sống như tiền bạc, lúa gạo v.v… Kẻ ác như vậy đối với những vật cần thiết để duy trì cuộc sống của lục thân, quyến thuộc hoàn toàn chẳng thèm quan tâm đến, nên kinh nói: ‘Dù no đủ hay thiếu thốn, chẳng thèm lo nghĩ’. Ðối với ơn cha mẹ, nghĩa thầy bạn, hoàn toàn chẳng nghĩ tới, thản nhiên như không, nên kinh bảo: ‘Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng kể nghĩa thầy bạn’.
Câu ‘ý niệm, thân, khẩu chưa hề có một điểm lành’ được bản Ngụy dịch ghi là: ‘Tâm thường nghĩ điều ác, miệng thường nói điều ác, thân thường làm ác, chưa từng có một điều lành nào!’.
Rõ ràng là ba nghiệp thân, khẩu, ý thường làm nghiệp ác, chưa từng làm được việc lành gì. Câu này đủ chứng minh thuyết của ngài Nghĩa Tịch thật quả có căn cứ.
Câu ‘chẳng tin kinh pháp của chư Phật, chẳng tin sanh tử, thiện ác’ là nói về si họa. Chẳng tin Phật pháp, bác không nhân quả thì chính là nhất xiển đề.
Câu ‘muốn hại Chơn Nhân’ được bản Ngụy dịch ghi là ‘muốn giết Chơn Nhân’, bản Hán dịch ghi là ‘muốn hại La Hán’. Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: ‘Chơn Nhân là A La Hán’. Sách Pháp Hoa Sớ Ký lại bảo: ‘Chơn là sự chứng đắc. Do [A La Hán] là bậc chứng đắc chơn thật nên gọi là Chơn Nhân’. Giết A La Hán chính là ngũ nghịch trọng tội.
‘Ðấu’ là đấu tranh, ‘loạn’ là lầm lạc, trái nghịch. Do vậy, ‘đấu loạn Tăng chúng’ chính là tội ‘phá hòa hợp Tăng’ trong ngũ nghịch. Ðối với Tăng chúng hòa hợp tu hành đúng theo Phật pháp lại dùng thủ đoạn để ly gián, khiến họ tranh chấp, rối loạn, khiến pháp sự bị phế bỏ thì gọi là ‘phá hòa hợp Tăng’.
Kinh A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch dạy: ‘Có năm tội nghịch nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ phạm những tội này thì không thể cứu được, ắt nhập địa ngục, chẳng còn nghi gì nữa. Những gì là năm? Tức là giết cha, giết mẹ, hại A La Hán, đấu loạn Tăng chúng, khởi ác ý đối với đức Như Lai’.
Năm thứ ấy chính là ngũ vô gián nghiệp, chiêu cảm khổ quả trong địa ngục Vô Gián. Trên đây là nói về lỗi ác của sân và si.
Từ chữ ‘ngu si, mông muội’ trở đi là nói về những sự đau khổ phát sanh từ si ác. ‘Mông muội’ là vô tri. Ngu si, vô tri lại ‘tự cậy trí huệ’, tự cho mình là đúng thì thật là ngu si đến cùng cực!
Lại do vì ngu si nên chẳng tin nhân quả ba đời; thế nên chẳng biết đời này sanh từ đâu đến, cũng chẳng biết chết đi sẽ sanh về đâu? Chẳng hiểu rõ nhân quả, chẳng tin luân hồi, chẳng biết lợi tha, chỉ toan tự lợi nên đối xử với người khác toàn là ‘bất nhân, chẳng thuận’ (Trang Tử nói: “Yêu người, làm lợi cho người là Nhân”. ‘Thuận’ là hòa thuận). Do chỉ biết tự lợi nên ‘hy vọng trường sanh’. Con người thế ấy tâm ngu, hạnh kém, tuy ‘từ tâm răn dạy mà chẳng chịu tin, rát miệng bảo ban vẫn chẳng ích gì cho người đó’. Bởi vì kẻ si như thế tấm lòng đóng chặt, dẫu nghe lời hay cũng chẳng thể lãnh hội, hiểu nổi. Rõ ràng là do si độc chiêu cảm nỗi đau khổ. Vì thế, Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Hiện có ngu si, ám chướng che lấp cái tâm, chẳng hiểu biết gì. Bởi vậy, đó là đau khổ’. Nghĩa là: do ngu si che lấp cái tâm nên vô tri, mông muội; đấy thật là nỗi đau lớn lao của kiếp người.
Ngài Nghĩa Tịch giảng chữ ‘đại mạng’ trong câu ‘đại mạng sắp dứt, hối, sợ rối bời’ như sau: ‘Sanh tử là đại mạng, cùng quẫn là tiểu mạng’.
Ngài Vọng Tây giảng chữ ‘hối, sợ’ như sau: ‘Hối sợ là lúc mạng sắp dứt, lửa địa ngục hiện tiền. Lúc thấy tướng ấy, sanh lòng hoảng sợ, hối hận. Hối hận chen lẫn hoảng sợ nên bảo là “rối bời”. Lửa địa ngục bức bách thân là thiêu. Người ta nếu chẳng nhân lúc còn sống tu sẵn việc lành từ trước, để đến lúc lâm chung mới hối hận thì đã trễ; hối hận cũng chẳng làm gì được!


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tiếp nối, thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho. Người lành làm lành từ vui vào vui, từ chỗ sáng vào chỗ sáng. Kẻ ác làm ác từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối. Ai biết được thế? Chỉ Phật biết nổi mà thôi! Dạy bảo khai thị, kẻ tin hành theo thì ít. Sanh tử chẳng ngơi, ác đạo bất tuyệt. Thế nhân như vậy khó thể hết sạch. Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó đời đời kiếp kiếp, chẳng có kỳ ra, khó được giải thoát, đau đớn chẳng nói nổi!


Giải:
Ðoạn này tổng kết năm sự ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘trong vòng trời đất, ngũ đạo phân minh’ như sau: ‘Trời đất là sở y thế giới khí thế gian, [chữ trời đất] chỉ chung cả ba cõi. Ngũ đạo là năng y hữu tình, chỉ chung cả đường lành lẫn nẻo ác. Nhân quả khổ vui ai cũng thường thấy nên bảo là phân minh’. Ngài Nghĩa Tịch lại nói: ‘Trong vòng trời đất, sanh tử trong năm đường, nhân quả phân minh’, ý nói: Hễ có nhân ắt có quả. Nghiệp nhân như thế thì quả báo như thế, chẳng sai một mảy.
‘Thiện ác báo ứng’: Sách Tiên Chú giảng chữ ‘báo ứng’ như sau: ‘Có làm ắt có báo, có cảm ắt có ứng’. Như vậy, họa phước gặp phải trong hiện tại đều là báo ứng của túc nhân.
Sách Hội Sớ nói: ‘Thiện ác thuộc về nhân; họa phước thuộc về quả. Nhân có thiện ác, quả cảm khổ vui. Bóng theo hình, tiếng vọng theo âm thanh, chẳng sai tơ tóc’. Bóng ắt theo hình, tiếng vọng vang ra từ âm thanh không sai mảy may; nghiệp nhân, quả báo cũng giống như thế.
‘Họa phước tiếp nối’: Nghiệp nhân đời trước có thiện ác lẫn lộn nên đời sau thọ báo thì hoặc là trước vui sau khổ, hoặc là trước khổ sau vui. Khổ vui tiếp nối, họa phước thay phiên nhau nên bảo là ‘họa phước tiếp nối’. Làm lành được phước, tạo ác mắc họa, đều là tự mình làm tự mình chịu nên bảo là ‘thân phải tự lãnh, chẳng ai thế cho’.
Tổng hợp ý kiến của ngài Nghĩa Tịch và tác giả sách Hội Sớ, các câu từ chữ ‘người lành làm lành’ đến ‘từ chỗ tối vào chỗ tối’ được hiểu như sau:
Người lành là người gieo cái nhân lành; đời sau sanh trong nhà tôn quý, thân hình đoan chánh, duyên cảnh hòa mỹ, thân tâm sướng vui; đó là ‘vui’. Người ấy lại còn sáng suốt, thông đạt, ưa điều thiện, thích bố thí; ấy là ‘minh’. Nếu người ấy lại làm nhiều thiện nghiệp, siêng tu phước huệ thì được sanh lên trời. Hay hơn nữa là niệm Phật cầu sanh Tây phương v.v… Ấy là ‘từ chỗ sáng vào chỗ sáng’.
Còn kẻ ác tạo ác nghiệp, gieo nhân ác, chịu quả ác. Vì thế sanh trong nhà ty tiện, hình dung khô kháo, cả đói lẫn rách bức não thân tâm; ấy là khổ. Lại còn ngu muội, vô tri, chẳng tin chánh pháp, chẳng làm việc lành; ấy là ‘tối’. Thảng hoặc còn làm nhiều ác nghiệp, chết đọa ác đạo, nên bảo: ‘Từ khổ vào khổ, từ tối vào nơi tối’.
Tiếp đó, kinh dạy rõ lý nhân quả sanh tử trong sáu đường như thế rất u huyền; cả chín mươi lăm phái ngoại đạo chẳng thể biết được nổi, chỉ mình đức Thế Tôn ta biết được căn nguyên nên nói: ‘Chỉ Phật biết nổi mà thôi!’ Phật rủ lòng giáo hóa, mở bày sự chơn thật, nhưng chúng sanh ngu si, chẳng tin theo, chẳng hành theo. Bởi vậy, Phật nói: ‘Kẻ tin, hành theo thì ít’. Do đó, thế gian ‘sanh tử
chẳng ngơi, ác đạo bất tuyệt’. Thế nhân chẳng tin lời Phật dạy răn cứ làm ác không thôi. Các câu tiếp đó như: ‘Bởi vậy, tự nhiên có tam đồ…’ nghĩa đã quá rõ.

Chánh kinh:
Năm điều ác, năm sự đau đớn, năm sự đốt như thế ví như lửa lớn thiêu đốt thân người. Nếu có thể tự ở trong ấy, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, lời nói phù hợp với việc làm, việc làm chí thành, chỉ làm các điều thiện, chẳng làm các điều ác, thân riêng được độ thoát, đạt được phước đức, đạt được cái đạo Nê Hoàn trường thọ, thì là năm điều đại thiện vậy.


Giải:
Ðoạn cuối của phẩm kinh này khuyên chuyển đổi năm điều ác thành năm điều thiện.
Câu ‘ví như lửa lớn thiêu đốt thân người’ là dùng lửa lớn ví cho năm điều ác. Nếu ai có thể trong năm thứ đau đớn, năm thứ thiêu đốt ấy mà chuyên nhất tâm mình, chế ngự, ngăn dứt ba điều ác trong ý nghiệp, đoan thân chánh tâm, lời nói đi đôi với việc làm, thành thật chẳng dối, chẳng làm các điều ác thì sẽ được các phước, thoát khỏi sanh tử. Sách Hội Sớ nói: ‘Khởi hạnh đúng với lời nói, dùng hạnh để thực hiện lời nói thì gọi là “lời nói phù hợp với việc làm”.
‘Trường thọ’ là trường sanh. Thế gian nào có sự trường sanh, chỉ có chứng được đạo vô thượng thì mới bất sanh bất diệt. Vì vậy, lìa được sự sanh tử của thế gian mới đúng là trường sanh thật sự.
‘Nê Hoàn’ chính là Niết Bàn, là quả của sự chứng ngộ trọn vẹn ba đức. Nói riêng trong Tịnh tông thì Niết Bàn chính là Cứu Cánh Tịch Quang. Sự lành như thế gọi là ‘đại thiện’.
Phẩm này giảng rộng về nhân quả thiện ác. Phước ‘tin sâu nhân quả’ trong ba thứ phước được giảng trong Quán kinh cũng chỉ giống như lời khuyên ở đây mà thôi. Thế nhân ngu si, chẳng trọng nhân quả, hoặc có kẻ còn vọng ngôn bài bác không có nhân quả, chống báng lời Phật răn dạy.
Bản Ngô dịch còn viết: ‘Những người muốn được sanh về cõi Phật A Di Ðà nếu chẳng thể đại tinh tấn, thiền định, trì kinh giới thì phải dũng mãnh làm lành’. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: ‘Thập Thiện vốn là nghiệp để sanh cõi trời, nay do nhân
duyên niệm Phật hồi hướng Cực Lạc, tức là chuyển nghiệp sanh cõi trời thành Tịnh nghiệp. Vì sao vậy? Người niệm Phật còn chuyển được nghiệp ác, lẽ nào chẳng chuyển được nghiệp sanh cõi trời?’ Vì thế, người tu Tịnh nghiệp phải tận hết sức mình hành thêm các điều thiện.
Như ta thường nghe nói ‘đới nghiệp vãng sanh’ thì cái nghiệp ấy chính là túc nghiệp. Những ác nghiệp trong những đời trước chưa tiêu hết hoàn toàn, nhưng do bổn nguyện của Phật và diệu đức của việc trì danh nên được đới nghiệp vãng sanh, chẳng lọt vào đường ác nữa (nguyện thứ hai của Phật A Di Ðà là: ‘Sanh vào cõi ta, được ta giáo hóa… chẳng đọa vào trong đường ác nữa’). Như vậy, cái nghiệp được nói trong ‘đới nghiệp’ chính là túc nghiệp, chứ quyết chẳng phải là cái nghiệp hiện hành. Như trong kinh Niết Bàn có nói: người đồ tể tên Quảng Ngạch buông con dao mổ xuống thì ngay lập tức thành Phật; ta thấy rằng để thành Phật thì phải buông bỏ được con dao mổ. Nếu kẻ tu Tịnh Ðộ một mặt niệm Phật, mặt khác lại làm ác; cứ tu Tịnh kiểu đó thì quyết định chẳng vãng sanh nổi!
Lại có kẻ cho rằng làm lành là thuộc về Nhân Thiên thừa nên coi thường. Ðời Ðường, ngài Ô Sào thiền sư dùng cách thổi sợi lông trên vải để dạy đệ tử là Hội Thông, đệ tử liền ngộ nhập. Ngài dùng bài kệ ‘Ðừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành’ để dạy ông Bạch Cư Dị. Ông Bạch bảo: ‘Hai câu ấy thì đứa nhỏ ba tuổi cũng nói được’. Ngài Ô Sào bảo: ‘Ông lão tám mươi làm điều đó còn chẳng xong’.
Ông Bạch Cư Dị nghĩ hai câu ấy là cạn cợt, coi việc thổi lông trên tấm vải mới là sâu xa. Ô Sào thiền sư coi hai việc ấy bình đẳng như nhau. Một kẻ mê, một người ngộ, xa cách nhau một trời một vực. Nếu là người căn cơ viên đốn thì pháp nào cũng viên cả. Nhân thiên thừa chính là Nhất Phật thừa, lẽ đâu coi thường ư?
Ðiểm mầu nhiệm của Tịnh tông là ở chỗ chiếu chơn đạt tục. Nếu rộng hành các điều lành thì chẳng những tạo phước cho xã hội hiện tại mà còn là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp nữa. Lại thêm tín nguyện sâu chắc, trì danh hiệu Phật thì kiêm cả tự
lợi lẫn lợi tha, thường vui sướng vô cực.
Hơn nữa, phẩm này giảng rộng về đời trược ác khổ, tuy chỉ giảng bày về mặt sự tướng, nhưng thật đã hiển bày trọn vẹn Nhất Tâm. Tâm nhơ uế ắt cõi nhơ uế, tâm ác ắt sanh trong đường ác. Không thứ nào chẳng do tự tâm biến hiện. Kinh đã giảng rõ hai cõi tịnh uế để ta biết mà ưa thích hay chán nhàm. Sách Di Ðà Yếu Giải viết: ‘Sa Bà chính là do cái nhơ bẩn trong tâm mình cảm thành, lý ưng phải chán lìa những cái nhơ uế trong tâm mình; Cực Lạc chính là những
cái thanh tịnh trong tâm mình cảm thành, lý ưng phải vui cầu những cái thanh tịnh trong tâm mình. Ðã chán uế thì phải bỏ đến rốt ráo không còn gì để bỏ nữa; ưa tịnh thì phải lấy cho đến rốt ráo không còn gì để lấy được nữa.
Sách Diệu Tông nói: “Lấy và bỏ nếu đạt đến cùng cực thì cũng hoàn toàn chẳng khác gì với không lấy bỏ”. Giả sử chẳng từ Sự để lấy bỏ, lại toan chẳng lấy, chẳng bỏ thì chính là chấp Lý phế Sự. Ðã bỏ Sự thì Lý cũng chẳng trọn vẹn. Nếu thấu hiểu toàn Sự là chơn thì lấy cũng là Lý mà bỏ cũng là Lý. Một lấy, một bỏ không gì chẳng phải là pháp giới’. Thuyết của sách Yếu Giải sự lý viên dung, khế hợp khéo léo với Trung Ðạo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

36. Trùng trùng hối miễn (bao lượt khuyên lơn)
Trong phẩm này, vì chiết phục chúng sanh ác nghiệp nên đức Phật lại chỉ bày, khuyên lơn. Trước hết ngài giảng rõ về nhân ác quả ác để chúng sanh biết mà kiêng sợ. Cuối phẩm, ngài lại khuyên nên đoan chánh thân tâm, chẳng quên công phu để khỏi phải hối hận.

Chánh kinh:
Phật bảo Di Lặc:
- Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là trong đời này trước hết bị bịnh tật, tai ương, sống chết không xong, để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau, thảm não, tàn khốc, tự nung đốt thân.


Giải:
Ðoạn kinh này nói về cái họa do ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu sanh ra.
Gia Tường Sớ giảng: “Xoay chuyển sanh lẫn nhau” là ba độc. Chẳng trừ ác thì ác chẳng tuyệt, khổ quả chẳng dứt’. Sách Hội Sớ lại giảng: ‘Năm ác là nhân, nhọc khổ là quả. Dùng quả để răn nhân.
“Sanh lẫn nhau” là đời này bị đau khổ, đời sau bị thiêu đốt; điều này làm cái nhân để sanh ra điều kia vậy’.
Cả hai thuyết cùng nói đến ‘sanh lẫn nhau’ nhưng chưa giảng rõ chữ ‘xoay vần’. Các vị Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng và Vọng Tây giảng rõ chữ ‘xoay vần’.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Trước hết nói rõ điều ác sanh ra nỗi đau khổ và thiêu đốt. Tiếp đó là từ thiêu đốt sanh ra điều ác và đau khổ’.
Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Trước hết, nói từ ác sanh đau đớn, sanh ra thiêu đốt. Tiếp đó, nói từ thiêu đốt sanh ra ác, sanh ra đau’.
Ngài Cảnh Hưng cũng giảng giống như thế, nghĩa là: ác, đau khổ và thiêu đốt lần lượt sanh lẫn nhau. Ðiều ác sanh ra nỗi đau đớn, thiêu đốt nên phải sanh trong ác đạo. Nhưng chúng sanh trong ác đạo ba độc quá nặng nên từ sự thiêu đốt ấy lại sanh ra các nỗi ác khổ, đau đớn như gà đẻ ra trứng, trứng lại nở ra gà. Cái này, cái kia lần lượt sanh ra nhau không lúc nào ngớt.
Bởi thế, tiếp đó kinh chép: ‘Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy’. ‘Những điều ấy’ chính là những điều ác. Kẻ dám phạm vào những điều ác ắt sẽ mãi mãi lăn lóc trong nẻo ác nên kinh dạy: ‘Sẽ trải thân trong đường ác’. ‘Trải’ là trải qua, ‘đường ác’ chính cái quả do việc ác chiêu cảm. Bởi thế, kinh nêu lên tướng trạng của quả để răn đe chúng sanh ngõ hầu họ dứt bỏ nhân ác.
Các câu từ ‘hoặc trong đời này’ cho đến ‘để làm gương cho chúng’ là nói về năm sự đau; đấy chỉ là hoa báo trong đời hiện tại. ‘Bị’ là lãnh chịu; ‘bịnh’ là tật bịnh, ‘ương’ là tai họa như thủy tai, hỏa tai, hình phạt v.v... Kẻ làm ác ngay trong hiện đời thì hoặc bị bịnh nặng, hoặc mắc phải tai vạ, mong sống chẳng được, cầu chết không nổi. Sầu khổ muôn mối chẳng thoát khỏi được! Bởi thế, Phật nói: ‘Sống chết không xong’.
Tiếp đó, kinh nói: ‘Ðể làm gương cho kẻ khác’ là chỉ rõ quả ác này để khiến cho tất cả đại chúng đều được thấy rõ mà biết rằng nhân quả chẳng dối, sanh lòng kiêng sợ.
Tiếp đó, kinh chép: ‘Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác’, đó chính là quả báo, tức là năm sự đốt vậy. ‘Sầu đau’ là lo buồn, đau đớn.
Khốc độc’ (tạm dịch là ‘thảm não, tàn khốc’) là nỗi đau đớn thảm thiết nhất. Chữ ‘nung đốt’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Nung đốt là dáng vẻ dữ dội của ngọn lửa địa ngục. Chữ “tự” nghĩa là do nghiệp của chính mình chiêu cảm’. Bởi thế, kinh chép là ‘tự nung đốt thân’.

Chánh kinh:
Cùng với oan gia lại sát hại, tổn thương lẫn nhau. Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội.


Giải:
Tịnh Ảnh Sớ cho rằng cả đoạn trên này là để nói rõ ý nghĩa ‘tự nung đốt thân’.
Ngài Vọng Tây cho rằng ‘lại sát hại, tổn thương lẫn nhau’ chính là ‘điều ác thiêu đốt chúng sanh, giết hại chúng sanh’. Trong trận lửa địa ngục, kẻ ác vì đau đớn quá mức nên nổi sân, đâm ra tàn sát, đả thương lẫn nhau. Ðó chính là trong khi bị thiêu đốt lại gây thêm tội ác, kết thành oán cừu nên bảo là ‘oan gia’. Cứ đòi nợ lẫn nhau, Giáp giết Ất, Ất lại giết Giáp nên bảo là ‘giết hại, tổn thương lẫn nhau’.
Từ bé xé ra to, càng lúc càng phiền toái, càng khốc liệt, chẳng lúc nào hết nên bảo là: ‘Bắt đầu từ chút việc nhỏ nhặt trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. ‘Dữ dội’ là quá mức, kịch liệt, là nhiều, là tăng thêm. Làm ác chẳng thôi nên khổ càng tăng thêm chẳng ngừng, trở thành cái nhân lớn lao, khiến cái họa càng thêm sâu nên bảo là ‘trở thành cái nhân lớn lao dữ dội’. Bản Ngụy dịch chép là: ‘Lâu ngày thành lớn lao quá mức’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Thân chịu lao khổ, khổ tăng thêm chẳng ngớt nên gọi là lâu ngày thành lớn lao quá mức’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Ðều do tham đắm tài sắc, chẳng chịu bố thí. Ai nấy chỉ muốn tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng. Bị si dục bức bách nên hậu đãi mình, tranh lợi, phú quý, vinh hoa; cốt khoái ý ngay trong lúc ấy, chẳng nhẫn nhục nổi, chẳng chăm tu thiện. Oai thế chẳng lâu đã bị mòn diệt. Ðạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ. Bơ vơ, bồn chồn, sẽ vào trong đó. Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!


Giải:
Ðoạn kinh này nói về cái nhân ác là ba độc rồi lại răn dạy.
Ðều do tham đắm tài sắc’: Cầu được nhiều chẳng chán là ‘tham’, tâm tham kiên cố là ‘đắm’.
Kinh Bảo Tích dạy: ‘Tà niệm sanh ra tham đắm, tham đắm sanh ra phiền não’. Trong chữ ‘tài sắc’ thì tài chỉ tiền tài, của cải; sắc là sắc tình, tức là tình ái nam nữ. Gia Tường Sớ giảng: ‘Hoặc là tham tài hay tham xác thịt’. Sách còn viết: ‘Từ câu “đều do tham đắm” trở đi nói đến tội lỗi của ba ác. Tham đắm vinh hoa, tham đắm cái vui hiện tại nên tạo ác’.
‘Chẳng chịu bố thí’ là chẳng chịu đem tài vật ban bố cho người. Sách Hội Sớ viết: ‘Tham dục tuy nhiều nhưng tài sắc là lớn nhất nên kinh đặc biệt nêu lên. Chẳng thể bố thí là tướng trạng của lòng keo kiệt’.
‘Ai nấy chỉ biết tự khoái, chẳng còn biết đến cong vạy hay ngay thẳng’ là chỉ cầu tự lợi để thỏa mãn tấm lòng, chẳng cần biết đến đúng sai, cong vạy hay chất trực. ‘
Bị si dục bức bách’: cội gốc của cái tâm tham dục chính là si nên bảo là ‘si dục’. Kinh Di Giáo chép: ‘Nếu có trí huệ thì chẳng tham đắm’. Vì thế, trong đoạn kinh này chỉ nói đến hai cái ác si và tham, còn sân thì đã được đề cập trong đoạn kinh ở phần trên rồi.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘bức bách’ như sau: ‘Ái dục bức bách, thường nghĩ tưởng dục cảnh’.
Bởi đó mà tổn hại người khác để mình được lợi, chỉ ham ‘phú quý vinh hoa’, chỉ cầu khoái ý trong phút chốc, chẳng mong nhẫn nhục tu thiện, tích lũy phước báo cho mai sau. Nhưng oai thế nào còn mãi, phút chốc diệt mất.
‘Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử’ (tạm dịch: ‘Ðạo trời lồng lộng, tự nhiên tỏ rõ’): Thi là giương ra, ‘củ’ là chánh, là xem xét, là nêu ra cái sai. Cái lý tự nhiên, cái đạo pháp nhĩ (6) thì gọi là ‘thiên đạo’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Ðạo lý trong thiên hạ tự nhiên lập bày vì thế gọi là “thiên đạo thi trương”. Hễ tạo ác tất bày rõ ra nên gọi là “tự củ cử”. Sách Hội Sớ nói: ‘Nói “thiên đạo” là nói đến nhân quả báo ứng’. Sách còn viết: ‘Sự đã phát sanh thì theo đúng pháp mà cắt đứt. Sự chưa phát hiện thì quan sát kỹ, thì gọi là “củ cử”. Cử là chỉ bày’.
‘Bơ vơ’ là không nơi nương dựa. ‘Bồn chồn’ là tâm hoảng sợ chẳng yên, kinh hoàng, hoảng hốt.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘sẽ vào trong ấy’ như sau: “Bơ vơ” là tình cảnh đơn độc, một mình sống, mình mình chết. “Bồn chồn” là tâm động, kinh hoàng xen lẫn không xen hở. “Trong ấy” là trong năm đường”. Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: ‘Kẻ có tội sẽ phải đi về đó, không người bầu bạn nên bảo là bơ vơ, bồn chồn đi vào trong ấy’. Tiếp đó kinh nói: ‘Xưa nay như thế, đau đớn thay, đáng thương thay!’, ý nói: do tam độc tạo ra nhân ác thì nhất định phải chịu lấy ác quả đớn đau, thiêu đốt. Trên đây Phật răn điều ác, tiếp đó, Phật khuyên làm lành.

Chánh kinh:
Các ông được nghe lời kinh Phật thì phải suy nghĩ chín chắn, ai nấy tự nên giữ vững, trọn đời chẳng lười: tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái. Nên mong cứu đời, nhổ dứt cội rễ sanh tử và các ác thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ.
Các ông làm lành như thế nào thì sẽ là bậc nhất? Nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự đoan chánh cái thân. Tai, mắt, miệng, mũi đều tự đoan chánh. Thân, tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện. Chớ chạy theo dục vọng, chẳng phạm các ác. Ngôn từ, vẻ mặt nên hòa nhã, thân hạnh nên chuyên; cử động, ngó nhìn an định, thong thả. Làm việc bộp chộp để bị thua thiệt rồi sau hối hận. Làm việc chẳng thận trọng sẽ uổng mất công phu.


Giải:
Trong đoạn này, đức Như Lai khuyên tất cả những người nghe kinh nên chuyên ròng, siêng năng tu thiện.
Chữ ‘lời kinh Phật’ chỉ chung hết thảy pháp môn bỏ ác làm lành, bỏ trần cảnh hướng đến giác ngộ. Chữ này còn dùng để chỉ riêng ba kinh Tịnh Ðộ giảng về Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của Phật Di Ðà. Kinh bậc nhất trong ba kinh đó chính là kinh này. ‘Suy nghĩ chín chắn’ tức là ‘Nên mong cứu đời’ là tự độ, độ người, tự giác, giác tha, làm cho khắp hết thảy chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi hư vọng sanh tử.
‘Nhổ dứt cội gốc sanh tử và các ác’ là siêng tu Giới, Ðịnh, Huệ; dứt bặt tham, sân, si. Cội rễ của sự luân hồi sáu đường chính là tham dục. Biển khổ sanh tử chỉ nhờ trí mới vượt nổi. Dùng gươm trí huệ chặt đứt các phiền não: tham dục, vô minh v.v… chính là ‘nhổ dứt cội rễ sanh tử’. Có như vậy mới vĩnh viễn lìa khỏi cái khổ tam đồ. Hễ ác đã tận nghe xong phải suy nghĩ.
‘Giữ vững, chẳng lười’ là từ tư duy khởi lên tu hành. ‘Giữ vững’ là giữ đúng, phụng hành theo đúng lời dạy. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Giữ vững” là dẹp tà, giữ chánh’. Trọn hết đời này giữ đúng theo lời Phật dạy, chẳng hề biếng nhác nên bảo là ‘trọn đời chẳng lười’.
Ðối với câu ‘tôn thánh, kính thiện, nhân từ, bác ái’, ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Chữ “thánh” chỉ chung cả Phật lẫn Tăng. Thiện pháp dù là pháp thế gian hay xuất thế gian cũng đều là của báu vô thượng nên phải kính trọng. Ở đây, “thiện” là Tam Bảo. Nhân ái, từ bi cứu giúp tất cả mọi người nên bảo là “nhân từ, bác ái”, nghĩa là: bác ái giúp đỡ chúng sanh’ thì sự thiêu đốt, sự đau khổ cũng hết. Vì thế, kinh nói: ‘Thì sẽ lìa khỏi con đường tam đồ lo sợ, đau khổ’.
Tiếp đó, Phật khuyên nên đoan chánh thân tâm cho tương ứng với điều thiện. Thế Tôn chỉ thẳng cách làm lành bậc nhất.
‘Làm lành’ có thể hiểu thô thiển là làm việc lành, chứ xét theo Thật Ðế thì chính là ‘tâm này làm Phật’.
Nếu hiểu một cách thô thiển, câu ‘đoan chánh thân, tâm, tai, mắt, miệng, mũi’ nghĩa là thân tâm đoan chánh như là ‘điều phi lễ chẳng phi nhìn, việc phi lễ chẳng nghe’.
Phân tích ở mức độ sâu hơn thì ‘tai đều tự đoan chánh’ chính là pháp Nhĩ Căn Viên Thông “xoay trở lại nghe nơi tự tánh” của Quán Âm đại sĩ. Ðại Sĩ chẳng đuổi theo thanh trần mà xoay lại nghe nơi tự tánh; ấy chính là ‘đoan chánh nhĩ căn’.
Cứ thế suy rộng ra thì chẳng rong ruổi theo sắc trần, quay trở lại quan sát tự tánh chính là ‘đoan chánh con mắt’. Cứ như thế, cả sáu căn chẳng rong ruổi theo sáu trần, chiếu rạng nguồn tâm thì mới gọi là ‘đoan chánh’, thì mới là bậc nhất.
Tiếp đó, câu kinh: ‘Thân tâm khiết tịnh tương ưng với cái thiện’ cũng có hai nghĩa sâu cạn. Hiểu cạn cợt thì thân tâm ly cấu vô nhiễm, việc làm nơi thân, lời lẽ nơi miệng, sự suy nghĩ nơi ý đều lành cả. Hiểu sâu hơn thì Thỉ Giác Trí khế hợp khéo léo với Bổn Giác Lý mới là ‘tương ưng với cái thiện’.
Nhưng ta phải biết một cách đúng đắn rằng: xét đến rốt ráo điều thiện bậc nhất này chẳng ngoài ‘chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành’.
Trong Tịnh tông, điều thiện bậc nhất chính là pháp môn Niệm Phật của Ðại Thế Chí Pháp Vương Tử: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’. Một tiếng Phật hiệu nhiếp trọn sáu căn nên sáu căn đều đoan chánh như Linh Phong đại sư từng bảo: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành tâm Phật’. Tâm đã là Phật thì tự nhiên sáu căn đều là Phật. Bởi thế mới bảo là: ‘Tai, mắt, mũi, miệng thảy đều tự đoan chánh’. Tự đoan chánh là do một tiếng Phật hiệu khiến cả sáu căn đều tự nhiên đoan chánh, tự nhiên ‘thân tâm khiết tịnh, tương ưng với điều thiện’. Ðiều thiện ở đây chính là ‘tâm này là Phật’.
Cuối phẩm này, Phật lại khuyên răn nên bỏ lòng dục, dứt điều ác, an hòa, chuyên tinh, thành thật. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển 7 giảng chữ ‘dục’ như sau: ‘Nhiễm ái trần cảnh thì gọi là dục’. ‘Trần’ là năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm trần này có khả năng phát khởi lòng tham dục của con người nên được gọi là ‘ngũ dục’. Trí Ðộ Luận viết: ‘Ngũ dục còn gọi là ngũ tiễn (năm mũi tên) vì chúng phá hoại các thiện sự’. Vì thế, đức Thế Tôn khuyên răn chúng sanh ‘chớ ham cầu dục vọng’.
Vả nữa, trong các món dục, dâm dục là độc hại nhất nên Phật buộc người xuất gia chú trọng đoạn dâm. Nếu có thể ly dục thì ‘chẳng phạm các điều ác’. Ðây chính là lời khuyên tha thiết ‘đừng làm các điều ác’.
Ngôn ngữ hòa nhã chính là Ái Ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp; vẻ mặt hòa nhã chính là dùng từ quang chiếu soi người khác.
‘Thân hạnh’ là những việc do tự thân làm.
‘Chuyên’ là chuyên nhất, chuyên chú, chuyên ròng tinh tấn. ‘Nên chuyên’ là nên chuyên ròng tinh tấn hành đạo. Nếu nói theo kinh này thì ‘nên chuyên’ chính là nên một bề chuyên niệm.
‘Cử động’ tức là hành động. ‘Thong thả’ là từ từ, hòa hoãn. Vì thế, câu ‘cử động, ngó nhìn an định, thong thả’ nghĩa là nhất cử nhất động đều phải an tường, điềm tĩnh, thung dung, chẳng hấp tấp. Làm việc bộp chộp ắt sẽ bị thảm bại khiến phải hối hận về sau. Chẳng thận trọng, dè dặt trong việc làm thì bị ‘uổng mất công phu’. ‘Uổng’ là đánh mất, phí công. Chữ ‘công phu’ chỉ công phu tu trì.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.5 khách