Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 10. LÀM CHO CHÁNH PHÁP TỒN TẠI LÂU DÀI
Nguyên văn:
  • 云何令正法久住?謂我世尊,無量劫來,為我等故,修菩提道。難行能行,難忍能忍,因圓果滿,遂致成佛。既成佛已,化緣周訖,入於涅槃,正法像法,皆已滅盡,僅存末法,有教無人。邪正不分,是非莫辨,競爭人我,盡逐利名。舉目滔滔,天下皆是。不知佛是何人?法是何義?僧是何名?衰殘至此,殆不忍言!每一思及,不覺淚下。我為佛子,不能報恩,內無益於己,外無益於人;生無益於時,死無益於後。天雖高,不能覆我;地雖厚,不能載我。極重罪人,非我而誰?
Âm Hán Việt:

Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?
  • Dịch:
Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của chúng ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề. Ngài đã làm việc khó làm, và nhẫn sự khó nhẫn. Khi nhân tròn, quả mãn, ngài liền thành Phật. Sau khi thành Phật, ngài hoàn tất việc hóa độ những chúng sanh hữu duyên rồi nhập Niết bàn. Nay thời kỳ Chánh pháp và Tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không phân, thị phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Đưa mắt nhìn quanh thì thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là ai, Pháp có nghĩa gì, và Tăng làm sao thành. Suy tàn đến độ, thốt không ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong, không có lợi ích cho mình, ngoài, không có lợi ích cho người. Đương lúc còn sống không mang ích lợi, mai sau chết đi cũng không có ích chi. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó dung chứa ta. Kẻ mang tội cực trọng này, nếu không phải ta thì là ai?
  • Giảng:
Vân hà linh chánh pháp cửu trụ?: Vân hà là như thế nào? Làm thế nào để khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài mà không bị diệt vong?

Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai,: Vị là những điều nói ra. Thế Tôn là một danh hiệu khác của đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo: Tại sao đức Phật muốn tu thành Phật? Vì ngài muốn cứu độ tất cả chúng ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu sanh thoát tử, không bị luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi. Cho nên đức Phật mới "tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo", là ngài tu phước huệ trong ba tăng kỳ kiếp và vun trồng tướng tốt trong trăm kiếp.

Tam kỳ tức là ba đại a tăng kỳ kiếp, a tăng kỳ là tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số" Ba đại a tăng kỳ kiếp là ba cái đại vô lượng số. Vô lượng số này là một trong mười sáu số mục lớn. Vậy quý vị thử nghĩ xem, ba đại a tăng kỳ kiếp này dài bao lâu? Rất dài, rất dài! Trong ba đại vô lượng số kiếp này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì giáo hóa chúng sanh, vì tu thành Phật và vì phát tâm Bồ Đề. Ngài đã xả sanh rồi lại thọ sanh. Cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi đức Phật xả thân mạng. Như ngài đã xả thân mạng làm mồi cứu cọp. Khi nhìn thấy một con cọp dữ sắp chết đói, ngài đã hy sinh thân mạng mình cho cọp ăn để nó được sống. Sự hy sinh vĩ đại này, không ai sánh bằng. Chúng ta đều là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh thân mạng mình để cứu người khác được sống. Vậy mà đức Phật ở trong thời gian lâu dài đăng đẳng ba đại a tăng kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều bố thí sanh mạng ngài cho chúng sanh. Cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng ta hiện nay hay xưa kia hoặc là đã ăn thịt, uống máu của ngài, nên chúng ta nay tin Phật thì phải cố gắng báo đáp ân sâu của ngài. Đức Phật vì muốn chúng ta được sống, ngài phải hy sinh thân mạng của mình, nên chúng ta cần phải cảm ơn đức Phật.

Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn: Tại sao gọi là làm việc khó làm? Chính là ngài làm được những việc mà người thường không làm được. Như ngay cả đầu, mắt, não, tủy của mình, ngài cũng đều bố thí cho người. Không phải nói chờ chết rồi mới bố thí cho người, mà có thể bố thí ngay lúc còn sống. Quý vị cần con mắt, ngài sẽ bố thí mắt cho quý vị. Quý vị có bệnh, cần có não người để trị bệnh, ngài sẽ hy sinh sanh mạng mình để bố thí não, cứu độ cho quý vị. Tủy là cốt tủy; ngay cốt tủy của mình, ngài cũng bố thí cho người. Không những đầu, mắt, não, tủy, mà quốc thành, thê tử ngài cũng bố thí luôn. Quốc là đất đai, ngài cũng nhường cho người khác. Thần là thành trì, tài sản của mình, ngài cũng nhường cho người khác. Vợ thì mọi người khó xả bỏ nhất, ngài cũng có thể xả bỏ để tặng cho người. Con thì ngài cũng có thể cho người luôn. Mội tài là đầu, mắt, não, tủy; ngoại tài là quốc thành, thê tử, ngài đều có thể bố thí hết. Nếu người nào cần thì ngài sẽ bố thí ngay. Vì thế, không ai có thể sánh bì, và cũng không ai hy sinh được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ Đề là làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, Tức là ngài đều nhẫn được những việc mà người ta không thể nhẫn.

Nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật.: Ngài trồng nhân một cách viên mãn cho nên thành tựu phước báo một cách tròn đầy, vì thế ngài mới thành Phật.Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn.: Sau khi thành Phật ngài giáo hóa hết những chúng sanh cần giáo hóa, xong ngài mới nhập Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn? Niết bàn là cảnh giới không sanh không diệt. Lúc đó quý vị sẽ chấm dứt sanh tử không còn sanh tử nữa.

Chánh pháp tượng pháp,: Khi đức Phật còn tại thế là thời kỳ chánh pháp. Thời kỳ mà mọi người tu hành đều tu hành có thiền định và được khai ngộ. Thời đó nếu ai có tu hành, có thiền định tức đều được chứng quả vị và sẽ liễu sanh thoát tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng mà không có người chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp là thời kỳ thiền định kiên cố, vừa ngồi là có thể nhập định. Còn đến đời tượng pháp thì sao? Là lúc người ta chỉ tu hành ở lớp vỏ bên ngoài, đó là thời kỳ chùa chiền kiên cố. Vì lúc đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa miếu, tạo tượng Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp và tượng pháp dều kéo dài một ngàn năm. Hiện nay là thời kỳ đại mạt pháp. Chánh pháp chính là thời kỳ ở gốc cây, Tượng pháp là thời kỳ ở ngọn cây, còn Mạt pháp thì đã ở trên ngọn cây, nên giáo pháp cũng nhỏ bé, ít ỏi vô cùng. Thời kỳ mạt pháp kéo dài hơn một vạn năm. Vì thế nếu trừ đi hiện tại thì chúng ta còn lại hơn tám ngàn năm đều là thời kỳ mạt pháp. Nhưng nếu trong thời kỳ mạt pháp mà có người chân chánh tu hành, thì đó là thời kỳ chánh pháp trong thời mạt pháp. Và khi người ta ham thích xây dựng, tu sửa chùa chiền,tạo tượng Phật trong thời kỳ mạt pháp, đó gọi là thời kỳ tượng pháp trong thời mạt pháp. Vậy đúng thật là thời kỳ mạt pháp nếu không có người tu hành, cũng không có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, và kinh điển sẽ tự biến mất. Tất cả kinh Phật đều bị hủy diệt dần cho đến khi chỉ còn lại một bộ kinh A Di Đà. Kinh này sẽ tồn tại khoảng năm trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Đà" cũng không còn, lúc đó chỉ còn một câu "A Di Đà Phật". Câu danh hiệu "A Di Đà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm, độ vô số chúng sanh. Sau đó Phật pháp sẽ không còn và không ai biết được câu niệm Phật là gì và cái gì cũng không hiểu hết. Tuy chúng ta ở trong thời kỳ mạt pháp nhưng hiện tại vẫn là thời điểm cho chúng ta nỗ lực dụng công tu hành.

Hiện nay chánh pháp, tượng pháp giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp:: Tức là thời kỳ chánh pháp, tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi. Thời kỳ mạt pháp thì hữu giáo vô nhân.: Tuy có Phật giáo mà không có người tu hành, và ngôn hạnh của người tu đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật. Người xuất gia vốn không ăn thịt, uống rượu hay có quan hệ nam nữ, nhưng khi pháp diệt, họ lại phạm vào những việc giống như người tại gia, đó không còn là Phật pháp nữa rồi. Hữu giáo có nghĩa là còn có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu nhân" là người tu hành chân chánh, mà không nhất định nói về người hoằng dương Phật pháp. Nếu không có người tu hành chân chánh thì làm sao có người hoằng pháp? Tự nhiên sẽ không có. Lúc đó thì như thế nào? Tức tà chánh bất phân, thị phi mạc biện: Như những người chỉ giả nghĩa tu hành để cầu danh lợi, nên không làm những việc mà người xuất gia nên làm, đó đều là chánh tà không phân. Ví dụ có một vài ngoại đạo cho rằng" Đây cũng là bái Quán Âm, cũng là bái Quan Đế mà!" Lại còn bái gì gì nữa, v.v... Họ nói toàn những chuyện giống như thế. Họ không biết thế nào là tà? Thế nào là chánh? Tà chánh không phân, phải trái cũng không phân biệt được.

Cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh: Tức thường tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều ở đó mà tranh danh đoạt lợi. Không phải danh tiếng của mình, cũng tranh giành cho bằng được. Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị.: Dương con mắt nhìn thấy khắp thiên hạ, ai ai cũng đều như thế, thao thao vô tận như biển cả mênh mông bát ngát. Những người này đều làm những việc có danh lợi. Cho nên, các vị theo tôi xuất gia, thì tuyệt đối không được đuổi bắt theo danh lợi! Chúng ta quyết không cùng ở chung trong dòng nhơ bẩn mà làm những chuyện xấu xa. Chúng ta nhất định phải làm một người đệ tử Phật chân chánh trong thời mạt pháp.

Bất tri Phật thị hà nhân?: Tức là không biết Phật là gì? Pháp thị hà nghĩa?: Pháp có nghĩa là muốn người dứt các điều ác, tăng trưởng các điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm cuộc đời mới. Tuy muốn người hiểu rõ, nhưng họ không hiểu, càng học càng hồ đồ, càng học lại càng không hiểu biết.
Tăng thị hà danh?: Tăng có nghĩa là gì? Ngay cả Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng mà họ cũng không biết. Thế nào gọi là Tăng? Là từ bốn vị tu trở lên, sống hòa hợp với nhau, chớ không phải một người tự sống riêng rẽ. Người thường cho rằng, một người tu cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm. Tăng là mọi người tu hòa hợp và cùng sống trong lục hòa với nhau.

Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn!: Ngay cả Phật Pháp Tăng cũng không hiểu, Phật pháp suy tàn đến mức độ này khiến tôi không thốt nên lời, tôi thật không có cách nào nói ra được. Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ.: Mỗi khi nghĩ đến đây, tôi bỗng rơi lệ như mưa, nước mắt như suối.

Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân: Ta là người xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức của ngài. Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân: Đối với bên trong mà nói, ta không nỗ lực tu hành tức: đối với mình không có ích lợi gì, đối với người bên ngoài cũng không ích lợi chi. Sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu: Lúc sống ta không giúp gì cho đương thời, khi chết đi tức cũng không có lời ích gì cho mai sau. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã: Trời tuy cao, cũng không dung chứa được ta ở giữa trời đất. Và ta không có làm chuyện công đức gì để hưởng sự che chở của trời đất. Địa tuy hậu, bất năng tải ngã: Đất tuy dày, ta cũng không có tư cách gì ở giữa trời đất này, hay cùng trời đất dung hợp. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?: Tội nhân có tội cực trọng này, nếu không phải ta thì là ai? Chính là ta chứ không phải ai khác. Đây là đại sư Tỉnh Am dạy người xuất gia chúng ta đều phải nên hồi quang phản chiếu, đều phải sám hối. Không phải ta thì là ai, đó không phải người nào khác, mà đích thị là ta. Cho nên người xuất gia chúng ta cần phải ghi nhớ là không nên tật đố hay làm những điều chướng ngại cho người.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Ngày thứ năm:
GIẢI THÍCH SƠ LƯỢC VỀ GIÁO NGHĨA LỤC TỨC CỦA TÔNG THIÊN THAI
(Trích sách: "Ấn Quang Đại Sư Khai Thị Tại Pháp Hội
Hộ Quốc Tức Tai Ở Thượng Hải", trang 63-73)
Pháp môn Tịnh Ðộ thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp lợi căn lẫn độn căn, khế lý, khế cơ, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn lợi lạc chúng sanh duy nhất vô thượng. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: "Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?", kẻ thì lại cho rằng: "Ta đã là phàm phu khổ não, làm sao có thể liễu thoát sanh tử, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người mà thôi!" Hai hạng người này đều vì chẳng hiểu rõ nhân quả mà thành ra như thế ấy. Bởi vậy, hôm nay tôi vẫn giảng về nhân quả.

Phải biết "chúng sanh tức là Phật" [chỉ cho] cái nhân chân thật là Phật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu hạnh Niệm Phật mầu nhiệm, Phật tánh chẳng do đâu hiển hiện được thì làm sao đạt được thật quả "giải thoát sanh tử, thành tựu Phật đạo" đây? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật ra chẳng mất! Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì gương sẽ tự có thể chiếu trời soi đất. Nếu nói: "Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật" thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, tự cam chịu đọa lạc. Vả nữa, người đời nay có kẻ đánh cờ, xoa mạt chược đến nỗi mệt quá rồi chết, chẳng biết là bao nhiêu! Nếu họ có thể vận dụng sự khổ nhọc ấy vào chuyện tu hành niệm Phật thì lo gì chẳng vãng sanh Tây Phương, chứng lên đến Phật quả ư? Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi.

Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy soạn cuốn Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị căn bệnh lớn "cam chịu đọa lạc" và bệnh "tự tôn, tự đại sai lầm". Lục Tức Phật là:
  • - Một là Lý Tức Phật,
    - Hai là Danh Tự Tức Phật,
    - Ba là Quán Hạnh Tức Phật,
    - Bốn là Tương Tự Tức Phật,
    - Năm là Phần Chứng Tức Phật,
    - Sáu là Cứu Cánh Tức Phật.
"Lục": Minh thị thứ lớp sâu - cạn; "Tức": Chỉ rõ ngay nơi Thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực, khả năng khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể sai nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ "tuy sáu mà thường tức" thì sẽ chẳng sanh lui sụt. Nếu hiểu "tuy tức mà thường sáu" sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn. Từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do Lý Tức Phật mà thành Cứu Cánh Tức Phật vậy.

1. Lý Tức Phật là hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi trong Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng công đức của Phật Tánh vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là Lý Tức Phật, coi Lý Thể của tâm chính là Phật vậy. Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng:
  • Ðộng, tịnh lý toàn thị
    Hành, tàng sự tận phi,
    Minh minh tùy vật khứ,
    Yểu yểu bất tri quy.

    (Ðộng, tịnh toàn là lý,
    Hành, tàng chẳng trúng gì,
    Tối tăm theo đuổi vật,
    Mờ mịt chẳng biết về).
Do hết thảy chúng sanh chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: "Ðộng, tịnh toàn là lý". Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo Hành, tàng chẳng trúng gì" (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng tương ứng Phật Tánh. Suốt ngày, suốt năm, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục (lòng ham muốn vật chất) phiền não, vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết hồi quang phản chiếu (xoay trở lại xét soi cái tâm), nên bảo là: "Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về".

2. Danh Tự Tức Phật là hoặc do từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ Phật Tánh tịch - chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt. Thông suốt hiểu rõ nơi danh tự, biết hết thảy pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó gọi là "nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thấu suốt Phật pháp". Kệ tụng rằng:
  • Phương thính vô sanh khúc,
    Thỉ văn bất tử ca,
    Kim tri đương thể thị
    Phiên hận tự tha đà.

    (Vừa nghe khúc vô sanh,
    Mới nghe bài bất tử,
    Liền biết ngay đương thể,
    Tiếc đã trót lần khân).
[Ý nói]: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay biết Phật Tánh chân thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể (ngay nơi bản thể) chính là cái nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, còn hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm (thời gian) đến nỗi chưa thể thật sự chứng đắc!

3. Quán Hạnh Tức Phật là nương theo Giáo tu Quán, tức là địa vị Ngoại Phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là:
  • a. Tùy Hỷ Phẩm: Nghe pháp Thật Tướng, tin hiểu, tùy hỷ.

    b. Ðộc Tụng Phẩm: Đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh và sự hiểu biết.

    c. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho người khác.

    d. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để giúp cho quán tâm.

    e. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Lấy việc hành Lục Ðộ làm hạnh chánh yếu, tự mình hành, dạy người khác hành, Lý - Sự đầy đủ.
Quán Hạnh càng thêm thù thắng. Kệ tụng rằng:
  • Niệm niệm chiếu thường lý
    Tâm tâm tức huyễn trần
    Biến quán chư pháp tánh
    Vô giả diệc vô chân.

    (Niệm niệm chiếu thường lý,
    Tâm tâm bặt huyễn trần
    Quán khắp các pháp tánh,
    Không giả cũng không chân).
Ðã viên ngộ (ngộ trọn vẹn) Phật tánh, nương theo Giáo tu Quán, đối trị phiền não tập khí nên bảo là: "Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần". Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật, cho nên nói: "Quán khắp các pháp tánh, không giả cũng không chân".

4. Tương Tự Tức Phật là tương tự giải phát (gần giống như đã giải ngộ, phát khởi), tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng:
  • Tứ Trụ tuy tiên thoát,
    Lục trần vị tận không
    Nhãn trung do hữu ế
    Không lý kiến hoa hồng.

    (Trước đã thoát Tứ Trụ,
    Nhưng sáu trần chửa không,
    Mắt vẫn còn màng mộng
    Thấy hoa đốm trên không)
Tứ Trụ là:
  • a. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới.

    b. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới.

    c. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới.

    d. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới.
Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: "Trước đã thoát Tứ Trụ". Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp chưa hết, nên bảo là: "Nhưng sáu trần chửa không". Ở đây chỉ luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn rỗng không. Tập khí là những dư âm của các Chánh Hoặc (các phiền não chánh yếu). Giống như cái mâm đựng thịt dù đã rửa sạch, vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. "Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không" là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Chân Không Pháp Giới.

5. Phần Chứng Tức Phật là ở [giai đoạn] Thập Tín hậu tâm(49), phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức, liền bước vào Sơ Trụ, chứng Pháp Thân, là Pháp Thân Đại Sĩ. Từ Sơ Trụ đến Đẳng Giác, tổng cộng là bốn mươi mốt địa vị, mỗi địa vị đều phá được một phần vô minh, chứng một phần Tam Đức, nên gọi là Phần Chứng Tức Phật. Do vô minh chia làm bốn mươi hai phẩm, Sơ Trụ phá một phần, cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Trải qua [các địa vị] Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác [lần lượt] phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụ có thể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát ư? Kệ tụng rằng:
  • Hoát nhĩ tâm khai ngộ
    Trạm nhiên nhất thiết thông
    Cùng nguyên do vị tận
    Thường kiến nguyệt mông lung.

    (Ðột nhiên tâm khai ngộ,
    Lặng trong hết thảy thông,
    Vẫn chưa thông tận gốc
    Trăng thường thấy mông lung).
"Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông" là nói về cảnh tượng phá được vô minh đôi phần, chứng ngộ đôi phần. "Vẫn chưa thông tận gốc, trăng thường thấy mông lung" ý nói còn có mây vô minh [che lấp] nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chân trong tự tánh.

6. Cứu Cánh Tức Phật là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên [thấu đạt] tột cùng Chân Tánh, hết sạch Hoặc, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chân Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành đạo Vô Thượng Bồ Ðề. Kệ tụng rằng:
  • Tùng lai chân thị vọng
    Kim nhật vọng giai chân
    Ðản phục bản thời tánh
    Cánh vô nhất pháp tân.

    (Từ trước, chân là vọng
    Hôm nay, vọng đều chân,
    Chỉ khôi phục bản tánh
    Có pháp nào mới đâu?)
"Từ trước chân là vọng" là trước khi ngộ thì cũng chỉ "Ngũ Uẩn đều là không" này mà lầm sanh chấp trước [khiến cho] Sắc Pháp, Tâm Pháp nương theo nhau thành lập, khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn chỉ là Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chân Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn để được. Vì thế, bảo là: "Từ trước chân là vọng. Hôm nay, vọng đều chân". Nhưng cái Chân được chứng ấy nào phải là điều gì mới đạt được, chẳng qua là phục hồi lại Chân Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: "Chỉ khôi phục bản tánh, có pháp nào mới đâu?"

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh, cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi; trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ cái tâm "tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt", thấy hết thảy chúng sanh hoàn toàn là Phật. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho họ được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch không tin, tâm [Phật] cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy thấu suốt kẻ đó chính là một vị Phật chưa thành vậy.

CHÚ THÍCH:

(49) Đã viên mãn mười Tín tâm thì gọi là Thập Tín hậu tâm, tức là đã chuẩn bị tiến vào địa vị Sơ Trụ.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Nguyên văn:
  • 由是痛不可忍,計無所出;頓忘鄙陋,忽發大心。雖不能挽回末運於此時,決當圖護持正法於來世。是故偕諸善友,同到道場;述為懺摩,建茲法會。發四十八之大願,願願度生;期百千劫之深心,心心作佛。從於今日,盡未來際,畢此一形,誓歸安養,既登九品,回入娑婆。俾得佛日重輝,法門再闡。僧海澄清於此界,人民被化於東方,劫運為之更延,正法得以久住。此則區區真實苦心。是為發菩提心第十因緣也。
Âm Hán Việt:

Do thị thống bất khả nhẫn, kế vô sở xuất; đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm. Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời, quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế. Thị cố giai chư thiện hữu, đồng đáo đạo tràng; thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội. Phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh; kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật. Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng, ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển, tăng hải trừng thanh ư thử giới, nhân dân bị hóa ư Ðông phương, kiếp vận vi chi cánh diên, chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ. Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm. Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã.
  • Dịch:
Vì thế mà đau lòng không thể cầm lòng. Nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay cái quê hèn của mình, liền phát đại tâm. Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng tôi quyết hộ trì chánh pháp ở mai sau. Vì thế chư thiện hữu cùng đến đạo tràng, tỏ bày sám hối, kiến lập pháp hội. Phát bốn mươi tám lời đại nguyện, nguyện hóa độ chúng sanh, trong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm niệm đều thành Phật. Từừ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm. Xong, trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp lại rạng soi, rộng mở pháp môn một lần nữa, để tăng giới được thanh tịnh ở cõi này. Dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Do đó chánh pháp được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.
  • Giảng:
Do thị thống bất khả nhẫn: Nói đến đây tôi thật đau lòng không thể nhẫn! Nhẫn việc khó nhẫn, nhưng cũng nhẫn không xong. Kế vô sở xuất: Tôi cũng không có cách nào trốn khỏi các nghiệp tôi đã tích trữ sâu dày. Đốn vong bỉ lậu, hốt phát đại tâm: Vì thế lập tức quên mình tệ lậu kém hèn, bèn phát tâm Bồ Đề rộng lớn, rằng: Không được! Ta không thể làm kẻ tội nhân đại cực ác như thế, mà cần phải phát đại Bồ Đề tâm!

Tuy bất năng vãn hồi mạt vận ư thử thời: Tuy ta phát tâm Bồ Đề rộng lớn, cũng không thể hoàn toàn cứu vãn khí vận của thời mạt pháp. Nhưng quyết đương đồ hộ trì chánh pháp ư lai thế là nhất quyết phát nguyện họ trì chánh pháp trong đời vị lai. Tôi bảo các vị, tại sao tôi phải duy trì chánh pháp? Vì đời đới kiếp kiếp tôi đều phát nguyện hộ trì chánh pháp và nhất định phải hành trì chánh pháp. Từ vô lượng kiếp đến nay, tôi đều phát nguyện như vậy. Cho nên khi đến đây, tôi cố gắng duy trì chánh pháp và không quản ngại biết bao khó khăn gian khổ. Như dù có người chửi mắng, hủy báng, tật đố, chướng ngại tôi, tôi đều phải giữ gìn chánh pháp. Tôi tuyệt đối không thể lơ là với chí nguyện này được!

Thị cố giai chư thiện hữu,: Vì thế tôi nay cùng với rất nhiều bạn lành, đồng đáo đạo tràng, cùng đến Vạn Phật Thánh Thành. Thuật vi sám ma, kiến tư pháp hội: Chúng ta cùng đến chỗ này, tu Đại Bi Sám Pháp. Quý vị có biết không? Đến Vạn Phật Thánh Thành chính là đến đạo tràng. Đạo tràng chính là đạo tràng của mỗi người quý vị, nên quý vị cần phải ghi nhớ, không nên bỏ bê đạo tràng lớn của mình. Tại sao đạo tràng lớn này là của quý vị? Vì cá nhân tôi, tôi không sao dùng cho hết một nơi lớn như thế! Cho nên, đây là chỗ của tất cả Phật giáo đồ trên thế giới, không phải chỗ riêng tôi, tôi bất quá ở chỗ này ngày ngày gác cửa cho quý vị. Vì quý vị muốn làm hoàng đế, hoặc muốn làm tổng thống nên rất bận rộn đi công tác, hoạt động khắp nơi. Hoặc là vì muốn làm chủ công ty, làm tổng giám đốc, làm ông chủ nhà mình, nên mỗi người đều có trách nhiệm riêng; chỉ có tôi là người thất nghiệp, không có chức vụ gì, đành phải ở đây làm tớ, trông coi nhà cửa cho quý vị. Đợi đến khi quý vị được làm hoàng đế, làm tổng thống rồi, lúc đó quý vị càng lại phải phát tâm hộ trì Vạn Phật Thánh Thành hơn nữa. Nghe vậy quý vị nói: "Ồ! Sư Phụ, Sư Phụ nói đùa hoài!" Tôi nói: "Sau quý vị biết được sau này mình chẳng phải là tổng thống hay hoàng đế? Nếu đời sau quý vị được làm hoàng đế vì quý vị phát nguyện: "Kiếp sau khi làm hoàng đế, tôi nhất định sẽ ủng hộ Vạn Phật Thánh Thành, tôi sẽ dùng bảo điện kim loan của tôi để tu sửa Vạn Phật Thánh Thành, và dùng vàng kim để xây dựng Phật điện nguy nga tráng lệ như kim loan điện". Đây đều là những việc mà quý vị không thể tiên đoán được. Cho nên đệ tử hoàng đế này của tôi, nay lại không muốn trở về hoàng cung của y. Tôi hỏi: am cung lục viện của ông thì sao? Y nói, y không màng đến và còn bảo các nàng tam cung lục viện của y cùng đến Vạn Phật Thánh Thành tu học. Cho nên đây là điều rất quan trọng.

Sáng năm sau, từ ngày 21 tháng 7 âm lịch, buổi tối chúng ta làm lễ sái tịnh, đến ngày 22 thì chính thức đả thất Địa Tạng, niệm danh hiệu ngài Địa Tạng, hoặc niệm "Án ma ni bát di hồng". Trước kia chúng ta đã thử qua thất "Án ma ni bát di hồng", ngày đêm sáu thời, chia làm ba phiên. Phiên thứ nhất niệm tám tiếng thì thay phiên, phiên kế lại niệm tám tiếng rồi đổi phiên khác, cứ thế mà luân phiên đổi ca niệm Phật không gián đoạn trong bảy ngày. Khi đả thất viên mãn, nhìn thấy những đứa Mỹ con đều rất ưa thích và rất thành tâm, tôi bèn làm bài thơ "Vũ Trụ Bạch" để kỷ niệm pháp hội đó. Vậy sang năm, chúng ta lại cùng nhau nghiên cứu xem, nên niệm "Án ma ni bát di hồng" hay niệm "Địa Tạng Vương Bồ tát". Quý vị muốn niệm danh hiệu gì cũng được và chúng ta sẽ niệm sáu thời suốt trong bảy ngày. Kỳ thất trước, tôi không biết họ đã phân mỗi ca là tám giờ, hay mười hai giờ nữa. Lúc đó, họ tự niệm, tôi không có tham dự và cũng không để ý đến.

Các vị không nên cho rằng, mỗi Phật sự ở đây, tôi đến phải tham gia. Như có người nói: "A! Chúng con ngồi thiền cũng không thấy Sư phụ đến!" Mỗi ngày tôi đều ở đây, quý vị đã nhìn không thấy mà lại còn oán trách này nọ! Quý vị không có mắt thì làm sao nhìn thấy tôi được? Tôi có đến quý vị cũng không biết. Vì tôi bước rất nhẹ nhàng không gây tiếng động, nên dù có đi sát bên quý vị, quý vị cũng không hay. Tôi thật không nói chuyện thần thoại, mà đích xác là như vậy. Nhưng quý vị lại cho rằng, đã không nhìn thấy tôi. Nếu không nhìn thấy tôi, vậy quý vị đến đây để nhìn thấy ai?

Ngày 22 bắt đầu đả thất Địa Tạng, đến ngày 27 thì viên mãn. Ngày 28, 29, 30 chúng ta lạy Phật và niệm Phật sám hối. Pháp hội lần này dài khoảng 10, 11 ngày. Nếu ai hoan hỷ đến, thì một mình đến cũng tốt mà cả đoàn thể đến cũng tốt! Nhưng khi đến, quý vị cần phải thông báo cho chúng tôi hay trước để chúng tôi kịp thời sắp đặt chỗ ở cho các vị đến đây dụng công tu đạo. Điều này rất cần thiết, cho nên quý vị chớ đến thình lình, khiến chúng tôi không có thời gian chuẩn bị sắp xếp. Trong thời gian đả thất, chúng tôi cũng không thể đón đưa người được.

Vì thế, sau này bất luận có ai đến Vạn Phật Thánh Thành, chúng ta không đón và cũng không đưa, mà các vị phải tự đến. Nếu như tiếp rước, đưa tiễn, thì lãng phí rất nhiều thời gian của người dụng công tu đạo ở đây, khiến quý vị không có chỗ công đức. Vì để thành tựu công đức của quý vị, hai bên chúng ta cần phải yên ổn vô sự và vì đều là người nhà với nhau nên không được khách sáo. Tôi hy vọng quý vị đặc biệt chú ý điểm này.

Điều quan trọng nhất là khi đến đây, người hút thuốc phải đi khám sức khỏe và quăng bỏ tất cả các bao thuốc lá đó trên máy bay, không được đem đến Vạn Phật Thánh Thành. Nếu mang theo thì dù không có hút, y cũng chỉ làm cho Vạn Phật Thánh Thành xông nồng mùi thuốc lá. Chúng tôi thật chịu không nổi cái mùi này! Có lúc tôi nói đùa như: Người của Vạn Phật Thánh Thành giống như rắn, rất sợ thuốc lá và cũng giống như loài sâu bọ vừa nghe mùi thuốc hút là chạy hết. Cho nên chúng tôi ở đây đều là những con sâu, cái kiến, loại muỗi, ruồi nhỏ nhoi, ở chỗ này kêu vo ve, vo ve. Vậy khi quý vị đến đây xin nhớ là không nên bắt nạt hay ăn hiếp những loài sâu, kiến nhỏ bé này.

Khi lập pháp hội sám hối như vầy, chúng ta cần phải phát tứ thập bát chi đại nguyện, nguyện nguyện độ sanh: Mỗi nguyện đều hóa độ chúng sanh. Kỳ bách thiên kiếp chi thâm tâm, tâm tâm tác Phật: Dù trải qua trăm ngàn muôn kiếp,tận trong thân tâm chúng ta đều nguyện sẽ thành Phật.

Tùng ư kim nhật, tận vị lai tế, tất thử nhất hình, thệ quy An dưỡng: Kể từ ngày hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, mỗi cuối đời người, chúng ta phát nguyện về thế giới Cực Lạc. Chính là khi mạng chung, ta nhất định sanh về Cực Lạc. "An Dưỡng" chính là thế giới Cực Lạc. Ký đăng cửu phẩm, hồi nhập Ta bà: Đã lên chín phẩm, tức hoa khai kiến Phật và sau đó trở lại thế giới Ta Bà. Tỷ đắc Phật nhật trùng huy, pháp môn tái xiển: Khiến cho mặt trời Phật pháp lại sáng chói huy hoàng, cũng như xiển dương rộng rãi pháp môn một lần nữa. Tăng hải trừng thanh ư thử giới: Chư Tăng đều trừng thanh, thanh tịnh, chẳng có những người không tu hành. Nhân dân bị hóa ư Ðông phương: Tất cả nhân dân đều được Phật giáo hóa ngay nơi cõi Đông phương. Kiếp vận vi chi cánh diên: Chánh pháp của Phật nhờ đó mà được kéo dài thêm nữa. Không phải nói kiếp vận kéo dài mà là chánh pháp kéo dài, tức sẽ không còn kiếp vận. Chánh Pháp đắc dĩ cửu trụ: Nếu người người đều thực hành dụng công tu đạo, không có lòng ích kỷ, không có tâm cầu danh, cầu lợi, không có tham tâm, không có những dục niệm, đó chính là lúc chánh pháp tồn tại lâu dài.

Thử tắc khu khu chân thật khổ tâm: Đại sư Tỉnh Am nói, đây là sự khổ tâm nhỏ bé của ngài. Vì ngài khiêm nhường nên mới cho đó là loại khổ tâm nhỏ bé, yếu ớt không có sức mạnh chi.

Thị vi phát Bồ đề tâm đệ thập nhân duyên dã: Đây là nhân duyên thứ mười của sự phát Bồ Đề tâm.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

III. PHẦN LƯU THÔNG
Nguyên văn:
  • 如是十緣備識,八法周知。則趨向有門,開發有地。相與得此人身,居於華夏。六根無恙,四大輕安,具有信心,幸無魔障。況今我等,又得出家,又受具戒,又遇道場,又聞佛法,又瞻舍利,又修懺法,又值善友,又具勝緣。不於今日發此大心,更待何日?惟願大眾,愍我愚誠;憐我苦志,同立此願,同發此心。未發者今發,已發者增長,已增長者今令相續。勿畏難而退怯,勿視易而輕浮,勿欲速而不久長,勿懈怠而無勇猛,勿委靡而不振起,勿因循而更期待,勿因愚鈍而一向無心,勿以根淺而自鄙無分。譬諸種樹,種久則根淺而日深;又如磨刀,磨久則刀鈍而成利。豈可因淺勿種,任其自枯;因鈍弗磨,置之無用?
Âm Hán Việt:

Như thị thập duyên bị thức, bát pháp châu tri, tắc xu hướng hữu môn, khai phát hữu địa. Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an, cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng. Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới, hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp, hựu chiêm xá lợi, hựu tu sám pháp, hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật? Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành; lân ngã khổ chí, đồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm. Vị phát giả kim phát, dĩ phát giả tăng trưởng, dĩ tăng trưởng giả kim linh tương tục. Vật úy nan nhi thối khiếp, vật thị dị nhi khinh phù, vật dục tốc nhi bất cửu trường, vật giải đãi nhi vô dũng mãnh, vật ủy mĩ nhi bất chấn khởi, vật nhân tuần nhi cánh kỳ đãi, vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm, vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phận. Thí chư chủng thọ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm; hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi. Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô; nhân độn phất ma, trí chi vô dụng?
  • Dịch:
Như thế chúng ta đã biết mười nhân duyên và cũng về hiểu rõ, tám tướng trạng, thì xu hướng có lối, phát tâm có chỗ. Chúng ta nay được thân người, ở xứ Trung Hoa, sáu căn đầy đủ, tứ đại nhẹ nhàng an lạc, tín tâm đầy đủ, may mắn lại không bị ma chướng. Hơn nữa ngày nay chúng ta còn được xuất gia, thọ giới cụ túc, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi, được tu tập sám pháp, được gặp bạn lành, hộ đủ thắng duyên. Nếu ngày nay chúng ta không phát tâm rộng lớn, thì còn chờ đến ngày nào.

Cúi xin đại chúng, cảm thương cho tâm thành ngu muội của tôi, tội nghiệp cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập nguyện ấy, đồng phát tâm này. Nếu ai chưa phát thì nay phát. Ai đã phát rồi thì làm tăng trưởng thêm. Ai đã tăng trưởng phát tâm rồi thì nên tiếp tục tiến tới. Chớ sợ gian nan mà khiếp sợ thối lui, và đừng cho là dễ mà khinh lờn, hời hợt. Đừng ham mau mà chẳng lâu bền. Đừng biếng nhác giải đãi mà thiếu dũng mãnh. Đừng uể oải mà không phấn khởi. Đừng chần chờ mà kỳ hẹn mãi. Đừng vì ngu độn mà cứ mãi vô tâm. Đừng vì căn cơ cạn cợt mà tự khinh mình không xứng đáng có phần. Như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn, ngày càng ăn sâu; như mài dao, mài mãi thì dao cùn cũng trở thành sắc bén. Phải chăng vì rễ cạn mà không trồng, mặc cây khô héo? Có phải vì dao cùn mà không mài, để dao vô dụng?

  • Giảng:
Như thị thập duyên bị thức, bát pháp châu tri: Ở trên chúng ta đã hiểu rõ mười loại nhân duyên là: báo ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thí chủ, ân chúng sanh, nhớ khổ sanh tử, tôn trọng tánh linh của mình, sám hối nghiệp chướng, cầu sanh Tịnh Độ, và khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài. Chúng ta cũng hiểu rõ tám pháp: tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, và thiên viên. Tắc xu hướng hữu môn, khai phát hữu địa: Quý vị đã biết được đường lối tu hành như thế nào và cũng có chỗ để khai phát tâm Bồ Đề của quý vị.

Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ: Nay quý vị đã có các thứ nhân duyên, đã được thân người, ở xứ Hoa, Trung Quốc. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an: Lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều đầy đủ không có tật bệnh gì. Tứ đại: đất, nước, gió, lửa cũng được điều hòa, không có bệnh tật chi. Cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng.: Các vị lại có đầy đủ tín tâm mà không bị ma chướng làm chướng ngại sự tu hành học đạo của quý vị.

Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới: Huống chi chúng ta hôm nay lại được xuất gia, được thợ giới Cụ túc. Hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp: Lại gặp được đại đạo tràng Vạn Phật Thánh Thành, lại có người giảng kinh thuyết pháp cho nghe. Hựu chiêm xá lợi, hựu tu sám pháp: Vạn Phật Thánh Thành của chúng ta cũng có Xá lợi của Phật và chúng ta lại được tu trì Đại Bi Sám cùng các khóa lễ sám hối khác. Hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên: Lại gặp được rất nhiều bạn tốt, lại hội đầy đủ các thứ nhân duyên thù thắng đặc biệt. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật?: Nếu quý vị không phát Bồ Đề tâm rộng lớn trong ngày hôm nay, thì còn đợi đến ngày nào nữa!

Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành; lân ngã khổ chí: Đại sư Tỉnh Am nói, cúi xin các vị đại chúng! Xót thương cho tấm lòng thành khẩn ngu si của tôi mà thông cảm tôi và thương hại cho cái chí nguyện khổ tâm này của tôi. Đồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm.: Đồng phát bốn mươi tám lời đại nguyện, cũng là phát tâm nguyện này.

Vị phát giả kim phát: Nếu người chưa phát bốn mươi tám lời nguyện này thì nên phát ngay. Dĩ phát giả tăng trưởng: Đã phát bốn mươi tám lời nguyện rồi, thì càng ngày càng làm cho các nguyện này tăng trưởng rộng lớn hơn. Dĩ tăng trưởng giả kim linh tương tục.: Đã càng ngày càng làm cho tăng trưởng rồi, nay cần phải tương tục không gián đoạn phát Bồ Đề tâm này.

Vật úy nan nhi thối khiếp: Lúc tu Bồ Tát đạo, quý vị không nên sợ sự gian nan mà sanh lòng khiếp sợ thối lui. Vật thị dị nhi khinh phù: Quý vị cũng không nên nhìn thấy những việc dễ dàng mà khinh thường hời hợt.

Vật dục tốc nhi bất cửu trường: Quý vị cũng không nên ham mau, nếu không thì sự phát tâm này sẽ chẳng lâu bền. Quý vị cần có tâm lâu bền mà không nên có tâm càu may, cầu lợi, rồi cho rằng, đầu cơ, lợi dụng thời cơ kiếm lợi thì có thể tu thành Phật! Không bao giờ có chuyện này! Nói tới đây, tôi lại nhớ chuyện trước kia. Khi tôi dạy bốn mươi hai pháp Thủ Nhãn, thì có người hành trì pháp môn này được vài năm, nhưng cảm thấy không có thành tựu chi, y bèn không chịu tu nữa. Đó gọi là thối lui, vì thối lui nên cũng không có thể lâu bền được. Vật giải đãi nhi vô dũng mãnh: Quý vị không nên giải đãi biếng nhác, mà không có chút tâm dõng mãnh nào.

Vật ủy mĩ nhi bất chấn khởi: Quý vị chớ nên ủy mị hay lôi thôi không dứt khoát. Việc cần đoạn lại không đoạn được, và không có chút gì gọi là phấn chấn. Ngược lại quý vị cần phải phấn khởi, vươn lên. Vật nhân tuần nhi cánh kỳ đãi: Quý vị không nên trì hoãn các công tác được giao phó hay làm một cách cẩu thả, vô trách nhiệm. Nhân tuần chính là chậm chạp kỳ hẹn, không dõmg mãnh tinh tấn. Kỳ đãi là hẹn lần hẹn lựa, nói: "Tôi nay không tu được, đợi khi nào sắp xếp không mọi việc, rồi sẽ tính sau". Thật ra đối với chuyện tu hành, chúng ta không thể chần chừ, kỳ hẹn được.

Vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm: Quý vị không nên vì mình ngu si mà không phát Bồ Đề tâm. Vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phận: Cũng không nên cho rằng căn cơ của mình cạn cợt và Phật đạo xa với vợi khó thành tựu, ta không có phần thành Phật. Quý vị không nên có tâm như thế!

Ở đây thí chư chủng thọ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm: Thí dụ như trồng cây, khi mới trồng thì rễ của nó rất cạn, nhưng trồng lâu ngày dài tháng tức rễ của nó sẽ cắm sâu vào lòng đất. Hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi: Lại thí dụ như mài dao. Dao vốn rất cùn, nhưng mài lâu ngày thì nó trở thành con dao sắc bén.

Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô: Quý vị không nên vỉễ rất cạn mà không muốn trồng cây, mặc cho cây khô cằn và chết héo. Nhân độn phất ma, trí chi vô dụng? Cũng không nên vì dao cùn mà không mài dũa rồi thảy qua một bên, nói dao này lụt qua không thể dùng được.

Nguyên văn:
  • 又若以修行為苦,則不知懈怠尤苦。修行則勤勞暫時,安樂永劫;懈怠則偷安一世,受苦多生。況乎以淨土為舟航,則何愁退轉?又得無生為忍力,則何慮艱難?當知地獄罪人,尚發菩提於往劫;豈可人倫佛子,不立大願於今生。無始昏迷,往者既不可諫;而今覺悟,將來猶尚可追。然迷而未悟,固可哀憐;苟知而不行,尤為痛惜。若懼地獄之苦,則精進自生;若念無常之速,則懈怠不起。又須以佛法為鞭策,善友為提攜,造次弗離,終身依賴,則無退失之虞矣!勿言一念輕微,勿謂虛願無益。心真則事實,願廣則行深。虛空非大,心王為大;金剛非堅,願力最堅。大眾誠能不棄我語,則菩提眷屬從此聯姻。蓮社宗盟,自今締好,所願同生淨土,同見彌陀,同化眾生,同成正覺。則安知未來三十二相,百福莊嚴!不從今日發心立願而始也。願與大眾共勉之!幸甚幸甚!
Âm Hán Việt:

Hựu nhược dĩ tu hành vi khổ, tắc bất tri giải đãi vưu khổ. Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp; giải đãi tắc thâu an nhất thế, thọ khổ đa sanh. Huống hồ dĩ Tịnh độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển? Hựu đắc vô sanh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan? Đương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ đề ư vãng kiếp; khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sanh. Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián; nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy. Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân; cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích. Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sanh; nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi. Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề. Tháo thứ phất ly, chung thân y lại, tắc vô thối thất chi ngu hỹ! Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích. Tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hạnh thâm. Hư không phi đại, tâm vương vi đại; kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên. Đại chúng thành năng bất khí ngã ngữ, tắc Bồ đề quyến thuộc tùng thử liên nhân. Liên xã tông minh, tự kim đế hảo, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng kiến Di Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phước trang nghiêm! Bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã. Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi! Hạnh thậm hạnh thậm!
  • Dịch:
Lại nữa, nếu cho tu hành là cực khổ vì không biết, sự biếng nhác lại còn khổ hơn. Tu thì khó nhọc tạm thời nhưng được an vui vĩnh kiếp, còn biếng nhác thì một đời tạm nhàn nhưng lắm kiếp chịu sự khổ đau. Huống chi lấy pháp môn Tịnh Độ làm thuyền tàu thì lo gì thối chuyển? Một khi được sức nhẫn vô sanh thì sợ gì khó khăn? Nên biết từ bao kiếp trước, ngay cả kẻ tội nhân trong cõi địa ngục mà còn phát Tâm Bồ đề, huống chi ta nay đã làm người, lại làm con Phật, mà sao lại không lập đại nguyện ngay trong đời này.

Từ vô thỉ đến nay hôn mê mờ mịt, nên cũng không thể can gián những việc đã qua. Nhưng nay tỉnh ngộ, thì có thể truy tới chuyện tương lai. Mê mà chưa ngộ, cố nhiên rất là đáng thương; còn biết mà không làm, mới càng đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục thì tự nhiên sẽ tinh tấn. Nếu nhớ cái vô thường mau đến thì sẽ không biếng lười. Lại nữa cần lấy Phật pháp làm roi thúc dục. Lấy thiện hữu làm tay dắt, trong khoảnh khắc cũng không tách rời, mà nương nhau theo suốt cả đời, thì không còn lo lắng sự thối chuyển nữa. Chớ bảo một niệm phát nguyện là nhỏ nhặt, và đừng cho những lời nguyện là trống rỗng, là vô ích. Tâm chân thì mưu thành, nguyện lớn thì hành sâu. Hư không chẳng lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có cứng chắc, nguyện lực mới chắc bền nhất.

Nếu đại chúng không bỏ qua lời tôi, thì từ đây kết hợp quyến thuộc Bồ đề. Bạn hữu Liên xã từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh Tịnh Độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Như vậy thì biết đâu, ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này của chúng ta chẳng bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay? Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như thế thật lành thay! May mắn thay!

  • Giảng:
Hựu nhược dĩ tu hành vi khổ: Nhược là giả thiết. Giả như quý vị cảm thấy tu hành là một việc cực khổ, không chịu nổi! Ăn một bữa cũng cảm thấy rất khó khăn và không ăn thịt cũng thấy rất thèm, điều này không được làm, điều kia cũng không được làm. Há chẳng phải là không được tự do chăng? Tắc bất tri giải đãi vưu khổ.: Nhưng quý vị lại không biết, nếu quý vị không tu hành, lại giải đãi biếng lười thì còn khổ hơn nữa. Khổ của tu hành chỉ là cực khổ nhất thời, mà được an vui vĩnh viễn. Còn như nếu quý vị không tu hành thì vĩnh viễn ở trong biển khổ. Có lúc quý vị cảm thấy nếu ở nhà tốt, mặc đồ đẹp, ăn món ngon,và vui chơi hưởng thụ là được rồi, Nhưng đó chỉ là tạm thời, không phải vĩnh viễn. Nếu như quý vị tạo tội nghiệp, thì vĩnh kiếp đều là đau khổ.

Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp: Tu hành chỉ là nhất thời cảm thấy không được hưởng thụ, nhưng nếu quý vị tu hành thành công thì vĩnh viễn được an lạc nơi thế giới Cực Lạc, không còn chịu sự đau khổ. Giải đãi tắc thâu an nhất thế, thọ khổ đa sanh.: Giải đãi chính là sự làm biếng trốn việc, sống cầu an cho qua ngày đoạn tháng. Đó chỉ là một đời này cảm thấy được hưởng phước, hưởng thụ, nhưng sau này vĩnh viễn bị sa đọa, hoặc là bị đọa vào địa ngục, hoặc là sanh vào ngạ quỷ hay làm súc sanh chịu sự đau khổ vô cùng.

Huống hồ dĩ Tịnh Độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển?: Huống chi lấy pháp môn Tịnh Độ làm thuyền bè đưa chúng ta ra khỏi biển khổ mà không còn phải lo lắng về cảnh khổ đau nữa. Nếu thối chuyển thì sẽ nhận chịu cảnh khổ đau. Hựu đắc vô sanh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan?: Quý vị lại được Vô sanh pháp nhẫn, tức sẽ không cảm thấy có gì là đau khổ để nhẫn, cũng không có gì là an vui để mong cầu. Vô sanh pháp nhẫn này cũng là không thấy khổ, không thấy vui, không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Vậy quý vị còn sợ gì gian nan chi nữa? Cho nên quý vị chớ sợ gian nan cực khổ!

Đương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ đề ư vãng kiếp: Quý vị nên biết kẻ tội nhân tuy đọa vào địa ngục, nhưng lại thoát khỏi cảnh địa ngục rất nhanh mà lìa khổ được vui, vì xưa kia họ cũng đã phát Bồ Đề tâm. Vậy thì khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sanh.: Đã như họ ở địa ngục phát Bồ Đề tâm đều có thẻ lìa khổ được vui, huống chi chúng ta là người hiền lành, lại là để tử ngoan của đức Phật, thì tại sao không thể phát đại nguyện trong đời này?

Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián: Từ vô lượng kiếp cho đến hôm nay, chúng ta đều không hiểu mà hôn mê mờ mịt. Nhưng việc quá khứ thì không có cách nào vãn hồi. Nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy: Nhưng nay chúng ta đã hiểu rõ, đã giác ngộ nên những việc trong tương lai còn có cơ hội cứu vãn.

Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân: Nếu quý vị vẫn còn ở trong mê muội, không được giác ngộ, cố nhiên rất đáng thương xót! Nhưng chỉ vì quý vị còn ở trong mê nên cũng không biết là mê. Cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích.: Mà quý vị đã biết, đã hiểu thì nên phát nguyện; nếu không phát nguyện thì càng đáng thương hại hơn!

Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sanh: Nếu quý vị sợ quả báo trong địa ngục, thì tự nhiên sẽ tinh tấn dõng mãnh. Nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi.: Nếu nhớ vô thường mau đến tìm mình thì chúng ta sẽ không giải đãi biếng lười.

Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề: Quý vị nên dùng Phật pháp để làm roi thúc dục, khích lệ, khuyên nhắc mình, lại thêm bạn lành cùng giúp đỡ, dìu dắt nhau. Tháo thứ phất ly, chung thân y lại: Thân thứ là thời gian rất ngắn. Tức là dù trong khoảng thời gian rất ngắn cũng không lìa Phật pháp, không lìa pháp môn này. Chung y thân lại là suốt đời nương theo Phật pháp. Tắc vô thối thất chi ngu hỹ! Nếu được như thế thì sẽ không thối thất Bồ Đề tâm.

Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích.: Quý vị chớ bảo rằng một niệm phát nguyện thì rất nhỏ nhặt, không gì quan trọng, cũng không nên nói rằng, đó phát cái nguyện hư vọng, không có ích lợi chi. Tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hạnh thâm.: Nếu qý vị chân thành phát nguyện thì nguyện đó sẽ trở thành sự thật. Nếu phát nguyện quảng đại thì hành động của quý vị sẽ càng tinh tấn, càng sâu rộng hơn.

Hư không phi đại, tâm vương vi đại: Hư không còn chưa được xem là lớn, tâm vương của quý vị mới là lớn, vì tâm vương không có hạn lượng. Kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên: Trên thế giới này thì kim cương là vật kiên cố cứng chắc nhất, nhưng cũng không sánh bằng nguyện lực của quý vị. Cho nên, không được quên mất nguyện lực của mình. Nguyện lực đó mới là kiên cố nhất.

Đại chúng thành năng bất khí ngã ngữ: Đại chúng nếu có thể nghe mà không quên lời của tôi, tắc Bồ đề quyến thuộc tùng thử liên nhân: tức từ đây chúng ta sẽ kết hợp quyến thuộc Bồ Đề làm ba còn thân thích với nhau.

Liên xã tông minh, tự kim đế hảo: Mọi người cùng nhau phát nguyện, cùng nhau niệm Phật thì Liên Xả từ đây kết giao. Sở nguyện đồng sanh Tịnh Độ, đồng kiến Di Đà: Mọ người đồng vãng sanh Tịnh Độ, cùng nhìn thấy Phật A Di Đà. Đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác.: Sau đó lại cùng nhau giáo hóa chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phước trang nghiêm! Bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã.: "An tri" nghĩa là làm sao biết được vị lai chúng ta sẽ thành Phật, đươc ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm giống như Phật, lại không phải là bắt đầu từ sự phát Bồ Đề tâm, lập Bồ Đề nguyện từ ngày hôm nay.

Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi! Hạnh thậm hạnh thậm! Nguyện cùng đại chúng cùng nhau nỗ lực, cùng nhau phát nguyện không thối thất tâm Bồ Đè và cùng nhau dõng mãnh tinh tấn hướng về phía trước. Nếu được như thế, thật là kiết tường và may mắn biết bao!
  • Lời của Ban Biên Tập:
Năm 1979 và 1985, Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuyết bài "Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm" tại Vạn Phật Thánh Thành và tại chùa Kim Sơn khuyến khích chúng đệ tử phát Bồ Đề tâm. Vì lúc đó thiết bị ghi âm sơ sài, cho nên có phần thiếu sót. Hôm nay nhân vì muốn đại chúng nghe được lời dạy của Hòa thượng một cách hoàn hảo, nên chúng tôi trước chỉnh đốn các bài giảng năm 1985, sau bổ tức bài giảng năm 1979 vào chỗ ghi âm bị thiếu sót.
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 20/01/14 17:57 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHỤ LỤC:
ĐẠI SƯ TỈNH AM
Nguyên văn:
  • 蓮社十一祖 清梵天

    省庵法師

    師,諱實賢,字思齊,號省庵。常熟時氏子,世儒業。幼出家,嚴習毗尼。尋入講筵,明性相之學。參“念佛者是誰”話,四閱月,忽然開悟曰:“我夢覺矣!”自是機鋒迅利,才辯縱橫,晝覽藏經,晚持佛號。燃指於阿育王山,佛前發四十八大願,感舍利放光。作《勸發菩提心文》,激勵四衆,誦諸多爲涕下。於雍正十二年四月十四日,面西寂然,送者麇至。忽開目曰:“吾去即來,生死事大,各自淨心,念佛可矣!”合掌連稱佛名而逝。
贊曰:
  • 悲心廣大 菩提心文
    四十八願 願力宏深
    行解真實 瑞應超倫
    蓮宗一脈 賴以常存
或說偈曰:
  • 見賢思齊精進修 業儒讀書勝大坵
    從佛專研毗尼法 參禪徹悟誰自由
    大哉菩提激勵發 至矣誓願天地悠
    舍利放光照千古 尊者恩澤萬劫留
Âm Hán Việt:

Liên Xã thập nhất Tổ Thanh Phạm Thiên
Tỉnh Am Pháp sư

Sư, húy Thật Hiền, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am. Thường Thục Thời thị tử, thế Nho nghiệp. Ấu xuất gia, nghiêm tập Tỳ ni. Tầm nhập giảng diên, minh tánh tướng chi học. Tham "niệm Phật giả thị thùy" thoại, tứ duyệt nguyệt, hốt nhiên khai ngộ viết: "Ngã mộng giác hỹ!" Tự thị cơ phong tấn lợi, tài biện tung hoành, trú lãm tạng kinh, vãn trì Phật hiệu. Nhiên chỉ ư A Dục Vương sơn, Phật tiền phát tứ thập bát đại nguyện, cảm xá lợi phóng quang. Tác "Khuyến phát Bồ đề tâm văn", khích lệ tứ chúng, tụng giả đa vi thế hạ. Ư Ung Chánh thập nhị niên tứ nguyệt thập tứ nhật, diện tây tịch nhiên, tống giả quần chí. Hốt khai mục viết: "Ngô khứ tức lai, sanh tử sự đại, các tự tịnh tâm, niệm Phật khả hỹ!" Hợp chưởng liên xưng Phật danh nhi thệ.

Tán viết:

  • Bi tâm quảng đại
    Bồ đề tâm văn
    Tứ thập bát nguyện
    Nguyện lực hoằng thâm
    Hành giải chân thật
    Thụy ứng siêu luân
    Liên tông nhất mạch
    Lại dĩ thường tồn.
Hoặc thuyết kệ viết:
  • Kiến hiền tư tề tinh tiến tu
    Nghiệp Nho độc thư thắng đại khưu
    Tùng Phật chuyên nghiên Tỳ ni pháp
    Tham thiền triệt ngộ thùy tự do
    Ðại tai Bồ đề khích lệ phát
    Chí hỹ thệ nguyện thiên địa du
    Xá lợi phóng quang chiếu thiên cổ
    Tôn giả ân trạch vạn kiếp lưu.
Dịch:

Đại sư Thật Hiền tự Tư Tề, hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục. Xuất gia từ thuở bé, sau khi xuất gia, ngài nghiêm trì giới luật, giảng kinh thuyết pháp, nghiên cứu pháp môn tánh tướng. Bốn tháng tham cứu câu "Niệm Phật Là Ai", ngài hoát nhiên khai ngộ, và nói: "Tôi đã tỉnh giấc mơ!". Từ đó cơ phong Thiền của ngài lanh lẹ sắc bén, biện tài thêm tung hoành, ngày duyệt Tam tạng kinh, đêm chuyên trì Phật hiệu. Ngài đốt ngón tay ở tháp A Dục Vương, rồi trước Phật phát bốn mươi tám lời đại nguyện. Lúc ấy cảm ứng xá lợi Phật phóng hào quang rực rỡ. Ngài làm bài văn "Khuyến phát Bồ đề tâm văn", khích lệ tứ chúng, nhiều người đã rơi lệ khi đọc bài văn này.

Ngày mười bốn tháng tư, niên hiệu Ung Chánh thứ mười hai, Ðại sư ngồi hướng về Tây mà viên tịch. Hàng đạo tục các nơi nghe tin tụ hội về đưa tiễn rất đông. Ðại sư bỗng mở mắt nói:

"Tôi đi không bao lâu sẽ trở lại, sanh tử là việc lớn, mỗi người nên tự thanh tịnh tâm ý, niệm Phật thì có thể giải quyết được việc sanh tử!".

Dặn dò xong, chắp tay niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch.

Kệ tán rằng:

  • Tâm từ rộng lớn,
    Soạn văn Bồ Đề
    Bốn tám nguyện lớn,
    Nguyện lực rộng sâu
    Hành nguyện chân thật,
    Cảm ứng vô khó lường
    Liên tông mạng mạch,
    Nhờ Ngài trường tồn.
Hoặc nói kệ rằng:
  • Kiến hiền Tư Tề tinh tấn tu hành
    Nghiệp Nho đọc sách như núi đồi
    Học Phật tu hành nghiêm trì giới luật
    Tham thiền triệt ngộ "ai" tự do
    Lớn thay khuyên phát tâm Bồ Đề
    Cao thay lời thệ nguyện như đất trời
    Xá lợi phóng quang chiếu soi thiên cổ
    Ân huệ tôn giả lưu danh ngàn đời.
Giảng: Pháp ư Tỉnh Âm ở chùa Phạm Thiên đời Thanh là vị Tổ thứ mười một của tông Liên Xả. Vì ngài học vấn uyên thâm, tu hành trang nghiêm, đạo đức cao cả, trí huệ rộng lớn, cho nên đương thời cảm hóa được rất nhiều người.

Sư, húy: Húy là húy danh, không phải đẻ gọi cho người chết. Cho nên không phải là sau khi qua đời, vị Pháp sư này mới được gọi là Thật Hiền, mà khi còn sanh tiền ngài cũng được gọi là Thật Hiền. Húy có thể gọi là kỵ húy. Thế nào gọi là kỵ húy? Chính là "Tử bất ngôn phụ viết húy", tức là con cái không gọi thẳng tên cha mà gọi là húy. Ở đây cũng vì tôn trọng người xưa, tôn trọng vị Tổ sư này, nên người ta không gọi thẳng tên ngài mà thêm vào chữ húy. Ngài Húy Thật Hiền: Ngài thật sự là một người hiền đức. Tự Tư Tề: Tư Tề tức là "kiến hiền tư tề", thấy người hiền có đức hạnh thanh cao, muốn cố gắng làm cho bằng người, bản thân ngài là Thật Hiền, cho nên phải tư tề, tề cái chi? Tề thánh hiền đời xưa, muốn giống như thánh hiền đời trước vậy, thế hiệu Tỉnh Am.: Tỉnh là tỉnh ngộ. Tỉnh Am là căn cứ vào câu "Kiến hiền tư tề yên" trong sách Luận Ngữ tức muốn giống được như các vị hiền đức: Còn "Kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã" là nhìn thấy người không hiền thì nên hồi quang phản chiếu, phản tỉnh lại mình. Phản tỉnh cái gì? Phản tỉnh là coi ta có hiền hay không? Ta có phải xấu xa như thế nào chăng? Nếu phải thì nên sửa đổi, nếu không thì cần phải tiếp tục cố gắng hơn lên. "Hữu tắc cãi, vô gia cảnh" nếu có lỗi thì lập tức sửa đổi, còn không thì tự khuyến khích cảnh sách mình chớ nên phạm những lỗi lầm như thế. Cho nên hiệu của ngài là Tỉnh Am. Thường Thục Thời thị tử: Ngài là người huyện Thường Thục - Giang Nam, họ Thời. Thời này là thời gian, cho nên đến lúc ra đời thì ngài sanh ra đời. Thế Nho nghiệp.: Gia đình ngài theo truyền thống Nho giáo, học tập Khổng Tử, tôn trọng thánh nhân đã nhiều đời.

Ấu xuất gia: Ngài xuất gia từ thuở bé. Nghiêm tập Tỳ ni: Nghiêm là nghiêm cẩn học tập pháp Tỳ Ni. Tỳ Ni (Vinaya) là tất cả quy tắc, tất cả giới luật; tức là học ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của người xuất gia và tất cả pháp cần làm như thế nào, ngài đều phải biết. Ngài học tập rất tinh tấn, không chút dễ duôi lơ là. Không giống như chúng ta là những người trong đời mạt pháp, "nhất nhật bộc chi, thật nhật hàn chi" một ngày phơi nắng, mười ngày để lạnh, không kiên trì cố gắng mà chỉ hăng hái trong chốc lát. Hôm nay nghiên cứu học tập, ngày mai lại nghỉ ngơi, hôm sau không để ý tới, qua mười ngày, nửa tháng lại hứng thú mới đến học tiếp. Ngài không phải như thế mà luôn chuyên tâm vào một chỗ, ngày đêm đềi siêng năng nghiên cứu học tập pháp Tỳ Ni.

Tầm nhập giảng diên: Sau đó không bao lâu, ngài học tập giảng kinh thuyết pháp, cho nên minh tánh tướng chi học.: Tánh tướng là hai môn: không và hữu. Ngài nghiên cứu không, nghiên cứu hữu,duy thức pháp tướng, những ý nghĩa này ngài hiểu ró hết.

Tham "niệm Phật giả thị thùy" thoại: Ngài nhất tâm chuyên chú niệm niệm không quên, đứng đi nằm ngồi đều tham ngộ câu thoại đầu "Niệm Phật là ai". Đi là ai đi? Đứng là ai đứng? Ngồi là ai ngồi? Nằm là ai nằm? Đi đứng nằm ngồi, mọi lúc mọi nơi. Ngài đều chăm chăm vào chữ "ai" này.

Tứ duyệt nguyệt, hốt nhiên khai ngộ viết:: Như thế trải qua bốn tháng ngài bỗng hoát nhiên khai ngộ. Vì tham câu "Niệm Phật là ai" đến chỗ tột cùng nên ngài đã hiểu rõ sáng suốt về vạn sự ở thế gian và hiểu rõ ràng tất cả đạo lý ở đời "Nhất thông nhất thiết thông" là khi hiểu rõ một thứ gì thì thông suốt hết mọi thứ. Sau khi khai ngộ, ngài nói cái chi? "Ngã mộng giác hỹ!": Ta tỉnh giấc mộng lớn của kiếp con người.

Chúng ta hiện nay mỗi người đều đang nằm mơ, đều đang ở trong giấc mộng, giấc mộng lớn của nhân sanh. Có người bảo rằng: "Bạn đang nằm mơ đây!" Thì ta sẽ không tin, nói: "Tôi làm sao mà đang nằm mơ cho được?" Giống như có người đang ngu nằm mơ, trong giấc mơ có người bảo anh ta rằng: "Bạn đang nằm mộng đấy!" Anh ta sẽ không tin. Đến khi tỉnh giấc mộng, anh ta mới biết mình đang nằm mơ. Kiếp người chúng ta cũng giống như vậy, hồ đồ hỗn độn, đánh Đông, đánh Tây, chơi Nam, vui Bắc, đi Đông đi Tây, ngày lại qua ngày mà không biết mình đang làm gì. Nếu nói: "Bạn ở đây làm gì, bạn đang mơ à!" Người ấy sẽ không tin, nói: "Ăn cơm thì không đói, mặc y phục thì không lạnh, ngủ sẽ không mệt, đây mới chính là thật, ông mới là người nằm mộng chớ ai!" Đến khi mở mắt, khai ngộ, mới thật hiểu rõ kiếp nhân sanh vốn là như thế! Đó gọi là mộng tỉnh rồi, lúc này mới biết đời người và mộng thì giống nhau.

Tự thị cơ phong tấn lợi: Từ đó về sau, ngài cùng với ai đấu cơ phong - tức là đả thiền cơ, nói những lời mà người thường không hiểu; cơ phong của ngài rất nhanh, rất sắc, không ai nói hơn ngài. Tài biện tung hoành: "Tung hoành" là vô địch thiên hạ, không ai biện bác hơn ngài, tức là ngài có tài biện tung hoàn. Vì thế mọi người đều biết ngài đã khai ngộ. Sau khi được biện tài tung hoành, ngài bèn viết sách; ban ngày thì trú lãm tạng kinh: Vì ngày muốn viết sách nên ban ngày đọc kinh điển, ban đêm thì vãn trì Phật hiệu.: tức trì miệm câu "Nam Mô A Di Đà Phật". Ngài rất tinh tấn, không biếng lười, một giờ một phút cũng không giải đãi, hoặc nói chuyện gẫu.

Nhiên chỉ ư A Dục Vương sơn: Ngài ở núi A Dục Vương đốt ngón tay, lại ở Phật tiền phát tứ thập bát đại nguyện: Trước điện Phật, ngài phát bốn mươi tám lời đại nguyện, cho nên cảm xá lợi phóng quang: Núi A Dục Vương có Xá lợi của Phật. Lời phát nguyện của ngài đã cảm ứng đến xá lợi Phật phóng hào quang.

Tác "Khuyến phát Bồ đề tâm văn", khích lệ tứ chúng: Ngài lại làm bài "Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm" khuyến khích tứ chúng. Tụng giả đa vi thế hạ.: Nhiều người đã rơi lệ khi đọc bài "Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm" này.

Ư Ung Chánh thập nhị niên tứ nguyệt thập tứ nhật, diện tây tịch nhiên: Ngày 14 tháng 4 năm Ung Chánh thứ 12, ngài hướng về phương Tây mà viên tịch. Tống giả quần chí.: Có rất nhiều người đến đưa tiễn ngài. Đến lúc đó, hốt khai mục viết: "Ngô khứ tức lai, sanh tử sự đại, các tự tịnh tâm, niệm Phật khả hỹ!": Ngài lại mở mắt ra nói: "Tôi nay ra di, rất nhanh sẽ trở về. Vấn đề sanh tử là việc khẩn thiết! Các vị chớ có xem thường, mỗi người đều phải tự thanh tịnh tâm ý và xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, cùng tu pháp môn Tịnh Độ mới được". Hợp chưởng liên xưng Phật danh nhi thệ: Nói xong ngài chấp tay rồi viên tịch trong lúc xưng niệm danh hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật". Có thể nói ngài là vị "biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như nhập thiền định" mà viên tịch.

Tán viết: Bi tâm quảng đại, Bồ đề tâm văn: Vì ngài rất từ bi quảng đại với đại chúng, cho nên mới viết bài "Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm". Với lời lẽ rất thấu triệt, cùng trí huệ thật cao siêu nên bài văn này vô cùng quan trọng trong Phật giáo. Thế nào là chánh, tà? Thế nào là chân, ngụy? Thế nào là lớn nhỏ? Là thiên, viên? Ngài đều trình bày rất rõ ràng.

Tứ thập bát nguyện, Nguyện lực hoằng thâm: Ngài phát bốn mươi tám lời đại nguyện, nguyện lực vô cùng rộng lớn, vô cùng thâm sâu.

Hành giải chân thật, Thụy ứng siêu luân: Từ sự tu hành ngài đã thật sự khi mở trí huệ và càng có biện tài, không chút hư ngụy. Ngài cũng cảm ứng được nhiều điềm lành bất khả tư nghì, kỳ tài xuất chúng, siêu quần tuyệt luân.

Liên tông nhất mạch, Lại dĩ thường tồn.: Liên tông nhất mạch, tức là mạng mạch của tông Tịnh Độ, nương vào ngài Thật Hiền mà kế tục nối tiếp không ngừng.

Hoặc thuyết kệ viết: Kiến hiền tư tề tinh tiến tu: Kiến hiền tức là chúng ta nhìn thấy Pháp sư Thật Hiền thì nên noi theo gương tu hành tinh tấn của ngài.

Nghiệp Nho độc thư thắng đại khưu: Khư là núi nhỏ, không phải núi lớn. Vị Pháp sư Thật Hiền vốn là người học theo nhà Nho và sách mà ngài đọc qua thì nhiều như núi nhỏ, không phải như núi lớn.

Tùng Phật chuyên nghiên Tỳ ni pháp: Ngài xuất gia học Phật tu hành, trước bắt đầu học Tỳ Ni Nhật Dụng, những pháp tắc cùng các quy chế và giới luật.

Tham thiền triệt ngộ thùy tự do: Ngài tham thiền, tham ngẫm câu niệm Phật là ai? Nếu hiểu rõ được đạo lý này thì hiểu rõ ra "ai" được tự do.

Ðại tai Bồ đề khích lệ phát: Bài "Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn" vĩ đại này có giá trị vô cùng, có thể nói là cột trụ thật hùng vĩ, khích lệ tứ chúng Phật giáo đồ phát đại Bồ Đề tâm.

Chí hỹ thệ nguyện thiên địa du: Chí hỹ tức là nguyện lực của ngài đã đến cực điểm, không có nguyện lực nào lớn hơn nguyện lực của ngài. Ngài phát bốn mươi tám lời nguyện lớn và những nguyện lực này thì trường cứu, bất hủ như trời đất vậy.

Xá lợi phóng quang chiếu thiên cổ: Lời phát nguyện của ngài đã cảm ứng được Xá lợi Phật phóng hào quang, soi chiếu thiên cổ, tức trên chiếu muôn đời, dưới sáng soi ngàn kiếp, đều là phóng ra hào quang rực rỡ.

Tôn giả ân trạch vạn kiếp lưu: Ân huệ cùng các ưu điểm của vị Tôn giả này sẽ tồn tại mãi muôn vạn kiếp không bao giờ phai mờ trong chúng ta, những người đệ tử của Phật.
  • Trích từ " Tái Tăng Định Phật Tổ Đạo Ảnh"
    Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật
    Ngày 17 tháng 10 năm 1985
SƠ LƯỢC VỀ HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA
Hoà thượng Tuyên Hóa họ Bạch, tên thật là An Từ, tự Ðộ Luân. Ngài quê ở huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang thuộc Đông bắc, Trung Hoa, tức là Mãn Châu. Thân phụ Ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông. Mẹ họ Hồ, sinh được tất cả tám người con, năm trai ba gái, và ngài là út.

Hồ thái phu nhân thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy đức Phật A Di Ðà hiện thân, phóng đại quang minh chiếu triệt thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, phu nhân ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh ngài.

Ngài vừa ra đời liên thanh khóc suốt ba ngày đêm không dứt. Chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta Bà này vậy.

Ngài cư ngụ tại một thôn quê nhỏ bé, thưa thớt nhà cửa. Thế nên, đến năm mười một tuổi, ngài chưa hề thấy qua người chết. Một hôm, ngài thấy một em bé, miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm bên lề. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi nhóm bạn. Có kẻ hiểu biết liền nói: "Ðứa bé đã chết rồi!" Song ngài vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, ngài liền thưa hỏi mẹ, bà dạy: "Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo khó, bất luận là sĩ, nông, công thương hay quan lại, ai ai rốt cuộc cũng phải chết cả!"

Ngài lại hỏi: "Như vậy, có cách gì thoát được chết không?" Bấy giờ trong nhà có vị khách là người tu hành. Vị này đỡ lời đáp rằng: "Chỉ có cách tu Ðạo, mình ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh, thì mới liễu đoạn sanh tử, siêu thoát luân hồi, thành Chánh Giác, chứng Vô Sanh".

Tuy lúc đó ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, ngài tỉnh ngộ sâu xa, do đó ngài quyết chí xuất gia tu Ðạo.

Khi ngài bàn chuyện xuất gia với mẹ, bà dạy: "Xuất gia là chuyện rất tốt, song cũng không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, và cần phải phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý cũng là phù hợp với giấc mộng xưa kia vậy.

Nhưng nay ta đã già, ngày tháng chẳng còn bao lâu, các anh chị con đều đã tự lập. Con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành cũng chẳng muộn".

Ngài vâng lời cha me, rồi sau đó, hằng ngày thường theo mẹ lạy Phật. Lạy Phật xong, ngài lạy cha mẹ.

Ngày qua ngày, đông tàn xuân đến, ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với đức Phật vậỵ. Chẳng bao lâu tiếng đồn về sự hiếu thảo của ngài vang khắp bốn phương. Khi đó mọi người đều gọi ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch).

Năm ngài mười chín tuổi thì mẹ ngài qua đời; bấy giờ ngài từ giã họ hàng lên chùa bái Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, và quy y chính thức xuất gia, thọ giới. Sau đó, ngài về lại mộ phần thân mẫu để thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu Phật A Di Ðà. Rất nhiều lần ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng.

Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày. Nhiều người chạy tới mộ hô hoán: "Nhà Hiếu tử bị cháy rồi!" Cả trăm người trong làng hè nhau xách gáo, đem xô tới để chữa cháy. Song, khi tới nơi họ chỉ thấy túp lều tranh vẫn bình lặng, và ngài thì vẫn an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh!

Có lần ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây Phương ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc đức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, ngài mới choàng tỉnh, nhớ lại rằng đức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, khoảng 1.200 năm về trước! Sau Đệ nhị Thế Chiến, ngài vân du khắp nơi. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, ngài tới chùa Hoa Lâm, bái kiến vị đại thiện tri thức của thời bấy giờ là Lão Hòa Thượng Hư Vân. Lão Hòa thượng lúc ấy đã 109 tuổi. Vừa nhìn thấy ngài, Lão Hòa Thượng liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, lão Hòa Thượng nói: "Như thị, như thị!" và Ngài cũng đáp lại "Như thị, như thị!"

Bấy giờ Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của ngài, và ngài chính thức trở thành vị tổ thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng.

Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy ngài ở lại đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật Chùa Nam Hoa.

Năm 1950, ngài từ giã, lên đường sang Hương Cảng. Ở đây ngài sống tại một sơn động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Ðại Lục qua Hương Cảng tị nạn và họ cần sự giúp đỡ của ngài. Cuối cùng ứng với nhân duyên, ngài rời sơn động, lập ra giảng đường, và hai ngôi chùa, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu nhiều đạo tràng khác.

Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, ngài là tấm gương sáng khổ hạnh, tinh tấn tu hành khổ hạnh, quên mình vì Phật pháp. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.

Năm 1962, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng dương đạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, ngài tự gọi mình là "Mộ Trung Tăng" (nhà sư trong phần mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống). Những Phật tử hiểu biết sự tu hành chân chính của ngài đều rất cảm động và cung kính ủng hộ, cúng dường ngài.

Năm 1968, ngài biết cơ duyên đã đến, ngài nói: "Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh". Mùa hè năm ấy, ngài chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với ngài.

Từ đó, ngài chủ trì nhiều Pháp hội cùng giảng các bộ kinh như: Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn, v.v... Năm 1971, ngài giảng bộ Kinh tối cao của Ðại Thừa, đó là kinh Hoa Nghiêm.

Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, là nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Mỹ Quốc. Tại Thánh Thành, ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng, Ni, học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành.
- HẾT -


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
Tây Phương Tịnh Sỹ
Bài viết: 509
Ngày: 22/12/13 08:53
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tây Đức
Nghề nghiệp: Cư Sĩ tại gia
Được cảm ơn: 2 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi Tây Phương Tịnh Sỹ »

A Di Đà Phật,
Sửa lần cuối bởi Tây Phương Tịnh Sỹ vào ngày 28/03/19 15:22 với 1 lần sửa.


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Xin cám ơn lời tâm huyết của Tây Phương Tịnh Sỹ. Thật ra tôi chỉ góp thêm một phần công sức của mình với những người đi trước: Ban Tu Thư Vạn Phật Thánh Thành đính chính và in quyển sách này, đạo hữu Thánh_Tri đăng nguyên văn bài viết có chữ Hán và lời dịch, tôi chỉ đánh máy thêm bài giảng của Hòa thượng Tuyên Hóa mà thôi.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]35 khách