- 10. LÀM CHO CHÁNH PHÁP TỒN TẠI LÂU DÀI
- 云何令正法久住?謂我世尊,無量劫來,為我等故,修菩提道。難行能行,難忍能忍,因圓果滿,遂致成佛。既成佛已,化緣周訖,入於涅槃,正法像法,皆已滅盡,僅存末法,有教無人。邪正不分,是非莫辨,競爭人我,盡逐利名。舉目滔滔,天下皆是。不知佛是何人?法是何義?僧是何名?衰殘至此,殆不忍言!每一思及,不覺淚下。我為佛子,不能報恩,內無益於己,外無益於人;生無益於時,死無益於後。天雖高,不能覆我;地雖厚,不能載我。極重罪人,非我而誰?
Vân hà linh chánh pháp cửu trụ? Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo. Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn, nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật. Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn. Chánh pháp tượng pháp, giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp, hữu giáo vô nhân. Tà chánh bất phân, thị phi mạc biện, cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh, cử mục thao thao, thiên hạ giai thị. Bất tri Phật thị hà nhân? Pháp thị hà nghĩa? Tăng thị hà danh? Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn! Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ. Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân, nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân, sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã; địa tuy hậu, bất năng tải ngã. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?
- Dịch:
- Giảng:
Vị ngã Thế Tôn, vô lượng kiếp lai,: Vị là những điều nói ra. Thế Tôn là một danh hiệu khác của đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay, vị ngã đẳng cố, tu Bồ đề đạo: Tại sao đức Phật muốn tu thành Phật? Vì ngài muốn cứu độ tất cả chúng ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu sanh thoát tử, không bị luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi. Cho nên đức Phật mới "tam kỳ tu phước huệ, bách kiếp chủng tướng hảo", là ngài tu phước huệ trong ba tăng kỳ kiếp và vun trồng tướng tốt trong trăm kiếp.
Tam kỳ tức là ba đại a tăng kỳ kiếp, a tăng kỳ là tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số" Ba đại a tăng kỳ kiếp là ba cái đại vô lượng số. Vô lượng số này là một trong mười sáu số mục lớn. Vậy quý vị thử nghĩ xem, ba đại a tăng kỳ kiếp này dài bao lâu? Rất dài, rất dài! Trong ba đại vô lượng số kiếp này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì giáo hóa chúng sanh, vì tu thành Phật và vì phát tâm Bồ Đề. Ngài đã xả sanh rồi lại thọ sanh. Cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi đức Phật xả thân mạng. Như ngài đã xả thân mạng làm mồi cứu cọp. Khi nhìn thấy một con cọp dữ sắp chết đói, ngài đã hy sinh thân mạng mình cho cọp ăn để nó được sống. Sự hy sinh vĩ đại này, không ai sánh bằng. Chúng ta đều là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh thân mạng mình để cứu người khác được sống. Vậy mà đức Phật ở trong thời gian lâu dài đăng đẳng ba đại a tăng kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều bố thí sanh mạng ngài cho chúng sanh. Cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng ta hiện nay hay xưa kia hoặc là đã ăn thịt, uống máu của ngài, nên chúng ta nay tin Phật thì phải cố gắng báo đáp ân sâu của ngài. Đức Phật vì muốn chúng ta được sống, ngài phải hy sinh thân mạng của mình, nên chúng ta cần phải cảm ơn đức Phật.
Nan hành năng hành, nan nhẫn năng nhẫn: Tại sao gọi là làm việc khó làm? Chính là ngài làm được những việc mà người thường không làm được. Như ngay cả đầu, mắt, não, tủy của mình, ngài cũng đều bố thí cho người. Không phải nói chờ chết rồi mới bố thí cho người, mà có thể bố thí ngay lúc còn sống. Quý vị cần con mắt, ngài sẽ bố thí mắt cho quý vị. Quý vị có bệnh, cần có não người để trị bệnh, ngài sẽ hy sinh sanh mạng mình để bố thí não, cứu độ cho quý vị. Tủy là cốt tủy; ngay cốt tủy của mình, ngài cũng bố thí cho người. Không những đầu, mắt, não, tủy, mà quốc thành, thê tử ngài cũng bố thí luôn. Quốc là đất đai, ngài cũng nhường cho người khác. Thần là thành trì, tài sản của mình, ngài cũng nhường cho người khác. Vợ thì mọi người khó xả bỏ nhất, ngài cũng có thể xả bỏ để tặng cho người. Con thì ngài cũng có thể cho người luôn. Mội tài là đầu, mắt, não, tủy; ngoại tài là quốc thành, thê tử, ngài đều có thể bố thí hết. Nếu người nào cần thì ngài sẽ bố thí ngay. Vì thế, không ai có thể sánh bì, và cũng không ai hy sinh được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ Đề là làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, Tức là ngài đều nhẫn được những việc mà người ta không thể nhẫn.
Nhân viên quả mãn, toại trí thành Phật.: Ngài trồng nhân một cách viên mãn cho nên thành tựu phước báo một cách tròn đầy, vì thế ngài mới thành Phật.Ký thành Phật dĩ, hóa duyên châu cật, nhập ư Niết bàn.: Sau khi thành Phật ngài giáo hóa hết những chúng sanh cần giáo hóa, xong ngài mới nhập Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn? Niết bàn là cảnh giới không sanh không diệt. Lúc đó quý vị sẽ chấm dứt sanh tử không còn sanh tử nữa.
Chánh pháp tượng pháp,: Khi đức Phật còn tại thế là thời kỳ chánh pháp. Thời kỳ mà mọi người tu hành đều tu hành có thiền định và được khai ngộ. Thời đó nếu ai có tu hành, có thiền định tức đều được chứng quả vị và sẽ liễu sanh thoát tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng mà không có người chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp là thời kỳ thiền định kiên cố, vừa ngồi là có thể nhập định. Còn đến đời tượng pháp thì sao? Là lúc người ta chỉ tu hành ở lớp vỏ bên ngoài, đó là thời kỳ chùa chiền kiên cố. Vì lúc đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa miếu, tạo tượng Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp và tượng pháp dều kéo dài một ngàn năm. Hiện nay là thời kỳ đại mạt pháp. Chánh pháp chính là thời kỳ ở gốc cây, Tượng pháp là thời kỳ ở ngọn cây, còn Mạt pháp thì đã ở trên ngọn cây, nên giáo pháp cũng nhỏ bé, ít ỏi vô cùng. Thời kỳ mạt pháp kéo dài hơn một vạn năm. Vì thế nếu trừ đi hiện tại thì chúng ta còn lại hơn tám ngàn năm đều là thời kỳ mạt pháp. Nhưng nếu trong thời kỳ mạt pháp mà có người chân chánh tu hành, thì đó là thời kỳ chánh pháp trong thời mạt pháp. Và khi người ta ham thích xây dựng, tu sửa chùa chiền,tạo tượng Phật trong thời kỳ mạt pháp, đó gọi là thời kỳ tượng pháp trong thời mạt pháp. Vậy đúng thật là thời kỳ mạt pháp nếu không có người tu hành, cũng không có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, và kinh điển sẽ tự biến mất. Tất cả kinh Phật đều bị hủy diệt dần cho đến khi chỉ còn lại một bộ kinh A Di Đà. Kinh này sẽ tồn tại khoảng năm trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Đà" cũng không còn, lúc đó chỉ còn một câu "A Di Đà Phật". Câu danh hiệu "A Di Đà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm, độ vô số chúng sanh. Sau đó Phật pháp sẽ không còn và không ai biết được câu niệm Phật là gì và cái gì cũng không hiểu hết. Tuy chúng ta ở trong thời kỳ mạt pháp nhưng hiện tại vẫn là thời điểm cho chúng ta nỗ lực dụng công tu hành.
Hiện nay chánh pháp, tượng pháp giai dĩ diệt tận, cẩn tồn mạt pháp:: Tức là thời kỳ chánh pháp, tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi. Thời kỳ mạt pháp thì hữu giáo vô nhân.: Tuy có Phật giáo mà không có người tu hành, và ngôn hạnh của người tu đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật. Người xuất gia vốn không ăn thịt, uống rượu hay có quan hệ nam nữ, nhưng khi pháp diệt, họ lại phạm vào những việc giống như người tại gia, đó không còn là Phật pháp nữa rồi. Hữu giáo có nghĩa là còn có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu nhân" là người tu hành chân chánh, mà không nhất định nói về người hoằng dương Phật pháp. Nếu không có người tu hành chân chánh thì làm sao có người hoằng pháp? Tự nhiên sẽ không có. Lúc đó thì như thế nào? Tức tà chánh bất phân, thị phi mạc biện: Như những người chỉ giả nghĩa tu hành để cầu danh lợi, nên không làm những việc mà người xuất gia nên làm, đó đều là chánh tà không phân. Ví dụ có một vài ngoại đạo cho rằng" Đây cũng là bái Quán Âm, cũng là bái Quan Đế mà!" Lại còn bái gì gì nữa, v.v... Họ nói toàn những chuyện giống như thế. Họ không biết thế nào là tà? Thế nào là chánh? Tà chánh không phân, phải trái cũng không phân biệt được.
Cạnh tranh nhân ngã, tận trục lợi danh: Tức thường tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều ở đó mà tranh danh đoạt lợi. Không phải danh tiếng của mình, cũng tranh giành cho bằng được. Cử mục thao thao, thiên hạ giai thị.: Dương con mắt nhìn thấy khắp thiên hạ, ai ai cũng đều như thế, thao thao vô tận như biển cả mênh mông bát ngát. Những người này đều làm những việc có danh lợi. Cho nên, các vị theo tôi xuất gia, thì tuyệt đối không được đuổi bắt theo danh lợi! Chúng ta quyết không cùng ở chung trong dòng nhơ bẩn mà làm những chuyện xấu xa. Chúng ta nhất định phải làm một người đệ tử Phật chân chánh trong thời mạt pháp.
Bất tri Phật thị hà nhân?: Tức là không biết Phật là gì? Pháp thị hà nghĩa?: Pháp có nghĩa là muốn người dứt các điều ác, tăng trưởng các điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm cuộc đời mới. Tuy muốn người hiểu rõ, nhưng họ không hiểu, càng học càng hồ đồ, càng học lại càng không hiểu biết.
Tăng thị hà danh?: Tăng có nghĩa là gì? Ngay cả Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng mà họ cũng không biết. Thế nào gọi là Tăng? Là từ bốn vị tu trở lên, sống hòa hợp với nhau, chớ không phải một người tự sống riêng rẽ. Người thường cho rằng, một người tu cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm. Tăng là mọi người tu hòa hợp và cùng sống trong lục hòa với nhau.
Suy tàn chí thử, đãi bất nhẫn ngôn!: Ngay cả Phật Pháp Tăng cũng không hiểu, Phật pháp suy tàn đến mức độ này khiến tôi không thốt nên lời, tôi thật không có cách nào nói ra được. Mỗi nhất tư cập, bất giác lệ hạ.: Mỗi khi nghĩ đến đây, tôi bỗng rơi lệ như mưa, nước mắt như suối.
Ngã vi Phật tử, bất năng báo ân: Ta là người xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức của ngài. Nội vô ích ư kỷ, ngoại vô ích ư nhân: Đối với bên trong mà nói, ta không nỗ lực tu hành tức: đối với mình không có ích lợi gì, đối với người bên ngoài cũng không ích lợi chi. Sanh vô ích ư thời, tử vô ích ư hậu: Lúc sống ta không giúp gì cho đương thời, khi chết đi tức cũng không có lời ích gì cho mai sau. Thiên tuy cao, bất năng phú ngã: Trời tuy cao, cũng không dung chứa được ta ở giữa trời đất. Và ta không có làm chuyện công đức gì để hưởng sự che chở của trời đất. Địa tuy hậu, bất năng tải ngã: Đất tuy dày, ta cũng không có tư cách gì ở giữa trời đất này, hay cùng trời đất dung hợp. Cực trọng tội nhân, phi ngã nhi thùy?: Tội nhân có tội cực trọng này, nếu không phải ta thì là ai? Chính là ta chứ không phải ai khác. Đây là đại sư Tỉnh Am dạy người xuất gia chúng ta đều phải nên hồi quang phản chiếu, đều phải sám hối. Không phải ta thì là ai, đó không phải người nào khác, mà đích thị là ta. Cho nên người xuất gia chúng ta cần phải ghi nhớ là không nên tật đố hay làm những điều chướng ngại cho người.