Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

C. KHUYÊN TIN SÂU NHÂN QUẢ
  • 1. CHƯ PHẬT, BỒ TÁT GIÚP ĐỠ CHÚNG SANH ĐANG BỊ KHỔ NẠN NHƯ THẾ NÀO?
    (Buổi sáng 14-11-98)
Những năm gần đây, tai nạn ngày càng nhiều, đời sống chúng sanh ngày càng khổ, từ đây trở về sau sẽ càng nghiêm trọng hơn. Có người hỏi tôi: "Phật, Bồ Tát đại từ đại bi làm sao đến cứu độ hết thảy chúng sanh khổ nạn?". Những lời nói này chẳng sai nhưng ý nghĩa chân chánh trong đó hoàn toàn bị hiểu sai. Chư Phật, Bồ Tát từ bi cứu độ, chẳng phải nói chúng sanh thiếu thốn đồ ăn, quần áo, Phật liền tặng lương thực, cho quần áo. Phật giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, làm cho chúng sanh hiểu rõ nguyên nhân của tai nạn, sau đó tiêu trừ nguyên nhân ấy, vậy thì quả báo tai nạn sẽ tiêu trừ, đó mới là chân chánh cứu độ chúng sanh. Muốn được hạnh phúc mỹ mãn, tự tại khoái lạc, những thứ này đều là quả báo, quả nhất định phải có nhân; Phật, Bồ Tát dạy chúng ta tu nhân, tu nhân thiện nhất định được quả thiện, ấy mới là đạo lý đúng đắn, cứu độ thực sự.

Lòng từ bi của Thế Tôn được biểu hiện trong cả đời của Ngài. Phật là Phước Huệ Nhị Túc Tôn, nghĩa là cả phước báo lẫn trí huệ đều viên mãn. Phước báo đã viên mãn thì tại sao chẳng thị hiện hưởng phước? Kinh Vô Lượng Thọ giảng người có phước báo lớn nhất trên thế gian này là Ðại Phạm Thiên Vương, nhưng phước báo của Ðại Phạm Thiên Vương còn chẳng sánh bằng phước báo của người vãng sanh về Cực Lạc hạ hạ phẩm. Từ đó chúng ta mới hiểu phước báo của Phật đích thật là chẳng ai trong thế gian và xuất thế gian có thể sánh bằng. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ba chiếc y, một bình bát, ngày ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây, đây là sự thị hiện đại từ đại bi. Người giàu sang trong thế gian ít ỏi, người nghèo khổ nhiều, nếu Phật thị hiện thân phận người phú quý thì người nghèo khổ nhìn thấy Phật chỉ có ngưỡng mộ nhưng chẳng dám đến gần. Phật thị hiện bần tiện đến cùng cực, người bần tiện nhìn thấy Phật giống y như mình thì sẽ cảm thấy rất thân thiết nên tâm sẽ bình. Ðây là sự đại từ đại bi của Phật, chúng ta phải thể hội điểm này.

Nếu những người học Phật đều giàu sang, cao quý, chỗ ở đều giống hoàng cung, khi ra đường đều ngồi xe sang trọng, mắc tiền thì những người nghèo khổ nhìn thấy sẽ nghĩ ra sao? Ðặc biệt là tiền tài, sự hưởng thụ của người xuất gia là do mười phương cúng dường, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật cũng chẳng hưởng thụ như vậy. Cả đời đức Phật chẳng cầu người ta, mỗi ngày trì bát khất thực thì cũng chỉ đi trong vòng bảy nhà mà thôi, nếu đi cả bảy nhà không được hoặc chẳng đủ thì ngày hôm đó sẽ nhịn đói một ngày; khi khất thực nhà thứ nhất mà đủ rồi thì sẽ chẳng đi xin ở nhà thứ hai. Sự thị hiện này là nhằm dạy chúng ta phải biết đủ, thường vui, bịnh căn của người thế gian là chẳng biết đủ nên mới chiêu cảm đến vô lượng vô biên họa hại.

Học Phật tức là học tập theo Phật, bất luận là thân phận gì, bất luận làm ngành nghề gì, đều phải học tập tinh thần, quan niệm, từ bi của Phật, vả lại phải thực hiện trong đời sống. Sanh hoạt của chính mình phải giản dị, chất phác, phải biết đủ, có dư phải chia xẻ với hết thảy chúng sanh cùng hưởng, đây là chỗ khác nhau giữa quan niệm của chư Phật, Bồ Tát và người thế gian; Phật, Bồ Tát có phước thì mọi người cùng hưởng, phàm phu có phước thì một mình hưởng, chẳng chịu phân chia cho người. Phật chẳng những chỉ dùng ngôn ngữ dạy dỗ chúng sanh, Ngài nói được làm được. Ngài thực sự nhìn thấu, nhìn thấu nghĩa là thông suốt hết tất cả lý sự, nhân quả trong thế gian và xuất thế gian. Ngài thực sự nhìn thấu, chẳng quyến luyến bất cứ một pháp nào trong thế gian và xuất thế gian, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần chẳng tiêm nhiễm một tí nào hết. Hiện nay có rất nhiều đồng tu cảm thấy nghiệp chướng của mình nặng nề, tai nạn quá nhiều, họ làm thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng, hóa giải tai nạn, thực ra đó chính là sự thị hiện trong suốt cả đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu chúng ta học được rồi, lợi ích vô lượng vô biên, chẳng những tai nạn trước mắt có thể tiêu trừ, nghiệp chướng tập khí từ vô thỉ cũng có thể đoạn dứt.

Do đó có thể biết chúng ta học Phật đích thật là quá sơ ý. Phật pháp chẳng có bí mật, bày trước mắt chúng ta vô cùng rõ ràng, nhưng chúng ta nhìn không thấy, và cũng chẳng cảm được, đây là vì chúng ta nghiệp chướng sâu nặng. Mặc dù chúng ta đọc kinh, nghe kinh nhưng vẫn chẳng hiểu ý nghĩa trong kinh, chẳng thể thực hiện những lời dạy này và áp dụng vào trong đời sống hiện thực hằng ngày, cho nên chẳng đạt được lợi ích chân thật. Chúng ta chẳng thể trách Phật, Bồ Tát chẳng từ bi, chẳng thể trách Phật, Bồ Tát không giúp đỡ chúng ta; Phật, Bồ Tát thực sự có giúp đỡ nhưng chúng ta chẳng thể hội được, lại còn đánh mất cơ hội nhân duyên, lỗi này là ở tại chúng ta. Thế nên tự mình phải phản tỉnh, phải sám hối, phải học tập từ trong sự phản tỉnh và sám hối.

Khắc phục phiền não và tập khí của mình chính là tiêu nghiệp chướng. Phương pháp khắc phục rất nhiều, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp là phương pháp, môn là cửa vào; cánh cửa khắc phục phiền não và tiêu trừ nghiệp chướng thì vô lượng vô biên. Trong vô lượng pháp môn này đức Thế Tôn nói với chúng ta Pháp Môn Niệm Phật là phương tiện nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, có hiệu quả nhất. Nhất định phải hiểu lý luận của sự niệm Phật thì sẽ chẳng hoài nghi, Phật hiệu có thể niệm đến có hiệu quả, có sức mạnh; sức mạnh tức là có thể tiêu trừ nghiệp chướng, đoạn phiền não. Niệm Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng, đoạn phiền não hay không then chốt ở chỗ niệm đúng như pháp hay không, biết cách niệm hay không. Người biết niệm đúng như lý như pháp thì hiệu quả sẽ vô cùng thù thắng.

Bởi vậy chẳng những phải hiểu ý kinh mà còn phải "thâm giải nghĩa thú", vì hiểu kinh giáo càng sâu, càng triệt để, thì lòng tin càng kiên định, lòng tin có thể chuyển cảnh giới. Kinh Kim Cang nói: "Tín tâm thanh tịnh ắt sanh thật tướng". Khi tín tâm thật sự thanh tịnh thì có thể chuyển thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới chính là thật tướng. Có thể chuyển biến thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới chính là "cảnh chuyển tùy theo tâm". Thế nên Phật cứu độ hết thảy chúng sanh bằng cách dạy cho họ tự chuyển cảnh giới, vì cảnh giới là do chính mình tạo thành nên chỉ có mình có thể giải quyết, bất cứ người nào khác cũng chẳng giúp được gì cả, chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng giúp được. Trong kinh Lăng Nghiêm [có ghi] khi tôn giả A Nan bị nạn, Phật cũng chẳng thể giúp ngài, Phật chỉ nói rõ tiền nhân hậu quả của sự gặp nạn này, sau đó dạy ngài làm sao hóa giải tai nạn, việc này vẫn phải do chính ngài hóa giải. Tự mình thông đạt hiểu rõ, chuyển tâm hạnh trở lại, tai nạn liền được tiêu trừ, cảnh giới liền chuyển biến.

Khởi một tâm niệm ác, cảnh giới thiện liền biến thành cảnh giới ác; khởi một tâm niệm thiện, cảnh giới ác liền biến thành cảnh giới thiện, rõ ràng nhất là thập pháp giới. Khởi một tâm niệm bình đẳng thì pháp giới Phật hiện tiền; khởi một tâm niệm lục độ thì pháp giới Bồ Tát hiện tiền; khởi một tâm niệm tham sân, một niệm thập ác, hoàn cảnh sinh hoạt sẽ là ngũ trược ác thế; khởi một tâm niệm thanh tịnh thì sẽ là thanh thái an ổn, chính là Cực Lạc thế giới. Phật thường nói: "Phàm những gì có tướng đều là hư vọn" (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng), vì tướng là hư vọng nên tâm niệm mới có thể chuyển cảnh giới, vả lại sự hư vọng này giống như "mộng, huyễn, bọt, bóng". Cho nên Phật nói: "Các thứ tâm sanh [nên] các thứ pháp sanh; các thứ pháp sanh, các thứ tâm sanh" (Chủng chủng tâm sanh, chủng chủng pháp sanh; chủng chủng pháp sanh, chủng chủng tâm sanh), câu này nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Lại nói: "Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh" (Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh), chân chánh có thể lý giải triệt để đạo lý này thì sẽ biết tâm chúng ta tưởng như thế nào thì hoàn cảnh thế giới sẽ biến đổi như thế ấy; hoàn cảnh lớn sẽ thay đổi, hoàn cảnh nhỏ cũng sẽ thay đổi; dung mạo của chúng ta cũng sẽ thay đổi, thể chất sẽ thay đổi, tất cả hoàn cảnh sanh hoạt sẽ đều thay đổi, đây tức là "cảnh chuyển theo tâm". Cho nên chẳng có cảnh giới nào không thể thay đổi, không thể thay đổi là vì chẳng thấu triệt lý luận, chẳng rõ phương pháp, thêm vào chẳng có nhẫn nại nên không được hiệu quả; nếu làm đúng như lý như pháp thì làm sao có chuyện không thay đổi được?

Chỗ thù thắng vi diệu của Phật pháp là hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian không thể nào so sánh nổi. Ðời này chúng ta may mắn được thân người, được nghe Phật pháp, nếu có thể hiểu một chút nghĩa lý, nghĩa thú thậm thâm [vi diệu] này thì thiệt là rất hy hữu, rất khó được. Cho nên chúng ta phải nỗ lực hết lòng hết sức để tu học. Tu học tức là thực hành, làm ra hình dáng cho hết thảy chúng sanh nhìn thấy, đây là thực sự giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ. Hình dáng là chiêu bài (bảng hiệu), chiêu bài tốt làm cho người ta thấy liền sanh hoan hỷ. Tướng hảo của Phật chẳng ai có thể sánh bằng nên khi Phật thuyết pháp chúng sanh tin tưởng. Chỉ cần tu học y theo lời dạy của Phật thì sẽ đạt được tự tại, viên mãn giống như đức Phật, đây chính là hiện thân thuyết pháp.
  • 2. NÓI VỀ NHÂN QUẢ VÀ CHUYỂN CẢNH GIỚI
    (Buổi sáng 16-11-98)
    • a. Nói về nhân quả:
Sự nghiệp làm ăn của cư sĩ họ Thôi ở vùng Ðông Bắc rất thành công, lúc kinh tế suy thoái mà tiền tài vẫn tiếp tục tăng trưởng không ngừng, rất nhiều người chẳng hiểu được nhân tố này. Nếu khế nhập kinh tạng đôi chút thì sẽ hiểu rõ, hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng vượt ra ngoài định luật nhân quả. Nhà Phật nói: "pháp duyên sanh" (duyên sanh chi pháp), chẳng những thập pháp giới đều là pháp do nhân duyên sanh, Phật pháp cũng là pháp do nhân duyên sanh. Thế nên kinh Kim Cang nói: "Pháp còn phải xả, hà huống là phi pháp", ngay cả Phật pháp cũng chẳng được chấp trước. Phàm những pháp do nhân duyên sanh đều chẳng có tự tánh, đúng là "Thể ngay lúc đó là không, trọn chẳng thể được" (đương thể tức không, liễu bất khả đắc), đây là chân tướng sự thật.

"Vạn pháp đều không, nhân quả chẳng không", tại sao nhân quả chẳng không? Hãy lấy thí dụ trái đào, hột đào là nhân, hột đào trồng dưới đất sẽ lớn thành cây đào, lúc đó hột đào mất đi rồi; cây đào lớn lên lại kết quả thành trái đào, đây là nhân quả tuần hoàn. Thế nên "nhân quả chẳng không" là nói nhân quả tương tục - tiếp nối chẳng không, chuyển biến chẳng không. Phật, Bồ Tát dạy hết thảy chúng sanh là vì muốn chúng ta hiểu đạo lý này, nắm chắc chân tướng sự thật thì sẽ được đại tự tại. Trong kinh thường nói: "cảnh chuyển theo tâm". Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển được cảnh thì cũng đồng như Như Lai". Phật, Bồ Tát hiểu nhân quả chuyển biến chẳng không, tiếp nối chẳng không, vả lại vận dụng hết sức khéo léo nên các ngài có thể chuyển biến cảnh giới, chẳng bị cảnh giới chuyển, đây chính là việc chúng ta phải học.

Người hiện nay cứ mê mẩn chạy theo tiền tài, bạn tranh tôi đoạt, làm cho thiên hạ đại loạn. Tranh đoạt thiệt có thể kiếm được tiền tài hay chăng? Không thể nào! Chỉ có đau khổ thêm mà thôi, Phật pháp nói đó là tạo nghiệp. Giết người thì phạm giới sát sanh, đoạt lấy tài vật của người khác là phạm tội ăn cắp, cứ tạo ra những ác nghiệp giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối, thì làm sao đem lại quả báo tốt lành cho được? Người thế gian ngu si nên tạo ra tội nghiệp cực nặng. Phật dạy chúng ta giàu sang là do bố thí tài vật mà ra, tiền tài của cư sĩ họ Thôi cũng là do bố thí tài vật mà có được. Ðời quá khứ tu bố thí tài vật thì đời này sẽ được giàu sang, được giàu sang mà còn tu bố thí tài vật tiếp tục thì tiền tài sẽ đến ào ạt. Cho dù trong thời gian kinh tế suy thoái, tiền tài vẫn không ngừng tăng thêm, chuyện này chứng minh cho lời Phật dạy chẳng sai.

Bố thí pháp được thông minh trí huệ, tôi có thể chứng minh cho mọi người. Lúc còn trẻ tôi chẳng phải là người thông minh, ngày nay đối với Phật pháp và thế pháp chỉ cần tiếp xúc thì tôi liền hiểu rõ, đây là quả báo có được do ngày nào cũng tu bố thí pháp trong suốt bốn mươi mấy năm học Phật.

Bố thí vô úy thì được khỏe mạnh sống lâu. Bố thí vô úy là gì? Ăn chay tức là bố thí vô úy, đây là vun trồng tâm từ bi và tâm thương yêu. Năm hai mươi sáu tuổi tôi bắt đầu học Phật, nửa năm sau bắt đầu ăn chay trường cho đến bây giờ. Hồi đó người coi bói nói tôi đoản mạng, tôi rất tin và nghĩ là tôi chẳng có lý do gì để sống lâu. Tư tưởng và hành vi của tôi hồi còn trẻ rất giống với ông Viên Liễu Phàm, khuyết điểm của ông ta tôi đều có đủ, ưu điểm của ổng tôi chẳng có, tôi chẳng bằng ổng, chẳng có phước lớn như ổng. Thế nên nhất định phải biết bố thí là nhân, giàu sang, trí huệ, khỏe mạnh sống lâu là quả báo.

Nói thực ra khỏe mạnh sống lâu chẳng cần thuốc men, tẩm bổ. Người thế gian cho rằng bảo dưỡng sức khỏe bằng thuốc men có thể làm cho một người được khỏe mạnh sống lâu, đây là mê hoặc điên đảo, nếu thiệt có hiệu quả thì định luật nhân quả chẳng phải đã bị lật đổ rồi sao? Ðáng sống lâu thì dù chẳng chú trọng dinh dưỡng vẫn sống lâu; đáng đoản mạng cho dù mỗi ngày đều tẩm bổ thì vẫn đoản mạng, đây mới là chân lý.

Nói đến đoàn thể thì Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội phát khởi việc xây dựng Làng Di Ðà, xây Phật Học Viện cần phải có thật nhiều tiền bạc, trong tình trạng kinh tế hiện nay quyên góp tiền bạc vô cùng khó khăn. Tại sao đoàn thể này trong thời gian rất ngắn có thể tích tụ lại một số tiền tương đối khả quan? Ðó là bố thí chẳng phải vì mình, vì hết thảy chúng sanh, vì xã hội an định hòa bình, vì Phật pháp an trụ lâu dài trong thế gian, tâm chánh hạnh chánh, phát tâm chân thành xây dựng đạo tràng thì có sẽ cảm ứng. Cũng giống như kinh Lăng Nghiêm có nói: "phát ý viên thành", khi vừa phát chân tâm liền viên mãn công đức, cảm ứng liền hiện tiền.
    • b. Chuyển cảnh giới:
Người học Phật tuy nghe thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chẳng tin tưởng, vẫn chạy theo vọng tưởng chấp trước của mình nên cảnh giới trước sau gì cũng chẳng chuyển nổi; nếu có thể tin tưởng lời dạy của đức Phật, y giáo phụng hành thì tự nhiên sẽ có thể chuyển cảnh giới. Chuyển được thù thắng nhất là chuyển phàm thành thánh, đây là "đại đạo"; chuyển bần cùng thành phú quý trong Phật pháp thuộc về "tiểu đạo", việc này quá dễ. Chuyển ngũ trược ác thế thành quốc độ thanh thái thì chẳng dễ dàng; chuyển Sa Bà thành Cực Lạc càng khó hơn! Dù cho khó khăn nhưng vẫn có thể làm được thì chuyện dễ làm chẳng cần bàn tới. Cho nên mục đích của việc học Phật là nhằm lìa khổ được vui, nếu chúng ta chẳng thể chuyển cảnh giới thì vĩnh viễn phải chịu khổ, chịu nạn.

Có chẳng ít bạn đồng tu tu học rất gian khổ, càng khổ hơn lúc chưa học Phật trước kia, nguyên nhân là vì họ chẳng hiểu lý luận của việc tu học, tu chẳng đúng như lý, chẳng đúng như pháp. Tu học Phật pháp tức là chuyển biến cảnh giới, làm thế nào biến bần cùng thành phú quý, chuyển hỗn loạn thành an định, nếu chẳng hiểu đạo lý và phương pháp thì chẳng thể chuyển được. Nếu biết được đạo lý, biết phương pháp, tu học đúng như lý như pháp thì tự nhiên sẽ chuyển biến cảnh giới được. Phật pháp thường nói: "chuyển phiền não thành Bồ Ðề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn", chúng ta ứng dụng trong đời sống, không có một cảnh giới nào chẳng thể chuyển được. Nguyên tắc chung, đạo lý lớn lao này chính là y báo, chánh báo trang nghiêm "duy tâm sở hiện, duy thức sở biến".

Phật cũng nói: "Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh", cho nên tâm phải tưởng đến chuyện thiện, đừng tưởng chuyện ác. Thiện là như thế nào? Ác ra làm sao? Lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội là thiện; lợi ích cho chính mình, gia đình mình, đoàn thể nhỏ của mình là ác. Tại sao vậy? Niệm niệm đều vì tự mình và cái vòng tròn vây quanh mình, đó là phân biệt chấp trước, đã biến Nhất Chân pháp giới vốn có thành thập pháp giới, biến thành lục đạo luân hồi, biến thành tình hình hiện nay. Chúng ta muốn thoát ra ngoài cảnh khốn khổ này thì chỉ có thể giải quyết nơi tâm lượng. Nếu chẳng nghĩ tưởng cho mình, gia đình mình, và chẳng tưởng cho cái đoàn thể nho nhỏ của mình thì chấp trước sẽ bị phá tan. Niệm niệm đều vì hư không pháp giới hết thảy chúng sanh thì phân biệt sẽ bị phá trừ. Khi hết chấp trước thì lục đạo sẽ chẳng còn nữa; hết phân biệt thì thập pháp giới sẽ chẳng còn nữa, sẽ khôi phục lại Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là vũ trụ sanh thái tự nhiên; sanh thái tự nhiên tốt đẹp nhất. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước phá hoại sanh thái tự nhiên. Ðến lúc phân biệt và chấp trước vô cùng nghiêm trọng thì hoàn cảnh sanh thái của địa cầu chúng ta sẽ bị phá hoại, cho nên khí hậu toàn thế giới sẽ chẳng bình thường, chúng sanh đều chẳng có cảm giác an toàn. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là căn nguyên của việc phá hoại sanh thái tự nhiên. Chỉ có Phật pháp Ðại thừa giải thích việc này rõ ràng, thấu triệt.

Các tầng lớp lãnh đạo trong chánh phủ Úc Châu đang tìm kiếm phương pháp làm cho xã hội an định, hòa mục nhân quần. Làm thế nào dung hòa các chủng tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau thành một thể, làm cho những người cư trú ở Úc Châu tôn trọng, quan hoài, và hợp tác lẫn nhau, tạo nên xã hội phồn vinh, nhân sanh hạnh phúc. Cách suy nghĩ và mục tiêu này tức là truy tìm sự hòa hợp của đa nguyên văn hóa, hy vọng đạt đến xã hội an định, thế giới hòa bình, người người tôn trọng lẫn nhau.

Người ta ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, nếu chúng ta có thể nhìn ưu điểm của người ta thì trong thế gian này ai cũng là người tốt; nếu chỉ nhìn khuyết điểm thì ngay cả Phật, Bồ Tát cũng chẳng phải là người tốt, thế nên tốt xấu đều tại nơi một niệm. Ngẫu Ích đại sư nói: "Cảnh duyên chẳng có tốt xấu, tốt xấu ở tại tâm". Hiểu được nguyên lý nguyên tắc này thì có thể chuyển cảnh giới. Chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, thiện thần hiểu được đạo lý này cho nên cảnh giới của họ càng chuyển càng tốt thêm. Phàm phu chẳng hiểu đạo lý này, chuyên nhìn khuyết điểm của người khác, chuyên nói xấu người khác cho nên cảnh giới càng chuyển càng xấu, đời sống càng ngày càng khổ. Chúng ta đọc kinh Phật nên biết được những chân tướng sự thật này, quan sát kỹ càng hoàn cảnh của chúng ta mới biết câu nào của Phật nói đều là chân lý, câu nào cũng là lời chân thật. Chỉ cần chúng ta hết lòng nỗ lực tu học thì nhất định có thể sáng tạo tương lai tốt đẹp.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

D. HIỂU RÕ GIÁO DỤC PHẬT ĐÀ
  • 1. MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC PHẬT ĐÀ
    Buổi sáng 17-11-98)
Mục đích của giáo dục Phật Ðà là dạy cho mọi người thành Phật. Trong thập pháp giới thì pháp giới Phật là chân thật, rốt ráo, viên mãn; chư Phật Như Lai khởi dụng(5) thì xưng là Bồ Tát. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát làm "người bạn chẳng mời mọc" của hết thảy chúng sanh, chỉ cần các ngài nhìn thấy, nghe đến, thì nhất định sẽ dang tay ra giúp đỡ, chủ động giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên ở Tân Gia Ba phát tâm rộng lớn muốn lập Phật Ðà Giáo Dục Học Viện. Trước hết phải hiểu giáo dục Phật Ðà bồi dưỡng những người như thế nào, mục tiêu đó là gì. Ðây là một giáo dục đặc biệt, hoàn toàn khác với giáo dục thế gian, giáo dục thế gian là giáo dục nhân đạo, thuộc về giáo dục của pháp giới Người trong thập pháp giới. Giáo dục Phật Ðà là giáo dục của pháp giới Phật, Bồ Tát trong thập pháp giới, đây là việc chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng. Từ đó có thể biết pháp giới Phật bao gồm thập pháp giới mà pháp giới Người chẳng bao gồm thập pháp giới.

Ðời người vô cùng ngắn ngủi, nhất định phải nắm chắc [cơ hội này], phải từ pháp giới Người nâng cao lên đến pháp giới Phật, Bồ Tát thì công đức tu học mới kể là viên mãn. Giáo học của chúng ta cũng đặt căn bản trên quan niệm này, giúp cho con người nâng cao cảnh giới, đó là giáo dục Phật Ðà. Giáo dục Phật Ðà chẳng giống với giáo dục thế gian, mục tiêu chung cực của giáo dục thế gian là nhằm đạt được danh văn lợi dưỡng, hưởng thọ ngũ dục lục trần. Mục đích của giáo dục Phật Ðà là hoàn thành đức hạnh của mình, thành tựu trí huệ viên mãn của mình, sau đó tình nguyện phục vụ cho xã hội, phục vụ cho chúng sanh. Những gì người thế gian đeo đuổi thì Phật, Bồ Tát hoàn toàn buông bỏ, buông xuống, vì người giác ngộ hiểu được truy cầu danh văn lợi dưỡng, hưởng thọ ngũ dục lục trần tất nhiên sẽ dẫn đến cạnh tranh, cạnh tranh đến sau cùng là đấu tranh. Chư Phật, Bồ Tát hy vọng hết thảy chúng sanh đều có thể tôn trọng, kính ái, quan hoài, và hợp tác lẫn nhau; muốn đạt đến lý tưởng ấy thì nhất định phải xả bỏ đấu tranh, muốn xả bỏ đấu tranh thì trước hết phải xả bỏ cạnh tranh. Hiện nay trong tâm người nào chẳng có cạnh tranh, chẳng có đấu tranh? Tâm như vậy thuộc về pháp giới của tam ác đạo.

Nếu người tu hành còn chịu sự dụ dỗ của cảnh giới, vẫn còn bị quỷ thần phá rối thì tâm đạo ở đâu? Kinh nói với chúng ta chân chánh quy y Tam Bảo phải từ "mê, tà, chánh" quay đầu lại, nương vào ‘giác, chánh, tịnh’, bất luận có trải qua hình thức quy y hay chăng thì thần hộ pháp đều bảo hộ. Các sách [khuyến] thiện trong thế gian đều nói: "Một người có tâm địa đôn hậu, tâm thiện hạnh thiện, thì sẽ có rất nhiều thiên thần, quỷ thần hộ vệ"; cho dù chẳng học Phật, chẳng có thọ nhận Tam Quy thì cũng có thần hộ pháp bảo hộ. Lý do thần hộ pháp bảo hộ là vì tôn kính đức hạnh của những người ấy, là tự nhiên cảm động đến hộ trì. Giới kinh nói thọ ngũ giới thì sẽ có hai mươi lăm vị thần hộ giới ngày đêm giữ gìn, hộ trì. Thế thì làm sao có thể bị quỷ thần, yêu ma quỷ quái đến phá rối cho được? Từ đó có thể biết chỉ thọ Tam Quy và Thọ Giới trên hình thức thì đều là giả, vậy mà cứ cho là mình rất hiển hách, nhưng quỷ thần lại khinh chê.

Ấn Quang đại sư là tấm gương tốt của chúng ta, ngài thị hiện cho chúng ta coi, ngài cũng phải trải qua tu học trong thời gian dài. Truyện ký có ghi lúc ngài trên bảy mươi tuổi, thì muỗi mòng, kiến, bọ chét ở chỗ ngài cư trú đều tự động dọn đi chỗ khác, chẳng dám khuấy nhiễu ngài. Tại sao chẳng dám khuấy nhiễu ngài? Vì tôn kính ngài. Chúng ta nghĩ coi tại sao ngài có thể cảm động lục đạo chúng sanh mà chúng ta làm chẳng được? Vì chúng ta chẳng buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm luân hồi cứ tạo ra nghiệp luân hồi y như cũ, ai chịu tôn trọng? Niệm niệm đều hy vọng vãng sanh Tịnh Ðộ, chỉ có một nguyện vọng này mà thôi, có thể đạt được hay chăng thì chưa biết. Có nguyện thì nhất định phải có hạnh, dùng hạnh để thực hành nguyện, [được vậy] thì nguyện vọng mới viên mãn.

Có chẳng ít bạn đồng tu bị cảnh giới chuyển nên tôi đặc biệt nhắc nhở mọi người chúng ta nhất định phải có khả năng chuyển cảnh giới. Khí phận trong môi trường hoàn cảnh chẳng tốt, chúng ta phải có khả năng chuyển biến khí phận xấu thành khí phận tốt, từ trường chẳng tốt thành từ trường tốt, đây là công phu tu học có chút đắc lực rồi. Nếu mình trong cảnh giới ấy không thể chuyển thì sẽ chẳng có khả năng giúp đỡ người khác, nói giúp đỡ người ta chỉ là nói suông mà thôi. Thế nên trước hết phải học tập nhìn thấu, buông xuống, phải thấy thấu suốt "vạn pháp giai không". Kinh Kim Cang dạy: "Phàm hết thảy các tướng đều là hư vọng" (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng), tại sao phải trong tướng hư vọng này đi phân biệt, tính toán? Tất cả hết thảy hiện tượng, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, thuận tâm và chẳng thuận tâm đều là vọng tưởng. Nếu bạn có thể nhìn thấy rõ ràng, minh bạch rồi thì bất luận là cảnh nghịch hay thuận, tâm đều bình tịnh, đích thực dùng thanh tịnh, bình đẳng, giác để đối xử với mọi người, chẳng tiêm nhiễm mảy may nào hết, yêu ma quỷ quái sẽ chẳng đến kế bên thân bạn được. Có ngã chấp thì sẽ có thân thể, chẳng có ngã chấp thì chẳng có thân thể, đây là đạo lý tại sao quỷ thần chẳng thể đến sát thân bạn được. Nếu niệm niệm đều còn rơi vào "ta, người, chúng sanh, thọ giả", bạn chẳng thiện thì quỷ thần sẽ dọa bạn, phá khuấy bạn.

Từ xưa đến nay, những người học Phật đều tu học y theo kinh Kim Cang, Tông Môn xưng kinh này là đốn giáo chẳng phải là không có đạo lý. Chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ nếu y chiếu nguyên lý nguyên tắc trong kinh Kim Cang để tu học thì nhất định sẽ vãng sanh thượng thượng phẩm, sanh Thật Báo Trang Nghiêm Ðộ. Chúng ta phát tâm xuất gia, xuất gia tức là "học làm thầy của người, hạnh làm gương cho đời" (học vi nhân sư, hành vi thế phạm), chúng ta phải hết lòng học tập những đạo lý phương pháp nói trong kinh Kim Cang. Vì chúng ta chẳng thật thà, kinh Kim Cang có thể giúp chúng ta đạt đến thật thà niệm Phật, thật thà làm người, thật thà làm việc. Tham thấu kinh Kim Cang rồi, người trở nên thật thà rồi, thật thà tức là Phật, Bồ Tát. Thật thà thì sẽ chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nữa, nếu vẫn còn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì chẳng thật thà.

Tổ sư đại đức trong Tịnh Tông dạy chúng ta "thật thà niệm Phật", hai chữ "thật thà" (lão thật, chắc thật) này chẳng dễ làm được, những người làm được thì đời này quyết định sẽ vãng sanh thượng phẩm. Người có thiện căn, phước đức sâu dày, chẳng cần tu cũng thật thà, họ vừa nghe lời Phật dạy thì thực sự buông xuống vạn duyên, đối với ngũ dục lục trần, danh văn lợi dưỡng trong thế gian chẳng còn để ý đến nữa, hoàn toàn xả bỏ hết tất cả những điều thị - phi, nhân - ngã. Có người phải tu thì mới thật thà, còn chúng ta đã học xong những vẫn chưa thật thà, đây là vì nghiệp chướng tập khí sâu nặng. Nhất định phải chuyển cảnh giới trong hoàn cảnh sanh hoạt, niệm niệm tự nhắc nhở mình, hết lòng nỗ lực tu học, thực sự buông xuống vạn duyên thì mới tiêu trừ nghiệp chướng được.

Tiến trình hoằng pháp ở nơi đây rất thuận lợi, đây là oai thần Tam Bảo gia trì. Chư Phật, Bồ Tát chiếu cố chúng ta đến như vậy, nếu chúng ta chẳng hết lòng, chẳng nỗ lực thì làm sao chẳng có lỗi với quý ngài? Mỗi ngày đều niệm "Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ", nếu hai câu này chẳng thể thực hiện thì sẽ có lỗi với Phật, Bồ Tát, có lỗi với thiên long thiện thần hộ pháp. Chúng ta tự mình tu học và sau này thành tựu Phật Học Viện, nhất định phải y theo lời giáo huấn trong kinh điển, bắt đầu làm từ chính bản thân mình. Học trình là bảy năm, "bảy" là một con số viên mãn, hy vọng trong bảy năm này, chúng ta tối thiểu cũng phải giống "Vô Lượng Thọ Phật". Chúng ta chẳng thể đạt đến Phần Chứng Vị, ít nhất cũng phải làm đến Tương Tự Vị, có thể chứng đến Tương Tự Tức Phật trong Thiên Thai Lục Tức Phật thì mới chẳng có lỗi đối với Phật, Bồ Tát. Có thể đạt đến Phần Chứng Vị là tốt nhất, Phần Chứng Vị tức là Pháp Thân Ðại Sĩ, trong Viên Giáo là Sơ Trụ Bồ Tát, Biệt Giáo là Sơ Ðịa Bồ Tát; Tương Tự Vị là Biệt Giáo Tam Hiền Bồ Tát, Viên Giáo Thập Tín Vị Bồ Tát. Cho nên mọi người phải nỗ lực, hướng đến mục tiêu này thì sẽ có thể siêu phàm nhập thánh.
  • 2. TAM QUY Y
    (Buổi sáng 23-11-98)
- "Quy Y Phật, Nhị Túc Tôn", chữ nhị là chỉ trí huệ và phước đức. Phật thuyết pháp cho chúng sanh đặc biệt chú trọng phước đức, đây cũng là ứng cơ thuyết pháp, vì hết thảy chúng sanh chẳng có ai không mong cầu phước báo. Phước báo khi chưa kiến tánh thì nhất định phải dựa vào tu đức; sau khi kiến tánh thì là "tánh tu bất nhị" (tánh đức và tu đức chẳng hai). Cho nên đối với phần lớn người ta mà nói thì tu phước vô cùng quan trọng. Ðịa phương nào có nhiều người tu phước thì nhất định sẽ quốc thái dân an, đời sống sung túc. Lời dạy tu phước trong kinh rất nhiều, phải thể hội kỹ càng, hiểu rõ triệt để thì sẽ biết làm thế nào tu học mới có thể đạt được quả báo vừa ý. Trong nhà Phật thường nói "Có cầu ắt ứng", lời này chân thật chẳng giả dối. Nhưng cầu thì có lý luận và phương pháp để cầu, đúng như lý như pháp mà cầu thì nhất định sẽ được thâu hoạch; nếu chẳng tương ứng với lý luận và phương pháp của sự cầu thì chẳng thể mãn nguyện.

Phước báo cùng người hưởng là phước báo chân thật, phước báo hưởng riêng một mình rất dễ biến thành họa hại. Cổ đức hiểu rõ đạo lý và sự thật này cho nên lúc tạo ra chữ Họa (禍) và Phước (福) làm hình tướng của hai chữ này rất giống nhau, là hy vọng chúng ta có thể cảnh giác, đừng biến phước thành họa. Cổ thánh tiền hiền tuy đã cảnh cáo nhưng trong lịch sử Trung Quốc rất nhiều chuyện phước biến thành họa xảy ra; hiện nay trên thế giới những chuyện thật như vậy chẳng thể nào đếm hết, người thật sự có tâm cảnh giác vẫn chẳng nhiều, đúng như lời trong kinh nói chúng sanh ngu muội, vô tri, chẳng những coi kinh chẳng hiểu, nghe giảng giải chẳng hiểu, chân tướng sự thật bày trước mặt cũng chẳng hiểu. Phật giảng về "tam chuyển pháp luân" gồm có: thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển; chứng chuyển tức là đem chân tướng sự thật bày trước mặt chúng sanh, nếu vẫn chẳng hiểu thì Phật cũng chẳng có cách chi hết. Người như vậy trong kinh gọi là "nhứt xiển đề", tức là người chẳng có thiện căn.

Hiện nay những người chẳng có thiện căn rất nhiều, vả lại họ đều là người có phước báo, có phước báo mà chẳng có thiện căn, phước sẽ biến thành họa hại. Họa hại thì không chỉ có người này chịu nạn mà thôi, rất nhiều người khác phải chịu chung, nghiệp chướng của họ tạo càng nghiêm trọng thì quả báo càng dễ sợ. Người học Phật tin sâu nhân quả tuy nhìn thấy rất rõ ràng nhưng cũng chẳng làm gì được, vì ngay cả Phật cũng chẳng làm gì được, chúng ta đương nhiên chẳng có cách chi. Ngay lúc này việc chúng ta duy nhất làm được là tự độ, tự mình giúp mình thoát ly cảnh khổ nạn, đây là người thông minh. Ðây cũng là những gì Phật, Bồ Tát dạy chúng ta.

Gần đây có vài vị đồng tu đã vãng sanh, đa số đều có tướng lành, nhìn thấy A Di Ðà Phật đến tiếp dẫn, những người này làm chứng minh cho chúng ta, làm cho lòng tin của chúng ta tăng trưởng. Họ có thể tự tại an tường vãng sanh là phước báo to lớn, nguyên nhân [họ có thể tự tại vãng sanh] là vì họ có thể buông xuống. Thế nên "vạn duyên buông xuống" là chuyện quan trọng nhất của chúng ta hiện nay, chuyện gì cũng buông xuống được, tâm khai ý giải, thì có thể tiêu tai miễn nạn. Chỉ có buông xuống thì mới có thể chân chánh làm được nhất tâm hướng Phật. "Nhớ Phật niệm Phật, hiện giờ tương lai, nhất định thấy Phật" (Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, nhất định kiến Phật), đây là công khóa trước mắt quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta phải chuẩn bị trước đàng hoàng, tiêu trừ những nhân tố của việc niệm Phật không được đắc lực thì niệm Phật sẽ được đắc lực, thì sẽ đạt được công phu thành phiến, thậm chí đến công phu nhất tâm bất loạn, đây mới là phước báo chân chánh, trí huệ chân thật.

- "Quy y Pháp, Ly Dục Tôn". Dục tức là ngũ dục lục trần. Chẳng thể tiêu trừ trần duyên trong tâm tức là chướng ngại to lớn. Những việc chẳng vừa ý do trần duyên đem đến là căn nguyên của hết thảy tai họa, cho nên Phật dạy chúng ta phải xa lìa trần duyên. Xa lìa không phải là chẳng muốn, kinh Ðại thừa nói khi chư Phật, Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp có thiên nhân cúng dường, ca múa, giống y như người thế gian. Thế nên chúng ta phải hiểu Phật dạy chúng ta xa lìa nghĩa là xa lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Ðã đoạn trừ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì sự hưởng thọ ngũ dục lục trần là tùy duyên; vọng tưởng, phân biệt, chấp trước còn chưa đoạn trừ mà hưởng thọ là phan duyên. Chư Phật, Bồ Tát tùy duyên, nếu có thiên nhân đến cúng dường thì rất tốt, Bồ Tát biến hóa đến cúng dường cũng rất tốt, tuyệt chẳng có tơ hào lưu luyến, đây là sự hưởng thọ chân chánh, sự hưởng thọ như vậy tuyệt đối chẳng có tai nạn.

Cái gọi là "sáu căn thanh tịnh, mảy trần chẳng nhiễm" là lúc cảnh giới hiện tiền, sáu căn [cũng] thanh tịnh, chẳng phải là lúc xa lìa trần duyên sáu căn mới thanh tịnh, đây là phương pháp tu học của Tiểu thừa. Lúc tiếp xúc cảnh giới thì tâm lại loạn lên, lại khởi vọng niệm, như vậy là chẳng có công phu. Khi đối diện với cảnh giới mà có thể tập thành "thanh tịnh chẳng nhiễm" đòi hỏi có trí huệ cao độ. Kinh Kim Cang nói: "Phàm những gì có tướng đều là hư vọng", câu này phải thường nhớ đến, đây là công phu quán chiếu. Khi gặp cảnh giới vừa khởi tâm động niệm liền nhớ câu "Phàm những gì có tướng đều là hư vọng" thì tâm sẽ bình trở lại. Gặp cảnh thuận chẳng khởi tâm tham luyến, gặp cảnh nghịch chẳng khởi tâm sân khuể, biết tất cả đều là giả hết. Cho nên phải bắt chước Phật, Bồ Tát du hý thần thông trong thế gian, mục đích là giúp cho hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp người khác tức là giúp chính mình, mình và người không hai (tự tha bất nhị). Tu phước phải bắt đầu từ những chỗ này.

- "Quy y Tăng, Chúng Trung Tôn". Chúng là đoàn thể. Tăng đoàn là đoàn thể đáng được tôn kính nhất trong thế gian và xuất thế gian. Vì đây là đoàn thể tu học "Phật pháp"; Phật là đại giác, Pháp là ly dục, ly dục là xa lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên chẳng có đoàn thể nào có thể hơn được. Chúng ta phải hiểu, phải học tập, phải làm cho bằng được! Giới điều của Lục Hòa Kính là Kiến Hòa Ðồng Giải, Giới Hòa Ðồng Tu, Thân Hòa Ðồng Trụ, Khẩu Hòa Vô Tránh, Ý Hòa Ðồng Duyệt, Lợi Hòa Ðồng Quân, đây là Phật chế định ra cho những người chẳng triệt để hiểu rõ, chẳng chịu làm thực sự. Người có thể triệt để hiểu rõ, thực sự dụng công tu học thì tự nhiên phù hợp với Lục Hòa Kính và sẽ chẳng cần những giới điều này. Nếu chúng ta chẳng đạt đến trình độ hiểu rõ triệt để thì Lục Hòa Kính đối với chúng ta vô cùng quan trọng, có thể làm tăng thượng duyên cho chúng ta, giúp chúng ta đi trên con đường ngay thẳng, đây là từ bi và thiện xảo phương tiện của đức Phật, chúng ta nhất định phải y giáo phụng hành.

GHI CHÚ:

(5) Khởi dụng là từ báo thân thị hiện trong các cõi, các loài thực hiện mọi sự hóa độ, tiếp dẫn, cứu tế.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 3. GIÁO - LÝ - HẠNH - QUẢ
    (Buổi sáng 28-11-98)
Trong kinh Hoa Nghiêm, Thế Tôn nói đến thế chủ hộ trì chánh pháp một cách tường tận. Chánh pháp là gì? Như Lai nói đến "Giáo - Lý - Hạnh - Quả", [Giáo - Lý - Hạnh - Quả] được xưng là chánh pháp. Sau khi Phật diệt độ, chúng đệ tử đem những lời Phật nói chép thành văn tự gọi là kinh điển. Những lời nói và văn tự này tức là "Giáo pháp", giáo pháp nói rõ về chân lý của vũ trụ nhân sanh, lý này là y cứ cho những gì Như Lai thuyết giáo pháp, cũng như kinh Bát Nhã gọi là "Chư Pháp Thật Tướng", cho nên giáo lý có lý luận chính xác, viên mãn, đây tức là "Lý pháp". Nếu đời sống của hết thảy chúng sanh tương ứng với lý luận và chân tướng sự thật thì được gọi là chánh hạnh, và cũng tức là sanh hoạt của Phật, Bồ Tát. Ngược lại, nếu phản nghịch với chân tướng sự thật thì là tư tưởng, hành vi sai lầm. Sửa đổi cho đúng những tư tưởng và hành vi sai lầm để tương ứng với chư pháp thật tướng thì xưng là tu hành, đây là "Hạnh pháp". Khi tư tưởng và ngôn hạnh của chúng ta tương ứng với chư pháp thật tướng thì có thể đạt được sự khoái lạc chân thật cứu cánh viên mãn trong cuộc sống, đây tức là "Chứng quả".

Ðây là sự cống hiến cho chúng sanh khi Như Lai xuất hiện trong thế gian. Ðây là việc hết thảy chúng sanh vô cùng cần thiết, bất luận là chánh hạnh chúng sanh (tức là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn) hay là tà hạnh chúng sanh (tức là lục đạo chúng sanh) đều vô cùng cần thiết. Chư Phật Như Lai đem kinh nghiệm, phương pháp, và những lợi ích sau khi tu chứng của mình, chẳng dấu diếm mảy may gì để dạy dỗ hết thảy chúng sanh, đây chính là giáo dục Phật đà, tức là sự giáo học của đức Phật, thường được xưng là "Nền giáo dục chí thiện viên mãn của đức Phật đối với chín pháp giới chúng sanh". Sự thị hiện và giáo học của đức Phật đối với hết thảy chúng sanh chẳng yêu cầu, đòi hỏi gì hết. Nhưng hiện nay có một số người giảng kinh thuyết pháp còn bán vé vào cửa, đây là "buôn bán Như Lai", phá hoại hình tướng của Phật giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói đây là hiện tượng kỳ quái trong thời Mạt Pháp Ðức Phật là một người làm công tác nghĩa vụ giáo dục xã hội, "nghĩa vụ" là chỉ có "hiến dâng" chứ tuyệt chẳng có đòi hỏi, đây là chỗ Phật, Bồ Tát đáng cho người kính mến. Lúc đức Phật trụ thế Ngài sống một đời sống có tiêu chuẩn sanh hoạt thấp nhất, mỗi ngày ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc cây, đó là để làm gương cho chúng sanh, làm mô phạm, chúng ta nên noi theo, học tập.

Phát tâm xuất gia làm đệ tử Phật phải gánh vác nguyện vọng giáo hóa chúng sanh của đức Phật. Trước hết phải hiểu rõ cái hình tướng thân thể này là giả, chẳng phải định tướng, nếu chấp trước cái tướng này là nhất định, chấp cái tướng này là Ta thì vĩnh viễn sẽ không thể thoát ly luân hồi. Vả lại cái chấp trước này cũng nhất định sẽ chẳng như nguyện vọng của bạn; sau khi chết đi nếu đọa vào cõi súc sanh thì sẽ hiện thân súc sanh, đọa cõi ngạ quỷ thì sẽ hiện thân ngạ quỷ, chẳng giống cái thân bây giờ; cho dù sanh đến cõi người hiện thân người thì cũng sẽ thay đổi mặt mày, đó là sự thật. Thế nên nhất định chẳng nên chấp trước, nhất định xả bỏ phân biệt và chấp trước. Chư Phật Như Lai chẳng có thân tướng cho nên mới có thể tùy loại hóa thân, chúng sanh có cảm thì Phật sẽ thị hiện ứng hóa. "Phàm những gì có tướng đều là hư vọng", Tướng thiên biến vạn hóa, Tướng có Dụng chẳng có Thể cho nên nhất định đừng chấp trước.

Tướng là giả, Phật thuyết pháp cũng là giả, Phật chẳng có định pháp gì để nói, Phật chẳng có pháp gì để nói. Phật thuyết pháp hoàn toàn căn cứ vào căn bịnh của chúng sanh, tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc; căn bịnh của chúng sanh sai khác muôn vàn cho nên Phật đều ứng cơ thuyết pháp. Chúng ta học thuyết pháp cứ cho pháp là định pháp, nhất định phải dùng một cách nào để nói thì là sai rồi. Pháp có nguyên lý nguyên tắc nhất định, nhưng chẳng có phương pháp nhất định, nên Phật giảng kinh là dựa trên nguyên lý nguyên tắc nhất định. Những người kết tập kinh tạng tuy nói là học trò của Phật nhưng thật ra đều là chư Phật Như Lai ứng hóa đến, đúng như câu "Một vị Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ", vì vậy các ngài kết tập kinh tạng có thể theo đúng nguyên lý nguyên tắc nói trên. Cho nên khi người chân chánh lãnh ngộ mở cuốn kinh ra, mỗi chữ mỗi câu đều linh hoạt sống động, nói ngang nói dọc gì cũng chẳng trái ngược với nguyên lý và nguyên tắc, đây là chánh pháp.

Chánh pháp tức là "Giáo - Lý - Hạnh - Quả", chánh giáo, chánh lý, chánh hạnh, chánh quả chỉ cần chẳng trái ngược, bất luận thuyết pháp như thế nào đều xưng là chánh pháp. Nhưng trong kinh dạy chúng ta "chánh pháp" nhất định phải xây dựng trên cơ sở của "chánh hạnh", nếu chẳng có chánh hạnh thì sẽ chẳng có chánh giải. Cho nên muốn làm được "Tín - Giải - Hành - Chứng" thì phải thực hiện được "Giáo - Lý - Hạnh - Quả", đó chính là "Tín - Giải - Hành - Chứng".

Trong quá trình này phải có một sự nhận thức chính xác, nhận thức tận hư không trọn khắp pháp giới đều là chính mình, thế nên khi đối xử với hết thảy chúng sanh thì niệm niệm phải vì lợi ích chúng sanh. Phàm phu tu học chẳng thể khế nhập là vì niệm niệm đều vì cá nhân mình, chẳng nghĩ đến người khác. Chư Phật, Bồ Tát niệm niệm đều vì chúng sanh, chẳng vì mình, vì tận hư không trọn khắp pháp giới tức là chính mình, hết thảy chúng sanh đều là chính mình, trên từ chư Phật Như Lai, dưới đến chúng sanh trong A Tỳ địa ngục đều là chính mình. Thí dụ thân thể chúng ta là do vô số tế bào tạo thành, tế bào tốt, tế bào khỏe mạnh ví như Phật, Bồ Tát, tế bào hư xấu, tế bào có bịnh ví như tam ác đạo, hết thảy đều trong một thân thể, chẳng có tế bào nào xa lìa thân thể. Cho nên vì chúng sanh mới là chân chánh vì chính mình, chỉ vì mình mà xả bỏ chúng sanh thì là sai lầm quá đỗi.

Từ đó chúng ta mới hoảng nhiên đại ngộ, Phật vì hết thảy chúng sanh tức là chân chánh vì chính mình; nhà Phật nói về ba thân, đây là Pháp Thân. Báo Thân là trí huệ, triệt để giác ngộ minh bạch là Báo Thân. Sau đó dốc toàn tâm toàn lực phục vụ hết thảy chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp đỡ hết thảy chúng sanh hồi đầu cũng ví như giúp đỡ thân thể của mình, trong thân chỗ nào có bịnh đau thì liền chữa trị. Có thể nhận thức hư không pháp giới là một thể thì quan niệm của chúng ta đối với hết thảy người, sự, và vật sẽ hoàn toàn biến đổi.

Niệm niệm vì hết thảy chúng sanh, niệm niệm vì sự hạnh phúc của toàn thể tức là chân chánh vì mình. Ðối người, đối sự, đối vật sẽ từ từ tương ứng với "thanh tịnh, bình đẳng, giác"; khi tương ứng thì sẽ là Bồ Tát, tương ứng viên mãn thì sẽ thành Phật. Một niệm tương ứng này cũng giống như một tế bào kiện toàn rồi, vĩnh viễn sẽ chẳng sanh bịnh nữa. Cho nên chúng ta nên thương yêu đoàn thể, thương yêu thế giới, thương yêu hết thảy chúng sanh, tâm lượng như vậy thì tự nhiên sẽ mở rộng. Khi tâm lượng mở rộng thì chân tâm bản tánh sẽ hiển lộ, vô lượng trí huệ đức năng sẽ tự nhiên hiện tiền. Cho nên quý trọng sự dạy dỗ của Phật Ðà, hết lòng nỗ lực tu học sẽ có thể khôi phục lại trí huệ đức năng sẵn có trong tự tánh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

  • 4. SỨ MẠNG CỦA GIÁO DỤC PHẬT ĐÀ TRONG THẾ KỶ HAI MƯƠI MỐT
    Bài giới thiệu sáng lập Tập San Giáo Dục Phật Ðà (Buổi sáng 13-12-98)
Thế giới ngày nay đã đi đến thời đại dân chủ, tự do, mở rộng; thông tin phát đạt, giao thông thuận tiện nhanh chóng, địa cầu hình như đã biến thành một thôn xóm – thôn địa cầu, việc này nói rõ nhân dân cư trú trên quả địa cầu này giao thiệp với nhau ngày càng thêm mật thiết, gần gũi. Quan hệ gần gũi như vậy thì từ từ sẽ phát sanh xung đột và mâu thuẫn giữa các đoàn thể chủng tộc, các truyền thống văn hóa chẳng đồng, các phương thức sinh hoạt, hình thái ý thức, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, đây là một hiện tượng tự nhiên. Hiện tượng này phải dùng phương thức thích hợp để tiêu trừ thì mới có thể đạt đến mức đoàn thể chủng tộc, văn hóa đa nguyên tôn trọng, quan hoài, và kính ái lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng chung sáng tạo phước lợi xã hội cho toàn thể văn minh nhân loại đa nguyên, đây là mục tiêu chung của các tầng lớp lãnh đạo toàn thế giới và các thân hào nhân sĩ hướng đến.

Sự giáo học của Phật pháp được kiến lập vì vấn đề này. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta có Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là thế giới tân hưng (mới xây dựng) do đức Phật A Di Ðà kiếp lập, nơi đó cũng đề xướng dân chủ, tự do, mở rộng, hoan nghinh bạn bè thuộc các đoàn thể chủng tộc bất đồng, cùng chung chí hướng, đạo hiệp đến từ bốn phương tám hướng, di dân đến địa khu ấy để cùng nhau sinh hoạt, tuy họ khác nhau nhưng cũng có những điểm giống nhau, điểm tương đồng chẳng trở ngại dị biệt, tương đồng và dị biệt chẳng hai, nhiều màu nhiều sắc, đẹp chẳng thể tả, tán thán kính trọng lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng chung khai phát Cực Lạc thế giới, cho nên những đoàn thể chủng tộc tụ tập ở địa khu ấy phức tạp hơn địa cầu rất nhiều. Họ đã thông qua giáo dục trí huệ cao đẳng nên đạt được mục đích ấy. Trong kinh Hoa Nghiêm, Hoa Tạng thế giới của Tỳ Lô Giá Na Phật cũng giống như vậy! Thiên đường chẳng phải là một đoàn thể cộng đồng đa nguyên văn hóa hay sao! Chúng ta quan sát kỹ đức Phật Thích Ca, đức Phật A Di Ðà, Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Thượng Ðế làm thế nào để đối diện với hiện thực, giải quyết những vấn đề này. Chúng ta có thể rút tỉa khải thị từ trong đó, khai mở trí huệ xong thì sẽ biết làm thế nào giải quyết vấn đề của chúng ta.

"Xây dựng đất nước, cai trị nhân dân, việc giáo học phải đi đầu" (Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên), người giác ngộ chân chánh biết chúng sanh tức là chính mình, thế nên Phật, Bồ Tát đều coi pháp giới như nhà mình, nên sự giáo hóa có thể hiện thành cõi nước an lạc.

Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật nói với chúng ta "Phật sở hành xứ" tức là những địa phương được đức Phật giáo hóa, có thể đạt đến hiệu quả này chăng? "Nước, ấp, làng xóm không nơi nào chẳng được Phật giáo hóa" (Quốc ấp khưu tụ, mị bất mông hóa), quốc gia, địa khu, thành thị, thôn trang, hết thảy chỗ ở của chúng sanh chẳng đồng đoàn thể chủng tộc được sự giáo hóa của đức Phật, đều thay đổi lòng dạ hẹp hòi của họ, mở rộng tâm lượng, bao dung hết thảy, hòa đồng hết thảy, lại có thể chẳng làm hoại hết thảy, từ từ có thể đạt được hiệu quả "thiên hạ hòa thuận", và cũng tức là hết thảy mọi người khác chủng tộc đều có thể đối xử hòa mục, tùy thuận lẫn nhau, hiện nay gọi là "hoàn cảnh chuyển theo tâm chúng sanh". Nếu người người ai cũng có thể biết đủ, chỉ lấy những gì mình cần mà thôi, tuyệt đối chẳng vượt quá phận mình, chẳng xâm phạm người khác, như vậy thì thiên hạ sẽ được hòa thuận. Những đoàn thể chủng tộc khác nhau trên quả địa cầu đều có thể chung sống hòa bình, thuận theo quy luật thiên nhiên, nhân tâm trở nên lương thiện, người đối xử với người phải chân thành, tuyệt chẳng gian dối, tâm địa của người nào cũng thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, đầy đủ trí huệ, lòng yêu thương; hoàn cảnh cư trú của chúng ta tự nhiên sẽ trở nên "mặt trời, mặt trăng trong sáng, mưa thuận gió hòa, tai họa ôn dịch đều chẳng sanh" (nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi). Cho dù chẳng thể cắt đứt hết thảy hoạn nạn thì nhất định cũng sẽ hòa hoãn, giảm bớt.

Người Trung Quốc chú trọng phong thủy, phong thủy tức là hoàn cảnh cư trú của chúng ta, đích thật chuyển biến theo tình cảm, tư tưởng con người, đó chính là cảnh tùy tâm chuyển. Người xưa nói: "người có phước cư ngụ ở đất phước" (phước địa phước nhân cư), cũng là đạo lý này. Bởi vậy nên chúng ta cần phải biết cách tu phước, tích phước, sau đó mới được quốc thái dân an, tai hại do người gây ra có thể vĩnh viễn tiêu trừ. Chúng ta tuân theo đạo đức, đề xướng nhân nghĩa, hy vọng có thể đạt đến người người đều hiểu lý, đều có thể nhường nhịn, đối xử theo lễ với nhau, tránh khỏi cạnh tranh.

Cạnh tranh chẳng phải là một việc tốt, đến sau cùng nhất định sẽ sanh ra xung đột quyền lợi, chẳng nhường nhịn lẫn nhau, vậy thì tai nạn do người tạo ra sẽ chẳng thể tránh khỏi. Từ những môi giới thông tin chúng ta biết được hiện nay các nơi trên thế giới tai nạn dồn dập, vả lại mỗi năm càng nghiêm trọng hơn trước, ngày càng nghiêm trọng hơn lần trước, hơn nữa chẳng có dấu hiệu giảm bớt, đây là một chuyện lớn làm cho cả nhân loại âu lo. Nếu mọi người muốn tiêu trừ thiên tai nhân họa thì phải biết sự quan trọng của lễ nhượng và nhẫn nhường. Phật nói với chúng ta đó chẳng phải chỉ làm lợi ích cho mình mà cũng là lợi ích xã hội, lợi ích cho hết thảy chúng sanh trong thế gian. Nếu chỉ biết vì lợi ích của mình thì nhất định sẽ gây hại cho người khác, gây hại cho kẻ khác thì sẽ kết oán thù với chúng sanh. Sanh mạng này chẳng phải chỉ có một đời mà thôi, mà là vĩnh hằng, nếu những oán thù này chẳng thể hóa trừ, oan oan tương báo, [oan trái dây dưa] chẳng bao giờ dứt. Cho dù đời này chẳng tạo ra tai nạn to lớn, sau này lúc nhân gặp duyên thì kiếp nạn từ trước đến giờ chưa có vẫn sẽ xảy ra, đây là tự làm tự chịu, cho nên chúng ta phải hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật này.

Tôi hy vọng tập san này sẽ có thể dùng tông chỉ Phật pháp hiện đại hóa, bản địa hóa để khuyến đạo người ta đối xử hòa mục, tuyên dương giáo nghĩa Ðại Thừa, đạt đến mục tiêu đa nguyên văn hóa cùng tồn cùng vinh. Cũng giống như lời kinh dạy: "Mạnh chẳng bức hiếp yếu, ai cũng được lợi ích" (cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở), nếu chúng ta có thể thiết thật thực hiện quan niệm này, và phát triển rộng ra thì tập san này sẽ thành công. Tôi tin tưởng nó sẽ thực sự cống hiến cho thời đại này, hy vọng mọi người chúng ta vì mục tiêu này cùng nhau khích lệ.
  • 5. CẢM TƯỞNG SAU KHI THĂM VIẾNG HỒI GIÁO
    (Buổi sáng 16-12-98)
Chúng tôi đã đi thăm viếng viện dưỡng lão và cô nhi viện của những người Hồi Giáo; phương pháp quản lý, tinh thần làm việc, thái độ thành khẩn của họ làm cho người ta kính phục. Trên phương diện kỹ thuật, họ lợi dụng máy điện toán (máy vi tính, computer) dạy học, học sinh nhỏ nhất mới có bốn tuổi. Do đây có thể biết họ đối với việc truyền bá giáo nghĩa còn làm hoàn hảo hơn chúng ta nhiều, có nhiều chỗ đáng cho chúng ta học tập. Ðặc biệt là tinh thần đoàn kết, tập trung lực lượng là chẳng có đoàn thể nào khác có thể sánh bằng. Ðiều thứ ba trong Tam Quy Y là "Quy y Tăng, chúng trung tôn". Chúng là đoàn thể, Tăng đoàn là đoàn thể đáng được người tôn kính nhất trong những đoàn thể của thế gian và xuất thế gian vì Tăng đoàn làm được "Lục Hòa Kính". Chúng tôi thấy những người đạo Hồi này tuy chẳng có điều lệ Lục Hòa Kính nhưng sự đoàn kết và cách làm của họ phù hợp với Lục Hòa Kính, việc này đáng để cho chúng ta phản tỉnh.

Ðối với hết thảy sự lý, nghiệp nhân quả báo nhìn thấy được rõ ràng nhất, triệt để nhất là chư Phật, Bồ Tát. Ðó là "người đương sự thì mê, người bàng quan thì sáng suốt hơn" (đương cục giả mê, bàng quan giả thanh). Chư Phật, Bồ Tát là người bàng quan, chẳng phải là người trong cuộc nên họ có thể nhìn thấy rõ ràng. Người trong cuộc có phân biệt, chấp trước, người bàng quan chẳng có phân biệt, chấp trước, hết thảy đối với họ chẳng liên can. Do đó có thể biết nếu muốn đạt được trí huệ giống như chư Phật, Bồ Tát, thì nhất định phải làm người bàng quan, và cũng tức là phải buông xuống phân biệt, chấp trước; đối với hết thảy sự lý, cảnh duyên, nghiệp nhân quả báo mới có thể rõ ràng, thấu triệt, mới biết xử lý công việc như thế nào.

Chân tướng sự thật rốt ráo chính là "vạn pháp đều là không", người trên trời nói với Hồng lão cư sĩ "Ðến cũng không không, đi cũng không không", đó là chân tướng sự thật rốt ráo. Ý nghĩa của hai chữ "Ðến" và "Ði" là chỉ cho sự sanh diệt của tâm niệm, tâm niệm sanh tức là "đến", diệt tức là "đi", đến - đi đều là trong vòng sát na. Hiểu rõ ý tứ này thì đương lúc đó sẽ là "không không". Phật pháp giảng về tam không – nhân ngã không, pháp ngã không, không cũng không, sau cùng ngay cả chữ không này cũng "không" luôn, tức là ngay cả tâm niệm "không" cũng chẳng thể phân biệt, chấp trước. Phân biệt không, chấp trước không thì vẫn chẳng không, vì vẫn còn cái ‘tâm niệm không’ này, cho nên mới nói ‘cái không này’ cũng phải không. Ðoạn hết sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng sẽ hiện tiền, sẽ đạt được trí huệ giống chư Phật, Bồ Tát.

Ðại Thừa giáo nói có "Tướng", có thể thọ dụng. Nhưng phải hiểu "có" này là huyễn có, Dụng cũng chẳng chân thật, vì Thể Tánh là không. Thể là tịch tịnh, tịch tịnh tức là chân không. Sâm la vạn tượng, y chánh trang nghiêm đều dựa vào nó mà sanh khởi, Duy Thức Tam Tánh nói "Y Tha Khởi Tánh"(6), chân không, tịch tịnh là "Viên Thành Thật Tánh"(7). Nhất định phải hiểu được Viên Thành Thật thì mới hiểu được Y Tha Khởi. Sau đó mới biết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là "Biên Kế Chấp", biên là biên kiến, kế là phân biệt, chấp là chấp trước. Xả bỏ Biên Kế Chấp thì Y Tha Khởi sẽ chẳng chướng ngại, do đó "lý sự vô ngại, sự sự vô ngại".

Chúng ta đối với hết thảy pháp trong thế gian và xuất thế gian đều lọt vào phân biệt, chấp trước mà chẳng biết buông xuống, đây chính là mê, chướng ngại trí huệ đức năng vốn sẵn có trong tự tánh, làm cho nó chẳng thể hiện tiền, do đó chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức chẳng ai không khuyên chúng ta buông xuống. Buông xuống là phước, nhìn thấy thấu suốt là huệ. Phước huệ của Phật viên mãn nên được xưng là "Nhị Túc Tôn". Triệt để buông xuống thì huệ mới viên mãn.

Tây phương có một cuốn sách nói con người từ lúc lọt lòng liền quan sát cha mẹ và những người xung quanh, chẳng hay chẳng biết dần dần dưỡng thành tập quán ưa thích khống chế người khác và không chế hoàn cảnh, do đó sanh ra dục vọng đi cướp đoạt. Dục vọng này che phủ linh tánh của mình, làm cho đời sống cả đời này vô cùng đau khổ, tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Tác giả cuốn sách này chẳng có học Phật, cũng chẳng đọc kinh Phật, nhưng những câu nói này rất có đạo lý. Ðây là đoạn văn lưu lại từ vài ngàn năm trước ở Nam Mỹ châu.

Cho nên ưa thích khống chế người khác, cướp đoạt đồ vật của người khác làm lợi ích cho mình là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mê càng sâu, phiền não tập khí càng nặng, tạo ra tội nghiệp càng lớn, thì làm sao có lý chẳng thọ quả báo cho được? Nghiệp nhân quả báo là mấu chốt của sự chuyển biến trong thập pháp giới. Phật nói: "Phật pháp cũng do nhân duyên sanh". Phàm phu muốn thành Phật thì phải chuyển biến, chuyển về mặt thiện nhất, làm cho tự tánh khôi phục viên mãn rốt ráo, lúc đó được xưng là thành Phật. Ðức Phật độ chúng sanh là công việc này. Lúc nào chúng sanh giác ngộ, lúc nào gặp được duyên phần, mỗi người đều chẳng giống nhau. Chư Phật, Bồ Tát có trí huệ quán cơ, quán cơ là dùng "Căn Bản Trí", cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Giáo hóa chúng sanh, thiện xảo phương tiện là thuộc về "Hậu Ðắc Trí"; biết thời tiết nhân duyên thành thục hay chưa, biết làm thế nào để tiếp xúc, làm thế nào thuyết pháp.

Không những chúng ta phải dùng Lễ để đối xử với các tôn giáo khác, đối với đồng tu học Phật cũng phải có lễ mạo. Mọi người tu học pháp môn khác nhau, nhất định phải tôn trọng lẫn nhau, chẳng thể phá hoại lẫn nhau. Nếu phá hoại lẫn nhau thì dù công phu tu học có tốt cách mấy cũng phải đọa tam đồ thọ quả báo. Ðó chính là "Thà khuấy động nước ngàn sông chứ chẳng động tâm của người tu đạo" (Ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm), phá hoại đạo tâm của người khác, không hay không biết thì đã tạo nên tội "phá hòa hợp tăng", quả báo sẽ là ở A Tỳ địa ngục. Thí dụ nếu bạn đến đạo tràng Thiền Tông khuyên họ niệm A Di Ðà Phật, tự cho là mình có công, thật ra là đã phạm một sai lầm rất lớn. Người ta tham thiền mấy chục năm gần thành công rồi, bạn lại đến phá hoại, đây là tạo tội nghiệp, chẳng có nhiều người biết được đạo lý này. Bởi vậy nên phần đông các đạo tràng chẳng dám tùy tiện mời pháp sư, đại đức để giảng kinh thuyết pháp là sợ họ chẳng biết quy củ, trái lại tạo ra tội nghiệp. Bất luận tông phái nào chỉ cần là pháp sư chân chánh biết quy củ, mời họ đến giảng kinh thuyết pháp, đối với đại chúng tuyệt đối có lợi ích. Pháp sư chân chánh biết quy củ sẽ biết tán thán đạo tràng của người khác, tán thán pháp môn của người khác, tán thán vị thiện tri thức chỉ đạo họ.

Tôi ở Hương Cảng giảng kinh năm 1977, pháp sư Thánh Nhất ở núi Ðại Dự mỗi ngày đều đến nghe kinh, nghe xong rất hoan hỷ nên mời tôi đến thăm viếng chùa Bảo Liên. Ðây là một đạo tràng Thiền Tông mỗi ngày có bốn mươi mấy vị tọa hương, còn có mấy vị xuất gia người ngoại quốc, vô cùng quý báu! Tôi giảng khai thị ở thiền đường từ đầu đến cuối chẳng đề cập đến một câu A Di Ðà Phật nào cả. Tôi tán thán đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, tán thán Thánh Nhất pháp sư là một vị thiện tri thức chân chánh, tán thán đại chúng là tăng đoàn hòa hợp. Thế nên Thánh Nhất pháp sư mới dám mời tôi đến giảng, thầy biết tôi là người hiểu quy củ, sẽ chẳng phá hoại đạo tràng, sẽ làm cho thính chúng tăng thêm lòng tin đối với pháp môn và lão sư.

Năm 1987 lần đầu tiên tôi đến Tân Gia Ba giảng kinh, pháp sư Diễn Bồi mời tôi đến đạo tràng của thầy giảng khai thị cho tín chúng. Pháp sư Diễn Bồi tu Di Lặc Tịnh Ðộ nên tôi tán thán Di Lặc Tịnh Ðộ, tán thán đạo tràng của họ, tán thán pháp sư. Tôi chẳng nói đến một câu A Di Ðà Phật nào cả, và cũng chẳng nói Di Lặc Tịnh Ðộ chẳng bằng Di Ðà Tịnh Ðộ.

Nếu tín chúng không có một phương pháp và mục tiêu tu hành nhất định nào cả thì chúng ta có thể khuyên họ niệm Phật. Nếu đã có pháp môn tu học thì không nên thay đổi, thay đổi họ chỉ có thể nói lúc ở riêng nơi khác, nếu nói tại đạo tràng của họ thì sẽ phá hoại sự tu học, đây là tội lỗi rất lớn. Bởi vậy nên những pháp sư học giảng kinh nhất định phải hiểu lễ tiết.

Chúng tôi đến đạo tràng Hồi Giáo nhất định phải tán thán Thượng đế "Allah" của họ, chẳng thể tán thán A Di Ðà Phật. Cũng giống như đến nhà người khác thì phải biết tôn trọng chủ nhân, đây là đạo lý của người làm khách, và cũng là điều kiện căn bản của việc làm người. Nhất định phải biết tôn trọng người khác, thương yêu người khác, giúp đỡ họ, tuyệt đối chẳng thể phá hoại, vì thành tựu cho người khác chính là thành tựu cho mình.

Ðức Thế Tôn đối đãi với những tôn giáo khác tuyệt đối chẳng khuyên họ xả bỏ tôn giáo của họ để đến cùng ngài tu học Phật pháp. Hành vi ấy cũng giống như khuyên họ bỏ cha mẹ để đi theo mình học, đó là sai lầm. Phật pháp được xây dựng trên cơ sở hiếu thân (hiếu dưỡng cha mẹ), sau khi học Phật thì càng phải hiếu kính cha mẹ hơn lúc trước, càng yêu thương Thượng Ðế của bạn, càng yêu thương anh chị em của bạn, đó mới là Phật pháp. Bởi vậy nên Phật pháp được hết thảy trời người tôn trọng, Phật được xưng "Thế Tôn" là vì đạo lý này. Chúng ta làm đệ tử của Thế Tôn chẳng được đi đâu cũng phá hoại người khác. Nhất định phải biết, phải học tập những thường thức cơ bản của việc xử sự, đãi người, tiếp vật này.

CHÚ THÍCH:

(6) Y Tha Khởi Tánh nghĩa là do nhân duyên nên sanh khởi hết thảy vạn pháp Ví dụ: Sợi dây thừng do chánh nhân là những sợi gai và những trợ duyên khác cùng tạo thành. Không còn có ý tưởng lầm lẫn thì sợi thừng chính là sợi thừng, nhưng sợi thừng chẳng có thật tánh. Hễ các duyên chia lìa thì sợi thừng không còn. Còn gọi là "sanh vô tánh" (Trích Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 17: Công Ðức Của Ao)

(7) Viên Thành Thật Tánh tức là tánh chơn thật thành tựu viên mãn. Viên Thành Thật tánh còn gọi là Pháp Tánh, hoặc là Chơn Như, nó chính là thể tánh của hết pháp hữu vi. Chẳng hạn như thật tánh của sợi dây thừng là gai. Viên Thành Thật tánh là pháp dứt bặt các đối đãi, lìa hết thảy tướng. Nếu thấy biết là gai thì lìa được cả tướng rắn lẫn tướng thừng. Còn gọi là "Thắng Nghĩa vô tánh". (Trích Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 17: Công Ðức Của Ao).


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

E. TRUYỀN BẢO THIỆN TÍN TẠI GIA
  • 1. LÀM THẾ NÀO ĐỂ HƯỚNG DẪN QUYẾN THUỘC HỌC PHẬT
    (Buổi sáng 15-11-98)
Khi các bạn đồng tu dùng pháp môn niệm Phật để hướng dẫn quyến thuộc học Phật nhưng gặp người nhà phản đối và chẳng tiếp nhận thì các bạn phải biết nhẫn nại, hết lòng niệm Phật, để cho người nhà nhìn thấy tận mắt những lợi ích, công đức niệm Phật thù thắng, khi họ đích thân thể hội được thì dần dần họ cũng sẽ được cảm hóa. Khuyên người nhà niệm Phật mà họ không chịu thì hãy nghĩ chắc tại mình chưa biểu hiện được hoàn hảo, chẳng thể làm cho người khác tâm phục khẩu phục, cho nên tự mình phải xoay lại hết lòng nỗ lực tu học.

Tuy phương pháp và đường lối tu học rất nhiều, có câu nói: "Pháp môn vô lượng, đường nào cũng về đến đích" (Pháp môn vô lượng, thù đồ đồng quy), mục tiêu phương hướng đều giống nhau, mục tiêu chung cực đều nhằm thành tựu vô thượng đạo, tức là thành Phật. "Vô thượng đạo" chính là trí huệ cứu cánh viên mãn. "Thành Phật" chính là thành tựu trí huệ và phước đức viên mãn; người có trí huệ và phước đức đến mức rốt ráo viên mãn thì được xưng là "Phật". Vô lượng vô biên pháp môn đều nhằm đạt đến mục đích này. Phật dạy nhiều phương pháp như vậy là vì căn tánh, sự ưa thích, và dục vọng của hết thảy chúng sanh chẳng giống nhau, sự giáo học của Phật vô cùng hoạt bát, thiệt giống như người xưa ví với "đẩy chiếc bè thuận theo dòng nước", vì vậy nên tu học rất dễ dàng, rất dễ thành tựu, đây tức là "ứng cơ thuyết pháp". Trong hết thảy các pháp môn, chư Phật Như Lai đặc biệt tán thán pháp môn Niệm Phật vì duy chỉ có pháp môn Niệm Phật mới được hết thảy chúng sanh căn tánh chẳng đồng tiếp nhận, chẳng hạn định một loại chúng sanh nào, cho nên phạm vi nhiếp thọ vô cùng rộng lớn, hiệu quả cũng vô cùng thù thắng.

Lý do của sự thù thắng này nằm ở chỗ nào? Trong kinh có nói đến sự khởi nguyên của vũ trụ, vạn vật, và sanh mạng. Ðây là điều mà từ xưa đến nay những nhà khoa học, triết học, tôn giáo đầy đủ thông minh trí huệ đều mong muốn hiểu rõ nhưng chưa hiểu nổi. Ðức Phật Thích Ca cũng vì việc này mà xuất hiện trong thế gian để giải đáp chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh cho chúng ta hiểu rõ. Phật nói sanh mạng là một thể sanh mạng to lớn. Phàm phu cho cái thân này là sanh mạng nhưng chẳng biết thân này không phải sanh mạng, thân này chỉ là sự biểu hiện ở trong một hình thái nào đó. Sanh mạng là vĩnh hằng, chẳng sanh chẳng diệt, còn thân này có sanh có diệt. Thí dụ sự biểu diễn trên sân khấu, người [nghệ sĩ] ví như sanh mạng, sự biểu diễn ví cho sanh diệt. Trên sân khấu người này chẳng có sanh; rời khỏi sân khấu người này chẳng có diệt. Nhưng nhân vật, vai trò đóng trên sân khấu khi lên sân khấu thì được sanh, rời khỏi sân khấu thì liền diệt. Thế nên sanh mạng là vĩnh hằng bất biến, sự biểu hiện của sanh mạng thiên biến vạn hóa. Sân khấu của chúng ta chính là thập pháp giới. Nếu đức Phật Thích Ca chẳng giải thích chân tướng sự thật này thì chúng ta làm sao hiểu nổi!

Hết thảy hiện tượng đến như thế nào? Phật nói: "duy tâm sở hiện duy thức sở biến". "Tâm" là bản tánh của tự mình, chính là sanh mạng chẳng sanh chẳng diệt; "thức" là tác dụng của sanh mạng, lúc sanh mạng khởi tác dụng biến hiện ra vô lượng vô biên cảnh giới. Nhà Pháp Tướng Duy Thức giải thích định nghĩa của "Thức" chính là liễu biệt, phân biệt. Từ đây có thể biết y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới là do tâm phân biệt biến hiện làm nên. Kinh nói: "Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh", ngạn ngữ thế gian nói: "tâm tưởng sự thành", ý tứ của câu nói này rất sâu xa. Ở đây thuyết minh thập pháp giới là do tâm tưởng của chúng ta biến hiện ra, tưởng cảnh giới gì liền biến ra cảnh giới ấy, đây chính là sanh mạng. Nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa của câu này và tin sâu chẳng nghi thì mới thể hội được thâm ý của chư Phật Như Lai khuyên chúng ta tu pháp môn niệm Phật.

Trong những cảnh giới được hiện ra, pháp giới Phật trong thập pháp giới là viên mãn nhất, thù thắng nhất. Pháp giới Phật cũng là do niệm Phật mà thành, "niệm Phật là nhân, thành Phật là quả". Cho nên Bồ Tát muốn thành Phật thì cũng phải niệm Phật. Chúng ta hiện nay niệm Phật là đi đường tắt làm Phật, chẳng đi đường quanh co. Pháp giới Phật cũng có nhiều thứ chẳng đồng, những thứ chẳng đồng này đều là do tâm niệm biến hiện ra. Trong truyện ký có ghi Thiên Thai Trí Giả đại sư đời Tùy, Ðường là đức Phật Thích Ca tái lai nên lời của ngài cũng giống như lời của Phật Thích Ca đích thân nói ra. Ngài nói với chúng ta Phật có bốn hạng, tức là Thiên Thai tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên, bốn hạng Phật này sai khác rất lớn. Tạng Giáo Phật và Thông Giáo Phật còn chưa kiến tánh, là địa vị cao nhất, phước báo lớn nhất trong thập pháp giới, nhưng vẫn chưa đột phá ra khỏi thập pháp giới. Biệt Giáo Phật phá mười hai phẩm vô minh, tương đương với địa vị Nhị Hạnh trong Viên Giáo, vẫn còn sai khác với Viên Giáo Phật rất nhiều. Vì địa vị Nhị Hạnh Bồ Tát vẫn còn tám ngôi vị mới tu thành Thập Hạnh viên mãn; phía trên Thập Hạnh còn Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa, Ðẳng Giác rồi mới chứng đến quả vị Phật viên mãn. Chúng ta niệm A Di Ðà Phật là trực tiếp chứng quả vị Viên Giáo Phật, vô cùng thù thắng; thế nên chư Phật, Bồ Tát chẳng có ai không tán thán pháp môn Niệm Phật, đây cũng là pháp môn hết thảy chư Phật đều tu.

Trong kinh Vô Lượng Thọ nói có rất nhiều Bồ Tát muốn cầu được pháp môn này nhưng chẳng được, vì họ chẳng có cơ hội nghe và cũng chẳng biết có pháp môn này. Tại sao họ mong cầu pháp môn này? Chính là hy vọng chứng được quả vị Phật viên mãn sớm hơn. Ðời này chúng ta gặp được pháp môn này là may mắn to lớn, vô cùng hiếm có! Nếu gặp được mà chẳng tin tưởng, chẳng hiểu rõ, chẳng thể y giáo phụng hành thì thiệt là rất đáng tiếc. Có cơ hội gặp được mà bỏ lỡ là một sự tổn thất, đáng tiếc vô cùng to lớn. Trong kinh Di Ðà đức Thế Tôn xót lòng rát miệng khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Ðộ, chúng ta phải thể hội đến lòng đại từ đại bi của Như Lai.

Niệm Phật, niệm là tưởng, ngày ngày đều tưởng nhớ, tức là trong tâm thật sự có đức Phật A Di Ðà, niệm niệm đều có A Di Ðà Phật; có A Di Ðà Phật chính là có tâm, nguyện, và hạnh của Phật A Di Ðà. Nói một cách khác, đem kinh Vô Lượng Thọ làm tư tưởng hành vi của mình thì đó chính là thực sự niệm Phật. Niệm Phật chẳng phải là chỉ niệm ở ngoài miệng, niệm Phật ở ngoài miệng là tuyên truyền, là để niệm cho người khác nghe, để độ chúng sanh, có câu nói: "một khi lọt vào tai thì vĩnh viễn làm hạt giống đạo". Niệm Phật là "tâm, nguyện, hạnh" phải giống y như Phật. Tâm của Phật là chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi; Nguyện của Phật là giúp đỡ hết thảy chúng sanh trong pháp giới sớm thành Phật đạo; Hạnh của Phật là thật sự làm, nguyện chẳng phải giả, chẳng phải nguyện suông, phải tùy phận tùy sức trong đời sống hằng ngày, tận tâm tận lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Ðây là sự nghiệp của hết thảy chư Phật, Bồ Tát, trong Phật môn gọi là "gia nghiệp Như Lai", cũng chính là giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ. Pháp phương tiện hạng nhất ở thế giới Sa Bà là khuyến đạo, dùng cách giảng kinh thuyết pháp để khuyên lơn mọi người, giúp đỡ mọi người khai ngộ, đây là ngôn giáo; kế đó là thân giáo, làm ra hình dáng cho chúng sanh nhìn thấy. Nếu có thể làm ngôn giáo và thân giáo viên mãn thì đương nhiên người nhà của bạn sẽ cảm động, sẽ tin tưởng.

Bởi vậy nên niệm Phật vô cùng quan trọng, công đức ấy vô lượng vô biên, vô cùng thù thắng; không những nghiệp chướng đời này có thể tiêu trừ, nghiệp chướng từ vô lượng kiếp về trước cũng có thể tiêu trừ. Hơn nữa tiêu trừ ngay trong một niệm, "một niệm tương ứng, một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật".

Niệm niệm đều tương ứng cùng "chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi", tức là tương ứng với Tâm của Phật.

Niệm niệm đều tương ứng với bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Ðà tức là tương ứng với Nguyện của Phật.

Niệm niệm giúp đỡ chúng sanh thì tương ứng với Hạnh của Phật.

Vọng niệm là từ nghiệp chướng biến hiện mà thành, vọng niệm tức là nghiệp chướng. Bởi vậy nên niệm niệm của chúng ta đều là Phật thì vọng niệm sẽ không còn nữa, nghiệp chướng cũng sẽ tiêu trừ hết; lúc chẳng niệm Phật và có vọng niệm tức là nghiệp chướng hiện lên. Thế nên phải thường niệm Phật, chẳng thể gián đoạn thì nghiệp chướng mới tiêu trừ được. "Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn" thì công phu nhất định sẽ đắc lực, đây là bí quyết của việc niệm Phật.
  • 2. NÓI CHUYỆN VỚI TỊNH TÔNG HỌC HỘI MỸ QUỐC
    (Buổi sáng 05-12-98)
Dương hội trưởng của Tịnh Tông Học Hội Mỹ quốc nhờ tôi dùng màng lưới điện toán (Internet) nói chuyện với mọi người và trực tiếp truyền hình. Lợi dụng kỹ thuật của mạng lưới điện toán, tôi ở Tân Gia Ba nói chuyện, toàn thế giới đều có thể nghe cùng một lúc, phương pháp này rất giống với lời nói trong kinh "chẳng dời đạo tràng mà biến trọn khắp mười phương" (bất động đạo tràng, châu biến thập phương). Hiện nay giao thông nhanh chóng thuận tiện, thông tin phát đạt, đặc biệt là kỹ thuật của mạng lưới điện toán, ngay cả lúc đi du lịch, bất cứ ở lúc nào, nơi nào cũng có thể liên lạc đến cùng khắp thế giới, bởi vậy nên thế giới đã thâu nhỏ lại.

Dùng Phật pháp để nói thì vốn chẳng có lớn - nhỏ vì chẳng có một pháp nào chẳng xứng tánh, tánh đức chẳng có tương đối, cho nên trong kinh thường nói "chẳng thể nghĩ bàn", đây đích thật là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới này ở ngay trước mắt chúng ta, nhưng vì tự mình ngu muội nên chưa phát hiện ra. Chư Phật, Bồ Tát đã phát hiện ra rồi, vả lại còn rõ ràng minh bạch cho nên quý ngài trụ ở trong Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới và thập pháp giới là viên dung, chứ chẳng phải ngoài thập pháp giới có một cái Nhất Chân pháp giới, và cũng chẳng phải ngoài Nhất Chân pháp giới có thập pháp giới, trong kinh nói rất rõ ràng về đạo lý và sự thật này.

Hiện nay kỹ thuật tiến bộ, xã hội chẳng còn đóng kín nữa. Do đó chúng ta liên tưởng đến trong kinh Pháp Hoa có nói: "Thời Mạt pháp, pháp Ðại Thừa khế cơ", đây đích thật là Thế Tôn có vô lượng trí huệ chân thật. Hiện nay bất cứ người nào suy nghĩ về vấn đề gì, nhãn quang đều phải hướng về hết thảy chúng sanh trên thế giới, tuyệt không thể chỉ nghĩ về một cá nhân, một đoàn thể, chúng ta phải nghĩ đến lợi ích chung của hết thảy chúng sanh trên thế giới, sự khảo lượng như vậy mới chính xác. Nếu mỗi người chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của mình thì nhất định sẽ phá hoại lợi ích của đoàn thể.

Tịnh Tông Học Hội Mỹ quốc vài năm gần đây có thành tích rất khá. Ðặc biệt là lợi dụng đài truyền hình để chiếu những chương trình giảng kinh, phạm vi truyền hình bao gồm hết vùng bắc Mỹ châu, đây là công đức vô lượng. Quý vị sẽ phát triển phạm vi đến khắp bắc Mỹ châu nên mỗi vị đồng tu tâm lượng phải mở rộng, bao trùm bắc Mỹ châu cũng chưa đủ, hy vọng có thể mở rộng đến tối thiểu là trùm khắp cả địa cầu, niệm niệm đều phải nghĩ đến sự an định và phồn vinh của cả địa cầu.

Các đoàn thể chủng tộc chẳng đồng, văn hóa khác nhau, phương thức sinh hoạt khác nhau, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau có thể tôn trọng, kính ái lẫn nhau, hỗ tương hợp tác, cùng nhau duy trì sự an định của xã hội, sáng tạo nên hạnh phúc mỹ mãn cho toàn thể nhân loại, quan niệm và nguyện vọng này là mục tiêu chung của bất kỳ nhà tôn giáo và người lãnh đạo của học phái nào. Chính phủ Úc châu đối với văn hóa đa nguyên vô cùng coi trọng, tại Queensland có một Cục Tôn Giáo Dân Tộc Thiểu Số, ông Cục trưởng Vưu Lý vì muốn đạt đến mục tiêu này nên mỗi tháng đều tổ chức một buổi luận đàm đa nguyên văn hóa, mời những lãnh tụ tôn giáo và những người có tiếng tăm trong xã hội cùng nhau nghiên cứu thảo luận. Hơn nữa ở đại học Cát Lệ Phỉ Tư hoạch định xây một "Trung tâm hoạt động đa nguyên văn hóa", mỗi tôn giáo đều được phân phối cho một nơi dành để tu đạo. Ðại thính đường của trung tâm hoạt động là một nơi tụ tập công cộng. Tôi đề nghị học hiệu đương cục thiết lập một "Sở nghiên tập đa nguyên văn hóa", "nghiên" là nghiên cứu, "tập" là thực tập, thực tập nghĩa là phải làm. Nhà Phật nói: "Giải hạnh tương ứng", Vương Dương Minh nói: "Tri hành hợp nhất", nghĩa là không những phải biết mà còn phải làm nữa. Sở nghiên tập đa nguyên văn hóa là để bồi dưỡng nhân tài chuyên nghiệp, sứ mạng của những nhân tài này là nhằm hóa giải những sự mâu thuẫn, hiểu lầm, ngăn cách giữa những đoàn thể chủng tộc bất đồng văn hóa, làm cho tất cả chúng sanh đều hỗ trợ hợp tác, đối xử hòa mục, đây là một chuyện tốt, rất có ý nghĩa.

Phật dạy chúng ta phải phổ độ chúng sanh, câu thứ nhất trong tứ hoằng thệ nguyện là "chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", chúng ta đối với hết thảy chúng sanh không thể có tâm phân biệt, chấp trước, thành kiến, thiên vị. Nhà Phật nói: "Thiện lợi", lợi nghĩa là phước lợi, phước lợi làm thế nào đạt đến tiêu chuẩn thiện? Phải tương ứng với quan niệm và sự thật của đa nguyên văn hóa, được vậy thì phước lợi này thiện, không những có thể tiêu trừ những tai hại do người gây ra mà còn có thể tiêu trừ những tai hại tự nhiên.

Trong kinh nói: "Y báo chuyển theo chánh báo", chánh báo là tâm người, tâm người bình hòa (bình tịnh, an hòa) thì hoàn cảnh cư trú cũng chuyển biến theo. Những năm gần đây, địa cầu phát sanh rất nhiều biến hóa, đem lại rất nhiều tai hại tự nhiên. Nguyên nhân của việc này là tâm người biến đổi, trở thành tự tư tự lợi, tham sân si mạn mỗi ngày tăng thêm, nhân tâm và nhân tánh đều chẳng chánh thường (bình thường) nên hoàn cảnh cư trú cũng trở nên chẳng bình thường. Chân chánh hiểu được nghĩa lý này thì phải khôi phục lại tâm bình thường, tâm bình thường chính là "tịch tịnh", như đề kinh của kinh Vô Lượng Thọ là "thanh tịnh, bình đẳng, giác"; trái nghịch với năm chữ này thì tâm của chúng ta sẽ chẳng bình thường, tâm đã bị bịnh rồi.

Kinh Vô Lượng Thọ nói đến y báo và chánh báo trang nghiêm của tây phương Cực Lạc thế giới, kinh Hoa Nghiêm cũng nói đến Hoa Tạng thế giới hoàn mỹ đến cùng cực. Tại sao hoàn cảnh sinh hoạt của họ tốt đẹp như vậy? Vì những người cư trú ở Hoa Tạng thế giới là bốn mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ, tây phương Cực Lạc thế giới là "nơi những người thượng thiện tụ hợp" (chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’. Thế nên chúng ta phải nghĩ quả địa cầu này cũng biến thành Cực Lạc thế giới, Hoa Tạng thế giới, chỉ cần những người cư trú trên địa cầu chịu biến đổi, ai cũng chịu tu thượng thiện thì sẽ làm được. Chẳng phải nhờ vào một người, hai người mà phải là mọi người cùng nhau làm việc này. Thế nên phải cần có người chân chánh phát tâm, đem những đạo lý và chân tướng sự thật này giới thiệu và tuyên dương rộng rãi đến toàn thế giới. Chỉ cần mọi người đều hiểu rõ, đều chịu làm, hết thảy những tai nạn trên thế giới sẽ có thể tránh khỏi và tiêu trừ.

Tôi lợi dụng thời gian buổi hợp sáng nay, cống hiến cho chư vị những lời nói này, hy vọng chúng ta cùng nhau phát tâm, hết lòng nỗ lực học tập, hoằng dương, hy vọng đạt đến mục tiêu thế giới hòa bình, xã hội an định, chúng sanh hạnh phúc.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

F. ĐIỂN TỊCH PHẢI ĐỌC
  • 1. NÓI VỀ "HOA NGHIÊM GIẢN SỬ" VÀ ĐIỂN TỊCH TỊNH TÔNG
    (Buổi sáng 02-12-98)
    • a. Sơ lược lịch sử kinh Hoa Nghiêm:
Kinh Hoa Nghiêm nguyên bản chỉ có một loại nhưng phân lượng rất lớn. Cách người Ấn Ðộ tính toán kích thước một tác phẩm bằng cách dùng kệ tụng làm đơn vị. Nói một bài kệ hoặc một bài tụng đều có cùng một nghĩa, cứ tính bốn câu là một đơn vị. Bất luận là kệ tụng, trường hàng hoặc mật chú đều dùng bốn câu thành một đơn vị; trong một đơn vị, số chữ chẳng giống nhau. Kinh Hoa Nghiêm tổng cộng có mười vạn bài tụng, tức là bốn mươi vạn câu, phân lượng này rất lớn.

Ðặc biệt là vào thời cổ đại, giấy chưa được phát minh, kinh điển được viết trên lá Bối (cây Bối đa la). Lá cây được kết thành từng phiến từng phiến, thông thường trên một mặt có thể viết được bốn hàng đến sáu hàng, viết cả hai mặt. Sau đó xoi lỗ ở hai đầu, dùng dây xỏ lại thành từng xấp, đây là phương thức kinh điển được làm thành thời xưa. Bốn mươi bốn vạn câu phải cần rất nhiều lá Bối để chép, hơn nữa lá cây này có chiều dầy nhất định nên có thể thấy những cuốn kinh như vậy số lượng tương đối rất lớn. Số lượng lớn như vậy rất dễ bị thất lạc, cho nên lúc được truyền vào Trung Quốc, kinh Hoa Nghiêm là một bản kinh bị khiếm khuyết chẳng đầy đủ. Lần đầu tiên được truyền vào là vào triều nhà Tấn [khoảng năm 265-420], chỉ có ba vạn sáu ngàn bài tụng, chỉ bằng một phần ba của mười vạn bài kệ tụng, hai phần ba còn lại đã bị mất đi. Ba vạn sáu ngàn bài kệ tụng này dịch sang chữ Hán tổng cộng thành sáu mươi quyển, bộ này được gọi là "Tấn Kinh", hay gọi là "Lục Thập Hoa Nghiêm". Hiện nay vẫn còn lưu thông nhưng người đọc tương đối ít.

Lần thứ nhì là vào triều nhà Ðường, khoảng năm Chứng Thánh, tức là lúc Võ Tắc Thiên chấp chánh, do Thật Xoa Nan Ðà đại sư (Siksananda 652-710) từ Tây Vực đem đến, so với lần trước thêm được chín ngàn bài tụng, tổng cộng có bốn vạn năm ngàn bài tụng, dịch ra thành tám mươi quyển, được xưng là "Bát Thập Hoa Nghiêm". Kinh văn tuy chỉ có bốn vạn năm ngàn bài tụng nhưng ý tứ chính của kinh Hoa Nghiêm đều đã có thể đọc thấy được. Thế nên ngày nay chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, có khi đọc đến một đoạn nào đó, ý tứ chưa hết thì kinh văn đã chấm dứt là vì bị thiếu mất [như kể ở trên]. Nguyên bản Phạn văn của kinh Hoa Nghiêm đã bị thất truyền, hiện nay bản được bảo tồn đầy đủ nhất vẫn là bản dịch sang Hoa văn.

Lần thứ ba là khoảng năm Trinh Nguyên, đời Ðường Ðức Tông (795), Ấn Ðộ có một nước nhỏ(8) triều cống [lễ vật] cho Trung Quốc. Trong lễ phẩm có một bộ "Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm", kinh văn hoàn chỉnh chẳng bị thiếu khuyết, vô cùng trân quý. Do cao tăng Ấn Ðộ pháp sư Bát Nhã dịch sang Hoa văn, tổng cộng có bốn mươi quyển, được gọi là "Tứ Thập Hoa Nghiêm". Cho nên Tứ Thập Hoa Nghiêm tức là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm. Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm trong Bát Thập Hoa Nghiêm chiếm hết hai mươi mốt quyển, chỉ có khoảng phân nửa của bốn mươi quyển. Do đó rõ ràng là vào đời Ðường, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm đã bị thiếu hết phân nửa, đến năm Trinh Nguyên mới được thêm đầy đủ. Cho nên hiện nay kinh Hoa Nghiêm mỗi phẩm đều bị thiếu chỉ có Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm là đầy đủ mà thôi. Hoằng Nhất đại sư dạy chúng ta phương pháp học tập, đọc Bát Thập Hoa Nghiêm đến quyển năm mươi chín xong thì đọc tiếp Tứ Thập Hoa Nghiêm, cộng chung thành chín mươi chín quyển.

Sau khi Bát Thập Hoa Nghiêm được phiên dịch xong, triều đình thỉnh Trừng Quán pháp sư (tức là Thanh Lương quốc sư, 738-839) viết chú giải cho kinh này, chú giải này được gọi là Sớ. Sau khi Sớ này viết xong lúc đó có nhiều người vẫn cho rằng Sớ này còn quá thâm áo, sợ hàng hậu học chẳng hiểu nổi cho nên Thanh Lương quốc sư vô cùng từ bi lại viết thêm cuốn "Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao". Sớ là chú giải cho kinh. Sao là chú giải cho Sớ, tức là chú giải cho chú giải, cách này rất có ích cho người đời sau học tập kinh Hoa Nghiêm. Thanh Lương quốc sư chỉ viết Sớ chứ chẳng viết Sao cho Tứ Thập Hoa Nghiêm. Nhưng nếu bắt đầu học tập từ Bát Thập Hoa Nghiêm, có cơ sở của năm mươi chín quyển đầu, sau đó đọc Tứ Thập Hoa Nghiêm Sớ sẽ chẳng cảm thấy khó khăn.

Cư sĩ Lý Thông Huyền (635-730) đời Ðường, người đời sau xưng ngài là Lý Trưởng Giả, là người trong hoàng tộc, tuy chẳng xuất gia nhưng cả đời sống một đời thanh tâm ít dục của những bậc tu hành, cảnh giới rất cao, thần thông cảm ứng cũng chẳng thể nghĩ bàn. Ngài phát tâm viết chú giải cho kinh Hoa Nghiêm, quyển này được gọi là Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận.

Hiện nay chú giải của hai người nói trên là tài liệu tham khảo tất yếu cho những người nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm. Phương thức chú giải của hai người này khác nhau, Thanh Lương quốc sư thì chú giải cho từng câu kinh văn, đây là phương thức của Sớ Sao; Lý Trưởng Giả thì viết chú giải cho từng đoạn, luận là thảo luận, phát huy điểm quan trọng trong cả khoa, cả đoạn, đây là phương thức của Luận. Sớ Sao đối với những người học Giáo rất có ích lợi, nhưng người tu hành thích nêu ra những điểm trọng yếu, chẳng thích giảng từng câu, cho nên có phần thích cuốn Hợp Luận nhiều hơn. Do đó những người tham thiền trong Tông Môn rất thích Hợp Luận; những người nghiên cứu và giảng kinh thì lại thích Sớ Sao nhiều hơn. Tóm lại thì Luận có ưu điểm của Luận, Sớ Sao có chỗ hay của Sớ Sao.

Ðầu đời nhà Thanh, phương trượng chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn, Phước Châu là Ðạo Bái Thiền Sư đem Sớ và Luận kết hợp lại làm thành Sớ Luận Toản Yếu. Chỉ thú của Sớ và Luận chẳng giống nhau, có thể dung hợp lẫn nhau đích thật chẳng dễ. Sớ Luận Toản Yếu đối với người mới học Hoa Nghiêm rất có ích, cuốn này có thể nói đã đem những bộ phận tinh yếu của Sớ Sao và Hợp Luận hội tập lại với nhau, rất tiện lợi cho người sơ học. Nhưng nếu chân chánh muốn thâm nhập thì vẫn phải đọc toàn bộ Sớ Sao lẫn Hợp Luận.
    • b. Ðiển Tịch Tịnh Tông
Tu học pháp môn Tịnh Ðộ nhất định phải quen thuộc với điển tịch Tịnh Tông, tức là Ngũ Kinh Nhất Luận. Ngũ kinh gồm có kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A Di Ðà, Chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông [trong kinh Lăng Nghiêm], và Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện [trong kinh Hoa Nghiêm]; Nhất luận là Vãng Sanh Luận, tổng cộng gồm có sáu thứ. Phải hiểu rõ tánh chất của mỗi thứ này thì tu học mới biết hạ thủ ở nơi nào.

Kinh luận Tịnh Tông lấy kinh Vô Lượng Thọ làm chủ yếu, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ; kinh A Di Ðà chủ yếu là khuyên tín, khuyên nguyện. Trong kinh A Di Ðà, đức Phật ba lần khuyên nguyện, khuyên chúng ta phải phát nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Sáu phương Phật khuyên chúng ta phải nên tin kinh này (đương tín thị kinh), ba lần khuyên phát nguyện, đức Phật đúng là đau lòng rát miệng. Thế nên rất nhiều người tụng kinh Di Ðà vào khóa tụng sáng tối là có đạo lý của nó.

Có thể nói chương Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông là Tâm Kinh của Tịnh Ðộ Tông. Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện cũng bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ. Vì kinh Vô Lượng Thọ vừa mở đầu có đoạn "đều cùng tuân tu theo đức hạnh của Phổ Hiền Ðại Sĩ" (hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Ðại sĩ chi đức), đức hạnh của Phổ Hiền Ðại Sĩ là Mười nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát nói trong phần cuối của Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, đây là bổ sung cho Phổ Hiền Ðại Sĩ chi đức, như vậy thì Tịnh Tông điển tịch đã viên mãn. Vãng Sanh Luận là báo cáo tâm đắc tu học của Thiên Thân Bồ Tát, có thể làm thị phạm cho chúng ta. Hiểu rõ tính chất của sáu điển tịch này thì tu học mới biết hạ thủ nơi nào, có thể làm cho người tu học có lòng tin kiên định, chân chánh làm được "chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn", được vậy thì nhất định sẽ thành tựu.

CHÚ THÍCH:

(8) nước Ô Trà (Odra), nước cổ ở Đông Ấn Độ, nay là Orissa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

G. TRẢ LỜI NGHI VẤN HỌC PHẬT
  • 1. LÀM THẾ NÀO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRƯỚC MẮT
    (Buổi sáng 12-12-98)
Trong tạp chí Mộ Tây của Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, nội dung của chủ đề thảo luận trong số phát hành kỳ sau đề cập đến "công lợi chủ nghĩa"(9) phát triển đến mức cùng cực trong xã hội hiện đại; truyền hình, điện ảnh, mạng lưới quốc tế mở rộng, tự do, trong ấy tràn đầy tình dục và bạo lực, những thứ này đã được đem tới tận cửa mỗi gia đình, tạo thành tổn hại lớn lao cho nhân loại. Học trò tiểu học ở Mỹ đã bắt đầu sử dụng máy điện toán, khi máy điện toán được nối vào mạng lưới điện toán (Internet) thì liền có thể thâu nhận được những tư liệu, dữ kiện này. Trẻ em còn chưa có năng lực phân biệt thị phi, thiện ác mà tiếp nhận những sự đầu độc này, hấp thụ những tư liệu đen tối này, tiêu thụ với số lượng khổng lồ, đây là một hiện tượng vô cùng đáng sợ. Cho nên họ nói đến chủ đề "Nếu A Di Ðà Phật làm Cục trưởng Bộ thông tin" thì may ra có thể cải biến được phong hóa xã hội. Ðây là một sự tỉnh ngộ, là một cảnh giác cao độ.

Ba mươi năm trước có một lần tôi đi thăm Phương Ðông Mỹ tiên sinh, nhằm đúng lúc hai viên chức cao cấp trong Bộ Giáo Dục [Ðài Loan] đến thỉnh giáo ông Phương: "Làm thế nào để đẩy mạnh công việc vận động phục hưng văn hóa Trung Hoa?". Ông Phương nói nếu muốn đạt đến hiệu quả lý tưởng của sự "Vận động phục hưng văn hóa" thì:

Thứ nhất hết thảy các tòa báo, tạp chí ở Ðài Loan đều phải ngưng hoạt động.

Thứ nhì đài truyền hình, điện đài vô tuyến cũng phải đóng cửa.

Ông Phương nói "Những thứ này mỗi ngày đều đang phá hoại văn hóa Trung Hoa thì làm sao có thể phục hưng văn hóa cho được?".

Sau đó câu hỏi thứ nhì là: "Hiện nay nước Mỹ là nước mạnh nhất thế giới, trước kia La Mã cũng phải diệt vong, tương lai nhân tố đầu tiên làm nước Mỹ diệt vong là gì?".

Phương tiên sinh vô cùng nghiêm túc và trả lời: "Truyền hình (TV)".

Lúc đó mạng lưới điện toán còn chưa phát triển, nếu là bây giờ thì Phương tiên sinh nhất định sẽ trả lời: "Mạng lưới điện toán".

Việc này cùng với vấn đề quý vị đang âu lo chẳng hẹn mà gặp nhau. Chúng ta đối đầu với vấn đề xã hội hiện thực thì phải làm thế nào? Phương pháp của Phương tiên sinh đề ra quả thật có hiệu quả nhưng chẳng thể nào thực hiện được vì bây giờ chẳng thể nào phế bỏ những phương tiện truyền bá, môi giới thông tin này nổi. Nói cách khác chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng thế giới hiện nay đang có chiều hướng tiến tới hủy diệt, tiền đồ là cả một màu đen tối. Một ngày trước khi vãng sanh, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói với học trò đang có mặt lúc đó: "Thế gian đã loạn rồi, cho dù chư Phật, Bồ Tát, thần tiên hạ phàm cũng chẳng cứu vãn nổi. Chỉ còn con đường sống sót duy nhất tức là niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ", đây là lời dạy cuối cùng của ngài.

Những nhà tiên tri ở Ðông và Tây phương đều dự đoán cuối thế kỷ hai mươi thế giới sẽ có tai nạn lớn kéo dài hơn hai mươi mấy năm. Sau khi tai nạn chấm dứt thế giới sẽ có một ngàn năm hòa bình. Nhân tố gây ra tai nạn này là những gì các bạn hôm nay đã nhìn thấy.

Trong tình huống như vậy, hy vọng A Di Ðà Phật đến làm Cục Trưởng Cục thông tin, A Di Ðà Phật đến hay không? Ai có quyền mời A Di Ðà Phật đến nhậm chức Cục Trưởng Cục Thông Tin? Ðây là việc chẳng ai làm nổi. Cho nên hy vọng các vị đồng tu, ai cũng đều làm đệ tử Di Ðà, trong thời đại hiện nay phải trực tiếp đảm đương làm phát ngôn viên cho A Di Ðà Phật, chẳng những phải tuyên dương Giáo Nghĩa Di Ðà, mà còn phải hết lòng nỗ lực làm gương tốt cho người thế gian noi theo.

Tôi giảng kinh hoằng pháp đến nay đã được bốn mươi năm. Trong bốn mươi năm này mỗi ngày tôi đều đọc kinh, chưa từng rời khỏi cuốn kinh, huân tu trong một thời gian dài, y giáo phụng hành. Nhưng chỉ dựa vào lực lượng của cá nhân mình thì nhất định chẳng thể nào làm được, phải cầu mong chư Phật, Bồ Tát oai thần gia trì. Sự cầu mong này chẳng phải dùng một lời nói suông mà có thể cầu được, phải dùng tâm chân thành và thực hiện giáo nghĩa thì mới cảm ứng đạo giao. Chúng ta làm hết lòng, hết sức, chỉ cần thế gian có thêm một người hiểu được Phật lý, thêm một người nhất tâm niệm Phật thì tai nạn có thể giảm được một phần; cho dù chẳng thể hoàn toàn tiêu trừ thì cũng có thể trì hoãn. Mọi người cùng nhau hết lòng nỗ lực làm thì nhất định sẽ có được hiệu quả.

Mười năm gần đây tôi tuyên dương kinh Vô Lượng Thọ trên khắp thế giới, tôi dùng bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, bản này do lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam truyền cho tôi. Năm Dân quốc 39 (1950) thầy Lý giảng kinh này ở chùa Pháp Hoa tại Ðài Trung, trên bản kinh này có lời chú giải tường tận của thầy. Chúng tôi đã in ra bản kinh này cúng dường đại chúng. Và thuận theo lời giao phó của thầy chúng tôi dốc hết tâm lực để giới thiệu và truyền bá bản kinh này khắp nơi.

Sau đó tôi có duyên gặp được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ nhờ tôi đề xướng "Tịnh Tông Học Hội", từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ nghe đến cái tên "Tịnh Tông Học Hội", sau đó mới biết "Tịnh Tông Học Hội" là do lão cư sĩ Hạ Liên Cư đề ra nhưng chưa có tổ chức. Tôi nhận lời phó thác của cụ Hoàng, ở tại Gia Nã Ðại thành lập ra "Tịnh Tông Học Hội" đầu tiên, và ở Mỹ thành lập lần thứ hai, hiện nay trên toàn thế giới đã có gần năm mươi "Tịnh Tông Học Hội". Trước kia đạo tràng Tịnh Tông được gọi là "Liên Xã", hiện nay chúng ta đổi tên "Liên Xã" thành "Tịnh Tông Học Hội". Mỗi hội này đều độc lập, chúng tôi chỉ giúp đỡ và ủng hộ mà thôi, chẳng có quyền cai quản; chúng tôi chỉ làm trọn nghĩa vụ, chẳng có quyền lợi. Hy vọng mỗi Học Hội đều hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ và Tịnh Ðộ ngũ kinh, hết lòng nỗ lực, chắc thật niệm Phật, tự hành hóa tha, cùng nhau vượt qua tai nạn này, đây là việc mà ngày nay chúng ta có thể làm được.

Những năm gần đây chúng tôi cũng bắt đầu dạy học trên mạng lưới điện toán, đem Phật pháp gởi lên mạng lưới điện toán. Xã hội hiện đại là dân chủ, tự do, mở rộng, chẳng thể cấm đoán ngôn luận, sách vở xuất bản tự do lưu thông, chúng ta chỉ có thể giới thiệu chánh pháp của Như Lai và những lời dạy của cổ thánh tiền hiền cho người trong thế gian, để cho mọi người so sánh kỹ càng, tự do tuyển chọn. Hiện nay chỉ có thể dùng cách làm này, nhất định chẳng thể dùng cách ra lịnh, thời xưa có thể dùng phương thức ép buộc người ta, hiện nay chẳng thể [ép buộc người ta] được. Cho dù là cha đối với con, thầy giáo đối đãi với học trò, đều phải xem như bạn bè lẫn nhau, ngồi xuống cùng nhau bàn bạc, đây là quan hệ thực tế giữa người với người trong xã hội hiện đại. Ngày xưa người lớn có quyền uy, người nhỏ tuổi chỉ phục tùng, tiếp nhận sự chỉ dạy. Cách làm này đích thật có lợi ích cho hàng căn tánh trung hạ. Trong xã hội dân chủ, tự do, mở rộng này thì quyền uy đã không còn nữa, người người đều bình đẳng, chỉ có trao đổi ý kiến lẫn nhau, thương lượng lẫn nhau. Trong hoàn cảnh như vậy giáo học khó khăn hơn lúc trước rất nhiều.

Hơn nữa hết thảy chúng sanh đích thật là ác nhiều, thiện ít. Bách Pháp Minh Môn Luận nói Thiện Tâm Sở gồm có mười một thứ, Ác Tâm Sở gồm có hai mươi sáu thứ; hoàn cảnh bên ngoài cũng là ác nhiều thiện ít. Trong hoàn cảnh như vậy những người biết hồi đầu (quay lại, quay về), biết đoạn ác tu thiện quá ít. Chúng ta chỉ có thể cầu mong chư Phật, chư Bồ Tát thường thị hiện trong thế gian này, làm gương tốt cho hết thảy chúng sanh khổ nạn. Chư vị đồng tu giác ngộ và hiểu rõ rồi, chịu phát tâm quên mình và vì người khác, làm gương tốt cho xã hội đại chúng, được vậy thì các bạn sẽ là hóa thân của Phật, Bồ Tát đến để cứu độ những chúng sanh khổ nạn. Bởi vậy nên phải "xoay lại cầu chính mình", bắt đầu làm từ tâm địa của mình. Nếu tự mình hiểu rõ nhưng chẳng chịu hết lòng học tập, y giáo phụng hành, mà lại hy vọng Phật, Bồ Tát đến ứng hóa thì chẳng thể được. Chỉ có thể dùng tâm chân thành, từ bi mới có thể cùng chư Phật, Bồ Tát và thánh hiền đời xưa khởi cảm ứng, tơ hào chẳng thể làm giả được.

Hy vọng những cán sự, nhân viên tại Tịnh Tông Học Hội ở Los Angeles có thể tổ chức cùng nhau đến Tân Gia Ba tham học, quan sát, [tôi] tin tưởng như vậy có thể có đôi chút cống hiến giúp đỡ cho công việc, sự tu học, và [giảm bớt] sự lo lắng của quý vị. Thiện tâm thiện nguyện của quý vị nhất định sẽ được chư Phật, Bồ Tát tán thán. Hy vọng chúng ta đem ra hành động [thực tiễn] để đối phó với vấn đề này, tìm ra phương pháp giải quyết.

CHÚ THÍCH:

(9) Công lợi chủ nghĩa là chủ nghĩa chú trọng lợi ích trước mắt của mình, làm việc gì cũng đặt lợi ích của mình lên trên hết.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Học Vi Nhân Sư, Hành Vi Thế Phạm

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

PHỤ LỤC
  • Trích một đoạn trong bài
    "TỨ THƯ NGẪU ÍCH GIẢI – THIÊN: HỌC NHI TRONG LUẬN NGỮ"
    do Hòa Thượng Tịnh Không giảng tại Hoa Tạng Ðồ Thư Quán, Ðài Bắc.
    Số Hồ sơ 20-1-02, trang 11
    (để giải thích thêm về danh từ :Tam Cương Bát Mục" dưới lăng kính Phật pháp).
Tam Cương là gì? Minh minh đức, Thân dân, Chỉ ư chí thiện. Trong Phật pháp, Minh minh đức chính là Tự Giác, Thân dân là Giác Tha, Chỉ ư chí thiện là Giác Hạnh viên mãn, là học những điều này! Nói tóm lại tức là học "Minh tâm kiến tánh". Nho và Phật đều giống nhau, Minh đức chính là Kiến tánh. Trên "Minh đức" lại thêm vào một chữ "Minh" nữa, có thể nói là Minh đức đã chẳng "minh" rồi. Thế nên mục đích chúng ta Học tức là làm cho "Minh đức" khôi phục lại ánh sáng, là cầu việc này, đây là "Tự Giác", tự thọ dụng. Sau khi mình thành tựu xong mới dạy người khác, đây là việc "Giác tha", là "Thân dân". "Chỉ ư chí thiện" là gì? Tức là hai thứ này chẳng hai, Tự giác chính là Giác tha, Giác tha chính là Tự giác, chẳng phải hai việc mà là một việc, như vậy mới chí thiện. Chia nó thành hai thì chẳng chí thiện. Bạn xem, người Tiểu Thừa tự giác, chẳng giác tha, họ chia thành hai sự việc; Quyền Giáo Bồ Tát giác tha, chẳng biết tự giác, như vậy cũng chia thành hai sự việc; thế nên cả hai đều chẳng chí thiện. Chỉ ư chí thiện là những đại Bồ Tát, Thật Giáo Bồ Tát, minh tâm kiến tánh, họ là "chỉ ư chí thiện".

Chúng ta dùng cách nói của "Tịch và Chiếu" để giải thích Tự giác. "Tịch mà thường chiếu" là tự giác. "Chiếu" nghĩa là hiểu rõ hết thảy cảnh giới, tâm định. Tự Giác chú trọng trên "Thể", từ Thể khởi Dụng, đây là Tự Giác. Giác Tha nghĩa là "Chiếu mà thường tịch", đây là nhiếp Dụng quy về Thể, tự mình được thọ dụng. Bạn xem, từ Thể khởi Dụng, cũng nghĩa là Tự, Tha đều được lợi ích. Lúc Giác tha, từ Dụng quy đến Thể, vẫn là Tự, Tha đều được lợi ích, Tự, Tha là một chứ chẳng phải hai. Nếu phân Tự, Tha thành hai thì là mê, chẳng giác, có Tự có Tha thì chẳng thể nói đến việc Học; đến khi nào Tự và Tha chẳng hai, Giác Chiếu đồng thời thì đây chính là Chỉ ư chí thiện. Ðây là dùng ‘Tam Giác’ để giảng.

Trong pháp Ðại Thừa nếu dùng "Tam Bồ Ðề tâm" để giải thích thì cũng thỏa đáng. "Minh minh đức" chính là tâm thanh tịnh, đức của tâm là thanh tịnh, "Vốn là chẳng có một vật, chỗ nào có nhuốm bụi trần"; "Thân dân" là Từ bi, "Chỉ ư chí thiện" là Bình Ðẳng. Tâm Bình đẳng là "Trực tâm",... "Tâm đại bi" là "Thân dân".

Ðây là nói Học Phật phải biết cương lãnh, tôi học những gì? Nói từ ba Tâm Bồ Ðề thì càng rõ ràng, đạo lý của sự học vấn chẳng có gì khác, đó chính là "tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi", đây tức là học vấn.

Tam Cương là mục tiêu, dùng phương pháp gì để hoàn thành? Phía sau là Bát Mục, dùng Bát Mục để đạt đến Tam Cương này. Thứ nhất là "Cách Vật", vật là vật dục. Trong "Tứ Thập Hoa Nghiêm" chúng ta đọc đến một đoạn nói rõ tai hại của vật dục. Không những vật dục là thất tình ngũ dục trong thế gian, ngay cả Phật pháp xuất thế gian cũng bao gồm trong ấy; chỉ cần bạn có tham, có ái, đều gọi là Dục. Trong chữ Cách Vật, "Cách" nghĩa là "cách trừ", là "cách sát". Trong ba nghĩa của danh từ "A La Hán", có một nghĩa là ‘Sát Tặc", "cách vật" chính là "sát tặc". "Cách" là chiến đấu, vật dục chính là giặc cướp, giặc cướp hại bổn tánh của chúng ta.

Nếu bạn muốn minh tâm kiến tánh, muốn tu ba tâm Bồ Ðề, việc thứ nhất phải làm chính là đoạn phiền não, tức là phải làm công việc "cách vật". Cách vật tức là chúng ta thường nói đến "buôngxuống". Mạnh Tử nói: "Ðạo Học vấn chẳng có chi khác, mong cầu buông tâm mà thôi" (Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ". Chữ "phóng tâm" này chính là công việc "cách vật". Buông xuống những gì? Buông xuống vật dục, buông xuống phiền não. Khi chúng ta niệm Phật, đả Phật thất thường nhắc đến "buông xuống vạn duyên" tức là cách vật, "buông xuống thân tâm thế giới" cũng nghĩa là "cách vật", được vậy tâm mới có thể thanh tịnh, có thể chuyên nhất.

Thứ hai là "Trí Tri", Trí Tri tức là học pháp môn. Ðọc Tụng giảng phía trước tức là cầu Căn Bản Trí, đây là "chủ tu". Thế thì vạn pháp còn lại có cần phải học hay không? Phải học, đó là "trợ tu", phải tu cả chánh lẫn phụ (chủ tu và trợ tu). Chư vị phải ghi nhớ điều này. Mỗi ngày khóa tụng, tụng kinh luận là khóa chính, hết thảy pháp môn đều phải học, đó là công khóa. Những pháp môn này còn phải học rõ ràng, nhưng chẳng phải chỉ học trên kinh điển. Hãy nói mỗi ngày tôi tụng kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm là khóa tụng chính của tôi, mỗi ngày tôi đọc tụng, còn những kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Phương Ðẳng, kinh A Hàm, kinh Bát Nhã mỗi ngày tôi đều xem thoáng qua, "pháp môn vô lượng thệ nguyện học" có nghĩa là như vậy phải không? Nếu bạn xem như vậy thì quá hạn hẹp rồi.

Học pháp môn là gì? Là Trí Tri. Nói cho các bạn biết, những gì nói trong Trí Tri khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, cả ngày từ sáng đến tối những gì mắt thấy, tai nghe đều là học vấn, đều là trí huệ, đó gọi là Trí Tri, lớn hơn phạm vi của kinh bổn quá nhiều, quá nhiều. Pháp môn vô lượng vô biên! Học là học như vậy, chẳng phải giới hạn trên những kinh sách này thôi.

Lúc học cách này cần phải dụng tâm để học không? Chẳng cần dụng tâm, nhưng phải dùng "Chiếu"! Cách vật có thể đạt đến mục đích tịch định, còn Trí Tri là "từ Ðịnh khởi Chiếu", tác dụng của khởi chiếu mới có thể thành tựu trí huệ, đây đúng như lời Lục Tổ nói: "Sanh tám vạn bốn ngàn pháp môn", đó là Trí Tri.

Thứ ba là "Thành Ý". Cho các bạn biết tôi lấy những gì nói trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện phối hợp với điều này thì sẽ thành Phật đạo. Phật là gì? Chỉ là Thành mà thôi! Kinh Vô Lượng Thọ nói đến "Tam Bồ Ðề Tâm", thứ nhất là Chí Thành Tâm. Nhà Nho nói "Thành Ý" tức là Chí Thành Tâm, Chí Thành Tâm tức là Bình Ðẳng Tâm, tức là Trực Tâm, tức là Phật Tâm. Thế nên chư vị muốn thành Phật phải tu gì? Tu Bình Ðẳng tâm, nhà Nho gọi công phu của Thành Ý.

Sau khi Thành Ý, thì nói đến "Chánh Tâm", "Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý, Chánh Tâm". Tâm như thế nào mới gọi là Chánh? Thế nào gọi là chẳng Chánh? Có thể biết vạn vật cùng một thể, Tự Tha chẳng hai, tâm như vậy là Chánh Tâm. Chia Ta và Người, chia Tự và Tha, ly gián thị phi, tâm như vậy là Tà tâm, chẳng chánh. "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ", tâm này là Chánh Tâm, Dụng của Chánh Tâm.

Nhưng tự mình phải biết, độ chúng sanh cũng như trong kinh Kim Cang có nói: "Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật chẳng có chúng sanh được diệt độ" (Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả). Tại sao vậy? Chúng sanh và mình là một, chẳng phải hai. Trong cái một này chẳng có "năng độ" và "sở độ". Trong "hai" thì có "năng độ", có "sở độ"; Nhị pháp chẳng là Phật pháp, nhị pháp chẳng là pháp giác ngộ. Thế nên "năng" và "sở" là một, chẳng phải hai; Tam Cương Bát Mục là một, chẳng phải ba, cũng chẳng phải tám. Nếu bạn chia nó thành ba, thành tám thì sai mất, vậy thì mê rồi, chẳng giác nữa.

Bốn điều này là Nội Học, Thật Trí, Tự Giác; nói cách khác, đọc tụng chú trọng tại bốn điều này, hạnh giải tương ứng! Bốn điều phía sau: Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ là Ngoại Học, Quyền Trí, Giác Tha. Bát Mục này giống như tám tầng bảo tháp vậy, tầng dưới là cơ sở cho tầng trên, từ đó có thể thấy công phu phải bắt đầu làm từ "Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý, Chánh Tâm", xong rồi mới có thể nói đến "Tu Thân".

Lại nói với các bạn, [tu thân] tức là "tu hành" trong Phật pháp, nhưng nghĩa của "hành" rộng hơn "thân". Vì ý nghĩa của "hành" là hành vi, thân thể đạo đức là hành vi, ngôn ngữ cũng có thể bao gồm trên thân thể, khẩu cũng là một bộ phận của thân; nhưng ngoài thân và khẩu còn hành vi của ý nghiệp. Hành vi của ý nghiệp tức là "Cách Vật, Trí Tri, Thành Ý, Chánh Tâm", có thể gọi như vậy, hành vi của Tu Tâm; từ Tu Thân đến Bình Thiên Hạ đều là hành vi của Tu Thân, cả hai hợp lại tức là Tu Hành.

Sau khi Tu Thân thì mới có thể Tề Gia, gia đã tề nghĩa là cả gia tộc đều chỉnh tề, ngay ngắn. Tề Gia dùng tiêu chuẩn gì để "tề"? Là dùng Ngũ Luân, Thập Nghĩa để chỉnh tề. Khổng Tử nói đến "Phụ phụ tử tử", đây là gia tề.

Cha giống một người cha, con giống một người con, ở đây chỉ nêu lên một điều để nói. Từ xưa "Quân quân, thần thần", người quan lãnh đạo giống như một người quan lãnh đạo, thuộc hạ giống như một người thuộc hạ, như vậy thì quốc được trị vậy!

Bình Thiên Hạ nghĩa là gì? Bình là công bình, hết thảy chúng sanh trong thiên hạ đều đạt được công bình. Làm sao mới đạt được công bình? Mỗi người đều giữ bổn phận của mình thì thiên hạ sẽ bình. Thế nên pháp thế gian và xuất thế gian đều vô cùng coi trọng bổn phận. Chẳng giữ bổn phận thì thiên hạ sẽ đại loạn! Những gì mình đáng làm lại không làm, chuyện của người ta thì mình làm, ai cũng làm như vậy thì thiên hạ chẳng loạn sao được? Xã hội là một đoàn thể sanh hoạt, mỗi người có cương vị làm việc của mình, bạn giữ tại cương vị này thì gọi là giữ bổn phận. Nói thật ra người hiện đại đều chẳng giữ bổn phận, điểm này vô cùng quan trọng...

Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.

Xin thành thật cám ơn.

Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 4-9-2005.
- HẾT -


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.37 khách