Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Cùng nhau học hỏi những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

37. Như kẻ nghèo được của báu
Trong phẩm trước, đức Phật nói đến những điều ác khổ để chiết phục chúng sanh, khuyên răn chúng sanh bỏ ác; trong phẩm này, đức Phật nói đến những nhân quả lành để nhiếp thọ chúng sanh, khuyên lơn họ tinh tấn đi theo đường lành, dứt bỏ ác hạnh nhằm ‘nhổ dứt cái khổ sanh tử’, ‘đạt sự vui vô vi’.

Chánh kinh:
Các ông rộng trồng cội đức, đừng phạm đạo cấm, nhẫn nhục, tinh tấn, từ tâm, chuyên nhất, trai giới thanh tịnh trong một ngày một đêm thì hơn cả làm việc thiện suốt trăm năm nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ. Vì cớ sao vậy?
Cõi nước Phật ấy đều là do đức tích tụ, các sự lành [tụ họp], không có mảy may điều ác.
Ở cõi [Sa Bà] này, tu thập thiện trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác. Vì cớ sao vậy?
Các cõi Phật phương khác phước đức tự nhiên, không có chỗ để tạo ác. Chỉ có thế gian này thiện ít ác nhiều, uống khổ, ăn độc chưa hề yên nghỉ.


Giải:
‘Rộng trồng cội đức’: Theo Hội Sớ, chữ ‘cội đức’ có hai nghĩa:
a). Lục độ là gốc của hết thảy công đức nên gọi là cội đức.
b). Tuyển trạch bổn nguyện của Phật Di Ðà gộp thành quả đức sáu chữ hồng danh, đầy đủ vạn đức; đấy chính là gốc của mọi đức nên gọi là “cội đức”.
‘Trồng’ là vun bồi, bồi dưỡng. Ngài Vọng Tây giảng ‘đạo cấm’ là: ‘Vì Phật đạo nên cấm ngăn các ác thì gọi là đạo cấm’. Bởi thế, ‘chẳng phạm các đạo cấm’ chính là Giới độ trong lục độ. ‘Nhẫn nhục’ là Nhẫn độ. ‘Tinh tấn’ là Tấn độ.
Chữ ‘trai giới’ được ngài Vọng Tây giảng là: ‘Trai giới là Bát [Quan] Trai Giới nên mới bảo là một ngày một đêm v.v…’
Hơn cả làm lành suốt trăm năm nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ’ là như trong pháp hội Văn Thù Sư Lợi Thọ Ký trong kinh Bảo Tích có nói: ‘Nếu có chúng sanh ở trong cõi Phật ấy tu các phạm hạnh suốt cả ức trăm ngàn năm vẫn chẳng bằng ở trong thế giới Sa Bà này, chỉ trong khoảng thời gian khảy ngón tay khởi tâm từ bi đối với chúng sanh. Công đức người ấy đạt được còn nhiều hơn thế nữa.
Huống hồ là trong một ngày một đêm trụ trong tâm thanh tịnh’.
Kinh Tư Ích cũng dạy: ‘Như người ở cõi tịnh trì giới suốt một kiếp; người ở cõi này thực hành lòng từ trong khoảnh khắc vẫn là tối thắng’.
Kinh còn dạy: ‘Ta thấy trong những cõi Hỷ Lạc và cõi An Lạc không có khổ não, cũng không có danh từ khổ não. Trong những cõi ấy mà làm các công đức thì chẳng đáng kể là lạ. Ở chốn phiền não này mà nhẫn được sự chẳng thể nhẫn, lại còn dạy người khác pháp này thì phước ấy mới là tối thắng’.
Kinh Thiện Sanh cũng nói: ‘Lúc Phật Di Lặc xuất thế, thọ giới suốt trăm năm cũng chẳng bằng [thọ giới] một ngày một đêm trong cõi ta. Vì sao vậy? Trong thời của ta, chúng sanh có đủ cả năm thứ nhơ bẩn. Này thiện nam tử! Bát Trai Giới đây chính là con đường dẫn tới trang nghiêm vô thượng Bồ Ðề’.
Tôi dẫn nhiều kinh như trên nhằm chứng minh rằng trong cõi này, ngay trong khoảng ‘uống khổ, ăn độc, chưa từng yên nghỉ’ này mà hành nhân lại có thể trai giới thanh tịnh, nhẫn nhục, tinh tấn thì công đức của người ấy vượt xa những người khác trong các cõi Phật phương khác. Trong cõi này, tu hành dù ‘một ngày một đêm hơn cả làm lành suốt trăm năm trong cõi Phật Vô Lượng Thọ’,
‘trong mười ngày mười đêm hơn hẳn làm việc thiện suốt ngàn năm nơi các cõi Phật phương khác’.
Ngài Vọng Tây bảo ‘uống khổ, ăn độc’ là ‘uống nước bát khổ, lại ăn ba độc vị’.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sao, ngài Vọng Tây viết:
‘Hỏi: Nếu tu hành tại uế độ là thù thắng thì cứ tu trong cõi này, sao lại nguyện sanh Tịnh Ðộ?
Ðáp: Như sách Yếu Tập viết: “Kinh này chỉ nói về sự tu hành khó hay dễ, chứ chẳng giảng về thiện căn là thù thắng hay hèn kém. Ví như kẻ nghèo hèn thí được một tiền tuy đáng khen là hay, nhưng chẳng bao biện được các việc. Kẻ phú quý bỏ ra ngàn vàng tuy chẳng đáng gọi là hay, nhưng lại có thể hoàn tất muôn sự. Việc tu hành trong hai cõi cũng giống như thế”. Nếu muốn mau chóng
hoàn thành các việc thành Phật, lợi sanh thì phải chuyên cầu Tịnh Ðộ, lẽ nào lưu luyến uế độ, chẳng thành tựu nổi Phật đạo’.
Lại nữa, theo ngài Cảnh Hưng, ở cõi này tu trong một ngày đêm hơn hẳn làm lành cả trăm năm nơi Tây phương là vì ‘ở đây tu khó thành’. Ý nói: Trong cõi này, tấn tu rất khó; do khó làm nổi nên coi là quý. Còn như ở cõi kia thì chóng đắc Vô Thượng Bồ Ðề do ‘trong cõi kia, không lúc nào chẳng tu; còn cõi này lúc tu thiện lại ít nên [nói như vậy] chẳng mâu thuẫn nhau’. Xét ra, thuyết của ngài Cảnh Hưng càng thù thắng hơn nữa.

Chánh kinh:
Ta thương xót các ông, khổ tâm khuyên dụ, trao cho kinh pháp, [các ông] đều phải thọ trì, suy nghĩ lấy, đều phải phụng hành. Tôn ty, nam nữ, quyến thuộc, bằng hữu lần lượt dạy bảo nhau. Tự phải ước kiểm nhau, hòa thuận nghĩa lý, hoan lạc, từ hiếu. Nếu trót phạm lỗi liền tự hối lỗi, bỏ ác, hướng về điều lành. Sáng nghe, chiều đổi, phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu. Sửa đổi quá khứ, tu hành tương lai, rửa lòng, đổi hạnh; tự nhiên cảm giáng, sở nguyện ắt được.


Giải:
Thế Tôn mấy lượt khuyên lơn, chỉ mong đại chúng phụng trì kinh giới nên trong đoạn này trước hết Phật bảo: ‘Trao cho kinh pháp’, khuyên bảo chúng sanh thọ trì, tư duy, phụng hành đúng pháp. Sau đấy, Phật lại khuyên ‘phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu’.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘ta thương xót các ông khổ tâm khuyến dụ’ như sau: “Ta thương” là Như Lai đại từ, “các ông” là căn cơ được đức Phật rủ lòng thương. Năm thời giáo hóa, dạy cho bán giáo, mãn giáo nên bảo là “khổ tâm khuyến dụ”.
Ý nói: Như Lai đại từ thương xót các căn cơ, rát miệng xót lòng khai thị, dạy dỗ. Năm thời thuyết pháp nhằm thích ứng các căn cơ. Giáo pháp có bán (bán tự giáo) hay mãn (mãn tự giáo) nhưng đều là tùy duyên độ thoát nên mới bảo là ‘khổ tâm khuyến dụ, trao cho kinh pháp’.
Phật lại dạy rằng: Ðối với những kinh pháp đã được nghe như thế, đều phải nên ‘thọ trì, suy nghĩ’, ‘phụng hành’, ‘lần lượt dạy nhau’. ‘Phụng’ là tin kính, ‘hành’ là tu hành. Ðó là tự lợi. Ðối với các thân hữu liền ‘lần lượt dạy nhau’ chính là lợi tha.
‘Nếu chẳng thuyết pháp độ sanh thì chẳng báo nổi Phật ân’.
Tiếp đó, Phật lại khuyên ‘tự ước kiểm lẫn nhau, hòa thuận nghĩa lý, hoan lạc, từ hiếu’. ‘Ước kiểm’ cũng giống như ước liễm, tức là ‘nên tự đoan chánh cái tâm, nên tự đoan chánh cái thân’. ‘Hòa thuận nghĩa lý’ nghĩa là lời lẽ cùng cử chỉ đều vừa hòa theo nghĩa, vừa thuận với lý. Hòa theo nghĩa thì cử chỉ thích đáng. Thuận theo lý thì tự nhiên được đúng chừng mực.
‘Hoan’ là hoan hỷ; phần lớn cuối các kinh có câu ‘đều đại hoan hỷ’. ‘Lạc’ là an lạc. thường bảo ‘thượng từ hạ hiếu’, kinh cũng nói: ‘Ta thương xót các ông còn hơn cả cha mẹ nghĩ đến con’; đấy là đại từ. Chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, thệ nguyện cứu độ thì là đại hiếu.
Do đại bi nên khiến cho khắp tất cả được thoát khổ.
Do đại từ nên khiến tất cả được hưởng vui. Ấy chính là đại hạnh của Bồ Tát, mà cũng chính là ý nghĩa thật sự của ‘hoan lạc, từ hiếu’.
Thêm nữa, muốn ‘dạy bảo lẫn nhau’ thì trước hết phải dùng tứ nhiếp để lôi cuốn chúng sanh (tứ nhiếp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) cho nên ‘hoan lạc từ hiếu’ cũng chính là Tứ Nhiếp Pháp.
Từ câu ‘hễ trót phạm lỗi’ cho đến ‘rửa lòng, đổi hạnh’ đều khuyên phụng trì kinh giới. Phẩm này mang tên ‘Như kẻ nghèo được của báu’ nên câu ‘phụng trì kinh giới như kẻ nghèo được của báu’ chính là câu cốt lõi của phẩm này. Ðức Thế
Tôn tâm Từ đến tột bực nên ban lời dạy như thế.
Kẻ nghèo được của báu ắt diệt ngay các khổ, bởi đó hoan hỷ, vô ưu. Ở đây, Phật dùng của báu để ví diệu dụng của kinh giới. Hơn nữa, kẻ nghèo một khi có được của báu thì dốc trọn tánh mạng, tận lực gìn giữ, chẳng để mất đi. Ở đây, Phật khuyên hành nhân được lãnh thọ kinh giới thì phải tự khéo vâng giữ như bảo vệ đầu, mắt. Nếu lỡ khuyết phạm thì phải mau sám hối.
Bỏ ác, hướng về điều lành... Sửa đổi quá khứ, tu hành tương lai’ là bỏ những ác hạnh sai trái trong quá khứ, tu thiện nghiệp đúng đắn trong hiện tại. ‘Sáng nghe chiều đổi’ là thuận theo việc thiện, biết lỗi liền sửa đổi. ‘Rửa lòng’ chính là rửa sạch cấu nhơ trong tâm. ‘Ðổi hạnh’ (nguyên văn “dịch hạnh”): Dịch là biến dịch (thay đổi), nghĩa là dứt ác hướng thiện, bỏ tà theo chánh, hồi Tiểu hướng Ðại, bỏ cái hư ngụy, giữ lấy cái chơn thật. Ðược như thế thì ‘tự nhiên cảm giáng, sở nguyện liền được’, nghĩa là: tự nhiên cảm ứng, Phật lực ngầm gia hộ, có nguyện cầu chi đều được viên mãn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Phật đi đến đâu thì mọi người trong các quốc gia, thôn ấp, phường xóm, tụ lạc, không ai chẳng được ngài giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận, mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời, tai ương, tật dịch chẳng khởi, nước giàu dân yên, vũ khí [trở thành] vô dụng. Sùng đức, hưng nhân, chăm tu lễ nhượng. Nước không đạo tặc, chẳng có oan uổng, mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy đều được vừa lòng.


Giải:
Ðoạn kinh này nói lên từ đức vô lượng của Phật.
Câu ‘Phật đi đến đâu’ chỉ những chỗ Phật đã từng đi đến, mà cũng có nghĩa là những nơi được Phật pháp lưu truyền đến.
‘Quốc’ là quốc gia, ‘ấp’ là làng mạc. ‘Phường xóm’, nguyên văn là ‘khâu’. Chữ ‘khâu’ có hai nghĩa: Sách Hội Sớ bảo là núi gò; sách Chu Lễ bảo: ‘Bốn ấp là một khâu’. Như vậy, ‘khâu’ có nghĩa là nơi dân chúng tụ lại sanh sống. ‘Tụ lạc’ có nghĩa là thôn xóm. Ngài Vọng Tây bảo: ‘Làng nhỏ gọi là tụ’.
‘Quốc gia, thôn ấp, xóm phường, tụ lạc’, bất cứ nơi nào Phật đã đặt chân đến thì không ai là chẳng được nhận lãnh sự giáo hóa của Phật nên bảo là ‘không ai chẳng được ngài giáo hóa’.
Ðược nhận lãnh sự giáo hóa của Phật tất nhiên sẽ cảm ứng được những điều tốt lành. Bởi thế, ‘thiên hạ hòa thuận’ cho đến ‘ai nấy đều được vừa lòng’. ‘Thiên hạ hòa thuận’ là thế giới hòa bình, mọi xứ hòa hiếu với nhau.
Mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời’ là mưa hòa gió thuận, không có các thiên tai: hạn hán, lũ lụt, gió bão, mưa đá…
‘Tai ương, tật dịch chẳng khởi’: Tai là tai họa, ‘dịch’ là dịch lệ (bịnh dịch) nghĩa là không những không có các tai vạ: núi lở, động đất, biển trào, đất chìm… các nạn: nước, lửa, đao binh, mà cũng chẳng có các thứ ôn dịch lưu hành.
‘Nước giàu dân yên’ là quốc gia sung túc, sản xuất dồi dào, nhân dân an lạc.
‘Vũ khí trở thành vô dụng’ (nguyên văn “binh qua vô dụng”): “Binh” là đao binh, tức là những khí giới có mũi nhọn chế bằng kim loại; ‘qua’ là các loại kích có mũi bằng. Chữ ‘binh qua’ thường được dùng để chỉ chiến tranh. ‘Binh qua vô dụng’ nghĩa là: trong nước không có giặc cướp, phản nghịch; ngoài không bị nước khác xâm lấn nên có thể dẹp võ dụng văn, xếp vũ khí không dùng đến nữa.
‘Sùng đức hưng nhân’: Tôn sùng đạo đức gọi là ‘sùng đức’; phát triển chánh sách nhân từ thì gọi là ‘hưng nhân’.
Sách Hội Sớ giảng chữ ‘chăm tu lễ nhượng’ là: ‘Tôn ty có trật tự là Lễ, nhường nhịn người là Nhượng’. ‘Nhượng’ còn nghĩa là nhường bước, đưa cái tốt lành cho người, chẳng giành lấy về mình.
Nước không có đạo tặc’ là nhân dân đều tuân theo lẽ phải, vâng giữ pháp luật nên chẳng có trộm cướp.
‘Chẳng có oan uổng’ vì kẻ nắm giữ chức vị thì liêm minh công chánh, xét kỹ từng chi tiết nên chẳng phán án lầm.
‘Mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy đều được vừa lòng’: ỷ mạnh hiếp yếu chính là nguồn cội của mọi tai vạ trong thế gian. Nước hùng mạnh cậy vào quân lực hiếp đáp nước nhược tiểu, kẻ giàu cậy vào tiền của để bóc lột người nghèo, kẻ nắm giữ quyền bính thường dựa quyền thế để rúc rỉa nhân dân; còn không thì kẻ mạnh lại kết thành giặc cướp bức hại người lương thiện. Cậy đông hiếp đáp kẻ cô thế, cậy thế khinh người, rúc rỉa máu xương người khác để cốt ấm thân, tàn nước hại dân, không còn gì tệ hơn thế nữa. Bởi thế nguyện ‘mạnh chẳng hiếp yếu’, ai nấy ‘đều được vừa lòng’. Ðây, kia đều an, kẻ có người không chia sẻ cho nhau, chung sống hòa bình, nguyện thế giới đạt đến đại đồng.
Phật đi đến đâu, chỗ đó đều được hưởng những lợi ích như thế, đủ thấy từ lực của Phật khó suy nghĩ, khó bàn luận nổi!

Chánh kinh:
Ta thương xót các ông còn hơn cha mẹ nghĩ đến con. Ta trong đời này làm Phật, dùng cái thiện công kích cái ác, dẹp tan cái khổ sanh tử, khiến cho [các ông] đạt được năm đức, đạt cái vui vô vi.
[Sau khi] ta bát Nê Hoàn, kinh đạo dần dần diệt mất, nhân dân siểm ngụy lại làm các điều ác. Năm sự đốt, năm sự khổ càng về sau càng nặng thêm lên. Các ông phải lần lượt dạy lẫn nhau [tu hành] đúng theo kinh pháp của Phật, trọn chẳng được phạm.


Giải:
Trong đoạn này, do vì Phật pháp sẽ dần dần diệt mất, ngũ thiêu, ngũ thống sẽ chuyển thành dữ dội hơn nên Phật lại răn dạy chúng sanh bỏ ác tu thiện, phụng trì kinh pháp.
Câu ‘còn hơn cha mẹ nghĩ đến con’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Cha mẹ chỉ hạn cuộc trong một đời, còn Phật thì vô lượng kiếp. Cha mẹ chẳng bình đẳng, Phật thường bình đẳng. Cha mẹ chán ghét đứa con bất hiếu, Phật thương xót kẻ ác nghịch. Cha mẹ nuôi dưỡng sắc thân, Phật trưởng dưỡng nội tâm. Vì thế, bảo là “còn hơn”. Ý nói: Phật dùng lòng đại từ bình đẳng trong
vô lượng kiếp nuôi dưỡng huệ mạng của chúng ta, vượt xa khả năng của cha mẹ nên bảo là ‘còn hơn cha mẹ’.
Chữ ‘đời này’ chỉ đời ác ngũ trược. ‘Dùng cái thiện công kích cái ác’: Phật thuyết pháp lành giáo hóa chúng sanh, hàng phục những lỗi ác của họ để tiêu trừ năm điều đau đớn, để diệt năm sự đốt. Chữ ‘ác’ chỉ năm sự ác.
‘Năm đức’ chính là sự thiện. Làm cho hành năm điều thiện, bỏ năm điều ác, quay lưng với trần cảnh để trở về với giác ngộ, nhổ tận gốc cội khổ sanh tử của hữu tình để được sự thường lạc vô vi.
‘Bát Nê Hoàn’ nghĩa là “bát Niết Bàn”, dịch nghĩa là “nhập diệt”, “viên tịch”. Chánh pháp của Phật Thích Ca tồn tại năm trăm năm, Tượng pháp một ngàn năm, Mạt pháp một vạn năm. Khi cả ba thời gian này đã qua thì gọi ‘kinh pháp diệt hết’ như trong kinh Pháp Diệt Tận có nói kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt mất trước tiên, các kinh khác cũng dần dần diệt mất. Vào lúc đó, ‘nhân dân siểm ngụy’. Siểm là dua vạy, ‘ngụy’ là dối trá, lòng người dâm tà, giảo quyệt, dối trá nên ‘lại làm các điều ác’. Bởi vậy, sự đau đớn, sự thiêu đốt lại hừng hẫy nên bảo là ‘càng về sau càng nặng thêm lên’. Nghĩa là: từ Chánh pháp, Tượng pháp chuyển sang Mạt pháp, sự thiêu đốt và sự đau đớn càng thêm thảm khốc, càng lớn lao, càng dữ dội hơn. Vì thế Phật dạy ngài Di Lặc cùng hết thảy hội chúng phải nên ‘lần lượt dạy nhau’ tin nhận, phụng hành kinh pháp của Phật chẳng được sai phạm.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Di Lặc Bồ Tát chắp tay bạch Phật: ‘Thế nhân ác khổ đúng là như vậy, đúng là như vậy. Phật đều thương xót họ, độ thoát tất cả. Con vâng lãnh lời răn dạy ân cần của Phật, chẳng dám sai sót’.


Giải:
Di Lặc đại sĩ kính cẩn nhận lãnh lời răn dạy của Phật nên chắp tay kính tạ, khen ngợi Như Lai: Người đời ác khổ thật sâu như thế. Ðức Phật lòng từ bi vô lượng, đối với những kẻ hung ác cùng cực như thế dùng lòng đại từ bình đẳng ‘đều độ thoát’ cho. Di Lặc đại sĩ chính là đương cơ trong hàng Bồ Tát của kinh này nên ngài hiểu được chỗ bí yếu của bản kinh, liền nói: ‘Ðều độ thoát cho’.
Phẩm Quyết Chứng Cực Quả của kinh này có câu: ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc là đã sanh về, hoặc là sẽ sanh về thì đều sẽ trụ trong chánh định tụ, quyết định chứng A-nậu-đa-la tammiệu tam-bồ-đề’. Nghĩa là: Người hiện tại phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm thì tương lai sanh về Tây phương, nhưng ngay trong lúc này đã thuộc vào chánh định tụ.
Kinh A Di Ðà cũng dạy: ‘Nếu có kẻ đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi Phật A Di Ðà thì những người ấy đều được bất thoái chuyển nơi A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề’ nghĩa là: người hiện đang phát nguyện vãng sanh đều đã bất thoái chuyển nơi vô thượng Bồ Ðề. Bởi thế, ngài Di Lặc mới thưa là ‘đều độ thoát cho’.
Sách Di Ðà Yếu Giải viết: ‘Chẳng luận là chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hiểu hay chẳng hiểu, chỉ cần danh hiệu của Phật, danh hiệu của sáu phương Phật và tên kinh này một phen thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau, rốt ráo do
đấy mà được độ thoát. Giống như nghe tiếng cái trống có bôi thuốc độc thì xa hay gần đều chết cả. Ăn chút kim cang quyết định chẳng tiêu vậy’. Ðây cũng chính là ý chỉ ‘đều độ thoát cho’.
Sau cùng, Di Lặc đại sĩ lại bạch: ‘Vâng lãnh lời dạy ân cần của Phật, chẳng dám sai sót’. Ngài đã đại diện cho hết thảy hàm linh trong hiện tại, tương lai mà thưa lời ấy. Vì thế chúng ta ngày nay đều phải như lời Ðại Sĩ đã bạch: ‘Chẳng dám sai sót’.
Ông Bành Tế Thanh có nói: ‘Tịnh Ðộ là cõi chí thiện. Cầu sanh Tịnh Ðộ là công phu chí thiện. Chẳng thâm nhập pháp môn Tịnh Ðộ thì chẳng viên mãn nổi điều thiện, chẳng thể diệt sạch điều ác’. Vì vậy, chúng ta đều phải tuân lời Phật răn
dạy, tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Ðộ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

38. Lễ Phật hiện quang
Phẩm này nói rõ từ ân vô cực của bậc đạo sư hai cõi, gia bị hết thảy chúng hội khiến cho khắp tất cả được tận mắt thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc.
Gia Tường Sớ viết: ‘Hiện cõi nước khiến người ưa thích, hâm mộ. Tuy trước đó đã nghe giảng về cõi nước mầu nhiệm, nhưng chưa được chính mắt thấy. Bởi thế, ở đây Phật hiện cõi nước để tất cả đều hâm mộ mà tu hành’.
Ngài Nghĩa Tịch cũng bảo: ‘Từ đầu tới đây đã giảng về nhân quả, thân và cõi nước của Phật A Di Ðà, chúng hội đều được nghe, trí huệ thù thắng đã phát sanh, nhưng chưa tin hiểu hết: kẻ hạ căn trí huệ kém cỏi vẫn chưa quyết định. Hơn nữa, tai nghe chẳng bằng mắt thấy. Vì thế, tiếp đó A Di Ðà Phật lại ban thêm sức oai thần để đại chúng đây đều được thấy tận mắt những chuyện trong cõi ấy xong ắt sẽ tin tưởng rằng những điều đã nghe quyết định chẳng phải là
hư vọng. Lại muốn cho họ biết cõi ấy là Tịnh Ðộ trang nghiêm, ai nấy đều siêng tu hạnh nghiệp vãng sanh’.
Thêm nữa, chúng hội đương thời được thấy tận mắt thì chẳng phải riêng người được thấy khi ấy được lợi lạc mà còn để chứng tín cho kẻ được nghe pháp trong đời sau biết chắc thế giới Cực Lạc đích xác thật có, chứ phải đâu là cõi Ô Thác Bang (Utopia) hay là chuyện ngụ ngôn của Trang Sinh.
Do tin nên khởi hạnh, dùng nguyện để hướng dẫn hạnh, chí tâm tin ưa cầu sanh Cực Lạc, ắt đều được độ thoát. Ðấy mới là bổn hoài của bậc đạo sư hai cõi.

Chánh kinh:
Phật bảo A Nan:
- Các ông muốn thấy Phật Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác và các Bồ Tát, A La Hán v.v... đang ngự trong cõi ấy thì nên đứng dậy hướng về Tây là phía mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ, xưng niệm ‘Nam mô A Di Ðà Phật’.


Giải:
Bản Hán dịch ghi danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác, hoặc gọi tắt là Vô Lượng Thanh Tịnh Giác.
Hướng về Tây vì đức Phật ‘nhằm đáp ứng cái nguyện độ sanh nên hiện đang ở Tây phương’. Pháp môn Tịnh Ðộ chỉ phương lập hướng khiến chúng sanh chuyên nhất. Ðức Phật ấy hiện đang ở Tây phương nên đại chúng hướng về Tây.
‘Xưng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật’ là muốn thấy Phật thì phải niệm Phật. Ðức Phật mình thấy ấy chính là nhất niệm tâm tánh của người niệm: tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Lại do các đức Như Lai của hai cõi gia bị nên cảm ứng đạo giao, ngay trong khi niệm ấy liền được thấy.

Chánh kinh:
A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặt hướng về Tây, chắp tay, đảnh lễ bạch rằng: - Con nay nguyện thấy Cực Lạc thế giới, A Di Ðà Phật để cúng dường, phụng sự, trồng các thiện căn.
Trong khi ngài đảnh lễ chợt thấy A Di Ðà Phật dung nhan quảng đại, sắc tướng đoan nghiêm như tòa núi vàng ròng, cao vượt khỏi hết thảy các thế giới. Lại nghe chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới xưng dương, tán thán công đức của Phật A Di Ðà một cách vô ngại, vô gián.


Giải:
A Nan nghe lời dạy thì ngay khi đó ba nghiệp thanh tịnh, xưng danh hiệu Phật, đảnh lễ phát nguyện.
Chữ ‘chợt thấy’ biểu thị sự cảm ứng thần tốc. Ðảnh lễ chưa xong mắt đã thấy đấng giáo chủ cõi Cực Lạc và nghe các đức Như Lai khắp cả mười phương khen ngợi Phật Di Ðà.
Sách Hội Sớ viết: ‘Ðó là vì cõi nước không có tướng nhất định, tịnh hay uế là do tâm. Ví như chư thiên cùng dùng bát bằng chất báu để ăn như nhau, nhưng tùy theo phước đức mỗi vị mà sắc cơm sai khác. Bởi vậy, nếu nghiệp cấu che lấp cái tâm thì kim dung cũng như tro bẩn. Ngón chân nhấn xuống đất thì ngói, sạn biến thành bảo ngọc; thân và cõi cũng giống như vậy thôi! Bởi đó, biết là Tây
phương chẳng xa, nhưng do tâm mê nên liền thành xa cách. Nếu có thể nhất niệm quy chơn thì vãng sanh thấy được cõi nước, còn cách trở là niệm hay thời nữa ư?’
Lời sớ thật đã giảng tường tận ý chỉ ‘tâm tịnh, cõi nước tịnh’. Kinh Tịnh Danh nói: Phật dùng ngón chân nhấn xuống đất, cõi này biến ngay thành cõi tịnh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng chép: ‘Ngón chân của ta nhấn xuống đất thì hải ấn phát quang’.
Quang minh phát ra ấy nào phải vì ngón chân! A Nan thấy Phật chỉ là vì ngài đã trở về cái chơn thật trong một niệm. Lúc niệm Phật thì tâm này niệm Phật; lúc thấy Phật thì tâm này thấy Phật, chỉ là nhất tâm! Tâm ta, tâm Phật không hề cách trở dẫu chừng mảy may. Bởi đó, sách Hội Sớ mới viết: ‘Còn cách trở là niệm hay thời nữa ư?’ Chỉ là nhất tâm, không quá khứ, hiện tại, vị lai. Do đó, A Nan niệm Phật, lễ Phật liền thấy Phật A Di Ðà. Cũng bởi đó nếu lúc lâm chung mà hành giả có thể quy chơn trong một niệm thì cũng ắt sẽ ngay lúc đó thấy Phật, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Vì thế mới nói: ‘Lúc niệm Phật chính là lúc thấy Phật’, nào còn có sự ngăn cách với những niệm khác hay thời gian nữa đâu!
‘Nhan’ là diện mạo, ‘quảng đại’ là như Quán kinh nói Vô Lượng Thọ Phật ‘thân cao sáu mươi vạn ức hằng hà sa do tuần. Tướng lông trắng giữa chặn mày uyển chuyển xoay về bên phải như năm hòn núi Tu Di. Mắt Phật như bốn biển lớn’.
Sắc tướng đoan nghiêm’ là tướng hảo trang nghiêm. Quán kinh nói: ‘Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng; trong mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo; trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh’.
Tòa núi vàng ròng’ là như Quán kinh nói: ‘Sắc thân Vô Lượng Thọ Phật như trăm ngàn vạn ức vàng Diêm Phù Ðàn của cõi trời Dạ Ma’. Lại có nghĩa là thân Phật vòi vọi như núi nên bảo là ‘như tòa núi vàng ròng’.
Tuy A Nan và những người có cùng quả vị như ngài hay thấp hơn chẳng thể thấy trọn hết báo thân trang nghiêm như thế, nhưng do vì đấng Như Lai của hai cõi dùng phương tiện thù thắng oai thần gia bị, nên ai nấy tùy theo căn khí của mình đều được thấy cả. Bởi đó, A Nan liền thấy được Phật ‘như tòa núi vàng ròng, cao vượt khỏi hết thảy thế giới’.
‘Vô ngại, vô gián’: mười phương Như Lai dùng tứ biện tài nhiệm mầu để diễn nói nên bảo là vô ngại’. Ca ngợi như thế đến tột cùng đời vị lai chẳng hề gián đoạn nên bảo là ‘vô gián’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
A Nan bạch rằng: ‘Cõi tịnh của đức Phật ấy thật là chưa từng có. Con cũng nguyện thích sanh về cõi ấy’.
Ðức Thế Tôn bảo: ‘Người sanh trong cõi ấy đã từng thân cận vô lượng chư Phật, trồng các cội lành. Ông muốn sanh trong cõi đó thì phải nhất tâm quy y, chiêm ngưỡng’.


Giải:
A Nan đích thân thấy Phật Di Ðà như tòa núi vàng, đức tướng đoan nghiêm và các thứ thanh tịnh trang nghiêm nơi cõi ấy đều là những điều xưa nay mình chưa từng thấy nên thưa là: ‘Thật là chưa từng có’. Lại nghe mười phương Phật khen ngợi liền sanh tâm hy hữu, phát khởi đại nguyện, nguyện sanh Cực Lạc. Ðiểm này chứng tỏ rõ ngài A Nan đúng là đương cơ; ngài đã khế hội thánh tâm nên phát nguyện cầu sanh, bạch rằng: ‘Con cũng nguyện thích sanh về cõi ấy’.
Thế Tôn đáp: Những người được vãng sanh đều đã từng ở nơi vô lượng chư Phật thân cận cúng dường, phụng sự, học tập, rộng gieo cội đức đúng như kinh A Di Ðà nói: ‘Chẳng thể dùng chút thiện căn phước đức nhân duyên để được sanh về cõi ấy’. Ở đây, kinh chép:‘Ông muốn sanh về cõi ấy thì phải nhất tâm, quy y, chiêm ngưỡng’. ‘Chiêm’ là ngửa trông, ‘ngưỡng’ là ngưỡng mộ.
Câu ‘quy y, chiêm ngưỡng’ bao gồm các nghĩa: lễ Phật, quán Phật, niệm Phật, tưởng nhớ đức Phật, mà cũng chính là Ngũ Niệm Môn như Bồ Tát Thiên Thân đã đề xướng. Ngũ Niệm Môn là: một là lễ bái, hai là tán thán (xưng danh), ba là phát nguyện, bốn là quán sát, năm là hồi hướng. Nói tóm lại, nhất tâm xưng niệm sáu chữ hồng danh thì đã gồm trọn cả Ngũ Niệm Môn.

Nhất tâm là tâm thanh tịnh. Lại như bản kinh A Di Ðà khắc trên đá ở thành Tương Dương có câu: ‘Do xưng danh nên các tội tiêu diệt; đấy chính là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên’. Vì thế, A Nan nhất tâm quy y, chiêm ngưỡng thì chính là nhiều thiện căn phước đức nhân duyên, cũng giống như người được vãng sanh là do đã từng thân cận vô lượng chư Phật, trồng các cội đức nên mới được thỏa nguyện vãng sanh.

Chánh kinh:
Lúc nói lời ấy, A Di Ðà Phật liền từ bàn tay phóng ra vô lượng quang chiếu khắp hết thảy các thế giới Phật. Khi ấy, các cõi Phật đều hiện rõ như đều ở trong vòng một tầm. Do quang minh thù thắng của A Di Ðà Phật tột bậc thanh tịnh nên tất cả Hắc sơn, Tuyết Sơn, Kim Cang, Thiết Vy, các hòn núi lớn nhỏ, sông ngòi, rừng rậm, cung điện của trời người, hết thảy cảnh giới trong các thế giới ấy không đâu chẳng soi thấy. Ví như mặt trời mọc lên chiếu sáng ngời thế gian. Cho đến Nê Lê, khe, hang, chốn tối tăm thảy đều sáng bừng, đều cùng một màu như là kiếp thủy ngập tràn khắp thế giới, vạn vật trong ấy đều chìm lấp chẳng hiện; mênh mông, bát ngát chỉ thấy toàn là nước. Quang minh của đức Phật ấy cũng giống như thế. Hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát thảy đều bị ẩn lấp, chỉ có quang minh của Phật là sáng ngời, rực rỡ.


Giải:
Ðấng Ðạo Sư của cõi thế gian này vừa dứt lời thì đức Như Lai cõi kia liền từ lòng bàn tay phóng ra quang minh; điều này chứng tỏ: Thích Tôn khuyên vãng sanh, Phật Di Ðà tiếp dẫn. Hai đức Phật trong hai cõi đồng tâm, đồng đức.
Phật quang phổ chiếu hết thảy cõi Phật biểu thị Phật Di Ðà tiếp độ cho hết thảy phàm thánh đều vãng sanh. Do Phật quang gia trì, đại chúng trong hội đều được thấy mười phương cõi Phật như trong khoảng một tầm (một tầm là tám thước).
Quang minh của Phật Di Ðà tôn quý nhất trong các quang minh nên bảo là ‘thù thắng’. Sở dĩ quang minh thù thắng vì nó ‘tột bậc thanh tịnh’. Bởi thế, hết thảy núi sông, cảnh vật trong những thế giới ấy: Chẳng hạn như Hắc Sơn (còn gọi là
Hắc lãnh. Ðây là tên của một ngọn núi được ghi trong Tây Vực Ký và Từ Ân Truyện), Tuyết Sơn (tiếng Phạn là Hymalaya, tức là Hỷ Mã Lạp Nhã sơn, đảnh núi quanh năm tuyết đọng nên gọi là Tuyết Sơn); Kim Cang, Thiết Vy (đều là tên núi, xin xem lời giải thích trong phẩm mười một); hết thảy những thứ như thế ‘không đâu chẳng soi thấy’.
Tiếp đó, kinh nêu lên thí dụ: Mặt trời mọc thì tối tăm tiêu mất, chẳng luận là hang hốc hay ‘chốn tối tăm’ (chỉ chốn hang sâu cực tối tăm) và ‘cho đến Nê Lê’ (Nê Lê là địa ngục) đều được sáng bừng, hiện rõ nên bảo là ‘thảy đều sáng bừng’. Hết thảy mọi vật ‘đều đồng một sắc’. Theo Quán kinh, ‘một sắc’ chính là màu vàng ròng. Trong phép quán thứ bảy của Quán kinh có chép: ‘Vô Lượng Thọ Phật đứng trên không trung. Hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí đứng hầu hai bên. Quang minh rực rỡ chẳng thể thấy trọn. Sắc của trăm ngàn khối vàng Diêm Phù Ðàn chẳng thể sánh bằng’.
Trong pháp quán thứ tám cũng có nói: ‘Tượng Phật và Bồ Tát đều phóng quang minh. Quang minh ấy sắc vàng’. Pháp quán thứ mười lăm lại nói: ‘Thấy A Di Ðà Phật và các quyến thuộc phóng quang minh sắc vàng’. Lại như kinh Thất Phật Thần Chú đã dạy: ‘Trong ấy, hết thảy vạn vật đều thành sắc vàng’. Lại như kinh Pháp Hoa thuật: lúc Phật phóng quang hiện điềm lành ‘chiếu một vạn tám ngàn cõi nơi phương Ðông [khiến chúng] đều như sắc vàng’.
Hiểu ở một mức cao hơn, ‘nhất sắc’ ngụ ý: vạn pháp nhất như; trong diệu trí quang của Phật đều hiển hiện bản thể thanh tịnh, tướng sai biệt biến mất, chỉ còn tướng chơn thật hiển lộ. Bởi thế ‘đều đồng một sắc’.
Tiếp đó, kinh lại dùng kiếp thủy làm thí dụ. ‘Kiếp thủy’ là một trong tam tai; tức là đại thủy tai lúc kiếp hoại. Nước từ dưới thủy luân ở dưới mặt đất phun vọt lên, mưa tuôn xuống mỗi giọt to như bánh xe. Từ trời Ðệ Nhị Thiền trở xuống đều bị
nước ngập phá hủy hết. Chữ ‘mênh mông’ diễn tả nước lớn không còn biết đâu là bến bờ. Chữ ‘bát ngát’ hình dung nước lớn bao la. Bản Ðường dịch ghi là: ‘Ví như đại địa, trận hồng thủy ngập tràn, cây cối, núi sông đều bị vùi lấp chẳng hiện, chỉ toàn là nước lớn’. Nước lớn ví cho Phật quang, cây cối ví với ‘quang minh của hết thảy Thanh Văn, Bồ Tát’. Cũng như ánh sáng của các vì sao khi mặt trời mọc lên, các ánh sao chẳng hiện nên bảo là ‘thảy đều ẩn lấp; chỉ thấy Phật quang sáng ngời, rực rỡ’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Bốn chúng trong hội này, tám bộ trời, rồng, nhân, phi nhân v.v… đều thấy Cực Lạc thế giới các thứ trang nghiêm: A Di Ðà Phật ngự trên tòa cao, oai đức vòi vọi, tướng hảo, quang minh, Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh. Ví như núi chúa Tu Di nhô lên khỏi biển cả, rạng ngời chói lọi, thanh tịnh bình chánh, chẳng có tạp uế cùng các loài dị hình, chỉ trang nghiêm bằng các báu, là nơi các vị thánh cùng ở. A Nan và các hàng Bồ Tát đều đại hoan hỷ, hớn hở làm lễ, dập đầu sát đất xưng niệm: ‘Nam mô A Di Ðà Tam Miệu Tam Phật Ðà’.


Giải:
‘Bốn chúng trong hội’ là chúng đại tỳ kheo một vạn hai ngàn vị, năm trăm vị tỳ kheo ni, bảy ngàn thanh tín sĩ, năm trăm thanh tín nữ. Lại có Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, mười sáu vị Chánh Sĩ và vô lượng vô biên hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp.Từ các vị Phạm thiên cho đến ‘tám bộ trời rồng, nhân, phi nhân v.v…’ đều là hội chúng.
Câu ‘đều thấy Cực Lạc thế giới’ ý nói: mọi người dự hội đều được thấy. Tứ chúng đệ tử trong pháp hội cõi này gồm hai vạn người đều là thân huyết nhục mà ai ai cũng đều thấy thế giới Cực Lạc, họ đều là người chứng thực cho hết thảy chúng sanh trong lúc ấy và đời tương lai sau. Tướng lành thù thắng này được cả năm bản dịch cùng ghi chép.
Bản Hán dịch ghi: ‘A Nan, chư Bồ Tát, A La Hán v.v… và chư thiên, đế vương, nhân dân đều thấy Vô Lượng Thanh Tịnh Phật và các Bồ Tát, A La Hán, cõi nước thất bảo’. Bản Ngô dịch chép giống như thế, nhưng ghi là A Di Ðà thay vì Vô Lượng Thanh Tịnh Phật. Bản Ngụy dịch chép: ‘Vô Lượng Thọ Phật oai đức vòi vọi như núi chúa Tu Di, cao vượt khỏi hết thảy các thế giới; tướng hảo, quang minh không gì là chẳng chói ngời. Tứ chúng trong hội ấy cùng lúc đều được thấy’ và: ‘Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đều thấy Vô Lượng Thọ Như Lai’.
Bản Ðường dịch viết: ‘Trong các cõi ấy, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đều thấy Vô Lượng Thọ Như Lai như ngọn núi chúa Tu Di chiếu các cõi Phật. Khi ấy, các cõi Phật thảy đều hiện rõ như ở trong vòng một tầm’.
Bản Tống dịch chép: ‘Lúc ấy, bí xô, bí xô ni, ưu bà tắc, ưu bà di, trời, rồng, dược xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân, phi nhân v.v… trong hội đều thấy các thứ trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc và thấy Vô
Lượng Thọ Như Lai. Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh. Ví như ngọn núi chúa Tu Di, vượt lên trên biển cả’.
Năm bản dịch cùng đề cập thì đủ chứng tỏ việc Phật Di Ðà xuất hiện chứng tín là điều được nói trong bản kinh gốc chứ chẳng phải là do dịch thuật sai lầm.
Hội chúng khi ấy liền được thấy các thứ y báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc, lại thấy chánh báo là A Di Ðà Phật công đức vòi vọi, tướng hảo quang minh, thánh chúng vây quanh ‘ví như ngọn núi chúa Tu Di nhô lên khỏi biển cả’. Núi Tu Di nói đủ là Tu Di Lô (Sumeru) sơn vương, là một trong mười hòn núi chúa. Hòn núi này chẳng phải là núi đất hay núi đá như của thế gian mà thuần bằng bốn chất báu hợp thành nên bảo là ‘chẳng có tạp uế và các loài dị hình, chỉ trang nghiêm bằng các báu’.
Do‘Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh’ nên bảo là ‘các vị thánh cùng ở’.
A Nan và các hàng Bồ Tát v.v…’: A Nan là đương cơ nên được nêu tên đầu tiên; ‘các hàng Bồ Tát v.v…’ nghĩa là các vị Thanh Văn, trời, người v.v… được nhờ ân mà trông thấy điềm lành nên đều hoan hỷ, mừng rỡ. Ai nấy đều năm vóc gieo xuống đất, chí thành xưng niệm ‘Nam mô A Di Ðà Tam Miệu Tam Phật Ðà’. ‘Tam Miệu Tam Phật Ðà’, cựu dịch là Chánh Biến Tri, tân dịch là Ðẳng Chánh Giác, là danh hiệu thứ ba trong mười hiệu của Phật. Do đó, ‘Nam mô A Di Ðà Tam Miệu Tam Phật Ðà’ chính là sáu chữ hồng danh.

Chánh kinh:
Chư thiên, nhân dân cho đến những loài trùng ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn thấy quang minh ấy thì tất cả tật khổ không chi chẳng ngưng dứt, hết thảy ưu não không thứ gì chẳng giải thoát, đều từ tâm làm lành, hoan hỷ, khoái lạc. Chuông, khánh, cầm, sắt, không hầu, nhạc khí chẳng đánh tự nhiên phát ra ngũ âm. Chư thiên, nhân dân trong các cõi Phật đều cầm hương hoa đến trên hư không rải xuống cúng dường.


Giải:
Ðoạn kinh này lại trình bày những việc thành tựu do điều nguyện thứ mười bốn của Phật A Di Ðà: ‘Chạm phải quang minh được an lạc’. Trong lời nguyện ấy có câu: ‘Thấy quang minh của tôi chiếu vào thân không ai chẳng được an lạc, từ tâm làm lành’ tức là những điều được nói trong đoạn chánh kinh trên từ câu ‘thấy quang minh ấy’ cho đến ‘thảy đều từ tâm làm lành, hoan hỷ, khoái lạc’.
Phẩm Quang Minh Chiếu Khắp cũng chép: ‘Nếu kẻ ở trong chốn tam đồ khổ cực mà trông thấy quang minh này thì đều được ngơi nghỉ’. Bởi thế, ở đây kinh mới chép: ‘Các loài côn trùng bay lượn, ngọ nguậy, bò trườn thấy quang minh thì tất cả tật khổ không chi chẳng ngưng dứt, hết thảy ưu não không thứ gì chẳng giải thoát’. Các thứ nhạc khí như chuông, khánh, đàn cầm, đàn sắt, đàn không hầu (7) v.v… không cần phải khảy, đánh; tự nhiên phát ra âm thanh nên bảo là ‘chẳng đánh, tự nhiên phát ra ngũ âm’. Chư thiên trong mười phương đến rải hương, hoa là đều nhằm biểu thị sự khoái lạc thù thắng.
Do kinh đã chép tỉ mỉ các việc tốt lành: thấy Phật, thấy quang minh, thấy cõi nước v.v… nên ắt sẽ có kẻ cho đó là cái lỗi chấp tướng. Tiếc thay kẻ ấy chưa biết được điều mầu nhiệm của Tịnh tông: chính ngay nơi tướng là đạo, ngay nơi sự chính là chơn, nên chẳng cần phải bỏ tướng để cầu đạo, lìa sự để thấy chơn! Kinh này thuần là cảnh giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Một hoa, một hương không thứ gì chẳng phải là hạt châu nơi màng lưới của Thiên Ðế. Mỗi thứ đều viên minh, thứ nào cũng thắng diệu, thứ nào cũng đều là toàn thể của nhất chơn pháp giới, viên minh cụ đức chẳng thể nghĩ bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, thế giới Cực Lạc ở phương Tây cách đây trăm ngàn câu chi na do cõi nước, nhưng do oai lực của Phật nên giống như đối ngay trước mắt, như thiên nhãn trong sạch thấy trong vòng một tầm. Cõi đó thấy cõi này cũng giống như vậy: đều thấy thế giới Sa Bà, Thích Ca Như Lai và tỳ kheo chúng vây quanh thuyết pháp.


Giải:
Câu ‘ở phương Tây cách đây trăm ngàn câu chi na do tha cõi’ xin xem lại lời giải thích ở phần trước.
Cực Lạc chẳng lìa khỏi tự tâm là xét về Lý.
Ở phương Tây, cách đây trăm ngàn câu chi na do tha cõi’ là Sự. Lý, Sự vô ngại nên cách xa mười vạn ức chính là ở ngay trước mắt. Bởi vậy, Quán kinh nói: ‘Phật A Di Ðà cách đây chẳng xa’.
Hội chúng chơn thành nên cảm ứng Phật lực gia hộ, hai cõi tịnh uế thấy rõ nhau như đối trước mắt ‘như thiên nhãn trong sạch thấy trong vòng một tầm’. Thánh chúng cõi ấy đều thấy đấng Thích Tôn cõi này ở trong đại hội giảng kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác.
Kinh A Di Ðà nói pháp môn này là ‘pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi’. Chúng sanh đời Mạt pháp tình chấp sâu nặng, đối với diệu pháp tối cực viên đốn, Nhất Thừa liễu nghĩa, phương tiện rốt ráo này chẳng thể tin hiểu nổi, đâm ra phỉ báng.
Bởi thế, trong phẩm Lễ Phật Hiện Quang đây, hai vạn người trong thế giới này đích thân thấy Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm, đích thân nghe rằng A Di Ðà Phật hiện đang thuyết pháp, họ sẽ là người chứng thực khiến chúng sanh phát sanh chánh tín, ưa thích cầu vãng sanh, phát tâm Bồ Ðề, một bề chuyên niệm, đều đạt được bốn lợi ích tất đàn.
Nay tôi kính thuận thánh tâm, xin dẫn kèm thêm một số kinh để chứng tỏ Cực Lạc diệu hữu, ngõ hầu [người đọc] khỏi thiên chấp nơi Không.
a). Quán Kinh chép: ‘Vy Ðề Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, than là chưa từng có, hốt nhiên đại ngộ, đắc Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cõi ấy. Thế Tôn thọ ký họ đều sẽ vãng sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam muội’.
b). Kinh Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Ðịa Vô Lượng Ấn Pháp Môn chép: ‘Khi ấy, trong hội chúng của đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nơi thế giới Sa Bà, tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát (một vạn hai ngàn người), bí xô (hai vạn người), bí xô ni, ưu bà tắc, ưu bà di, Phạm Vương, Ðế Thích, Hộ Thế Tứ Vương và các chúng trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân,
phi nhân v.v… đều thấy thế giới Cực Lạc và thấy Vô Lượng Quang Như Lai, Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng vây quanh. Quang minh rực rỡ như núi Diệu Cao’.
c). Kinh Thập Vãng Sanh chép: ‘Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: “Ông nay nên
đứng dậy, chắp tay, hướng thẳng về phương Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Ðà, nguyện thấy A Di Ðà Phật”. Bấy giờ, hết thảy đại chúng cũng đều đứng dậy, chắp tay, cùng quán A Di Ðà Phật. Lúc đó, A Di Ðà Phật hiện đại thần thông phóng đại quang minh, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Khi ấy, Sơn Hải Huệ Bồ Tát v.v… (bao quát hết thảy đại chúng) liền thấy tất cả sự trang nghiêm diệu hảo của cõi Phật A Di Ðà đều là thất bảo: núi bảy báu, cõi nước bảy báu; nước chim, cây cối thường diễn pháp âm. Cõi ấy hằng ngày thường chuyển pháp luân’.

Những đoạn kinh trên chứng tỏ rằng trong xã hội Ấn Ðộ thời ấy đã có vài trăm người hoặc là vạn người tận mắt thấy y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Tây phương có thế giới, có Phật A Di Ðà. Ðối với hai chữ ‘có’ ấy cần phải hết sức lưu ý. Nói chung, phẩm này bao gồm bốn thứ tất đàn:
a). Y báo, chánh báo cõi Cực Lạc hiện tiền chính là “thế giới tất đàn”: hiển thị đích xác diệu cảnh khiến chúng sanh hoan hỷ, sanh tâm ham cầu.
b). A Nan và đại chúng hoan hỷ làm lễ, xưng niệm thánh hiệu là “nhân tất đàn” vì phát sanh điều lành. Trì danh vãng sanh là điều lành nhất trong các điều lành.
c). Phá nghi sanh tín là “đối trị tất đàn”. Nghi căn chưa đoạn thì chính là tội căn. Lúc tín lực viên mãn thì hoàn toàn trở thành Phật lực.
d). Tâm và Phật chẳng hai, diệu cảm khó suy lường, sự lý bất nhị, diệu cảnh hiện tiền chính là “đệ nhất nghĩa tất đàn” vì hiển bày trọn vẹn tánh khiến cho chứng nhập Thật Tướng.

Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết: ‘Ðoạn này ý nói vô lượng quang minh chiếu trọn hết thảy. Cực Lạc và Sa Bà cùng một pháp giới, vốn chẳng phải đây hay kia thì nào có Ðông hay Tây! Sơn hà, đại địa đều là do con mắt nhặm của chúng sanh mà thành.
Nếu trong một niệm mà nhập được cảnh giới của Phật thì vô lượng quang minh chiếu khắp trần sát. Tam đồ, lục đạo đồng thời giải thoát. Chẳng phải riêng mình A Nan được oai thần của Phật gia bị nên trông thấy thân Phật và các y báo, chánh báo; mà chính là chúng sanh ngay trong đời mạt pháp đây cứ hễ nhập được pháp môn này thì chẳng lìa khỏi cái niệm hiện tiền mà chóng được thấy Phật.
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Chư Phật giống như một tấm kính tròn lớn, thân ta như hạt ma ni châu. Thân chư Phật nhập vào trong thân ta, thân ta thường nhập vào trong thân chư Phật”. Bởi đó, chư Phật và chúng sanh vốn là vô nhị thì gọi là “thấy Phật”, chứ thật chẳng thấy. Vì cớ sao? Vì trong một thể chẳng thể thấy lẫn nhau’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

39. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy
Tông chỉ của phẩm này là chứng tín, trừ nghi. Ngài Từ Thị thuật lại những điều mình thấy nhằm xác chứng lời Phật dạy vô cùng chơn thật. Ấy là bởi đại chúng chỉ biết được những điều trang nghiêm của y báo cõi Cực Lạc qua lời Phật giảng nên ở đây ngài Di Lặc bèn tường thuật những điều chính mắt mình thấy cho thánh chúng hiện diện trong pháp hội được biết. Ngài còn nêu lên việc mình thấy những chúng sanh bị rớt vào hàng thai sanh trong nghi thành để chỉ rõ cái tai hại của lòng nghi hoặc.

Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài A Nan và Từ Thị Bồ Tát:
- Ông có thấy cung điện, lầu gác, suối, ao, rừng cây trong cõi Cực Lạc đầy đủ vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm chăng? Ông có thấy chư thiên từ Dục giới lên đến Sắc Cứu Cánh thiên mưa các hoa, hương đầy khắp cõi Phật chăng?
A Nan thưa rằng: ‘Vâng ạ, con đã thấy’.
- Ông có nghe âm thanh lớn lao của Phật Di Ðà vang vọng hết thảy thế giới giáo hóa chúng sanh chăng?
Ngài A Nan thưa: ‘Vâng ạ, con có nghe’.
Phật dạy: - Ông có thấy chúng thanh tịnh trong cõi ấy ngao du trên hư không, cung điện tùy thân không bị chướng ngại, đến khắp mười phương cúng dường chư Phật chăng? Và thấy họ niệm Phật liên tục chăng? Lại có các thứ chim bay lượn trên hư không hót lên các thứ tiếng; chúng đều được biến hóa ra, ông có thấy hết hay không?’
Ngài Từ Thị thưa: ‘Con đều thấy mỗi mỗi thứ đúng như lời Phật nói’.


Giải:
A Nan kết tập Kinh tạng, Từ Thị đương lai hạ sanh; vì thế, Phật đem pháp môn vi diệu này phó chúc cho hai vị. Trước hết, Phật nói đến những điều trang nghiêm mầu nhiệm trong cõi Cực Lạc như cảnh chư thiên mưa hoa, bảo hai vị nhìn làm chứng.
‘Sắc Cứu Cánh thiên’ chính là một cõi trời thuộc các tầng trời Tịnh Cư, là cõi trời thù thắng nhất trong Sắc giới, là chỗ ở của bậc thánh đã chứng quả Bất Hoàn. Bất Hoàn tiếng Phạm là A Na Hàm. Bậc này đã đoạn sạch chín phẩm tư hoặc của Dục giới, chẳng tái sanh trong Dục giới nữa, nên sanh vào Sắc giới hoặc Vô Sắc giới. Bởi đó, gọi là Bất Hoàn quả.
Cõi trời Tịnh Cư gồm có năm tầng trời: một là Vô Phiền thiên, hai là Vô Nhiệt thiên, ba là Thiện Hiện thiên, bốn là Thiện Kiến thiên, năm là Sắc Cứu Cánh thiên. Sách Câu Xá Tụng chép: ‘Năm cõi trời này gọi là Tịnh Cư Thiên, chỉ có thánh nhân sống, không có các loài khác sống lẫn vào nên gọi là Tịnh Cư’.

- Ở đây, Từ Thị Bồ Tát trông thấy chư thiên rải hoa, quả đã chứng thực điều kinh đã nói trong phần trước: ‘Hết thảy chư thiên đều cầm trăm ngàn hương hoa, muôn thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật ấy’. Những thứ trang nghiêm y báo mà ngài đã thấy lại chứng thực nguyện thứ băm chín: ‘Muôn vật trong nước đều đặc biệt, lạ lùng, cùng vi cực diệu, nghiêm tịnh sáng đẹp chẳng thể tính kể nổi’.
- Tiếp đó, ngài trực tiếp được nghe Phật Di Ðà thuyết pháp. Pháp âm vang dội phổ độ mười phương. Ðiều ấy chứng thực lời kinh dạy: ‘Tiếng Phật như phạm lôi chấn, âm thanh diễn xướng vi diệu gồm đủ cả tám giọng’ và ‘Bồ Ðề thọ vương diễn xuất vô lượng âm thanh diệu pháp. Âm thanh ấy vang vọng khắp các cõi nước Phật’. Tiếng thuyết pháp của thọ vương lại chính là tiếng Phạm âm của Phật Di Ðà vậy.
- Ðiểm thứ ba là thánh chúng trong cõi ấy du hành thập phương, cúng dường chư Phật. Ðiều này chứng thực sự thành tựu của lời nguyện thứ mười một: ‘Nguyện cúng khắp chư Phật’.
- Thứ tư là ngài thấy thánh chúng niệm Phật liên tục, đây chính là cốt lõi của các lời nguyện của Phật Di Ðà: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh độ khắp ba căn, gồm thâu vạn loại. Phàm phu mười niệm chứng ngay lên bất thoái; đại sĩ tu tập nhanh chóng, hàng Thập Ðịa cũng chẳng rời niệm Phật. Vì thế, phàm phu niệm Phật liền được vãng sanh. Ðã vãng sanh rồi vẫn niệm Phật, niệm niệm tiếp nối cho đến tột đời vị lai. Bởi lẽ đó, Phật bảo đại sĩ Di Lặc đích thân nhìn sự việc này để làm chứng.
- Năm là Phật bảo ngài Di Lặc nhìn xem các loài chim thuyết pháp để chứng thực điều đã được dạy trong kinh Tiểu Bổn: ‘Các loài chim ấy đều là do A Di Ðà Phật muốn cho pháp âm được truyền bá rộng khắp mà biến hóa ra’.

Chánh kinh:
Phật bảo Di Lặc: ‘Nhân dân cõi ấy có kẻ thai sanh, ông lại có thấy hay chăng?’
Ngài Di Lặc thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con thấy kẻ ở trong thai nơi thế giới Cực Lạc như đang ở trong cung điện trên trời Dạ Ma. Lại thấy chúng sanh ngồi xếp bằng trên hoa sen, tự nhiên hóa sanh. Vì nhân duyên nào mà nhân dân cõi ấy lại có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh?


Giải:
‘Có kẻ thai sanh, kẻ thì hóa sanh’ nghĩa là Cực Lạc có hai loại: hóa sanh và thai sanh. ‘Ở trong hoa sen, tự nhiên hóa sanh’ là hóa sanh.
‘Thai sanh’ là vì dùng cái tâm ngờ vực tu các công đức, nguyện sanh Cực Lạc, ngờ vực chẳng tin ngũ trí của Phật, nhưng vẫn tin vào tội phước, tu tập cội lành. Họ vẫn được sanh về Cực Lạc nhưng trong năm trăm năm, hoa sen chẳng nở, ở mãi trong hoa thai, chẳng được gặp Phật, nghe pháp nên gọi là ‘thai sanh’, hay còn gọi là ‘biên địa’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Thai sanh là ví như người sanh trong bào thai lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành (ý nói chưa thành hình người). Thai là ý nói chốn tăm tối, dùng hình ảnh này để ví cho kẻ [ở mãi trong hoa sen] nơi Cực Lạc, chứ chẳng phải là kiểu thai sanh trong thai bào. Vì sao biết thế? Trong cõi An Lạc thuần là hóa sanh nên chẳng thật có thai sanh’. Ý nói: Gọi là ‘thai sanh’ vì kẻ đó nghi hoặc chưa hết, ám chướng vẫn còn nên chưa thể thấy Phật, nghe pháp. Vì vậy, dùng chữ ‘thai’ để sánh ví.
Nếu luận theo sự thực, tất cả những người được vãng sanh đều là hóa sanh, không hề có thai sanh. Vả lại, người sanh vào biên địa cõi Cực Lạc tuy bảo là ở trong thai nhưng chẳng hề chịu cái khổ ở trong thai, chỉ hưởng khoái lạc như các vị trời cõi Dạ Ma ngự trong cung điện. Dạ Ma thiên là tầng trời thứ ba trong Dục giới, nằm trên hai tầng trời Tứ Thiên Vương và Ðao Lợi. Người trong cõi trời
Dạ Ma luôn thốt lên: ‘Sướng quá! Sướng quá!’ đủ thấy chư thiên trong cõi trời ấy khoái lạc tột bực!
Ngài Từ Thị thấy xong lại hỏi: ‘Vì nhân duyên nào?’ mà có hai loại sanh như thế. Ðây chính là thấy quả muốn biết về nhân. Sách Hội Sớ nói về hai chữ ‘nhân duyên’ như sau: ‘Yếu tố chính để phát sanh [ra quả] là Nhân, yếu tố trợ giúp là Duyên. Thai sanh hay hóa sanh đều nhờ vào nhân duyên. Bởi thế, đối theo cái quả mà hỏi đến nguyên do’.
Bản sớ giải kinh Lăng Nghiêm của ngài Trường Thủy có câu: ‘Phật dạy nhân duyên là tông vì thánh giáo của Phật từ cạn tới sâu, nói ra hết thảy pháp không ngoài hai chữ nhân duyên’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

40. Biên địa, nghi thành

Chánh kinh:
Phật bảo ngài Từ Thị: - Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức, nguyện sanh cõi ấy, chẳng hiểu rõ Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, Ðại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ðối với các trí ấy nghi hoặc chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh cõi ấy.


Giải:
Phẩm này giảng về cái nhân của thai sanh, khuyên nên sanh lòng tin sâu xa hầu khỏi đọa vào nghi thành biên địa: trong năm trăm năm chẳng được thấy Phật và Tăng, chẳng được nghe kinh pháp. Ngài Vọng Tây nói: ‘Biên Ðịa và Thai Sanh đồng thể khác tên’.
Sách Lược Luận ghi: ‘Lại có một loại vãng sanh An Lạc nhưng chẳng thuộc vào ba bậc… Trong năm trăm năm thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát và thánh chúng Thanh Văn, gọi là Biên Ðịa cõi Cực Lạc, còn gọi là Thai Sanh’. Như vậy, ngài Vọng Tây chỉ nhắc lại ý của tổ Ðàm Loan.
Sách Lược Luận còn viết: ‘Biên Ðịa là ý nói trong năm trăm năm chẳng được nghe đến Tam Bảo, giống như cái nạn [sanh nơi] biên địa, hoặc cũng là ở tuốt ngoài bìa cõi Cực Lạc. Thai Sanh là ví như người sanh trong thai, lúc sơ sanh nhân pháp chưa thành. Chữ ‘biên’ chỉ cho nạn, chữ ‘thai’ chỉ sự tối tăm. Hai danh từ này đều là mượn tình huống nơi đây để ví cho tình trạng nơi kia (ý nói: chữ ‘biên’ và ‘thai’ đều là thí dụ mà thôi!), chứ chẳng phải là biên địa trong tám nạn, cũng chẳng phải là kiểu thai sanh bằng thai bào.
Do đâu biết thế? Cõi nước An Lạc thuần một bề là hóa sanh, cho nên biết là chẳng thật có thai sanh. Do năm trăm năm sau lại được thấy nghe Tam Bảo, nên chẳng phải là nạn biên địa trong tám nạn’.
Lại nữa, ‘nghi thành’ là nếu ai trong lòng nghi ngờ, niệm A Di Ðà Phật thì sanh trong cung điện bảy báu nơi biên địa cõi Cực Lạc, trong năm trăm năm chẳng được nghe đến danh hiệu Tam Bảo. Do chốn đó là nơi kẻ nghi ngờ cư ngụ nên gọi là ‘nghi thành’. Như kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chúa dạy: ‘Nếu người lúc mạng chung, biết trước thời khắc, chánh niệm phân minh, tắm gội, mặc áo, thanh thản mà đi, quang minh chiếu thân, thấy tướng hảo của Phật, các điều lành cùng hiện thì biết chắc là người ấy quyết định vãng sanh Tịnh Ðộ.
Nếu người niệm Phật, trì giới, tâm không tinh tấn thì lúc mạng chung cũng không có tướng lành mà cũng không có tướng ác. Ðịa phủ chẳng thâu, An Dưỡng chẳng nhiếp, như mơ ngủ mà đi. Kẻ ấy nghi tình chưa đoạn nên sanh vào nghi thành. Hưởng vui trong năm trăm năm, lại tu tín nguyện, mới được về Tịnh Ðộ’.
Rõ ràng là Tín lẫn Nguyện chính là điều căn bản để vãng sanh gặp Phật!

Ngoài ra lại còn có Giải Mạn Quốc, hay còn gọi là Giải Mạn Giới. Cõi này nằm giữa cõi Sa Bà và Cực Lạc. Sanh vào nước này thì đắm nhiễm vào sự khoái lạc trong đó, nên lại khởi lên tâm kiêu mạn, giải đãi, chẳng chịu tấn tu để sanh lên Cực Lạc nên gọi là Giải Mạn quốc. Như kinh Bồ Tát Xử Thai chép: ‘Ở phương Tây, cách cõi Diêm Phù Ðề này mười hai ức na do tha cõi có cõi Giải Mạn. Cõi nước ấy khoái lạc… Chúng sanh phát ý trước sau muốn sanh về cõi nước Phật A Di Ðà, nhưng đều đắm nhiễm sâu nặng cõi nước Giải Mạn, chẳng thể tiến lên sanh về cõi Phật A Di Ðà. Trong ức ngàn vạn chúng mới có một người sanh nổi về cõi Phật A Di Ðà. Vì sao vậy? Ðều vì lười biếng, kiêu mạn, chấp trước, tâm chẳng kiên cố’.
Cứ theo ý kinh, ta thấy cõi Giải Mạn cũng thuộc về biên địa, nghi thành. Trong tác phẩm Lược Luận, ngài Ðàm Loan đã giảng câu ‘chẳng hiểu rõ Phật trí’ như sau: ‘Chẳng hiểu rõ Phật trí là chẳng thể tin trọn vẹn vào Nhất Thiết Chủng Trí của Phật. Do chẳng hiểu nổi nên khởi nghi. Một câu này nêu chung điều nghi; bốn câu tiếp theo, mỗi câu đối trị cái nghi ấy’.

Các vị Tịnh Ảnh, Pháp Vị, Nguyên Hiểu đều theo thuyết này, cùng cho rằng câu ‘chẳng hiểu rõ Phật trí’ là tổng, bốn câu kia là biệt. Ngài Tịnh Ảnh viết: ‘Trước hết nói “chẳng hiểu rõ Phật trí”, câu này là tổng, [những câu như] “bất tư nghị trí” v.v… là biệt. Phật trí uyên thâm, những trí khác không suy lường nổi nên bảo là “bất tư nghị”. Phật trí thật nhiều, chẳng thể kể hết nên bảo là “bất khả xưng”. Phật trí biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “quảng trí”. Phật trí ở địa vị cao trỗi nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.
Ngài Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường lại đem bốn câu ấy phối hợp với bốn trí. Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài đã viết: ‘Câu “Phật trí” là câu nêu chung, bốn câu tiếp đó đều nói về bốn trí.
“Bất tư nghị trí” là Thành Sở Tác Trí, trí này có thể làm được những việc chẳng thể nghĩ bàn; chẳng hạn như một niệm xưng danh vĩnh viễn diệt được trọng tội trong nhiều kiếp. Công đức của mười niệm phát sanh ra quả báo thù thắng vượt
ngoài tam giới. Các việc như thế chẳng thể lường suy nổi, cho nên gọi là “bất tư nghị trí”.
“Bất khả xưng trí” là Diệu Quán Sát Trí. Trí này quán sát chẳng thể nói nổi cảnh giới, nghĩa là: hết thảy pháp như huyễn, như mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, lìa ngôn ngữ, dứt bặt suy nghĩ, chẳng thể dùng ngôn ngữ để suy lường, diễn tả nổi. Vì thế trí này gọi là “bất khả xưng trí”.
“Ðại thừa quảng trí” là Bình Ðẳng Tánh Trí. Trí này độ rộng khắp, chẳng giống với Tiểu Thừa, tức là dung hội vô ngã nên chẳng bất ngã. Do bất ngã nên không gì là không bình đẳng nhiếp thọ. Dùng trí lực đồng thể này độ khắp vô biên hữu tình khiến chúng đều chứng vô thượng Bồ Ðề cho nên gọi là “Ðại thừa quảng trí”.
“Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí’ chính là Như Lai Ðại Viên Kính Trí. Thỉ Giác chuyển thành bổn thức thì mới quy về nguồn tâm. Với hết thảy cảnh, không cảnh nào chẳng chiếu soi trọn vẹn. Vì lẽ đó, gọi là Ðại Viên Kính Trí. Trong một trí này có năm điều thù thắng:
a). Như Nhị Thừa cũng chứng đắc giải thoát thân, nhưng Kính Trí này chính là Pháp Thân thì Nhị Thừa chẳng thể đạt được nên gọi là “vô đẳng” (không ai bằng). Ðấy là điều thù thắng thứ nhất.
b). Ba trí trước đó Bồ Tát cũng dần dần sẽ đạt được; nhưng Ðại Viên Kính Trí chỉ Phật mới đốn chứng, chứ không ai khác chứng nổi nên gọi là “vô luân” (không ai sánh nổi). Ðấy là điều thù thắng thứ hai.
c). Hơn cả “bất tư nghị trí” là “tối”; vượt xa “bất tư nghị trí” là “thượng”. Rộng hơn “Ðại thừa quảng trí” là “thắng”. Ðấy chính là các điều thù thắng thứ ba, thứ tư và thứ năm vậy. Bởi thế, trí này được gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Sách Hội Sớ lại nói: “Chẳng hiểu rõ Phật trí” là nghi tánh đức bất tư nghì của Phật trí, chẳng ngộ được vì sao đức Như Lai là vĩ đại. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí mà [chúng sanh] lại nghi ngờ trí ấy nên chẳng thể hiểu rõ Phật trí.
Bất tư nghị trí: vì trí huệ của Phật sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là “bất tư nghị trí”.
Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi bất tư nghị trí mà [chúng sanh] lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ bất tư nghị trí”.
Bất khả xưng trí là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được nên gọi là bất khả xưng trí. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí thành tựu mà lại nghi trí ấy thì gọi là “chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí”.
Ðại Thừa quảng trí là trí biết đến cùng tột các pháp môn nên gọi là đại thừa quảng trí. Niệm Phật vãng sanh là do đại thừa quảng trí cảm thành mà lại nghi trí ấy nên gọi là “chẳng hiểu rõ Ðại thừa quảng trí”.
Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí là trí ấy địa vị cao trỗi nên gọi là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Nay niệm Phật vãng sanh đây do vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí phát khởi mà lại nghi trí ấy nên bảo là “chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”.

Ba thuyết trên hỗ trợ nhau: thuyết của Tịnh Ảnh Sớ trình bày tóm lược những điểm quan trọng; thuyết của sách Tông Yếu giảng rộng từng ý nghĩa; sách Hội Sớ quy kết về Tịnh tông nên tôi cùng trích dẫn cả ba thuyết.
Kinh nói: ‘Dùng tâm nghi hoặc’ nghĩa là do chẳng tin hiểu nổi Phật trí nên sanh tâm ngờ vực.
Chữ “nghi” có bốn ý, dưới đây tôi sẽ tổng hợp những ý chính của các vị Ðàm Loan, Nguyên Hiểu, Tuấn Ðế và Cảnh Hưng để giảng.
* Một là chẳng tin vào bất tư nghị trí nên nghi nếu chỉ niệm A Di Ðà Phật chưa chắc đã được vãng sanh Cực Lạc, chẳng biết rằng bất tư nghị trí có đại oai lực chẳng thể suy lường được nổi. Hết thảy muôn pháp không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Há nên dùng cái tình thức còn ngăn ngại của phàm phu ngờ vực diệu pháp vô ngại của đức Như Lai; đâu biết rằng một tấm gương có thể hiện bóng muôn vàn cảnh tượng, củi chất ngàn năm một mồi lửa cháy sạch. Vì vậy, chí tâm nhất niệm xưng danh tiêu diệt được trọng tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp.
Mười niệm ắt được vãng sanh có chi là lạ!
* Hai là chẳng tin vào bất khả xưng trí, chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là tuyệt dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái. Ngài Ðàm Loan nói: ‘Bất khả xưng trí là tin Phật trí chẳng thể diễn bày, mô tả nổi, chẳng thể đối đãi. Vì sao nói thế? Pháp nếu là có thì ắt phải có cái trí biết có. Pháp nếu là không thì ắt phải có cái trí biết không. Các pháp rời ngoài có không mà Phật thấu hiểu sâu xa các pháp nên trí ngài vượt khỏi mọi đối đãi.
Dùng cái biết để hiểu Phật thì chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái chẳng biết để hiểu Phật thì cũng chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái bất tri, phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Dùng cái phi phi tri, phi phi bất tri để hiểu
Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Phật trí rời ngoài cả bốn câu ấy’.
Lìa khỏi tứ cú ấy thì tuyệt bách phi. Phật trí lìa tứ cú, tuyệt bách phi, thể của Phật trí không còn đối đãi nên gọi là ‘bất khả xưng trí’. Do trí ấy chẳng thể diễn tả nổi nên công đức niệm Phật cũng chẳng thể diễn tả nổi. Niệm Phật vãng sanh là do bất khả xưng trí tạo thành nên hễ nghi trí này thì gọi là ‘chẳng hiểu rõ bất khả xưng trí’.
* Ba là chẳng hiểu rõ Ðại thừa quảng trí, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Ðộ. Bởi thế, đối với A Di Ðà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường. Ðể đối trị mối nghi này, Phật mới nói đến Ðại Thừa quảng trí. Trí này không pháp gì chẳng biết, không phiền não nào nó chẳng đoạn được, không điều thiện nào nó chẳng trọn vẹn được, không chúng sanh nào trí này chẳng độ được. Muốn chỉ rõ: Phật trí không gì là chẳng độ thoát được, đưa hết thảy đều vào vô dư nên gọi là “Ðại Thừa”. Trí ấy độ thoát vô hạn vô ngằn nên gọi là “quảng trí”. Trí ấy lại biết rõ cùng tột các pháp môn nên gọi là “Ðại thừa quảng trí”.
Vì thế, trí ấy có thể khế hợp rộng rãi mọi căn cơ, đều độ thoát tất cả. Như Lai đại bi đại trí, đối với những kẻ hữu duyên thì không một ai Ngài chẳng độ thoát cho được nhập Niết Bàn. Ngài khai diễn diệu nghĩa ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’ khiến các hữu tình do niệm Phật chứng nhập vô niệm, do vãng sanh chứng được vô sanh. Bởi thế có thể khiến cho chúng sanh niệm Phật đều sanh Tịnh Ðộ.
Hơn nữa, thế giới chẳng phải là hữu biên, chẳng phải là vô biên, cũng tuyệt hẳn tứ cú. Phật làm cho chúng sanh lìa được tứ cú ấy thì gọi là “độ”, nhưng thật ra Ngài chẳng độ mà cũng chẳng phải là chẳng độ, chẳng phải tận mà cũng chẳng
phải là chẳng tận.
* Bốn là chẳng hiểu rõ vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do bởi nghi như thế nên đối với pháp môn Niệm Phật chẳng thể chánh tín; do đó phải bị thai sanh.
Theo ngài Nguyên Hiểu, đối với Phật trí như thế chỉ có thể ngưỡng mộ, kính tin, chứ chẳng thể so lường nên gọi là “vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí”. Tín ngưỡng như thế nào? Nên như Trí Ðộ Luận đã nói: ‘Hết thảy cảnh giới vốn là nhất tâm, lìa khỏi tưởng niệm. Do chúng sanh vọng thấy cảnh giới nên tâm có phân chia. Do vọng khởi tưởng niệm chẳng xứng hợp với pháp tánh nên chẳng thể hiểu rạch ròi. Chư Phật Như Lai lìa khỏi các tướng thấy, không gì là chẳng hiểu trọn vẹn vì tâm chơn thật chính là tánh của chư pháp. Tự thể chiếu rõ hết thảy vọng pháp, có đại trí dụng, vô lượng phương tiện, tùy theo các chúng sanh hiểu được pháp nào thì Phật sẽ đều khai thị các thứ pháp nghĩa đó. Vì thế được gọi là Nhất Thiết Chủng Trí’.
Ðây chính là vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Do không có cái bị thấy nên không gì là chẳng thấy. Hiểu như thế để đối trị mối nghi thứ bốn vậy.
Trong tác phẩm Tông Yếu, ngài Nguyên Hiểu lại viết:
‘Nếu người chẳng đoạn nổi bốn mối nghi đó thì dẫu sanh vào nước kia vẫn ở biên địa. Nếu như có kẻ dẫu chẳng thể hiểu nổi cảnh giới của bốn trí vừa nói trên đây nhưng tự khiêm, tâm nhãn chưa mở nhưng ngưỡng mộ Như Lai, một bề tin phục thì những người như vậy sẽ tùy theo hạnh phẩm vãng sanh về cõi ấy, chẳng lạc vào biên địa. Sanh vào biên địa là một loại riêng chẳng thuộc vào chín phẩm. Vì thế chẳng nên vọng sanh nghi hoặc’.
Lời luận này rất tinh xác, rất khẩn yếu. Nếu như tin hiểu được các trí của Như Lai thì là bậc thượng căn lợi trí; còn nếu chẳng tin hiểu nổi thì cứ giữ lòng rỗng rang, tự khiêm, tin kính, ngưỡng mộ các trí ấy thì cũng được vãng sanh, chẳng bị đọa vào nghi thành. Hành nhân Tịnh nghiệp nên đọc lại vài ba lần lời luận trên để thể hội sâu xa yếu chỉ ‘hư tâm ngưỡng tín’ ấy.
‘Nếu có chúng sanh đối với các trí ấy ngờ vực chẳng tin, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh cõi ấy’ là nói về hạnh cảnh của kẻ bị sanh vào biên địa.
‘Tội phước’: ngũ nghịch, thập ác v.v… là “tội”; ngũ giới, thập thiện v.v… là “phước”. Chẳng kính tin nổi Phật trí, nhưng vẫn tin vào tội phước, nhân quả, thường tu lễ Phật, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Do niệm Phật thật sự là căn bản của các điều thiện nên bảo là ‘tu các cội lành’. Hạng người như vậy tin phước chẳng tin trí, tin Sự nhưng lại mê nơi Lý nên bị đọa vào nghi thành..


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Lại có chúng sanh tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, oai đức quảng đại bất tư nghị trí; đối với thiện căn của chính mình chẳng sanh nổi lòng tin nên đối với việc vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú, nhưng do liên tục niệm Phật chẳng ngớt, kết thiện nguyện ấy thành căn bản nên vẫn được vãng sanh.


Giải:
Ðoạn kinh này nói đến một loại hành nhân khác bị sanh về biên địa: tin Tha mà chẳng tự tin mình.
Loại này cũng như loại trước đều là hạng tín căn chẳng đủ. Ðó là vì có đến sáu thứ tin: tin lý, tin sự, tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả. Ðầy đủ cả sáu niềm tin này mới gọi là lòng tin đầy đủ.
Loại hành nhân này biết cầu Phật trí. Ba thứ trí: phổ biến trí v.v… nói ở đây tương đương với bốn trí đã nói ở phần trên. Nói miễn cưỡng, ‘oai đức quảng đại bất tư nghị trí’ tương đương với bất tư nghị trí và bất khả xưng trí. Phổ biến trí tương đương Ðại thừa quảng trí: bình đẳng phổ biến độ thoát hết thảy hữu tình cho đều đạt đến vô thượng Bồ Ðề. Vô đẳng trí tương ứng với vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí.
Những trí trong đoạn trước được ghi trong bản Ngụy dịch, còn những trí ở đây (phổ biến trí…) thấy ghi trong bản Ðường dịch. Ðó là do dịch giả tách ra hay ghép lại sai khác. Do văn từ sai khác nên tên gọi các trí thành ra nhiều ít sai khác, nhưng thật ra các trí được nêu trong hai bản dịch chẳng hề sai khác nhau.
Hành nhân biết và mong cầu các trí trên đây nên kinh bảo: ‘Mong cầu Phật trí’. Tin được Tha Phật nhưng chẳng tin nổi Tự Phật. Do chẳng tin nổi ý chỉ ‘tâm này là Phật’ nên lòng còn nghi ngờ. Ðấy là lỗi lầm lớn. Sách Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận đã bàn về điều này rất tường tận, sách viết: ‘Cần phải thấu rõ Phật trí cho đến thắng trí thì mới gọi là lòng tin chơn thật. Do hết thảy trí chẳng lìa tự tâm, vô ngã, vô ngã sở, phàm thánh giống như nhau: cùng có chung những trí này. Hoàn toàn tin rằng tâm mình đầy đủ hết thảy trí, vốn sẵn thành Phật, chẳng hề ở ngoài tâm lại có một cái tâm tin Phật riêng biệt. Hồi hướng như thế thì gọi là duy tâm Tịnh Ðộ, mau được gặp Phật.
Nếu đối với các trí trong tự tâm mà còn vướng mắc mối ngờ thì chẳng tránh khỏi chuyện thấy có Phật ngoài tâm nên dẫu tu các điều lành, nương theo nguyện mà vãng sanh nhưng chẳng thấy được Phật vì chẳng khế hợp Phật trí.
Thế cho nên kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới dạy: “Tam thế hết thảy chư Phật đều vô sở hữu, chỉ nương vào tự tâm. Bồ Tát nếu có thể biết rõ chư Phật và hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng thì sẽ đắc Tùy Thuận Nhẫn, hoặc chứng bậc Sơ Ðịa, bỏ thân mau sanh vào thế giới Diệu Hỷ, hoặc sanh trong Phật Tịnh Ðộ Cực Lạc”. Như vậy, hễ biết rõ tâm lượng thì chẳng nhọc công mà hết thảy công đức đều thành tựu đầy đủ….
Do đó, ta thấy là phải có trí quyết định thì mới sanh được lòng tin quyết định. Có lòng tin quyết định thì mới quyết định vãng sanh nổi. Dè dặt chớ để lòng nghi hoặc khiến mình mất điều lợi lớn’.
Do vậy, tin Tha mà chẳng tin nổi Tự thì chính là trí còn kém cỏi. Không có trí quyết định thì chẳng sanh nổi lòng tin quyết định, cho nên ‘ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú’. Tín nguyện chẳng vững thì chỗ mình y cứ [để tu tập] chẳng chuyên nhất nổi. Tuy vậy, vì hành nhân niệm Phật liên tục nên nương theo sức niệm Phật và sức phát nguyện bèn được vãng sanh, nhưng chỉ được sanh nơi biên địa.

Chánh kinh:
Những người này do nhân duyên ấy tuy sanh về nước kia, nhưng chẳng thể đến ngay chỗ Phật Vô Lượng Thọ, mà chỉ ở trong thành bảy báu nơi biên địa của cõi Phật. Phật chẳng hề tạo ra như vậy, nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy]. [Biên địa] cũng có ao báu, tự nhiên thọ thân trong hoa sen; thức ăn uống, các thứ khoái lạc như trên trời Ðao Lợi. Ở trong thành ấy, chẳng ra ngoài được. Nhà cửa ở ngay trên mặt đất, chẳng thể lớn nhỏ tùy ý muốn. Trong năm trăm năm, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy Bồ Tát, Thanh Văn thánh chúng. Người ấy trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít hơn nữa. Tâm chẳng khai giải, ý chẳng vui sướng. Bởi thế, gọi đó là “thai sanh”.


Giải:
Chữ ‘những người này’ chỉ hai loại người vãng sanh về biên địa đã nói ở trên.
‘Do nhân duyên ấy’ là do cái nhân tu thiện niệm Phật, phát nguyện cầu sanh nên cảm được chốn Biên Ðịa cõi Cực Lạc, sống trong cung điện bảy báu, ao báu, hoa sen, vui thú như ở trên trời Ðao Lợi và hưởng cái quả bất thoái. Nhưng vì phạm lỗi nghi hoặc nên phải cảm lấy cái quả ‘chỉ ở nơi biên địa của cõi Phật’, sống trong nghi thành chẳng thoát ra được. Trong năm trăm năm chẳng được thấy nghe Tam Bảo.
Những điều như thế đều chỉ là do tâm tạo, do nghiệp lực dắt dẫn, nên Phật bảo: ‘Phật chẳng hề tạo ra như vậy, nhưng do thân hạnh đã tạo [của hành nhân] nên tâm tự hướng đến [nơi ấy]’. Ðây chính là điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy: ‘Nên quán pháp giới tánh, hết thảy chỉ là do tâm tạo’. Ấy là vì tâm sanh thì các pháp sanh: địa ngục, thiên đường hay Tịnh Ðộ đều chỉ do tâm biến hiện. Thân mình
hướng đến đâu cũng đều do nghiệp lực của chính mình lôi kéo. Nghiệp do tâm sanh nên bảo là ‘tâm tự hướng đến’.
Sanh trong biên địa cũng ‘tự nhiên thọ thân trong ao hoa sen báu’, nên chẳng phải là kiểu thai sanh như trong thế gian mà thật sự là liên hoa hóa sanh. Sanh sống khoái lạc như ‘trời Ðao Lợi’, nhưng ở miết trong ấy chẳng ra được ngoài. Chốn họ cư ngụ là ngay trên mặt đất, chẳng thể thăng lên hư không; nhà cửa cũng chẳng thể tùy ý hóa ra cao và to theo ý muốn.
Ðiều tệ nhất là trong cả năm trăm năm chẳng được thấy Phật, nghe pháp. Về ‘năm trăm năm’, bản Hán dịch chép rõ là ‘năm trăm năm trong cõi này’. Kinh chép ‘cõi này’ chứ không ghi là ‘cõi kia’, nên chữ ‘cõi này’ phải là cõi đức Thế Tôn đang thuyết pháp (tức là cõi Sa Bà). Vì lẽ đó, ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Năm trăm năm là số năm trong thế gian này’, nghĩa là con số năm trăm năm vừa
nói đó là năm trăm năm so với kiếp sống con người hiện tại. Nhưng ta chẳng thể chấp nhất định rằng năm trăm ấy chính là năm trăm năm trong cõi trần gian này bởi vì phẩm số trong Cực Lạc là vô lượng nên phẩm số trong cõi Biên Ðịa cũng sai biệt vô lượng. Chẳng hạn như trong Quán kinh bảo trung phẩm hạ sanh thì ‘ở trong hoa sen trọn mười hai đại kiếp, hoa sen mới nở’. Ðấy là cả một thời gian dài.
Lại như cư sĩ Viên Hoằng Ðạo đời Minh do chấp vào công đức soạn tác phẩm Tây Phương Hiệp Luận nên sanh vào biên địa, nhưng do trí huệ thù thắng nên chẳng lâu sau liền được thấy Phật nghe Pháp.
Phẩm bốn mươi mốt của kinh này có nói: ‘Nếu chúng sanh ấy biết gốc tội của mình… thì sau đấy mới được thoát khỏi’. Vì vậy, sám hối đoạn nghi mới chính là mấu chốt để thoát khỏi, còn thời gian chẳng phải là nhất định.
Chữ ‘người ấy’ chỉ người sanh trong Biên Ðịa. Câu ‘trí huệ chẳng sáng suốt’ ý nói ngu si vô trí. ‘Biết kinh càng ít hơn nữa’ là chẳng biết nhiều về kinh điển Ðại Thừa. ‘Tâm chẳng khai giải’ là cấu nhiễm sâu nặng nên tâm chẳng khai ngộ, ý chẳng hiểu biết. Lại vì ngờ vực chập chồng nên chẳng vui sướng.
Trên đây kinh đã nêu rõ các nguyên nhân vì sao gọi những người như vậy là ‘thai sanh’.

Chánh kinh:
Nếu có chúng sanh tin tưởng thông suốt từ Phật trí cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, tin vào thiện căn của mình, làm các công đức, chí tâm hồi hướng thì đều tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, ngồi xếp bằng. Trong khoảnh khắc, thân tướng, quang minh, trí huệ công đức thành tựu đầy đủ giống như các Bồ
Tát.
Di Lặc nên biết! Những kẻ ấy hóa sanh do trí huệ thù thắng. Còn những kẻ thai sanh thì trong năm trăm năm chẳng được thấy Tam Bảo, chẳng biết pháp thức của Bồ Tát, chẳng được tu tập công đức, không cách nào phụng sự đức Phật Vô Lượng Thọ. Phải biết là người ấy trong đời trước chẳng có trí huệ, vì nghi hoặc mà đến nỗi ấy.


Giải:
Ðoạn này nêu chung về tướng trạng nhân quả của thai sanh và hóa sanh. Người vãng sanh có đầy đủ lòng tin thì chẳng những tin vào Phật trí, còn tin
vào thiện căn của chính mình, ngoài thì kính mộ chư hiền thánh, trong lại tôn trọng linh giác của mình, tu các công đức, chí tâm hồi hướng nên đều hóa sanh trong hoa sen ở trước Phật. Quang minh, trí huệ, công đức thành tựu đầy đủ như các vị BồTát.
Ngược lại, kẻ trong lòng ngờ vực ắt đọa vào thai sanh, trong năm trăm năm, chẳng được nghe đến Tam Bảo v.v…đấy đều là vì thiếu hẳn trí huệ, bởi ngờ vực mà phải chịu nông nỗi ấy. Bởi vậy, đoạn nghi sanh tín là điều cực kỳ thiết yếu vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

41. Hoặc tận kiến Phật

Chánh kinh:
- Thí như Chuyển Luân thánh vương có ngục bảy báu, vương tử đắc tội bị giam kín trong ấy. Lầu tầng, điện vẽ, màn báu, giường vàng, bao lơn, cửa sổ, sập, tòa, trang hoàng khéo léo, quý lạ; thức ăn, y phục đều như Chuyển Luân vương, nhưng dùng xích vàng xiềng hai chân. Các tiểu vương tử ấy có ưa thích nổi việc ấy chăng?
- Thưa Thế Tôn, không ạ! Họ bị giam kín, tâm chẳng tự tại, chỉ toan dùng mọi phương tiện để mong thoát khỏi, cầu các cận thần, trọn chẳng dám buông lung. Luân Vương hoan hỷ thì mới được giải thoát.


Giải:
Phẩm này tiếp tục khuyên hành giả phải đoạn nghi trừ hoặc.
Trước hết, Phật dùng ngay người tù làm thí dụ. Ngài Gia Tường nói: ‘Chuyển Luân Thánh Vương ví cho Vô Lượng Thọ Phật. Cung điện bảy báu ví cho cõi Tịnh Ðộ. Vương tử mắc tội ví như người mắc tội nghi hoặc. Xích vàng ví như hoa sen chẳng nở. Thức ăn, y phục đều như Chuyển Luân vương là ví hành nhân ở trong hoa sen hưởng các khoái lạc tự tại…’
‘Lầu tầng’ tức là lầu gác nhiều tầng. ‘Giường’ là chỗ để người ngồi hoặc nằm. ‘Màn’ (nguyên văn là ‘trướng’) là tấm treo mắc trên giường. ‘Sập’ (nguyên văn là ‘tháp’) cũng là một loại giường. Loại giường dài, hẹp mà thấp thì gọi là ‘tháp’.
‘Trang hoàng khéo léo, quý lạ’ nghĩa là dùng các thứ kỳ trân dị bảo trang hoàng hết sức khéo léo.
Trong lời đáp, ngài Di Lặc trước hết thưa rằng: hễ bị giam cầm thì thiếu hẳn cái vui tự tại nên ai nấy đều dùng mọi phương tiện để mong thoát ra.

Chánh kinh:
Phật bảo Di Lặc:
- Các chúng sanh kia cũng giống như thế. Nếu có kẻ do đọa vào nghi hối, mong cầu từ Phật trí cho đến quảng đại trí, chẳng sanh nổi lòng tin đối với thiện căn của chính mình; nhưng do nghe danh hiệu Phật phát khởi lòng tin thì tuy được sanh về cõi ấy, nhưng phải ở trong hoa sen chẳng được xuất hiện.
Kẻ ấy ở trong hoa thai mà tưởng như đang ở trong vườn hoa, cung điện. Vì sao thế? Trong ấy thanh tịnh không có các uế ác, nhưng trong năm trăm năm chẳng thấy Tam Bảo, chẳng được cúng dường, phụng sự chư Phật, xa lìa hết thảy thiện căn thù thắng nên coi đó là khổ, chẳng sanh lòng vui thích.
Nếu những chúng sanh ấy biết rõ gốc tội mình, tự hối trách sâu xa, cầu được thoát khỏi chốn đó thì khi những lỗi lầm trong đời trước đã hết sạch rồi, sau đấy mới được thoát khỏi.


Giải:
Câu ‘cũng giống như vậy’ là nêu sự việc để phối hợp với những ví dụ trong phần trước: ‘Hoa thai’ tương ứng với ‘ngục bằng bảy báu’; ‘chẳng được xuất hiện’ tương ứng với ‘dùng xích vàng xiềng cả hai chân’; ‘tưởng như đang ở trong vườn hoa, cung điện’ tương ứng với ‘lầu tầng, điện vẽ… như Chuyển Luân vương’; ‘chẳng sanh lòng ưa thích’ tương ứng với ‘vương tử chẳng thích’. Từ câu ‘biết gốc tội mình’ cho đến ‘mới được thoát khỏi’ tương ứng với ‘Luân vương hoan hỷ mới được giải thoát’.
Sách Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Ý nói thai sanh không có các nỗi khổ gì khác, chỉ vì trong năm trăm năm chẳng được thấy Tam Bảo, chẳng được tu thiện nên coi đó là khổ. Do nỗi khổ đó nên dẫu vui mà chẳng thấy vui’.
Ngài Nghĩa Tịch lại bảo: ‘Do cầu sự vui thù thắng nên coi sự vui kém cỏi là khổ; như ưa thích cái vui bậc thượng, chán cái vui hèn kém nên coi đó là cái khổ về bậc thô. Tuy gọi là khổ nhưng chẳng hề chịu khổ’.
Trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Sao, ngài Vọng Tây lại viết:
‘Hỏi: Sanh vào biên địa là cái quả của tâm nghi hay là quả của việc tu thiện?
Ðáp: Chính là quả của việc tu thiện, chứ chẳng phải là quả của tâm nghi. Nhưng do tâm nghi xen tạp nên đạt được cái quả chẳng thuần tịnh’.
Từ chữ ‘nếu chúng sanh ấy’ trở đi chính là lời khuyên đoạn nghi, biết tội, sám hối cầu thoát khỏi.
Bản Ngụy dịch ghi chữ gốc tội (tội bổn) là ‘bổn tội’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Bổn tội là tội nghi hoặc’.
Ngài Vọng Tây bảo: ‘Nghi năm trí của Phật thì gọi là tội gốc, chứ chẳng phải là những nghiệp thập ác v.v…’
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu ‘tự hối trách sâu xa’ như sau: ‘Nói đến hối trách thì tự xét kỹ cái tâm là hối; quở trách cái tâm mê là trách’.
Ngài Vọng Tây còn bảo: ‘Hết năm trăm năm rồi thì túc chướng mỏng nhẹ, biết tội mình nên sanh hối trách. Do hối trách nên hết chướng, liền đến được chỗ Phật A Di Ðà’.
Trong tác phẩm Lược Luận, ngài Ðàm Loan cũng bảo: ‘Biết gốc tội mình, tự hối trách sâu xa, cầu thoát khỏi chốn ấy liền được như ý, lại thuộc vào ba bậc vãng sanh. Phải hết năm trăm năm mới biết tội mà sám hối’.
Cả hai vị Ðàm Loan và Vọng Tây cùng cho rằng đến cuối thời gian năm trăm năm mới hối tội và được thoát khỏi biên địa.
Ngài Gia Tường lại nghĩ khác, trong Gia Tường Sớ, ngài viết: ‘Nói “tự hối trách sâu xa” là ngụ ý: [chúng sanh trong chốn biên địa] chẳng phải chỉ có một loại. Hễ sám hối liền được thoát khỏi, chẳng cần phải hối trách trọn cả năm trăm
năm’.
Thật ra, hai thuyết trên chẳng hề mâu thuẫn nhau. Cuối thời gian năm trăm năm mới hối trách tội lỗi, được thoát khỏi biên địa là nói về đa số; chẳng cần đợi đến năm trăm năm, hễ sám hối liền được thoát khỏi thì chính là nói đến những kẻ thượng căn.
‘Tội lỗi hết sạch’ là những cái tội nghi hoặc trong quá khứ đã sám trừ hết sạch rồi thì mới được thoát khỏi nghi thành, gặp Phật, nghe pháp. Như vậy là chẳng cần biết là trong thời gian năm trăm năm hay phải đến cuối thời gian ấy; cứ hễ khi nào tội lỗi cũ đã tiêu diệt hoàn toàn thì mới được giải thoát.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Chú Giải Kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Chánh kinh:
Liền được đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật nghe giảng kinh pháp, lâu ngày cũng sẽ khai giải, hoan hỷ, cũng sẽ cúng khắp vô số vô lượng chư Phật, tu các công đức. Ông A Dật Ða! Nên biết rằng: đối với các vị Bồ Tát, nghi hoặc chính là điều tổn hại lớn, là mất điều lợi lớn. Vì vậy, phải tin rành rẽ vào trí huệ vô thượng của chư Phật.


Giải:
Ngài Gia Tường giảng câu ‘liền được đến chỗ Phật Vô Lượng Thọ’ như sau: “Liền được” nghĩa là chẳng cách trở về mặt thời gian’, ý nói: Vừa ra khỏi hoa sen thì ngay lập tức diện kiến đức Phật, nghe pháp, chẳng cần phải mất chút thời khắc nào.
Lâu dần cũng sẽ được khai giải, hoan hỷ’ nghĩa là: Người ấy do đời trước ‘trí huệ chẳng sáng suốt, biết kinh càng ít hơn nữa’ nên nay tuy được đích thân gặp Phật Di Ðà, tai nghe lời giáo huấn của Phật, nhưng tâm cấu chưa trừ, tình chấp, kiến chấp vẫn còn. Bởi thế cần phải đa văn huân tập, tăng trưởng trí huệ thì mới có thể tin hiểu được lời Phật. Vì thế, kinh nói: ‘Lâu ngày cũng sẽ được khai giải, hoan hỷ’. ‘Khai giải’ là tâm khai đắc giải. ‘Hoan hỷ’ là nghe pháp liền lãnh hội nên tự nhiên hoan hỷ.
‘Cũng được cúng khắp’ chính là như ngài Ðàm Loan giảng: ‘Liền được như ý, lại thuộc vào ba bậc vãng sanh’, đầy đủ các thần thông cúng khắp các đức Phật, tùy ý tu tập các công đức đúng như bổn nguyện của Phật Di Ðà.
‘A Dật Ða’ là tên của ngài Từ Thị. Ðức Thích Ca lại kêu tên ngài lần nữa để cảnh tỉnh đại chúng chuyên tâm lắng nghe. ‘Nên biết rằng: đối với các Bồ Tát, nghi hoặc là điều tổn hại lớn, là mất điều lợi lớn. Vì vậy, phải tin rành rẽ vào trí huệ vô thượng của chư Phật’.
Ðối với vấn nạn sao Bồ Tát còn có nghi hoặc, sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao viết: ‘Phải chăng là phàm phu Ðại Thừa mà gọi là Bồ Tát? Hoặc là nói giả dụ: Nếu Bồ Tát mà còn có nghi hoặc thì cũng bị mất điều lợi lớn nên phàm phu lại càng phải tin rành rẽ [vào Phật trí] vậy’.
Lời bàn trên rất khiêm nhường, chưa dám quyết đoán. Theo ý người viết, cả hai thuyết nêu trong tác phẩm trên đều đúng:
a). Thứ nhất là bọn chúng ta tuy là phàm phu dẫy đầy, nhưng nếu có thể chơn thật phát khởi Bồ Ðề tâm thì chính là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. Sách Luận Chú nói: ‘Tâm Bồ Ðề vô thượng này chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật’. Hành nhân tịnh nghiệp nếu phát được cái tâm như thế thì cũng chính là sơ phát tâm Bồ Tát. Ngài Thiên Thai bảo Bồ Tát thuộc Tín vị trong Biệt giáo giống như những sợi tơ trên không trung lờ lững vô định. Vì thế, Sơ Phát Tâm Bồ Tát thật sự còn có nguy cơ bị thoái đọa.
b). Thứ hai là ‘nói giả dụ’, nghĩa là dù thật sự là Bồ Tát mà nếu sanh lòng nghi hoặc thì cũng bị mất lợi lớn. Do đó, bọn phàm phu chúng ta càng lại chẳng nên sanh nghi. Vì thế, cả hai thuyết này chẳng hề mâu thuẫn nhau.

‘Lợi lớn’ chính là ‘cái lợi chơn thật’ như trong kinh đã dạy. Thập phương Bạc Già Phạm (Thế Tôn) trụ trong chơn thật huệ để khai hóa, hiển thị Chơn Thật Tế ‘muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật, khó gặp, khó thấy như hoa Ưu Ðàm ít khi xuất hiện’. Nay đấng khó gặp đã được gặp, điều khó nghe đã được nghe mà chẳng tin nhận thì thật là bội bạc ơn Phật nên bảo là ‘mất điều lợi lớn’.
Hơn nữa, pháp môn Tịnh Ðộ: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, tín nguyện trì danh chứng ngay lên bất thoái đây chính là điều chơn thật nhất trong những điều chơn thật, là điều lợi lớn lao nhất trong những điều lợi lớn lao. Chẳng tin pháp này thì vĩnh viễn đánh mất cái lợi lớn.
Kinh Thiên Thủ dạy: ‘Nếu đối với đà-ra-ni này mà sanh nghi chẳng tin thì nên biết rằng người ấy vĩnh viễn đánh mất cái lợi lớn. Trong trăm ngàn muôn kiếp luân hồi trong nẻo ác, chẳng có lúc ra, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng’. Câu kinh này đã chỉ rõ nghi hoặc là ‘điều tổn hại lớn’.
Trái lại thì như kinh Thập Vãng Sanh đã nói: ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân chánh tín kinh này, yêu mến kinh này, quán sát, dẫn dắt chúng sanh thì kẻ nói, người nghe đều được vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. Nếu có những người như vậy thì từ hôm nay, ta thường sai hai mươi lăm vị Bồ Tát hộ trì những người ấy, thường khiến cho họ vô bịnh, vô não, dù là người hay phi nhân chẳng có dịp khuấy nhiễu họ. Ði, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận là ngày hay đêm thường được an ổn’. Câu kinh này đã nêu rõ điều đại lợi do tin nhận. Ðiều nào nên bỏ, điều nào nên thuận theo, xin khéo suy nghĩ kỹ!

Tiếp đó, kinh nói đến cái tai hại lớn của việc nghi báng.
Kinh Thập Vãng Sanh còn dạy: ‘Sau này trong Diêm Phù Ðề có tỳ kheo hoặc là tỳ kheo ni thấy có người đọc tụng kinh này mà nếu sanh lòng giận dữ, đem lòng phỉ báng thì do báng chánh pháp, ngay nơi thân hiện đời của người ấy sẽ phát ra các bệnh nặng nề, thân căn chẳng đầy đủ, điếc, mù, câm, ngọng, thủy thũng, quỉ mỵ, nằm ngồi chẳng yên, muốn sống chẳng được, cầu chết không xong. Hoặc đến khi chết đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp chịu đại khổ não. Trăm ngàn vạn đời, chưa từng nghe danh từ cơm, nước. Mãi lâu sau mới được thoát ra, sanh làm trâu, ngựa, lợn, dê, bị người giết hại, chịu đại cực khổ.
Sau đấy mới được làm thân người, thường sanh vào nhà hèn hạ, trăm ngàn vạn đời chẳng được tự tại, trọn chẳng được nghe danh tự Tam Bảo. Vì thế đối với những kẻ vô tín, vô trí, chớ thuyết kinh này’.
Tôi dẫn kèm thêm hai kinh trên để chứng tỏ rõ nghi hay tin tuy chỉ thuộc trong một niệm của đương cơ, nhưng chúng tạo thành họa hay phước khác nhau một trời, một vực, bao kiếp vô tận. Bởi thế, Phật mới dạy: ‘Phải nên tin rành rẽ vào trí huệ vô thượng của chư Phật’.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.28 khách